Một năm nhìn lại: MI – Mission Impossible và HNLK 5

Nguyễn Quang Dũng

Ở  picnic Hè 2018 của Hội Miền Đông có một buổi trưng cầu ý kiến Hội Viên tham dự: Hội Miền Đông có nên đảm nhận tổ chức Hôi Ngộ Liên Khóa QGHC kỳ 5 theo đề nghị của Hội QGHC Úc Châu không?  Dĩ nhiên, có phiếu thuận, có phiếu chống, nhưng tôi nhớ có khoảng 20 cánh tay dơ cao: đồng ý. Và như vậy cái tôi gọi là “Mission Impossible- HNLK5 ” bắt đầu.

Hồi nhỏ còn ở Việt Nam tôi rất thích loại phim hành động, hay ”action movie”, nói theo tiếng Mỹ. Có lẽ là do tôi còm nhom như cây tăm tre, không dám đánh đấm ai, thường bỏ chạy khi bị ăn hiếp nên hiệu ứng tâm lý nghịch là thích phim hành động võ thuật kiểu Lý Tiểu Long như “Đường Sơn Đại Huynh” hay “Mãnh Long Quá Giang” chăng? Nhưng có một loại phim của Mỹ tôi rất thich là loạt phim “Mission Impossible”. Hồi còn ở Việt Nam, loạt phim này là loại phim đen trắng trên TV, tôi chỉ nhớ được nhạc phim mở đầu, rất hay,  với sợi dây dẫn ngòi nổ đang cháy. Sau này, qua Mỹ, tôi lại được dịp xem lại loạt phim Mission Impossible hay MI trên màn ảnh lớn với chàng tài tử đẹp trai Tom Cruise…

Nhưng liên quan giữa Hội Ngộ Liên Khóa QGHC kỳ 5, “code name”: HNLK5MI là thế nào? Ở đâu? Sẽ có người đọc mất kiên nhẫn, vì lối viết cà kê dê ngỗng của tôi,  cắt ngang ở đây và hỏi. Xin thưa:

Hai điểm cốt lõi của MI:

  1. Tổ hành động
  2. Sự hiệp lực của tổ hành động với một kế hoạch hành động chặt chẽ để thực hiện thành công các mục tiêu “không tưởng” đã định

Tôi sẽ trình bày những điểm  tương đồng  giữa HNLK5MI  dưới đây:

Tổ Hành Động… The Team

Gọi là “Tổ Hành Động” hay “The Team” cho có vẻ “action movie” kiểu Mỹ một chút, chứ cái tên gọi thông thường ai cũng biết là Ban Tổ Chức  (BTC). Và “Tom Cruise” của Hội Miền Đông không ai khác hơn là anh Hội Trưởng Nguyễn Kim Hương Hỏa.

Từ trái: Lê Hữu Em, Lê Văn Quan, Trần Hồng,Lê Văn Bỉnh, NguyễnTrường Phát, GS Cao thị Lễ, Hương Hỏa, Vũ Bá Hoan, Tạ Cự Nguyên

Vào tháng 3 năm 2019, ba phiên họp ở tư gia anh chị Trần Nhựt Thăng xác định sơ khởi về kế hoạch thực hiện và  nhiệm vụ  mỗi thành viên của BTC. Phiên họp nào cũng ồn ào, sôi nỗi tranh cãi với nhiều ý kiến khác biệt về cách thức tổ chức HNLK 5. Từ các phiên họp sơ khởi này, một BTC được thành lập với thành phần nhân sự cốt cán cho các sinh hoạt chính của HNLK5 như sau:

Trưởng BanTổ Chức (tổng quát): Anh Nguyễn Kim Hương Hỏa.

Trưởng Ban Phụ Trách Ngày Du Ngoan Washington D.C.: Anh Tạ Cự Nguyên

Trưởng Ban Phụ trách Ngày HNLK tại Marriott: Anh Đỗ Quang Tỏa

Trưởng Ban Phụ trách Tiệc Đêm Chia Tay tại Harvest Moon: Anh Nguyễn Trường Phát

Trưởng Ban Phụ Trách Chuyến Du Lịch Xuyên Bang: Anh Nguyễn Trường Phát.

Ban Thực Hiện Đặc San HNLK: Anh Lê Hữu Em, Anh Trần Nhựt Thăng và Anh Lê Văn Bỉnh.

Thủ Quỹ: Anh Vũ Bá Hoan và anh Lê Văn Quan.

Ban Ấn Loát- Thiết Kế Đồ Họa –  Sân Khấu – Website – Tiếp Liệu & Hỗ Trợ:  Nguyễn Quang Dũng  & Trần Thị Tụ (là …tôi, người viết bài & …bà xã của tôi )

Ban Cố Vấn: Cô Cao Thị Lễ, Anh Trần Hồng, Anh Lê Hữu Em.

Gần như mọi người đến dự phiên họp đều được phân công, phân nhiệm cho các “ngày hành động”, trừ chị Kim Dzung, sau này mới nhận nhiệm vụ (xin xem ở phần sau )

Mọi người đều …xăn tay áo, bắt đầu lên kế hoạch hành động và từng bước  thực hiện kế hoạch được giao.

 

Hàng đứng từ trái: Nguyễn Q Dũng, Hương Hỏa, Tạ Cự Nguyên, GS Cao thị Lễ, Chị Trẩn Nhựt Thăng, Lê văn Quan. Hàng ngồi từ trái: Đỗ Quang Tỏa, Lâm Kim Dung, Trần Thị Tụ, Trần Nhựt Thăng, Lê Hữu Em, Lê Văn Bỉnh.

Mission Impossible: Đặc San HNLK 5 và Ban Hợp Ca Miền Đông

Trong sự thẩm định của BTC, với nhiều năm kinh nghiệm tổ chức và khả năng của các  Trưởng Ban Phụ Trách các ngày sinh hoạt HNLK 5, việc tổ chức, kế hoạch, và thực hiện HNLK 5 đều nằm trong tầm tay. Các công tác ghi danh, khách sạn, đón tiếp và các dự trù diễn tiến cho các ngày sinh hoạt đều được kế hoạch  hóa, phân công phân nhiệm giữa các thành viên của BTC một cách chi tiết. Và quả tình là với sự hợp tác chặt chẽ, tích cực và quyết tâm của mọi thành viên BTC, tất cả các diễn tiến  của 4 sinh hoạt chính yếu của các ngày HNLK 5 đều đã được hoàn thành tốt đẹp, vượt quá kỳ vọng của quý đồng môn QGHC từ khắp nơi trên Hoa Kỳ và  thế giới về Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn  tham dự HNLK 5.

Nhưng có hai phần hành công tác của HNLK 5 trước đó không ai biết kết quả sẽ xảy ra như thế nào và chưa bao giờ Hội Miền Đông thực hiện: Đó là một phần hành liên quan đến Đặc San HNLK 5 và việc thành lập một Ban Hợp Ca Miền Đông hát các bài hùng ca cho các ngày đại hội QGHC.

Xin được tường thuật các diễn tiến của hai vụ việc này như sau:

Đặc San HNLK 5 có gì lạ?

Khi BTC đề nghị thực hiện đặc san cho  Hôi Ngộ Liên Khóa kỳ 5 và  kêu gọi đồng môn đóng góp bài vở thì tôi nghĩ  việc thực hiện Đặc San HNLK5  cũng sẽ giống như mọi Đặc San của nhiều Hội Đoàn khác với nhiều bài vở kỷ niệm và  hình ảnh xưa 2,3 chục năm cũ.

Do vậy, có  lẽ là do ảnh hưởng …mê xem phim MI, tôi đề nghị một mục tiêu “không tưởng” cho tờ Đặc San: Đó là Đặc San HNLK5 sẽ bao gồm một loạt các trang hình ảnh “nóng” của HNLK 5, có nghĩa là vừa xong HNLK tại Mariott Hotel là sẽ có ngay các hình ảnh Hội Ngộ Hành Chánh in vào Đặc San HNLK5 để quý đồng môn khắp nơi  có thể mang về làm hành trang kỷ niệm.

Các anh trong BTC lo ngại hỏi: “Hmm…Có làm được không đó? Làm thế nào để thực hiện việc này?” Kế hoạch “hành động” của tôi, dĩ nhiên là với sự đồng ý, tiếp trợ, và phối hợp của BTC, như sau:

  • Việc thu thập bài vở cho Đặc san, đọc và chọn bài được đăng, trình bày (layout) bìa và bài vở cần được kết thúc 3 tuần trước ngày đại hội.
  • Nhà in sẽ lo in xong trước trang bìa và các trang cho phần bài vở. ráp thành từng cuốn 1 tuần trước ngày đại hội.
  • Tối ngày 29/9/2019 sau khi đã tổ chức xong Du Ngoạn Washington D.C.và Tiệc HNLK tại Marriott, anh Phát sẽ phải thức khuya tập trung, chọn lọc các hình ảnh chụp được, đưa lên (upload) một “Google Album” trên mạng Internet.
  • Sáng ngày 30/9/2019, tôi và Tụ sẽ lên mạng chọn lựa các hình ảnh tiêu biểu, tải xuống (download) và trình bày (layout) cho các trang hình ảnh Đặc San HNLK5.
  • Ngay sau đó, “nhà in” sẽ in chỉ riêng các trang cho phần hình ảnh HNLK5.
  • Các trang phần hình ảnh được ráp với các trang phần bài vở (đã in xong). Đóng bìa, cắt xén thành tập: Mission accomplished!

Đặc San Hội Ngộ Liên Khóa QGHC Kỳ 5

Kế hoạnh có vẻ …ngon ăn. nhưng thực ra để nói được “Mission accomplished!” là do công sức và sự phối hợp chặt chẽ của nhiều người trong đó có:

Nhiếp Ảnh Gia  “Grand Master” Trần Thụy Định, với ống kính chuyên nghiệp của anh, đi theo đoàn QGHC Du Ngoạn D.C., tham dự tiệc HNLK 5 tại Marriott Hotel, chụp gần cả ngàn tấm hình kỷ niệm rất đẹp và rõ nét cho HNLK QGHC thế giới năm 2019. Anh Trần Thụy Định đã giao tay cho anh Phát cái “memory chip” chứa toàn bộ các hình ảnh HNLK  ngay sau khi tiệc HNLK5 bế mạc tại đại sảnh  Marriott Hotel như đã hứa.

Anh Nguyễn Trường Phát đã chọn lọc từ gần cả ngàn các hình ảnh chụp được, upload vào “Google Album” như kế hoạch đã định. Album này vẫn còn trên mạng Internet (link:https://quocgiahanhchanhmd.com/hnlk5)

Trần Thị Tụ, người được BTC giao khoán 100% công việc trình bày tờ ĐS HNLK5. Kết quả rất mỹ mãn: ĐS HNLK5 được thiết kế, trình bày rất đẹp từ trang bìa cho đến các trang bài vở và các trang hình ảnh. Căng thẳng nhất vẫn là ngày Chủ nhật phải thức từ 3 g sáng để làm việc liên tục đến 7 giờ tối layout cho các trang hình ảnh và giúp tay đóng bìa hoàn thành tờ đặc san.

“Nhà in” Focus Digital Publishing, do Nguyễn Quang Dũng làm chủ và đảm trách việc in ấn ĐS HNLK5. Xin không nói thêm nhiều về “nhà in” ở đây.

Ban Biên Tập ĐS (anh Trần Nhựt Thăng, GS Cao Thị Lễ, anh Lê Hữu Em) đã chọn lọc bài vở, phối hợp với “nhà in” hoàn tất phần bài vở cho đặc san đúng theo thời biểu kế hoạch trù liệu.

Anh Lê Hữu Em đã vận động các Mạnh Thường Quân ủng hộ tài chánh cho việc thực hiện ĐS.  Số tiền ủng hộ từ anh LHE vận động lên tới $2000 cộng thêm các ủng hộ tài chánh từ quý Giáo Sư và nhiều CSV đồng môn khắp nơi (trong đó anh Đặng Quốc Tuấn (FL) là người đầu tiên gởi tiền ủng hộ ĐS về BTC, khai mào cho việc ủng hộ tài chánh in ĐS HNLK từ phía CSV). Với tổng số tài chánh ủng hộ lên đến $4240.00, BTC đã không phải xin và in các trang “quảng cáo tài trợ”. Nhờ vậy, tờ ĐS HNLK 5 trông rất chuyên nghiệp… hành chánh và được biếu tặng, không bán, đến các CSV và thân hữu! (Trang tri ân các MTQ và CSV ủng hộ tài chánh ĐS HNLK 5 in ở trang 4 và trang bìa sau của ĐS)

Nhìn lại việc thực hiện hoàn chỉnh tờ Đặc San HNLK5, tôi vẫn còn nhớ những nụ cười rất vui của các anh chị, các huynh trưởng đồng môn, quý Giáo sư trong Đêm Chia Tay tại nhà hàng Harvest Moon khi nhận được ấn bản rất đặc biệt ĐS HNLK5, với số phát  hành hạn chế, trong đó có các hình ảnh hội ngộ mới ngày hôm qua. Một huynh trưởng QGHC từ Nam Cali, nắm tay tôi lúc tôi đang phân phối Đặc San, nói “Rất thich, rất phục và rất cảm ơn về những việc làm rất tận tình của BTC”. Chị Lâm Kim Dzung và các anh chị ĐS khóa 18 cũng rất vui khi nhìn thấy hình ảnh họp khóa ĐS 18 tại tư gia là hình ảnh họp khóa duy nhất  đã “có hình” trong ĐS HNLK5 hôm đó.

 Và sau đây là một công tác khác của HNLK5 cũng thuộc loại “mission impossible”, đó là:

Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông:

Tôi biết có người sẽ thắc mắc tại sao chuyện Ban Hợp Ca lại thuộc loại “MI”? Có gì ghê gớm lắm đâu! Nhưng quả tình nếu nhìn lại “lịch sử” mấy chục năm của Hội Miền Đông thì Hội chưa bao giờ thành lập một Ban Hợp Ca Hành Chánh.

Thành ra có những việc nhìn thì dễ, mà  lại khó làm. Năm nào Hội HCMĐ cũng tổ chức một buổi hội ngộ tân niên và trong đó màn “văn nghệ” đầu tiên là hợp ca “Ly Rượu Mừng” của cố Nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Năm nào anh Hội Trưởng Hương Hỏa cũng làm một vòng “vận động” các chị hội nhà,  thân hữu ở các hội bạn để cùng lên sân khấu hát. Và năm nào cũng vậy, cái bài hát quen thuộc mừng xuân này ai nghe cũng biết, tưởng là dễ hát, nhưng khi tập hợp mười lăm hay hai chục chị để cùng hát thì thực là không …dễ chút nào. Người vô trật nhịp, người hát trật …”tông”, người cầm micro hát thì to mà nhiều khi hát không lên nổi ở những nốt nhạc cao. Lúc hát xong đi xuống lại chỗ ngồi, bà con vỗ tay hoan hô, khuyến khích “Hát hay không bằng hay hát”, vậy là ai nấy vui cười hỉ hả. Đầu năm mà, vui là chính, hát hay hát dở  là chuyện …nhỏ.

Hợp ca “Ly Rượu Mừng” trong Hội Ngộ Tân Niên QGHC MĐ năm 2019

Kinh nghiệm hợp ca nhìn dễ mà khó thực hiện này là lý do thành lập Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông, với mục tiêu: Trình bày các bài hợp ca thuộc loại hùng ca mang tính tranh đấu một cách nghiêm chỉnh thích hợp với tính cách quan trọng và tầm vóc thế giới của Hội Ngộ Liên Khóa  QGHC 2019 tại Thủ Đô Hoa Kỳ.

BTC đứng trước một công tác chưa  thực hiện được suốt hơn 30 năm qua kể từ ngày thành lập Hội, đơn giản là vì anh em Hành Chánh Miền Đông rất giỏi về quản trị, tổ chức hành chánh, vốn là nghề của chàng, nhưng còn chuyện hát hò thì hầu hết  lắc đầu, không phải là chuyện của …tui.

Đến lúc đụng việc thì có chị Lâm Kim Dung (ĐS 18) đứng ra nhận lãnh trách nhiệm vận động thành lập Ban Hợp Ca MĐ. Chị Kim Dung liên lạc email, hẹn ngày giờ hội họp.  Buổi họp đầu tiên của Ban Hợp Ca chỉ bao gồm hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc của các thành viên BTC, có thêm sự tham dự của anh Duy, là đồng môn thích hát và thường góp tiếng hát trong các mục đơn ca của Hội Ngộ Tân Niên. Những buổi họp ban đầu này chính yếu  là …bàn cãi và ăn uống. Nhiều đề tài thảo luận được đặt ra: Hát bài gì? Hát “live” hay hát “nhép”? Ai sẽ là người đứng ra tập dợt? Lúc đó, Anh Hương Hỏa trông có vẻ lo lắng về “điểm yếu” này của BTC.

Những buổi họp mặt sau đó của Ban Hợp Ca (BHC) có sự tham gia chị Phương Mỹ, là phu nhân của anh Trần Hữu Triết ĐS 13 (đã mất). Chị Phương Mỹ -là người tốt nghiệp ca hát Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, từng tổ chức tại vùng thủ đô các buổi trình diễn nhạc cụ Việt cổ truyền “Hương Xưa” – đồng ý sẽ đảm nhận tập dợt cho BHC MĐ. Những buổi hội họp tập hát, ăn uống các món ăn ngon, hay bàn cãi rất thân tình, rất vui vẻ  dần dà lôi cuốn thêm được nhiều anh chị khác trong Hội tham gia.

Phải nhận ra các điểm mạnh sau đây từ hoạt động thành lập Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông:

  • Tinh thần tập thể rất mạnh của các anh chị Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền đông: Khi ngồi lại với nhau, tất cả làm việc với tinh thần vì danh dự của tập thể QGHC.
  • Tinh thần quyết tâm, nỗ lực của BHC khi tập hát: Hát chưa được, chưa đúng thì cố gắng tập hát cho đúng, cho được yêu cầu.
  • Tinh thần kỷ luật và hợp tác rất cao của các anh chị trong BHC: lúc đó BHC nhóm họp và tập hát 2 ngày mỗi tuần, vào thứ năm và thứ bảy. Hầu hết thành viên BHC đều có mặt đông đủ liên tục tập dợt cho đến ngày đại hội.
  • Tinh thần tham gia ý kiến và sáng kiến: Nhiều sáng kiến và ý kiến rất hay được đề nghị và nhanh chóng thực hiện.

Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông

Các ý kiến và sáng kiến  Ban Hợp Ca HCMĐ thực hiện được trong HNLK5:

  • Đảm nhận hát “trực tiếp” quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Cộng Hòa (không dùng băng nhạc thâu sẵn)
  • Anh Hương Hỏa đề nghị BHC hát bài “Phải Lên Tiếng” của nhạc sĩ Anh Bằng, Anh Tỏa đề nghị BHC phối hợp trình bày bài hát này ngay sau khi anh Quan đọc “Bản Lên Tiếngcủa Tập Thể CSV QGHC trong ngày HNLK. Sự phối hợp rất ăn khớp cả nội dung và hình thức trình bày này trong ngày đại hội đã để lại hình tượng rất sâu sắc về tinh thần quốc gia của anh chị em QGHC.
  • Các chị trong BHC đều đồng phục áo dài từ sáng kiến và thiết kế áo dài của Trần Thị Tụ: Chiếc áo dài đồng phục của các chị trong BHC nói lên được vẻ trang trọng mà vẫn duyên dáng yêu kiều của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời nêu bật được tinh thần đồng tâm của Ban Hợp Ca HCMĐ.
  • Các bài hát BHC trình bày, tuy quen thuộc nhưng dễ đi vào lòng người nghe như bài “Việt Nam Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Duy, bài “Việt Nam Quê hương Ngạo Nghễ” của Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang…
  • Với tất cả nỗ lực và kỷ luật BHC đã trình bày nghiêm chỉnh các bài hát, đạt được yêu cầu tối thiểu của một Ban Hợp Ca trình diễn trước công chúng.

Như vậy từ tay không, Hội Hành Chánh Miền Đông bây giờ rất… “nổi tiếng” với Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông.

“Mission accomplished! Again.”

Một Năm Nhìn Lại …

Bây giờ là tháng 10 năm 2020. Tôi dự trù viết xong bài này vào cuối tháng 9, để góp bài viết kỷ niệm về HNLK5, trên bản tin MĐ, nhưng  những biến động của thời cuộc và đời sống thật không lường. Cuối tháng 3 năm 2020, Hội phải hủy bỏ buổi Hội Ngộ Tân Niên 2020 dự trù tổ chức vào đầu tháng 4,trong lúc Ban Hợp Ca MĐ vừa tái động các buổi tập dợt văn nghệ cho Hội Ngộ Tân Niên. Đến tháng 4 thì tình hình dịch bệnh trở nên nghiêm trọng cho đến nay. Hầu hết mọi sinh hoạt thường nhật đều bị ảnh hưởng.

Nhìn lại những hình ảnh của Hội Ngộ Liên Khóa QGHC thế giới Kỳ 5 năm 2019…Mới vừa đây, mà tôi ngỡ như một giấc mơ.

Có những anh chị huynh trưởng tôi quen biết, còn gặp trong kỳ đại hội giờ đã vĩnh viễn rời xa… Anh La Quốc Chánh tôi còn nhớ bắt tay anh – lần cuối – ở đại sãnh Marriott HNLK5, “mừng quá, nghe tin anh bệnh mà vẫn đến được tham dự với anh em”. Huynh Trưởng Bửu Viên, sau ngày HNLK đông đảo anh chị đồng môn HC miền đông ghé nhà viếng thăm huynh trưởng, tặng anh cái nón HNLK. Sau đó không lâu anh cũng ra đi. Chị Nguyễn Cửu Quý (ĐS18) người mà chị Lâm Kim Dung vẫn thường nhắc đến là “chị ấy đang bệnh nhưng vẫn cố gắng về tham dự HNLK5” cũng vừa vĩnh viễn giã từ đồng môn …

Còn lại nhiều, thật nhiều hình ảnh quý Giáo sư, quý huynh trưởng, quý anh chị đồng môn, quý thân hữu xa gần: Tay trong tay, vai kề vai. Tay bắt, mặt mừng, cười vui bên nhau trong kỳ Hội Ngộ Hành Chánh 2019. Hình như với tôi, điều quan trọng rốt ráo còn lại sau cùng Tình Nghĩa Quốc Gia Hành Chánh, là chất keo gắn bó giữa những người cán bộ Quốc Gia, chung một mái trường, dưới một ngọn cờ.

Cuộc gặp nhau nào cũng đến lúc chia tay, nhưng Tình Nghĩa Quốc Gia Hành Chánh thì mãi sẽ còn, khó lòng nhạt phai.

Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22)

10/2020

Mời xem lại các hình ảnh HNLK 5:

  1. HNLK Kỳ 5 Tour DC và Đại Hội tại Marriott Hotel Sep 20-21, 2019:
    https://photos.google.com/share/AF1QipN2LkHwS-4_MsnwTQxQFs-V7F1jobids7cdlZDIfo2chs6fTgebjnyQ6dkAXW_wLw?key=T1RaZ1pDZFc0WFFTaUJRRlV5dGVYc1pheE5ub1B3
  2. Đêm Chia Tay HNLK Kỳ 5 (Sep 22): https://photos.google.com/share/AF1QipMKTAb7HXfXfWB4mDkWAi0Fsj6MEXdNi0YZmbc4kfJpwm_OUcG9kMUIF0fJvRilvQ?key=clZENl9McGVMZFdoZFdBQ0FxRVJTRm5oeTNqTHR3            

Lời BBT:

Bài viết này đã đăng tải trên Bản Tin HCMĐ tháng 10/2020 nhân kỷ niệm 1 năm Hội Ngộ Liên Khóa QGHC Thế Giới kỳ 5 tổ chức vào tháng 9 năm 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.

Đến tháng 9 năm 2023 thì đã 4 năm trôi qua và tập thể QGHC vẫn chưa tổ chức được một Hội Ngộ Liên Khóa Thế Giới kỳ 6.

BBT website HCMĐ xin được đăng tải lại bài viết này như một kỷ niệm đẹp với mong mỏi sẽ có một Hội Ngộ Liên Khóa Thế Giới mới cho đại gia đình QGHC chúng ta.

Trân trọng.

 

Hits: 337

Duyên Tu

Nguyễn Đắc Điều

“Nụ hoa phát triển” huy hiệu của Trung tâm Hội thảo Quốc gia

“Duyên tu” đây không phải là việc tu hành thành linh mục hay thượng tọa, mà cái duyên của tôi với ngành tu nghiệp và huấn luyện. Trong nền hành chánh của VNCH chúng ta, có lẽ không có ngành nào bạc bẽo bằng ngành huấn luyện, nhưng tôi yêu nó. Suốt đời công chức, lăn đi đâu rồi tôi cũng lăn về chỗ viết bài, giảng dậy, khảo sát về huấn luyện.  Vì thế tôi coi là duyên.

Khởi duyên

Nhằm cải tiến việc quản trị hành chánh tại trung ương cũng như địa phương, từ năm 1968 Chính phủ đã cho tiến hành một dự án huấn luyện qui mô có tên là “Quản trị Hành chánh Căn bản”. Chủ xướng dự án là Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Tổng Nha Công Vụ và Tiến sĩ Jack Von Dornum (International Training Consultant Co.)

Sau Tết Mậu Thân, tôi được gọi tham gia dự án này. Đó là đầu mối duyên huấn luyện của tôi. Lần đầu tiên, một quản đốc tu nghiệp tỉnh Tuyên Đức được ngồi chung với các chức sắc cao cấp và đàn anh trong ngành huấn luyện tại trung ương. Tôi nhớ trong đó có giáo sư Phạm Đình Thắng, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin, Anh Hoàng Giao (khóa 3), Giám Đốc Nha Du Học Bộ QGGD, Chị Nguyễn Thị Bạch (khóa 3), Viện Giám Sát, Anh Nguyễn Minh Ty (Cao Học 1) Ban giảng huấn Học Viện, Đại Tá Cảnh Sát Đàm Trung Mộc, Trung tá Cảnh Sát Lê Thanh Sơn Chánh Sở Huấn Luyện Tổng Nha CS, Ông Nguyễn Ngọc Nê, thuộc Usaid.
Khóa hội thảo được tổ chức tại Học viện Quốc gia Hành Chánh
Chúng tôi có hai nhiệm vụ: một, thảo luận để hoàn chỉnh tài liệu giảng huấn (do anh Lê Phú Nhạn và hãng Westinghouse biên soạn). Hai, chính chúng tôi tiếp nhận một số kỹ thuật huấn luyện mới. Cấp trên nhắm là chúng tôi sẽ trở thành giảng viên hoặc quản trị viên cho dự án tại địa phương cũng như trung ương.
Nhưng sau khóa học, tôi nhận được lệnh gọi tái ngũ. Giáo sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông, gọi tôi lên văn phòng ngỏ ý muốn xin hoãn dịch cho tôi để tôi tiếp tục tham gia dự án. Tôi cám ơn đề nghị của Giáo sư Viện Trưởng và xin được nhập ngũ. Tôi nghĩ đằng nào cũng phải đi lính thì đi sớm còn hơn đi trễ. Kỷ niệm sau cùng với Giáo sư là cái bắt tay trước thềm Học viện. Chưa có bàn tay ai mềm mại như tay Giáo sư Bông.
Mối duyên tạm gián đoạn ở đây, cho tới khi tôi được lệnh biệt phái về Bộ Nội Vụ.

Chuyên viên huấn luyện Bộ Nội vụ

Vào Trung Tâm 3 Tuyển mộ nhập ngũ Quang trung, tôi lần lượt gặp các anh Bùi vân Cao,Võ văn Hoàn, Trần Hồng, Nguyễn ngọc Liên, Nguyễn đại Thành, Trần minh Giao và Lê vũ Tạo. Sau một thời gian nằm chờ đợi, Bộ Quốc Phòng quyết định biệt phái chúng tôi về Bộ Nội Vụ để làm Phó Quận Trưởng.
Tại Bộ Nội Vụ, tôi đang chờ sự vụ lệnh biệt phái thì gặp Ông Nguyễn Ngọc Nê. Tôi có duyên với ông vì khi tôi làm Quản đốc Tu nghiệp tại Tuyên Đức, ông đã cùng một cố vấn Mỹ lên quan sát công tác huấn luyện, và tôi đã hướng dẫn hai ông đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong tỉnh.
Ông Nê kéo tôi lại bảo ông đang cần một tay… như Điều!
Số là bên Usaid cấp cho Bộ Nội Vụ một ngân khoản lớn để huấn luyện viên chức xã ấp trong chương trình tấn công bình định thuộc chiến dịch Phượng Hoàng. Ngân khoản sắp hết hạn, phải làm gấp. Xét không có nhân sự viết tài liệu huấn luyện trong thời gian cấp bách như vậy, Bộ Nội Vụ chê tiền!
Ông Nê trình với Ông Tổng Thư Ký Trần Hữu Đức xin giữ tôi tại Bộ để làm việc này, thay vì trả tôi về Tuyên Đức. Ông TTK Đức chấp thuận, nhưng đòi tôi làm đơn xin. Tôi thì ngang, tuy gặp đúng việc mình thích, cũng không thích xin, ai đẩy thì tôi lăn thôi. Sau ông Nê lobby đâu đó mà sự vụ lệnh giữ tôi lại Bộ “vì lý do công vụ” (tôi tránh được ba chữ “theo đơn xin”). Chức vụ: chuyên viên huấn luyện thuộc Sở Huấn Luyện, phụ cấp chức vụ “ngang hàng chánh sở”. Lần đầu tiên tôi biết có cái chức như thế.

Soạn thảo tài liệu “Huấn luyện viên chức xã ấp”

Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam và việc tranh thủ nhân tâm, canh tân xã hội ở hạ tầng, tôi thấy cái nhìn của Juspao về công tác huấn luyện viên chức xã ấp, thật là đứng đắn, đúng sách vở. Trong đóng góp lớn của gia đình QGHC vào công trình này, nếu tôi có góp một viên gạch nhỏ nào, cũng là nhờ duyên.
Tôi trình diện Ông Chánh sở Lê Duy Đức (khóa 2) tại trụ sở trên đường Thống Nhất. Ông để tôi làm việc trong một văn phòng rất rộng lớn, nguyên là đại giảng đường huấn luyện, nhưng nay sử dụng như một nhà kho chứa tài liệu.
Với số vốn huấn luyện xã ấp khi còn làm Quản đốc Tu Nghiệp tại 2 tỉnh Quảng Đức và Tuyên Đức cộng thêm 2 tài liệu căn bản của hai huynh trưởng Nguyễn Trung Trương và Trương Văn Nam thuộc khóa Đà-Lạt, tôi tự biên tự diễn ra tài liệu huấn luyện viết theo lối mô tả công việc và cách điều hành (job description và job analysis) cho các chức vụ từ Chủ tịch Xã cho tới từng Ủy viên của Hội đồng Xã. Một vài đề tài tôi viết theo thể huấn luyện mới như diễn tập (role playing), thảo luận nhóm (group discussion), trường hợp điển hình (case study).
Ngoài những đề tài thuộc hành chánh chuyên môn, còn có 4 bài liên quan đến tổ chức an ninh tình báo, thông tin dân vận, kỹ thuật thanh lọc trong màng lưới tình báo. Những đề tài thuộc loại này, tôi dùng tài liệu của Chiến Dịch Phượng Hoàng do Juspao cung cấp. Mỗi bài đều có trợ huấn cụ như các flipchart khổ 100 x 65cm và bảng dàn bài tóm lược.
Để kịp chỉ tiêu, Bộ đã cung cấp cho tôi một dàn thư ký đánh máy giỏi của Bộ để đánh cho nhanh những tài liệu tôi vừa viết xong. Trong số thư ký đánh máy này có Ông Đỗ Trọng Tuyển, sau làm Chủ sự Phòng Nhân viên dưới thời Chánh Sở Nhân viên Nguyễn Quý Thành. Ngoài ra, tôi còn được Bộ Nội vụ tăng phái anh Nguyễn văn Đặng (ĐS 8), từ tỉnh Gò Công đến phụ giúp viết tài liệu với tôi. Khi công tác hoàn tất, anh Đặng được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh trưởng Khánh Hoà dưới thời Trung tá Tỉnh trưởng Lý Bá Phẩm. Khi tỉnh Khánh Hoà thành lập thêm thị xã thì anh Nguyễn văn Đặng giũ chức vụ Phó Thị trưởng Nha Trang và anh Phó Tỉnh trưởng Phú Bổn Nguyễn văn Sanh (ĐS 8) thay thế anh giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng Khánh Hoà.

Chưa bao giờ trong đời công chức tôi được làm việc trong một môi trường độc lập, tự tin và được sự tín nhiệm cùng sự tin cậy lẫn nhau của cấp chỉ huy và các bạn đồng nghiệp như vậy. Tôi hoàn tất công tác trước cả thời gian Ông Nê ước muốn. Tài liệu được Juspao chuyên chở bằng máy bay của Quân đội Mỹ sang in tại Nhật, flipchart được in bằng một thứ giấy đặc biệt nếu dùng băng keo dán, khi bóc không rách giấy. In xong, máy bay quân sự lại chở về ngay. Đây là tài liệu huấn luyện xã ấp, duy nhất được in tại nước ngoài.

Bắt duyên với bằng hữu

Một hôm, tôi dẫn “người duyên nợ” là vợ chưa cưới vào ăn cháo lòng trên đường Hồng Thập Tự. Tôi thấy ba ông Đặng Huyền Thanh (ĐS 7), Đỗ Tiến Đức (ĐS 7), Nguyễn Quốc Thụy (ĐS 5) [hai anh Thụy và Đức vừa mới mãn khóa 1 Cao đẳng Quốc Phòng] ở bàn bên cạnh, toàn đồng môn đồng khóa cả.
Tay bắt mặt mừng xong, Thanh sang nói chuyện riêng với tôi. Chàng than đã bỏ rừng thiêng nước độc Kontum và đi lính rồi, nay được biệt phái, Bộ bắt phải về lại Kontum.Thanh muốn về Bộ hay một tỉnh gạo trắng nước trong nào khác. “Cứ để đấy xem sao” tôi nói với người bạn thân, biệt danh Khủng Long.
Quả là Thanh cũng có duyên tu. Vì đúng lúc đó, ông Nê bên Usaid cần kiểm tra công tác huấn luyện viên chức xã ấp. Tôi ngỏ ý cần thêm nhân sự. Ít ngày sau, Thanh về Bộ trong bộ quân phục trung úy. Tôi dẫn Thanh sang ngồi uống cà phê trên lề đường trước cửa Bộ Xã Hội để ăn mừng.
Sau đó ít lâu, Ông Nê xuất ngoại làm giảng viên tiếng Việt cho quân đội Hoa kỳ tại San Antonio.
Từ đó chúng tôi như cặp bài trùng, đi công tác địa phương, huấn luyện, đều sát cánh trong nhiều năm. Sau khi mất nước, khi Thanh đi tù cải tạo về, sang Mỹ, chúng tôi còn được gần nhau (Thanh làm Tổng Thư Ký khi tôi làm Chủ tịch Tổng Hội CSV/QGHC), cho đến ngày anh qua đời. Nhưng chuyện về duyên tu của Thanh tôi sẽ còn kể tiếp.

Các chuyến đi công tác được mệnh danh “hai chuyên viên huấn luyện và một cố vấn Hoa kỳ” này chỉ là cái cớ để chúng tôi gặp gỡ các Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh, để hâm nóng tình bạn, tình đồng nghiệp, đồng môn. Trong vòng đồng nghiệp lại có một vòng thu hẹp là lòng đam mê – hay là sự tin tưởng ngây thơ – của số ít người cho rằng huấn luyện là bước đầu một cái gì tốt đẹp.
Chúng tôi đi Quảng Nam để gặp Nguyễn Khánh, người cùng làm với Thanh ở Kontum. Chúng tôi đi Quảng Đức gặp Nguyễn Thế Chu. Phạm Gia Định ở Kontum. Nguyễn Ngọc Vỵ ở Darlac. Đặng Huy Túc ở Cà Mau. Nguyễn Hữu Kế ở Ba Xuyên. Đặng Văn Thạnh ở Pleiku. Lên Đà Lạt, tưởng gặp ai, lại là Phạm Gia Định mới chuyển từ Kontum về. Nguyễn Chí Thiệp ở Quảng Nam…
Nhờ đi một vòng lớn như thế, ngoài kinh nghiệm nghề nghiệp, chúng tôi kết bạn tâm giao với một số người mới như Thạnh và Thiệp.
Chuyện vui có thật – chúng tôi kết hợp công vụ với giải trí! Tôi cùng với Thanh áp dụng kỹ thuật giảng huấn để viết 2 tài liệu “Nghệ thuật đánh mã tước” và “Cách đánh tứ sắc khỏi thường”.

Ngoài các chuyến công tác địa phương nói trên, tại trung ương, tôi đã cộng tác với Tổng nha Công vụ  [có anh Giám đốc Nha Huấn luyện Nguyễn Đức Phụng Sơn (ĐS 1) và anh đứng đầu chương trình Lê Phú Nhạn (khoá Đà Lạt)] trong các khoá Quản trị Hành Chánh Căn Bản. Ngoài những lớp cho cấp Chủ sự và Chánh sở, còn có những lớp cho cấp Giám đốc.

Duyên du: Hoa Kỳ và Đài Loan

Ý thức tầm quan trọng của huấn luyện và do hậu thuẫn của các chuyên gia Mỹ, năm 1970 Chính phủ đã cho thành lập một chương trình mệnh danh là “Chương trình Quản đốc Tu nghiệp” (Training Administrators Project). Người thiết kế chương trình là Ross Thomas, nhưng Ban Phối Trí gồm: Tổng Giám Đốc Công Vụ (Chủ tịch) và hai ủy viên là Viện Trưởng Học Viện QGHC và Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ.

Từ trái: Đức, Thanh, Điều, Dr. Dornum, Tâm, Hùng, Cụ Chí (Sacramento, mùa Xuân 1971)

Cán bộ nòng cốt cho chương trình là một nhóm hỗn hợp Việt-Mỹ. Đoàn chuyên viên Việt Nam có ông Lê Duy Đức, Chánh sở Huấn luyện BNV (trưởng đoàn), ông Nguyễn Thượng Chí, Chánh Sở Huấn Luyện Tổng Nha Thuế Vụ, Đặng Huyền Thanh và Nguyễn Đắc Điều thuộc Bộ Nội Vụ, Đặng Mạnh Hùng, Bộ Chiêu Hồi, Ngô Thanh Tâm, Tổng Nha Công Vụ. Phía Hoa Kỳ có Dr Von Dornum thuộc International Training Consultant (ITC) và một đoàn chuyên viên từ Hoa Kỳ qua.

Nhắc đến các tên tuổi trên đây và nhiều nơi khác trong bài này một cách tham lam, không phải tôi không biết có thể làm cho độc giả nhàm chán, nhưng tôi xin lỗi phải nhắc, vì các bạn hay huynh trưởng (đa số cùng trường) là một phần của quãng thời gian vàng son trong đời tôi.

Trước khách sạn Biltmore (LA) chờ đi “du khảo” Từ trái: Điều, Tâm, Thanh, Đức

Phái đoàn đi quan sát công tác huấn luyện tại Hoa Kỳ từ ngày 6 đến 26 tháng 2 năm 1971 và tại Đài Loan từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 3, 1971.

“Đạo diễn” chuyến du hành (Dr. Von Dornum) đã khéo chấm những nơi điển hình nhất về công tác huấn luyện trong lãnh vực công cũng như tư tại Mỹ. Lý thuyết thì có trường Public Administration School (PAS) thuộc USC, nơi chúng tôi phải “đến lớp” mỗi ngày. Ứng dụng chúng tôi phải đi “field trip” nhiều nơi như Tòa Thị Chính Los Angeles, Tòa Thị Chính Pasadena, Trường Huấn Luyện Lính Cứu Hỏa và Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Los Angeles, Trường Huấn Luyện Nhân Viên Disneyland tại Anaheim, Trường USC, địa điểm xây cất trường UCI, Trường Berkeley, Trường Caltech., Nha Nhân Dụng Tiểu Bang California tại Sacramento v.v.

Nhưng chưa chắc mọi nguyên tắc lý thuyết và ứng dụng huấn luyện tại Mỹ thích hợp cho Việt Nam. Vì thế một tuần du khảo Đài Loan có mục đích để chúng tôi học hỏi kinh nghiệm thích nghi các lý thuyết “tân tiến” vào xã hội Á Đông như thế nào.

Trung tâm Hội thảo Quốc gia

Trở về, chúng tôi làm việc tại một cơ sở mới cất trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh, dưới một tấm biển rất oai “Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia”.
Chúng tôi làm việc chung với một đoàn chuyên viên Mỹ gồm Dr Melvin Le Baron, Dr Barbara Pennington, Dr Jack Von Dornum, ông Finn Loginotto và George Eimer, họa sĩ.
Theo kế hoạch vết dầu loang, muốn cải tiến nền huấn luyện nhân viên và công chức cả nước, phải bắt đầu bằng chính các viên chức đang phụ trách việc huấn luyện. Chúng tôi bắt đầu với các Quản đốc Tu nghiệp Tỉnh (ngay từ đầu, dự án đã mang tên “Chương trình Quản đốc Tu nghiệp” là vì vậy).
Họ cần trang bị kiến thức và kỹ năng gì để làm tròn nhiệm vụ? Phái đoàn Việt- Mỹ đã tới khảo sát một vài thí điểm, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nhân thể thăm Trương Minh Nhuệ), tỉnh Thừa Thiên và thảo luận với Giáo Sư Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu tại Viện Đại Học Huế.

Quản đốc Tu nghiệp, từ bạc bẽo tới tự tin

Các vị chỉ huy cao cấp, tuy trước mặt đoàn khảo sát, có cho rằng huấn luyện là dụng cụ quan trọng để gia tăng hiệu năng công vụ, nhưng lại coi nhẹ người phụ trách việc huấn luyện : Quản đốc Tu nghiệp!
Tương tự Thanh tra, Quản đốc TN là chức vụ “ngồi chơi xơi nước”. Còn hẩm hiu hơn Thanh tra, Quản đốc Tu nghiệp có một vai vế rất thấp so với các Trưởng Ty nội ngoại thuộc khác trong Tỉnh. Một người “nói không ai nghe” mà phải giữ nhiệm vụ nói. Đó là một nhiệm vụ bạc bẽo!

Từ những nhận xét trên, Đoàn Chuyên viên Huấn luyện cho rằng song song với vận động quy chế ở cấp cao (có vận động này không, đến nay tôi không biết, tôi chỉ biết người Mỹ rất quan tâm), nhất thời cần nâng uy tín của QĐTN bằng cách nâng cao lòng tự tin và khả năng chuyên môn của họ.
– Họ phải được trang bị các phương pháp huấn luyện: từ cổ điển như “4-steps”, kịch, brainstorming, điều khiển hội nghị, case study v.v. đến tân tiến như participative learning (tham gia học chế), simulation (giả cảnh).
– Họ phải am tường tâm lý nhóm, tâm lý học tập, nghệ thuật khích lệ, kỹ thuật thông đạt, trình độ và nhu cầu của học viên tương lai
– Họ phải biết các phương pháp: xác định nhu cầu và mục tiêu huấn luyện, thiết lập chương trình, soạn bài, các bước giảng dạy cho từng bài, và cuối cùng lượng giá kết quả huấn luyện.
– Quan trọng hơn hết họ cần thay đổi thái độ, theo định nghĩa “Học tập là sự thay đổi tác phong một cách tương đối bền vững, qua sự thay đổi thái độ, kiến thức và kỹ năng” (Định nghĩa này tới nay vẫn không thay đổi trong ngành giáo dục, ngay tại Mỹ và các nước tân tiến).
Trong số những người vững tin vào khả năng thay đổi của huấn luyện, nhiều nhất có lẽ là Đặng Huyền Thanh, Nguyễn Đắc Điều, Đặng Mạnh Hùng và Ngô Thanh Tâm. Họ đùa tự gọi nhau là “Bốn chàng ngự lâm pháo thủ”. Họ là cán bộ nòng cốt phụ trách các khóa QĐTN.

Các khóa huấn luyện QĐTN được tổ chức rất chu đáo và khoa học:

– Trước khi về TTHTQG, các QĐTN nhận được một tập hướng dẫn để chuẩn bị trước, như làm thống kê và phỏng vấn thượng cấp và đồng nghiệp.
– Sau đó họ tựu tập về TTHTQG, dành một tuần để hội thảo, học và thử các phương pháp huấn luyện. Trong phương pháp giả cảnh, ban chuyên viên đã mánh lới mời các vị chỉ huy cao cấp và có ảnh hưởng tới “thủ vai” chung với các QĐTN. Kết quả bất ngờ là chính các vị cũng thay đổi thái độ, có cái nhìn khác về công tác huấn luyện và vai trò QĐTN.
– Học viên trở về đơn vị của mình có 2 tháng để thực hiện những điều vừa mới học hỏi và soạn thảo chương trình và tổ chức các khóa huấn luyện. Trong giai đoạn này, QĐTN mời Đoàn Chuyên Viên Huấn Luyện tới địa phương để quan sát kết quả.
– Các học viên sẽ trở về TTHTQG để tham dự khóa học 3 ngày. Các học viên sẽ chia sẻ những kinh nghiệm soạn thảo chương trình huấn luyện, soạn thảo tài liệu huấn luyện, tổ chức khóa học, giải quyết những khó khăn trở ngại với cấp chỉ huy hay với cấp ngang hàng.

Khi tị nạn tại Mỹ, tôi may mắn gặp lại ông Ross Thomas. Như món quà tái ngộ, ông đã tặng tôi cuốn “The Training Administrators Project”, một phúc trình chi tiết về Chương trình Huấn luyện QĐTN. Tôi cảm động vô cùng, vì được đọc lại về một “thời đam mê”, và cũng cảm động vì Ông Thomas còn giữ tập sách như một kỷ vật. Tôi cũng cảm động khi đọc lại những lời phê bình sau của các tham dự viên (được dịch sang tiếng Anh):

Tấm hình khơi mào cho cuộc thảo luận về “Tâm lý nhóm”

– “Đây là khóa Hội thảo đầu tiên tôi tham dự được yểm trợ cả về vật chất lẫn tinh thần.”
– “Một khóa Hội Thảo hoàn hảo; đề nghị các cấp chỉ huy khác phải tham dự.”
– “Các Chuyên Viên Huấn Luyện là những giảng viên ưu tú nhất mà tôi được gặp”
– “Tôi đề nghị các tham dự viên được tính thêm điểm khi xét thăng thưởng hàng năm”.
– “Tôi đề nghị Chính Quyền Trung Ương cần phải quan tâm hơn nữa cho các khóa huấn luyện tương tự trong tương lai.”
– “Tôi cảm thấy thoải mái và dễ chịu khi tham gia thảo luận vì sự nhiệt thành của giảng viên và sự trang bị đầy đủ của Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia.”
– “Giảng viên Thanh lanh lợi tháo vát, giảng viên Tâm nắm vững kỹ thuật sư phạm, giảng viên Hùng người rất nhiều tình cảm còn giảng viên Điều mang đến những sảng khoái cho lớp học.”
– “Lần đầu tiên một khóa học có phương châm hành động, có một huy hiệu rất ý nghĩa.” (xin xem huy hiệu ở đầu bài này)

Vị Quản đốc Tu nghiệp này muốn nói tới phương châm “Tri Hành hợp nhất”. Chúng tôi biết nghề huấn luyện còn nhiều thử thách, và châm ngôn “Tri hành hợp nhất” mà TTHTQG đưa ra còn quá lý tưởng trong bối cảnh chung của Đất Nước, nhưng việc làm của chúng tôi quả được khích lệ.

Duyên mới với biên soạn “Kỹ Thuật Huấn Luyện”

Đặng Huyền Thanh và tôi vừa làm bên Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia nhưng vẫn còn phụ trách công tác huấn luyện bên Bộ Nội Vụ. Nhân có các sinh viên khóa 3 ban Cao học đang thực tập tại Sở Huấn Luyện như Nguyễn Phụng, Thái Văn Khị, Hứa Văn Kiển… chúng tôi đã nhờ những sinh viên này dịch một số tài liệu từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Thanh nhuận sắc những tài liệu này và tôi viết thêm một số đề tài khác để trở thành một cuốn sách, nhan đề “Kỹ Thuật Huấn Luyện”. Tài liệu này được Usaid in thành từng bài một, sau đóng gồm lại thành một tập.

Tôi còn phụ trách một số lớp cho các viên chức Cảnh sát từ Trưởng Ban đến Chủ sự tham dự khóa “Quản Trị HC Căn Bản” và khóa huấn luyện “ Thuế ĐiềnThổ ”do chuyên viên Tài Thâu Nguyễn Quí Thành soạn thảo cho các Trưởng Ty HC tổ chức tại Sở Huấn Luyện Bộ Nội Vụ.
Khi hai anh Lê Quan Diêm và Trần Công Hàm về Nha Hành Chánh Địa Phương dưới quyền Ông Giám Đốc Lê Văn Để (khóa Đà Lạt) thì Thanh và tôi được chuyển thành Chuyên Viên Hành Chánh Địa Phương cùng với hai anh. Tuy vậy, Thanh và tôi vẫn còn tiếp tục kiêm nhiệm phần vụ chuyên viên Huấn Luyện. Trong thời gian này bốn CV/HCĐP lo soạn dự thảo Luật cải tổ cơ cấu tổ chức Tỉnh, Thị Xã và Thành Phố và dự thảo Luật tổ chức bầu cử Quốc Hội.
Ông Giám Đốc Lê Văn Để thường phải ra thuyết trình tại Trung Tâm Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn của Trung Tá Nguyễn Bé ở Vũng Tàu vào cuối tuần. Mỗi lần đi thuyết trình Ông Giám Đốc Để thường dùng Thanh làm tài xế lái xe jeep, Hàm và tôi đi cùng để đủ tay đánh mà chược khi ngủ qua đêm tại biệt thự Anh Đào Vũng Tàu.


Một lần, Ông Giám Đốc Để bị Thủ Tướng gọi về gấp để trình bày hệ thống thiết lập danh sách cử tri mới bằng điện toán. Tôi phải thay thế Ông Giám Đốc thuyết trình tại Trung Tâm CB/XDNT. Đây là đề tài tôi soạn thảo cho Ông Giám Đốc nên đã nắm vững từng chi tiết.
Như thường lệ, trước khi chấm dứt, tôi hỏi có ai thắc mắc gì không. Chỉ có một học viên nêu thắc mắc. Khi nghe xong câu hỏi, tôi thấy học viên này tỏ ra am hiểu đề tài và đặt câu hỏi chỉ cốt “truy” xem tôi có nắm vững đề tài hay không. Trong giờ nghỉ giải lao, tôi tìm hiểu học viên này thì được biết anh là Đào Việt Giang (k9) hiện làm Trưởng Ty Hành Chánh tại Kiến Phong. Cảm phục về sự hiểu biết, tôi hỏi anh có muốn về Bộ không. Anh trả lời cũng có ý định, nhưng chưa phải lúc này. Khi tôi phụ trách khóa “Thuế Điền Thổ”, anh Đào Việt Giang tham dự và lần này, anh ngỏ ý muốn về Bộ vì ở Kiến Phong cũng đã lâu năm rồi. Tôi trình lên Ông Lê Duy Đức, và nhân dịp Sở Huấn Luyện được nâng lên thành Nha Huấn Luyện, Ông Đức đang cần một người làm Chánh Sở. Thanh và tôi chỉ thích làm Chuyên Viên, nên “đùn” cho Giang lãnh một Sở, còn Sở kia Ông Đức đôn một Tham Sự Chủ Sự lên đảm nhiệm.
Tuy Thanh và tôi làm việc rất thoải mái ở Bộ Nội Vụ, nhưng lại thích thú công tác huấn luyện bên Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia, mặt khác Đoàn Chuyên Viên Huấn Luyện “đã bén hơi nhau”, nên chúng tôi muốn tạo một tổ chức thường trực để thỏa cái chí “tu”.

Sự ra đời của Viện Tu Nghiệp Quốc Gia

Với sự thành công vượt bực của Chương trình Huấn Luyện QĐTN, các học viên rất hăng say, các cấp chỉ huy phía VN cũng như bên Usaid rất thích thú lề lối làm việc “không mệt nghỉ”của chúng tôi, ý tưởng thành lập Viện Tu Nghiệp Quốc Gia được nẩy sinh.
Chúng tôi muốn có một cơ quan “hậu Học Viện Quốc Gia Hành Chánh” để Huấn Luyện các viên chức của Chính Phủ về các lãnh vực mà Học Viện chưa có đủ thời gian trang bị kỹ năng cho sinh viên.
Thanh và tôi cặm cụi viết “dự thảo Nghị Định thành lập Viện Tu Nghiệp Quốc Gia”. Một chức vụ mà bốn chuyên viên Huấn Luyện tự vẽ cho mình là chức Cố Vấn Huấn Luyện. Phụ cấp chức vụ ngang hàng Giám Đốc, được hưởng phụ cấp giảng dạy, và được đi ngoại quốc học lấy bằng Master hay Ph. D cho tương đương với Ban Giảng Huấn thuộc Học Viện QGHC. Khi dự thảo Nghị Định trình lên Nha Quản Trị Công Sở, Ông Giám Đốc Vũ Trọng Cảnh đã chấp thuận không sửa chữa, nhưng yêu cầu Thanh và tôi đích thân lên Phủ trình bày trực tiếp với Ông Bộ Trưởng Nguyễn Văn Vàng.
Trong một buổi chiều mưa gió, tôi lái xe Lambretta, Thanh ôm đồ biểu ngồi sau xe từ Nha Huấn Luyện Bộ Nội Vụ lên Phủ Thủ Tướng. Ông Đốc Phủ Sứ sau khi nghe chúng tôi thuyết trình đã chấp thuận toàn bộ Nghị Định. Khi ra về, tôi lại kéo Thanh sang lề đường Bộ Xã Hội nhâm nhi cà phê mừng ngày thành công.
Sau một thời gian thuyết phục, Ông Vũ Trọng Cảnh đồng ý sẽ làm Viện Trưởng đầu tiên của Viện Tu Nghiệp. Ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng cũng viết văn thư xin Bộ Nội Vụ cho Đặng Huyền Thanh và tôi sang làm việc tại Viện Tu Nghiệp. Chúng tôi đều tin chắc 100% là sẽ được chuyển cơ quan vì Ông Lê Công Chất, Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ, là “đàn em” của Đốc Phủ Vàng. Nhưng Bộ Nội Vụ trả lời Phủ Thủ Tướng chỉ chấp thuận cho một trong 2 chúng tôi thuyên chuyển mà thôi. Trong một quán ăn tại Chợ Cũ, chúng tôi ngồi uống bia 33. Tôi thuyết phục Thanh nên sang Viện Tu Nghiệp thay vì tôi. Thanh có đầy đủ khả năng để đứng mũi chịu sào trong việc tổ chức một cơ quan tân lập, còn tôi chỉ có khả năng giảng dạy và viết Nghị Định , hơn nữa tính tôi hơi tình cảm không thích hợp cho việc chỉ huy. Thanh miễn cưỡng, đành phải chấp thuận vì thật ra cũng chẳng có cách nào khác. Ông Vũ Trọng Cảnh an ủi tôi sẽ cố gắng vận động thêm cho đến khi tôi phải qua được Viện Tu Nghiệp mới thôi.

Thời gian trôi nhanh qua công việc. Nhóm nhân sự đầu tiên của Viện Tu Nghiệp tiếp tục lo tổ chức các khóa “Kỹ thuật Huấn Luyện” và “Phân tích viên Quản Trị” cùng một vài khóa học có tính cách chuyên môn phối hợp với các Bộ khác, ngoài Bộ Nội Vụ. Cá nhân tôi, tham gia vào ban giảng huấn của những khóa huấn luyện tổ chức tại Bộ Nội Vụ, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH (Trường Huấn Luyện Tiếp Vận Cao Cấp), hay tại Viện Tu Nghiệp.

Đoàn chuyên viên đã vô cùng hứng khởi làm việc và mang tất cả hoài bão của mình trong công việc, những mong thổi một luồng gió mới vào công tác tu nghiệp và đào tạo. Đồng thời đoàn chuyên viên cũng đưa được một cái nhìn mới về tu nghiệp và trả lại giá trị thật của nó như đã có trong các nước tiên tiến, mở đường cho một “chương” mới trong việc cải tổ hành chánh và công vụ sau này.

Điều nói chuyện với ông Vũ trọng Cảnh (Giám đốc nha Quản trị Công sở, thủ vai Quốc vương Perfecto) đứng cạnh là Thanh và Tâm

Đoạn Duyên

Nhằm khởi đầu cuộc cách mạng hành chánh, cải tổ cơ cấu tổ chức và giản dị hóa thủ tục, tôi được Ông Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ Lê Công Chất chỉ thị soạn thảo một đề án cải tổ việc điều hành Sở Xuất Nhập Di Trú thuộc Bộ. Sau khi trình kết quả cuộc nghiên cứu, Ông Tổng Trưởng đã chỉ định tôi trông coi sở này luôn, một chức vụ tôi hoàn toàn không muốn. Tôi trình bày, tôi chỉ có khả năng nghiên cứu mà không có khả năng điều hành.Nếu Ông Tổng Trưởng nhất quyết, tôi xin Ông Tổng Trưởng bổ nhiệm Ông Chánh Sở Huấn Luyện Đào Việt Giang làm phụ tá cho tôi và được hưởng phụ cấp chức vụ ngang hàng chánh sở.Tôi nghĩ, đòi hỏi “không tưởng” như vậy là một cớ dễ “thoát” nhất, nhưng Ông Tổng Trưởng lại chấp thuận đề nghị của tôi.
Khi biết không thể làm gì khác hơn được nữa, tôi dẫn nhà tôi đến thăm Ông Vũ Trọng Cảnh trong cư xá công chức tại đường Đoàn Thị Điểm để cám ơn Ông cố ý chờ đợi xin tôi qua Viện Tu Nghiệp, nay thì “số phận đã an bài”.
Sau đó Đặng Huyền Thanh được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng Viện Tu nghiệp Quốc gia.

Tiếp Duyên: Libochu

Năm 2003, Đặng Huyền Thanh, Ông Nguyễn Công Hiệu (khóa 2) và tôi đang đi picnic với các bạn QGHC, nghe tin Ngô Thanh Tâm (CH2) và vợ Khánh Hà (CH3) ký sách tại Thư quán Văn Mới, chúng tôi bỏ dở cuộc chơi, tới thăm hai bạn từ Na Uy. Tâm quá cảm động, chỉ thốt được một chữ “LIBOCHU”.

Bốn người làm trong Viện Tu nghiệp QG đều nhớ đây là tên của nhân vật chính trong những đề tài huấn luyện QĐTN. Libochu là ghép tên ba vị trong Ủy ban Phối trí, những vị có ảnh hưởng quyết định trong việc huấn luyện công chức: Ông Tổng giám đốc Công vụ Nguyễn Xuân Liêm, Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Văn Bông và Ông Tổng Thư ký Bộ Nội Vụ Tôn Thất Chước. Trong buổi học giả cảnh (simulation) Libochu (tức QĐTN) có nhiệm vụ thuyết phục “Quốc Vương Perfecto” (do chính các vị trong UBPT thủ vai) cải tiến nền công vụ bằng huấn luyện trong “Vương Quốc Utopiana”. Màn giả cảnh này đã gây ấn tượng sâu sắc cho mọi tham dự viên, kể cả quốc vương giả. Gần 30 năm chưa quên, Libochu thành một câu chào tái ngộ

Giải thích thành phần “nội các”: -Thủ tướng: Thanieu (Đặng Huyền Thanh/ Nguyễn đắc Điều) -Bộ Xã hội: Huchi (Đặng mạnh Hùng-Nguyễn thượng Chí) -Bộ Nội vụ : Finpen (Finn Longigotto-dr Barbara Pennington) -Bộ Cải tiến Thái độ: Leum (dr Le Baron-dr Von Dornum)
-Bộ Quốc phòng: Duclan (Lê duy Đức-Lan “thư ký”). -Bộ Thương mại: Tamers (Ngô thanh Tâm-George Eimers “họa sĩ”) -Quản đốc Tu nghiệp: Libochu (Nguyễn Xuân Liêm-Nguyễn văn Bông-Tôn thất Chước).

Sau bao năm tháng lăn lộn trong ngành hành chánh công quyền, tôi ngộ ra được vài điều. Có những chức vụ, mình không hề mong đợi mà tự nhiên đến một cách tình cờ, dù cương quyết chối từ vẫn cứ “dính”. Nhưng có một chức vụ tôi cố gắng tạo ra, tưởng như chắc chắn nằm trong tầm tay như Cố Vấn Huấn Luyện tại Viện Tu Nghiệp thì chỉ là một giấc mơ.

Mối “giao tình huấn luyện tu nghiệp” là một liên hệ bền chặt vô vị lợi giữa học viên và giảng viên.Những bạn bè thân thiết gắn bó với tôi trong suốt cuộc đời, nhất là quãng đời còn lại đều bắt nguồn từ “duyên tu”. Nhờ Viện Tu Nghiệp Quốc Gia, chúng tôi đã quy tụ được một  số bạn hữu có cùng chí hướng tạo thành một mái nhà êm ấm để tự do thi thố  những  khả năng thường bị “lấn ép” tại các cơ quan khác.

“Viện Tu nghiệp Quốc gia” thu nhỏ tại Little Saigon Từ trái: Nguyễn Xuân Hiệu (ĐS 2), Nguyễn đắc Điều (ĐS 6), Ngô thanh Tâm (CH 2), Bùi Bích Hà (thân hữu), Khánh Hà (CH 3), Thu Thuỷ (trưởng nữ của Tâm/Hà).

Có điều, bốn chàng thời vang bóng ngày xưa, nay chỉ còn lại “ba chàng ngự lâm pháo thủ không gươm”: Ngô Thanh Tâm, Nguyễn Đắc Điều và Đặng Mạnh Hùng.

Nguyễn Đắc Điều

(Viết với sự góp ý của Ngô Thanh Tâm và Đặng Mạnh Hùng)

___________________________________________________________________________

Hậu Libochu

Vào năm 2013, trong số “ba chàng pháo thủ không gươm”, Ngô thanh Tâm được bác sĩ chẩn đoán ung thư tụy tạng. Sau một thời gian mổ và hóa trị, bệnh tình không thuyên giảm, sức khỏe yếu bác sĩ khuyên nên đi du lịch để thay đổi không khí; nhưng sau chuyến đi Nhật Bản về vào đầu năm 2014 sức khỏe của anh càng suy giảm. Nghe được tin xấu, giữa tháng 7-2014, vợ chồng tôi cùng anh chị giáo sư Phạm kế Viêm, cư ngụ tại Paris, tổ chức chuyến đi thăm Ngô thanh Tâm. Anh chị nhà văn Phạm tín An Ninh được anh Tâm ủy thác lo tiếp đón “phái đoàn ủy lạo”. Phút chót, vợ tôi không thể đi cùng chuyến vì chuyện riêng.

Hàng đứng: Ngô thanh Tâm, Nguyễn đắc Điều, Phạm kế Viêm, Phạm tín An Ninh Hàng ngồi: Khánh Hà- Trần Diệu Tâm- chị Thức, vợ PTAN

Trong buổi hội ngộ, Ngô thanh Tâm dù vừa trải qua một cuộc tiểu giải phẫu vào buổi trưa vẫn hào hứng hàn huyên đủ mọi chuyện: từ chuyện Thụ Nhân của viện đại học Đà Lạt với đồng môn nhà văn Trần Diệu Tâm, phu nhân giáo sư Viêm, tới chuyện giảng dạy tại Viện Quốc gia Tu nghiệp với tôi. Kết thúc câu chuyện, anh Tâm đề nghị chúng tôi chụp chung một tấm hình tại vườn sau nhà do chính anh Tâm “đạo diễn” để chụp hình tự động. Không ngờ đó là bức hình ghi dấu lần gặp gỡ cuối cùng vì năm sau, ngày mùng 9 tháng 4 năm 2015,  anh Ngô thanh Tâm đã từ giã vợ con và bạn bè về nước Thiên Đàng.

Nhà tôi rất tiếc đã không đi theo tôi sang thăm anh Tâm kỳ trước nên đúng 3 năm sau, vào tháng 7 năm 2017, dắt theo vợ chồng thứ nam sang Na Uy thăm chị Khánh Hà; và chụp một tấm ảnh ngồi đúng vào chiếc ghế mà anh Tâm đã chụp hình trước đây.

Vợ chồng Nguyễn đắc Điều và vợ chồng thứ nam

Nhân dịp này tôi cũng ghé thăm tượng đài Hoa Biển, tri ân nhân dân Na Uy đã đón tiếp người tỵ nạn cộng sản Việt Nam tới định cư, mà anh Ngô thanh Tâm đã bỏ nhiều công sức trong vai trò Cố vấn của Uỷ ban Xây dựng Tượng đài Thuyền Nhân. Chính vì tấm bảng không ghi được chữ tiếng Anh “communist” vào bảng Tưởng Niệm làm Cộng đồng Người Việt tại Na Uy cho rằng anh Tâm có tinh thần chao đảo. Anh đã ôm niềm “nghi kỵ” này mang sang thế giới bên kia không một lời phản biện.

Hình trái: Tượng đài Hoa Biển Hình phải: Bảng Tưởng Niệm – Ghi chú trên Bảng Tưởng Niệm: “Thank you Norway for the Freedom From Vietnamese boat refugees and their families. Tri ân Na Uy đã cứu giúp chúng tôi đến đất Tự Do. Thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn cộng sản và thân nhân”

Vợ chồng Nguyễn đắc Điều tại Tượng đài Hoa Biển và Bảng Tưởng Niệm (Na Uy)

Tôi đứng ngắm nhìn tấm Tưởng Niệm mà nghe phảng phất đâu đây câu nói ước mơ của anh “Giấc mơ một nước Việt Nam tự do no ấm, có lẽ là giấc mơ duy nhất tan vỡ, bạn nhắm mắt trước khi thấy một tia sáng (văn trích trong “Lệnh triệu ban rồi” tác giả Tâm Thanh).

Ôi những chàng ngự lâm pháo thủ muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ!!!

Nguyễn Đắc Điều

(San Diego, California 14-5-2023)

Hits: 821

Vài Nét Về Khoá 6 Đốc Sự Quốc Gia Hành Chánh

Nguyễn Đắc Điều 

Hàng đứng: Lê văn Thêm, Thái hà Chung, Nguyễn đắc Điều, Trần Ngọc Bình, Hà Ngọc Nghinh, Trần thanh Sử. Hàng ngồi: Nguyễn Vịnh, Nguyễn Ngọc Vỵ, Nguyễn khai Sơn, Trương minh Nhuệ, Trần Nhật Ưng. (Quân trường Đồng Đế-Nha Trang: hình chụp khi thi hành 15 ngày phạt trọng cấm lúc về Học viện nhận bằng Tốt nghiệp “ra trình diện quân trường trễ vì không có máy bay”).

1/-Nhập học và tốt nghiệp:

Khóa 6 nhập học vào tháng 2 năm 1959 gồm có 51 sinh viên trúng tuyển so với 100 sinh viên dự tuyển. Đây là cuộc thi concours d’examen nên có lẽ không đủ số sinh viên có khả năng hội đủ điều kiện để trúng tuyển.

Sinh viên đậu thủ khoa nhập học là Nguyễn mạnh Huyên thi tại trung tâm Huế. Thời tôi học, Học viện tổ chức tuyển sinh tại 2 trung tâm, một tại Sài Gòn và một tại thị xã Huế. Tôi không biết việc tổ chức này khởi đầu và kết thúc vào năm nào. Sau khi thi năm thứ nhất có 17 sinh viên phải xuống học khóa 7, và có 3 sinh viên từ khóa 5 xuống học khóa 6 là Nguyễn văn Tiên, Trần thanh Sử và Nguyễn hữu Các. Tháng 1 năm 1962 có 36 sinh viên tốt nghiệp gồm 21 ban Hành Chánh và 15 ban Kinh Tài, trong số đó có 3 sinh viên gốc công chức, anh Nguyễn hữu Các không tốt nghiệp.

-Ngoài anh Nguyễn Ngọc Châu, sinh viên công chức, các sinh viên tốt nghiệp ban Hành Chánh xếp theo thứ tự như sau: Triệu Huỳnh Võ (thủ khoa), Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn minh Quân, Nguyễn đắc Điều, Phạm Đức Nhuận, Lê minh Quang, Nguyễn văn Tiên, Trương minh Nhuệ, Nguyễn văn Đức, Nguyễn văn Quí, Nguyễn trọng Can, Đoàn Nghĩa, Ngô Đức Lưu, Nguyễn thành Long, Lê văn Thêm, Nguyễn thành Nhơn, Nguyễn văn Nho, Nguyễn công Khanh, Trần thanh Sử, Nguyễn khai Sơn.

Hàng 3: Quang, Điều, Sử, Trần Huỳnh Thanh, Nho (đeo kính đen), Nguyễn công Khanh (áo ca rô).  Hàng 2: Các, Trực, Quí, Triệu Huỳnh Võ, Đức, Nguyễn khai Sơn (đeo kính trắng). Hàng đầu: Thêm, Quân, Ngô Đức Lưu (đeo tang trước ngực), Đoàn Nghĩa, giáo sư Nguyễn quang Quýnh, Tiêu Ngọc Ninh, Lâm văn Mẫn, Trương minh Nhuệ. (Hình chụp trước thềm Học viện QGHC 4 Alexandre de Rhodes)

-Ban Kinh Tài ngoài hai anh sinh viên công chức Trương quang Sáng (thủ khoa) và Nguyễn văn Tri, các sinh viên tốt nghiệp theo thứ hạng : Hoàng Ngọc Diệp, Nguyễn Ngọc Vỵ, Bùi Xuân Thích, Nguyễn như Ky, Thái hà Chung, Hà Ngọc Nghinh, Trần Nhật Ưng, Nguyễn văn Thâu, Trần Ngọc Bình, Huỳnh văn Báu, Nguyễn Vịnh, chị Thái thị Minh Nghiêm và Trần công Toàn.

2/-Bổ nhiệm:

Sau khi tốt nghiệp ngoài chị Thái thị Minh Nghiêm được bổ nhiệm riêng, và 17 sinh viên được bổ nhiệm phục vụ tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, số còn lại được gửi ra Đồng Đế (Nha Trang) để thụ huấn quân sự.

Trong lúc phải ôm súng gác đêm hay đi di hành hàng 50,60 cây số khi thì lội suối băng rừng, khi thì đi trên đường tráng nhựa của quốc lộ 1 dưới nắng gay gắt của mùa hè Nha Trang làm lột da chân trong giầy botte de saut, hay đi giây tử thần, hay thực tập những bài học tấn công bắn bằng đạn thật thì không sao tránh khỏi những ghen tỵ với các bạn được bổ nhiệm làm việc trong văn phòng tại Phủ Đặc Uỷ; nhưng sau này trong một bài viết anh Tiêu Ngọc Ninh cho biết các anh được chọn sang Phủ Đặc Uỷ do một tờ trình của Sở Nghiên cứu Chính trị của bác sĩ Trần kim Tuyến thì mới ngộ ra các bạn được tuyển chọn là xứng đáng. (Tờ trình có nội dung trình bày sự tuyển chọn và thủ tục điều tra an ninh kỹ lưỡng về quá trình hoạt động của các đương sự và nó đã được chính Cố vấn Ngô đình Nhu đệ trình Tổng thống với bút phê “ Kính bẩm anh: đã duyệt xong và kính đề nghị cho bổ nhiệm”. Cùng thời gian này, tôi chợt nhớ khi trình diện để nhận nhiệm sở mới, nhóm Phó Đốc sự khóa 6 chúng tôi được vị Đặc Uỷ trưởng đầu tiên là Đại tá Nguyễn văn Y tiếp kiến và thân mật cho biết: “Các bạn là những viên ngọc quí được Thượng Cấp tuyển chọn về đây phục vụ… [Trích bài viết “Những chuyện ít ai biết” của tác giả Tiêu Ngọc Ninh trong Đặc san Nửa Thế Kỷ Hội Ngộ].)

Nghị Định khóa 6 QGHC tốt nghiệp Đồng Đế

18 sinh viên được theo học khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế-Nha Trang có biệt danh “Lò luyện thép” hay “Trường Đồng Đế đánh giầy cả đế” dưới quyền chỉ huy của Đại tá Đỗ Cao Trí.  Sau khóa học chỉ có 13 người tốt nghiệp Chuẩn úy xếp theo thứ tự : Nguyễn Ngọc Vỵ (thủ khoa), Thái hà Chung, Lê văn Thêm, Nguyễn Vịnh, Nguyễn đắc Điều, Nguyễn công Khanh, Nguyễn văn Tiên, Nguyễn khai Sơn, Trần thanh Sử, Hà Ngọc Nghinh, Trương minh Nhuệ, Nguyễn văn Nho vàTrần Nhật Ưng. Hai anh Ngô Đức Lưu và Nguyễn trọng Can không đủ sức khỏe: anh Lưu được trả về bộ Nội Vụ từ đầu khóa học nhưng anh Can bị quân trường giữ lại cho đến hết khóa. Các anh Trần Ngọc Bình, Trần công Toàn và Phạm Đức Nhuận không tốt nghiệp khóa quân sự Đồng Đế.

Sau khi tốt nghiệp khóa Đồng Đế vào tháng 12 năm 1962, các sinh viên ban Kinh Tài được bổ nhiệm làm Trưởng ty Thanh Niên thuộc Tổng Nha Thanh Niên gồm có: Nguyễn Ngọc Vỵ (Bình Định), Trần Nhật Ưng (Pleiku), Thái hà Chung (Đà Lạt), Nguyễn Vịnh (Bình Thuận), Hà Ngọc Nghinh (?).

Hàng đứng: Nguyễn minh Quân, Lê văn Thêm, Nguyễn văn Đức, Tiêu Ngọc Ninh, Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn văn Quí (Dân biểu), Điều, Lê bỉnh Trực. Hàng ngồi: Nguyễn văn Nho, Đoàn Nghĩa, Nguyễn thành Long, Trần thanh Sử, Lê minh Quang, Lâm văn Mẫn. (Đi thăm Ký Nhi Viện- Khánh Hội).

Riêng sinh viên ban Hành Chánh được bổ nhiệm tại bộ Nội Vụ như sau: Nguyễn đắc Điều (Quảng Đức), Lê văn Thêm (Chương Thiện), Nguyễn văn Tiên (Phú Bổn), Trần thanh Sử (Long Khánh), Trương minh Nhuệ (Gia Định), Nguyễn công Khanh (Kiên Giang), Nguyễn khai Sơn và Phạm đức Nhuận (Phước Long), Nguyễn trọng Can (Phước Tuy), Nguyễn văn Nho (An Xuyên), Trần công Toàn (?); riêng Trần Ngọc Bình bị chậm bổ nhiệm một năm.

3/-Lễ tốt nghiệp:

Theo thông lệ những khoá đàn anh trước thì Lễ tốt nghiệp được ông Viện trưởng dẫn toàn thể sinh viên mặc complet trắng vào trình diện Tổng thống Ngô đình Diệm tại dinh Độc Lập và đồng thời nghe Tổng thống huấn dụ; nhưng kỳ này nhân dịp làm Lễ Khánh thành trụ sở mới của Học viện nên Lễ tốt nghiệp được tổ chức chung cho cả 3 khoá 5,6 ,7 và được diễn ra tại Đại giảng đường toạ lạc tại số 10 đường Trần quốc Toản, dưới quyền chủ toạ của Tổng thống Ngô đình Diệm, ông Cố vấn Ngô đình Nhu, bác sĩ Trần kim Tuyến cùng một số Bộ trưởng. Tất cả mọi sinh viên tốt nghiệp đều mặc complet mầu trắng. Riêng chúng tôi, các sinh viên đang thụ huấn quân sự tại trường Đồng Đế-Nha Trang thì mặc đồ đại lễ cũng mầu trắng. Các anh thủ khoa ban Hành Chánh khóa 5 Tô tiếng Nghĩa, khóa 6 Triệu Huỳnh Võ, khóa 7 Phan công Tâm được đích thân Tổng thống phát văn bằng tốt nghiệp. Đặc biệt nữa là các sinh viên thụ huấn quân sự tại Đồng Đế-Nha Trang lại được Tổng thống Ngô đình Diệm chủ toạ Lễ tốt nghiệp Chuẩn Uý khóa Ấp chiến lược: như vậy chúng tôi vinh dự được Tổng thống chủ toạ lễ tốt nghiệp cả Văn lẫn Võ. Sinh viên sỹ quan thủ khoa Nguyễn ngọc Vỵ được Tổng Thống Ngô đình Diệm trao cung tên để bắn đi bốn phương trời.

4/-Nhân vật nổi trội:

-Về ban Hành Chánh có:

*anh Triệu Huỳnh Võ từng giữ nhiều chức vụ Phụ tá Bộ Trưởng và Phụ tá Tổng trưởng;

*anh Lê văn Thêm giữ nhiều chức vụ Phó Tỉnh trưởng HC tại miền Tây, sau anh đắc cử do Hạ nghị viện bầu làm Giám sát viên của Viện Giám Sát.

*anh Phạm Đức Nhuận đã đỗ Thủ khoa năm thứ nhất Luật khoa và có bài viết đăng trong Nguyệt san Quê Hương là tập san chỉ đăng bài của các giáo sư Đại học Luật khoa.

*anh Nguyễn văn Quí đã đắc cử Dân biểu nhiều nhiệm kỳ tại đơn vị Hậu Nghĩa.

*anh Trần thanh Sử nổi tiếng là đẹp trai “đàn giỏi hát hay” nên có rất nhiều bóng hồng . Khi nghe được tin anh Sử gặp rắc rối về tình sử trong khi đi tập sự tại tỉnh Phước Tuy, nghiêm trọng đến độ Tỉnh trưởng phải viết báo cáo mật về Học viện, chị Thái thị Minh Nghiêm đã cười nói: “ Trần thanh Sử bị rắc rối là phải, sinh như nghệ, tử ư nghệ mà. [Trích bài viết “Tưởng niệm Đoàn Nghĩa” của tác giả Trần huỳnh Châu trong Đặc san Mùa Thu Nhớ Bạn.]

*anh Nguyễn thành Nhơn, sau khi tốt nghiệp anh làm một thời gian ngắn tại Phủ Đặc Uỷ và tỉnh Chương Thiện, rồi thuyên chuyển phục vụ tại tỉnh Biên Hoà từ Trưởng ty Nội an, Hành chánh, Chánh văn phòng và Phó Tỉnh trưởng cho tới ngày 30 tháng 4-1975. Đi tù Cải tạo từ Nam ra Bắc rồi định cư tại San Jose cùng vợ và 4 con. Anh là một mẫu người công chức gương mẫu, trung thành với lý tưởng quốc gia trước sau như một. Anh đã xuất bản 2 tuyển tập  “Một thời” và “Thao thức” tập hợp những bài viết đã đăng trên báo địa phương và những bài phát biểu trong các buổi biểu tình chống Việt cộng và bè lũ tay sai.

Điều, Nguyễn hữu Các (không tốt nghiệp), Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn minh Quân, Lê bỉnh Trực(Bàng thính viên), Trần thanh Sử, Đoàn Nghĩa (mất tích khi vượt biên), Tiêu Ngọc Ninh, Nguyễn văn Nho, Nguyễn thành Nhơn. (Đi thăm hãng Shell- Nhà Bè)

-Về ban Kinh Tài có:

*anh Nguyễn Ngọc Vỵ là một trong 5 Quận Trưởng dân sự tại tỉnh Bình Định. (Trần dược Vũ, khóa 3, Nguyễn Ngọc Vỵ, khóa 6, Trần Hồng, Trương văn Tuyên và Phạm gia Định cùng khóa 8).

*anh Thái hà Chung làm Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao. (Hồi đó có 3 Phát ngôn viên: Đại tá Lâm đại diện cho bộ Quốc Phòng, Bùi bảo Trúc đại diện bộ Dân Vận, Thái hà Chung đại diện bộ Ngoại Giao tổ chức họp báo tại Trung tâm Báo Chí Quốc gia trên đường Tự Do để giải thích đường lối và chính sách của Chính Phủ cho ký giả trong và ngoài nước).

*anh Nguyễn văn Tri là sinh viên cao tuổi nhất của khoá. Anh có người em ruột là anh Nguyễn văn Nhi tốt nghiệp khoá 4 Đốc sự.

-Giữ chức Phó Tỉnh/Thị Trưởng HC:

Trần Huỳnh Thanh (An Xuyên, Darlac, Phong Dinh, Sa Đéc)

Nguyễn văn Tiên (Phú Bổn, Bình Thuận, Bình Dương)

Trương minh Nhuệ (Long Khánh)

Nguyễn trọng Can (Bình Long, Đà Lạt)

Lê văn Thêm (Chương Thiện, Kiên Giang, Định Tường)

Nguyễn thành Nhơn (Biên Hoà).

Trần thanh Sử (Quảng Đức, Bình Tuy)

Nguyễn khai Sơn (Phước Long)

Nguyễn Ngọc Vỵ (Quảng Đức, Cam Ranh, Darlac).

Bùi Xuân Thích (Bình Định, Quy Nhơn)

Nguyễn Vịnh (Chương Thiện, Phong Dinh).

Hàng đứng: Can, Nho, Khanh, Điều, Quang, Lâm văn Ty (nhân viên HV/QGHC),Nghĩa, Mẫn, Nguyễn Ngọc Châu, Quân, Các, (thân hữu),Thiện (y tá HV/QGHC) cúi đầu ở giữa: Bùi Xuân Thích (ban KT). Hàng ngồi: Quí, Thanh, Nhơn, Trực, Thêm, Nguyễn văn Đức. (Đi thăm Khu Trù mật Vị Thanh-Hoả Lựu)

5/-Những đồng môn quá vãng:

-Ngô Đức Lưu 35 tuổi (7-4-1972, tại Sài Gòn khi đang làm Trưởng ty Tài Chánh-Kiến Phong)

-Đoàn Nghĩa (1978) và Hà Ngọc Nghinh (1979): trên đường vượt biên.

-Thái thị Minh Nghiêm (1988, tại Việt Nam).

-Nguyễn văn Tiên (30-10-2009, tại Canada)

-Lê minh Quang (2005, tại Little Sài Gòn, Nam Cali)

-Trần Huỳnh Thanh (2011, tại Sacramento)

-Nguyễn như Ky (7-2010, tại Texas).

-Thái hà Chung (10-3-2014, tại Little Sài Gòn, Nam Cali).

-Huỳnh văn Báu (2014, tại Canada)

-Trương minh Nhuệ (17-12-2014, tại Đức quốc).

-Nguyễn văn Thâu (? tại Sài Gòn).

-Tiêu ngọc Ninh (6-12-2017, tại Oxnard, Nam Cali).

-Bùi Xuân Thích (31-1-2022, tại Boston).

-Trần thanh Sử (2022, tại Pháp quốc).

-Nguyễn thành Long (18-4-2023, tại Michigan).

-Nguyễn thành Nhơn 85 tuổi (28-4-2023, tại San Jose).

-Nguyễn Văn Tri mất ngày mùng 6 tháng 5 năm 2023 hưởng thọ 96 tuổi tại Sacramento, Bắc Cali

Tính từ người quá vãng đầu tiên 35 tuổi năm 1972 Ngô Đức Lưu đến người quá vãng mới đây 85 tuổi năm 2023 Nguyễn thành Nhơn thì khoảng cách vừa đúng nửa thế kỷ cho cả tuổi thọ lẫn thời gian. Đúng theo ý thơ của Khoa Nghi: “Đứa đã ra đi về cõi trước/ Đứa còn chậm bước xếp hàng sau”. Mà hàng sau của khóa 6 Đốc sự bây giờ ngắn lắm rồi. (Tỷ lệ 18/36).

6/-Trụ sở và Ban giảng huấn:

-khóa 6 học từ ngày khai giảng tới ngày thi mãn khóa tại số 4 đường Alexandre de Rhodes. Khóa 6 là khóa Đốc sự cuối cùng thi tốt nghiệp tại địa chỉ này; và cũng là khóa cuối cùng nhập học vào đầu năm. Các khóa tiếp theo nhập học vào tháng 9 hàng năm.

-ban Giảng huấn gồm các giáo sư cơ hữu của Học viện và các giáo sư thỉnh giảng từ Đại học Luật khoa. Sau đây là danh sách các giáo sư xếp theo vùng miền:

* Giáo sư sinh trưởng tại miền Nam và miền Trung:  Tôn thất Trạch, Cao hữu Đồng, Nguyễn Xuân Khương, Trần ngọc Liên, Trương ngọc Giàu, Trần văn Phò, Trần văn Binh, hai Đốc phủ sứ  có bằng Cử nhân Luật: Lê văn An và Bùi quang Ân, Phan tấn Chức, Châu tiến Khương và Nguyễn tấn Thành (giáo sư đại học Luật khoa).

*Giáo sư sinh trưởng miền Bắc: Vũ quốc Thông, Nghiêm Đằng, Trần văn Đỉnh, Trần văn Kiện, Nguyễn quang Quýnh, Nguyễn mạnh Tư, Vũ Uyển Văn, Lê đình Chân, Nguyễn Lê Giang, Nguyễn cao Hách và Nguyễn Độ (giáo sư đại học Luật khoa).

{Sở dĩ tôi ghi rõ thành phần giáo sư theo vùng miền vì tôi có đọc một bài mới đây nhận xét trước năm 1963 từ Viện trưởng tới lao công tài xế đều là người miền Bắc}.

7/- Lời đồn đoán và Thực tế

2 khóa sinh Nguyễn Đắc Điều và Nguyễn Ngọc Vỵ trình diện Quân trường Đồng Đế-Nha Trang

18 sinh viên tốt nghiệp khóa 6 ĐS được bổ nhiệm đãi lệnh tại Tổng nha Công vụ chờ đi thụ huấn quân sự, không có công việc gì làm chỉ đến tụ tập nghe ngóng tin tức, nên có một bạn tỏ ra “am hiểu tình hình” đưa ra lý do tại sao chúng tôi phải đi học quân sự:”Trong bảng đúc kết kế hoạch Kinh tế Hậu Chiến của phái đoàn Stanley-Vũ quốc Thúc có đưa ra giải pháp dân sự hóa nền hành chánh địa phương bằng cách thay thế các Quận trưởng quân đội bằng các Đốc sự, nhưng các Đốc sự này phải tham dự một khóa huấn luyện quân sự tại một quân trường như Đà Lạt hay Thủ Đức”. Sở dĩ có ý kiến này vì nếu đưa các Quận trưởng đi học hành chánh thì mất nhiều thời gian hơn là đưa các Đốc sự học quân sự. Khi học tại Học viện cứ mỗi năm, vào dịp hè, các nam sinh viên phải theo học lớp quân sự lúc thì tại vườn cao su Phú Thọ, lúc thì tại xa lộ Biên Hoà, lúc thì tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung của chương trình huấn luyện cấp Trung đội trưởng.
Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ làm tờ trình lên Tổng thống Ngô đình Diệm đề nghị chúng tôi theo học khóa 12 Thủ Đức cùng với các sinh viên bị động viên. Tổng thống bút phê trên tờ trình “Gửi tham dự khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế-Nha Trang”. Thế là 18 chúng tôi ra trình diện trường Hạ sĩ quan Đồng Đế-Nha Trang để theo học khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch cùng với hơn 400 khóa sinh hạ sĩ quan được tuyển chọn học khóa này. Lúc tới quân trường chúng tôi mới được sĩ quan cán bộ cho biết, Tổng thống Ngô đình Diệm có ra kinh lý quân trường Đồng Đế vào hè năm 1961; và Chỉ huy trưởng quân trường đã dẫn Tổng thống quan sát các lớp học “Trung đội vượt sông”, “Trung đội tấn công tác xạ với đạn thật không phải đạn mã tử (đạn giả)”, “Kỹ thuật tuột núi”; và khi đoàn xe của Tổng thống di chuyển trên đường thì bắt gặp một trung đội vượt cầu khỉ (cấu tạo bởi 3 sợi dây) đi từ đồi này sang đồi kia. Tổng thống ấn tượng nhất khi chứng kiến cảnh các khóa sinh đi dây tử thần. Khi đó chúng tôi mới biết mục đích của Tổng thống gửi chúng tôi ra Đồng Đế để học tập kinh nghiệm thực hành tác chiến chứ không phải học lý thuyết chỉ huy như tại quân trường Thủ Đức. Tổng thống Ngô đình Diệm đã đến chủ tọa và đặt tên cho khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch là “Ấp chiến lược” cùng tên với khóa 16 tốt nghiệp tại trường Võ bị Đà Lạt và khóa 12 tại trường Võ khoa Thủ Đức mãn khóa cùng năm.

Tượng chiến sĩ VNCH trong tư thế thao diễn nghỉ trên đỉnh núi Hòn Khô do khóa 3 Chuẩn úy Hiện dịch xây dựng theo sáng kiến của Tiểu đoàn phó sinh viên sĩ quan gốc QGHC Thái hà Chung(khóa 6 ĐS). Sau năm 1975, người dân vùng Đồng Đế có loan truyền mấy vần thơ sau : “Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ/ Em nằm xõa tóc đợi chờ ai?”. Hay: “Em nằm đấy, ngàn năm còn xõa tóc/ Ta muôn đời, thao diễn giữa trời mây/ Nghe nhung nhớ, rụng rời trên sườn núi/ Đá núi buồn, trăn trở với cỏ cây”. Rất tiếc tượng người lính VNCH trong tư thế thao diễn nghỉ nay đã bị đập phá, không còn dấu tích gì nữa.

Thế nhưng, sau khi tốt nghiệp khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch Đồng Đế, đa số 13 Đốc sự được bổ nhiệm phục vụ tại các tỉnh thuộc loại “rừng thiêng, nước độc”, và chúng tôi cũng không thắc mắc gì về lời đồn đoán dân sự hóa trong kế hoạch” Kinh tế Hậu chiến Stanley-Vũ quốc Thúc”.
Khi Trung tướng Đỗ cao Trí làm Tư lệnh Quân đoàn II kiêm Đại biểu Chính phủ Vùng 2 Chiến thuật đã ra chỉ thị “ Những Đốc sự nào đã tham dự các khóa 3, 3 phụ và 4 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế khi giữ chức vụ Phó Quận trưởng được và phải mang cấp bậc Trung úy”. Chỉ có 3 khóa ĐS 6,7 và 8 tham dự các khóa huấn luyện quân sự này trước năm 1963 (Quân trường Đồng Đế tổ chức được có 4 khóa đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch).
Cũng trong thời gian Trung tướng Đỗ cao Trí giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II, bộ Nội Vụ có bổ nhiệm 5 ĐS giữ chức vụ Quận trưởng thay thế cho các Quận trưởng quân đội và được mang cấp bậc Trung úy tại tỉnh Bình Định, đó là: anh Trần dược Vũ (khóa 3), Quận trưởng An Túc, anh Nguyễn Ngọc Vỵ (khóa 6), Quận trưởng Bình Khê, anh Trương văn Tuyên (khóa 8), Quận trưởng Hoài Ân, anh Phạm gia Định (khóa 8), Quận trưởng An Nhơn, và anh Trần Hồng (khóa 8) thay thế anh Nguyễn Ngọc Vỵ trong cương vị Quận trưởng Bình Khê. (Anh Trương văn Tuyên đã được đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận trong trận chiến thắng đẩy lui cộng quân đánh trụ sở quận Hoài Ân).
Có phải việc bổ nhiệm các ĐS giữ chức vụ Quận trưởng tại tỉnh Bình Định là sự thử nghiệm thi hành khuyến cáo dân sự hóa nền hành chánh địa phương chăng? Nếu vậy, cũng chỉ là một sự thử nghiệm muộn màng và đoản kỳ có tính cách “cục bộ tượng trưng” cho nên cũng không có ảnh hưởng dây chuyền trong tổng thể nền hành chánh địa phương của Việt Nam Cộng hòa.
Dù các Quận trưởng dân sự này làm việc rất thành công và được bộ Nội Vụ tưởng thưởng cho thuyên chuyển nắm giữ chức vụ cao hơn trong ngành hành chánh như anh Trần dược Vũ làm Phó Thị trưởng thị xã Cam Ranh, anh Nguyễn Ngọc Vỵ làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đức và anh Phạm gia Định làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Kontum nhưng kế hoạch “dân sự hóa Quận trưởng” cũng dần dần chấm dứt. Tất cả các Quận trưởng vẫn do các quân nhân đảm nhiệm như cũ dù tại các Thị xã rất an ninh.
Báo chí thời đó đã gọi nền hành chánh công quyền của nền đệ Nhị Cộng hòa là quân đội trị dưới sự chỉ huy của “đảng kaki”.

8/-Hội ngộ:

Khóa 6 ĐS đã liên kết với khóa 7 và 8 để tổ chức 2 buổi hội ngộ:

-Hội Ngộ 40 năm khóa 6 & 7 ĐS vào ngày 4 và 5 tháng 9 năm 1999 tại Little Sài Gòn.

Bích chương 40 năm Hội ngộ “Trai khôn tìm vợ chợ đông/ Gái khôn kiếm chồng Quốc Gia Hành Chánh”. Trong ngày cuối của buổi Hội ngộ, MC Thái hà Chung đã nói: “Xin cám ơn, lẽ ra nói cám ơn chúng mày nhưng vì có vợ chúng mày nên phải nói cám ơn các anh các chị đã cho nhau một ngày để nhớ”.

-Nửa Thế kỷ Hội ngộ khóa 6 & 7 & 8 tại Little Sài Gòn vào các ngày 25, 26, 27 tháng 9 năm 2009. Nguyễn ngọc Vỵ kết thúc một bài viết bằng nhận xét: “Những ai tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành Chánh là những người suy nghĩ như một ông Hoàng, nhưng phục vụ lại là một đầy tớ”.

Trong hình: Nguyễn thành Nhơn, Nguyễn văn Tri (KT), Triệu Huỳnh Võ, Nguyễn huy Lãng, Nguyễn đắc Điều, Nguyễn văn Nho, Nguyễn văn Phước (KT)

-Đặc san Mùa Thu nhớ bạn xuất bản năm 2010 phối hợp với các khóa Đốc sự 5,6,7 và 8. Đặc san gồm có 33 bài dầy401 trang.

Trước đây Học viện QGHC là nơi đào tạo cán bộ cao cấp cho quốc gia. Khi ngồi trên ghế nhà trường, người sinh viên chỉ học và học với một lý tưởng là bảo vệ tổ quốc và chống cộng. Từ Viện trưởng sáng lập Học viện là Giáo sư Trần Cửu Chấn, tới Giáo sư Vũ quốc Thông, đều là khoa bảng, không đảng phái nên nhờ đó sinh viên từ khi vô tới khi ra trường không bị móc nối vô đảng phái nào. Nhưng đến thời Giáo sư Nguyễn Văn Bông làm Viện trưởng thì tình trạng “trung lập giữa các đảng phái” không còn nữa. Nhiều sinh viên được kết nạp vô đảng của Giáo sư Bông là Phong trào Quốc gia Cấp tiến. Các đảng phái khác thấy thế cũng mở chiến dịch kết nạp trong Học viện. Thành ra không khí Học viện đang bị đảng phái hóa và địa phương hóa. Rất may là 3 khóa 6,7 và 8 của chúng tôi không rơi vào  trường hợp này vì đến khi chúng tôi tốt nghiệp, vẫn còn Giáo sư Vũ Quốc Thông làm Viện trưởng.
[Trích bài viết “Bốn mươi năm” của tác giả Đỗ tiến Đức trong Đặc san Mùa Thu Nhớ Bạn].

9/-Thay cho lời kết:

Khởi đi cho bài viết là nghe được tin buồn 2 đồng song Nguyễn thành Long và Nguyễn thành Nhơn ra đi vào tháng 4 năm 2023, nên tôi tìm những hình ảnh thời sinh viên ra coi lại thì ngộ ra đời sống thật vô thường : “Sắc bất thị không, không bất thị sắc/ Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ngẫm ra đôi khi những học vị, chức tước như là một đám mây che nắng cho ta, hưởng được bóng mát; nhưng đôi khi đám mây đó lại trở thành mưa to gió lớn hay những trận bão cuồng phong lôi cuốn tất cả vợ con và tài sản mà chúng ta trong bao năm mới tạo dựng ra được. Đang loay hoay không biết kết thúc bài viết ra sao, thì ngày mùng 3 tháng 5 năm 2023, tôi nhận được thư của chị Nguyễn thị Ngoan, hiền thê của anh Nguyễn thành Nhơn, chuyển lá thư không ghi ngày của anh Nhơn viết cho tôi nhưng chưa gửi. Nguyên văn lá thư:

Thư Nguyễn thành Nhơn gửi trước khi quá vãng

Điều thân,

Đọc bài DUYÊN TU, cảm thấy thương bạn. Bao nhiêu công phu, kỳ vọng rốt lại hoàn không !. Đó là không phải nói chuyện bây giờ. Ngay cả ngày xưa ấy, e rằng địa phương cũng không đáp ứng lòng mong mỏi cải tiến công vụ của bạn được bao nhiêu. Nhưng bạn cũng đừng trách họ, bởi vì các anh, em cán bộ xã, ấp hồi ấy tất bật trăm công, ngàn việc. Nào là việc làng, việc ấp, nào lo an ninh bản thân, lại còn bươn chải lo sinh kế vì đồng lương đâu có bao nhiêu. Cho nên, “việc làm” đã hết hơi, hết sức làm sao nghĩ đến “việc TU” (nghiệp). Việc đời là như thế, xin bạn chớ buồn. Bằng như vẫn thấy lòng buồn man mác thì cứ gọi TOÀN KHÔNG Đỗ Đăng Tiến gửi cho bài VÔ THƯỜNG đọc chơi là hết chuyện.

Chúc Anh chị và bửu quyến MÙA GIÁNG SINH AN BÌNH.

Thân,

Nhơn”.

Xin mượn lời thư của đồng môn Nguyễn thành Nhơn làm lời kết cho bài viết.

Nguyễn Đắc Điều 

(San Diego, California 5-5-2023)

 

Lời BBT website HCMĐ:

Rất khó và rất hiếm tìm thấy và đọc được những bài viết như bài “Vài Nét về Khóa 6 Đốc Sự QGHC” của anh Nguyễn đắc Điều.

Khó, vì người viết phải có một trí nhớ vượt bậc để có thể nhớ lại được đầy đủ tên tuổi , những chuyện về tốt nghiệp,  nhiệm sở, hay trải nghiệm thăng trầm và những mất mát của những người bạn đồng khóa.

Hiếm, vì người viết còn kèm theo bài viết những tấm hình xưa cũ không thể dễ dàng tìm lại được – với chính xác danh tính của người trong hình và còn nêu rõ tấm hình chụp vào dịp nào.

BBT WEBSITE HCMĐ rất cảm ơn anh Nguyễn Đắc Điều đã cho phép đăng tải bài viết  của anh trên Trang Nhà HCMĐ.

Hy vọng rằng bài viết của anh Nguyễn Đắc  Điều sẽ được tiếp nối bằng những bài viết của quý niên trưởng khác  về nhiều khóa ĐS, CH  hay TS của Học Viện QGHC.

Mong lắm thay!

 

(*) Ghi chú thêm:

Đoạn 7 – “Lời đồn đoán và Thực tế” và hình ảnh trong đoạn này được tác giả Nguyễn đắc Điều bổ túc ngày 27/5/2023

 

 

 

Hits: 825

Hình Ảnh Dòng Sông Trong Thơ Phùng Minh Tiến

Minh Tâm Xuân Đỗ

Tôi biết đến thơ Phùng Minh Tiến khá lâu, có đến trên ba chục năm của thập niên sau năm 1975, khi làm kẻ tha hương trốn chạy quê hương. Sau này nhận ra nhau là bạn có nhiều cái “đồng” với nhau: đồng hương Quảng nam, đồng song từ thuở học sinh từ trường Tiểu học Chùa Bà Mụ, qua trường Công lập Trần Quí Cáp Hội An và cùng đồng song từ Học Viện Quốc gia Hành Chánh, trước khi bước chân vào đời và bây giờ trong tuổi lớn, gặp nhau trễ xứ tự do Hoa Kỳ.
Đầu khoảng năm 1980 hay 1981 gì đó, anh Lôi Tam, một nhà văn cũng có nhiều cái “đồng” khác, trên tờ Đặc san Quê hương từ Thủ đô Hoa Kỳ, Washington DC, giới thiệu một bài thơ tiêu biểu của Phùng Minh Tiến, bài “Dòng Sông Cát Lở”:

Tôi đưa em về dòng sông cát lở
Dòng sông ba mươi năm chảy xiết một đời
Này cánh hoa xanh soi trên hồn nước cạn
Em tìm thấy gì trong sỏi đá không vui...

Bài thơ ngắn 12 câu thơ, trong ba đoạn ngắt rời, trong một hơi thở đầy thi vị, xúc động về quê hương và những kỷ niệm một thời trẻ trung. Thời đó tôi như đang làm kẻ “lưu đày” trên xứ người Da Đỏ Oklahoma, sau khi thoát chạy từ thành phố miền biển Vũng Tàu, nơi tôi làm việc, với một gia đình nhỏ, vợ và ba con thơ, khi miền Nam, vùng đất tự do cuối cùng rơi vào tay Cộng sản.

Trong cái ngột ngạt về thông tin từ quê nhà, quê hương một ốc đảo như cắt lìa với thế giới bên ngoài. Tôi tìm quên ưu sầu trong viết lách. Viết như một cách thế hoá giải nỗi bất lực đang vây bủa chung quanh. Viết để tìm lại mình trong các kỷ niệm mông lung đổ về. Viết để tìm lấy lại mình của một quê hương đã mất. Viết như một gợi nhớ trong tâm thức, khơi lại các kỷ niệm từ thuở ấu thơ đến ngày trưởng thành vào đời. Những dòng thơ của Phùng Minh Tiến đến với tôi như những hành trang thiếu sót trong nỗi nhớ bỏng cháy:

Tôi đưa em qua ven bờ cát lậm
Năm tháng phôi pha nay lở, mai bồi
Dấu điêu linh còn ghi trên trán mỏi
Bàn chân ngoan cát cũng ngẩn ngơ lời.
Cát một đời nằm nghe sóng vỗ
Sông một đời chảy mãi khôn nguôi
Em là mây tình cờ qua đó
Một tháng, một năm rồi cũng ngậm ngùi.

Tôi sinh ra ở thôn quê, làng Ái Nghĩa, Quận Đại Lộc, nhưng lớn lên may mắn được gởi đi học hành và trưởng thành ở phố thị. Một kỷ niệm tôi nhớ mãi trong đời, gắn liền với dòng sông, khi tôi lên năm hay sáu tuổi: Một buổi trưa hè nóng bức, tôi theo người anh cả ra con sông Đào (dòng sông Ái Nghĩa, Đại Lộc) trước mặt nhà, để tắm mát. Anh tôi bước xuống nước, tôi đeo theo anh bên vai. Anh hụp mạnh xuống dòng sông, sãi tay bơi. Tôi sút tay, chìm lỉm, có lẽ uống khá nhiều nước vào bụng. Anh vói tay kéo tôi lên, xách vào bờ. Tôi điếng hồn, khóc nức nở. Anh đã không dỗ dành mà còn đe doạ sẽ ném tôi xuống nước, cho uống nước nữa, đến khi nào tự quơ tay, quơ chân, biết bơi. Anh chỉ tay vào tôi, hét lớn:
– Con trai không được khóc. Con trai phải biết bơi để tự cứu mình. Muốn biết bơi, phải chịu sặc nước, uống nước đầy bụng, nhiều lần, cho đến khi bơi giỏi.

Từ đó chắc tôi đã phải uống nhiều nước sông lắm, nhiều lần chìm lỉm trong dòng sông, để biết bơi và bơi giỏi. Và dòng sông gắn bó với tôi như một phần của đời sống. Và cũng từ nguyên do tiềm ẩn trên, khi đọc bài thơ “Dòng sông Cát Lở“ của Phùng Minh Tiến, tôi say sưa thích thú với kỷ niệm nằm sâu trong tiềm thức, trỗi dậy.

Phùng Minh Tiến làm thơ khá nhiều, từ khi còn là một học sinh ở trường Trần Quí Cáp Hội An, nhưng anh lại không gom góp lại, để in thành sách, nên đã thất lạc thật nhiều. Thơ Phùng Minh Tiến trải dài nhiều đề tài, nhiều lãnh vực, nhưng hình ảnh dòng sông sâu đậm nhất và mang nhiều ẩn dụ về cuộc đời trong kiếp sống vô thường. Dòng sông không những là biểu tượng đẹp trong văn chương, trong thơ nhạc mà còn là hình ảnh huy hoàng, bi hùng, lưu lại trong lịch sử oai hùng của từng quốc gia, từng dân tộc qua nhiều thời đại.

Với tôi, dòng sông gắn liền với những kỷ niệm từ thuở ấu thơ, rồi đến những ngày tản cư năm 1947 theo dòng sông Thu Bồn, chạy giặc Pháp , đặt lại nền độc lập lên xứ sở. Tôi biết thêm được các địa danh mới của quê hương: đập Vĩnh Trinh, thác Phường Rạnh, bến sông Trung Phước, đẹp như một bức tranh thủy mặc ngày xưa. Những ngày hồi cư, trở về ngôi nhà cũ bị giặc Pháp đốt cháy, tôi ngày ngày bơi lôi trên dòng sông Đào trước nhà, trước khi được gởi xuống Hội An trọ học, lại làm quen, bơi lội với bạn bè, trên dòng sông Thu Bồn, đổ về phố Hội.
Từ những kỷ niệm gắn chặt trong tâm thức tôi như vậy, đọc lại thơ Phùng Minh Tiến, tôi cảm nhận ra rằng, dòng sông trong thơ anh là biểu tượng siêu hình về cuộc đời, như một chiếc cầu nối vào suy tưởng tâm linh như Vũ Hoàng Chương:

Ta còn để lại gì không
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.

Đọc lại mấy câu thơ Phùng Minh Tiến:

Tôi đưa em qua ven bờ cát lậm
Năm tháng phôi pha, nay lở, mai bồi
Dấu điêu linh còn ghi trên trán mỏi
Bàn chân ngoan, cát cũng ngẩn ngơ lời.
Cát một đời nằm nghe sóng vỗ
Sông một đời, chảy mãi khôn nguôi
Em là mây tình cờ qua đó
Một tháng, một năm, rồi cũng ngậm ngùi.

Những câu thơ đẹp vô cùng, thoát tục và đầy thiền vị. Và từ đó đọc lại các bài thơ của anh tôi đang có trong tay, gần như đa số các bài thơ nằm trong dòng thơ tâm linh, như vang lên từ tiếng chuông, tiếng mỏ đẫm màu sắc không.
Cuốn tiểu thuyết Siddhartha của nhà văn Đức Hermann Hesse mà Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch tuyệt vời qua tiếng Việt, “Câu Chuyện Dòng Sông”, nói về một nhân vật tên Siddhartha, người Ấn Độ, cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa tâm linh của cuộc sống, đã trải qua biết bao thăng trầm, sung sướng, hạnh phúc lẫn khổ nạn. Cuối cùng nhìn thấy dòng sông lững lờ chảy, ngộ ra rằng cuộc sống chẳng khác nào dòng sông, vô thường như dòng nước chảy.
Sau khi đọc cuốn sách “Câu Chuyện Dòng Sông” mỗi lần từ Huế về quê thăm gia đình ở Ái Nghĩa, Đại Lộc, tôi đi xe đạp hoặc đi bộ, theo dọc bờ sông Đào về nhà, tôi nhận thấy các đổi thay về cây cối, nhà cửa hai bên bờ sông, và những lần mưa lụt lớn trước đó gây đất lở, làm thay đổi hẳn cả một thôn xóm, trông xa lạ như một nơi nào tôi mới đến lần đầu…
Hình ảnh đó còn trong tâm thức tôi, khi đọc thơ Phùng Minh Tiến, tôi như thấy lại trước mắt và đọc thầm câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Kìa non đá lở, này sông cát bồi.”

Thơ Phùng Minh Tiến nặng về suy tưởng tâm linh. Ngoài hình ảnh dòng sông, biểu tượng của cuộc đời, Phùng Minh Tiến còn nói đến “Đôi Nẻo Có Không”:

Có cũng về
Không cũng về
Sao còn đứng đợi bến sông mê
Bốn phương gió nổi mùa hư ảo
Ngỏanh lại hoa xuân rụng não nề.
Có cũng về
Không cũng về
Về đâu non nước về đâu nhỉ?
Chảy xiết cuồng lưu, vọng khứ hề
Có cũng về
Không cũng về
Sáu bảy mươi năm làm lữ khách
Một chiều tuyết phủ với sương che .
Có cũng về
Không cũng về
Thanh xuân giờ đã xa biền biệt
Dừng lại bên sông lạnh bốn bề.

Thật sự, Phùng Minh Tiến cảm nhận cuộc đời qua nhiều khía cạnh, góc độ và thế nhìn, chứ nếu chỉ trích dẫn thơ anh qua các bài tâm linh, siêu hình về cuộc đời thì cũng cưỡng ép oan uổng. Đọc bài thơ “Vầng Trăng Hạnh Ngộ”, thấy thoải mái, nhẹ nhàng vô cùng:

Trăng của ngày xưa vẫn còn đây
Từ trong tiền kiếp đến nơi này
Biển dâu đã mấy lần dâu biển
Mùa đến, mùa đi, khuyết lại đầy
Trăng thuở thanh xuân, mùa hạnh ngộ
Trăng thời chinh chiến, khóc thương ai …
Nỗi trôi vẫn một vầng trăng cũ
Cũng đành đá nát với vàng phai .
…….
Chiều nay đi giữa rừng thay lá
Còn chút keo sơn buổi chuyển mùa
Tóc tơ ai đợi nghìn năm trước
Trăng về quạnh quẽ bến sông xưa

Hãy nghe anh nhìn qua bài thơ tự phát hoạ “Nụ Cười Chiêm Bao:”

Bây giờ tôi lại thương tôi
Bản lai diện mục nụ cười hư hao
Quê xưa chìm khuất nơi nao
Bước chân khổ hạnh lao xao bụi hồng
Tiền thân lạc cõi hư không
Em đi xa dấu ngựa hồng tìm đâu
Bao mùa nước chảy qua cầu
Sao còn đứng đợi đêm thâu mơ màng
Bây giờ tôi lại xa tôi
Biển xưa đã cạn, sông bồi đã xanh
Trăm năm hạt bụi viên thành
Trôi trong vô lượng, mong manh phận người
Bây giờ tôi bỏ luôn tôi
Bỏ xuân xanh, bỏ luân hồi, xưa, sau
Bỏ quê, bỏ xứ, bỏ chùa
“Giày rơm, áo vải”, chào thua cuộc đời
Ừ thôi cũng thế mà thôi
Được thua, hơn thiệt, nụ cười chiêm bao .

Ngay cả trong thơ tình cũng mang âm hưởng từ bi, như bài “Theo Em:”

Theo em dưới bóng Bồ Đề
Yêu em độ lượng vỗ về trong ta
Đông về buốt lạnh lời ca
Mùa xuân chợt đến tôi xa vội người
Hoang vu từ độ Em cười
Đôi tà khép mở áo vui thuở nào
Đường xưa trắng cả chiêm bao
Vang vang guốc mộc, lao xao bụi hồng
Ai ngờ rồi cũng hư không
Chim bay biển bắc, tìm mong biển nào
Dáng xưa giờ đã hư hao
Áo xưa chắc cũng phai màu còn đâu
Bao mùa nước chảy qua cầu
Ta giờ đã thất lạc nhau muôn trùng.

Một dịp anh về lại phố Hội, chốn xưa, một thời trai trẻ yêu thương tràn đầy trong tim, bài thơ “Tôi Về”:

Tôi về phố cũ đìu hiu
Sương pha núi dựng, mây chiều đầu non
Bến xưa khói sóng vẫn còn
Sông Thu chạnh nhớ đò ngang năm nào
Nửa đời chưa hết lao đao
Trăng mùa thu cũ, giờ sao úa màu
Sóng dồn lớp lớp, xưa, sau
Góc sân hoang lạnh, hương cau nhạt nhòa
Biển dâu mấy độ quan hà
Xa Em mùi tóc hiên sau vẫn còn.

Dòng sông “định mệnh” vẫn ám ảnh anh suốt đời. Cũng chính nơi cây đa, bến cũ, con đò xưa đó, khi anh về, đã biển dâu mấy độ, mộng thuở đầu đời đã vỗ cánh bay xa, nhưng dòng sông tâm thức vẫn chảy mãi trong anh không ngừng:

Tôi về thăm bến sông xưa
Còn đâu bến cũ mà đưa tiễn người …
Sông xưa nay lở, mai bồi
Bèo tan Cửa Đại, mây trôi phương nào?…
Biển trùng còn mãi lao xao
Bốn mươi năm lẻ làm sao quên người
Trời ơi chỉ một nụ cười
Theo nhau chỉ để luỵ người núi sông..

Chúng tôi bên ly cà phê ở quán đông bạn bè, hay đùa Phùng Minh Tiến chắc kiếp trước Anh là một thiền sư đạo hạnh, nhưng say mê nét đẹp của một thiện nữ, nên bị đọa, nay sống đời độc thân, làm thơ đầy thiền vị, và cuộc đời “sắc không” trong tình thương của từ bi, bác ái …

Thơ Phùng Minh Tiến làm đẹp cuộc đời!

Quận Cam, California
Minh Tâm Xuân Đỗ

Hits: 47

Năm Mão

Phạm Thành Châu

ăm nay là năm Mão, cầm tinh con Mèo. Các báo Xuân làm gì cũng có một bài về mèo. Lịch thì có hình con mèo. Nhà nào cũng có mèo, ai cũng biết rõ về nó, chẳng có gì lạ, nên viết sao cho độc giả mới đọc nửa chừng thì không thèm đọc nữa mới thật là khó. Thông thường, người ta viết nhiều nhất là về những nhân vật (đúng ra là những danh nhân đã chết) có tuổi con mèo, cũng có người viết về những năm Mão trong lịch sử. Cứ lôi bài cũ (báo xuân) từ mười hai năm trước ra xào nấu, thêm chút gia vị vào là thành bài của mình. Hoặc cứ lấy quyển mười Hai Con Giáp ra chép lại. Tôi cũng chẳng hơn gì những vị đó, nhưng có để tâm sưu tập những bài về mèo từ các báo đã đăng, dành dụm những tài liệu, tin tức liên quan đến con mèo, nay kể ra, để bạn đọc giải trí trong mấy ngày xuân. Người ta nói Chữ Mão, tiếng Tàu nghĩa là thỏ, tiếng Việt nghĩa là mèo (?) Tôi không biết chắc nhưng lịch Tàu thì để hình con thỏ vào năm Mão. Người miền Trung và miền Nam gọi mão là mẹo (tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị…) Tiếng Anh gọi mèo là cat, tiếng Pháp là chat, tiếng Đức katze, tiếng Tây Ban Nha gato, tiếng Nhật neko, tiếng Ả Rập kitte… Con mèo có thể kêu khoảng sáu mươi thứ tiếng khác nhau để bày tỏ cảm nghĩ của mình, đặc biệt nó gào thét khi làm tình, nhưng đối thoại với người, nó chỉ kêu meo, meo để xin ăn mà thôi. Cũng có khi nó kêu rù rù nho nhỏ lúc bạn âu yếm nó hoặc lúc nó dụi đầu vào người bạn để chờ được vuốt ve. Có lẽ vì các cô bồ nhí của mấy ông già cũng nũng nịu kiểu đó nên được gọi là mèo. Chính mắt tôi thấy trong TV, một con mèo nói tiếng Mỹ. Bà chủ nói gì, nó nói theo (độ năm ba tiếng thôi). Bác sĩ thú y nói trong thanh quản con mèo đó có dị tật. Hình như chuyện Ba Giai Tú Xuất có kể, Ba Giai đánh cuộc với cô hàng nước rằng con mèo cô ta biết tiếng người. Cô hàng nhận lời, Ba Giai xách tai con mèo lên, bấm móng tay vào tai mèo và hỏi “Của cô hàng tròn hay méo?”, con mèo đau quá kêu lên: “Méo, méo!”. Có vài chuyện vui về mèo. Một ông quá lười biếng nên chết đói. Xuống âm phủ, Diêm Vương phán: “Nhà ngươi lười quá nên ta cho ngươi đầu thai làm con mèo, phải tự mình bắt chuột mà ăn.” Anh ta năn nỉ Diêm Vương: “Xin ngài cho con làm con mèo đen có chấm trắng trên mũi.” Diêm Vương ngạc nhiên “Để làm gì?” “Thưa, ban đêm con nằm trong bóng tối, bọn chuột thấy chắm trắng tưởng hột cơm, mò đến, con bắt ăn thịt, khỏi phải đi đâu cả.” Một con mèo khác rình hoài mà không bắt được chuột, nó giả giọng chuột kêu chít, chít! Bọn chuột tưởng đồng loại, bò ra khỏi hang, bị mèo bắt ăn thịt. Ăn xong mèo gật gù. Biết ngoại ngữ cũng dễ sống hơn bọn không chịu đến trường sinh ngữ để học thêm. Một chuyện vui khác. Cô giáo bảo học trò tả con mèo. Một cậu viết: “Nhà em có một con mèo, nhưng em chưa thấy nó, mẹ em cũng chưa thấy nó. Mẹ em nói -Ba mầy có mèo, nhưng tao chưa bắt được. Trước sau gì tao cũng tìm ra.”Một lần khác, cô giáo bảo tả con khỉ, cũng cậu học trò đó, viết “Nhà em có nuôi một con khỉ. Một buổi sáng chủ nhật, có một cô đến nhà em, ba em chạy ra bảo -Đừng vô nhà, có con khỉ già ngồi trong đó!”
Mèo bự nhất, có thể nặng từ sáu đến mười kí lô, đó là giống Main Coon, lai tạo từ mèo rừng Bắc Mỹ với mèo hoang tiểu bang Maine. Một ông bạn, gặp tôi, khoe rằng sắp lập một xí nghiệp nuôi mèo và chuột. Ông bạn giải thích: Giai đoạn đầu, tôi nuôi một mớ chuột, khi chuột sinh sôi nẩy nở nhiều rồi, tôi nuôi mèo, lấy chuột cho mèo ăn. Khi mèo lớn, sinh con đẻ cháu, tôi giết mèo, lấy da đem thuộc, làm áo ấm, ví, xách tay… cho quí bà, thịt mèo đem nuôi chuột. Vậy là vòng tròn khép kín, chỉ tốn công, khỏi tốn thực phẩm nuôi mèo và chuột. Anh ta nhờ tôi nghiên cứu giùm về con số chính xác, mèo sinh sản ra sao? Tôi tìm đọc về mèo và cho anh ta những số liệu sau: Mèo đẻ hai lứa một năm. Trong năm năm sống sót được hai mươi tám con, với mười lứa đẻ. Mèo mẹ sinh con, con sinh cháu, cháu sinh chắt, chút, chít … sau ba năm có được ba trăm tám mươi hai con, sau bốn năm, hai nghìn hai trăm con, sau năm năm, mười hai nghìn sáu trăm tám chục con… sau mười năm có hơn tám mươi triệu con. Anh bạn tôi sáng mắt lên. Giàu thấy rõ mà chẳng ai biết ! Sau đó tôi không còn gặp anh bạn đó nữa, cũng không nghe về Xí nghiệp mèo chuột của anh ta.

Toàn thế giới có sáu trăm triệu con mèo, riêng nước Mỹ có hơn bảy chục triệu con. Các bà thích nuôi mèo vì nó giúp các bà đỡ buồn chán (depress), coi như người bạn hiền lành. Nuôi mèo ở các nước Âu Mỹ phiền phức lắm, phải có bảng tên đeo vào cổ mèo, phải đi bác sĩ chích ngừa, khám bịnh, phải cho ăn đúng thực phẩm, phải tắm rửa, dọn vệ sinh cho nó (hốt phân), vì nhà luôn đóng cửa, mèo không ra ngoài phóng uế được, không như ở xứ ta, chút xương cá với mấy muỗng cơm là xong. Mèo, chó Âu Mỹ mà cho ăn như thế nó sẽ bị tiêu chảy, rụng lông rồi chết. Mấy ông bà Âu Mỹ thường chụp hình chó, mèo của mình, để rủi chó, mèo có đi lạc thì làm một bảng cáo thị, có đủ tên tuổi con vật với hình ảnh, số điện thoại của chủ rồi đem treo ở các ngã tư trong xóm. Ai tìm thấy thì cho chủ biết, nhận về. Có người nuôi mèo chung với chuột, vì mèo (Âu Mỹ) không ăn thịt chuột, và chó cũng không ruợt cắn mèo bao giờ. Nhưng mèo hoang thì cũng giống như mèo ở xứ ta. Chúng đi hoang vì chủ nó dọn nhà mà không mang chúng theo, chủ nhà mới không cho vô nhà. Mỗi năm ở Mỹ có cả triệu con mèo bị bỏ hoang. Xóm tôi ở, có mấy con mèo hoang, khuya nào chúng cũng đi lùng sục chuột bọ trong các vườn nhà người ta. Chúng thích nhất là trèo cây bắt tổ chim. Ở Âu Mỹ, bắt giết súc vật là phạm pháp, thế nên chim chóc sinh sôi nay nở khắp trong vườn, trong rừng. Vườn nhà tôi có rất nhiều chim đến làm tổ, khi thấy có trứng trong tổ (chúng làm tổ trong các buội cây rất thấp) tôi phải lấy thuốc trừ sâu bọ xịt dưới gốc cây, cành lá chung quang để mèo không đánh hơi được, nhờ vậy lũ chim non được sống sót. Có một bà Mỹ già, tối nào cũng đem thực phẩm mèo ra sau vướn nuôi lũ mèo hoang, có đến mấy chục con tụ tập, giành ăn, meo meo ồn ào, hàng xóm kêu cảnh sát. Không hiểu sao, cảnh sát lại cấm bà ta cho mèo ăn? Ở Âu Mỹ, mấy người già thích sống một mình, không muốn con cháu đến quấy rầy, thế nên có một bà cụ chết, mấy ngày sau, nghe mùi hôi, hàng xóm gọi cảnh sát đến. Mở cửa ra, có đến hàng trăm con mèo đang vây quanh xác chết, kêu gào vì đói. Sở Mục Súc phải đóng cửa, vây bắt từng con. TV chiếu, mèo lớn, mèo nhỏ chạy lung tung, trên lầu, trong bếp, trong kẹt tủ … Thông thường, sở bắt súc vật đi lạc về, nhốt vô chuồng, ai muốn nuôi thì đến xin. Mèo, chó nhiều quá, không ai xin thì phải giết bớt. Ở Việt Nam mà có mấy dịp đó thì các quán nhậu đặc sản phát tài. Một bà cụ Mỹ, có con mèo bịnh chết, bà ta sắm cho nó một quan tài giá năm trăm đô la, lại tốn một mớ tiền mua đất ở nghĩa trang súc vật để xây mộ cho nó. Thỉnh thoảng bà cụ đi thăm mộ, chuyện trò với vong linh con mèo thân yêu. Ở các xứ văn minh, con cái không có cái tình với cha mẹ như người Á Đông. Cha mẹ nuôi con như làm bổn phận, con đến tuổi trưởng thành là rời nhà cha mẹ, đi thẳng, họa hoằn lắm mới gọi điện thoại hỏi thăm. Mà cha mẹ cũng thích sống một mình trong nhà hoặc gửi thân nơi các nhà dưỡng lão, chờ ngày nhắm mắt xuôi tay. Họ không thích con cháu đến làm phiền. Thế nên, con mèo, con chó là bạn thân nhất của người già. Có mấy chuyện (cũ và mới) về mèo, kể ra đây để bạn đọc cho vui. Nursing Home (nhà già) tên là Steere ở Providence, Rhode Island có nuôi một con mèo đen trắng (có hình trên báo) tên là Oscar. Nó rất hiền và ngoan, các cụ thích vuốt ve, âu yếm. Nhưng nó có tật lạ là hễ tối nào nó nhảy lên giường người nào nằm thì làm gì người đó, hôm sau sẽ chết. Có lần, người ta đem bỏ nó lên giường một người hấp hối, nó nhảy xuống chạy qua phòng một người mạnh khỏe mà nằm. Quả nhiên, hôm sau, người hấp hối hồi tỉnh còn người mạnh khỏe kia, tối ngủ rồi ngủ luôn, không dậy nữa (chết). Đảo Peratjio ở Ấn Độ Dương, không có người nhưng lại có hàng nghìn con mèo. Số là năm 1850, có một chiếc tàu biển bị đắm vì đá ngầm, những người sống sót lên được đảo nhưng cũng chết sau đó vì bịnh dịch, chỉ còn vài con mèo, chúng sống nhờ bắt cá ven bờ biển. Đến nay, ghé vào đảo đó, vẫn thấy đầy mèo. Đảo Ishima ở Nhật có quá nhiều chuột, người ta bèn đem mèo các nơi khác đến bắt chuột, ít lâu sau, chuột hết sạch mà mèo thì đông hơn chuột trước đây, mà lại không có gì ăn, chúng vào bếp ăn vụng, ra chợ rình vồ thịt cá, tha chạy đi, người ta đi chợ, chúng cũng nhảy vô giỏ cướp thịt cá. Bài báo không nói cách giải quyết nạn mão mãn ra sao?

Năm 1902, Walter William, một nha sĩ đến Tahiti hành nghề ở thủ đô Papeete, ông ta chữa răng cho quốc vương Pomare giỏi quá nên quốc vương tặng ông ta một hòn đảo, chỉ có dừa chứ không có người. Đến nơi thì thấy toàn chuột. Ông ta quay về thủ đô Papeete treo bảng mua mèo, được hơn hai trăm con, đem qua đảo cho bắt chuột. Chuột không còn, mà dân số mèo lại tăng lên, nhưng mèo không phá hại như chuột, không đục khoét dừa non và mèo cũng biết ra bờ biển rình bắt cá sống qua ngày. Ngày 2 tháng 9 năm 2009, ở tiểu bang Texas, ông Gil Smith lái xe từ thị xã Gilbert đến thành phố Kearny, trên quãng đường một trăm hai mươi cây số. Ông ta không biết có con mèo của mình đang ôm cứng cái bánh xe dự phòng dưới gầm xe. Nếu nó buông chân, ắt bị xe sau cán chết. Khi đến nơi, nghe mèo kêu, ông ta đem nó ra rồi gọi báo chí, truyền hình đến khoe con mèo khôn ngoan. Ngày 26 tháng 8 năm 2010, bà quả phụ Monika Hoppert, sáu mươi tuổi ở Studthgen, nước Đức, kêu thợ đến thay bồn tắm. Ông thợ đặt bồn tắm mà không biết có con mèo dưới đó. Hàng xóm nghe mèo kêu mà không biết từ đâu, qua hỏi, bà Monika Hoppert bèn cho người dở bồn tắm lên. Con mèo nằm trong đó mấy tuần mà không chết. Trước đây, nó nặng gần sáu kí lô, đem ra chỉ còn một kí sáu. Vậy mà nó sống được ! Năm 2008 cô bé Kirstas Hicks ở Adelaide, Úc châu, đi du lịch với gia đình, nhân tiện ghé thăm ông bà ngoại, cô đem con mèo gửi cho ông bà ngoại (ở cách nhà cô một nghìn sáu trăm cây số). Đi nghỉ hè về thì ông bà ngoại báo con mèo đi đâu mất rồi, tìm không ra. Một năm sau, một buổi sáng, mẹ cô bé Kirstas Hicks thấy một con mèo ốm trơ xương, trụi lông, sút móng, khắp mình đầy vết thương lở loét nằm trước cửa. Thấy tội nghiệp, bà ta đem vào nhà cho ăn. Khi cô bé Kirstas Hicks đi học về thấy thì kêu lên -Con Howie của con đây mà! Thì ra con mèo đã vượt một nghìn sáu trăm cây số, băng qua sa mạc, rừng rậm, sông hồ, chiến đấu với thú dữ để sống còn mà về với cô chủ nhỏ. Ở Việt Nam, trước đây, người ta bảo ăn thịt mèo xui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang), về sau, thịt mèo, thịt rắn được xếp vào đặc sản. Thế nên, ở thôn quê, các tay buôn thu mua rồi chuyển hết mèo với rắn lên thành thị để cung cấp cho các quán nhậu. Không có mèo và rắn bắt chuột nên chuột sinh sôi, nẩy nở đầy đồng, phá hại mùa màng, cũng may, sau đó, lại dấy lên phong trào nhậu chuột đồng, người ta lại đổ xô đi bắt chuột để cung phụng cho mấy ông thần ve chai. Thế là cân bằng sinh thái !

Bây giờ kể chuyện đời xưa về con mèo. Đó là chuyện Linh Miêu Hoán Chúa đời Tống bên Tàu. Chuyện hơi dài dòng, xin kiên nhẫn và cũng xin hiểu rằng. Chuyện đã được tiểu thuyết hóa thành dã sử (Vạn Huê Lầu?) thành tuồng hát, với tình tiết gay cấn, lâm ly và bao giờ kết thúc cũng có hậu. Vị nào trên sáu mươi tuổi ắt đã từng xem sách hoặc xem hát bộ (Bao Công Tra Án Quách Hòe) xem cải lương (Linh Miêu Hoán Chúa) ắt còn nhớ.

Chuyện xảy ra thời Ngũ Đại Tàn Đường, khoảng thế kỷ thứ 10. Lúc bấy giờ, bên Tàu, giặc giả khắp nơi, mỗi người hùng cứ một phương. Có Quách Ngạn Oai, là nguyên soái Phàn Châu, tự xưng làm vua, lập nên nhà Hậu Châu. Ngạn Oai chết, Sài Vinh, xuất thân bán dù, là cháu vợ Ngạn Oai, nối ngôi, hiệu là Châu Thái Tôn. Bấy giờ Triệu Khuôn Dẫn, em kết nghĩa với Sài Vinh, làm chức Kiểm Điểm Sứ, nắm binh quyền. Châu Thái Tôn (Sài Vinh) chết, con là Tông Huấn, mới bảy tuổi lên nối ngôi. Nhân giặc Khiết Đơn quấy phá biên cương, Khuôn Dẫn đem quân tiểu trừ. Khi kéo binh đến Trần Kiều thì các tướng bàn nhau tôn Khuân Dẫn làm vua, truất phế Tông Tuấn. Khuôn Dẫn lập nên nhà Tống. Sử Tàu gọi vụ đảo chánh nầy là Binh Biến Trần Kiều, năm 960. Nhà Tống truyền ngôi mấy đời, đến đời Tống Chơn Tông thì xảy ra vụ án Linh Miêu Hoán Chúa.

Chuyện như thế nầy. Tống Chơn Tông có hoàng hậu họ Lưu, không có con, vua lại yêu thương một quí phi tên là Lý Thần Phi. Khi Tống Chơn Tông xuất chinh đi đánh Khiết Đơn thì Lý Thần Phi có bầu và sinh con trai. Lưu hoàng hậu đến thăm Lý Thần Phi, thấy Lý Thần Phi đang hôn mê, bèn sai thái giám Quách Hòe đem một con mèo thay vào và đưa đứa bé cho cung nữ Thể Vân đem giết đi. Thể Vân đem đứa bé giao cho thái giám Trần Lâm rồi nhảy xuống hồ tự tử. Trần Lâm trao đứa bé cho Lộ Huê Vương là anh em chú bác với Tống Chơn Tông. Lấy lý do Lý Thần Phi sinh quái thai, Lưu hoàng hậu bắt nhốt Lý Thần Phi vào Bích Vân Cung (Tống Chơn Tông đi đánh giặc chưa về), sau đó sai thái giám Quách Hòe đốt Bích Vân Cung, cố ý giết Lý Thần Phi. Âm mưu bị cung nữ Khấu Thừa Ngự biết, bèn báo cho Lý Thần Phi trốn thoát, còn mình giả làm Lý Thần Phi chịu chết cháy. Như vậy, coi như Tống Chơn Tông không có con nối dõi. Khi Tống Chơn Tông chết, triều đình đề nghị cho con Lộ Huê Vương lên nối ngôi, đó là Triệu (?) Trinh (con Lý Thần Phi nhưng không ai biết). Triệu Trinh làm vua tức Tống Nhân Tông. Thời Tống Nhân Tông được xem là cực thịnh của vương triều nhà Tống. Tống Nhân Tông có nhiều nhân tài như Vương An Thạch, Âu Dương Tu, Phạm Trọng Yếm… (Nhân vật tể tướng Vương An Thạch nầy đã làm một việc có liên quan đến Việt Nam thời bấy giờ. Vương An Thạch chủ trương đánh chiếm Việt Nam nên cho dự trữ lương thực, khí giới ở các tỉnh sát biên giới với Việt Nam. Ung Châu là nơi tập trung quân đánh đường bộ vào Việt Nam, Khâm Châu, Liêm Châu là cánh quân đường thủy. Biết được âm mưu của kẻ thù, vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đánh vào các nơi đó, tịch thu và phá hủy tất cả lương thực, khí giới, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng vạn quân địch. Tướng Tàu là Trương Thủ Tiết và Tô Giám bị chém đầu). Đứng đầu bên văn có đại thần Bao Công, bên võ có Tống Địch Thanh. Bao Công tên là Bao Chửng, đậu tiến sĩ đời Tống Thái Tông, làm quan đến chức phủ doãn (đô trưởng) phủ Khai Phong, là kinh đô nhà Tống. Bao Công nổi tiếng là người xét án giỏi và công minh. Đọc truyện Tàu “Thất Hiệp Ngũ Nghĩa kể chuyện về bao Công rất hấp dẫn. Một lần đi phát chẩn cho nạn nhân bão lụt sông Hoàng Hà, đến phủ Đại Danh, Bao Công bị gió thổi bay mất mũ, bèn nghi ngờ có điều gì oan khuất trong thiên hạ đây, nên cho dừng quân, viết trát, sai hai thuộc tướng là Trương Long, Triệu Hổ đi bắt Lạc Mạo Phong (gió thổi bay mũ). Hai tướng lên đường mà không biết đi đâu để bắt Lạc Mạo Phong. Gió lại nổi lên, thổi bay cái trát vào thúng cải của Quách Hải Thọ, là tên bán cải kiếm tiền nuôi mẹ bị mù. Thế là hai tướng bắt Quách Hải Thọ về nộp cho Bao Công. Bao Công thấy bắt người vô tội mới đền tiền và thả về. Quách Hải Thọ mang tiền về lò gạch, là nơi cư ngụ, khoe với mẹ. Người mẹ mù đó chính là Lý Thần Phi và Quách Hải Thọ là con nuôi của bà ta. Nghe rõ sự tình, Lý Thần Phi sai Hải Thọ đến gặp Bao Công và bảo Mẹ tôi truyền ngài đến cho mẹ tôi dạy việc. Bao Công sinh nghi, bèn đích thân đến lò gạch, là nơi cư ngụ của Lý Thần Phi. Bao Công phải chui vào lò gạch còn bị bà già mù dõng dạc. Nếu phải Bao Long Đồ sao chưa quì xuống mà ra mắt ta? Bao Công không biết đó là Lý Thần Phi, nhưng là quan xử án nên phải chịu nhục để tìm cho ra oan khuất của người dân. Bà già mù (Lý Thần Phi) tra hỏi Bao Công đủ điều. Sau khi biết chắc đó là Bao Công, bà ta mới kể lại mọi chuyện. Xác nhận được bà già mù là Lý Thần Phi, Bao Công về triều tâu lại với Tống Nhân Tông (là con của bà Lý Thần Phi, được thái giám Trần Lâm giao cho Lộ Huê Vương làm con nuôi, sau được tôn làm vua). Tống Nhân Tông cho bắt Quách Hòe, tra khảo. Đánh đập đến gần chết, Quách Hòe cũng không chịu khai vì sợ liên lụy đến Lưu thái hậu (trước là Lưu hoàng hậu, chủ mưu). Quách Hòe nói -Có đánh tao chết thì xuống âm phủ, họa may tao mới khai với Diêm Vương. Bao Công bèn thiết trí một nơi âm u, lạnh lẽo, giả làm âm phủ, có diêm vương, có ngưu đầu mã diện, có hồn ma kêu khóc… rồi đánh cho Quách Hòe bất tỉnh và đem đến nơi âm cảnh giả đó. Quách Hòe tỉnh dậy, tưởng mình chết thật, mới khai ra mọi chuyện. Cuối cùng, kẻ ác đền tội, Lý Thần Phi được trời cho sáng mắt, đoàn tụ với con (là vua Tống Nhân Tông), Quách Hải Thọ được phong làm quan nhưng chỉ xin lãnh lương, nằm nhà chứ không chịu đi nhận việc.

Chuyện con mèo của năm Mão đến đây là hết.

Phạm Thành Châu

(chaupham3276@gmail.com)

Hits: 32

Tiếng Anh Ở Mỹ

Truyện vui Phạm Thành Châu

Người đời thường “Tốt khoe, xấu che”, hắn thì xin kể mấy cái dốt của mình để bạn, đọc giải trí. Một thứ dốt tầm thường chứ chẳng văn chương, triết lý gì đáng để hắn làm bộ “Khiêm nhưòng cũng là cách tự cao”. Đó là dốt tiếng Anh của hắn.

Trước khi nói về tiếng Anh ở Mỹ, xin có mấy dòng về tiếng Anh của hắn khi còn ở Việt Nam. Nói đúng ra, cái dốt tiếng Anh của hắn kéo dài từ Việt Nam qua đến Mỹ, cho đến cả chục năm sau, dốt vẫn hoàn dốt! Chuyện nầy vắn tắt thôi, sau đó là những chuyện vui để bạn đọc giết thì giờ.

Sau khi tốt nghiệp trung học, khoảng thập niên 1960, hắn vào Sài Gòn để theo nghiệp đèn sách. Việc đầu tiên của một cậu học trò du học (nội địa) là phải tìm việc làm để sống. Lúc đó, đài phát thanh ra thông cáo. Nha Viễn Thông Bộ Nội Vụ VNCH. tuyển chuyên viên sửa chữa máy viễn thông, sẽ được huấn luyện trong 9 tháng sau đó được học thêm tiếng Anh (6 tháng nữa) để qua Mỹ học về máy truyền tin mới, sẽ viện trợ cho Việt Nam. Các bài học tiếng Anh chuyên môn, nếu dịch ra tiếng Việt cũng ít người biết rõ, như “biến điệu biên độ, biến điệu tần số, chùm tia, cộng hưởng, cảm ứng điện từ…” Sau hai khóa học tiếng Anh về chuyên môn, (trong lúc chờ đợi du học Mỹ), hắn được điều về khu Viễn Thông Biên Hòa để sửa chữa máy viễn thông của các tỉnh thuộc vùng 3 Chiến Thuật VNCH (Biên Hòa, Phước Long, Long Khánh, Bình Long, Hậu Nghĩa…)             Khu Viễn Thông Biên Hòa, là một tòa nhà hai tầng nằm trong thành phố Biên Hòa, gần bờ sông Đồng Nai. Trên lầu là chỗ để máy Teletype và chỗ là việc của một cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng từ Sài gòn lên một buổi rồi đi. Tuy trong khu viễn thông có nhiều chuyên viên nhưng họ là thợ sửa radio ngoài đời tuyển vô, nên chỉ mình hắn biết chút ít về tiếng Anh (về viễn thông) nên hắn thường cùng với các chuyên viên Philippines đi thiết trí trụ antenna, sửa chữa các máy viễn thông trong vùng 3 chiến thuật. Hắn còn phải  làm thông dịch cho mấy cậu Philippines nầy với chính quyền địa phương. Những tưởng với chút vốn tiếng Anh đó, khi qua Mỹ hắn sẽ được dễ dàng phần nào trong giao tiếp với người bản xứ. Không ngờ mấy cậu Philippines nầy nói tiếng Anh theo giọng Spanish, như mấy cậu Mễ ở Mỹ, cứ nhấn mạnh tiếng nào có chữ “r” “năm bờ rờ, pho rờ” (number four) còn thêm tiếng Tagalog (tiếng mẹ đẻ của người Philippine), làm hắn muốn điên cái đầu.

Có một chuyện vui về anh chàng cố vấn Mỹ của nha Viễn Thông, Bộ Nội Vụ. Anh ta thỉnh thoảng từ Sài Gòn lên khu Viễn Thông Biên Hòa, làm việc trên lầu Nhân viên thường lên đó làm việc, đôi khi bình luận vui về anh chàng cố vấn Mỹ nầy, anh ta tỉnh bơ như người điếc nặng. Vậy mà, một buổi chiều thứ sáu, hắn xin quá giang xe anh ta về Sài Gòn. Trên xa lộ, trời mưa mà anh ta lái chạy ào ào. Lúc đó, có một chiếc xe đò Traction đen cứ chàng ràng trước xe khiến anh ta bực mình. Lúc qua mặt, anh ta thò đầu ra chửi thề ông tài xế “ĐM. mầy! Mầy chạy kiểu gì vậy?”. Hắn về nha Viễn Thông kể lại, ai cũng cười bảo “CIA thứ dữ đó! Nghe tiếng Việt tài lắm! Phiden Castro treo giá cái đầu anh ta một triệu Mỹ kim” (nước Cu Ba nghèo, thời giá đó là rất lớn).

Sau hơn hai năm làm việc với toán chuyên viên Philippines, thì có tin, việc đi Mỹ du học bị bãi bỏ. Cả bọn tan hàng, đứa thì vô Hải quân, Không quân, Võ bị Đa Lạt… Hắn thi vào trường Hành Chánh, hành nghề cạo giấy (công chức).

Bây giờ kể qua chuyện miền Nam bị Bắc thuộc năm 1975, hắn đi tù khổ sai hơn sáu năm. Khoảng thập niên 1990, hắn cùng gia đình qua Mỹ theo chương trình HO.

Trong lúc được trợ cấp xã hội, hắn đi kiếm việc làm. Một người bạn (Vũ bá Hoan) giới thiệu hắn đến một văn phòng, gặp người phỏng vấn. Sau vài câu hỏi vớ vẩn về gia đình, tuổi tác… bà người Mỹ hỏi hắn “Có xe đi làm không?” Hắn trả lời “Có!” Rồi bà hỏi tiếp “How about your “mêphs?” Bà ta nói nhanh nên hắn nghĩ đó là chữ “map” (bản đồ. Lái xe thì phải biết đường đi, phải có bản đồ) Nên hắn trả lời “Rất tiếc. Tôi không biết gì về map (bản đồ)!” Bà ta lắc đầu. Hóa ra đó là chữ Maths. (Mathematics, toán) Như thế hắn đã trả lời là không biết gì về toán học! Nếu viết lên giấy thì mọi chuyện sẽ dễ dàng, nhưng họ cần người nghe và trả lời trong công việc. Một lần khác, đến xin việc ở một cây xăng, hắn gặp may. Ông chủ cây xăng hỏi linh tinh vài chuyện. Nghe hắn mới đến Mỹ, ông ta bỏ ra một nắm bạc cắc (coins) gồm quarters, dimes, nickels,  pennies… và bảo “Sắp lại thành mỗi đô la riêng xem sao?” Hắn loay hoay một lúc thì làm được. Từ đó, hắn làm nghề bán xăng (cashier) cho đến khi về hưu.

Ở Mỹ lúc nào cũng có các lớp tiếng Anh ESL (English as a Second Language), học buổi tối, hoàn toàn miễn phí, có bà không chịu học, đi đâu dẫn con theo, nhờ nó thông dịch. Cũng có ông không cho vợ đi học tiếng Anh, đó là những ông già về Việt Nam cưới vợ trẻ, đem qua Mỹ, nhốt trong nhà, sợ sổng ra, nó theo trai! (mà nó theo trai thiệt!). Hắn có ông bạn (P.Đ.Th.), khi còn ở Việt Nam, chuyên dịch những sách tiếng Anh cao cấp như khoa học, kỹ thuật, âm nhạc, kiến trúc… Anh ta còn ra sách “Tiếng Anh Đàm Thoại”, bán đắc như tôm tươi, vậy mà khi qua Mỹ, đi xin việc, anh ta thú nhận với hắn rằng “Con Mỹ phỏng vấn chỉ mới hỏi một câu đầu tiên là tao té ngửa, bò càng. Tao không hiểu gì cả!”. Một ông, lớn tuổi, kể. Ông ta đến trường cộng đồng ghi tên học tiếng Mỹ. Để xếp lớp, học viên phải viết một bài ngắn bằng tiếng Anh, rồi nghe (A, B, C quẹt) cũng bằng tiếng Anh để xem trình độ. Sau đó, mọi người đều có giấy gọi đi học, riêng anh ta thì không. Bèn đến trường hỏi. Nhà trường giải thích rằng. Bài viết bằng tiếng Anh của anh ta quá hay nhưng khi nghe máy thì chẳng trả lời được gì cả. Trường không biết phải xếp anh ta vào lớp học nào? Nghe nói, ông Nguyễn Hiến Lê, nổi tiếng dịch sách Anh, Tây, Tàu. Có một tác giả Mỹ, đến thăm, phải bút đàm, vì nghe không hiểu, nói không được. Một ông khác người gốc Hungary, đã tốt nghiệp đại học về tâm lý và hành nghề trong nước (Hung) rồi. Giữa năm 1970, gia đình được sang Mỹ sống đời tị nạn, ông lấy lại bằng cao học tâm lý và may mắn tìm ngay được việc làm nhưng năm nào người ta cũng buộc ông ta phải theo học mãi mấy lớp (nghe, đọc, nói tiếng Mỹ) nầy từ năm, sáu năm nay rồi, với lý do là ông vẫn nói “sượng” tiếng Mỹ nên bệnh nhân đa số không chịu thổ lộ tâm sự của họ. Trên TV, đôi khi người Ấn Độ nói tiếng Anh phải có phụ đề tiếng Anh, người Mỹ mới hiểu.

Hóa ra, đọc và viết ngoại ngữ là một việc, nghe và nói lại là một việc khác. Nếu (ở quê nhà) học tiếng Anh theo như sách vở mà không đàm thoại, sẽ lâm vào tình trạng sau đây. Khi người đối diện hỏi một câu tiếng Anh. Câu đó sẽ hiện ra trong trí của người nghe, tự giải nghĩa, khi hiểu rồi mới xuất hiện câu trả lời để (đọc) cho người kia biết! Đó là thất bại của người không có dịp thực hành.

Những đứa trẻ Việt Nam, lớn lên ở Mỹ, tiếp xúc thường xuyên với bạn bè người bản xứ ở lớp học, ngoài xã hội, chúng nói y chang dân Mỹ. Chúng nói nhanh, đôi khi cha mẹ không hiểu! Người Mỹ đen, ở Mỹ đã mấy đời, nói tiếng Anh, giọng vẫn khác Mỹ trắng! Nghe radio, giọng Mỹ đen biết liền.

Hắn không có khiếu về nghe và nói. Ngay trong tiếng Việt, hắn viết được chút đỉnh, nhưng khi nói (tiếng Việt) lại không thành câu, ngọng nghịu như người mất lưỡi! Thời trước, có giáo sư Phan Thiện Giới, cũng bị “bịnh” ấy. khi giảng bài thì cứ lắp bắp, nhưng có đọc các bài viết của giáo sư mới biết ông ta rất giỏi. (Hắn không có ý so sánh mình với giáo sư Phan Thiện Giới)

Xin kể vài cái dốt của hắn trong tiếng Anh cho bạn nghe chơi. Một lần, (là cashier) hắn gọi cho một khách hàng, báo tin “Your credit card is expired” Bà khách “What?” liền. Rõ ràng, giấy tờ nào cũng ghi Expired là hết hạn. Hóa ra, chữ đó để chỉ cái chết. Phải dùng expiration date. Một lần khác, hắn gọi đến trường xin phép cho thằng con nghỉ bịnh. Hắn nói “My son is sick” Cô ta “Happy birthday…” Chúc mừng sinh nhật con mầy (six years old)” Đúng ra phải nói get sick (bịnh). Nhiều ông lớn tuổi, thời trẻ, có học Pháp văn. Qua Mỹ, biết được nhiều chữ hơi giống tiếng Pháp rồi đọc thành tiếng Pháp! Kinh nghiệm, trong giao tiếp có câu chào “How are you?” (Ông (bà) mạnh khỏe không?). Một bà Việt Nam, đi làm, người ta hỏi vậy, bà ta bảo rằng có đau đầu hoặc mất ngủ gì đó. Ít lâu sau người ta cho nghỉ việc (bịnh hoài!). Thực ra đó là câu xã giao thôi. Mình có sắp chết cũng chỉ nên trả lời “I am fine. Thank you!”.                                                                          Sau đây là vài chuyện vui về tiếng Anh.

Ở Mỹ, nhiều người (Mỹ) có con được nhà trường gửi về nhà giấy khen học giỏi. Cha mẹ thường dán cản sau xe mình sticker câu “My son is honor student at X. school” Có người (có lẽ con không học giỏi), dán sau xe mình câu “Your son is an honor student, but my son can beat the shit out of your son” (Con ông học giỏi, nhưng con tôi có thể đánh con ông vãi cứt) hoặc “Your kid may be an honor student, but you are still an idiot” (Con ông có thể là học sinh danh dự nhưng ông vẫn là thằng ngu xuẩn). Có người dán ở cản xe câu “My Westie is smarter than your honor student” (Westie, (là tên con mèo, con chó gì đó), thông minh hơn đứa học giỏi của mầy).

Ở Tiệp Khắc, trước một văn phòng du lịch có câu “Take one of our horse driven city tours. We guarantee no miscarriages” (Ý nói, mời khách du lịch thành phố bằng xe ngựa, không bao giờ lỡ xe. Nhưng chữ “miscarriage” là sẩy thai. Chữ lỡ xe là “miss the carriage”). Một khách sạn ở Bắc Kinh có câu tiếng Anh “The manager passed the water” (Quản lý đã đái…) Ý muốn nói “Quản lý xác nhận là nước (sạch) đạt tiêu chuẩn”.

Bây giờ qua chuyện bên Tàu. Người Việt mình nhờ dùng chữ La tinh nên các danh từ riêng (tên người, địa danh…) của Âu Mỹ có thể phiên âm dễ dàng hoặc để nguyên ta vẫn đọc được. Nhưng người Tàu phiên dịch tiếng Anh theo chữ Hán, kiểu Montesquieu, mình đọc theo chữ Nho (Hán-Việt) thành “Mạnh Đức Tư Cưu”, Washington thành “Hoa Thịnh Đốn” rất khó hiểu!

Sau đây mời bạn đọc một bản tin chữ Tàu được chuyển qua  tiếng Việt bằng tiếng Phổ thông. Để bạn thấy được cái rắc rối là tại sao một danh từ riêng của tiếng Tây, tiếng Mỹ lại biến dạng thành tiếng Việt mà khi đọc lên người Âu, Mỹ cũng mù tịt? Và người Việt cứ theo tiếng Tàu mà đọc, qua lối chữ Nôm (?), cũng không biết tên thật Mạnh Đức Tư Cưu hay Hoa Thịnh Đốn gốc tiếng Tây, tiếng Mỹ là gì?

Ví dụ tiếng Mạnh Đức Tư Cư u? Đâu ra?

Nó đây! Montesquieu  孟德斯鳩 Mengdesijiu.                       

Còn Hoa Thịnh Đốn? Có ngay! Washington  華盛頓 Huashengdun.                                 

          Sau đây là một bản tin của chú Ba (tàu), không ghi ngày tháng nào, được chúng tôi sưu tầm, đối chiếu để bạn đọc “Điên Cái Đầu” chơi! (Cám ơn “ông đồ trẻ” Nguyễn Thụy Đan đã giúp đỡ)

Thượng nghị sĩ Ước Hàn Khắc Lý (John Kerry) 約翰克里 Yuehan Keli của tiểu bang Mã Tát Chư Tắc (Massachussetts) 麻薩諸塞 Masazhusei  có thể ra tranh cử tổng thống vào năm 2008. Ông bắt đầu vận động từ tỉnh nhà là Ba Thổ Đốn (Boston) 波士頓 Poshidun. Ông Ước Hàn Khắc Lý học tại đại học Da Lỗ (Yale) 耶魯 Yelu.

Tổng thống Kiều Thị Bố Thập (George Bush), 喬治布什 Qiaozhi Bushi có vợ là Lao Lạp Bố Thập (Laura Bush), 勞拉布什 Laola Bushi, cũng học ở Da Lỗ, và học cao học ở đại học Cáp Phật (Harvard). Ông Bố Thập (Bush) ở tiểu bang Đắc Khắc Tát Tư (Texas), lên làm tổng thống năm 2.000, sau khi ông Khắc Lâm Đốn (Clinton), 克林頓 Kelindun rời chính trường. Ông Bố Thập mất nhiều đồng minh trong cuộc chiến tại Y Lạp Khắc (Iraq) 伊拉克 Yilake.

Thủ tướng Anh, Bố Lai Nhĩ (Blair) 布萊爾 Bulaier, Khắc-lâm-đốn 克林頓 Kelindun cũng không tán thành lập trường của ông Bố Thập, nhất là sau vụ tấn công Phí Lư Kiệt (Falluja) 費盧傑 Feilujie

Tình cờ tôi tìm thấy trên Internet một bản văn của một bác sĩ Việt viết tiếng Việt, hướng dẫn điều trị cho đồng hương, vì sợ họ không rành tiếng Mỹ. Đáng lẽ, chỉ nhờ người nào đó dịch ra tiếng Việt từ tiếng Anh là xong, nhưng anh ta, vì tự tin ở trình độ tiếng Việt (level: Cái book nó té!) của mình, đã tra tự điển và cứ thế mà điền vào.

Mời bạn thử làm thầy bói, đoán xem vị bác sĩ muốn nói gì?

 

Phạm Thành Châu

 

Hits: 110

Nhắc đến những người Hội An

Đỗ Hữu Long

Phố cổ Hội An (ảnh: Pixabay/Tri Le)

Những diễn tiến nghiệt ngã cuả lịch sử dân tộc từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay đã đưa các thế hệ người Hội An phân tán đến những nơi xa lạ. Một số người không thể tiếp xúc với nhau trực diện, nhưng qua phương tiện truyền thông, sử sách hoặc một vài cơ hội hi hữu, họ cũng có dịp tưởng nhớ đến nhau với một số chi tiết liên hệ biểu lộ qua bài viết.

Phóng viên nhiếp nh chiến tranh Việt Nam Lê Minh Thái.

Phóng viên chiến trường Lê Minh Thái tại trận địa An Lộc 1972 (ảnh : AP Photo/Quynh Thai)

Theo bản tin AP ngày 24 tháng 10 năm 2014 cuả Julie Watson, Ông  Lê Minh Thái, một phóng viên nhiếp ảnh chiến tranh Việt Nam đã từ trần ngày 10/10/2014 tại một nhà dưỡng lão ở Encinitas, tiểu bang California- hưởng thọ 93 tuổi sau bảy năm lưu trú tại đây.

Theo lời kể cuả những người thân thuộc, ông Thái là trưởng nam cuả một gia đình thương nghiệp tại thành phố cổ Hội An, Việt Nam. Ông trở thành một nhân viên cuả giới truyền thông Sài gòn khi làm việc với Associated Press vào thập niên 1950 và sau đó cộng tác với tạp chí Life Time trong suốt cuộc chiến Việt Nam.

Ông cũng liên hệ chặt chẽ với Chính Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng như tận tình giúp đở các phóng viên ngoại quốc di chuyển khắp lảnh thổ miền Nam Việt Nam. Ông cũng là nhiếp ảnh viên đặc biệt cuả Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và đã được Tổng Thống yêu cầu chụp những tấm hình chân dung chính thức. Ông cũng xông xáo săn hình trong những căng thẳng bùng nổ giữa Sài Gòn gồm những cuộc biểu tình cuả sư sải và sinh viên trong lúc chiến tranh leo thang.

Năm 1963 ông giúp tuần báo Time mở văn phòng tại Sài Gòn. Người Mỹ thường đến tiệm ảnh cuả ông ở Sài Gòn để chụp hình gởi về gia đình. Ông cũng mời quân nhân Mỹ đến nghỉ ngơi tại nhà hoặc đưa đi dạo phố.

Mở đầu sự nghiệp, ông cung cấp tin tức cho tuần báo Pháp Paris Match. Ông cũng có mặt tại chiến trường Điện Biên Phủ, và tiếp theo là phóng viên tại Geneve cung cấp tin tức thoả hiệp hoà bình chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Ông Thái và gia đình đi Mỹ ngày 23 tháng 4 năm 1975 sau nhiều tháng làm việc giúp đở nhân viên Time Life di tản. Ông định cư tại Los Angeles, tiếp tục làm việc cho báo Times đồng thời mở một tiệm chụp hình dành cho khách Việt Nam làm thủ tục cư trú. Ông chấm dứt làm việc với báo Time năm 1984 nhưng vẫn tiếp tục hành nghề chụp hình khi về hưu.

Vào tuổi thanh niên, ông Thái rời Việt Nam để theo học quân sự tại Học Viện Quân Sự Côn Minh (Kunming Military Academy) miền Nam Trung Hoa. Trong cuộc chiến Hoa-Nhật, Ông gia nhập hàng ngủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng trong cương vị một sĩ quan tình báo có nhiệm vụ nhận diện những cãm tình viên thân Nhật Bản. Ông bị trúng một viên đạn bên cạnh sườn và mang trong người suốt đời. Ông chấm dứt liên lạc với Trung Hoa Dân Quốc khi Pháp tái lập kiễm soát Việt Nam sau Thế chiến II. Ông Thái làm giáo viên tại Hội An một thời gian và di chuyển sang Lào với vợ, mở trường học, làm nhiếp ảnh viên cho hoàng gia Lào truớc khi trở lại Việt Nam năm 1953.

Ông sống với vợ -bà Ying- sáu con và sáu người cháu tại Carlsbad, tiểu bang Cali.

Ông Thái hưởng thọ 93 tuổi, suy ra ông sinh năm 1921, như vậy trong khúc quanh lịch sử năm 1945, ông đang độ thanh xuân 24 tuổi. Tiểu sử cuả ông Thái làm người dân phố Hội nhớ đến nhạc sĩ tài hoa La Hối, tác giả bản nhạc bất hủ Xuân và Tuổi Trẻ.

Nhạc sĩ La Hối.

Nhạc sĩ La Hối (nguồn: Internet)

Nhạc sĩ La Hối là một thành viên trong tổ chức cuả cư dân Hội An gốc Hoa chống Nhật, bị hiến binh Nhật bắt tháng 5 năm 1945, tra khảo và bắn chết với mười đồng chí, chôn chung một huyệt mộ tại chân núi Phước Tường lúc 25 tuổi. Sau khi Nhật đầu hàng, di hài cuả nhạc sĩ và các tử sĩ được thanh thiếu niên Hoa kiều ở Hội An tổ chức nghi lễ trang trọng đưa về an táng tại nghiã trang đối diên với chuà Chúc Thánh.  Thời thiếu niên, chúng tôi có dịp nhìn ngắm hình hoạ chân dung nhạc sĩ La Hối và các liệt sĩ trưng bày trong sảnh đường cánh phải chuà Ngũ Bang đường Cường Để.

Như vậy có thể nghĩ rằng ông Lê Minh Thái là người cùng một đoàn thể với nhạc sĩ La Hối, nhưng đuợc cấp trên điều động đi học quân sự và tình báo tại Học Viên Quân Sự Côn Minh nên tránh thoát cuộc tàn sát cuả quân phiệt Nhật.

Việc theo học các trường quân sự tại Trung Hoa Dân Quốc vẫn là những cơ hội hiếm hoi dành cho một vài cá nhân thuộc những lực lượng cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa hoặc họat động tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Ông Thái được đưa đi từ Hội An đến thủ phủ Vân Nam, quả là một sự chiếu cố đăc biệt cuả Trung Hoa Quốc Dân Đảng đối với một gia đình uy tín và hữu công.

Cư dân thành phố Hội An từ thời Pháp thuộc đến năm 1954 có một sắc thái đặc biệt với đa số người gốc Minh Hương. Vào thời chúng tôi, bạn học người Minh Hương nhiều lắm, họ chỉ biết tiếng Việt và học chữ Việt, nhưng vào thế hệ qúi ông La Hối, Lê Minh Thái (1920) văn tự và ngôn ngữ chắc hẵn phải nghiêng về Hán văn, Pháp văn, Hoa ngữ, Pháp ngữ. Ngay như bản nhạc Xuân và Tuổi Trẻ, phần lời ca lúc ban đầu do nghệ sĩ Diệp Tuyền Hoa viết bằng chữ Hán. Năm 1946, khi nhà văn Thế Lữ đưa đoàn kịch nói Anh Vũ xuôi Nam, đến Hội An trình diễn, cảm khái cuộc đời cuả tác giả và giai điệu cuả bản nhạc nên xin phép soạn lời ca bằng tiếng Việt, lưu truyền đến ngày nay.

Từ những sự kiện kể trên, có vài người nghĩ rằng ông Lê Minh Thái mang một họ nào khác. Đọc chính sử và dã sử Trung Hoa, người ta hiếm thấy nhân vật họ Lê trong khi họ Lê rất phổ biến trong sách vở Việt Nam, phát tích từ những nơi sơn dã thuần Việt, cổ Việt như Ninh Bình, Lam Sơn. Trước Hiệp Định Geneve, Hội An có nhiều cửa hàng trưng bày đẹp mắt, nhưng muốn tìm mua những vật dụng kim khí như đinh, ốc, kềm, buá… phải ghé tiệm La Thiên Hoà. Cụ La Thiên Hoà cũng là một cội nguồn cuả một tôn tộc, con cháu nội ngoại đông đảo và thành đạt.

Hồi chánh viên hữu công La Thanh Đồng.CHƯƠNG TRÌNH CHIÊU HỒI CỦA VNCH – biển xưa

Anh La Thanh Đồng là trung úy bộ binh công sản Bắc Việt gốc người Hội An, Quảng Nam. Theo tài liệu The Chieu Hoi Program of Viet Nam cuả SGM Herbert A. Friedman, anh Đồng hồi chánh ngày 20 tháng Giêng năm 1968 với thủy quân lục chiến Mỹ tại căn cứ Khe Sanh.

Trận chiến Khe Sanh khai hoả ngày 21 tháng Giêng năm 1968, truớc tổng công kích Tết Mậu Thân chín ngày, đựợc nhiều tài liệu và nhiều tác giả nhắc đến với đầy đủ chi tiết.

Một chiến dịch oanh tạc khổng lồ bằng không quân yễm trợ cho thủy quân lục chiến cố thủ Khe sanh. Kể đến giữa tháng Tư, hơn 100.000 tấn bom -tương đương với sức tàn phá cuả năm quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima- do phi cơ của không quân, hải quân, thủy quân lục chiến ném xuống xung quanh căn cứ. Tính ra, mỗi ngày có 1.300 tấn bom được xử dụng hay là 5 tấn cho mỗi đầu người cộng quân Bắc Việt với tổng số ước lượng khoảng 20.000 cán binh tham chiến. Ngoài ra, 158.000 đạn đại pháo cũng được bắn vào những khu đồi núi trong khu vực, bình quân mỗi cán binh cộng sản nhận lảnh 8 quả đạn.

Âm thanh cuả trận đánh Khe Sanh vang dội đến Toà Bạch Ốc, các đô thị lớn cuả Mỹ và khắp nơi trên thế giới. Tổng Thống Johnson ra lệnh phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá. Tuớng Westmoreland cũng nhắc đến vũ khí nguyên tử (Nguyên văn: In late January, General Westmoreland had warned that if the situation near the DMZ and at Khe Sanh worsened drastically, nuclear or chemical weapons might have to be used)

Hồi chánh viên La Thanh Đồng cung cấp kế hoạch hành quân tổng quát cuả cộng quân Bắc Việt và tiến trình cuả trận đánh. Anh trình bày rõ mưu toan cộng quân tiến chiếm Đồi 861 và Đồi 881S để mở đầu cuộc tấn công chính thức nhắm vào trận điạ Khe Sanh. Trong cuộc giáp chiến, cộng quân sẽ đuợc yễm trợ bằng pháo binh hạng nặng đã được che chắn kỹ lưỡng trong dảy núi Co Roc thuộc lãnh thổ Lào. Kể từ khi Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam, Khe Sanh là nỗ lực quan trọng nhất do tướng Giáp chỉ huy. Chiến thắng cuả thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh có thể là phần đóng góp tin tức từ người hồi chánh qúi báu nầy.  (Nguyên văn: The Marine’s victory at Khe Sanh can be attributed in part to the information gained from this valuable Chiêu Hồi).

Sau đó, anh La Thanh Đồng được Bộ Chiêu Hồi tuyển dụng làm đại đội trưởng võ trang tuyên truyền, trú đóng tại trung tâm chiêu hồi Cần Thơ. Anh Đồng là một nguồn tin sống vô giá, cũng là ân nhân cuả người Mỹ vì vậy thỉnh thoảng vẫn có những người Mỹ đến thăm viếng, phối kiểm tin tức, tặng quà.

Vốn là người Quảng Nam, nhỏ con, chơn chất, sinh hoạt và làm việc giữa những đồng đội hồi chánh viên thuộc các đơn vị cộng sản điạ phương miền đồng bằng sông Cữu, anh Đồng cảm thấy khó khăn, cô đơn, anh ngỏ ý muốn được thuyên chuyển về trung ương hoặc một điạ phương thích hợp. Một viên chức hành chánh cuả Bộ Chiêu Hồi phụ trách Quân Khu IV ghi nhận nguyện vọng cuả anh và tìm cơ hội gíup đở. Tuy nhiên sự thay đổi nhiệm sở đến Quân Khu II, Nha Trang đã xảy ra và lời hứa với người đồng hương không thực hiện được vẫn là mối ám ảnh khó quên.

Sự rút quân và cắt viện trợ cuả Hoa Kỳ kéo theo sự sụp đổ cuả Việt Nam Cộng Hoà tạo ra nổi thất vọng, đau đớn khôn nguôi đối với quân dân cán chính Miền Nam. Riêng đối với các hồi chánh viên đã tích cực đóng góp tin tức, tham gia các cuộc hành quân tiểu trừ cộng sản, cảm thấy tuyệt vọng và phẫn uất cùng cực vì họ là những đối tượng bị Mafia cộng sản xem là phản đảng và bị trả thù tàn bạo nhất.

           ******

Hội An, một thành phố đa văn hoá gồm các màu sắc Việt, Hoa, Nhật (Chuà Cầu), Pháp (nhà thờ Công Giáo). Cho đến 1955, người Việt gốc Hoa giữ ưu thế về sở hữu bất động sản và các hoạt động thương mại. Tiêp theo, khi chính quyền Việt Nam Cộng Hoà được thiết lập vững vàng với Quốc Hội và Hiến Pháp, cuộc sống tại các đô thị phát triển nhanh chóng, lôi cuốn đông đảo cư dân các quận xa, gần đến sinh cơ lập nghiệp, trong khi môt số thanh thiếu niên gốc rễ Hội An, Đà Nẵng có dịp hướng vào Sàigòn và các tỉnh, thị miền Nam. Tuy đua chen trong khung cảnh mới lạ, năng động và hấp dẫn, một số người vẫn giữ những quyến luyến, những lưu niệm từ khi mới lớn đến lúc ra đi.

Nhắc lại Hội An với những cá nhân đặc biệt là tâm trạng “hoài hương” cuả một người luống tuổi chưa có dịp trở lại thăm bà con, mồ mã, bạn bè, “cảnh cũ người xưa” cuả quê hương xứ Quảng kể từ 1990, khi chuẩn bị tham gia chương trình H.O. tị nạn cộng sản.

Đỗ Hữu Long

 

Hits: 135

Cọp Nam Bộ

Phạm Thành Châu

            Báo Xuân tiếng Việt có “Truyền thống” là năm “cầm tinh” con vật nào thì có một bài nghiên cứu về con vật đó. Ở hải ngoại, tôi thường viết cho các báo Xuân về các con vật của năm. Khi có nhiều báo xin bài thì phải có nhiều bài khác nhau, tuy chỉ nói về một con vật duy nhất của năm đó, nên rất mất công truy tìm tài liệu. Hiện nay (2022) đa số Báo Giấy “Sống qua ngày, chờ qua đời” vì người ta có Internet, mở ra là biết ngay tin tức đang xảy ra trên thế giới. Vì thế, báo chí chẳng còn bao nhiêu, việc viết cho báo cũng đã đơn giản. Nhưng dù sao cũng phải viết cẩn thận!

            Trước khi vào bài “Nghiên cứu” về con Cọp, có một chuyện không xưa lắm, cách nay gần 70 năm, có liên quan đến “Con cọp”. Đó là Phong trào Cải Cách Ruộng Đất của Việt Minh cộng sản năm 1953 – 1956. Chuyện kể rằng: Trong thời kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn thị Năm, còn gọi là bà Cát Hanh Long, là chủ đồn điền ở Thái Nguyên, giàu có, từng ủng hộ Việt Minh 20. 000 đồng bạc Đông Dương (tương đương 700 lượng vàng) cùng với 100 lượng vàng, nuôi cả trung đoàn Việt Minh, nuôi “ăn dầm nằm dề” trong nhà, các “đồng chí” chủ chốt: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Nguyễng chí Thanh… Vậy mà trong Cải Cách Ruộng Đất, bà Nguyễn thị Năm là người đầu tiên trong số 172.008 nạn nhân bị giết chết. Trong hồi ký “Làm người là khó”, Đoàn duy Thành (phó thủ tướng 1982 – 1990) kể . Khi chuẩn bị đưa bà Nguyễn thị Năm ra đấu tố, Hồ chí Minh nói “Chẳng lẽ mở đầu Cải Cách Ruộng Đất lại bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?” Cán bộ thừa hành báo cáo là có hỏi cố vấn Trung quốc và được bảo rằng “Hổ đực hay hổ cái đều ăn thịt người cả!” Thế là bà Nguyễn thị Năm “được” xử tử và “Bác” đổ tội cho con hổ!

            Đảng Cộng Sản có biệt tài là giết dân mình. Cộng sản Nga giết dân Nga, Cộng Tàu giết dân Tàu, Cộng sản Việt Nam giết dân Việt, Cộng sản Combuchia giết dân Miên. Chưa đến 100 năm mà Cộng sản trên thế giới đã giết hơn 100 triệu người.

            Trở lại chuyện Con Hổ.

 Hổ là chữ Hán, cọp là chữ Nôm. Xin được dùng chữ “Cọp” trong bài cho dễ đọc.

            Ông Ba Mươi, ông hùm, ông kễnh là tên gọi con cọp nhưng vì quá sợ “ngài” (sợ như sợ cọp) nên người ta nói tránh ra như vậy. Cũng có tích về tên gọi “ông ba mươi” rằng, ngày xưa, miền Trung và miền Nam rất nhiều cọp, chúng thường vào xóm bắt gia súc, hoặc rình vồ người đi trong rừng, vì thế quan trên treo giải thưởng, ai giết được cọp thì được ba mươi quan tiền nhưng cũng đánh ba mươi hèo (tượng trưng) để hồn “ngài cọp” không còn giận kẻ đã giết mình. Cũng có giả thiết rằng. Thời “Gia Long tẩu quốc”, bị quân Tây Sơn đuổi bắt, chạy vô rừng trốn, không có gì ăn, binh tướng tưởng chừng chết đói, may sao có con hổ, thỉnh thoảng tha đến một con vật săn được như nai, chồn, heo… Nhờ vậy mà Gia Long và binh tướng mới sống qua ngày để tìm đường thoát khỏi vòng vây. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long ra lệnh, nơi nào có cọp thì phải làm miếu thờ, ai giết được cọp được thưởng nhưng cũng bị đánh ba mươi hèo để lấy lòng vong linh “Ông Cọp”.

            Khoảng thế kỷ 17, 18 từ miền trung Việt Nam trở vào đều là rừng rậm hoang vu, thú rừng đầy dẫy, người Việt đi khai phá bị thú dữ như cọp beo, rắn rết sát hại rất nhiều. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có ghi: “Giữa ngày tết năm 1771, cọp từ rừng Sác, phía Cần Giuộc, từng bầy kéo về chợ Tân Kiểng, trên đường vào Chợ Lớn, làm dân chúng kinh hoàng…” Nghĩa là đồng bào ở quận tư, quận bảy bây giờ đứng bên nầy nhìn qua bên kia sông thấy cọp đi ngờ ngờ, hỏi sao không sợ! Nghe nói trò chơi “Bầu Cua Cá Cọp” do người Tàu phổ biến. Trên miếng giấy vẽ hình các con thú bầu, cua, cá, cọp… để người chơi đặt tiền. Không ai dám đặt tiền vào hình con cọp, sợ thất lễ với “ngài”, nên người ta bỏ hình con cọp mà thay vào bằng hình con nai. Đình miếu nào cũng có bình phong vẽ hoặc đắp nổi (phù điêu) hình cọp để thờ “ngài”, và họ tin rằng, cọp thật đến, thấy “chúa sơn lâm” trên bình phong là biết “đất đã có chủ”. Cọp đánh dấu lãnh thổ mình bằng nước tiểu. Muốn giành lãnh thổ (vùng săn mồi) cọp phải tấn công đối phương. Trước khi xông vào phải nhe nanh múa vuốt, gầm gừ ra oai, nhưng đối phương (trên bình phong) vẫn bình tỉnh, không hoảng sợ, mà (tấn công) phóng vào bình phong thì là đập đầu vô đá, vậy là cọp thật rút lui. Ở chân núi, lối vào rừng, ngày xưa người ta lập “miếu ông cọp” để dân sơn tràng (đi rừng) vào thắp nhang, xin phép sơn thần thổ địa và ông cọp vào núi tìm mật ong, đốn cây, săn bắn, tìm trầm. Đôi khi người ta để ở đấy một con thú nhỏ để ông cọp đến ăn no thì chỉ tìm chỗ ngủ, không bắt người. Ở Ấn Độ, vùng Băng Gan (Bengal), nổi tiếng về cọp dữ. Người dân vào rừng thường mang mặt nạ về phía sau đầu, nhìn tưởng người đi thụt lùi. Họ tin rằng, cọp chỉ vồ từ đằng sau con mồi nên thấy mặt người, cọp theo mãi, vẫn thấy con mồi nhìn mình nên bỏ đi. Người thượng cao nguyên Việt Nam vẫn có tục vác chà gạt trên vai, mũi nhọn hướng về phía sau, cọp biết nếu vồ con mồi sẽ bị đầu nhọn chà gạt đâm nên không dám tấn công. Cọp săn mồi bằng cách bò thật sát đến từ phía sau con mồi. Khi khoảng cách còn độ năm mét, cọp chạy đến thật nhanh và phóng lên lưng con mồi, cắn vào gáy, ôm ghịt con mồi, chờ đến khi con mồi vùng vẫy và đuối sức ngã xuống mới cắn vào cổ họng cho con mồi nghẹt thở chết. Cọp ăn no, tìm chỗ ngủ, không đi đâu nữa.

            Châu Phi không có cọp mà chỉ có sư tử và beo (báo). Châu Á cũng có sư tử, nhưng là “sư tử Hà Đông” để chỉ các bà (người) vợ dữ dằn hay ăn hiếp chồng, ghen tương bậy bạ.

            Vào các thế kỷ trước, có đến hàng trăm nghìn cọp Châu Á. Hiện nay chỉ còn khoảng năm nghìn (5000) cọp mà đến ba nghìn (3000) đang cư trú trong các sở thú. Việt Nam ta hiện còn khoảng ba trăm (300) cọp, kể cả cọp được người nuôi. Cọp ở rừng thọ độ ba mươi tuổi, cọp nuôi, sống được hai mươi lăm năm. Cọp trưởng thành nặng nhất độ ba trăm kí lô. Dân số cọp giảm vì môi trường sinh sống bị thâu hẹp (phá rừng trồng trọt, xây cất), nguy hại nhất là bị người ta săn bắn để bán cho mấy chú ba Tàu lấy xương nấu cao. Một con cọp lớn cho mười lăm kí xương, theo thời giá cách đây mười năm, (2012) bán được hai chục nghìn đô la Mỹ. Một bộ da cọp bán được mười lăm nghìn đô la. Hiện nay giá cao gấp đôi. Cao hổ cốt không phải nấu toàn bằng xương cọp mà thêm vào xương khỉ, xương nai, xương dê núi (sơn dương) cho đủ bộ gọi là “quân thần tá sứ”. Khi có được một miếng cao hổ cốt thì ra tiệm thuốc bắc bổ một thang (thiên niên kiện, địa tiên… chủ tiệm thuốc rất rành chuyện nầy) đem về ngâm rượu. Chờ thuốc ngấm, tối, trước khi đi ngủ, làm một ly nhỏ (xây chừng), sáng hôm sau khỏe người, không còn đau lưng, nhức xương nữa. Người đau yếu thì cho độ mười gam cao hổ cốt vào bụng gà ác (gà ri, gà da đen) hay bồ câu non, chưng cách thủy. Khi gà rục, đem ra ăn. Người bịnh nặng không ăn được thì uống nước cũng rất “bổ dương?!”.

            Báo Hà Nội đăng tin, ngày 17 tháng 10 năm 2021 vừa rồi, công an chận bắt một xe taxi chở hai con cọp đông lạnh. Một con nặng 90 kí lô, con kia 40 kí lô. Người bị bắt khai đã mua cọp ở Thanh Hóa, định đem vào Hà Nội bán. Báo Tuổi Trẻ cho biết, một kí lô xương cọp có thể bán với giá 50 triệu đồng (hơn 2.000 USD). Một lạng ta cao hổ cốt có giá từ 20 đến 25 triệu đồng, tương đương với vàng! Săn được một con cọp, đem bán, đủ sức xây nhà lầu.

            Hiệu quả của cao hổ cốt thì không chắc lắm, nhưng thời xưa, bên Tàu, chỉ hoàng đế, các đại thần, đại gia mới đủ tư cách (có tiền) dùng cao hổ cốt. Có thể đó là một thứ Viagra thời nay vậy thôi. Uống vô thì hăng hái chuyện nam nữ, nhưng sau đó “hết xíu oách”. Mấy ông hoàng đế Tàu chết sớm (thường ở tuổi bốn mươi), vì tam cung lục viện có đến mấy nghìn người đẹp, đêm nào cũng “lâm hạnh” (làm chuyện đó) vài ba em, chưa đủ vòng thì “hoàng đế băng hà!”. Nhiều ông vua “tiếc của trời”, chết rồi còn bắt phải chôn sống cung nữ theo với ông ta, để ngài ngự xuống âm phủ còn có người đẹp mà “lâm hạnh” tiếp.

            Vì xương cọp ngày càng hiếm nên người ta nấu cao khỉ, nai, dê giả là cao hổ cốt. Có người nấu xương sư tử (cao sư cốt?) cũng đắc giá lắm vì bảo rằng sư tử mạnh hơn cọp. Báo đăng, có một ông Việt Nam qua Châu Phi mua xương sư tử nấu “Cao sư cốt”. Không rõ ông ta kinh doanh ngành nầy được bao lâu, nhưng có lần vì tích trữ xương trong nhà thối quá, bay mùi qua hàng xóm, vậy là cảnh sát đến. Ngoài một mớ xương sư tử hôi thối cảnh sát còn tìm thấy rất nhiều sừng tê giác và đô la.

            Người miền Nam sinh con trai đầu lòng không gọi là con cả mà gọi thứ hai (thằng hai, anh hai, chú hai…) vì kiêng chức vụ hương cả trong làng. Lại có chuyện kể rằng. Ở làng Châu Bình, tỉnh Bến Tre, lúc làng vừa thành lập, những người được bầu làm hương cả đều bị cọp vồ. Dân làng bèn cử cọp chúa trong vùng làm hương cả. Một buổi lễ được tổ chức ngoài bìa làng. Một tờ cử (nhiệm vụ lịnh) được viết trên giấy hồng điều, bỏ vô ống tre. Một đầu heo làm lễ vật. Chức sắc trong làng cùng dân chúng tề tựu ở đó, long trọng mời cọp chúa làm “đại hương cả”. Đêm đó, cọp đến ăn đầu heo và tha tờ cử (làm đại hương cả) đi. Năm sau, chức sắc và dân làng lại tổ chức lễ tấn phong (renew) chức đại hương cả cho cọp chúa. Cũng đầu heo và tờ cử mới đặt ở đấy. Tối đến, cọp ra ăn đầu heo, bỏ tờ cử năm ngoái (đã tha đi), cắp tờ cử mới đi. Cứ thế. Thời xưa, người Việt vào miền Nam khai hoang, thú dữ đầy rừng, phải chống trả, đề phòng để tự vệ. từ đó phát sinh những chuyện truyền khẩu trong dân gian. Người ta còn tin rằng, người nào bị cọp ăn thịt thì hồn không siêu thoát mà phải theo hầu con cọp đó (gọi là hổ trành). Hổ trành thường xúi thân nhân ra nộp mạng cho cọp để thế chỗ cho hồn cũ đi đầu thai kiếp khác. Trong tác phẩm “Thần Hổ” của tác giả Tchya (Đái Đức Tuấn?) có kể chuyện hổ trành, lúc nhỏ, tôi đọc, vừa sợ vừa thích.

            Dân miền Nam thường nói “Coi hát cọp”, là coi hát không phải mua vé vào cửa. Có sự tích như sau. Thời trước, dân mình đi khai phá miền nam rất gian khổ. Đất còn đầy phèn, trồng cây gì cũng chết, lại thêm cọp, cá sấu, rắn rết dẫy đầy “U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường. Dưới sông cá lội, trên rừng cọp đua”. Đời sống khó khăn vất vả, bịnh hoạn không thuốc men “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh”, cả đời chỉ lo miếng ăn, chẳng biết thành thị là gì, giải trí là gì! Đến thời thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, dân chúng vùng lên chống ngoại xâm. Những người yêu nước chống Pháp (làm quốc sự) bị truy nã, thường trốn về vùng U Minh, Cà Mau sống lẫn lộn với dân chúng. Họ họp nhau lập gánh hát bội, đi thuyền lang thang, nơi nầy hát vài hôm, nơi khác năm bảy hôm để đồng bào xem. Ai hảo tâm thì cho ít gạo, cá, sống qua ngày chứ không bán vé vô cửa. Để khỏi bị “hùm tha, sấu gắp”, dân làng dựng sân khấu giữa sông, theo kiểu nhà sàn, cột bằng cừ tràm, lợp lá dừa nước. Xung quanh lại đóng cừ như hàng rào dưới nước để sấu không thể vào rình mồi được. Người xem bơi thuyền đến, ngồi trên thuyền xem hát cho an toàn. Vậy mà trên bờ, cọp tụ lại cả bầy, cùng nằm xem hát bội với bà con. Khi gánh hát dọn đi, thỉnh thoảng qua đấy, người ta vẫn còn thấy lũ cọp nằm cú rũ, như chờ gánh hát quay lại, diễn cho chúng xem. Như vậy “coi hát cọp” để chỉ người chuyên coi hát chui, không mua vé.

            Sau đây là chuyện “Cọp Côn Đảo”. Thời Pháp thuộc, tù Côn Đảo vượt ngục nhiều quá. Thực dân Pháp mới nẩy ra sáng kiến, chở ba con cọp ra Côn Đảo, tập họp tù, cho xem để tù sợ không dám trốn trại, rồi thả cọp vào rừng (trên đảo), để cọp bắt thú rừng, rắn rết, chuột bọ và tù (vượt ngục) để ăn. Bọn chủ ngục không biết rằng, khi tù vào làm trong rừng (đốn củi, đục đá cho trại) thấy “con gì cục cựa, trừ con bù lon” là bắt ăn sạch, vì đói quá. Tù đi làm chẳng dại gì đi lẻ tẻ để bị “cọp chụp” (vồ). Thế nên cọp chẳng có gì bỏ bụng, đói meo, đi không nổi, thấy người là lủi chỗ khác. Tù thấy cọp cũng bỏ chạy, nhưng sau, biết cọp đói nên vây lại, đập chết ăn thịt. Thịt được hai con thì cai tù biết, bèn cắt một người tù, mỗi ngày gánh cơm ra bờ biển, đổ ra đấy cho cọp đến ăn. Nhưng ăn cơm thiếu “chất đạm”, chẳng bổ béo gì, nên cọp tự “cải thiện” bằng cách mò cua, bắt ốc sống qua ngày. Không ngờ một hôm, cọp gặp một con ốc tai tượng (loại ốc dính vào đá) rất lớn đang há miệng chờ mồi (tảo). Cọp thấy thịt ốc ngon quá, bèn thò chân moi thịt ốc. Ốc đóng nắp lại, cọp kẹt chân trong đó. Loại ốc nầy, vỏ kết cứng vô đá, cọp rút chân ra không được. Thủy triều lên, cọp chết ngộp.

            Để chấm dứt bài nầy, tôi xin kể vài chuyện về cọp. Ở Mỹ có ông da đen, không phải dân Châu Phi mà lai Căm Bu Chia. Anh ta là vô địch đánh góp (golf). Ở đâu treo giải đánh góp là anh ta đến thi đấu và bợ tiền thưởng với cúp về. Hiện nay anh ta là triệu phú. Nhà chất đầy cúp đánh góp. Anh ta tên Tiger Woods (Rừng Hổ? Hổ Rừng?). Việt Nam ta, xưa kia cũng có ông Lê Như Hổ, nổi tiếng ăn nhiều và đánh giặc giỏi. Cụ Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ kháng chiến chống Pháp được mệnh danh là Hùm Yên Thế.

            Người mình thường tin vào số mệnh, nên mới có chuyện kể rằng. Một cậu được thầy bói phán rằng, ngày đó, tháng đó sẽ bị chết vì cọp. Cậu ta sợ lắm, không đi sở thú, biết ai tên Hổ, tên Cọp thì tránh xa. Còn vài hôm là hết “hạn tai ương”, cậu ta mừng lắm, đến nhà bạn chơi, thấy trên tường có treo bức tranh con cọp, bèn đập tay vào mặt cọp và nói “Mầy chẳng làm gì được tao!” không ngờ trên bức tranh, bà chủ nhà may vá gì đó, tiện tay, gắn cây kim may lên bức tranh, cậu ta đập ta vào cây kim. Hôm sau, bị nhiễm trùng phong đòn gánh, chết.

            Hiện nay, người ta chỉ xem tranh mới biết con cọp ra sao chứ ít khi thấy tận mắt con cọp thực, vậy mà cũng có người chết vì bị cọp vồ. Vừa rồi, báo đăng, có hai công nhân trồng cây bên chuồng thú Đại Nam, tỉnh Bình Dương, một con cọp sổng chuồng vồ chết một ông, ông kia nhanh chân nhảy xuống nước thoát chết.

            Thêm vài chuyện vui về cọp. Một ông rất sợ vợ và bà vợ rất dữ. Bữa nọ, nhân vợ đi đâu đó, bèn mời bạn bè đến nhà nhậu chơi. Rượu vào lời ra, ông ta phét lác “Các ông sợ vợ chứ tôi tôi thì không. Vợ tôi hỗn hào là tôi trị trắng máu. Tôi dữ như cọp, vợ tôi sợ tôi lắm. Tôi gầm lên là vợ tôi xanh mặt” Không ngờ bà vợ về, đứng sau lưng, mấy ông bạn nhậu ra dấu, ông ta quay nhìn, thấy vợ thì run cầm cập. Bà vợ nhẹ nhàng hỏi “Ông là con cọp. Dữ lắm hả? Tôi sợ ông khiếp vía hả?” Ông ta nhanh trí đáp “Dạ phải. Tôi là con cọp, nhưng bà là Võ Tòng” (chuyện Tàu, có Võ Tòng, tay không đánh chết cọp).

            Một ông thất nghiệp, vào sở thú xin việc. Ông giám đốc nói “Sở thú tôi có con giả nhân, làm trò hay lắm. Nhờ nó mà khách đến xem rất đông. Chẳng may, nó vừa chết, chúng tôi lột da để dành. Anh có thể mang lốt con dã nhân đó, vào chuồng làm trò cho khách xem được không? Tôi trả lương gấp đôi công nhân ở đây”            Anh ta đồng ý, mang lốt giả nhân vào chuồng làm trò, thiên hạ không biết, vỗ tay hoan hô ầm ỷ. Hứng chí, anh ta nhảy nhót, đánh đu đủ trò. Không ngờ đánh đu cách nào lại văng qua chuồng cọp (hổ), nằm một đống. Con cọp gầm gừ, nhe nanh, múa vuốt xông đến, há miệng cắn con giả nhân (giả). Anh chàng làm giả nhân than một câu “Than ôi, Số ta chết vì miệng cọp!” và nhắm mắt chờ chết. Con cọp ghé sát tai anh ta thì thầm “Anh mới vào làm đây phải không? Tôi làm cọp ở đây hơn nửa năm rồi”.

            Chuyện cọp đến đây là hết. Sang năm tôi sẽ kể chuyện mèo (năm Mão) cho quí vị nghe.

Phạm Thành Châu

Hits: 201

Mưu Sinh Ở Mỹ và Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Đây là chuyện kể của mấy ông bà già người Việt ở Mỹ. Già rồi, hưu trí, không biết làm gì, ngồi nhớ chuyện xưa. Tôi nhớ rất nhiều chuyện xưa, nếu kể ra đây, biết bao giờ cho hết! Chỉ một chuyện kể sau đây thôi, cũng khiến bạn, đọc mệt nghỉ. Đó là chuyện cách nay khoảng ba mươi năm, từ ngày đầu đến xứ Mỹ, tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng cho đến hôm nay, tuổi đã trên tám mươi, sắp lên đường vào cõi hư vô. Bôn ba một kiếp ngưòi, để rồi gia tài đem theo với mình cũng chỉ là cỗ quan tài!

Đúng ra, đây là những “Kỷ niệm” mà đa số những người lớn tuổi đến Mỹ đã trải qua. Với thế hệ trẻ, về sau, khi đọc bài nầy, chúng sẽ không ngờ ông bà, cha mẹ chúng đã phải mưu sinh với quá nhiều khổ cực, vất vả nơi xứ người.

            Mấy ông, bà HO, khi đến Mỹ, tuổi đã trên năm mươi, lo kiếm tiền mà nuôi con, lo chuyện ăn, ở, thời gian, tâm trí đâu mà học với hành như bọn trẻ! Phần khác, sức lực đã cạn kiệt vì cả chục năm trong nhà tù Cộng sản, mang trong người nhiều thứ bịnh, nên chỉ có thể làm được những việc lao động nhẹ với đồng lương ít ỏi.

Năm 1991, gia đình chúng tôi qua Mỹ theo chương trình HO. Người bạn đồng môn (Quốc Gia Hành Chánh) vừa là bạn tù, là Ngô Đình Hoa, vượt biên qua trước, bảo trợ gia đình tôi về ở tạm dưới basement trong nhà anh ta. Ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, đa số các nhà đều có tầng hầm, gọi là basement. Người Mỹ xây nhà có cái basement nầy (ông bạn tôi đã mua lại) là để chứa máy giặt, máy sấy, máy nước nóng, máy điều hòa nhiệt độ (AC). Người Mỹ không nghĩ rằng sẽ có những người Việt tị nạn như gia đình chúng tôi sẽ vào ở trong đó. Thế nên họ đã bắt ống nước, ống hơi dẫn nhiệt, ống nước thải, dây điện… chạy lung tung trên trần basement, chẳng khác gì mấy cái xưởng máy trong phim trinh thám mà James Bond thường mò vô để truy tìm bọn tội phạm quốc tế.

Khi chúng tôi đến Mỹ thì ông bạn kêu thợ đến ngăn ra một phòng ở basement cho gia đình tôi trú ngụ. Anh thợ nầy, cũng người Việt, loại tay ngang, làm rất nhanh nhưng cũng rất ẩu tả. Anh ta chỉ làm bốn bức vách cách nhiệt với cửa ra vào là thành một cái phòng! Đến mùa đông, (thường lạnh dưới 0 độ C) hơi lạnh từ các kẻ hở của vách cách nhiệt, bốc ra như sương khói, thấy rõ như hơi lạnh trong ngăn đá của tủ lạnh vậy. Lạnh đến độ đắp mấy cái mền cũng lạnh, đắp không kỹ, hơi lạnh từ chỗ hở luồn vào như cái lưỡi của con ma le, liếm cái lưng, cái bụng, nên người cứ  run lên, vợ con cũng run cầm cập, ngủ không được. Vợ chồng tôi phải ôm thằng con hai tuổi vào lòng để truyền hơi ấm cho nó. Lúc mới đến Mỹ, chưa quen giờ giấc nên cứ đến một, hai giờ trưa (ở Việt Nam là khuya) là tôi buồn ngủ ríu mắt, nhưng tối lại, hai mắt cứ mở thao láo, nằm để thấm thía cái lạnh lẻo nơi xứ người.                                                 

Bạn sẽ hỏi “Sao không mua một cái máy sưởi điện về mà sưởi?” Có máy sưởi đấy chứ! Chủ nhà cũng có để sẵn một cái heater nhưng nhỏ chút xíu, mỗi cạnh chưa đến gang tay, để sát tay vào thì thấy ấm, nhưng dùng cho cả cái phòng thì chẳng hiệu quả gì. Thời đó chưa có cái heater to như cái nón như bây giờ. Mới đến Mỹ, như mán xuống phố, có biết mô tê gì! Tôi cứ nghĩ trên lầu, chắc ai cũng lạnh như mình, nhưng họ “quen rồi” mình than lạnh thì lòi cái “nhà quê” ra. Trước đó, đọc báo, tôi thấy ở Iceland, mùa đông, lạnh dưới 0 độ C mà người ta cho em bé ngủ ngoài trời, cho trẻ có sức đề kháng tốt, nên tôi nghĩ, ở Mỹ cũng vậy. “Lạnh cỡ nầy đối với người đã từng ở Mỹ, có lẽ là bình thường!”. Bấy giờ tôi chưa biết cái máy điều hòa nhiệt độ (AC) là gì cả! Mà cái máy nầy cứ chạy ầm ầm dưới basement, ngay cạnh phòng chúng tôi, chỉ thổi hơi nóng lên tầng trên, nên cái basement vẫn là cái tủ đá lạnh ngắt.

            Ở basement có thêm cái khổ nữa là nghe tiếng nước chảy trong các ống thoát nước. Tầng trên làm gì, dưới nầy biết hết. Nghe nước chảy ro ro mãi thì cầu cho trên đó tắm mau xong. Nước chảy cái ào rồi róc rách qua các ống bự trên trần basement lại tưởng tượng đến chất thải của con người đang vui vẻ jogging (chạy thể thao) vòng vèo trên đầu mình.

            Chắc bạn lại hỏi “Sao không “mu” (move) chỗ khác? Ăn eo phe (welfare, trợ cấp), có tiền chính phủ cho, tìm cái apartment mà thuê?” Thì tôi cũng nghĩ như bạn vậy. Nhưng hết trợ cấp thì tiền đâu mà trả tiền thuê nhà? Nhưng mùa hè, ở basement lại mát vì nó nằm dưới mặt đất. Hơn nữa, mình từ xứ cộng sản, đã từng ở tù khổ sai, ra tù vẫn đói rách, được vậy là tốt rồi. Tạm trú nhà bạn thì tiền trả tượng trưng thôi, dành giụm chút đỉnh, “rủi có gì!”, nơi xứ người còn xoay xở được. Đó là lo xa. Ngay chính tôi, khi còn ở Việt Nam, đi tù về mà lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một cái xách nhỏ, đựng áo quần, mùng mền, thuốc men. Hễ nghe công an Việt Cộng gõ cửa là cầm luôn cái xách trong tay ra mở cửa. Có đi tù tiếp cũng đã chuẩn bị sẵn rồi. Thế nên, ông HO nào qua Mỹ, tìm được đồng nào, lận lưng đồng đó, xin đừng cười là keo kiệt.

            Trợ cấp của chính phủ chỉ đủ lây lất trong thời gian đầu, nên phải lo mà tìm việc sớm nếu không muốn cả nhà lâm nguy. Thế nên, khi đến Mỹ, không lâu, chúng tôi phải tìm việc làm. Nhưng muốn đi làm phải có chiếc xe là phương tiện đi lại. Nhờ vợ chồng Ngô Đình Hoa và các con của bạn đưa, đón mãi cũng bất tiện. Nhân tiện đây, xin cám ơn vợ chồng bạn Ngô Đình Hoa và các cháu đã vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong những ngày khó khăn khi mới đến xứ lạ còn ngơ ngáo. Một ông bạn cùng tù, Đinh Văn Kỷ, qua trước, xin đâu đó một chiếc xe cũ. Đi inspection (xét xe) không passed vì cái dè xe cọ vào bánh xe. Tôi đục cái dè cho hở xa bánh xe. Thật may! passed! Xong thủ tục cho chiếc xe, tôi lái đi làm. Không hiểu sao, đang ngon trớn, đến đèn đỏ, tôi đạp thắng, xe cứ chạy tuột, không chịu ngừng! May quá. Đường vắng! Tôi bỏ xe bên đường, đi tìm điện thoại công cộng (lúc đó chưa có handphone), nhờ cậu con của Ngô Đình Hoa đến chở về, xe thì câu đi sửa.

Ngày trước, tôi lái công xa đi làm nên qua Mỹ, tôi chỉ tập lái cho quen rồi đi thi lấy bằng lái không khó khăn lắm. Lúc thi lái (có ông Mỹ, giám khảo ngồi bên cạnh), tôi để ý và nhớ những con đường nào đã lái đi qua. Sau nầy, tôi giúp rất nhiều đồng hương đi thi lấy bằng lái, bằng cách tôi hướng dẫn họ lái xe (thi thử) qua những con đường mà giám khảo thường bảo thí sinh lái vào. Chỉ chạy vài lần là họ thuộc lòng, (còn nhớ cả những bảng stop), không còn lo lắng, bối rối khi có giám khảo ngồi bên cạnh. Đồng hương HO. mới qua, tiền đâu mà đóng học phí lái xe, cũng chưa có tiền mua xe. Xe cũ, dơ dáy, giám khảo không chịu ngồi vào. Tôi phải đem xe tôi cho họ tập lái. Trước hết, tôi đưa họ vào công viên, lúc vắng người, cho tập lái lòng vòng, đến khi vững tay mới cho ra đường phố. (Rồi mượn xe mới cho họ đi thi). Đường sá ở Mỹ tấp nập mà người tập lái thì ngơ ngáo, lóng ngóng. Khi tôi nhắc chừng, họ càng quýnh quáng! Cũng may, người Mỹ thấy cách lái xe đó là họ biết liền nên thường tránh đường cho xe qua. Lúc đó tôi không biết rằng. Người không có tên trong hợp đồng bảo hiểm xe mà gây tai nạn thì hãng không chịu bồi thường. Bây giờ nhớ lại mà lạnh người. Tính ra lúc đó tôi đã giúp vài ba chục gia đình, vợ chồng, con cái, khỏi tốn tiền học lái xe.

Khi đã có xe rồi, tôi tìm việc làm.Việc gì cũng làm, miễn có tiền là được. Chủ trả bao nhiêu cũng tốt vì tôi có biết mô tê gì mà so sánh hơn thua! Công việc đầu tiên của tôi là làm vệ sinh các cao ốc, nhưng bị người chủ thầu đồng hương bóc lột dữ quá. Tên chủ nầy, miệng dẻo quẹo, lúc nào cũng nói nhân đạo “Tội nghiệp đồng hương! Để tôi cho mấy anh lãnh tiền mặt, chính phủ không biết. Nếu biết, họ cắt eo-phe (trợ cấp) còn bỏ tù nữa” Sau nầy tôi (cùng với mấy ông HO) mới biết là hắn dọa rồi bắt mỗi người tụi tôi làm gấp ba người khác (mà tiền công chỉ tính một người)

            Sau khi chia tay với tên chủ đồng hương ác ôn, tôi tìm được job khác là rửa chén dĩa, nồi niêu, làm vệ sinh, phụ việc vặt cho mụ làm bếp của một nhà hàng người Á Châu (không phải người Việt). Nhiệm vụ tôi là buổi chiều đến sớm hút bụi nhà hàng, làm vệ sinh mọi nơi. Mụ nhà bếp cũng đến sớm để chuẩn bị thức ăn, đồ nhậu. Tối, khách mới đến. Mụ bếp nầy, tiếng Anh, chỉ dùng động từ “Tu quơ” (tay) để sai tôi. Chúng tôi đến sớm, chẳng có ai, nên mụ bắt tôi đấm lưng, bóp chưn, bóp tay cho mụ. Mụ khoảng gần năm mươi, mập nu, mắt một mí, híp lại như mắt heo luộc, trên ngón tay không thấy đeo nhẫn cưới, chắc còn là “nàng trinh nữ tên Thi”. Đấm bóp cho mụ ta xong tôi mới được làm việc khác. Một lần tôi đến, cửa mở nhưng không thấy mụ ta. Tôi đi hút bụi xong thì lấy đồ nghề đi dọn vệ sinh. Khi vô phòng vệ sinh nữ, tôi vô tình mở cửa một ngăn, thấy mụ ta ngồi chóc ngóc trong đó (mà không gài cửa!) Tôi dội ngược. Vậy mà tối hôm đó, mặt mụ ta hầm hầm. Tôi thấy thế báo với bà chủ nhà hàng, nghỉ việc. Có làm, mụ nhà bếp sẽ gièm pha, chủ cũng së cho nghỉ thôi.

           Sau đó, tôi xin làm thu ngân (cashier) cho một cây xăng. Cây xăng nầy của một ông chủ Mỹ và một mụ phụ tá người Á châu (không phải người Việt) Mụ ta không phải vợ ông Mỹ, có lẽ hùn hạp bằng “vốn tự có”.

             Tôi nghe một anh chàng thợ sửa xe người Việt làm ở đó kể rằng. Có lần anh ta vô tình đẩy cửa văn phòng mụ  ta, thấy thằng thợ máy (người Trung Đông) đang bóp chưn cho mụ ta. Mỗi khi người chủ Mỹ kia đi vắng thì anh chàng thợ máy được gọi vào văn phòng để “bóp chưn bóp tay”, (Lại bóp chưn, bóp tay!) Mụ nầy đi chân vòng kiềng. Sách tướng có nói “Đàn bà đi chân vòng kiềng, mỗi ngày không có đàn ông, sẽ phát điên!”. Mụ phụ tá nầy đã làm một việc bất lương, là khi không có chủ ở đấy, hễ khách trả tiền sửa xe bằng tiền mặt thì mụ ta xé bỏ (phi tang) cái bản lưu (copy) sửa xe, tiền mặt thì bỏ túi, sau khi dúi cho thợ sửa xe một ít tiền và dặn đừng cho chủ biết. Thời đó (thập niên 1990), đa số xài tiền mặt, ít người dùng thẻ tín dụng (credit card) Ít lâu sau, cây xăng phá sản! Tôi làm cashier cho một cây xăng khác.

         Trong việc ngồi bán xăng, buổi tối, nhất là về khuya, cũng có vài chuyện vui. Có bà khách mỗi khi đền đổ xăng còn làm thêm việc truyền giáo. Bà ta nói nhiều lắm. Đại ý. Phải tin Chúa để khi chết không phải vào hỏa ngục mà còn được cứu rỗi, lên Thiên Đàng. Tôi ậm ừ cho qua chuyện, nhưng bà ta lại tưởng tôi xiêu lòng, nên có dịp là nói về cứu rỗi. Tôi đành phải nói với bà ta “Bản thân tôi, tôi còn không tin được mình, làm sao tôi tin được người khác?” Bà ta không giận, chỉ cười. Thêm một chuyện nữa. Có bà khách buổi tối, đến đổ xăng, cứ rủ tôi về nhà bà ta để làm điều gì đó (do something)? Tôi nói cám ơn. “Sorry!” Một bà khác, còn táo bạo hơn. Gần cây xăng, có một tiệm rượu, có vũ sexy, (nhiều bà cũng thích đến xem) có lẽ bà nầy uống rượu ở đó, say khước, đậu xe ngay trước cửa quầy, vào hỏi tôi “Mấy giờ mầy (you) về?” Tôi nói “Khoảng mười một giờ” “Tao chờ. Tao sẽ cùng về nhà với mầy” “Không được đâu! Nhà tôi đông người lắm!” “Thì mầy về nhà tao. Tao ra ngoài xe chờ mầy”. Rồi bà ta ra xe, nằm ngủ khò! Hết giờ làm. Tôi rón rén, ra xe, về. Ở Âu Mỹ, chuyện các bà gạ tình là bình thường, Nhưng có ông nào dám đụng đến người đàn bà say rượu nầy không? Tù mục xương đấy!

            Bấy giờ coi như tôi có việc làm, lương rất thấp, chỉ đủ chi tiêu các thứ. Vợ tôi thì đi may ăn công, theo sản phẩm. (Thời đó, may gia công chưa chuyển qua Trung Cộng) Ví dụ may cái túi áo giá mấy xu đó, ngày may được bao nhiêu túi áo cứ tính thành tiền mà lãnh, cố lắm, ngày được vài chục đô là tối đa. Thấy khó sống, vợ tôi đi bán “hotdog” (bán thức ăn và nước ngọt) trên một xe nhỏ (trailer) đặt dọc lề đường thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Cứ bán được trăm đô, chủ trả hai mươi đô. Cũng đỡ khổ, nhưng mùa đông, đã lạnh mà tuyết bay mù trời, chẳng có du khách nào ra đường. Cả ngày, bán tối đa được trăm đô, chủ chia cho hai mươi đô, bằng một giờ làm việc của một công nhân Mỹ hạng bét. Tóm lại gia đình tôi đủ sống qua ngày, nhưng chả lẽ ở mãi dưới cái basement của người bạn?

          Có người quen xúi mua nhà “Mầy mướn nhà cũng trả chừng đó, mua nhà trả hơn chút đỉnh, nhưng sau đó mầy sẽ có nhà, nếu mướn nhà, mầy hết mướn là ra tay không” Tôi nghe cũng có lý, nên có ý tìm nhà. Tôi xem báo hoặc xách xe lội xóm. Thấy giá nhà, tôi tính nhẩm. Với số lương lúc đó của cả hai vợ chồng, thì dù có dán băng keo bốn cái miệng lại (vợ chồng và hai con), nghĩa là không ăn uống, không tiêu xài gì hết, chúng tôi cũng không đủ trả góp tiền nhà hàng tháng. Tôi bàn với vợ, tôi sẽ làm thêm vài jobs nữa, vợ tôi đi học nghề hớt tóc. Thế là tôi làm ba jobs cả thảy, cũng chỉ một nghề thu tiền cho cây xăng. Buổi sáng, tôi dậy thật sớm, đến cây xăng thứ nhất làm việc, từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều, xong shift (buổi làm), tôi chạy qua cây xăng thứ hai, gần mười hai giờ khuya mới về. Thứ Bảy, Chủ Nhật, tôi “chơi” luôn cây xăng thứ ba. Tính ra tôi làm hơn chín chục tiếng mỗi tuần. Tôi chịu đựng trong mấy năm, khi vợ tôi học xong, ra nghề hớt tóc, uốn tóc, lương cũng khá. Sau hơn ba năm, chúng tôi để dành được một ít tiền. Tôi lại tìm nhà để mua. Có người bạn chỉ cho tôi một ngôi nhà trong xóm, gần chỗ chúng tôi đang ở. Anh ta bảo “Nhà nầy lúc đầu đòi hai trăm nghìn đô (thời giá năm 1992). Hai năm rồi, nghe nói bớt còn trăm sáu cũng không ai mua. Bây giờ có lẽ chủ hạ giá nữa. Anh đến xem” Tôi đến, thấy cái nhà đó giống cái chuồng gà công nghiệp bên Việt Nam, thấp tè, cũng không đến nổi. Nhưng sao giá thấp như thế mà không có ai mua? Tôi nghĩ nhà có ma, người ta sợ. Tôi gọi một ông bạn làm realtor (môi giới mua bán nhà). Ông bạn nầy đưa tôi vô nhà và bắt đầu chê nhà cũ, chỗ nầy phải sửa, cái kia phải thay, mục đích cho chủ nhà nghe. Realtor mà chê là phải đúng. Theo luật, người môi giới (realtor) bên mua không được tiếp xúc thẳng với chủ nhà mà phải liên lạc với môi giới bên bán. Anh ta xúi tôi vô gặp chủ nhà đòi bớt giá. Có lẽ mấy năm mà không bán được nhà, chủ nhà phát nản, nên sau một lúc kỳ kèo, chủ nhà chịu bán. Tính ra hơn ba năm chúng tôi mới ra khỏi cái basement của người bạn.

            Khi dọn vào, tôi mới biết lý do người ta chê. Nhà quá cũ, tuổi cũng trên nửa thế kỷ. Thiết kế hết sức kỳ cục! Cái máy điều hòa không khí (AC) đặt ngay giữa nhà, ba căn phòng nhỏ chút xíu vây quanh. Khi cái máy (AC) đó chạy thì giống như xe lửa qua cầu. Nghe ầm ầm, nhà rung rinh như động đất. Mà nó chạy cho còn quí. Mùa đông mở máy, con quái vật đó chỉ kêu lên chứ không “chạy” Nghĩa là hơi cũng có xịt ra nhưng không thấy hơi nóng đâu cả! Tôi gọi cho một người thợ quen. Anh ta đến “Có sửa cũng xài tạm, máy quá cũ!” Sửa xong, nó có nóng chút đỉnh, nhưng anh thợ vừa đi khỏi thì hơi nóng cũng theo anh ta đi đâu mất! Đành mua mỗi phòng một cái hít (heater) nhỏ xài tạm.

            Đến mùa hè, mở máy lạnh, cũng có xịt hơi nhưng chẳng lạnh gì cả! Tôi lại kêu thợ. Anh ta đến, bảo “Bôm gas!”. Bôm gas xong, nó cũng chỉ thổi hơi nóng chứ chẳng lạnh chút nào! Anh thợ bảo “Cái máy AC nầy có lẽ là sản phẩm đầu tiên của hãng sản xuất. Xưa quá! Rã rệu lắm rồi!Phải thay cái mới” Giá mà cái máy AC nầy biết nói, có lẽ nó sẽ chửi thề ghê lắm. “Tao già sáu bảy chục tuổi rồi mà còn bắt xịt hơi nóng rồi xịt hơi lạnh. Mầy hỏi ông già mầy có xịt nổi không mà bắt tao xịt?” Sau cái máy AC thì đến mấy cái vòi nước. Tắt nước rồi mà nước vẫn chảy, giống như mấy bà đi cắt mắt, nhắm mắt mà mắt vẫn mở vậy. Kêu thợ đến thay xong thì nước lại nghẹt, chỗ nào cũng nghẹt, nước không chịu thoát đi, nhất là cái phòng vệ sinh! Kêu thợ, anh ta đến “Nhà nầy cũ quá rồi. Mấy cái ống thoát nước bằng gang, bị rỉ sét nghẹt cứng rồi” “Bây giờ phải làm sao?” “Thì đục tường mà thay ống mới” Lại tốn thêm mớ tiền nữa! Nếu kể ra cho đủ các phiền toái, bực mình khi mua nhà cũ thì chẳng bao giờ hết. Mái nhà dột, thay mái xong thì đến mấy cánh cửa. Cửa nào cũng hở, mùa đông hơi lạnh theo các khe hở vào nhà, lại kêu thợ! Lại móc túi! Tiền có bao nhiêu cũng chỉ đủ trả mấy cái bills (giấy đòi tiền) điện, nước, rác, điện thoại, bảo hiểm xe, sửa nhà…

            Kể ra tụi tôi cũng liều mạng mua nhà, chứ lương hướng chẳng bao nhiêu. Nhưng tụi tôi cũng gặp may. Thứ nhất là vợ tôi làm nghề hớt tóc ngày càng đông khách rì quếch (request, khách đến chỉ yêu cầu một người thợ mà họ thích) nên tiền “típ” cũng khá.

         Chuyện mua nhà ở Mỹ của vợ chồng tôi cách đây hơn hai mươi năm, thuộc thế hệ thứ nhất của dân HO. Tuổi cao, sức khỏe suy nhược, chỉ làm được những việc nhẹ, lương hướng chẳng bao nhiêu. Mà mình không có cái nhà để cho con cái đi, về, cũng tủi thân chúng.

         Nhà tôi tuy nhỏ hẹp nhưng tấm lòng rộng mở, bạn bè rất hứng thú khi được vợ chồng tôi mời đến ngắm hoa và ăn uống, cười đùa, thân ái như anh em trong gia đình. Vợ tôi nấu ăn ngon, được các bạn khen thật tình. Anh em trong hội cựu SV Quốc Gia Hành Chánh. Bà con trong hội Quảng Đà, mỗi lần họp mặt khoảng trên hai mươi người. Nhà nhỏ nhưng vườn rộng. Mỗi năm, sau mùa đông lạnh giá, chúng tôi trồng hoa khắp nơi. Trước sân, quanh nhà, các loài hoa đua nhau khoe sắc. Các bạn vui thích ngắm hoa, chụp hình. Tôi có máy copy, sang hình, bỏ vào khung hình nhỏ, tặng các bạn làm kỷ niệm. Hàng xóm cũng đến ngắm hoa và chụp hình, nhất là các cô gái trẻ.

            Đến thế hệ thứ hai. Con của mấy ông bà HO học hành nên người, lương cao thì chuyện chúng mua nhà to, biệt thự, coi như chuyện nhỏ.

            Nhưng dù sao, mỗi khi vợ chồng chúng cùng các cháu về thăm ông bà, chắc chắn chúng vẫn cảm nhận được mùi mồ hôi vì lao động chân tay vất vả của cha mẹ còn phảng phất trong nhà. Chúng cũng như nghe được tiếng lịch kịch của cha mẹ dậy rất sớm đi làm. Rồi đến khuya, đang ngủ, chúng nghe tiếng mở cửa, tiếng đóng cửa của cha mẹ đi làm về. Công việc của cha mẹ chúng đâu có ngồi trước cái computer như chúng mà phải chịu đựng tuyết lạnh hay cái nóng nung người ngoài trời, kiếm mấy đồng một giờ về nuôi chúng ăn học, trả tiền nhà, tiền điện, nước.

            Có lẽ bạn sẽ hỏi “Vậy cái nhà chuồng gà của anh bây giờ ra sao? Sửa lại chưa? Bán, mua nhà khác chưa?” Xin thưa. Vợ chồng tôi vẫn ở nhà đó. Có điều lạ, sau đó, nhà vùng tôi ở đột nhiên lên giá. Ông bạn realtor hỏi tôi “Nhà ông bây giờ bán giá gấp đôi, vẫn có người mua ngay” Nhưng tôi trả lời “Để sau nầy con tôi bán

            Bụi hoa ngoài sân tôi cũng thương, những vết bẩn trên tường các con tôi làm bẩn, tôi cũng thương (và cứ để nguyên cho đến bây giờ). Vả lại, vợ chồng tôi đã lớn tuổi, chẳng muốn ganh đua, hơn thua ai. Ngu gì mua cái nhà cho bự, nhiều phòng, chỉ ngủ vài phòng, để rồi cày mà nuôi mấy tay tư bản, cho vay cắt cổ.

Phạm Thành Châu

Hits: 244