Cao Tuấn
PHẦN THỨ NHẤT: CÁC KỊCH BẢN
Cuộc chiến của người Ukraine chống Nga xâm lăng là cuộc chiến tranh vệ quốc có chính nghĩa rất khó phủ nhận. Ngay cả đối với những người muốn bênh vực hay ủng hộ nước Nga của ông Tổng Thống Vladimir Putin.
Chính nghĩa tất thắng?
- Đúng vậy, theo quan điểm đạo lý.
- Không hẳn, nếu nhìn vào lịch sử các cuộc chiến tranh hoặc vào “chính trị thực tế”.
Cuộc chiến tranh Phần Lan chống một triệu quân Liên Xô xâm lăng 1939-1940 là một thí dụ gần gũi nhất. Chính nghĩa của Phần Lan đầy đủ, minh bạch – một nước nhỏ hiền hoà bị một nước lớn vô cớ xâm lược. Quân đội Phần Lan ngày ấy, không kém gì quân đội Ukraine bây giờ, khôn ngoan và anh dũng – đánh bại quân Liên Xô nhiều lần trước sự thán phục của cả thế giới. Tuy nhiên cuối cùng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, Phần Lan phải chịu thất trận và chịu mất một phần lãnh thổ cho Liên Xô.
Chính nghĩa, như thế, dù có tầm quan trọng chiến lược, chỉ là một yếu tố – cần nhưng chưa đủ – để thắng một cuộc chiến tranh.
Để trả lời câu hỏi chủ yếu “chiến tranh Nga-Ukraine sẽ kết thúc thế nào? “ thử xem xét một số kịch bản khác nhau và bàn về mức độ khả hữu của mỗi kịch bản.
Kịch bản 1 : Chiến tranh kết thúc với Nga toàn thắng, đè bẹp Ukraine trên chiến trường, chính quyền Ukraine đầu hàng và bị thay thế bởi một chính quyền bù nhìn thân Nga.
Bước qua năm thứ hai của cuộc chiến, kịch bản này có mức độ khả hữu rất thấp. Lý do:
– Ukraine có lãnh đạo chính trị xuất sắc, nổi bật là Tổng Thống Zelensky tài năng, khôn ngoan và rất phong cách. Trước công luận thế giới, chính nghĩa của Ukraine “chống Nga xâm lược” áp đảo hẳn tuyên truyền của Nga về “chiến dịch quân sự đặc biệt chống Mỹ và các nước NATO đang xử dụng Ukraine để bao vây, chèn ép, phá hoại nước Nga trong sách lược làm tan rã nước Nga – như đã làm tan rã Liên Xô trước đây”.
– Dân Ukraine rất đoàn kết chống xâm lược. Xâm lược càng tàn bạo, căm thù càng cao, quyết tâm càng mạnh.
– Quân đội Ukraine quả cảm, càng đánh càng tinh nhuệ.
– Ukraine được các nước trong khối NATO chi viện rất nhiều về đủ mọi mặt . Đặc biệt là Mỹ đã cung cấp trên dưới 80 tỉ đô la quân viện và kinh viện chỉ trong năm đầu tiên của cuộc chiến – một con số phá kỷ lục. Kế đó là Anh, Ba Lan, Canada, Hoà Lan, Na Uy, Đan Mạch, các nước vùng Baltic …cũng giúp tận tình.
– Mạnh như Liên Xô, như Mỹ mà không khuất phục được nước Afghanistan 40 triệu dân thì Nga, dù có leo thang tổng tấn công tràn ngập Ukraine (có kích thước tương đương Afghanistan), dù chiếm được các thành phố kể cả thủ đô Kiev, sẽ không bình định nổi Ukraine, sẽ bị sa lầy với chiến tranh du kích của người Ukraine.
Kịch bản 2 : Putin, tác nhân chủ yếu – hoạch định, phát động, điều khiển cuộc chiến tranh – bị ám sát hay bị lật đổ, chiến tranh Nga-Ukraine kết thúc.
Kịch bản này cũng có mức độ khả hữu không đáng kể.
Ám sát hay lật đổ Putin cũng khó như ám sát hay lật đổ Tập Cận Bình hay Kim Jong Un.
Putin, Tập, Kim đều là nhưng lãnh tụ độc tài cai trị bằng bàn tay sắt cùng lúc ban phát quyền lợi hậu hĩ cho các thuộc hạ trung thành được tuyển chọn kỹ, nắm vững tình hình nội bộ, không để lộ sơ hở.
Riêng Putin – xuất thân tình báo cao cấp KGB, thâm hiểm, mưu mẹo, phất cờ dân tộc chủ nghĩa, khai thác mặc cảm tự tôn, tự ti, các ẩn ức của dân Nga – đã làm độc tài, độc tôn gần 1/4 thế kỷ sau khi diệt trừ hết mọi đối thủ. Triển vọng Putin đột nhiên biến mất trên chính trường nước Nga là ảo vọng.
Mặt khác, Putin có thể đang là một hình ảnh xấu xí trên thế giới nhưng có thể rất khác ở bên trong nước Nga, ngược hẳn lại với trường hợp của Gorbachev – được ca tụng ở các nước Tây Phương như một vĩ nhân, lại bị ghét bỏ ở Nga. Gorbachev bị dân Nga, công bằng hay không, quy trách nhiệm đã làm đế quốc Liên Xô tan vỡ, quy trách nhiệm đã làm cho nước Nga tang thương, lụn bại cả chục năm sau đó – một nước Nga dưới sự lãnh đạo của… Boris Yeltsin! Thay vì tặng huy chương “quán quân dân chủ” hay “quán quân hoà bình” cho Gorbachev thì dân Nga gắn mề đay cho Putin vì “đã vực dậy nước Nga của họ từ đống tro tàn”. Thực tế này, sai đúng đến đâu, vẫn là một thực tế phải ghi nhận.
Kịch bản 3 : Cuộc chiến kết thúc với Ukraine đại thắng trên chiến trường, lấy lại toàn bộ lãnh thổ bị xâm chiếm kể cả Crimea, Nga đại bại phải bồi thường thiệt hại như Ukraine đòi hỏi.
Kịch bản này cũng có mức khả hữu thấp. Nga sẽ không đại bại. Ukraine sẽ không đại thắng. Và không có bồi thường chiến tranh.
Lý do:
– Nga có lợi thế và tận dụng lợi thế của một cường quốc sở hữu vũ khí nguyên tử vĩ đại, lợi hại bằng hoặc hơn Mỹ. Đánh nhau với bất cứ nước nào, với lợi thế này, chung cục thì Nga hoặc thắng, hoặc hoà chứ rất khó bại, trừ khi tự ý buông tay, ngửa cổ cho địch thủ chặt đầu mình.
Điều này, vào ngày 22/02/2023 vừa qua tại thủ đô của đồng minh Ba Lan, ngay sau chuyến viếng thăm Ukraine bất ngờ, đã được Tổng Thống Mỹ Biden xác nhận một cách gián tiếp nhưng lại rõ ràng đến mức không giải thích khác được. Lời phát biểu của Biden ngày này, nơi này, được báo chí thế giới đồng loạt đăng tải, nghe qua có vẻ đanh thép nhưng thực ra lại rất…”khiêm tốn” nếu không nói là “yếu xìu” : “Ukraine will never be a victory for Russia — never.” ( Ukraine sẽ không bao giờ là một chiến thắng đối với Nga. Không bao giờ.” )
Nếu nhớ lại thông điệp của Mỹ gửi cho Nhật vào cuối thế chiến thứ hai : “Đầu hàng vô điều kiện hoặc bị tiêu diệt!”, người ta phải tự hỏi tại sao Biden không tuyên bố, ít nhất, một lời minh bạch chẳng hạn như : “Nga chắc chắn sẽ bị đánh bại hoàn toàn ở Ukraine. Không thể khác được!“ Tại sao không nói?!
Phải chăng, “vừa đánh, vừa run” hay “vừa đánh, vừa hồi hộp”? Phải chăng đánh mà không dám thắng? Phải chăng “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng cố thây?”
– Mỹ và Nga có quyền lợi “địa chính trị” trái ngược nhau ở Âu Châu nói chung và Ukraine nói riêng. Cuộc chiến Nga-Ukraine cũng là cuộc chiến Nga-Nato, cốt lõi là cuộc chiến Nga-Mỹ bất kể 2 nước có trực tiếp giao chiến hay không. Nga leo thang tấn công Ukraine đến đâu, Mỹ leo thang yểm trợ Ukraine ứng phó đến đó nhưng lại cẩn thận…trói tay Ukraine để yên tâm không làm Nga tức giận, mất mặt hay thất vọng đến mức phát khùng mà ấn nút phóng bom nguyên tử.
Nga biết thế, càng làm già, càng dậm doạ, càng mặc sức leo thang, mặc sức đánh Ukraine túi bụi. Nga tự tung, tự tác trên khắp lãnh thổ Ukraine – nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ kia, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi. Tự do mang xe tăng uy hiếp Kiev. Tự do bố trí hàng ngàn hoả tiễn có tầm bắn vài trăm cây số hay hàng ngàn cây số, đặt sâu trong lãnh thổ Nga để ngày đêm bắn phá các mục tiêu ở khắp Ukraine. Tự do mang phi cơ bỏ bom bất cứ nơi nào…Và …tự do dùng vũ khí nguyên tử chiến thuật để tiêu diệt các sư đoàn của Ukraine, một quốc gia chưa chính thức là thành viên NATO – trong trường hợp Ukraine phản công quá mạnh và Nga bị nguy ngập trên chiến trường.
Cung cấp viện trợ khổng lồ cho Ukraine nhưng Mỹ từ chối cung cấp cho Ukraine đủ số lượng xe tăng có phẩm chất tốt, phi cơ tầm xa, pháo binh tầm xa, hoả tiễn tầm xa mà Zelensky khẩn thiết yêu cầu… Thực tế có nghĩa là Ukraine bị “cấm” trả đũa tương xứng, bị “cấm” đánh qua biên giới, bị “cấm” tiến quân vào Moscova, bị “cấm” bắn phá các căn cứ hoả tiễn, phi trường nằm trong đất Nga nơi xuất phát các cuộc tấn công có tính cách khủng bố của Nga, bị “cấm” đụng đến Belarus, một quốc gia “khách hàng” đang tự nguyện làm “bệ phóng” cho Nga. Bị “cấm” rất nhiều thứ… Những giới hạn hay cấm đoán này cũng có nghĩa là Ukraine, chỉ tự chủ về chiến thuật, hoàn toàn lệ thuộc Mỹ về chiến lược. Mà chiến lược của Mỹ phải phục vụ an ninh nước Mỹ trước hết !
Ukraine hôm nay chẳng khác Việt Nam Cộng Hoà năm xưa bị Mỹ “cấm” tiến binh ra Bắc trong khi phe Cộng Sản cứ tuỳ nghi hàng hàng lớp lớp đổ quân vào Nam. Chiến đấu tự vệ mà bị trói tay một cách bất công như thế thì chỉ có thua hay hoà, chứ làm sao thắng cả cuộc chiến tranh đến mức bắt buộc kẻ xâm lược phải bồi thường thiệt hại !?
Kịch bản 4 : Cuộc chiến kết thúc bằng thoả ước đình chiến như (trường hợp chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) ) hoặc hiệp định hoà bình như trường hợp chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954). Cuộc chiến kết thúc khi mà cả Nga và Mỹ đều ý thức rằng tiếp tục chiến tranh là vô ích và chỉ có lợi cho…Tầu.
Kịch bản này có mức độ khả hữu cao nhất. Tuy nhiên nó sẽ trải qua một quá trình hình thành tiệm tiến – đồng nghĩa chiến tranh có thể còn kéo dài thêm một vài năm với những diễn biến, nguy hiểm đáng sợ. Xin lý giải như sau:
- Tranh chấp giữa 2 cường quốc nguyên tử cuối cùng chỉ có 2 cách giải quyết : dàn xếp tương nhượng hoặc hoặc chiến tranh nguyên tử đồng nghĩa với tự sát tập thể. Không muốn chết thì phải hoà.
- Qua năm thứ hai, cuộc chiến khốc liệt, đẫm máu hơn nhưng ngang ngửa, dằng co. Nga không đè bẹp được Ukraine có Mỹ và đồng minh Âu Châu chống lưng. Ukraine cũng không trục xuất được Nga ra khỏi lãnh thổ.
Ukraine chịu thiệt hại nhiều nhất. Viện trợ của các nước NATO gồm cả Mỹ dù lớn lao vẫn chỉ bù đắp được một phần rất nhỏ những tàn phá khủng khiếp, những đảo lộn đời sống kinh tế xã hội, những tổn thất nhân mạng. Kế đến là Nga, cuộc phiêu lưu đắt giá với hàng trăm ngàn thương vong trên chiến trường, cơ man khí tài quân sự bị phá huỷ, với trừng phạt, cấm vận làm cho điêu đứng. Mỹ và các đồng minh ngoài tổn phí viện trợ hàng trăm tỉ đô la cũng phải chịu hệ luỵ của cuộc chiến tranh – lạm phát, người tị nạn, kinh tế đình trệ, dân bất mãn, mất kiên nhẫn bỏ phiếu những kẻ chủ hoà…
Thế mà, chưa bên nào thực sự muốn ngưng chiến. Cả Nga, Ukraine, Mỹ, các nước NATO Âu Châu đều… chưa sẵn sàng. Bởi vì còn sức, bởi vì còn hăng, còn nuôi hy vọng đạt mục tiêu bắt đối phương phải chấp nhận đòi hỏi của mình, bởi vì còn muốn dậy cho đối thủ một bài học, còn muốn nhận thêm…sự kính nể.
- Nếu Nga và Mỹ cùng thực sự muốn hoà vào lúc này thì không nước nào ngăn cản được. Cuộc chiến sẽ giảm cường độ. Không có Mỹ, NATO sẽ như rắn mất đầu. Không có viện trợ Mỹ, Ukraine nếu muốn tiếp tục chiến tranh sẽ phải chuyển qua đánh du kích trường kỳ vô hạn định.
- Chiến tranh Nga-Ukraine dù do Nga khởi xướng vẫn phải nhìn như là một phần của ván cờ chiến lược toàn cầu – không phải tay đôi mà tay ba: Mỹ, Tầu, Nga. Ba chiến lược gia quan trọng nhất thế giới hiện nay tất nhiên là Joe Biden, Tập Cận Bình, Vladimir Putin. Kết quả của ván cờ có thể là một trật tự thế giới mới khác hẳn với trật tự thế giới hiện nay.
- Sáng kiến hoà bình 12 điểm công bố mới đây của Tầu là tuyên truyền, hoả mù, không có thực tâm. Sách lược CĂN BẢN của Tầu là “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” kết hợp với “toạ sơn quan hổ đấu” – đợi cọp chết, cọp bị thương thì xuống núi ra tay làm nốt phần còn lại rồi lột lấy da. Áp dụng trong thực tế Tầu sẽ tiến, thoái, gia, giảm thích nghi miễn là lật đổ được Mỹ để làm bá chủ hay làm Thế Giới Đệ Nhất Siêu Cường.
- Putin, Biden phải biết hay đoán biết Tập nghĩ gì, tính gì, làm gì. Tuy nhiên, mũi tên đã bắn đi, mũi tên đã bắn lại, mỗi bên đều có chiến lược riêng của mình… Khởi động chiến tranh thì dễ, kết thúc thì khó.
Thời gian đều có thể là kẻ thù của các bên lâm chiến – bộc lộ những điểm yếu. Thời gian có thể không đứng phía Nga. Không đứng về phía Mỹ. Không đứng về phía Ukraine.
- Chiến lược của Mỹ là làm cho Nga kiệt quệ phải bỏ cuộc nhưng tới nay Nga chưa kiệt quệ. Một, hai năm nữa có lẽ chưa thành vấn đề. Độc tài, độc quyền và nắm vững tình hình nội bộ, Putin có khả năng huy động nhân lực, tài nguyên dễ dàng hơn hơn Biden rất nhiều.
Putin đã ném vào chiến trường 5, 6 trăm ngàn quân, đã “nướng” cả 5, 7 chục ngàn hay cả trăm ngàn quân nhưng vẫn còn dưới tay khoảng 15 hay 20 triệu thanh niên Nga trong tuổi nghĩa vụ quân sự để tuỳ nghi xử dụng trong tổng số 144 triệu dân.
Kẻ “bần cùng cố thây” thực ra là Bắc Hàn của Kim Jong Un chứ không phải Nga . Xung đột Nga với Mỹ chỉ nên ví von “chén sành đụng chén kiểu” là cùng. Bị trừng phạt, cấm vận, phong toả, tẩy chay, kinh tế của Nga có gặp khó khăn nhưng không sụp đổ hay chưa sụp đổ. Dự trữ ngoại tệ trị giá mấy trăm tỉ đô la vẫn còn đó. Kết quả của chuẩn bị và quản trị khá tốt từ nhiều năm trước. Đồng tiền “Rúp” của Nga vẫn tương đối ổn định cũng là một chỉ dấu phản ảnh thực trạng sức chịu đựng của Nga. Chủ yếu là nhờ bán vũ khí, khoáng sản, nhất là dầu hoả và hơi đốt. Âu Châu cấm vận thì Nga bán cho Á Châu, Phi Châu. Tiền vẫn vào như nước. Lợi tức thâu được không kém gì thời kỳ trước chiến tranh.
Nga cũng không hoàn toàn cô độc dù bị 141 quốc gia tại Liên Hiệp Quốc mới bỏ phiếu lên án trắng trợn xâm lược Ukraine. Nga vẫn có 38 nước ủng hộ gồm 6 nước công khai bỏ phiếu và 32 nước “bán công khai” bỏ phiếu…vắng mặt. Trong số này đáng lưu ý là Tầu, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Iran, South Africa, Việt Nam, Bắc Hàn, Belarus, Syria, Cuba, Nicaragua, Mongolia, Algeria. Đáng lưu ý nhất, dĩ nhiên là nước Tầu của Tập Cận Bình – siêu cường số 2 và cơ xưởng sản xuất của thế giới.
Hiện thời thế trận của Nga trông còn vững. Tuy nhiên nếu chiến tranh mở rộng, kéo dài, hết tiền, hết đạn, hết gạo, yếu sức, hụt hơi thì sẽ phải nghĩ đến việc cầu cứu Tầu. Tầu tất nhiên không để Mỹ thắng Nga một cách dễ dàng. Tầu tất nhiên cũng không cứu Nga vô điều kiện.
Từ tuyên bố miệng “đối tác vô giới hạn” đến hiệp ước đồng minh chính thức của hai nước Tầu – Nga sẽ có tác dụng chia đôi thế giới như thời kỳ chiến tranh lạnh hay thời gian ngay trước thế chiến 1 và thế chiến 2. Một bên Dân Chủ Tư Bản. Một bên Độc Tài Cộng Sản hay Độc Tài cựu Cộng Sản.
Nhưng trước hết giữa Tầu – Nga không thể có hợp tác bình đẳng. Làm sao có bình đẳng giữa một quốc gia có dân số gấp mười và qui mô kinh tế cũng gấp 10 quốc gia kia? Lại chung biên giới? Cùng có óc đế quốc tham lam ? Ân oán lịch sử chồng chất còn chưa giải quyết?
Cái nguy cơ của Nga là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. Chưa chiếm được Ukraine có thể đã mất Ngoại Mông, Siberia, Vladivostok. Nga sẽ phải chịu lệ thuộc Tầu, phải chịu phận đàn em, phải làm con nợ, phải gán nợ, mất đất, mất nhà, phải chìa tay ăn xin, phải chịu cảnh thay bậc đổi ngôi – rất trớ trêu : “Trời làm một sự lăng nhăng, ông biến ra thằng, thằng biến ra ông !”
Nga có muốn thế không? Có muốn ký hiệp ước ràng buộc làm “đồng minh vô giới hạn” với Tầu như Ý với Đức làm thành phe Trục trong thế chiến 2 ?
Mỹ có muốn Nga như thế không? Mỹ có muốn Nga “gán” vài ngàn hoả tiễn liên lục địa có gắn đầu đạn hạt nhân cho Tầu để nhận lại gạo, mì, thịt, cá, đường, sữa, thuốc men, quần áo lạnh, đạn pháo binh, súng AK, đại liên, xe tăng, phi cơ… những thứ mà Nga đã cạn kiệt đúng vào lúc ngân khố đã trống rỗng ?
- Tổng Sản Lượng GDP của Nga bằng 7% của Mỹ không có nghĩa trong chiến tranh Mỹ mạnh hơn Nga 14 lần (và mạnh hơn… Afghanistan (Taliban) hay Bắc Hàn (Kim Jong Un) mấy trăm lần). Chiến tranh là một nghệ thuật. GDP cũng là một yếu tố quan trọng phải tính đến trong nghệ thuật chiến tranh nhưng không phải là yếu tố quan trọng nhất.
Điều đáng quan tâm hơn ở đây là chính trị nội bộ của nước Mỹ. Một nước Mỹ dân chủ bất toàn. Mỹ là Siêu Cường nhưng không có khả năng thích hợp cho những cuộc chiến lâu dài.
Hệ thống lưỡng đảng và cung cách tranh cử để nắm quyền với bất cứ giá nào làm nước Mỹ phân hoá quá đáng. Như căn bệnh trầm kha, càng ngày càng nặng hơn. Đối lập mà như thù địch, trên chính trường và trong xã hội. Kẻ làm, người phá. Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Rất khó tập trung và vận dụng sức mạnh. Rất khó có một chính sách dài hạn trước sau như một. Rất bất công đặt đồng minh chiến tranh như Ukraine trong tình trạng thường trực bất an.
Hiện thời, chưa có dấu hiệu chính quyền Mỹ của Tổng Thống Biden sẽ bỏ rơi Ukraine như chính Biden đã đôi lần bỏ rơi các đồng minh khác của nước Mỹ trong cuộc đời làm chính trị của mình. Tuy vậy, đang ở tuổi 80, giữa nhiệm kỳ Tổng Thống 4 năm, với mức độ ủng hộ quanh quẩn 40% của dân Mỹ, Biden không được coi là một Tổng Thống mạnh mặc dù ứng phó khá tốt với cuộc chiến ở Ukraine – cho đến nay.
Dân Mỹ, nói chung, dù đã ngán ngẫm cả Joe Biden và cựu tổng thống Donald Trump , 76 tuổi thuộc đảng Cộng Hoà, vẫn rất có thể, 20 tháng nữa, lại phải chọn 1 trong 2 ông già “gần đất xa trời” này trong ngày tổng tuyển cử 5/11/2024 để giao phó sinh mệnh của nước Mỹ (và sinh mệnh của các nước quá lệ thuộc Mỹ và quá tin Mỹ).
Biden và Trump là… “kỳ phùng địch thủ” nên đều có cơ may được tái cử làm Tổng Thống, theo các thăm dò mới nhất – trong bối cảnh 2 đảng Dân Chủ, Cộng Hoà tiếp tục ngang ngửa. Một tin tức đáng lưu ý là Trump, bắt đầu vận động tranh cử, vừa cho nổ trái bom: “bảo đảm” sẽ giải quyết chiến tranh Nga-Ukraine trong vòng 24 tiếng đồng hồ!
Một hứa hẹn hấp dẫn với cử tri người Mỹ chán chuyện chiến tranh – xa xôi, tốn phí, thích… “America first” và chưa quên “mối thân tình rất đặc biệt và có phần bí hiểm” giữa Trump và Putin.
Riêng người Ukraine tất nhiên phải tự hỏi : Còn tin tưởng được nước Mỹ đến đâu ? Liệu Ukraine có bị tặng không hay bị bán rẻ cho Nga ? Ukraine sẽ phải chuẩn bị thế nào từ bây giờ hay cứ để “nước đến chân mới nhẩy” ?
* Tóm tắt, sẽ đến lúc các bên lâm chiến ngộ ra rằng nên ngưng chiến vì đánh đến thời điểm này là vừa đủ, cố nữa cũng không hơn gì hoặc lợi bất cập hại. Ngưng chiến để thương thuyết. Thương thuyết đồng nghĩa với tương nhượng. Đồng nghĩa với cho hoà bình một cơ may.
PHẦN THỨ HAI: CUỘC CHIẾN TẠI UKRAINE NHÌN TRONG CHÍNH TRỊ CỦA “THẾ CHÂN VẠC”
Như đã nói ở PHẦN THỨ NHẤT, để hiểu đầy đủ chiến tranh Nga-Ukraine, cần phải đặt nó trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược của 3 đại cường quốc là Mỹ, Tàu, Nga. Vậy, cái bối cảnh ấy gồm những điểm đáng lưu ý nào ?
“Siêu” nhưng không “siêu”
Mỹ, Tàu, Nga là 3 cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, vượt xa các nước khác. Mỹ là siêu cường. Tàu là siêu cường. Hai nước mạnh gần như toàn diện. Nga không phải là siêu cường nhưng Nga “siêu” về kho vũ khí nguyên tử lợi hại ; “siêu” về sản xuất và xuất cảng các loại vũ khí chiến tranh ; “siêu” về kỹ thuật thám hiểm không gian ; “siêu” về lãnh thổ rộng gần gấp đôi toàn thể Châu Âu ; “siêu” về năng lượng dầu hỏa và khí đốt ; “siêu” về tài nguyên thiên nhiên – vàng, bạc, sắt, đồng, chì, kẽm, uranium, than đá, đất, nước ; “siêu” vì là đang là quốc gia Châu Âu “hung hăng” nhất trên lục địa này ; “siêu” về hào quang là hậu thân của Liên Xô – có đạo lục quân mạnh nhất trong thế chiến 2, đã đánh bại đế quốc Nhật và nhất là đánh bại Đức Quốc Xã ; “siêu” về vị thế là một trong 5 thành viên thường trực có quyền phủ quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Mặt khác, Nga chỉ có 144 triệu dân so với 335 triệu của Mỹ, 1.420 triệu của Tàu. Tổng sản lượng GDP chỉ bằng 7% của Mỹ và 10% của Tàu tính theo hối suất chính thức (cao hơn một chút nếu tính theo mãi lực). Kinh tế của Nga trì trệ vì năng suất yếu, dân số giảm sút mỗi năm, sinh suất thấp hơn tử suất. Mức sống vào loại thấp nhất ở Châu Âu. Với những giới hạn này, Nga không có (vì không thể có) tham vọng làm bá chủ hay đệ nhất siêu cường như Mỹ hay Tàu mà Nga còn khó tiếp tục đứng độc lập trong thế chân vạc như hiện tại.
“Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” không phải là độc quyền chiến lược của Tập Cận Bình
Trong tương lai, Nga có thể “phải” chọn ký hiệp ước chính thức làm đồng minh chiến lược của Tàu giúp Tàu lật đổ Mỹ và lên ngôi đệ nhất siêu cường với “rất nhiều quyền lợi” và “tột đỉnh vinh quang”.
Nếu Mỹ chấp nhận thỏa mãn một số đòi hỏi tối thiểu của Nga, Nga cũng có thể chọn làm đồng minh chiến lược của Mỹ giúp Mỹ chặn không cho Tàu vươn lên nữa, đồng nghĩa giúp Mỹ duy trì nguyên trạng “Pax Americana”. “Trong chính trị quốc tế không có bạn muôn đời, không có kể thù muôn kiếp mà chỉ có quyền lợi của quốc gia” và quyền lợi của… lãnh tụ !
Nếu Nga ký hiệp ước đồng minh quân sự dứt khoát đứng hẳn về một bên, Tàu hay Mỹ, thế giới sẽ không còn “chân vạc”, chỉ có “lưỡng cực”. Thế “lưỡng cực” có thể dẫn đến “nhất cực” nếu liên minh Tàu-Nga thắng Mỹ hoặc liên minh Mỹ-Nga buộc Tàu phải chịu bó tay.
Lẽ tất nhiên, Nga sẽ cố duy trì “thế chân vạc” – cho đến khi không thể duy trì được nữa – để có “triều đình riêng một góc trời” và để khỏi rơi vào tình cảnh khốn quẫn “chồn, thỏ hết, chó săn chết” hay “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”.
“Diện” và “Điểm”
Mặc dù bị Tàu thách thức và cạnh tranh rất mạnh, Mỹ vẫn còn là đệ nhất siêu cường của thế giới. Cả Châu Âu và Châu Á đều cực kỳ quan trọng cho vị thế này của Mỹ. “Mất” Châu nào trước cũng làm Mỹ suy sụp. Suy sụp rất nhanh vì “mất” Châu này sẽ nhất thiết làm “mất” luôn cả Châu kia.
Tại Châu Âu, đối thủ chính của Nga là Mỹ và đối thủ chính của Mỹ là Nga. Tuy nhiên Nga tự biết không đủ sức nên chiến lược của Nga không nhằm “hất” Mỹ khỏi Châu Âu. Nga chỉ đang tranh một chỗ đứng mà Nga nghĩ mình “xứng đáng” tại lục địa này. Sự khuấy động có phần hung hãn của Nga ở Châu Âu cũng không nhằm phục hồi Đế quốc cộng sản Xô Viết, một mục tiêu đã lỗi thời và vượt quá tầm tay, mà là những động thái của sách lược lấy “công” làm “thủ” trong tình cảnh “bất tiến, tắc thoái” của Nga – sau khi Liên Xô tan vỡ. Nước Nga hay Liên bang Nga, một mảnh vỡ lớn còn lại của Liên Xô, nếu không thật cứng cả đối nội và đối ngoại cũng sẽ vỡ thêm lần nữa thành những mảnh nhỏ hơn. Đó là nguy cơ có thật đối với Nga dù nhìn khách quan hay nhìn theo quan điểm của Putin. Tuy nhiên, cứng quá sẽ gặp phản ứng. Như “gieo gió thì gặt bão” – như nước Nga đang gặp “bão” ở Ukraine. Như chỗ đứng “xứng đáng” mà Nga muốn áp đặt tại Châu Âu đã và đang bị những đối thủ của Nga chống lại.
Tại Châu Á, đối thủ chính của Mỹ là Tàu và đối thủ chính của Tàu là Mỹ. Khác với Nga, Tàu có tham vọng vĩ đại hơn rất nhiều. Tàu ở thế công không phải thế thủ. Mặc dù bề ngoài mục tiêu của Tàu có vẻ khiêm tốn và chính đáng : “thâu hồi Đài Loan để giải quyết chuyện tranh chấp nội bộ nước Tàu, chấm dứt nội chiến, thống nhất tổ quốc”. Tuy nhiên ai cũng thấy kết quả sẽ không dừng ở đấy. Một khi Đài Loan và Hoa lục hợp nhất thành một khối, thế trận ở Châu Á hoàn toàn đảo lộn. Vô cùng lợi cho Tàu. Vô cùng hại cho Mỹ.
Sự quan trọng của Đài Loan không chỉ là một hải đảo 36 ngàn cây số vuông, 24 triệu dân, thịnh vượng, tiên tiến mà còn ở vị trí chiến lược nằm án ngữ hải đạo huyết mạch nối liền Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Vị trí chiến lược này của Đài Loan có giá trị được nhân lên gấp nhiều lần sau khi Tàu đã hoàn tất việc độc chiếm và quân sự hóa gần như toàn bộ Biển Đông bất chấp sự phản đối vô vọng của Mỹ, đồng minh của Mỹ và hầu hết các nước trên thế giới.
Đài Loan giống như một hàng không mẫu hạm khổng lồ, không bao giờ chìm, lợi hại gấp mấy chục lần tất cả các hàng không mẫu hạm của Mỹ gộp lại.
“Mất” Đài Loan, sẽ đặt Nhật và Nam Hàn – đồng minh quan trọng nhất của Mỹ tại Châu Á, nơi Mỹ có căn cứ quân sự – trong tình trạng bị uy hiếp nghiêm trọng.
Con đường giao thương tiếp tế sinh tử trên biển cho 2 nước này có thể bị Tàu phong tỏa bất cứ lúc nào, cắt đứt dễ dàng như trở bàn tay. Thiếu dầu, thiếu khí đốt, thiếu phân bón, thiếu thực phẩm, thiếu gạo, thiếu nguyên liệu… gần 180 triệu người Nhật, người Hàn lúc ấy sẽ phải chọn giữa chết rét, chết đói và kéo cờ trắng.
Mất Đài Loan là Mỹ mất Đông Bắc Á. Sự hiện diện vốn đã yếu ớt của Mỹ ở Đông Nam Á cũng cáo chung rất sớm.
Lấy Đài Loan như vậy, đối với Tàu, không phải chỉ để thống nhất tổ quốc như tuyên truyền và kích động người dân mà chủ yếu là nhằm trục xuất Mỹ ra khỏi Châu Á rồi thừa thắng xông lên thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế giới.
Nói một cách khác, trên toàn thế giới, Tàu là địch thủ chính của Mỹ, không phải Nga. Thách đố lớn nhất của Mỹ nằm ở Châu Á, không phải Châu Âu. Đối với Mỹ, trận đấu Đài Loan ở Châu Á phải coi là “điểm”, chiến trường Ukraine ở Châu Âu chỉ nên coi là “diện”.
Địa Lợi là then chốt
Đương đầu với Tàu trên toàn cầu, Mỹ, nói chung, có một số lợi thế – nhiều đồng minh, nhiều căn cứ, nhiều hàng không mẫu hạm (tầu sân bay), nhiều bom nguyên tử và TẠM THỜI có thể in tiền đô la xài khắp thế giới, v.v. – nên vẫn được coi là siêu cường số 1, nhưng riêng ở Đông Á (gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á) thì Mỹ lại ở thế yếu vì không thể tập trung đủ lực lượng quân sự để đối phó với một địch thủ rất mạnh và có chiến lược tận dụng yếu tố ĐỊA LỢI, tức là “gần nhà” với khả năng huy động nhân, vật lực gần như vô giới hạn. Đài Loan là đấu trường tại một vùng địa lợi do Tàu chủ động chọn lựa vì tầm quan trọng chiến lược để, nếu thắng, sẽ mở ra một cuộc diện hoàn toàn mới có lợi cho Tàu. Nếu thắng, Tàu sẽ ở trong “thế chẻ tre” như Nhật sau trận Pearl Harbour, như Liên Xô sau Stalingrad.
Mỹ có thừa đầu đạn hạt nhân, thừa bom nguyên tử để tiêu diệt toàn bộ nước Tàu 19 lần. Tàu chỉ có đủ hạt nhân, nguyên tử đủ để tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ một lần. Nhưng 19 lần hay một lần, trong trường hợp này, khác nhau thế nào ? Ưu thế mà không hẳn là ưu thế.
Đồng minh trong “bộ tứ Kim Cương” (QUAD) của Mỹ chỉ có Nhật và Úc là “đáng tin cậy” còn Ấn Độ thì “khả nghi”. Đáng tiếc, Nhật, Úc đều không phải là cường quốc quân sự. Nhật ngày nay không phải Nhật trong thế chiến thứ hai, cả về tinh thần lẫn sự chuẩn bị chiến tranh. Ấn Độ có vũ khí nguyên tử tạm đủ cho mục đích “gián chỉ” nhưng trong chiến tranh quy ước Ấn Độ ở dưới thấp, Tàu ở trên cao (Tây Tạng) nên Ấn Độ sợ chiến tranh với Tàu hơn là Tàu sợ chiến tranh với Ấn Độ. Đại quân của Ấn Độ vừa không có kinh nghiệm vừa không có khả năng “vạn lý trường chinh” vượt Hy Mã Lạp Sơn tiến vào sâu vào đất Tàu. Thêm nữa, người Ấn, theo đạo Bà La Môn, tin vào nhân quả, luân hồi không thích đánh nhau, chưa kể Tàu đã chuẩn bị sẵn cho Pakistan ngáng chân Ấn Độ. Khi “hữu sự”, nhiều phần là Ấn Độ giữ thái độ “vô can”.
Khối AUKUS (Australia-UK-US) phảng phất lá bài chủng tộc Anglo-Saxon nhưng New Zealand, Canada lại chọn đứng ngoài. AUKUS vừa trùng hợp với các tổ chức đồng minh khác của Mỹ vừa gây thêm chia rẽ nội bộ các nước đồng minh nên sẽ không có nhiều tác dụng. Trường hợp Pháp mới đây phản đối Úc hủy bỏ hợp đồng chế tạo 12 tầu ngầm của Pháp để mua tầu ngầm nguyên tử do Anh, Mỹ phối hợp cung cấp là một thí dụ.
Các nước Anh, Pháp, Đức nói riêng, các nước NATO Châu Âu nói chung cũng không có trọng lượng đáng kể ở vùng Đông Á. Chỉ đoàn kết miệng với Mỹ trong việc đối phó với sự bành trướng của Tàu. Khác Mỹ, vì lý do lịch sử, địa lý, tương quan lực lượng và cả thành kiến, các nước này cảm thấy mối nguy Nga gần gũi và hiển nhiên hơn mối nguy Tàu, chưa kể bị Tàu dùng tiền hay các lợi ích kinh tế để mua chuộc và phân hóa. Chiến thuật “đi đêm” hay “đối tác song phương” với từng nước Châu Âu xem ra khá hiệu quả với Tàu.
Kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, chiến tranh Afghanistan… cho thấy Mỹ, trên lý thuyết, có khá nhiều đồng minh nhưng thực tế là Mỹ luôn luôn phải đảm đương 90% hay 95% gánh nặng của các cuộc chiến tranh mà Mỹ dẫn đầu.
Nếu xung đột quân sự Mỹ – Tàu bùng nổ lần này, Mỹ cũng chỉ có thể trông cậy vào… Mỹ, khó có thể trông cậy vào các ông “thợ vịn” đồng minh – bất kể Âu hay Á.
Như vậy vấn đề là Mỹ còn đủ mạnh hay không ? Nhất là một nửa nước Mỹ lại cầu mong nửa kia bị thua kẻ thù của nước Mỹ cho… bõ ghét hoặc cho “phe ta” thừa dịp “mượn gió bẻ măng” lên nắm chính quyền.
Ai “thượng phong” và ai “hạ phong” ?
Nếu chiến tranh quy ước xẩy ra ở Đông Á, hỏa lực của Tàu, sau nhiều năm “canh tân”, “hiện đại hóa”, “thao quang dưỡng hối”, có thể không kém gì Mỹ hoặc giả sử còn kém hơn Mỹ một chút về phẩm chất nhưng lại hơn hẳn Mỹ về số lượng trong đấu trường Đông Á.
Mỹ, từ lâu, được xem là có ưu thế về Hải quân và Không quân nhưng Lục quân không địch lại bộ binh đông như kiến của Tàu. Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ và 15 nước đồng minh như Anh, Pháp, Canada, Turkey, Netherland, Australia, Thái Lan, Phi Luật Tân, Bỉ, Hy Lạp… đã kinh nghiệm xương máu về chiến thuật “biển người” của Tàu. Sau 3 năm chinh chiến, chính Mỹ đã chủ động đề nghị ngưng bắn để thương thuyết chứ không phải nước Tàu “khố rách áo ôm” của những ngày xa xưa ấy.
Tàu mất một triệu quân chẳng hề hấn gì, Mỹ mất 100 ngàn quân thì Tổng thống Mỹ bay chức. Trong chiến tranh, Dân chủ thất thế trước Độc tài ở điểm chiến lược này.
Nếu bây giờ chiến tranh Mỹ-Tàu bùng nổ và mở rộng thì ngay cả (giả sử) các nước Đông Nam Á đều chọn đứng về phía Mỹ, Mỹ cũng chỉ có thể miễn cưỡng bảo vệ được các quốc gia hải đảo như Phi Luật Tân, Nam Dương, Brunei nhưng chỉ có thể chống mắt đứng nhìn quân Tàu tràn ngập 7 nước Đông Nam Á còn lại là Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Lào, Cao Miên. Các nước này đều quá yếu so với Tàu về mọi phương diện và là một cái gánh quá nặng cho Mỹ cưu mang. Đông Nam Á, nơi cư trú của hơn 40 triệu “Hoa kiều hải ngoại” đang kiểm soát 80% kinh tế toàn vùng, đúng là sân sau của Tàu trong khi cách xa Mỹ nửa vòng trái đất. Tàu có thể đưa 3 triệu quân đến chiến trường trong vòng một tháng, Mỹ cần 2 năm. Nước xa không cứu được lửa gần !
10 năm, 15 năm trước đụng độ Hải quân, Không quân với Tàu chắc chắn Mỹ thắng, bây giờ thì không chắc chắn nữa, nhất là đụng độ trong vùng tranh chấp Đài Loan nơi Mỹ đã mất hết các căn cứ quân sự lân cận trong vùng như Cam Ranh, Long Bình, Pattaya, Utapao, Clark, Subic Bay… sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Lực lượng đồn trú của Mỹ tại Nhật và Nam Hàn không đủ để đối phó với thế trận của Tàu ngoài ra chính những căn cứ này cũng có thể bị uy hiếp vì nằm trong tầm tác xạ hỏa tiễn tầm trung của Tàu.
Tàu đã quân sự hóa Biển Đông với một tốc độ chóng mặt, công khai, chẳng còn thấy cần cải chính khi bị tố cáo – lấp biển làm thêm đảo nhân tạo, xây phi trường cho chiến đấu cơ, lập vùng nhận dạng phòng không, thiết lập các dàn hỏa tiễn, đối hạm, phòng không, các căn cứ hải quân, căn cứ tầu ngầm, cơ sở quân sự, hành chánh đủ loại, tuần tiễu, tuần tra đêm ngày, trên trời dưới nước… phối hợp các căn cứ này với các căn cứ ở đảo Hải Nam, các căn cứ trên đất liền dọc duyên hải Trung Hoa suốt từ Mãn Châu xuống Quảng Đông làm thành một hệ thống quân sự chặt chẽ, chằng chịt, liên hoàn. Một thế trận lợi hại cho cuộc thư hùng quyết định ai sẽ là đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế giới đã được Đảng cộng sản Tàu chuẩn bị cẩn thận trong mấy chục năm, từ thuở “ẩn mình chờ thời” cho đến khi “đối thủ biết được ý định thực của ta thì đã muộn”.
Mang lực lượng từ xa đến, đối với Mỹ, có rất nhiều vấn đề. Chẳng hạn vì thiếu căn cứ, Mỹ phải trông cậy chủ yếu vào hơn chục hàng không mẫu hạm. Nhưng dù tối tân đến đâu các Tàu sân bay này cũng có kích thước quá lớn và di chuyển quá chậm nên dễ làm mục tiêu cho các loại tên lửa đạn đạo, hỏa tiễn di chuyển bằng vận tốc âm thanh, hướng dẫn bằng radar hay vệ tinh và gắn khối chất nổ khổng lồ. Chẳng hạn như các loại hỏa tiễn Đông Phong DF-21, DF-26 của Tàu có tầm bắn xa hàng ngàn cây số đã được trình diễn trong cuộc diễn binh vĩ đại ở Bắc Kinh năm 2015. Câu hỏi quan trọng là : Tàu đã sản xuất được bao nhiêu hỏa tiễn như thế ? Và độ chính xác thế nào ? Nếu Mỹ không biết hay chưa biết thì Mỹ có định mang các hàng không mẫu hạm trị giá từ 10 đến 20 tỉ đô la đến eo biển Đài Loan để thử sức với những hỏa tiễn của Tàu chỉ có giá một vài triệu hay không ?
Nếu không, làm sao bảo vệ Đài Loan và các đồng minh trong vùng ?
Lực lượng hỏa tiễn đối không và đối hạm cùng các dàn cao xạ dầy đặc của Tàu đợi B52 của Mỹ xuất hiện còn được phối hợp với 2, 3 ngàn phi cơ xung kích sẵn sàng cất cánh từ các phi trường gần biển kể cả những phi trường tân lập trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông và phối hợp cả với những đội tầu ngầm quanh quẩn trong vùng…
Sự bố trí quân sự của Tàu tại Biển Đông và miền duyên hải Trung Hoa nói chung chuẩn bị cho cả 2 trường hợp.
Trường hợp 1 (tối hảo) không cần bắn một phát súng : Mỹ thấy thế trận quân sự của Tàu bầy ra Mỹ không phá nổi, đành phải rút lực lượng, có ký giấy hay không. “Bất chiến tự nhiên thành” của Tôn Tử !
Trường hợp 2 : Chiến tranh bùng nổ, Tàu thắng, Mỹ triệt thoái quân sự khỏi Châu Á, có ký giấy hay không.
Dĩ nhiên đối với Tàu Trường hợp 1 tốt hơn hẳn, không sứt mẻ, lại không bị rủi ro chiến tranh nguyên tử và có thể nó chính là phương án mà Tàu đang thực hiện “chậm rãi nhưng chắc chắn” để “bức hàng” cả Đài Loan và Mỹ.
Mỹ tất nhiên cũng rất muốn “bất chiến tự nhiên thành” giống như Tàu – “Win Without Fighting” hay “ta không cần đánh mà người chịu khuất” – nhưng Mỹ bị giới hạn và bất lợi rất nhiều mặt nên ngay cả một thế trận “trung bình”, “coi được” mà các chiến lược gia của Mỹ đang cố gắng sắp xếp một cách lúng túng như “QUAD”, như “AUKUS”, như “Five eyes” để đối phó với thế trận của Tàu có thể cũng không hiện thực – trừ khi có một “sáng kiến chiến lược” với tầm cỡ… “Kissinger bí mật đi Tàu năm 1971” thì mới mong Tập Cận Bình phải chịu bó tay.
Cao Tuấn
(02/04/2023)
Mời xem tiếp PHẦN THỨ BA:
Views: 169