Năm Mão

Phạm Thành Châu

ăm nay là năm Mão, cầm tinh con Mèo. Các báo Xuân làm gì cũng có một bài về mèo. Lịch thì có hình con mèo. Nhà nào cũng có mèo, ai cũng biết rõ về nó, chẳng có gì lạ, nên viết sao cho độc giả mới đọc nửa chừng thì không thèm đọc nữa mới thật là khó. Thông thường, người ta viết nhiều nhất là về những nhân vật (đúng ra là những danh nhân đã chết) có tuổi con mèo, cũng có người viết về những năm Mão trong lịch sử. Cứ lôi bài cũ (báo xuân) từ mười hai năm trước ra xào nấu, thêm chút gia vị vào là thành bài của mình. Hoặc cứ lấy quyển mười Hai Con Giáp ra chép lại. Tôi cũng chẳng hơn gì những vị đó, nhưng có để tâm sưu tập những bài về mèo từ các báo đã đăng, dành dụm những tài liệu, tin tức liên quan đến con mèo, nay kể ra, để bạn đọc giải trí trong mấy ngày xuân. Người ta nói Chữ Mão, tiếng Tàu nghĩa là thỏ, tiếng Việt nghĩa là mèo (?) Tôi không biết chắc nhưng lịch Tàu thì để hình con thỏ vào năm Mão. Người miền Trung và miền Nam gọi mão là mẹo (tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị…) Tiếng Anh gọi mèo là cat, tiếng Pháp là chat, tiếng Đức katze, tiếng Tây Ban Nha gato, tiếng Nhật neko, tiếng Ả Rập kitte… Con mèo có thể kêu khoảng sáu mươi thứ tiếng khác nhau để bày tỏ cảm nghĩ của mình, đặc biệt nó gào thét khi làm tình, nhưng đối thoại với người, nó chỉ kêu meo, meo để xin ăn mà thôi. Cũng có khi nó kêu rù rù nho nhỏ lúc bạn âu yếm nó hoặc lúc nó dụi đầu vào người bạn để chờ được vuốt ve. Có lẽ vì các cô bồ nhí của mấy ông già cũng nũng nịu kiểu đó nên được gọi là mèo. Chính mắt tôi thấy trong TV, một con mèo nói tiếng Mỹ. Bà chủ nói gì, nó nói theo (độ năm ba tiếng thôi). Bác sĩ thú y nói trong thanh quản con mèo đó có dị tật. Hình như chuyện Ba Giai Tú Xuất có kể, Ba Giai đánh cuộc với cô hàng nước rằng con mèo cô ta biết tiếng người. Cô hàng nhận lời, Ba Giai xách tai con mèo lên, bấm móng tay vào tai mèo và hỏi “Của cô hàng tròn hay méo?”, con mèo đau quá kêu lên: “Méo, méo!”. Có vài chuyện vui về mèo. Một ông quá lười biếng nên chết đói. Xuống âm phủ, Diêm Vương phán: “Nhà ngươi lười quá nên ta cho ngươi đầu thai làm con mèo, phải tự mình bắt chuột mà ăn.” Anh ta năn nỉ Diêm Vương: “Xin ngài cho con làm con mèo đen có chấm trắng trên mũi.” Diêm Vương ngạc nhiên “Để làm gì?” “Thưa, ban đêm con nằm trong bóng tối, bọn chuột thấy chắm trắng tưởng hột cơm, mò đến, con bắt ăn thịt, khỏi phải đi đâu cả.” Một con mèo khác rình hoài mà không bắt được chuột, nó giả giọng chuột kêu chít, chít! Bọn chuột tưởng đồng loại, bò ra khỏi hang, bị mèo bắt ăn thịt. Ăn xong mèo gật gù. Biết ngoại ngữ cũng dễ sống hơn bọn không chịu đến trường sinh ngữ để học thêm. Một chuyện vui khác. Cô giáo bảo học trò tả con mèo. Một cậu viết: “Nhà em có một con mèo, nhưng em chưa thấy nó, mẹ em cũng chưa thấy nó. Mẹ em nói -Ba mầy có mèo, nhưng tao chưa bắt được. Trước sau gì tao cũng tìm ra.”Một lần khác, cô giáo bảo tả con khỉ, cũng cậu học trò đó, viết “Nhà em có nuôi một con khỉ. Một buổi sáng chủ nhật, có một cô đến nhà em, ba em chạy ra bảo -Đừng vô nhà, có con khỉ già ngồi trong đó!”
Mèo bự nhất, có thể nặng từ sáu đến mười kí lô, đó là giống Main Coon, lai tạo từ mèo rừng Bắc Mỹ với mèo hoang tiểu bang Maine. Một ông bạn, gặp tôi, khoe rằng sắp lập một xí nghiệp nuôi mèo và chuột. Ông bạn giải thích: Giai đoạn đầu, tôi nuôi một mớ chuột, khi chuột sinh sôi nẩy nở nhiều rồi, tôi nuôi mèo, lấy chuột cho mèo ăn. Khi mèo lớn, sinh con đẻ cháu, tôi giết mèo, lấy da đem thuộc, làm áo ấm, ví, xách tay… cho quí bà, thịt mèo đem nuôi chuột. Vậy là vòng tròn khép kín, chỉ tốn công, khỏi tốn thực phẩm nuôi mèo và chuột. Anh ta nhờ tôi nghiên cứu giùm về con số chính xác, mèo sinh sản ra sao? Tôi tìm đọc về mèo và cho anh ta những số liệu sau: Mèo đẻ hai lứa một năm. Trong năm năm sống sót được hai mươi tám con, với mười lứa đẻ. Mèo mẹ sinh con, con sinh cháu, cháu sinh chắt, chút, chít … sau ba năm có được ba trăm tám mươi hai con, sau bốn năm, hai nghìn hai trăm con, sau năm năm, mười hai nghìn sáu trăm tám chục con… sau mười năm có hơn tám mươi triệu con. Anh bạn tôi sáng mắt lên. Giàu thấy rõ mà chẳng ai biết ! Sau đó tôi không còn gặp anh bạn đó nữa, cũng không nghe về Xí nghiệp mèo chuột của anh ta.

Toàn thế giới có sáu trăm triệu con mèo, riêng nước Mỹ có hơn bảy chục triệu con. Các bà thích nuôi mèo vì nó giúp các bà đỡ buồn chán (depress), coi như người bạn hiền lành. Nuôi mèo ở các nước Âu Mỹ phiền phức lắm, phải có bảng tên đeo vào cổ mèo, phải đi bác sĩ chích ngừa, khám bịnh, phải cho ăn đúng thực phẩm, phải tắm rửa, dọn vệ sinh cho nó (hốt phân), vì nhà luôn đóng cửa, mèo không ra ngoài phóng uế được, không như ở xứ ta, chút xương cá với mấy muỗng cơm là xong. Mèo, chó Âu Mỹ mà cho ăn như thế nó sẽ bị tiêu chảy, rụng lông rồi chết. Mấy ông bà Âu Mỹ thường chụp hình chó, mèo của mình, để rủi chó, mèo có đi lạc thì làm một bảng cáo thị, có đủ tên tuổi con vật với hình ảnh, số điện thoại của chủ rồi đem treo ở các ngã tư trong xóm. Ai tìm thấy thì cho chủ biết, nhận về. Có người nuôi mèo chung với chuột, vì mèo (Âu Mỹ) không ăn thịt chuột, và chó cũng không ruợt cắn mèo bao giờ. Nhưng mèo hoang thì cũng giống như mèo ở xứ ta. Chúng đi hoang vì chủ nó dọn nhà mà không mang chúng theo, chủ nhà mới không cho vô nhà. Mỗi năm ở Mỹ có cả triệu con mèo bị bỏ hoang. Xóm tôi ở, có mấy con mèo hoang, khuya nào chúng cũng đi lùng sục chuột bọ trong các vườn nhà người ta. Chúng thích nhất là trèo cây bắt tổ chim. Ở Âu Mỹ, bắt giết súc vật là phạm pháp, thế nên chim chóc sinh sôi nay nở khắp trong vườn, trong rừng. Vườn nhà tôi có rất nhiều chim đến làm tổ, khi thấy có trứng trong tổ (chúng làm tổ trong các buội cây rất thấp) tôi phải lấy thuốc trừ sâu bọ xịt dưới gốc cây, cành lá chung quang để mèo không đánh hơi được, nhờ vậy lũ chim non được sống sót. Có một bà Mỹ già, tối nào cũng đem thực phẩm mèo ra sau vướn nuôi lũ mèo hoang, có đến mấy chục con tụ tập, giành ăn, meo meo ồn ào, hàng xóm kêu cảnh sát. Không hiểu sao, cảnh sát lại cấm bà ta cho mèo ăn? Ở Âu Mỹ, mấy người già thích sống một mình, không muốn con cháu đến quấy rầy, thế nên có một bà cụ chết, mấy ngày sau, nghe mùi hôi, hàng xóm gọi cảnh sát đến. Mở cửa ra, có đến hàng trăm con mèo đang vây quanh xác chết, kêu gào vì đói. Sở Mục Súc phải đóng cửa, vây bắt từng con. TV chiếu, mèo lớn, mèo nhỏ chạy lung tung, trên lầu, trong bếp, trong kẹt tủ … Thông thường, sở bắt súc vật đi lạc về, nhốt vô chuồng, ai muốn nuôi thì đến xin. Mèo, chó nhiều quá, không ai xin thì phải giết bớt. Ở Việt Nam mà có mấy dịp đó thì các quán nhậu đặc sản phát tài. Một bà cụ Mỹ, có con mèo bịnh chết, bà ta sắm cho nó một quan tài giá năm trăm đô la, lại tốn một mớ tiền mua đất ở nghĩa trang súc vật để xây mộ cho nó. Thỉnh thoảng bà cụ đi thăm mộ, chuyện trò với vong linh con mèo thân yêu. Ở các xứ văn minh, con cái không có cái tình với cha mẹ như người Á Đông. Cha mẹ nuôi con như làm bổn phận, con đến tuổi trưởng thành là rời nhà cha mẹ, đi thẳng, họa hoằn lắm mới gọi điện thoại hỏi thăm. Mà cha mẹ cũng thích sống một mình trong nhà hoặc gửi thân nơi các nhà dưỡng lão, chờ ngày nhắm mắt xuôi tay. Họ không thích con cháu đến làm phiền. Thế nên, con mèo, con chó là bạn thân nhất của người già. Có mấy chuyện (cũ và mới) về mèo, kể ra đây để bạn đọc cho vui. Nursing Home (nhà già) tên là Steere ở Providence, Rhode Island có nuôi một con mèo đen trắng (có hình trên báo) tên là Oscar. Nó rất hiền và ngoan, các cụ thích vuốt ve, âu yếm. Nhưng nó có tật lạ là hễ tối nào nó nhảy lên giường người nào nằm thì làm gì người đó, hôm sau sẽ chết. Có lần, người ta đem bỏ nó lên giường một người hấp hối, nó nhảy xuống chạy qua phòng một người mạnh khỏe mà nằm. Quả nhiên, hôm sau, người hấp hối hồi tỉnh còn người mạnh khỏe kia, tối ngủ rồi ngủ luôn, không dậy nữa (chết). Đảo Peratjio ở Ấn Độ Dương, không có người nhưng lại có hàng nghìn con mèo. Số là năm 1850, có một chiếc tàu biển bị đắm vì đá ngầm, những người sống sót lên được đảo nhưng cũng chết sau đó vì bịnh dịch, chỉ còn vài con mèo, chúng sống nhờ bắt cá ven bờ biển. Đến nay, ghé vào đảo đó, vẫn thấy đầy mèo. Đảo Ishima ở Nhật có quá nhiều chuột, người ta bèn đem mèo các nơi khác đến bắt chuột, ít lâu sau, chuột hết sạch mà mèo thì đông hơn chuột trước đây, mà lại không có gì ăn, chúng vào bếp ăn vụng, ra chợ rình vồ thịt cá, tha chạy đi, người ta đi chợ, chúng cũng nhảy vô giỏ cướp thịt cá. Bài báo không nói cách giải quyết nạn mão mãn ra sao?

Năm 1902, Walter William, một nha sĩ đến Tahiti hành nghề ở thủ đô Papeete, ông ta chữa răng cho quốc vương Pomare giỏi quá nên quốc vương tặng ông ta một hòn đảo, chỉ có dừa chứ không có người. Đến nơi thì thấy toàn chuột. Ông ta quay về thủ đô Papeete treo bảng mua mèo, được hơn hai trăm con, đem qua đảo cho bắt chuột. Chuột không còn, mà dân số mèo lại tăng lên, nhưng mèo không phá hại như chuột, không đục khoét dừa non và mèo cũng biết ra bờ biển rình bắt cá sống qua ngày. Ngày 2 tháng 9 năm 2009, ở tiểu bang Texas, ông Gil Smith lái xe từ thị xã Gilbert đến thành phố Kearny, trên quãng đường một trăm hai mươi cây số. Ông ta không biết có con mèo của mình đang ôm cứng cái bánh xe dự phòng dưới gầm xe. Nếu nó buông chân, ắt bị xe sau cán chết. Khi đến nơi, nghe mèo kêu, ông ta đem nó ra rồi gọi báo chí, truyền hình đến khoe con mèo khôn ngoan. Ngày 26 tháng 8 năm 2010, bà quả phụ Monika Hoppert, sáu mươi tuổi ở Studthgen, nước Đức, kêu thợ đến thay bồn tắm. Ông thợ đặt bồn tắm mà không biết có con mèo dưới đó. Hàng xóm nghe mèo kêu mà không biết từ đâu, qua hỏi, bà Monika Hoppert bèn cho người dở bồn tắm lên. Con mèo nằm trong đó mấy tuần mà không chết. Trước đây, nó nặng gần sáu kí lô, đem ra chỉ còn một kí sáu. Vậy mà nó sống được ! Năm 2008 cô bé Kirstas Hicks ở Adelaide, Úc châu, đi du lịch với gia đình, nhân tiện ghé thăm ông bà ngoại, cô đem con mèo gửi cho ông bà ngoại (ở cách nhà cô một nghìn sáu trăm cây số). Đi nghỉ hè về thì ông bà ngoại báo con mèo đi đâu mất rồi, tìm không ra. Một năm sau, một buổi sáng, mẹ cô bé Kirstas Hicks thấy một con mèo ốm trơ xương, trụi lông, sút móng, khắp mình đầy vết thương lở loét nằm trước cửa. Thấy tội nghiệp, bà ta đem vào nhà cho ăn. Khi cô bé Kirstas Hicks đi học về thấy thì kêu lên -Con Howie của con đây mà! Thì ra con mèo đã vượt một nghìn sáu trăm cây số, băng qua sa mạc, rừng rậm, sông hồ, chiến đấu với thú dữ để sống còn mà về với cô chủ nhỏ. Ở Việt Nam, trước đây, người ta bảo ăn thịt mèo xui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang), về sau, thịt mèo, thịt rắn được xếp vào đặc sản. Thế nên, ở thôn quê, các tay buôn thu mua rồi chuyển hết mèo với rắn lên thành thị để cung cấp cho các quán nhậu. Không có mèo và rắn bắt chuột nên chuột sinh sôi, nẩy nở đầy đồng, phá hại mùa màng, cũng may, sau đó, lại dấy lên phong trào nhậu chuột đồng, người ta lại đổ xô đi bắt chuột để cung phụng cho mấy ông thần ve chai. Thế là cân bằng sinh thái !

Bây giờ kể chuyện đời xưa về con mèo. Đó là chuyện Linh Miêu Hoán Chúa đời Tống bên Tàu. Chuyện hơi dài dòng, xin kiên nhẫn và cũng xin hiểu rằng. Chuyện đã được tiểu thuyết hóa thành dã sử (Vạn Huê Lầu?) thành tuồng hát, với tình tiết gay cấn, lâm ly và bao giờ kết thúc cũng có hậu. Vị nào trên sáu mươi tuổi ắt đã từng xem sách hoặc xem hát bộ (Bao Công Tra Án Quách Hòe) xem cải lương (Linh Miêu Hoán Chúa) ắt còn nhớ.

Chuyện xảy ra thời Ngũ Đại Tàn Đường, khoảng thế kỷ thứ 10. Lúc bấy giờ, bên Tàu, giặc giả khắp nơi, mỗi người hùng cứ một phương. Có Quách Ngạn Oai, là nguyên soái Phàn Châu, tự xưng làm vua, lập nên nhà Hậu Châu. Ngạn Oai chết, Sài Vinh, xuất thân bán dù, là cháu vợ Ngạn Oai, nối ngôi, hiệu là Châu Thái Tôn. Bấy giờ Triệu Khuôn Dẫn, em kết nghĩa với Sài Vinh, làm chức Kiểm Điểm Sứ, nắm binh quyền. Châu Thái Tôn (Sài Vinh) chết, con là Tông Huấn, mới bảy tuổi lên nối ngôi. Nhân giặc Khiết Đơn quấy phá biên cương, Khuôn Dẫn đem quân tiểu trừ. Khi kéo binh đến Trần Kiều thì các tướng bàn nhau tôn Khuân Dẫn làm vua, truất phế Tông Tuấn. Khuôn Dẫn lập nên nhà Tống. Sử Tàu gọi vụ đảo chánh nầy là Binh Biến Trần Kiều, năm 960. Nhà Tống truyền ngôi mấy đời, đến đời Tống Chơn Tông thì xảy ra vụ án Linh Miêu Hoán Chúa.

Chuyện như thế nầy. Tống Chơn Tông có hoàng hậu họ Lưu, không có con, vua lại yêu thương một quí phi tên là Lý Thần Phi. Khi Tống Chơn Tông xuất chinh đi đánh Khiết Đơn thì Lý Thần Phi có bầu và sinh con trai. Lưu hoàng hậu đến thăm Lý Thần Phi, thấy Lý Thần Phi đang hôn mê, bèn sai thái giám Quách Hòe đem một con mèo thay vào và đưa đứa bé cho cung nữ Thể Vân đem giết đi. Thể Vân đem đứa bé giao cho thái giám Trần Lâm rồi nhảy xuống hồ tự tử. Trần Lâm trao đứa bé cho Lộ Huê Vương là anh em chú bác với Tống Chơn Tông. Lấy lý do Lý Thần Phi sinh quái thai, Lưu hoàng hậu bắt nhốt Lý Thần Phi vào Bích Vân Cung (Tống Chơn Tông đi đánh giặc chưa về), sau đó sai thái giám Quách Hòe đốt Bích Vân Cung, cố ý giết Lý Thần Phi. Âm mưu bị cung nữ Khấu Thừa Ngự biết, bèn báo cho Lý Thần Phi trốn thoát, còn mình giả làm Lý Thần Phi chịu chết cháy. Như vậy, coi như Tống Chơn Tông không có con nối dõi. Khi Tống Chơn Tông chết, triều đình đề nghị cho con Lộ Huê Vương lên nối ngôi, đó là Triệu (?) Trinh (con Lý Thần Phi nhưng không ai biết). Triệu Trinh làm vua tức Tống Nhân Tông. Thời Tống Nhân Tông được xem là cực thịnh của vương triều nhà Tống. Tống Nhân Tông có nhiều nhân tài như Vương An Thạch, Âu Dương Tu, Phạm Trọng Yếm… (Nhân vật tể tướng Vương An Thạch nầy đã làm một việc có liên quan đến Việt Nam thời bấy giờ. Vương An Thạch chủ trương đánh chiếm Việt Nam nên cho dự trữ lương thực, khí giới ở các tỉnh sát biên giới với Việt Nam. Ung Châu là nơi tập trung quân đánh đường bộ vào Việt Nam, Khâm Châu, Liêm Châu là cánh quân đường thủy. Biết được âm mưu của kẻ thù, vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đánh vào các nơi đó, tịch thu và phá hủy tất cả lương thực, khí giới, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng vạn quân địch. Tướng Tàu là Trương Thủ Tiết và Tô Giám bị chém đầu). Đứng đầu bên văn có đại thần Bao Công, bên võ có Tống Địch Thanh. Bao Công tên là Bao Chửng, đậu tiến sĩ đời Tống Thái Tông, làm quan đến chức phủ doãn (đô trưởng) phủ Khai Phong, là kinh đô nhà Tống. Bao Công nổi tiếng là người xét án giỏi và công minh. Đọc truyện Tàu “Thất Hiệp Ngũ Nghĩa kể chuyện về bao Công rất hấp dẫn. Một lần đi phát chẩn cho nạn nhân bão lụt sông Hoàng Hà, đến phủ Đại Danh, Bao Công bị gió thổi bay mất mũ, bèn nghi ngờ có điều gì oan khuất trong thiên hạ đây, nên cho dừng quân, viết trát, sai hai thuộc tướng là Trương Long, Triệu Hổ đi bắt Lạc Mạo Phong (gió thổi bay mũ). Hai tướng lên đường mà không biết đi đâu để bắt Lạc Mạo Phong. Gió lại nổi lên, thổi bay cái trát vào thúng cải của Quách Hải Thọ, là tên bán cải kiếm tiền nuôi mẹ bị mù. Thế là hai tướng bắt Quách Hải Thọ về nộp cho Bao Công. Bao Công thấy bắt người vô tội mới đền tiền và thả về. Quách Hải Thọ mang tiền về lò gạch, là nơi cư ngụ, khoe với mẹ. Người mẹ mù đó chính là Lý Thần Phi và Quách Hải Thọ là con nuôi của bà ta. Nghe rõ sự tình, Lý Thần Phi sai Hải Thọ đến gặp Bao Công và bảo Mẹ tôi truyền ngài đến cho mẹ tôi dạy việc. Bao Công sinh nghi, bèn đích thân đến lò gạch, là nơi cư ngụ của Lý Thần Phi. Bao Công phải chui vào lò gạch còn bị bà già mù dõng dạc. Nếu phải Bao Long Đồ sao chưa quì xuống mà ra mắt ta? Bao Công không biết đó là Lý Thần Phi, nhưng là quan xử án nên phải chịu nhục để tìm cho ra oan khuất của người dân. Bà già mù (Lý Thần Phi) tra hỏi Bao Công đủ điều. Sau khi biết chắc đó là Bao Công, bà ta mới kể lại mọi chuyện. Xác nhận được bà già mù là Lý Thần Phi, Bao Công về triều tâu lại với Tống Nhân Tông (là con của bà Lý Thần Phi, được thái giám Trần Lâm giao cho Lộ Huê Vương làm con nuôi, sau được tôn làm vua). Tống Nhân Tông cho bắt Quách Hòe, tra khảo. Đánh đập đến gần chết, Quách Hòe cũng không chịu khai vì sợ liên lụy đến Lưu thái hậu (trước là Lưu hoàng hậu, chủ mưu). Quách Hòe nói -Có đánh tao chết thì xuống âm phủ, họa may tao mới khai với Diêm Vương. Bao Công bèn thiết trí một nơi âm u, lạnh lẽo, giả làm âm phủ, có diêm vương, có ngưu đầu mã diện, có hồn ma kêu khóc… rồi đánh cho Quách Hòe bất tỉnh và đem đến nơi âm cảnh giả đó. Quách Hòe tỉnh dậy, tưởng mình chết thật, mới khai ra mọi chuyện. Cuối cùng, kẻ ác đền tội, Lý Thần Phi được trời cho sáng mắt, đoàn tụ với con (là vua Tống Nhân Tông), Quách Hải Thọ được phong làm quan nhưng chỉ xin lãnh lương, nằm nhà chứ không chịu đi nhận việc.

Chuyện con mèo của năm Mão đến đây là hết.

Phạm Thành Châu

(chaupham3276@gmail.com)

Visits: 32

Tiếng Anh Ở Mỹ

Truyện vui Phạm Thành Châu

Người đời thường “Tốt khoe, xấu che”, hắn thì xin kể mấy cái dốt của mình để bạn, đọc giải trí. Một thứ dốt tầm thường chứ chẳng văn chương, triết lý gì đáng để hắn làm bộ “Khiêm nhưòng cũng là cách tự cao”. Đó là dốt tiếng Anh của hắn.

Trước khi nói về tiếng Anh ở Mỹ, xin có mấy dòng về tiếng Anh của hắn khi còn ở Việt Nam. Nói đúng ra, cái dốt tiếng Anh của hắn kéo dài từ Việt Nam qua đến Mỹ, cho đến cả chục năm sau, dốt vẫn hoàn dốt! Chuyện nầy vắn tắt thôi, sau đó là những chuyện vui để bạn đọc giết thì giờ.

Sau khi tốt nghiệp trung học, khoảng thập niên 1960, hắn vào Sài Gòn để theo nghiệp đèn sách. Việc đầu tiên của một cậu học trò du học (nội địa) là phải tìm việc làm để sống. Lúc đó, đài phát thanh ra thông cáo. Nha Viễn Thông Bộ Nội Vụ VNCH. tuyển chuyên viên sửa chữa máy viễn thông, sẽ được huấn luyện trong 9 tháng sau đó được học thêm tiếng Anh (6 tháng nữa) để qua Mỹ học về máy truyền tin mới, sẽ viện trợ cho Việt Nam. Các bài học tiếng Anh chuyên môn, nếu dịch ra tiếng Việt cũng ít người biết rõ, như “biến điệu biên độ, biến điệu tần số, chùm tia, cộng hưởng, cảm ứng điện từ…” Sau hai khóa học tiếng Anh về chuyên môn, (trong lúc chờ đợi du học Mỹ), hắn được điều về khu Viễn Thông Biên Hòa để sửa chữa máy viễn thông của các tỉnh thuộc vùng 3 Chiến Thuật VNCH (Biên Hòa, Phước Long, Long Khánh, Bình Long, Hậu Nghĩa…)             Khu Viễn Thông Biên Hòa, là một tòa nhà hai tầng nằm trong thành phố Biên Hòa, gần bờ sông Đồng Nai. Trên lầu là chỗ để máy Teletype và chỗ là việc của một cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng từ Sài gòn lên một buổi rồi đi. Tuy trong khu viễn thông có nhiều chuyên viên nhưng họ là thợ sửa radio ngoài đời tuyển vô, nên chỉ mình hắn biết chút ít về tiếng Anh (về viễn thông) nên hắn thường cùng với các chuyên viên Philippines đi thiết trí trụ antenna, sửa chữa các máy viễn thông trong vùng 3 chiến thuật. Hắn còn phải  làm thông dịch cho mấy cậu Philippines nầy với chính quyền địa phương. Những tưởng với chút vốn tiếng Anh đó, khi qua Mỹ hắn sẽ được dễ dàng phần nào trong giao tiếp với người bản xứ. Không ngờ mấy cậu Philippines nầy nói tiếng Anh theo giọng Spanish, như mấy cậu Mễ ở Mỹ, cứ nhấn mạnh tiếng nào có chữ “r” “năm bờ rờ, pho rờ” (number four) còn thêm tiếng Tagalog (tiếng mẹ đẻ của người Philippine), làm hắn muốn điên cái đầu.

Có một chuyện vui về anh chàng cố vấn Mỹ của nha Viễn Thông, Bộ Nội Vụ. Anh ta thỉnh thoảng từ Sài Gòn lên khu Viễn Thông Biên Hòa, làm việc trên lầu Nhân viên thường lên đó làm việc, đôi khi bình luận vui về anh chàng cố vấn Mỹ nầy, anh ta tỉnh bơ như người điếc nặng. Vậy mà, một buổi chiều thứ sáu, hắn xin quá giang xe anh ta về Sài Gòn. Trên xa lộ, trời mưa mà anh ta lái chạy ào ào. Lúc đó, có một chiếc xe đò Traction đen cứ chàng ràng trước xe khiến anh ta bực mình. Lúc qua mặt, anh ta thò đầu ra chửi thề ông tài xế “ĐM. mầy! Mầy chạy kiểu gì vậy?”. Hắn về nha Viễn Thông kể lại, ai cũng cười bảo “CIA thứ dữ đó! Nghe tiếng Việt tài lắm! Phiden Castro treo giá cái đầu anh ta một triệu Mỹ kim” (nước Cu Ba nghèo, thời giá đó là rất lớn).

Sau hơn hai năm làm việc với toán chuyên viên Philippines, thì có tin, việc đi Mỹ du học bị bãi bỏ. Cả bọn tan hàng, đứa thì vô Hải quân, Không quân, Võ bị Đa Lạt… Hắn thi vào trường Hành Chánh, hành nghề cạo giấy (công chức).

Bây giờ kể qua chuyện miền Nam bị Bắc thuộc năm 1975, hắn đi tù khổ sai hơn sáu năm. Khoảng thập niên 1990, hắn cùng gia đình qua Mỹ theo chương trình HO.

Trong lúc được trợ cấp xã hội, hắn đi kiếm việc làm. Một người bạn (Vũ bá Hoan) giới thiệu hắn đến một văn phòng, gặp người phỏng vấn. Sau vài câu hỏi vớ vẩn về gia đình, tuổi tác… bà người Mỹ hỏi hắn “Có xe đi làm không?” Hắn trả lời “Có!” Rồi bà hỏi tiếp “How about your “mêphs?” Bà ta nói nhanh nên hắn nghĩ đó là chữ “map” (bản đồ. Lái xe thì phải biết đường đi, phải có bản đồ) Nên hắn trả lời “Rất tiếc. Tôi không biết gì về map (bản đồ)!” Bà ta lắc đầu. Hóa ra đó là chữ Maths. (Mathematics, toán) Như thế hắn đã trả lời là không biết gì về toán học! Nếu viết lên giấy thì mọi chuyện sẽ dễ dàng, nhưng họ cần người nghe và trả lời trong công việc. Một lần khác, đến xin việc ở một cây xăng, hắn gặp may. Ông chủ cây xăng hỏi linh tinh vài chuyện. Nghe hắn mới đến Mỹ, ông ta bỏ ra một nắm bạc cắc (coins) gồm quarters, dimes, nickels,  pennies… và bảo “Sắp lại thành mỗi đô la riêng xem sao?” Hắn loay hoay một lúc thì làm được. Từ đó, hắn làm nghề bán xăng (cashier) cho đến khi về hưu.

Ở Mỹ lúc nào cũng có các lớp tiếng Anh ESL (English as a Second Language), học buổi tối, hoàn toàn miễn phí, có bà không chịu học, đi đâu dẫn con theo, nhờ nó thông dịch. Cũng có ông không cho vợ đi học tiếng Anh, đó là những ông già về Việt Nam cưới vợ trẻ, đem qua Mỹ, nhốt trong nhà, sợ sổng ra, nó theo trai! (mà nó theo trai thiệt!). Hắn có ông bạn (P.Đ.Th.), khi còn ở Việt Nam, chuyên dịch những sách tiếng Anh cao cấp như khoa học, kỹ thuật, âm nhạc, kiến trúc… Anh ta còn ra sách “Tiếng Anh Đàm Thoại”, bán đắc như tôm tươi, vậy mà khi qua Mỹ, đi xin việc, anh ta thú nhận với hắn rằng “Con Mỹ phỏng vấn chỉ mới hỏi một câu đầu tiên là tao té ngửa, bò càng. Tao không hiểu gì cả!”. Một ông, lớn tuổi, kể. Ông ta đến trường cộng đồng ghi tên học tiếng Mỹ. Để xếp lớp, học viên phải viết một bài ngắn bằng tiếng Anh, rồi nghe (A, B, C quẹt) cũng bằng tiếng Anh để xem trình độ. Sau đó, mọi người đều có giấy gọi đi học, riêng anh ta thì không. Bèn đến trường hỏi. Nhà trường giải thích rằng. Bài viết bằng tiếng Anh của anh ta quá hay nhưng khi nghe máy thì chẳng trả lời được gì cả. Trường không biết phải xếp anh ta vào lớp học nào? Nghe nói, ông Nguyễn Hiến Lê, nổi tiếng dịch sách Anh, Tây, Tàu. Có một tác giả Mỹ, đến thăm, phải bút đàm, vì nghe không hiểu, nói không được. Một ông khác người gốc Hungary, đã tốt nghiệp đại học về tâm lý và hành nghề trong nước (Hung) rồi. Giữa năm 1970, gia đình được sang Mỹ sống đời tị nạn, ông lấy lại bằng cao học tâm lý và may mắn tìm ngay được việc làm nhưng năm nào người ta cũng buộc ông ta phải theo học mãi mấy lớp (nghe, đọc, nói tiếng Mỹ) nầy từ năm, sáu năm nay rồi, với lý do là ông vẫn nói “sượng” tiếng Mỹ nên bệnh nhân đa số không chịu thổ lộ tâm sự của họ. Trên TV, đôi khi người Ấn Độ nói tiếng Anh phải có phụ đề tiếng Anh, người Mỹ mới hiểu.

Hóa ra, đọc và viết ngoại ngữ là một việc, nghe và nói lại là một việc khác. Nếu (ở quê nhà) học tiếng Anh theo như sách vở mà không đàm thoại, sẽ lâm vào tình trạng sau đây. Khi người đối diện hỏi một câu tiếng Anh. Câu đó sẽ hiện ra trong trí của người nghe, tự giải nghĩa, khi hiểu rồi mới xuất hiện câu trả lời để (đọc) cho người kia biết! Đó là thất bại của người không có dịp thực hành.

Những đứa trẻ Việt Nam, lớn lên ở Mỹ, tiếp xúc thường xuyên với bạn bè người bản xứ ở lớp học, ngoài xã hội, chúng nói y chang dân Mỹ. Chúng nói nhanh, đôi khi cha mẹ không hiểu! Người Mỹ đen, ở Mỹ đã mấy đời, nói tiếng Anh, giọng vẫn khác Mỹ trắng! Nghe radio, giọng Mỹ đen biết liền.

Hắn không có khiếu về nghe và nói. Ngay trong tiếng Việt, hắn viết được chút đỉnh, nhưng khi nói (tiếng Việt) lại không thành câu, ngọng nghịu như người mất lưỡi! Thời trước, có giáo sư Phan Thiện Giới, cũng bị “bịnh” ấy. khi giảng bài thì cứ lắp bắp, nhưng có đọc các bài viết của giáo sư mới biết ông ta rất giỏi. (Hắn không có ý so sánh mình với giáo sư Phan Thiện Giới)

Xin kể vài cái dốt của hắn trong tiếng Anh cho bạn nghe chơi. Một lần, (là cashier) hắn gọi cho một khách hàng, báo tin “Your credit card is expired” Bà khách “What?” liền. Rõ ràng, giấy tờ nào cũng ghi Expired là hết hạn. Hóa ra, chữ đó để chỉ cái chết. Phải dùng expiration date. Một lần khác, hắn gọi đến trường xin phép cho thằng con nghỉ bịnh. Hắn nói “My son is sick” Cô ta “Happy birthday…” Chúc mừng sinh nhật con mầy (six years old)” Đúng ra phải nói get sick (bịnh). Nhiều ông lớn tuổi, thời trẻ, có học Pháp văn. Qua Mỹ, biết được nhiều chữ hơi giống tiếng Pháp rồi đọc thành tiếng Pháp! Kinh nghiệm, trong giao tiếp có câu chào “How are you?” (Ông (bà) mạnh khỏe không?). Một bà Việt Nam, đi làm, người ta hỏi vậy, bà ta bảo rằng có đau đầu hoặc mất ngủ gì đó. Ít lâu sau người ta cho nghỉ việc (bịnh hoài!). Thực ra đó là câu xã giao thôi. Mình có sắp chết cũng chỉ nên trả lời “I am fine. Thank you!”.                                                                          Sau đây là vài chuyện vui về tiếng Anh.

Ở Mỹ, nhiều người (Mỹ) có con được nhà trường gửi về nhà giấy khen học giỏi. Cha mẹ thường dán cản sau xe mình sticker câu “My son is honor student at X. school” Có người (có lẽ con không học giỏi), dán sau xe mình câu “Your son is an honor student, but my son can beat the shit out of your son” (Con ông học giỏi, nhưng con tôi có thể đánh con ông vãi cứt) hoặc “Your kid may be an honor student, but you are still an idiot” (Con ông có thể là học sinh danh dự nhưng ông vẫn là thằng ngu xuẩn). Có người dán ở cản xe câu “My Westie is smarter than your honor student” (Westie, (là tên con mèo, con chó gì đó), thông minh hơn đứa học giỏi của mầy).

Ở Tiệp Khắc, trước một văn phòng du lịch có câu “Take one of our horse driven city tours. We guarantee no miscarriages” (Ý nói, mời khách du lịch thành phố bằng xe ngựa, không bao giờ lỡ xe. Nhưng chữ “miscarriage” là sẩy thai. Chữ lỡ xe là “miss the carriage”). Một khách sạn ở Bắc Kinh có câu tiếng Anh “The manager passed the water” (Quản lý đã đái…) Ý muốn nói “Quản lý xác nhận là nước (sạch) đạt tiêu chuẩn”.

Bây giờ qua chuyện bên Tàu. Người Việt mình nhờ dùng chữ La tinh nên các danh từ riêng (tên người, địa danh…) của Âu Mỹ có thể phiên âm dễ dàng hoặc để nguyên ta vẫn đọc được. Nhưng người Tàu phiên dịch tiếng Anh theo chữ Hán, kiểu Montesquieu, mình đọc theo chữ Nho (Hán-Việt) thành “Mạnh Đức Tư Cưu”, Washington thành “Hoa Thịnh Đốn” rất khó hiểu!

Sau đây mời bạn đọc một bản tin chữ Tàu được chuyển qua  tiếng Việt bằng tiếng Phổ thông. Để bạn thấy được cái rắc rối là tại sao một danh từ riêng của tiếng Tây, tiếng Mỹ lại biến dạng thành tiếng Việt mà khi đọc lên người Âu, Mỹ cũng mù tịt? Và người Việt cứ theo tiếng Tàu mà đọc, qua lối chữ Nôm (?), cũng không biết tên thật Mạnh Đức Tư Cưu hay Hoa Thịnh Đốn gốc tiếng Tây, tiếng Mỹ là gì?

Ví dụ tiếng Mạnh Đức Tư Cư u? Đâu ra?

Nó đây! Montesquieu  孟德斯鳩 Mengdesijiu.                       

Còn Hoa Thịnh Đốn? Có ngay! Washington  華盛頓 Huashengdun.                                 

          Sau đây là một bản tin của chú Ba (tàu), không ghi ngày tháng nào, được chúng tôi sưu tầm, đối chiếu để bạn đọc “Điên Cái Đầu” chơi! (Cám ơn “ông đồ trẻ” Nguyễn Thụy Đan đã giúp đỡ)

Thượng nghị sĩ Ước Hàn Khắc Lý (John Kerry) 約翰克里 Yuehan Keli của tiểu bang Mã Tát Chư Tắc (Massachussetts) 麻薩諸塞 Masazhusei  có thể ra tranh cử tổng thống vào năm 2008. Ông bắt đầu vận động từ tỉnh nhà là Ba Thổ Đốn (Boston) 波士頓 Poshidun. Ông Ước Hàn Khắc Lý học tại đại học Da Lỗ (Yale) 耶魯 Yelu.

Tổng thống Kiều Thị Bố Thập (George Bush), 喬治布什 Qiaozhi Bushi có vợ là Lao Lạp Bố Thập (Laura Bush), 勞拉布什 Laola Bushi, cũng học ở Da Lỗ, và học cao học ở đại học Cáp Phật (Harvard). Ông Bố Thập (Bush) ở tiểu bang Đắc Khắc Tát Tư (Texas), lên làm tổng thống năm 2.000, sau khi ông Khắc Lâm Đốn (Clinton), 克林頓 Kelindun rời chính trường. Ông Bố Thập mất nhiều đồng minh trong cuộc chiến tại Y Lạp Khắc (Iraq) 伊拉克 Yilake.

Thủ tướng Anh, Bố Lai Nhĩ (Blair) 布萊爾 Bulaier, Khắc-lâm-đốn 克林頓 Kelindun cũng không tán thành lập trường của ông Bố Thập, nhất là sau vụ tấn công Phí Lư Kiệt (Falluja) 費盧傑 Feilujie

Tình cờ tôi tìm thấy trên Internet một bản văn của một bác sĩ Việt viết tiếng Việt, hướng dẫn điều trị cho đồng hương, vì sợ họ không rành tiếng Mỹ. Đáng lẽ, chỉ nhờ người nào đó dịch ra tiếng Việt từ tiếng Anh là xong, nhưng anh ta, vì tự tin ở trình độ tiếng Việt (level: Cái book nó té!) của mình, đã tra tự điển và cứ thế mà điền vào.

Mời bạn thử làm thầy bói, đoán xem vị bác sĩ muốn nói gì?

 

Phạm Thành Châu

 

Visits: 18

Nhắc đến những người Hội An

Đỗ Hữu Long

Phố cổ Hội An (ảnh: Pixabay/Tri Le)

Những diễn tiến nghiệt ngã cuả lịch sử dân tộc từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay đã đưa các thế hệ người Hội An phân tán đến những nơi xa lạ. Một số người không thể tiếp xúc với nhau trực diện, nhưng qua phương tiện truyền thông, sử sách hoặc một vài cơ hội hi hữu, họ cũng có dịp tưởng nhớ đến nhau với một số chi tiết liên hệ biểu lộ qua bài viết.

Phóng viên nhiếp nh chiến tranh Việt Nam Lê Minh Thái.

Phóng viên chiến trường Lê Minh Thái tại trận địa An Lộc 1972 (ảnh : AP Photo/Quynh Thai)

Theo bản tin AP ngày 24 tháng 10 năm 2014 cuả Julie Watson, Ông  Lê Minh Thái, một phóng viên nhiếp ảnh chiến tranh Việt Nam đã từ trần ngày 10/10/2014 tại một nhà dưỡng lão ở Encinitas, tiểu bang California- hưởng thọ 93 tuổi sau bảy năm lưu trú tại đây.

Theo lời kể cuả những người thân thuộc, ông Thái là trưởng nam cuả một gia đình thương nghiệp tại thành phố cổ Hội An, Việt Nam. Ông trở thành một nhân viên cuả giới truyền thông Sài gòn khi làm việc với Associated Press vào thập niên 1950 và sau đó cộng tác với tạp chí Life Time trong suốt cuộc chiến Việt Nam.

Ông cũng liên hệ chặt chẽ với Chính Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng như tận tình giúp đở các phóng viên ngoại quốc di chuyển khắp lảnh thổ miền Nam Việt Nam. Ông cũng là nhiếp ảnh viên đặc biệt cuả Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và đã được Tổng Thống yêu cầu chụp những tấm hình chân dung chính thức. Ông cũng xông xáo săn hình trong những căng thẳng bùng nổ giữa Sài Gòn gồm những cuộc biểu tình cuả sư sải và sinh viên trong lúc chiến tranh leo thang.

Năm 1963 ông giúp tuần báo Time mở văn phòng tại Sài Gòn. Người Mỹ thường đến tiệm ảnh cuả ông ở Sài Gòn để chụp hình gởi về gia đình. Ông cũng mời quân nhân Mỹ đến nghỉ ngơi tại nhà hoặc đưa đi dạo phố.

Mở đầu sự nghiệp, ông cung cấp tin tức cho tuần báo Pháp Paris Match. Ông cũng có mặt tại chiến trường Điện Biên Phủ, và tiếp theo là phóng viên tại Geneve cung cấp tin tức thoả hiệp hoà bình chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Ông Thái và gia đình đi Mỹ ngày 23 tháng 4 năm 1975 sau nhiều tháng làm việc giúp đở nhân viên Time Life di tản. Ông định cư tại Los Angeles, tiếp tục làm việc cho báo Times đồng thời mở một tiệm chụp hình dành cho khách Việt Nam làm thủ tục cư trú. Ông chấm dứt làm việc với báo Time năm 1984 nhưng vẫn tiếp tục hành nghề chụp hình khi về hưu.

Vào tuổi thanh niên, ông Thái rời Việt Nam để theo học quân sự tại Học Viện Quân Sự Côn Minh (Kunming Military Academy) miền Nam Trung Hoa. Trong cuộc chiến Hoa-Nhật, Ông gia nhập hàng ngủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng trong cương vị một sĩ quan tình báo có nhiệm vụ nhận diện những cãm tình viên thân Nhật Bản. Ông bị trúng một viên đạn bên cạnh sườn và mang trong người suốt đời. Ông chấm dứt liên lạc với Trung Hoa Dân Quốc khi Pháp tái lập kiễm soát Việt Nam sau Thế chiến II. Ông Thái làm giáo viên tại Hội An một thời gian và di chuyển sang Lào với vợ, mở trường học, làm nhiếp ảnh viên cho hoàng gia Lào truớc khi trở lại Việt Nam năm 1953.

Ông sống với vợ -bà Ying- sáu con và sáu người cháu tại Carlsbad, tiểu bang Cali.

Ông Thái hưởng thọ 93 tuổi, suy ra ông sinh năm 1921, như vậy trong khúc quanh lịch sử năm 1945, ông đang độ thanh xuân 24 tuổi. Tiểu sử cuả ông Thái làm người dân phố Hội nhớ đến nhạc sĩ tài hoa La Hối, tác giả bản nhạc bất hủ Xuân và Tuổi Trẻ.

Nhạc sĩ La Hối.

Nhạc sĩ La Hối (nguồn: Internet)

Nhạc sĩ La Hối là một thành viên trong tổ chức cuả cư dân Hội An gốc Hoa chống Nhật, bị hiến binh Nhật bắt tháng 5 năm 1945, tra khảo và bắn chết với mười đồng chí, chôn chung một huyệt mộ tại chân núi Phước Tường lúc 25 tuổi. Sau khi Nhật đầu hàng, di hài cuả nhạc sĩ và các tử sĩ được thanh thiếu niên Hoa kiều ở Hội An tổ chức nghi lễ trang trọng đưa về an táng tại nghiã trang đối diên với chuà Chúc Thánh.  Thời thiếu niên, chúng tôi có dịp nhìn ngắm hình hoạ chân dung nhạc sĩ La Hối và các liệt sĩ trưng bày trong sảnh đường cánh phải chuà Ngũ Bang đường Cường Để.

Như vậy có thể nghĩ rằng ông Lê Minh Thái là người cùng một đoàn thể với nhạc sĩ La Hối, nhưng đuợc cấp trên điều động đi học quân sự và tình báo tại Học Viên Quân Sự Côn Minh nên tránh thoát cuộc tàn sát cuả quân phiệt Nhật.

Việc theo học các trường quân sự tại Trung Hoa Dân Quốc vẫn là những cơ hội hiếm hoi dành cho một vài cá nhân thuộc những lực lượng cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa hoặc họat động tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Ông Thái được đưa đi từ Hội An đến thủ phủ Vân Nam, quả là một sự chiếu cố đăc biệt cuả Trung Hoa Quốc Dân Đảng đối với một gia đình uy tín và hữu công.

Cư dân thành phố Hội An từ thời Pháp thuộc đến năm 1954 có một sắc thái đặc biệt với đa số người gốc Minh Hương. Vào thời chúng tôi, bạn học người Minh Hương nhiều lắm, họ chỉ biết tiếng Việt và học chữ Việt, nhưng vào thế hệ qúi ông La Hối, Lê Minh Thái (1920) văn tự và ngôn ngữ chắc hẵn phải nghiêng về Hán văn, Pháp văn, Hoa ngữ, Pháp ngữ. Ngay như bản nhạc Xuân và Tuổi Trẻ, phần lời ca lúc ban đầu do nghệ sĩ Diệp Tuyền Hoa viết bằng chữ Hán. Năm 1946, khi nhà văn Thế Lữ đưa đoàn kịch nói Anh Vũ xuôi Nam, đến Hội An trình diễn, cảm khái cuộc đời cuả tác giả và giai điệu cuả bản nhạc nên xin phép soạn lời ca bằng tiếng Việt, lưu truyền đến ngày nay.

Từ những sự kiện kể trên, có vài người nghĩ rằng ông Lê Minh Thái mang một họ nào khác. Đọc chính sử và dã sử Trung Hoa, người ta hiếm thấy nhân vật họ Lê trong khi họ Lê rất phổ biến trong sách vở Việt Nam, phát tích từ những nơi sơn dã thuần Việt, cổ Việt như Ninh Bình, Lam Sơn. Trước Hiệp Định Geneve, Hội An có nhiều cửa hàng trưng bày đẹp mắt, nhưng muốn tìm mua những vật dụng kim khí như đinh, ốc, kềm, buá… phải ghé tiệm La Thiên Hoà. Cụ La Thiên Hoà cũng là một cội nguồn cuả một tôn tộc, con cháu nội ngoại đông đảo và thành đạt.

Hồi chánh viên hữu công La Thanh Đồng.CHƯƠNG TRÌNH CHIÊU HỒI CỦA VNCH – biển xưa

Anh La Thanh Đồng là trung úy bộ binh công sản Bắc Việt gốc người Hội An, Quảng Nam. Theo tài liệu The Chieu Hoi Program of Viet Nam cuả SGM Herbert A. Friedman, anh Đồng hồi chánh ngày 20 tháng Giêng năm 1968 với thủy quân lục chiến Mỹ tại căn cứ Khe Sanh.

Trận chiến Khe Sanh khai hoả ngày 21 tháng Giêng năm 1968, truớc tổng công kích Tết Mậu Thân chín ngày, đựợc nhiều tài liệu và nhiều tác giả nhắc đến với đầy đủ chi tiết.

Một chiến dịch oanh tạc khổng lồ bằng không quân yễm trợ cho thủy quân lục chiến cố thủ Khe sanh. Kể đến giữa tháng Tư, hơn 100.000 tấn bom -tương đương với sức tàn phá cuả năm quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima- do phi cơ của không quân, hải quân, thủy quân lục chiến ném xuống xung quanh căn cứ. Tính ra, mỗi ngày có 1.300 tấn bom được xử dụng hay là 5 tấn cho mỗi đầu người cộng quân Bắc Việt với tổng số ước lượng khoảng 20.000 cán binh tham chiến. Ngoài ra, 158.000 đạn đại pháo cũng được bắn vào những khu đồi núi trong khu vực, bình quân mỗi cán binh cộng sản nhận lảnh 8 quả đạn.

Âm thanh cuả trận đánh Khe Sanh vang dội đến Toà Bạch Ốc, các đô thị lớn cuả Mỹ và khắp nơi trên thế giới. Tổng Thống Johnson ra lệnh phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá. Tuớng Westmoreland cũng nhắc đến vũ khí nguyên tử (Nguyên văn: In late January, General Westmoreland had warned that if the situation near the DMZ and at Khe Sanh worsened drastically, nuclear or chemical weapons might have to be used)

Hồi chánh viên La Thanh Đồng cung cấp kế hoạch hành quân tổng quát cuả cộng quân Bắc Việt và tiến trình cuả trận đánh. Anh trình bày rõ mưu toan cộng quân tiến chiếm Đồi 861 và Đồi 881S để mở đầu cuộc tấn công chính thức nhắm vào trận điạ Khe Sanh. Trong cuộc giáp chiến, cộng quân sẽ đuợc yễm trợ bằng pháo binh hạng nặng đã được che chắn kỹ lưỡng trong dảy núi Co Roc thuộc lãnh thổ Lào. Kể từ khi Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam, Khe Sanh là nỗ lực quan trọng nhất do tướng Giáp chỉ huy. Chiến thắng cuả thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh có thể là phần đóng góp tin tức từ người hồi chánh qúi báu nầy.  (Nguyên văn: The Marine’s victory at Khe Sanh can be attributed in part to the information gained from this valuable Chiêu Hồi).

Sau đó, anh La Thanh Đồng được Bộ Chiêu Hồi tuyển dụng làm đại đội trưởng võ trang tuyên truyền, trú đóng tại trung tâm chiêu hồi Cần Thơ. Anh Đồng là một nguồn tin sống vô giá, cũng là ân nhân cuả người Mỹ vì vậy thỉnh thoảng vẫn có những người Mỹ đến thăm viếng, phối kiểm tin tức, tặng quà.

Vốn là người Quảng Nam, nhỏ con, chơn chất, sinh hoạt và làm việc giữa những đồng đội hồi chánh viên thuộc các đơn vị cộng sản điạ phương miền đồng bằng sông Cữu, anh Đồng cảm thấy khó khăn, cô đơn, anh ngỏ ý muốn được thuyên chuyển về trung ương hoặc một điạ phương thích hợp. Một viên chức hành chánh cuả Bộ Chiêu Hồi phụ trách Quân Khu IV ghi nhận nguyện vọng cuả anh và tìm cơ hội gíup đở. Tuy nhiên sự thay đổi nhiệm sở đến Quân Khu II, Nha Trang đã xảy ra và lời hứa với người đồng hương không thực hiện được vẫn là mối ám ảnh khó quên.

Sự rút quân và cắt viện trợ cuả Hoa Kỳ kéo theo sự sụp đổ cuả Việt Nam Cộng Hoà tạo ra nổi thất vọng, đau đớn khôn nguôi đối với quân dân cán chính Miền Nam. Riêng đối với các hồi chánh viên đã tích cực đóng góp tin tức, tham gia các cuộc hành quân tiểu trừ cộng sản, cảm thấy tuyệt vọng và phẫn uất cùng cực vì họ là những đối tượng bị Mafia cộng sản xem là phản đảng và bị trả thù tàn bạo nhất.

           ******

Hội An, một thành phố đa văn hoá gồm các màu sắc Việt, Hoa, Nhật (Chuà Cầu), Pháp (nhà thờ Công Giáo). Cho đến 1955, người Việt gốc Hoa giữ ưu thế về sở hữu bất động sản và các hoạt động thương mại. Tiêp theo, khi chính quyền Việt Nam Cộng Hoà được thiết lập vững vàng với Quốc Hội và Hiến Pháp, cuộc sống tại các đô thị phát triển nhanh chóng, lôi cuốn đông đảo cư dân các quận xa, gần đến sinh cơ lập nghiệp, trong khi môt số thanh thiếu niên gốc rễ Hội An, Đà Nẵng có dịp hướng vào Sàigòn và các tỉnh, thị miền Nam. Tuy đua chen trong khung cảnh mới lạ, năng động và hấp dẫn, một số người vẫn giữ những quyến luyến, những lưu niệm từ khi mới lớn đến lúc ra đi.

Nhắc lại Hội An với những cá nhân đặc biệt là tâm trạng “hoài hương” cuả một người luống tuổi chưa có dịp trở lại thăm bà con, mồ mã, bạn bè, “cảnh cũ người xưa” cuả quê hương xứ Quảng kể từ 1990, khi chuẩn bị tham gia chương trình H.O. tị nạn cộng sản.

Đỗ Hữu Long

 

Visits: 17

Cọp Nam Bộ

Phạm Thành Châu

            Báo Xuân tiếng Việt có “Truyền thống” là năm “cầm tinh” con vật nào thì có một bài nghiên cứu về con vật đó. Ở hải ngoại, tôi thường viết cho các báo Xuân về các con vật của năm. Khi có nhiều báo xin bài thì phải có nhiều bài khác nhau, tuy chỉ nói về một con vật duy nhất của năm đó, nên rất mất công truy tìm tài liệu. Hiện nay (2022) đa số Báo Giấy “Sống qua ngày, chờ qua đời” vì người ta có Internet, mở ra là biết ngay tin tức đang xảy ra trên thế giới. Vì thế, báo chí chẳng còn bao nhiêu, việc viết cho báo cũng đã đơn giản. Nhưng dù sao cũng phải viết cẩn thận!

            Trước khi vào bài “Nghiên cứu” về con Cọp, có một chuyện không xưa lắm, cách nay gần 70 năm, có liên quan đến “Con cọp”. Đó là Phong trào Cải Cách Ruộng Đất của Việt Minh cộng sản năm 1953 – 1956. Chuyện kể rằng: Trong thời kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn thị Năm, còn gọi là bà Cát Hanh Long, là chủ đồn điền ở Thái Nguyên, giàu có, từng ủng hộ Việt Minh 20. 000 đồng bạc Đông Dương (tương đương 700 lượng vàng) cùng với 100 lượng vàng, nuôi cả trung đoàn Việt Minh, nuôi “ăn dầm nằm dề” trong nhà, các “đồng chí” chủ chốt: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Nguyễng chí Thanh… Vậy mà trong Cải Cách Ruộng Đất, bà Nguyễn thị Năm là người đầu tiên trong số 172.008 nạn nhân bị giết chết. Trong hồi ký “Làm người là khó”, Đoàn duy Thành (phó thủ tướng 1982 – 1990) kể . Khi chuẩn bị đưa bà Nguyễn thị Năm ra đấu tố, Hồ chí Minh nói “Chẳng lẽ mở đầu Cải Cách Ruộng Đất lại bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?” Cán bộ thừa hành báo cáo là có hỏi cố vấn Trung quốc và được bảo rằng “Hổ đực hay hổ cái đều ăn thịt người cả!” Thế là bà Nguyễn thị Năm “được” xử tử và “Bác” đổ tội cho con hổ!

            Đảng Cộng Sản có biệt tài là giết dân mình. Cộng sản Nga giết dân Nga, Cộng Tàu giết dân Tàu, Cộng sản Việt Nam giết dân Việt, Cộng sản Combuchia giết dân Miên. Chưa đến 100 năm mà Cộng sản trên thế giới đã giết hơn 100 triệu người.

            Trở lại chuyện Con Hổ.

 Hổ là chữ Hán, cọp là chữ Nôm. Xin được dùng chữ “Cọp” trong bài cho dễ đọc.

            Ông Ba Mươi, ông hùm, ông kễnh là tên gọi con cọp nhưng vì quá sợ “ngài” (sợ như sợ cọp) nên người ta nói tránh ra như vậy. Cũng có tích về tên gọi “ông ba mươi” rằng, ngày xưa, miền Trung và miền Nam rất nhiều cọp, chúng thường vào xóm bắt gia súc, hoặc rình vồ người đi trong rừng, vì thế quan trên treo giải thưởng, ai giết được cọp thì được ba mươi quan tiền nhưng cũng đánh ba mươi hèo (tượng trưng) để hồn “ngài cọp” không còn giận kẻ đã giết mình. Cũng có giả thiết rằng. Thời “Gia Long tẩu quốc”, bị quân Tây Sơn đuổi bắt, chạy vô rừng trốn, không có gì ăn, binh tướng tưởng chừng chết đói, may sao có con hổ, thỉnh thoảng tha đến một con vật săn được như nai, chồn, heo… Nhờ vậy mà Gia Long và binh tướng mới sống qua ngày để tìm đường thoát khỏi vòng vây. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long ra lệnh, nơi nào có cọp thì phải làm miếu thờ, ai giết được cọp được thưởng nhưng cũng bị đánh ba mươi hèo để lấy lòng vong linh “Ông Cọp”.

            Khoảng thế kỷ 17, 18 từ miền trung Việt Nam trở vào đều là rừng rậm hoang vu, thú rừng đầy dẫy, người Việt đi khai phá bị thú dữ như cọp beo, rắn rết sát hại rất nhiều. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có ghi: “Giữa ngày tết năm 1771, cọp từ rừng Sác, phía Cần Giuộc, từng bầy kéo về chợ Tân Kiểng, trên đường vào Chợ Lớn, làm dân chúng kinh hoàng…” Nghĩa là đồng bào ở quận tư, quận bảy bây giờ đứng bên nầy nhìn qua bên kia sông thấy cọp đi ngờ ngờ, hỏi sao không sợ! Nghe nói trò chơi “Bầu Cua Cá Cọp” do người Tàu phổ biến. Trên miếng giấy vẽ hình các con thú bầu, cua, cá, cọp… để người chơi đặt tiền. Không ai dám đặt tiền vào hình con cọp, sợ thất lễ với “ngài”, nên người ta bỏ hình con cọp mà thay vào bằng hình con nai. Đình miếu nào cũng có bình phong vẽ hoặc đắp nổi (phù điêu) hình cọp để thờ “ngài”, và họ tin rằng, cọp thật đến, thấy “chúa sơn lâm” trên bình phong là biết “đất đã có chủ”. Cọp đánh dấu lãnh thổ mình bằng nước tiểu. Muốn giành lãnh thổ (vùng săn mồi) cọp phải tấn công đối phương. Trước khi xông vào phải nhe nanh múa vuốt, gầm gừ ra oai, nhưng đối phương (trên bình phong) vẫn bình tỉnh, không hoảng sợ, mà (tấn công) phóng vào bình phong thì là đập đầu vô đá, vậy là cọp thật rút lui. Ở chân núi, lối vào rừng, ngày xưa người ta lập “miếu ông cọp” để dân sơn tràng (đi rừng) vào thắp nhang, xin phép sơn thần thổ địa và ông cọp vào núi tìm mật ong, đốn cây, săn bắn, tìm trầm. Đôi khi người ta để ở đấy một con thú nhỏ để ông cọp đến ăn no thì chỉ tìm chỗ ngủ, không bắt người. Ở Ấn Độ, vùng Băng Gan (Bengal), nổi tiếng về cọp dữ. Người dân vào rừng thường mang mặt nạ về phía sau đầu, nhìn tưởng người đi thụt lùi. Họ tin rằng, cọp chỉ vồ từ đằng sau con mồi nên thấy mặt người, cọp theo mãi, vẫn thấy con mồi nhìn mình nên bỏ đi. Người thượng cao nguyên Việt Nam vẫn có tục vác chà gạt trên vai, mũi nhọn hướng về phía sau, cọp biết nếu vồ con mồi sẽ bị đầu nhọn chà gạt đâm nên không dám tấn công. Cọp săn mồi bằng cách bò thật sát đến từ phía sau con mồi. Khi khoảng cách còn độ năm mét, cọp chạy đến thật nhanh và phóng lên lưng con mồi, cắn vào gáy, ôm ghịt con mồi, chờ đến khi con mồi vùng vẫy và đuối sức ngã xuống mới cắn vào cổ họng cho con mồi nghẹt thở chết. Cọp ăn no, tìm chỗ ngủ, không đi đâu nữa.

            Châu Phi không có cọp mà chỉ có sư tử và beo (báo). Châu Á cũng có sư tử, nhưng là “sư tử Hà Đông” để chỉ các bà (người) vợ dữ dằn hay ăn hiếp chồng, ghen tương bậy bạ.

            Vào các thế kỷ trước, có đến hàng trăm nghìn cọp Châu Á. Hiện nay chỉ còn khoảng năm nghìn (5000) cọp mà đến ba nghìn (3000) đang cư trú trong các sở thú. Việt Nam ta hiện còn khoảng ba trăm (300) cọp, kể cả cọp được người nuôi. Cọp ở rừng thọ độ ba mươi tuổi, cọp nuôi, sống được hai mươi lăm năm. Cọp trưởng thành nặng nhất độ ba trăm kí lô. Dân số cọp giảm vì môi trường sinh sống bị thâu hẹp (phá rừng trồng trọt, xây cất), nguy hại nhất là bị người ta săn bắn để bán cho mấy chú ba Tàu lấy xương nấu cao. Một con cọp lớn cho mười lăm kí xương, theo thời giá cách đây mười năm, (2012) bán được hai chục nghìn đô la Mỹ. Một bộ da cọp bán được mười lăm nghìn đô la. Hiện nay giá cao gấp đôi. Cao hổ cốt không phải nấu toàn bằng xương cọp mà thêm vào xương khỉ, xương nai, xương dê núi (sơn dương) cho đủ bộ gọi là “quân thần tá sứ”. Khi có được một miếng cao hổ cốt thì ra tiệm thuốc bắc bổ một thang (thiên niên kiện, địa tiên… chủ tiệm thuốc rất rành chuyện nầy) đem về ngâm rượu. Chờ thuốc ngấm, tối, trước khi đi ngủ, làm một ly nhỏ (xây chừng), sáng hôm sau khỏe người, không còn đau lưng, nhức xương nữa. Người đau yếu thì cho độ mười gam cao hổ cốt vào bụng gà ác (gà ri, gà da đen) hay bồ câu non, chưng cách thủy. Khi gà rục, đem ra ăn. Người bịnh nặng không ăn được thì uống nước cũng rất “bổ dương?!”.

            Báo Hà Nội đăng tin, ngày 17 tháng 10 năm 2021 vừa rồi, công an chận bắt một xe taxi chở hai con cọp đông lạnh. Một con nặng 90 kí lô, con kia 40 kí lô. Người bị bắt khai đã mua cọp ở Thanh Hóa, định đem vào Hà Nội bán. Báo Tuổi Trẻ cho biết, một kí lô xương cọp có thể bán với giá 50 triệu đồng (hơn 2.000 USD). Một lạng ta cao hổ cốt có giá từ 20 đến 25 triệu đồng, tương đương với vàng! Săn được một con cọp, đem bán, đủ sức xây nhà lầu.

            Hiệu quả của cao hổ cốt thì không chắc lắm, nhưng thời xưa, bên Tàu, chỉ hoàng đế, các đại thần, đại gia mới đủ tư cách (có tiền) dùng cao hổ cốt. Có thể đó là một thứ Viagra thời nay vậy thôi. Uống vô thì hăng hái chuyện nam nữ, nhưng sau đó “hết xíu oách”. Mấy ông hoàng đế Tàu chết sớm (thường ở tuổi bốn mươi), vì tam cung lục viện có đến mấy nghìn người đẹp, đêm nào cũng “lâm hạnh” (làm chuyện đó) vài ba em, chưa đủ vòng thì “hoàng đế băng hà!”. Nhiều ông vua “tiếc của trời”, chết rồi còn bắt phải chôn sống cung nữ theo với ông ta, để ngài ngự xuống âm phủ còn có người đẹp mà “lâm hạnh” tiếp.

            Vì xương cọp ngày càng hiếm nên người ta nấu cao khỉ, nai, dê giả là cao hổ cốt. Có người nấu xương sư tử (cao sư cốt?) cũng đắc giá lắm vì bảo rằng sư tử mạnh hơn cọp. Báo đăng, có một ông Việt Nam qua Châu Phi mua xương sư tử nấu “Cao sư cốt”. Không rõ ông ta kinh doanh ngành nầy được bao lâu, nhưng có lần vì tích trữ xương trong nhà thối quá, bay mùi qua hàng xóm, vậy là cảnh sát đến. Ngoài một mớ xương sư tử hôi thối cảnh sát còn tìm thấy rất nhiều sừng tê giác và đô la.

            Người miền Nam sinh con trai đầu lòng không gọi là con cả mà gọi thứ hai (thằng hai, anh hai, chú hai…) vì kiêng chức vụ hương cả trong làng. Lại có chuyện kể rằng. Ở làng Châu Bình, tỉnh Bến Tre, lúc làng vừa thành lập, những người được bầu làm hương cả đều bị cọp vồ. Dân làng bèn cử cọp chúa trong vùng làm hương cả. Một buổi lễ được tổ chức ngoài bìa làng. Một tờ cử (nhiệm vụ lịnh) được viết trên giấy hồng điều, bỏ vô ống tre. Một đầu heo làm lễ vật. Chức sắc trong làng cùng dân chúng tề tựu ở đó, long trọng mời cọp chúa làm “đại hương cả”. Đêm đó, cọp đến ăn đầu heo và tha tờ cử (làm đại hương cả) đi. Năm sau, chức sắc và dân làng lại tổ chức lễ tấn phong (renew) chức đại hương cả cho cọp chúa. Cũng đầu heo và tờ cử mới đặt ở đấy. Tối đến, cọp ra ăn đầu heo, bỏ tờ cử năm ngoái (đã tha đi), cắp tờ cử mới đi. Cứ thế. Thời xưa, người Việt vào miền Nam khai hoang, thú dữ đầy rừng, phải chống trả, đề phòng để tự vệ. từ đó phát sinh những chuyện truyền khẩu trong dân gian. Người ta còn tin rằng, người nào bị cọp ăn thịt thì hồn không siêu thoát mà phải theo hầu con cọp đó (gọi là hổ trành). Hổ trành thường xúi thân nhân ra nộp mạng cho cọp để thế chỗ cho hồn cũ đi đầu thai kiếp khác. Trong tác phẩm “Thần Hổ” của tác giả Tchya (Đái Đức Tuấn?) có kể chuyện hổ trành, lúc nhỏ, tôi đọc, vừa sợ vừa thích.

            Dân miền Nam thường nói “Coi hát cọp”, là coi hát không phải mua vé vào cửa. Có sự tích như sau. Thời trước, dân mình đi khai phá miền nam rất gian khổ. Đất còn đầy phèn, trồng cây gì cũng chết, lại thêm cọp, cá sấu, rắn rết dẫy đầy “U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường. Dưới sông cá lội, trên rừng cọp đua”. Đời sống khó khăn vất vả, bịnh hoạn không thuốc men “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh”, cả đời chỉ lo miếng ăn, chẳng biết thành thị là gì, giải trí là gì! Đến thời thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, dân chúng vùng lên chống ngoại xâm. Những người yêu nước chống Pháp (làm quốc sự) bị truy nã, thường trốn về vùng U Minh, Cà Mau sống lẫn lộn với dân chúng. Họ họp nhau lập gánh hát bội, đi thuyền lang thang, nơi nầy hát vài hôm, nơi khác năm bảy hôm để đồng bào xem. Ai hảo tâm thì cho ít gạo, cá, sống qua ngày chứ không bán vé vô cửa. Để khỏi bị “hùm tha, sấu gắp”, dân làng dựng sân khấu giữa sông, theo kiểu nhà sàn, cột bằng cừ tràm, lợp lá dừa nước. Xung quanh lại đóng cừ như hàng rào dưới nước để sấu không thể vào rình mồi được. Người xem bơi thuyền đến, ngồi trên thuyền xem hát cho an toàn. Vậy mà trên bờ, cọp tụ lại cả bầy, cùng nằm xem hát bội với bà con. Khi gánh hát dọn đi, thỉnh thoảng qua đấy, người ta vẫn còn thấy lũ cọp nằm cú rũ, như chờ gánh hát quay lại, diễn cho chúng xem. Như vậy “coi hát cọp” để chỉ người chuyên coi hát chui, không mua vé.

            Sau đây là chuyện “Cọp Côn Đảo”. Thời Pháp thuộc, tù Côn Đảo vượt ngục nhiều quá. Thực dân Pháp mới nẩy ra sáng kiến, chở ba con cọp ra Côn Đảo, tập họp tù, cho xem để tù sợ không dám trốn trại, rồi thả cọp vào rừng (trên đảo), để cọp bắt thú rừng, rắn rết, chuột bọ và tù (vượt ngục) để ăn. Bọn chủ ngục không biết rằng, khi tù vào làm trong rừng (đốn củi, đục đá cho trại) thấy “con gì cục cựa, trừ con bù lon” là bắt ăn sạch, vì đói quá. Tù đi làm chẳng dại gì đi lẻ tẻ để bị “cọp chụp” (vồ). Thế nên cọp chẳng có gì bỏ bụng, đói meo, đi không nổi, thấy người là lủi chỗ khác. Tù thấy cọp cũng bỏ chạy, nhưng sau, biết cọp đói nên vây lại, đập chết ăn thịt. Thịt được hai con thì cai tù biết, bèn cắt một người tù, mỗi ngày gánh cơm ra bờ biển, đổ ra đấy cho cọp đến ăn. Nhưng ăn cơm thiếu “chất đạm”, chẳng bổ béo gì, nên cọp tự “cải thiện” bằng cách mò cua, bắt ốc sống qua ngày. Không ngờ một hôm, cọp gặp một con ốc tai tượng (loại ốc dính vào đá) rất lớn đang há miệng chờ mồi (tảo). Cọp thấy thịt ốc ngon quá, bèn thò chân moi thịt ốc. Ốc đóng nắp lại, cọp kẹt chân trong đó. Loại ốc nầy, vỏ kết cứng vô đá, cọp rút chân ra không được. Thủy triều lên, cọp chết ngộp.

            Để chấm dứt bài nầy, tôi xin kể vài chuyện về cọp. Ở Mỹ có ông da đen, không phải dân Châu Phi mà lai Căm Bu Chia. Anh ta là vô địch đánh góp (golf). Ở đâu treo giải đánh góp là anh ta đến thi đấu và bợ tiền thưởng với cúp về. Hiện nay anh ta là triệu phú. Nhà chất đầy cúp đánh góp. Anh ta tên Tiger Woods (Rừng Hổ? Hổ Rừng?). Việt Nam ta, xưa kia cũng có ông Lê Như Hổ, nổi tiếng ăn nhiều và đánh giặc giỏi. Cụ Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ kháng chiến chống Pháp được mệnh danh là Hùm Yên Thế.

            Người mình thường tin vào số mệnh, nên mới có chuyện kể rằng. Một cậu được thầy bói phán rằng, ngày đó, tháng đó sẽ bị chết vì cọp. Cậu ta sợ lắm, không đi sở thú, biết ai tên Hổ, tên Cọp thì tránh xa. Còn vài hôm là hết “hạn tai ương”, cậu ta mừng lắm, đến nhà bạn chơi, thấy trên tường có treo bức tranh con cọp, bèn đập tay vào mặt cọp và nói “Mầy chẳng làm gì được tao!” không ngờ trên bức tranh, bà chủ nhà may vá gì đó, tiện tay, gắn cây kim may lên bức tranh, cậu ta đập ta vào cây kim. Hôm sau, bị nhiễm trùng phong đòn gánh, chết.

            Hiện nay, người ta chỉ xem tranh mới biết con cọp ra sao chứ ít khi thấy tận mắt con cọp thực, vậy mà cũng có người chết vì bị cọp vồ. Vừa rồi, báo đăng, có hai công nhân trồng cây bên chuồng thú Đại Nam, tỉnh Bình Dương, một con cọp sổng chuồng vồ chết một ông, ông kia nhanh chân nhảy xuống nước thoát chết.

            Thêm vài chuyện vui về cọp. Một ông rất sợ vợ và bà vợ rất dữ. Bữa nọ, nhân vợ đi đâu đó, bèn mời bạn bè đến nhà nhậu chơi. Rượu vào lời ra, ông ta phét lác “Các ông sợ vợ chứ tôi tôi thì không. Vợ tôi hỗn hào là tôi trị trắng máu. Tôi dữ như cọp, vợ tôi sợ tôi lắm. Tôi gầm lên là vợ tôi xanh mặt” Không ngờ bà vợ về, đứng sau lưng, mấy ông bạn nhậu ra dấu, ông ta quay nhìn, thấy vợ thì run cầm cập. Bà vợ nhẹ nhàng hỏi “Ông là con cọp. Dữ lắm hả? Tôi sợ ông khiếp vía hả?” Ông ta nhanh trí đáp “Dạ phải. Tôi là con cọp, nhưng bà là Võ Tòng” (chuyện Tàu, có Võ Tòng, tay không đánh chết cọp).

            Một ông thất nghiệp, vào sở thú xin việc. Ông giám đốc nói “Sở thú tôi có con giả nhân, làm trò hay lắm. Nhờ nó mà khách đến xem rất đông. Chẳng may, nó vừa chết, chúng tôi lột da để dành. Anh có thể mang lốt con dã nhân đó, vào chuồng làm trò cho khách xem được không? Tôi trả lương gấp đôi công nhân ở đây”            Anh ta đồng ý, mang lốt giả nhân vào chuồng làm trò, thiên hạ không biết, vỗ tay hoan hô ầm ỷ. Hứng chí, anh ta nhảy nhót, đánh đu đủ trò. Không ngờ đánh đu cách nào lại văng qua chuồng cọp (hổ), nằm một đống. Con cọp gầm gừ, nhe nanh, múa vuốt xông đến, há miệng cắn con giả nhân (giả). Anh chàng làm giả nhân than một câu “Than ôi, Số ta chết vì miệng cọp!” và nhắm mắt chờ chết. Con cọp ghé sát tai anh ta thì thầm “Anh mới vào làm đây phải không? Tôi làm cọp ở đây hơn nửa năm rồi”.

            Chuyện cọp đến đây là hết. Sang năm tôi sẽ kể chuyện mèo (năm Mão) cho quí vị nghe.

Phạm Thành Châu

Visits: 199

Mưu Sinh Ở Mỹ và Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Đây là chuyện kể của mấy ông bà già người Việt ở Mỹ. Già rồi, hưu trí, không biết làm gì, ngồi nhớ chuyện xưa. Tôi nhớ rất nhiều chuyện xưa, nếu kể ra đây, biết bao giờ cho hết! Chỉ một chuyện kể sau đây thôi, cũng khiến bạn, đọc mệt nghỉ. Đó là chuyện cách nay khoảng ba mươi năm, từ ngày đầu đến xứ Mỹ, tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng cho đến hôm nay, tuổi đã trên tám mươi, sắp lên đường vào cõi hư vô. Bôn ba một kiếp ngưòi, để rồi gia tài đem theo với mình cũng chỉ là cỗ quan tài!

Đúng ra, đây là những “Kỷ niệm” mà đa số những người lớn tuổi đến Mỹ đã trải qua. Với thế hệ trẻ, về sau, khi đọc bài nầy, chúng sẽ không ngờ ông bà, cha mẹ chúng đã phải mưu sinh với quá nhiều khổ cực, vất vả nơi xứ người.

            Mấy ông, bà HO, khi đến Mỹ, tuổi đã trên năm mươi, lo kiếm tiền mà nuôi con, lo chuyện ăn, ở, thời gian, tâm trí đâu mà học với hành như bọn trẻ! Phần khác, sức lực đã cạn kiệt vì cả chục năm trong nhà tù Cộng sản, mang trong người nhiều thứ bịnh, nên chỉ có thể làm được những việc lao động nhẹ với đồng lương ít ỏi.

Năm 1991, gia đình chúng tôi qua Mỹ theo chương trình HO. Người bạn đồng môn (Quốc Gia Hành Chánh) vừa là bạn tù, là Ngô Đình Hoa, vượt biên qua trước, bảo trợ gia đình tôi về ở tạm dưới basement trong nhà anh ta. Ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, đa số các nhà đều có tầng hầm, gọi là basement. Người Mỹ xây nhà có cái basement nầy (ông bạn tôi đã mua lại) là để chứa máy giặt, máy sấy, máy nước nóng, máy điều hòa nhiệt độ (AC). Người Mỹ không nghĩ rằng sẽ có những người Việt tị nạn như gia đình chúng tôi sẽ vào ở trong đó. Thế nên họ đã bắt ống nước, ống hơi dẫn nhiệt, ống nước thải, dây điện… chạy lung tung trên trần basement, chẳng khác gì mấy cái xưởng máy trong phim trinh thám mà James Bond thường mò vô để truy tìm bọn tội phạm quốc tế.

Khi chúng tôi đến Mỹ thì ông bạn kêu thợ đến ngăn ra một phòng ở basement cho gia đình tôi trú ngụ. Anh thợ nầy, cũng người Việt, loại tay ngang, làm rất nhanh nhưng cũng rất ẩu tả. Anh ta chỉ làm bốn bức vách cách nhiệt với cửa ra vào là thành một cái phòng! Đến mùa đông, (thường lạnh dưới 0 độ C) hơi lạnh từ các kẻ hở của vách cách nhiệt, bốc ra như sương khói, thấy rõ như hơi lạnh trong ngăn đá của tủ lạnh vậy. Lạnh đến độ đắp mấy cái mền cũng lạnh, đắp không kỹ, hơi lạnh từ chỗ hở luồn vào như cái lưỡi của con ma le, liếm cái lưng, cái bụng, nên người cứ  run lên, vợ con cũng run cầm cập, ngủ không được. Vợ chồng tôi phải ôm thằng con hai tuổi vào lòng để truyền hơi ấm cho nó. Lúc mới đến Mỹ, chưa quen giờ giấc nên cứ đến một, hai giờ trưa (ở Việt Nam là khuya) là tôi buồn ngủ ríu mắt, nhưng tối lại, hai mắt cứ mở thao láo, nằm để thấm thía cái lạnh lẻo nơi xứ người.                                                 

Bạn sẽ hỏi “Sao không mua một cái máy sưởi điện về mà sưởi?” Có máy sưởi đấy chứ! Chủ nhà cũng có để sẵn một cái heater nhưng nhỏ chút xíu, mỗi cạnh chưa đến gang tay, để sát tay vào thì thấy ấm, nhưng dùng cho cả cái phòng thì chẳng hiệu quả gì. Thời đó chưa có cái heater to như cái nón như bây giờ. Mới đến Mỹ, như mán xuống phố, có biết mô tê gì! Tôi cứ nghĩ trên lầu, chắc ai cũng lạnh như mình, nhưng họ “quen rồi” mình than lạnh thì lòi cái “nhà quê” ra. Trước đó, đọc báo, tôi thấy ở Iceland, mùa đông, lạnh dưới 0 độ C mà người ta cho em bé ngủ ngoài trời, cho trẻ có sức đề kháng tốt, nên tôi nghĩ, ở Mỹ cũng vậy. “Lạnh cỡ nầy đối với người đã từng ở Mỹ, có lẽ là bình thường!”. Bấy giờ tôi chưa biết cái máy điều hòa nhiệt độ (AC) là gì cả! Mà cái máy nầy cứ chạy ầm ầm dưới basement, ngay cạnh phòng chúng tôi, chỉ thổi hơi nóng lên tầng trên, nên cái basement vẫn là cái tủ đá lạnh ngắt.

            Ở basement có thêm cái khổ nữa là nghe tiếng nước chảy trong các ống thoát nước. Tầng trên làm gì, dưới nầy biết hết. Nghe nước chảy ro ro mãi thì cầu cho trên đó tắm mau xong. Nước chảy cái ào rồi róc rách qua các ống bự trên trần basement lại tưởng tượng đến chất thải của con người đang vui vẻ jogging (chạy thể thao) vòng vèo trên đầu mình.

            Chắc bạn lại hỏi “Sao không “mu” (move) chỗ khác? Ăn eo phe (welfare, trợ cấp), có tiền chính phủ cho, tìm cái apartment mà thuê?” Thì tôi cũng nghĩ như bạn vậy. Nhưng hết trợ cấp thì tiền đâu mà trả tiền thuê nhà? Nhưng mùa hè, ở basement lại mát vì nó nằm dưới mặt đất. Hơn nữa, mình từ xứ cộng sản, đã từng ở tù khổ sai, ra tù vẫn đói rách, được vậy là tốt rồi. Tạm trú nhà bạn thì tiền trả tượng trưng thôi, dành giụm chút đỉnh, “rủi có gì!”, nơi xứ người còn xoay xở được. Đó là lo xa. Ngay chính tôi, khi còn ở Việt Nam, đi tù về mà lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một cái xách nhỏ, đựng áo quần, mùng mền, thuốc men. Hễ nghe công an Việt Cộng gõ cửa là cầm luôn cái xách trong tay ra mở cửa. Có đi tù tiếp cũng đã chuẩn bị sẵn rồi. Thế nên, ông HO nào qua Mỹ, tìm được đồng nào, lận lưng đồng đó, xin đừng cười là keo kiệt.

            Trợ cấp của chính phủ chỉ đủ lây lất trong thời gian đầu, nên phải lo mà tìm việc sớm nếu không muốn cả nhà lâm nguy. Thế nên, khi đến Mỹ, không lâu, chúng tôi phải tìm việc làm. Nhưng muốn đi làm phải có chiếc xe là phương tiện đi lại. Nhờ vợ chồng Ngô Đình Hoa và các con của bạn đưa, đón mãi cũng bất tiện. Nhân tiện đây, xin cám ơn vợ chồng bạn Ngô Đình Hoa và các cháu đã vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong những ngày khó khăn khi mới đến xứ lạ còn ngơ ngáo. Một ông bạn cùng tù, Đinh Văn Kỷ, qua trước, xin đâu đó một chiếc xe cũ. Đi inspection (xét xe) không passed vì cái dè xe cọ vào bánh xe. Tôi đục cái dè cho hở xa bánh xe. Thật may! passed! Xong thủ tục cho chiếc xe, tôi lái đi làm. Không hiểu sao, đang ngon trớn, đến đèn đỏ, tôi đạp thắng, xe cứ chạy tuột, không chịu ngừng! May quá. Đường vắng! Tôi bỏ xe bên đường, đi tìm điện thoại công cộng (lúc đó chưa có handphone), nhờ cậu con của Ngô Đình Hoa đến chở về, xe thì câu đi sửa.

Ngày trước, tôi lái công xa đi làm nên qua Mỹ, tôi chỉ tập lái cho quen rồi đi thi lấy bằng lái không khó khăn lắm. Lúc thi lái (có ông Mỹ, giám khảo ngồi bên cạnh), tôi để ý và nhớ những con đường nào đã lái đi qua. Sau nầy, tôi giúp rất nhiều đồng hương đi thi lấy bằng lái, bằng cách tôi hướng dẫn họ lái xe (thi thử) qua những con đường mà giám khảo thường bảo thí sinh lái vào. Chỉ chạy vài lần là họ thuộc lòng, (còn nhớ cả những bảng stop), không còn lo lắng, bối rối khi có giám khảo ngồi bên cạnh. Đồng hương HO. mới qua, tiền đâu mà đóng học phí lái xe, cũng chưa có tiền mua xe. Xe cũ, dơ dáy, giám khảo không chịu ngồi vào. Tôi phải đem xe tôi cho họ tập lái. Trước hết, tôi đưa họ vào công viên, lúc vắng người, cho tập lái lòng vòng, đến khi vững tay mới cho ra đường phố. (Rồi mượn xe mới cho họ đi thi). Đường sá ở Mỹ tấp nập mà người tập lái thì ngơ ngáo, lóng ngóng. Khi tôi nhắc chừng, họ càng quýnh quáng! Cũng may, người Mỹ thấy cách lái xe đó là họ biết liền nên thường tránh đường cho xe qua. Lúc đó tôi không biết rằng. Người không có tên trong hợp đồng bảo hiểm xe mà gây tai nạn thì hãng không chịu bồi thường. Bây giờ nhớ lại mà lạnh người. Tính ra lúc đó tôi đã giúp vài ba chục gia đình, vợ chồng, con cái, khỏi tốn tiền học lái xe.

Khi đã có xe rồi, tôi tìm việc làm.Việc gì cũng làm, miễn có tiền là được. Chủ trả bao nhiêu cũng tốt vì tôi có biết mô tê gì mà so sánh hơn thua! Công việc đầu tiên của tôi là làm vệ sinh các cao ốc, nhưng bị người chủ thầu đồng hương bóc lột dữ quá. Tên chủ nầy, miệng dẻo quẹo, lúc nào cũng nói nhân đạo “Tội nghiệp đồng hương! Để tôi cho mấy anh lãnh tiền mặt, chính phủ không biết. Nếu biết, họ cắt eo-phe (trợ cấp) còn bỏ tù nữa” Sau nầy tôi (cùng với mấy ông HO) mới biết là hắn dọa rồi bắt mỗi người tụi tôi làm gấp ba người khác (mà tiền công chỉ tính một người)

            Sau khi chia tay với tên chủ đồng hương ác ôn, tôi tìm được job khác là rửa chén dĩa, nồi niêu, làm vệ sinh, phụ việc vặt cho mụ làm bếp của một nhà hàng người Á Châu (không phải người Việt). Nhiệm vụ tôi là buổi chiều đến sớm hút bụi nhà hàng, làm vệ sinh mọi nơi. Mụ nhà bếp cũng đến sớm để chuẩn bị thức ăn, đồ nhậu. Tối, khách mới đến. Mụ bếp nầy, tiếng Anh, chỉ dùng động từ “Tu quơ” (tay) để sai tôi. Chúng tôi đến sớm, chẳng có ai, nên mụ bắt tôi đấm lưng, bóp chưn, bóp tay cho mụ. Mụ khoảng gần năm mươi, mập nu, mắt một mí, híp lại như mắt heo luộc, trên ngón tay không thấy đeo nhẫn cưới, chắc còn là “nàng trinh nữ tên Thi”. Đấm bóp cho mụ ta xong tôi mới được làm việc khác. Một lần tôi đến, cửa mở nhưng không thấy mụ ta. Tôi đi hút bụi xong thì lấy đồ nghề đi dọn vệ sinh. Khi vô phòng vệ sinh nữ, tôi vô tình mở cửa một ngăn, thấy mụ ta ngồi chóc ngóc trong đó (mà không gài cửa!) Tôi dội ngược. Vậy mà tối hôm đó, mặt mụ ta hầm hầm. Tôi thấy thế báo với bà chủ nhà hàng, nghỉ việc. Có làm, mụ nhà bếp sẽ gièm pha, chủ cũng së cho nghỉ thôi.

           Sau đó, tôi xin làm thu ngân (cashier) cho một cây xăng. Cây xăng nầy của một ông chủ Mỹ và một mụ phụ tá người Á châu (không phải người Việt) Mụ ta không phải vợ ông Mỹ, có lẽ hùn hạp bằng “vốn tự có”.

             Tôi nghe một anh chàng thợ sửa xe người Việt làm ở đó kể rằng. Có lần anh ta vô tình đẩy cửa văn phòng mụ  ta, thấy thằng thợ máy (người Trung Đông) đang bóp chưn cho mụ ta. Mỗi khi người chủ Mỹ kia đi vắng thì anh chàng thợ máy được gọi vào văn phòng để “bóp chưn bóp tay”, (Lại bóp chưn, bóp tay!) Mụ nầy đi chân vòng kiềng. Sách tướng có nói “Đàn bà đi chân vòng kiềng, mỗi ngày không có đàn ông, sẽ phát điên!”. Mụ phụ tá nầy đã làm một việc bất lương, là khi không có chủ ở đấy, hễ khách trả tiền sửa xe bằng tiền mặt thì mụ ta xé bỏ (phi tang) cái bản lưu (copy) sửa xe, tiền mặt thì bỏ túi, sau khi dúi cho thợ sửa xe một ít tiền và dặn đừng cho chủ biết. Thời đó (thập niên 1990), đa số xài tiền mặt, ít người dùng thẻ tín dụng (credit card) Ít lâu sau, cây xăng phá sản! Tôi làm cashier cho một cây xăng khác.

         Trong việc ngồi bán xăng, buổi tối, nhất là về khuya, cũng có vài chuyện vui. Có bà khách mỗi khi đền đổ xăng còn làm thêm việc truyền giáo. Bà ta nói nhiều lắm. Đại ý. Phải tin Chúa để khi chết không phải vào hỏa ngục mà còn được cứu rỗi, lên Thiên Đàng. Tôi ậm ừ cho qua chuyện, nhưng bà ta lại tưởng tôi xiêu lòng, nên có dịp là nói về cứu rỗi. Tôi đành phải nói với bà ta “Bản thân tôi, tôi còn không tin được mình, làm sao tôi tin được người khác?” Bà ta không giận, chỉ cười. Thêm một chuyện nữa. Có bà khách buổi tối, đến đổ xăng, cứ rủ tôi về nhà bà ta để làm điều gì đó (do something)? Tôi nói cám ơn. “Sorry!” Một bà khác, còn táo bạo hơn. Gần cây xăng, có một tiệm rượu, có vũ sexy, (nhiều bà cũng thích đến xem) có lẽ bà nầy uống rượu ở đó, say khước, đậu xe ngay trước cửa quầy, vào hỏi tôi “Mấy giờ mầy (you) về?” Tôi nói “Khoảng mười một giờ” “Tao chờ. Tao sẽ cùng về nhà với mầy” “Không được đâu! Nhà tôi đông người lắm!” “Thì mầy về nhà tao. Tao ra ngoài xe chờ mầy”. Rồi bà ta ra xe, nằm ngủ khò! Hết giờ làm. Tôi rón rén, ra xe, về. Ở Âu Mỹ, chuyện các bà gạ tình là bình thường, Nhưng có ông nào dám đụng đến người đàn bà say rượu nầy không? Tù mục xương đấy!

            Bấy giờ coi như tôi có việc làm, lương rất thấp, chỉ đủ chi tiêu các thứ. Vợ tôi thì đi may ăn công, theo sản phẩm. (Thời đó, may gia công chưa chuyển qua Trung Cộng) Ví dụ may cái túi áo giá mấy xu đó, ngày may được bao nhiêu túi áo cứ tính thành tiền mà lãnh, cố lắm, ngày được vài chục đô là tối đa. Thấy khó sống, vợ tôi đi bán “hotdog” (bán thức ăn và nước ngọt) trên một xe nhỏ (trailer) đặt dọc lề đường thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Cứ bán được trăm đô, chủ trả hai mươi đô. Cũng đỡ khổ, nhưng mùa đông, đã lạnh mà tuyết bay mù trời, chẳng có du khách nào ra đường. Cả ngày, bán tối đa được trăm đô, chủ chia cho hai mươi đô, bằng một giờ làm việc của một công nhân Mỹ hạng bét. Tóm lại gia đình tôi đủ sống qua ngày, nhưng chả lẽ ở mãi dưới cái basement của người bạn?

          Có người quen xúi mua nhà “Mầy mướn nhà cũng trả chừng đó, mua nhà trả hơn chút đỉnh, nhưng sau đó mầy sẽ có nhà, nếu mướn nhà, mầy hết mướn là ra tay không” Tôi nghe cũng có lý, nên có ý tìm nhà. Tôi xem báo hoặc xách xe lội xóm. Thấy giá nhà, tôi tính nhẩm. Với số lương lúc đó của cả hai vợ chồng, thì dù có dán băng keo bốn cái miệng lại (vợ chồng và hai con), nghĩa là không ăn uống, không tiêu xài gì hết, chúng tôi cũng không đủ trả góp tiền nhà hàng tháng. Tôi bàn với vợ, tôi sẽ làm thêm vài jobs nữa, vợ tôi đi học nghề hớt tóc. Thế là tôi làm ba jobs cả thảy, cũng chỉ một nghề thu tiền cho cây xăng. Buổi sáng, tôi dậy thật sớm, đến cây xăng thứ nhất làm việc, từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều, xong shift (buổi làm), tôi chạy qua cây xăng thứ hai, gần mười hai giờ khuya mới về. Thứ Bảy, Chủ Nhật, tôi “chơi” luôn cây xăng thứ ba. Tính ra tôi làm hơn chín chục tiếng mỗi tuần. Tôi chịu đựng trong mấy năm, khi vợ tôi học xong, ra nghề hớt tóc, uốn tóc, lương cũng khá. Sau hơn ba năm, chúng tôi để dành được một ít tiền. Tôi lại tìm nhà để mua. Có người bạn chỉ cho tôi một ngôi nhà trong xóm, gần chỗ chúng tôi đang ở. Anh ta bảo “Nhà nầy lúc đầu đòi hai trăm nghìn đô (thời giá năm 1992). Hai năm rồi, nghe nói bớt còn trăm sáu cũng không ai mua. Bây giờ có lẽ chủ hạ giá nữa. Anh đến xem” Tôi đến, thấy cái nhà đó giống cái chuồng gà công nghiệp bên Việt Nam, thấp tè, cũng không đến nổi. Nhưng sao giá thấp như thế mà không có ai mua? Tôi nghĩ nhà có ma, người ta sợ. Tôi gọi một ông bạn làm realtor (môi giới mua bán nhà). Ông bạn nầy đưa tôi vô nhà và bắt đầu chê nhà cũ, chỗ nầy phải sửa, cái kia phải thay, mục đích cho chủ nhà nghe. Realtor mà chê là phải đúng. Theo luật, người môi giới (realtor) bên mua không được tiếp xúc thẳng với chủ nhà mà phải liên lạc với môi giới bên bán. Anh ta xúi tôi vô gặp chủ nhà đòi bớt giá. Có lẽ mấy năm mà không bán được nhà, chủ nhà phát nản, nên sau một lúc kỳ kèo, chủ nhà chịu bán. Tính ra hơn ba năm chúng tôi mới ra khỏi cái basement của người bạn.

            Khi dọn vào, tôi mới biết lý do người ta chê. Nhà quá cũ, tuổi cũng trên nửa thế kỷ. Thiết kế hết sức kỳ cục! Cái máy điều hòa không khí (AC) đặt ngay giữa nhà, ba căn phòng nhỏ chút xíu vây quanh. Khi cái máy (AC) đó chạy thì giống như xe lửa qua cầu. Nghe ầm ầm, nhà rung rinh như động đất. Mà nó chạy cho còn quí. Mùa đông mở máy, con quái vật đó chỉ kêu lên chứ không “chạy” Nghĩa là hơi cũng có xịt ra nhưng không thấy hơi nóng đâu cả! Tôi gọi cho một người thợ quen. Anh ta đến “Có sửa cũng xài tạm, máy quá cũ!” Sửa xong, nó có nóng chút đỉnh, nhưng anh thợ vừa đi khỏi thì hơi nóng cũng theo anh ta đi đâu mất! Đành mua mỗi phòng một cái hít (heater) nhỏ xài tạm.

            Đến mùa hè, mở máy lạnh, cũng có xịt hơi nhưng chẳng lạnh gì cả! Tôi lại kêu thợ. Anh ta đến, bảo “Bôm gas!”. Bôm gas xong, nó cũng chỉ thổi hơi nóng chứ chẳng lạnh chút nào! Anh thợ bảo “Cái máy AC nầy có lẽ là sản phẩm đầu tiên của hãng sản xuất. Xưa quá! Rã rệu lắm rồi!Phải thay cái mới” Giá mà cái máy AC nầy biết nói, có lẽ nó sẽ chửi thề ghê lắm. “Tao già sáu bảy chục tuổi rồi mà còn bắt xịt hơi nóng rồi xịt hơi lạnh. Mầy hỏi ông già mầy có xịt nổi không mà bắt tao xịt?” Sau cái máy AC thì đến mấy cái vòi nước. Tắt nước rồi mà nước vẫn chảy, giống như mấy bà đi cắt mắt, nhắm mắt mà mắt vẫn mở vậy. Kêu thợ đến thay xong thì nước lại nghẹt, chỗ nào cũng nghẹt, nước không chịu thoát đi, nhất là cái phòng vệ sinh! Kêu thợ, anh ta đến “Nhà nầy cũ quá rồi. Mấy cái ống thoát nước bằng gang, bị rỉ sét nghẹt cứng rồi” “Bây giờ phải làm sao?” “Thì đục tường mà thay ống mới” Lại tốn thêm mớ tiền nữa! Nếu kể ra cho đủ các phiền toái, bực mình khi mua nhà cũ thì chẳng bao giờ hết. Mái nhà dột, thay mái xong thì đến mấy cánh cửa. Cửa nào cũng hở, mùa đông hơi lạnh theo các khe hở vào nhà, lại kêu thợ! Lại móc túi! Tiền có bao nhiêu cũng chỉ đủ trả mấy cái bills (giấy đòi tiền) điện, nước, rác, điện thoại, bảo hiểm xe, sửa nhà…

            Kể ra tụi tôi cũng liều mạng mua nhà, chứ lương hướng chẳng bao nhiêu. Nhưng tụi tôi cũng gặp may. Thứ nhất là vợ tôi làm nghề hớt tóc ngày càng đông khách rì quếch (request, khách đến chỉ yêu cầu một người thợ mà họ thích) nên tiền “típ” cũng khá.

         Chuyện mua nhà ở Mỹ của vợ chồng tôi cách đây hơn hai mươi năm, thuộc thế hệ thứ nhất của dân HO. Tuổi cao, sức khỏe suy nhược, chỉ làm được những việc nhẹ, lương hướng chẳng bao nhiêu. Mà mình không có cái nhà để cho con cái đi, về, cũng tủi thân chúng.

         Nhà tôi tuy nhỏ hẹp nhưng tấm lòng rộng mở, bạn bè rất hứng thú khi được vợ chồng tôi mời đến ngắm hoa và ăn uống, cười đùa, thân ái như anh em trong gia đình. Vợ tôi nấu ăn ngon, được các bạn khen thật tình. Anh em trong hội cựu SV Quốc Gia Hành Chánh. Bà con trong hội Quảng Đà, mỗi lần họp mặt khoảng trên hai mươi người. Nhà nhỏ nhưng vườn rộng. Mỗi năm, sau mùa đông lạnh giá, chúng tôi trồng hoa khắp nơi. Trước sân, quanh nhà, các loài hoa đua nhau khoe sắc. Các bạn vui thích ngắm hoa, chụp hình. Tôi có máy copy, sang hình, bỏ vào khung hình nhỏ, tặng các bạn làm kỷ niệm. Hàng xóm cũng đến ngắm hoa và chụp hình, nhất là các cô gái trẻ.

            Đến thế hệ thứ hai. Con của mấy ông bà HO học hành nên người, lương cao thì chuyện chúng mua nhà to, biệt thự, coi như chuyện nhỏ.

            Nhưng dù sao, mỗi khi vợ chồng chúng cùng các cháu về thăm ông bà, chắc chắn chúng vẫn cảm nhận được mùi mồ hôi vì lao động chân tay vất vả của cha mẹ còn phảng phất trong nhà. Chúng cũng như nghe được tiếng lịch kịch của cha mẹ dậy rất sớm đi làm. Rồi đến khuya, đang ngủ, chúng nghe tiếng mở cửa, tiếng đóng cửa của cha mẹ đi làm về. Công việc của cha mẹ chúng đâu có ngồi trước cái computer như chúng mà phải chịu đựng tuyết lạnh hay cái nóng nung người ngoài trời, kiếm mấy đồng một giờ về nuôi chúng ăn học, trả tiền nhà, tiền điện, nước.

            Có lẽ bạn sẽ hỏi “Vậy cái nhà chuồng gà của anh bây giờ ra sao? Sửa lại chưa? Bán, mua nhà khác chưa?” Xin thưa. Vợ chồng tôi vẫn ở nhà đó. Có điều lạ, sau đó, nhà vùng tôi ở đột nhiên lên giá. Ông bạn realtor hỏi tôi “Nhà ông bây giờ bán giá gấp đôi, vẫn có người mua ngay” Nhưng tôi trả lời “Để sau nầy con tôi bán

            Bụi hoa ngoài sân tôi cũng thương, những vết bẩn trên tường các con tôi làm bẩn, tôi cũng thương (và cứ để nguyên cho đến bây giờ). Vả lại, vợ chồng tôi đã lớn tuổi, chẳng muốn ganh đua, hơn thua ai. Ngu gì mua cái nhà cho bự, nhiều phòng, chỉ ngủ vài phòng, để rồi cày mà nuôi mấy tay tư bản, cho vay cắt cổ.

Phạm Thành Châu

Visits: 4

Dịch Covid-19 (2020) Với Người Già

Phạm Thành Châu

                                                      (Mao Trạch Đông: Thiên hạ đại loạn, ta (nước Tàu) được lợi )                                           

Đây là một bài phóng sự, nhưng nên giữ lại để cho các thế hệ sau cảm nhận được sự kinh hoàng mà Trung Cộng đã gieo rắc con Covid-19 Vũ Hán trên khắp mặt địa cầu. Nó lây nhiễm tràn lan, rất nhanh, giết chết hàng triệu người trong một thời gian ngắn, tàn bạo hơn chiến tranh thế giới. Tuy nước Mỹ đã chích ngừa (vaccine) cho hầu hết dân Mỹ nhưng số bịnh nhân lây nhiễm Covid-19 ở các nước chậm phát triển vẫn tiếp tục gia tăng.

Bài viết nầy gồm ba phần. Thời kỳ kinh hoàng, hỗn loạn khi Covid-19 bùng phát khắp thế giới. Người chết la liệt, y khoa nổ lực hết sức mình chống đỡ trong cố gắng gần như tuyệt vọng để cứu người. Tiếp theo là khoa học sản xuất được vaccine (chủng ngừa), mọi người lại cuống cuồng tìm mọi cách để được ưu tiên chích ngừa. Phần ba. Nước Mỹ đã hoàn tất chủng ngừa. Y tế Mỹ thở phào, chỉ còn lo chữa trị những người không chịu chích ngừa để rồi lâm bịnh nặng vì Covid-19. Trong khi đó (năm 2021) nhiều nước vẫn tiếp tục chống đỡ Covid-19 trong vô vọng vì dân không đủ ăn, tiền đâu mà mua thuốc chủng ngừa?

Một điều đáng kính phục là ở tiểu bang Virginia, trong khi mọi người cố thủ trong nhà, cửa đóng then cài, thì lại có một nhóm người Việt, dù lớn tuổi vẫn đóng góp, nấu nướng, xông pha đi phân phối thực phẩm, thức ăn đến những người già nua ở các nhà dưỡng lão, các gia đình neo đơn. Điểm tập trung là tiệm bánh Hương Bình ở chợ Eden. Họ làm vì từ tâm chứ không có mục đích gì khác. Không chỉ riêng thời gian dịch Covid-19 hoành hành mà trước và sau đó, họ vẫn âm thầm phân phối những bữa ăn nóng, ngon lành, hợp khẩu vị cho những người già yếu, quan quả, cô đơn trong vùng Virginia.

Các bạn trẻ chẳng bao giờ nghĩ đến lúc mình sẽ chết. Nghe tin một người bạn từ giã cõi đời vì tai nạn, vì một căn bịnh nào đó, bạn đến tiễn biệt và nghĩ đó là chuyện của người ta, không liên hệ gì đến mình. Ngay cả đến nguời lớn tuổi cũng không hề nghĩ rằng mình cũng đến lúc sẽ nằm bất động như thế. Chẳng phải vô tâm mà vì sợ, như trẻ con sợ ma, không dám đứng trong bóng tối.

Khoảng tháng 3 năm 2020, bệnh dịch Covid-19, phát xuất từ Vũ Hán, một thành phố bên Tàu, lây lan khắp thế giới. Nó tàn sát, đa số là những người lớn tuổi. Đã già mà còn thêm bịnh nền (bịnh nặng có sẵn) trong người thì lưỡi hái của nó vung lên lấy mạng trong chớp mắt. Không chạy đâu thoát được! Từ trước đến nay, bịnh gì cũng có thuốc chữa, chỉ có bịnh Civid-19 (thời điểm nầy) là không có thuốc chữa. Đó mới là điều khủng khiếp. Thần chết như đang đứng trước cửa. Không biết lúc nào vào nhà lôi mình đi? Người già không dám ra đường, không dám tiếp xúc với ai, vì sợ lây nhiễm. Họ cố thủ trong nhà, cửa đóng then cài, hy vọng con virút không thể chui vào được (!?). Con cái, bạn bè muốn tiếp tế lương thực cho họ thì để thức ăn trước cửa rồi đi xa, trong nhà sẽ ra lấy vô, nấu lại (cho con vi rút chết) trước khi ăn. Có một bà lão sợ “nó” đến độ không dám ra cửa lấy đồ tiếp tế, cứ để đấy. Gần cả tuần, hàng xóm thấy lạ, gọi cảnh sát, mở cửa. Bà ta suýt chết đói. Con vi rút nầy không phải vi trùng mà nó bay tán loạn trong không khí, bám đầy người, dính vô đồ vật, vô tay, chui vô mũi… người nào đến gần là bị lây nhiễm. Đau cổ họng, nhức mình, sốt. Đến khi thở không được, đưa vô bịnh viện, chỉ thở oxy vài hôm, ngáp ngáp rồi chết. Thân nhân, bạn bè không (dám) được gặp, nhìn mặt để vĩnh biệt, để tránh lây lan.

Khi số tử vong lên cao độ, nhiều người sợ đến quẩn trí. Báo chí đưa vài tin điển hình. Tại Thụy Điển, bố mẹ dùng ván, đóng đinh chặn cửa nhốt 3 đứa trẻ, từ 10 đến 17 tuổi, ngăn chúng rời khỏi nhà, từ tháng 3 đến tháng 7- 2020. Sự việc bị phát giác, vợ chồng nầy bị đưa ra tòa. Đến khi có vaccine (thuốc chủng ngừa), vì số thuốc  giới hạn chỉ dành cho người lớn tuổi, bị bịnh nặng thì ở Florida, có 2 phụ nữ giả dạng bà lão để được ưu tiên chích ngừa cũng bị phát hiện. Một chuyện khác. Eodney Baker, giám đốc điều hành casino và vợ là nữ diễn viên Ekaterina Baker, đã thuê máy bay đến tận Beaver Creek, một cộng đồng hẻo lánh dành cho người da đỏ. Cặp nầy vờ khai là nhân viên một nhà nghỉ địa phương để được chích ngừa. Họ bị bắt ở sân bay và bị phạt 1,800 USD. Ở Mỹ bà cụ Fran Goldman, 90 tuổi, lội bộ trong tuyết 9,7 km đi chích ngừa cho kịp hẹn, vì không đến kịp phải lấy hẹn lại thì khó biết đến ngày nào!(có khi gặp tử thần trước ngày đến hẹn) Cuối năm 2020, tổng thống Philippines, Duterte tuyên bố. Nếu Mỹ không cung cấp vaccine Covid-19 cho Philippines thì sẽ ngưng VFA (hiệp ước các lực lượng quân sự thăm viếng, tập trận). Chính phủ Mỹ thì tuyên bố rằng. Mỹ sẽ không giúp đỡ các quốc gia khác cho đến khi tất cả người Mỹ đã được chích ngừa. Từ khi chính phủ của tổng thống Joe Biden lên cầm quyền (tháng 1 năm 2021) thì vaccine Covid-19 ê hề, chích tràn lan, trong lúc các xứ khác chạy quanh mà vẫn không có vaccine để cứu dân mình.

Chính phủ Arab Saudi ra lịnh cấm hành hương đến Mecca và Medina vô thời hạn, nhưng tín đồ Hồi giáo cho rằng, tình trạng cách biệt cộng đồng khiến mọi người có cảm giác xa Allah (Thượng Đế). Họ tin rằng. Cứ đến các đền thờ, cầu nguyện và hôn lên các bức tường, các cây cột ở đền thờ thì sẽ được Allah bảo vệ, khỏi lây nhiễm. Kết cục, hơn 500 vụ lây nhiễm bùng phát ngay sau đó. Còn người Ấn Độ theo đạo Hindu, cơn dịch đang bùng phát, cần cách ly thì họ kéo xuống tắm sông Hằng (ngày 14 tháng 4 – 2021) để cầu xin thần linh che chở. Tức thì, hơn 2.500 trường hợp lây nhiễm bùng phát ngay sau đó. Hiện nay (tháng 4- 2021) ở Bombay, Ấn độ, cứ 4 người thì có đến 3 người vướng Covid-19. Thống kê ngày 18 tháng 6 – 2021, thế giới có trên 178.264.356 người lây nhiễm với trên 3.859.364 tử vong

 Riêng Ấn Độ có 24 triệu người bị lây nhiễm với trên 262 nghìn tử vong. Con số thực phải gấp 40 lần hơn (Theo dư luận, con số người chết trên 6 triệu). Dân Ấn có tục lệ hỏa thiêu, nên người chết nhiều quá thì họ sẽ bẻ luôn cành cây trong công viên rồi đốt xác đùng đùng ngay trên hè phố, nhà nghèo chả có tiền mua củi mà cũng không thể bẻ trộm cành cây công viên thì lén lút vác xác thân nhân đến cửa nhà tang lễ quẳng đấy rồi bỏ xác chạy lấy người, hoặc giản tiện hơn nữa là để nguyên xác tống xuống sông Hằng cho nổi lềnh bềnh. Virus trong xác cứ thế hòa lẫn vào nước sông rồi theo hạ nguồn trôi đi đâu thì trôi, dính tiếp vào ai thì dính, trong khi nước sông Hằng vốn vẫn chu du khắp châu Á.

Thứ nhất là Ấn Độ nhiều lễ hội tôn giáo hàng đầu thế giới. Người chết ngay bên cạnh làm sao họ lại không biết, nhưng vẫn vài chục ngàn người Ấn tắm chung trong lễ hội tôn giáo Kumbh Mela. Chả mấy ai thèm đeo khẩu trang. Họ dấp nước sông Hằng lên người, rồi úp mặt vào phân bò sền sệt bảo thần linh sẽ phù hộ. Họ thà chết Covid-19 cũng được chứ nhất định không chịu bỏ việc hành hương.  Thủ tướng cũng không thể cấm lễ hội được vì quyền lực của các giáo sĩ Bà la môn ở đây là tối thượng (Là đẳng cấp thứ nhất trong 5 đẳng cấp). Gọi là phép vua thua lệ làng là vậy!

Đây là lỗi của chính phủ Ấn Độ. Tháng 3 – 2020, bộ trưởng Y Tế Harsh Vardhan tuyên bố Ấn Độ đang trong “giai đoạn cuối” của dịch Covid-19 và bắt đầu xuất số lượng oxy khổng lồ (tăng738% sản lượng) và 193 triệu liều vaccine ra các nước khác. Đến khi dịch đợt 2 bùng phát thì không còn gì để chữa bịnh cho dân! Dân Ấn chết liệt địa vì không có oxy. Người ta cho rằng, khi Ấn Độ chận đứng được Covid-19 đợt 1 thì Trung Cộng phóng vào Ấn Độ “Covid-19 biến thể  đợt 2” khiến chính phủ Ấn bó tay!

Đã vậy, ngày 25 tháng 4 năm 2021, Trung Cộng tuyên bố không cho máy bay chở vật phẩm y tế qua Ấn Độ. Số người chết ở Ấn Độ nhiều đến nỗi không kịp chôn hoặc thiêu xác. Người dân bỏ mặc thân nhân trong bịnh viện. Bịnh viện đành vất xác xuống sông Hằng. Xác trôi giạt khắp nơi. Thuốc chích ngừa cho tín đồ Hồi giáo lại gặp trở ngại lớn ở các xứ Trung Đông và Do Thái khi họ biết, trong vaccine Covid-19 có chất Gelatin, gốc từ thịt heo. Dân Hồi giáo và Do Thái giáo cấm ăn thịt heo. Nhiều cuộc tranh luận nổ ra. Nếu chích vaccine thì phạm luật Hồi giáo, ngược lại thì chết. Rốt cuộc mọi người vui vẻ khi một giáo sỹ tuyên bố “Luật cấm ăn chứ đâu có cấm chích”. Một chuyện nữa. Tiến sĩ Pilar Mazzetti, bộ trưởng Y tế Peru bí mật tiêm vaccine Covid-19 cho tổng thống. Việc phát giác, Ông bộ trưởng phải từ chức (12-2-2021)

Cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng rúng động hơn. Người già thất thần khi thấy rõ cái chết của những người quen biết (cỡ tuổi mình). Bạn bè, thân quyến chết hằng ngày, chết liệt địa! Tuần trước, ông X. mới gọi nói chuyện, hôm qua đã nghe “đi” rồi. Mình mới đến nhà thăm ông K. hôm kia, thấy vẫn mạnh khỏe, cười nói vui vẻ, vậy mà vừa nghe, đã được đưa vô bịnh viện, thở oxy (và chờ chết). Đưa vô bịnh viện cũng chết mà nằm nhà cũng chết! “Chết không kịp ngáp!”. Giở tờ báo, mấy trang sau đầy cáo phó với chia buồn. Mấy ông bà già thường mở báo chí, internet xem cáo phó với phân ưu, để biết những người quen biết nào đã từ giã cõi trần? Báo chí, truyền hình, email, YouTube… đăng toàn những tin về số người lây nhiễm, số người chết từng ngày, từng quốc gia. Đa số các bà quẩn trí thành trầm cảm vì lo sợ không biết lúc nào đến lượt mình? Coi bộ các ông rất thản nhiên. Đa số các ông là lính chiến, trước 1975, đã quen chiến trận, xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Làm người lính chiến, sống nay, chết mai, họ chẳng hề bận tâm. Thế nên, mỗi ngày, mở mắt thức dậy lại thêm một niềm vui, là mình vẫn còn sống nhăn, trong khi nhiều người cỡ tuổi mình hoặc nhỏ hơn mà đã leo lên bàn thờ rồi. Bản thân lão già nầy (tôi), hơn tám chục, cũng chẳng sợ gì, vẫn cứ nhởn nhơ ra chợ Eden (tiểu bang Virginia) ăn uống, cà phê, cà pháo, tán phét với mấy ông bạn “xâm mình!” mà chẳng hề ho hen, nóng sốt, đau nhức gì cả. Tôi và các ông bạn tuyên bố “Sống đến tuổi nầy quá đủ rồi. Vi rút tụi bây có ngon thì cứ bắt đi. Tứ khoái chẳng ham, bịnh già (cao máu, cao mỡ, tiểu đường, thấp khớp…) hành hạ, sống thêm chật đất, khi đau ốm chỉ làm phiền người khác chứ sướng ích gì?” Hóa ra, lũ vi rút cũng tránh mặt mấy người lì lợm, chỉ ăn hiếp những người yếu bóng vía. Tinh thần suy sụp thì sức đề kháng cũng giảm đi.

Đôi vợ chồng trên 90 tuổi, sau 70 năm sống bên nhau, cả hai vướng covid-19 đang nằm chờ giây phút cuối đời, cùng nắm tay nhau vào cõi hư vô.         

Các nhà dưỡng lão vắng người vì một số lớn bị Covid-19 đến bắt hồn đi biệt tích (chết), một số khác thì con cháu đón về nhà lánh nạn. Bấy giờ, trên nước Mỹ, nhiều người nhiễm  Covid-19 và bệnh già, thường chọn chết tại nhà thay vì tại bệnh viện hay viện dưỡng lão. Họ muốn được gần gủi người thân trong giây phút vĩnh biệt. Ở Indonesia, khi người Hồi giáo chết vì Covid-19, thân nhân thường trộm xác đem về tắm rửa, chôn cất theo lễ nghi Hồì giáo, họ bảo. Nếu không thì linh hồn người chết sẽ không được về với Allah mà phải ở lại thế gian và đi lang thang thành những bóng ma. Một bài báo, ngày 2 tháng 4 năm 2021 đăng tin. Ở Malaysia, cộng đồng người Hoa đốt những bộ vàng mã mô phỏng khẩu trang, bình cồn rửa tay, bộ kim chích vaccine, ngừa vi rút vào lễ Thanh Minh để “người cõi âm” phòng chống Covid-19.

Một chuyện khác. Theo Daily Mall, một đoạn video cho thấy. Vài giây sau khi vị linh mục cất lời cầu nguyện thì bàn tay của người chết (vì Covid-19) động đậy và các ngón tay đang di chuyển dưới tấm kính nắp quan tài. Thì ra “Cô” Vid-19 đã bắt lầm người!

Theo nhà toán học Kit Yates thì hiện có khoảng 2 tỷ tỷ vi rút SARS – CoV-2 đang xuất hiện trên khắp thế giới. Một con vi rút có đường kính trung bình 100 nanomet, từ đó tính ra thể tích của một vi rút. Toàn bộ vi rút trên thế giới có thể nằm gọn trong một lon nước ngọt.

Tính đến 8 tháng 5 năm 2021 trên thế giới, đã có  155.886.756 người lây nhiễm với  3.257.603 người chết, chưa kể nhiều quốc gia thống kê thấp, giấu số thực tế (Trung cộng, Ấn Độ) hoặc không thống kê được (châu Phi). Covid-19 đã giết hơn 10,000 bác sĩ, y tá, y công, và những người làm công tác Y tế, Xã hội. Riêng nước Mỹ, đứng đầu thế giới với số người nhiễm dịch Covid-19, tính đến ngày 7 tháng 5 năm 2021 là 33.321.244 người và số người chết là 593.148 người. Ngày 24 tháng 2 năm 2021, tổng thống Joe Biden đã làm lễ tưởng niệm hơn 500 nghìn người Mỹ đã chết vì Covid-19. Công sở treo cờ rũ 5 ngày. Số tử vong vì Covid-19 ở Mỹ cao hơn số lính Mỹ chết trong thế chiến 2 và chiến tranh Việt Nam cộng lại.  Nhiều quốc gia, người chết không kịp chôn hoặc hỏa táng. Ngay tại New York, gần 700 thi thể người chết vì Covid-19 chất đầy trong những chiếc xe đông lạnh đã hơn 6 tháng nay (2020), vì không kịp chôn. Mặc dù thuốc chủng ngừa đã nghiên cứu thành công và đang phân phối ở các nước phát triển. Nhưng nước nghèo không đủ ăn, lấy gì mua thuốc chủng, nên tử thần mặc sức tung hoành. Dân nghèo ở Ấn Độ sợ chết đói hơn sợ covid-19!

Một cái chết vô duyên xảy ra ở Ấn Độ. Một ông mắc Covid-19 được đưa vô bịnh viện, cho thở Oxy. Bữa đó, trời nóng trên 40 độ C, thân nhân bèn đem một máy điều hòa nhiệt độ (AC) vào cho bịnh nhân bớt nóng. Loay hoay tìm ổ cắm điện cho máy điều hòa không thấy, người nhà bèn rút dây cắm (điện) của máy thở Oxy. Mấy phút sau, thiếu oxy, người bịnh thành “quá cố!”

Tiểu bang New Mexico cho biết. Ba người thiệt mạng, ba người trong tình trạng nguy ngập và một người bị mù vĩnh viễn vì uống dung dịch khử trùng tay có chứa methanol.

Tổng thống Trump phát biểu “Tôi thấy chất khử trùng (tay) hạ gục virus trong một phút, một phút thôi. Và có cách nào để chúng ta làm điều tương tự bằng cách tiêm vào bên trong cơ thể hay tẩy sạch chúng không?” Ý tưởng “tiêm thuốc khử trùng” và “chiếu ánh sáng” khiến các chuyên gia y tế phản đối, cho rằng đây là phương pháp “tự sát”. Thật hết ý!

Sau đây là những trích đoạn từ bài “Hé lộ nỗ lực cứu Trump trước Covid-19 năm 2020”. “Trump bắt đầu có triệu chứng Covid-19 vào ngày 1/10/2020 và thông báo trên Twitter rằng ông và đệ nhất phu nhân dương tính với nCoV. Vài giờ sau, ông sốt cao, lượng oxy trong máu giảm xuống dưới 94%, có thời điểm trong khoảng 80-90%” “Trump vốn không muốn nhập viện, nhưng các phụ tá đã đưa ra hai lựa chọn. Ông có thể đến bệnh viện vào ngày 2/10, trong khi ông có thể tự đi bộ hoặc nếu ông chờ thêm, máy ảnh có thể chụp được cảnh ông phải dời đi bằng xe lăn hay giường di động. Họ sẽ không thể giấu được tình trạng của ông”… “Ít nhất hai trong số những người đã được thông báo tóm tắt về tình trạng sức khỏe của Trump vào cuối tuần đó nói rằng ông bị ốm nặng và lo sợ ông sẽ không qua khỏi. Những người thân cận với chánh văn phòng của Trump, Mark Meadowns, nói rằng ông rất lo sợ Trump có thể qua đời. Chiều 3/10, tình trạng của Trump bắt đầu cải thiện. Một nguồn tin cho rằng các kháng thể đơn dòng đã giúp tổng thống phục hồi nhanh chóng” “Redfield xem truyền hình trực tiếp từ nhà. Ông cầu nguyện khi Trump đi lên các bực thang, cầu nguyện rằng Trump sẽ tỏ ra khiêm tốn, nhắc nhở mọi người rằng bất kỳ ai cũng có thể nhiễm nCoV, rằng ông sẽ nói với họ cách họ có thể bảo vệ bản thân và người thân. Nhưng Trump không như vậy. Lúc đó Redfield biết rằng mọi chuyện đã kết thúc. Trump cho thấy ông không hề thay đổi. Cách ông phản ứng trước đại dịch sẽ không thay đổi”         

Đúng ra, chính phủ của tổng thống Trump đã đốc thúc FDA cấp giấy phép (trước ngày 11/12/2020) cho viện bào chế Pfizer sản xuất vaccine chống Covid-19, phân phối ưu tiên cho những người làm công tác y tế. Máy bay, xe vận tải đặc biệt đã phân phối trên toàn nước Mỹ gồm 150 bệnh viện và 450 trung tâm chích ngừa từ thứ hai (14/12/2020) và các ngày sau đó. Công ty công nghệ sinh học Moderna, sau đó, thành công với vaccine (25/11/2020) có thể bảo quản ở nhiệt độ âm 20 độ C. Đến đầu năm 2021, Joe Biden đắc cử tổng thống, ông phát động chiến dịch chích ngừa (vaccine Covid-19) trên khắp nước Mỹ. Mỗi ngày sẽ có 6 xe tải đi ra từ nhà máy chuyển hàng (vaccine) cho các hãng chuyển phát nhanh bằng đường hàng không (Fedex, UPS, DHL…) để bảo đảm hàng được giao trong 2 ngày trong nước Mỹ. Đến giữa tháng 5 năm 2021, đa số dân Mỹ đã được chích ngừa, chỉ một số tuổi trẻ không chịu chích ngừa. Chính phủ các tiểu bang phải tặng tiền như ở tiểu bang California, người nào đi chích ngừa thì được tặng một phiếu mua hàng trị giá 50 USD lại còn xổ số, có người đi chích ngừa trúng số 1 triệu USD. Tiểu bang Ohio cũng tổ chức xổ số cho những người tham gia chích ngừa. Giữa tháng 5 – 2021 có cô gái trúng thưởng một triệu ($1.000.000) USD. Một cậu học sinh trúng giải, được chính phủ tài trợ mọi phí tổn cho đến khi tốt nghiệp đại học. Trong tai nạn dịch Covid-19, kinh tế Mỹ suy thoái, chính phủ Liên Bang tặng không cho mỗi công dân trên hai nghìn ($2.000) USD, sinh con được chu cấp ba trăm ($300) USD mỗi tháng, ngoài ra, những người thất nghiệp đuợc trợ cấp thất nghiệp dài dài. Vậy mà cũng có đến hàng trăm nghìn người không (thèm) nhận những số tiền trợ cấp đó? Mục đích chính phû bơm tiền cho dân xài để kích thích nền kinh tế đang suy thoái vì Covid-19. Về thuốc chích ngừa, nước Mỹ còn dư thừa quá nhiều, có chương trình tặng vaccine cho các nước thân hữu.

Chính phủ các tiểu bang tìm đủ cách để dân chích ngừa Covid-19, vậy mà một số người không chịu đi chích ngừa, khiến nạn dịch Covid-19 vẫn tiếp tục lây lan, số người chết vẫn leo thang. Trong tháng 6-2021 số người chết là trên 10.000 người. Ngày 5 tháng 7-2021 bác sĩ Anthony thông báo. “99% những người chết nầy vì đã không chịu chích ngừa”. Đến tháng giữa 7-2021, số người chết ở Mỹ trên 623.435, (thế giới trên 4 triệu).

Hậu quả của cơn dịch Covid-19 thật khủng khiếp. Kinh tế suy thoái trầm trọng. Người ta suy đoán. Sau khi dịch Covid-19 đã bị chận đứng, phải 3 năm sau kinh tế thế giới mới gượng dậy nỗi. Tình trạng xã hội bị xáo trộn. Thất nghiệp tràn lan, Lệnh cách ly khiến mọi người bị tù túng trong bốn bức tưòng, thế là vợ chồng bực bội, gây gỗ, đưa nhau ra tòa (Corona-divorce) Nhưng có nhiều nơi tòa hoãn xử ly hôn, ly dị. Thế là họ về nhà, chẳng biết làm gì? Bèn đem “cờ” ra đánh theo thơ bà Hồ Xuân Hương. “Chàng lừa thiếp đang khi bất ý, đâm tốt đầu dú dí vô cung…”

Chỉ mươi năm sau, nước Mỹ sẽ có thế hệ “Quaranteen” (trẻ cách ly)

Bạn đọc đến đây tất đã biết hết cái nguy hiểm của con Covid-19 rồi. Nó giết người nhanh như chớp. Nhưng người bị lây nhiễm sẽ đau đớn ra sao trước khi chết? Cách cứu chữa của bịnh viện như thế nào? Mọi diễn biến đó, bạn không thể nào biết được vì bạn không trải qua, bạn vẫn còn sống. Sau đây là bài viết của bác sĩ Minh Ngọc trong bài “Nỗi Cô Đơn Của Đá” (Xin phép bác sĩ, được trích một số đoạn trong bài viết của bác sĩ ) sĩ)

(New York USA) “Làm việc tới khuya, anh tắt đèn đi ngủ. Bỗng anh thấy cổ họng đau đau. Anh ngồi dậy, đi ra tủ lạnh rót nước uống rồi trở lại giường ngủ. Gần sáng, anh giật mình thức dậy, đầu nhức như búa bổ, người ớn lạnh khó chịu. Anh đi lấy một viên Motrin uống rồi nằm nghỉ, chắc hôm nay không làm việc được rồi. Anh ngủ vùi tới quá trưa, tỉnh dậy không thấy đỡ, ăn một chút súp đóng hộp Campbell rồi uống thêm một viên Motrin. Khi cô (người yêu) gọi, anh không nói chuyện được vì cổ họng đau rát, anh cố trấn an cô rằng có lẽ vì anh thức khuya làm việc, mai chắc sẽ khởe hơn. Buổi tối ngực anh ran ran, anh muốn ho mà phải nén lại vì vừa dợm ho là ngực đau tức không chịu nỗi. Cả đêm anh trở mình bên nào cũng đau và khó chịu, ngực đau đến mức không thở được. Anh hít Albuterol mấy lần vẫn không thấy đỡ. Chờ mãi đến chín giờ sáng để gọi văn phòng bác sĩ vẫn trị bịnh suyễn cho anh. Vị bác sĩ chăm chú lắng nghe, hỏi anh về đồng sự mắc Covid-19 ở sở. Anh bảo không biết đích xác là ai nên không thể nói là gần người ấy nhiều không. Vị bác sĩ bảo: “Anh phải đi cấp cứu” Anh cãi “Chắc tôi bị cúm thôi bác sĩ, vài ngày là hết có chi đâu” Vị bác sĩ nghiêm nghị “Không, anh nghe lời tôi, đừng coi thường”…                                                                                                                       

Người bảo vệ đeo khẩu trang, găng tay chẳng khác bác sĩ phẩu thuật trên phim, chận anh lại, hỏi, anh khai bác sĩ bảo đi cấp cứu ở cổng nầy. Anh ta hỏi tên rồi bốc đìện thoại gọi vào. Chừng một phút sau, một đoàn bốn năm người trùm kín mít từ đầu tới chân như phi hành gia vội vã đẩy một chiếc băng ca ra, bắt anh nằm lên rồi đẩy nhanh vào phòng. Họ nhanh chóng gắn các thứ phụ tùng lên người anh để các con số nhịp tim, huyết áp và độ bảo hòa oxygen hiện lên màn hình. Một người nhìn lên các con số rồi bảo cho chụp mặt nạ dưỡng khi lên mặt anh. Hơi oxygen mát lạnh phả vào mũi và miệng khiến anh dễ chịu hơn một chút. Một người lấy nhệt độ của anh vừa xong, họ đem đến hai viên Tylenol cho anh uống. Hai người khác cũng vừa đặt xong đường truyền tĩnh mạch, một bao muối sinh lý nhỏ giọt theo ống nhựa mảnh mai chảy vào người anh. Một người nữa dùng que dài có bông gòn ở đầu như Q-tip chọc vào trong mũi anh rồi bỏ vào ông nghiệm đóng nắp lại. Xong xuôi, họ đi ra khỏi phòng. Một người đẩy chiếc máy cồng kềnh vào phòng, đặt một tấm hình vuông dưới lưng anh, điều chỉnh máy ngay bên trên người anh, lui ra ngoài cửa, tay bấm chiếc nút đang cầm một tiếng “tách” khô khan, rồi anh ta lấy ấm vuông ấy ra, đặt bên hông anh, lại bấm thêm một cái nữa. Anh ta đem tấm vuông ấy bọc vào một cái bao để riêng, đẩy cái máy ra ngoài, đóng kín cửa… Bỗng con số màu xanh dương tụt xuống, chớp báo động inh ỏi. Cô (BS) đứng bật dậy, bấm cái nút to màu xanh trên tường rồi mở cửa chạy vụt vào phòng, rút quä bóng oxygen cấp cứu trên đầu giường, úp mặt nạ lên mặt chàng trai, bóp bóng liên tục đẩy oxygen vào phổi. Hai điều dưỡng chạy tới, đẩy xe thuốc cấp cứu đến trước cửa phòng, nhanh nhẹn bẻ khóa, mở ngăn kéo lấy ra ống thở và đèn đặt nội khí quản cho cô. Cô mau chóng đặt ống thở, nối với máy thở bên cạnh giường. Con số màu xanh dương vọt lên 85 nhưng không lên nữa dù cô đặt oxygen 100%…                                                                                

Cô thở dài, bước ra ngoài, tháo bộ đồ trang bị, gỡ bỏ khẩu trang, rửa tay với xà bông, rồi bước lại bàn làm việc, bấm số gọi cha mẹ của anh…                                                          

Chàng trai suy yếu dần dần. Những chỉ số liên tục xấu đi. Máy thở oxygen không giúp được hai lá phổi bị hư hại. Gan và thận suy nặng. Mọi người trong khoa Săn sóc đặc biệt nhìn nhau u ám lắc đầu. Người bệnh không còn hy vọng gì cứu nỗi”.

Và cùng với bài “Cuối Mùa Dịch”, (xin phép trích vài đoạn) bác sĩ Minh Ngọc tóm tắt, nước Mỹ (New York) đã dứt điểm Covid-19 như sau.

Từ cuối tháng 3-2021, các bác sĩ bắt đầu hình thành kế hoạch cụ thể hơn căn cứ vào những kinh nghiệm bước đầu – không chữa theo phác đồ ARDS nữa mà hổ trợ hô hấp bằng BiPAP hay CPAP, chỉ đặt nội khí quản khi bịnh nhân thực sự suy hô hấp nặng cần thở máy, cho xét nghiệm chức năng đông máu thường xuyên để phát hiện sớm và chữa kịp thời bằng thuốc kháng đông alteplase (tPA). Các thuốc thử nghiệm hydroxychloroquine, remdesivir, lerolimab được áp dụng, có còn hơn không. Chưa bao giờ thấy FDA duyệt nhanh và nhiều như vậy, phê chuẩn ào ào đủ loại thuốc và xét nghiệm. Nhiều chương trình nghiên cứu thử luôn thuốc kẽm, pepcid, sinh tố D… nói chung nghĩ ra được món gì khả dĩ chống được con virus này là thử hết. Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân được đề nghị thử thuốc gì cũng gật đầu, biết đâu công hiệu thì sao! Rốt cuộc chẳng biết nhờ các biện pháp phòng ngừa, nhờ thay đổi cách điều trị hay nhờ các thứ thuốc chữa bá bệnh mà các bệnh nhân tháng 4 hồi phục nhanh chóng, xuất viện ào ào, tinh thần làm việc của bác sĩ, điều dưỡng phấn chấn hẳn, thừa thắng xông lên. Trên tường bệnh viện xuất hiện tấm bảng đen ghi bằng phấn, mỗi ngày thay đổi con số xuất viện, lên tới trên con số ngàn. Hai trại cấp cứu dã chiến trong sân bệnh viện đã dỡ bỏ bớt một, còn giữ một trại tuy trống nhưng để phòng đợt dịch thứ hai. Đội cấp cứu đường thở đâm ra “thất nghiệp”, nhiều ngày ngồi ngáp ruồi chẳng ai gọi, bèn phân vào phòng mổ. Phòng mổ “sạch” (Covid-19 âm tính) ngày càng bận rộn, làm việc toàn thời gian. Tuần qua là tuần đầu tiên phòng mổ “sạch” đạt 75% số phòng hoạt động. Các anh chị BS Ngoại khoa và điều dưỡng phòng mổ chính thức không còn làm việc ở Cấp cứu và ICU nữa, trở lại với áo mũ dao kéo, BS gây mê thôi không còn chạy đi cấp cứu đường thở, trở lại với máy móc thuốc men… Trở lại với hoạt động bình thường trong bệnh viện, là điều vẫn ước ao hàng ngày khi đang vất vả đối phó với bệnh nhân la liệt khắp nơi, vậy mà lại bùi ngùi tiếc nuối! Nhớ không khí căng thẳng, mỗi người tất bật làm việc trong trang phục kín mít, những ánh mắt trao đổi thầm lặng qua kính bảo hộ – lo lắng, hy vọng – khi các chỉ số nhảy lên xuống trên màn hình, gương mặt thất thần của bệnh nhân dán mắt vào các nhân viên như cầu cứu. Từ chỗ hoang mang lo sợ những ngày đầu, mọi người trở nên thuần thục, hăng hái, quên cả nguy hiểm dốc sức cứu chữa từng sinh mạng, tự nhiên cảm thấy những ngày giờ làm việc của mình có một ý nghĩa nào đó, không chỉ là một công việc lãnh lương hai tuần một lần… Một điều tôi biết chắc, khi dịch tái phát, đội ngũ y tế nay đã  dày dạn kinh nghiệm, sẵn sàng đương đầu với con virus ghê gớm, các trang bị bảo hộ tích trữ đủ dùng nhiều tháng, máy thở và thiết bị hô hấp được cung cấp quá số lượng cần dùng nằm trong kho chờ sẵn. Chúng tôi không còn sợ nó” 

Một điều đáng quan tâm, vì con Covid-19 phát xuất từ thành phố Vũ Hán bên Trung Hoa nên khắp nơi trên thế giới, người ta ghét người Tàu, nhất là ở Mỹ, hễ thấy người tóc đen, da vàng, mũi tẹt là họ kỳ thị, đôi khi nhục mạ, tấn công. “Hãy cút về xứ của chúng mày!”… Quí ông bà Việt Nam quá khích (cuồng Trump đến thô lỗ, cục cằn) nên suy ngẫm lại thân phận của người tỵ nạn. Người Mễ, người Phi Châu nhập cư rất ý thức, không hề biểu lộ chính kiến. Cái giấy chứng nhận công dân Hoa Kỳ được cấp phát chỉ là thủ tục hành chánh, có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào, trục xuất bất cứ lúc nào nếu ta phạm pháp. Người da đen sinh sống ở xứ Mỹ hàng trăm năm vẫn bị kỳ thị, xem như công dân hạng hai, bị chẹt cổ đến chết, thi công dân hạng ba, là người nhập cư da vàng dễ dàng bị người da trắng và cả da đen tấn công. Nên thận trọng trong sinh hoạt và những phát biểu. Trong thế chiến 2, khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, hàng trăm nghìn người Mỹ gốc Nhật đều bị tập trung lại một chỗ. Gần giống như trại tập trung cải tạo vậy. Hết.

Phạm Thành Châu

Visits: 103

Hy Vọng Khởi Đi Từ Màu Đen

Nguyễn Quang Dũng

1.

Tháng 5 1981. Tôi và vợ cùng hai đứa con, một trai một gái, quyết định vượt biển, vượt thoát khỏi quê hương Việt Nam khốn khó đang sống ngột ngạt trong cuộc đổi đời dưới chế độ kiểm soát tù tội của chính quyền cộng sản từ phương bắc.

Đây là lần vượt biên thứ tư của gia đình tôi, ba lần trước đều bị bỏ rơi, phải trở về, may mắn là không bị bắt, cũng như chưa ra biển.

2.

Lần này, chuyến vượt biên thành công. Chiếc tàu nhỏ dùng chạy đường sông được sửa mủi tàu để có thể vượt sóng biển, thoát khỏi lòng sông ở cửa Cần Giờ, Long An, trực chỉ biển lớn.

Những người tổ chức của chiếc tàu vượt biên mang theo 60 người, mãi mấy ngày sau tôi mới biết, chỉ có một kế hoạch duy nhất là chạy ra hải phận quốc tế và tìm tàu lớn để mong được cứu vớt. Chúng tôi mất đúng năm ngày đêm chỉ để thực hiện được mục tiêu này: Chạy được tới hải phận quốc tế, tìm thấy được nhiều chiếc tàu hàng hải lớn. Nhưng duy chỉ là mỗi lần xả máy lại gần để cầu cứu thì những chiếc tàu sắt lớn này im lặng lừng lững bỏ đi, không hề quan tâm đến những dấu hiệu S.O.S của chúng tôi.

Ngày thứ sáu lênh đênh giữa biển khơi trong những cuộc đuổi bắt và cầu cứu vô vọng, tôi biết được từ người tổ chức là chiếc tàu nhỏ của chúng tôi đã gần cạn xăng dầu và nước uống. Sẽ phải ngưng lại việc rượt đuổi theo tàu lớn và nước uống sẽ được phân phối hết sức hạn chế .

Những mệt mỏi. lo âu và thất vọng hiện ra ở gương mặt mỗi người lớn. Những đứa nhỏ nằm la liệt trên sàn tàu, ói mửa, hốc hác…

Tối hôm đó. Biển động.

Trời đen.

Biển đen.

Những con sóng đen ngòm, với độ cao và độ nghiêng đến chóng mặt.

Lần đầu tiên trong đời, tôi ở trong lòng biển động, giữa trùng khơi sâu thẳm.

Tôi sống ở Nha Trang từ nhỏ. Biển vẫn là niềm vui và gần gủi trong đời sống của tôi. Khi lớn lên, hàng ngày trước khi đi học, tôi thường ra biển từ sáng sớm để ngụp lặn bơi lội trong làn nước xanh mặn mát ấm. Biển do vậy là những nỗi niềm thân thiết rất riêng tư của tôi. Tôi biết Biển có những lúc là Biển của hiền hòa yên tĩnh, cùng nhịp với tiếng gió thông reo hay ánh trăng đêm rằm nhẹ nhàng tỏa sáng mặt biển đêm. Tôi biết Biển có những khi gầm thét, hung dữ trong những ngày bão lớn với những con sóng xám đen cao ngất lừng lững từ xa chạy vào và đập vỡ tung bờ cát trắng.

Nhưng tôi chỉ mới biết Biển khi chân tôi đứng trên mặt đất yên ổn nhìn Biển cuồng nộ. Chưa một lần tôi cảm nhận được cái nhỏ bé mong manh đến không tưởng của chiếc tàu nhỏ  như một cọng rơm giữa biển đen sóng dậy. Không một chỗ tựa. Tôi nhìn thấy chung quanh tôi là biển nước đen ngòm hun hút đến tận trời xa đen thẳm. Biển động đang sắp sửa nhận chìm chúng tôi xuống đáy biển sâu!  Ý tưởng đó, sắc như con dao nhọn bén, đâm thẳng trong đầu tôi.

Sợ hãi ập tới. Như con sóng lớn đen ngòm kia đang ập tới, nhận chìm và chiếm ngự  tôi trọn vẹn. Không gì cản nỗi.

3.

Sợ hãi là một thứ tình tự lạ lùng và ma quái. Tôi nhận ra trong đời tôi, tôi có nhiều nỗi sợ linh tinh, thường là những dấu hiệu báo trước một loại hiểm nguy hay bất trắc nào đó tôi nhắc tôi nên tránh. Tôi gọi nó là sợ hãi nhỏ. Thường vì nhỏ nên chuyện vượt qua loại sợ này cũng là chuyện nhỏ.

Nhưng tôi cũng nhận ra sự hiện hữu của một thứ sợ hãi với mức độ và tầm cỡ kinh khủng, ảnh hưởng và tác động cùng lúc trên nhiều người. Thứ sợ hãi này liên quan đến những biến cố lớn trong đời sống mỗi người.  Và cũng thường tình, người ta dùng màu đen để diễn tả một cánh ngắn gọn nhưng đầy đủ về những biến cố mang tính phá hoại hay bi thảm này. Tháng Tư Đen chẳng hạn, tên gọi ngắn cho  biến cố 30-4-1975, nhận chìm hàng triệu người miền Nam Việt Nam trong bóng đen của sợ hãi, chết chóc và bi thảm trong thân phận những người thua trận và mất nước.

Trải qua và vượt qua biển nước mênh mông đen kịt tối hôm mưa gió đó, tôi nhận ra tại sao màu đen gắn liền với sợ hãi trong tôi bấy giờ:

Đơn giản bởi vì tôi sợ những gì tôi không hình dung, không thấy được.

Biển động ngoài trùng khơi xa thẳm hôm đó chỉ toàn là một màu đen.

Biển đen. Trời đen.

Trong bóng tối, tôi không nhìn thấy được gì ngoài màu đen. Và chính trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra tôi không là gì hết khi đem cái hữu hạn của tôi đặt trước cái vô cùng của trời đất. Những gì tôi biết, tôi thấy, không là gì hết trước khoảng không của hằng hà vô số những gì tôi không thể biết và không thể thấy.

Chỉ như vậy: Tôi sợ.

 

4.

Tháng 4 năm 2020, Tháng Tư Đen của cả thế giới.

Con vi khuẩn nhỏ nhưng với khả năng phá hoại khủng khiếp đã làm cả thế giới sợ hãi.

Cho đến nay, đầu năm 2021, hàng triệu người chết. Hàng triệu người bị lây nhiễm phải nhập viện và vất vả chiến đấu tồn sinh. Đời sống và sinh hoạt thường nhật bị xáo trộn đến cùng cực. Lệnh cách ly và hạn chế mọi sinh hoạt tụ họp hay sinh hoạt mang tính giao tiếp làm mọi người co rúm trong sợ hãi.

Cha mẹ con cái xa cách ông bà. Người yêu người không còn biểu hiện ở những xiết chặt của vòng tay ôm, không còn những nụ hôn gần gũi ngọt ngào, không còn những nụ cười vui. Không còn ai thấy ai. Tôi có cảm tưởng dường như những ngày tháng của Tháng Tư Đen 46 năm trước lại trở về. Người xa người trong những chia xa, ngăn cách.

Và tôi cũng nhận ra len lõi đâu đó trong tâm trí dường như là nỗi sợ hãi khi đối diện với nhiều điều tôi không biết, không thấy được và không lường trước được. Con vi khuẩn nguy hiểm lây lan trong không khí là kẻ thù độc hại và khi nhìn thấy nó thì đồng nghĩa là tôi đã gục ngã. Nỗi sợ hãi này không khác gì nỗi sợ lúc tôi ở trong lòng biển đen trong chuyến vượt biển năm nào.

Chỉ khác một điều: Vào Tháng Tư Đen 1975 tôi biết rất ít về những gì sắp sửa xảy ra trong lúc ở Tháng Tư Đen 2020 thông tin về dịch bệnh lại nhiều đến mức không tưởng. Các cơn bão thông tin này với những phương tiện truyền thông hiện đại từ những chiếc điện thoại cầm tay nhỏ xíu lan truyền đi rộng rãi, khuếch tán lớn thêm mãi về cái hữu hạn của kiến thức loài người hay những-điều-không-biết của con người đứng trước bệnh tật.

5.

Nhưng điều tôi chưa viết ở đây là tối hôm biển động trong chuyến vượt biên của tôi và gia đình, đêm tối tôi tưởng là đã vùi thây trong lòng biển như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác trên đường tìm tự do, biển lớn hay Trời Phật đã nhẹ tay không dìm chết những sinh mạng nhỏ nhoi kia, trong đó có tôi, đang loi ngoi trên làn nước mênh mông. Và còn ban phát những giọt nước cứu tinh.

Là mưa. Những giọt nước mưa lúc đó quý hơn vàng. Trong đêm tối, mưa ướt ngọt trong môi miệng tôi. Chúng tôi loay hoay hứng mưa dự trữ nước uống, cộng thêm kinh nghiệm của người lái tàu biết cách cỡi sóng và nhờ vậy cầm cự, sống sót thêm được vài ngày. Hai ngày sau, sau khi bàn thảo rút kinh nghiệm, chúng tôi đổi cách cầu cứu: Chiếc tàu nhỏ của chúng tôi sẽ ngừng máy, thả neo, đốt khói đen, giăng bản vải S.O.S và khi thấy tàu hàng hải lớn thì những người biết bơi sẽ nhảy xuống biển vẫy tay kêu cứu.

Kế hoạch này thành công một nửa: Một tàu hàng hải của Trung Cộng đã dừng lại cung cấp cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: thức ăn, nước uống, xăng dầu và quan trọng nhất là bản đồ hàng hải hướng dẫn chúng tôi đi đến Mã Lai. Họ không cứu chúng tôi âu cũng là may mắn vì dĩ nhiên là chúng tôi không muốn chạy họa cộng sản lại đến một xứ cộng sản khác.

Bốn ngày sau đó chúng tôi tấp vào thương cảng Singapore thì bị tàu tuần quốc gia này kéo ngược ra, bảo là họ không nhận người tỵ nạn từ Việt Nam, họ khuyên chúng tôi đi đến Phi Luật Tân. Không còn cách nào khác hơn, tàu chúng tôi đâm vào bờ biển Mã Lai, thả người vào bờ và đục tàu, đánh chìm chiếc tàu nhỏ. Sáu chục thuyền nhân của tàu chúng tôi sau đó cũng gia nhập đại gia đình của người Việt tỵ nạn tại đảo Pulau Bidong.

 

6.

Tôi nhận ra trong tuyệt vọng của đói khát và đối diện với tử vong trong chuyến vượt biển năm nào thì hy vọng đến cho tôi cơ hội tiếp tục tồn sinh.

Đến bây giờ có một lý lẽ rất đơn giản mà tôi trực nghiệm từ những trải nghiệm của đời sống là tôi luôn sống trong cái hữu hạn của kiếp người. Cái biết của tôi không là gì hết trong cái vô hạn của Trời Đất.

Cũng cho đến bây giờ tôi vẫn còn tự hỏi: Làm sao tôi còn sống sót trong lúc hàng trăm ngàn người vượt biển tìm tự do  như tôi vùi thây trong lòng biển sâu? Có chăng Trời Phật với những sắp xếp mà loài người không biết được?

Và tôi cũng như triệu tỷ người khác trên trái đất này là những kẻ không-hiểu-gì, loay hoay cả đời trong những tất bật mang tính đối cực, nhị nguyên, cái lý lẽ hai-mặt-của một-đồng-tiền: Sáng-Tối. Vui-Buồn. Sướng-Khổ. Thăng-Trầm. Giàu-Nghèo. No-Đói. Trẻ-Già. Khóc-Cười. Sống-Chết…

Nhưng có một điều tôi hiểu rõ, một cách chắc chắn, là không khi nào tôi có thể ở mãi trong một mặt của đời sống. Tôi không thể có bình an mãi được vì đời sống vốn đầy dẫy những bất an giăng bủa chung quanh. Tôi không thể sống khỏe mãi được vì hàng triệu vi khuẩn gây đủ thứ bệnh tật tìm đủ mọi cơ hội để xâm nhâp các cơ quan chức năng của cơ thể tôi. Và không chóng thì chầy thì tôi sẽ chết vì lẽ đơn giản tôi không thể sống mãi được. Vậy thì tại sao tôi phải sống co rúm trong sợ hãi vì mãi lo bám víu một mặt nào đó của cái đồng-tiền-hai-mặt?

Cũng như trong bóng tối mênh mông của đêm trên biển động tôi tìm thấy hy vọng từ những giọt nước của Trời. Và sau đó là ánh sáng và bình lặng của Biển lớn.

Cũng như lúc này, ở đây,  trong trắng lạnh của tuyết giá một ngày cuối năm âm lịch tôi nhìn thấy con chim anh vũ đỏ từ đâu bay lượn về đáp xuống trước sân nhà bình thản  ngắm tuyết rơi.

Ơ hay! Nếu tôi không biết gì về cái lẽ chuyển vận vô hạn, vô cùng của Trời Đất, của Sống và Chết, thì không có lý do gì tôi phải sống trong lo sợ và bám víu. Buông Xả tôi sẽ Nắm Bắt được Cái Đẹp của màu đỏ con chim Anh Vũ trên màu trắng của Tuyết.

Còn gì cần thiết phải nghĩ ngợi lôi thôi?

Nguyễn Quang Dũng

tháng 2/2021

Visits: 121

Vợ Vắng Nhà Và Chuyện Nàng Hoa Phượng       

Truyện vui Phạm Thành Châu

Có một triết gia đã nói một câu mà quí ông rất thích “Người đàn ông có hai lần hạnh phúc. Lúc cưới vợ và lúc trở lại thành độc thân” Vì sao? Vì vợ nói nhiều quá và bị (phải) ăn các thứ vợ nấu. Vợ nói nhiều xảy ra từ thời con người còn ăn lông, ở hang. Đàn ông muốn săn thú rừng phải im lặng. Gây tiếng động thì con thú chạy mất! Trong lúc quí bà, trong hang đá “Tùng tam tụ ngũ”, chuyện trò với nhau, chờ chồng đem thịt rừng về nhậu. Đó là xét theo khảo cổ học. Theo nghiên cứu khoa học, thì trường y khoa Indiana ở Indianapolis cho biết, đàn ông chỉ dùng nửa bán cầu não, có tên là Temporal Lobe để nghe và nói. Các bà thì dùng cả hai bán cầu não. Bởi thế các bà học ngoại ngữ rất tài và có thể nói suốt ngày đêm không mỏi miệng. Còn theo thống kê thì mỗi ngày, quí ông, trung bình, nói hai nghìn (2,000) tiếng. Quí bà nói năm nghìn (5,000) tiếng. Đa số là để la lối với chồng con và “Thế hả?” với các bà bạn trên điện thoại. Đức Khổng Phu Tử kính mến đã nhiều lần thở dài mà rằng “Ba bà thành cái chợ!” Có ông kia, đi uống cà phê với bạn, báo tin.

– Tôi sắp li dị vợ.

Hỏi vì sao? Ông ta thở dài.

– Nó không hề mở miệng nói với tôi lời nào!

Các ông cười, chế nhạo.

– Xạo hoài! Liên Hiệp Quốc vừa công bố: Sinh vật quí hiếm (người vợ ít nói) đó đã tuyệt chủng từ lâu rồi!

Ông khác thì theo năn nỉ.

– Ông muốn vợ nói nhiều thì đổi vợ cho tôi đi. Vợ tôi nói nhiều quá. Chịu hết nỗi. Khi ngủ nó cũng “mớ”, miệng lảm nhảm suốt đêm.

–  OK! Đổi thì đổi, nhưng không được trả lại.

Một ông khác khoe.

– Tôi có cách làm bà vợ hết nói. Để tôi kể cho quí vị nghe. Vợ tôi cũng nói cả ngày lẫn đêm. Một buổi tối, lên giường, tôi nói. “Em chiều anh đêm nay,được không?” Nàng hỏi. “Trong bao lâu?” Tôi nói “ Suốt đêm nay” Nàng hỏi “Sao bữa nay hăng quá vậy?” Tôi nói “Em cứ nhắm mắt ngủ. Đừng nói gì hết! Chuyện đó để anh lo” Nàng vui vẻ nhắm mắt ngủ (trong thế chờ!). Tôi cũng ngủ một giấc đến gần sáng thì thức dậy sửa soạn đi làm. Nàng chợt thức giấc, ngạc nhiên và giận dữ. Nói “Suốt đêm ông ngủ khò. Bắt tôi đi ngủ sớm mà có làm gì đâu? Bây giờ, dậy sớm để chạy làng phải không?” Tôi nói “Anh cần em chiều anh, là đi ngủ sớm, đừng nói gì cả để anh ngủ yên, lấy sức, sáng nay đi làm sớm”

Mấy ông gật gù.

– Hay. Hay! Rồi sao nữa?

– Thì nàng níu áo, bắt đền. Tôi “phải trả nợ quỉ thần”, lại đi làm trễ giờ.

Đọc đến đây, làm gì cũng có bà tức giận.

– Bộ các ông không nói nhiều sao?

– Xin thưa quí bà. Có ạ! Đó là cố đồng chí chủ tịch Phidel Castro của nước Cuba, từng đọc một bài diễn văn dài hơn 3 tiếng đồng hồ trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.. Và mới đây thôi đồng chí Kim Jong Un chủ tịch Bắc Hàn, thay vì đọc lời chúc Tết đầu năm 01-01-2020, đồng chí Un kính mến họp Hội Nghị Quân Ủy Trung Ương Mở Rộng, đã đọc một bài diễn văn dài bảy (7) tiếng đồng hồ. Đồng chí nào ngồi nghe mà ngáp hoặc ngủ gục thì tức khắc bị lôi ra, cho đi tàu suốt, ra nghĩa trang buồn, nằm nghe dế kêu.

Quí bà lắm lời trong nhà là chuyện bình thường. Vậy chứ có bà nào nói nhiều trước công chúng không? Nhiều lắm! Điển hình như tờ Spunik cho tin. Ngày 01 tháng 2 năm 2020, bà Bộ trưởng Tài chính Sithraman phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ dài 2 giờ, 38 phút khiến các ông nghị sĩ ngáp dài vì quá ngán.

Vợ hắn thì hơn các bà khác. Vừa nói vừa nạt vừa đánh chồng. Đi làm về, đã thấy nàng đứng chống nạnh với cái chổi lông gà.

– Ông nhìn đồng hồ coi! Giờ nầy mới mò về. Theo con đĩ chó nào mà về trễ cả nửa giờ? Đừng nói kẹt xe với tôi.

Và nàng vung cái chổi lông gà lên. Chỉ một cái lắc mình, hắn đã đứng xa nàng hai trượng, vòng tay thủ lễ.

– Tiểu nhân có điều gì thất thố, xin phu nhân lượng thứ!

Nàng bậm môi, tung chổi, tấn công liền. Hắn lùi lại.

– Tiểu nhân đi đây!

Rồi dùng thuật phi hành phóng chạy. Nàng ì ạch, như con vịt bầu, đuổi theo, miệng nheo nhéo.

– Đồ đàn ông mất nết. Có giỏi thi đứng lại!

Hắn chạy quanh nhà, nàng nổi xùng (ì ạch) đuổi tiếp. Vợ hắn hơi nặng cân, cỡ một tạ (100 kí lô). Bác sĩ bảo nàng phải chạy bộ mới bớt mập. Nàng hỏi.

– Tôi rượt ông xã tôi, có được không, bác sĩ?

Ông bác sĩ gật gù.

– Hai ông bà cùng chạy thì tốt quá, nhưng coi chừng, ông ta chạy luôn đến nhà bà khác thì phiền.

Hắn rất muốn giúp nàng giảm cân nên hắn chạy trước, nàng đuổi theo quanh nhà. Được một năm thì kết quả thật đáng kinh ngạc: Nàng sụt mất một nghìn (1,000) milligrams! Một lý do khác để nàng có dịp rượt đánh hắn, là vì hắn có máu dê. Ra đường, thấy người đẹp đưa ngực, đưa đùi, là hắn nhìn sửng “Bước đi rồi, con mắt còn có đuôi…” Nàng giận tím mặt. Về nhà, mới bước xuống xe, là nàng dùng hai ngón tay, kẹp miếng thịt bên hông hắn, vặn tréo, miệng đay nghiến.

– Tật dê không chừa! Tôi hỏi ông. Tôi khác mấy con chó cái đó chỗ nào mà ông nhìn muốn rớt con ngươi? Khác chỗ nào? Hả? Nói mau!

Hắn nói.

– Khác nhiều chỗ lắm!

Rồi tuông chạy, nàng lại rượt hắn.

Một lần khác, hắn đưa vợ đi chợ. Thông thường, hắn đẩy xe theo sau vợ. Vợ hắn muốn mua gì thì bốc bỏ vô xe. Hắn bỗng thấy một nàng đi vào chợ với đôi gò bồng đảo to, để lộ một nửa đồi ngực trắng hồng như hai trái bưởi (đã lột vỏ). Hắn như người mất hồn, đẩy xe theo cô ta đễ nhỉn trộm cái ngực bự, quên cả thế gian. Vợ hắn quay lại không thấy chồng, đi tìm, thấy hắn đứng nhìn sửng ngực người đẹp. Nàng kéo tai hắn, lôi đi. Về nhà, nàng đóng cửa lại, bắt hắn nằm sấp xuống xô pha, trở cán chổi lông gà. Vừa nhịp trên mông hắn vài cái là hắn đã mếu máo khóc như em bé. Vợ hắn tức cười nhưng làm nghiêm.

– Uả! Biết tội gì chưa? Đã đánh đâu mà khóc? Nín ngay! Tại sao thấy con đàn bà nào có ngực bự là ông cứ theo nhìn mê man, quên cả vợ con?

Hắn trả lời.

– Ngực nhỏ, nhà mình có rồi!

Nói xong hắn lại vùng dậy, tung cửa chạy ra đường.

Một hôm, nàng bảo hắn đi mua vé máy bay để nàng về Việt Nam thăm các dì của mấy cháu. Hắn hỏi.

– Em đi mấy ngày?

Nàng đáp.

– Một tháng!

Hắn tưởng mình đang nằm mơ, thấy Bụt hiện ra nói với hắn, (như trong truyên cổ tích) “Ta nói thế là để thử lòng nhà ngươi đấy thôi!” Nhưng đó là sự thật, không phải là giấc mơ. Hắn vội chạy đi mua vé máy bay, sợ nàng đổi ý thì mất vui. Hắn về, đưa vé máy bay cho nàng, mặt buồn thiu, cất tiếng hát “Em đi rồi… còn ai vuốt tóc tôi?” Hắn có tâm hồn nghệ sĩ, thi ca, hò, vè, hắn đều xuất sắc, Gặp chuyện gì hắn cũng có thể cất tiếng, hát hoặc ư ử ngâm vài câu thơ, nghe (rất) vừa dở vừa vô duyên. Lần nầy, hắn đóng kịch quá tệ, bị nàng lột mặt nạ.

– Đừng có vờ vịt. Tôi chưa lên máy bay là ông đã chạy theo mấy con “chó cái” đó rồi. Liệu cái thần hồn! Lạng quạng, tôi thiến tận gốc cho biết thân.

Hắn hát tiếp “Ngày mai em đi, ngày tháng bơ vơ đợi chờ…” Nàng không thèm cười, vớ lấy cái chổi lông gà. Thế là nàng lại rượt hắn.

Vợ vắng nhà. Đó là chân hạnh phúc. Vì sao? Vì không phải nhìn thấy mặt vợ. Có lần, vợ hắn trang điểm, diện áo quần đẹp, ẹo qua, ẹo lại trước gương soi, làm bộ thở dài để hắn chú ý và  khen nàng đẹp.

– Thỉnh thoảng, soi gương, thấy mình già và xấu quá! Thiệt, chán hết sức!

Hắn đồng tình ngay.

– Đúng vậy! Em thì thỉnh thoảng mới soi gương nhìn dung nhan mình. Còn anh thì ngày nào, giờ nào cũng nhìn thấy em. Chỉ muốn nhảy sông chết quách!

Nàng co chân, rút chiếc giày, ném vào người hắn rồi vớ lấy cái chổi lông gà. Hắn lại tuông chạy. Nàng, bước thấp, bước cao (một chân không giày), vừa rượt hắn vừa khóc hu, hu!. Hắn phải quay lại, ôm vợ, xin lỗi ríu rít.

– Sorry! Em đẹp nhất thế gian. Mấy con hoa hậu thế giới, so với em, là đồ bỏ!

Hạnh phúc thứ hai khi vợ vắng nhà là không phải ăn các món vợ nấu. Nhiều ông chồng, đôi khi, để làm vui lòng vợ, khen một món nào đó do vợ nấu. Chớ chơi dại! Vợ sẽ nấu mãi món đó, chồng ăn mãi món đó. Ăn tới “lòi cuống họng!”. Vừa rồi, đầu năm 2020, một đại họa giáng xuống thế gian, người chết như rạ. Đó là nàng Covid-19 hạ sơn, giết mấy triệu người. Chính phủ các nước vội ra lịnh “Cách ly” Ai ở nhà nấy. Văn phòng, xí nghiệp, nhà hàng… đóng cửa. “Nhàn cư vi bất thiện”, các bà nghĩ đến trò nấu nướng. Các bà sưu tầm cách nấu các món ăn, càng kỳ lạ càng hấp dẫn. Bà nầy nấu xong, dọn ra, chụp hình gửi cho các bà khác. Các bà trầm trồ “Chị nấu cách nào? Chỉ cho em với!” Rồi bắt chồng đi chợ (các bà không dám đi, sợ lây bịnh Covid-19, để chồng đi chợ, rủi có chết thì mình còn có dịp lên xe hoa lần nữa) Các bà lại hì hục nấu nướng, rồi lại chụp hình, gửi các chiến hữu, sau đó bắt ông chồng ăn, làm “vật thí nghiệm” (Rủi có trúng độc mà chết thì cũng đúng như “Lời nguyện cầu” của quí bà). Trong tám cái khổ của lũ đàn ông, có “Tắng oán hội” khổ. Nghĩa là đau khổ khi phải sống với (ai đó) mà mình không ưa. cái khổ thứ hai là “Cầu bất đắc” khổ. Nghĩa là muốn chết quách để khỏi phải nhìn thấy “người kia” mà không chết được, cũng là khổ. Có ông nọ, lúc sắp đưọc nằm ngủ trong lòng chị “Sáu… Tấm” có mấy lời trăn trối với vợ.

– Khi tôi chết, “Đừng quăng tôi ra biển”(nhại thơ Mr. Lê), bà cũng đừng nấu nướng gì cả. Cứ ra “tiệm cơm chỉ” (bán thức ăn nấu sẵn, thích món nào, chỉ món đó) mua về cúng tôi.

Bà vợ hỏi.

– Ông nói tôi nghe. Tại sao?

Ông chồng thều thào.

– Các món bà nấu, tôi “bị” ăn suốt mấy chục năm, ngán đến tận cổ. Tôi chết bà lại nấu cúng tôi, chỉ ngửi thấy mùi, tôi đã khiếp vía, không dám hưởng, sẽ thành ma đói, không siêu thoát được.

Bà vợ đay nghiến.

– Tôi sẽ chết theo để nấu cho ông ăn.

Ông chồng thất kinh.

– Tôi lạy bà. Để tôi đi một mình.

Nói xong, thở hắt ra, linh hồn “cấp tốc” phóng chạy vào hư không. (Như những chuyện tôi đã kể trước đây. Nhiều ông, trước giờ lâm chung cũng đã lạy “giả từ” vợ kiểu đó)

Trở lại chuyện vợ hắn về Việt Nam. Trên đường đưa nàng đến phi trường, hắn lại hát nho nhỏ “Người ơi! Chốn xa xăm biết người nhớ tôi những gì?…” Mặt lạnh tanh, nàng nói “Xạo đủ rồi!”. Hắn cười hề hề rồi liếc nhìn gương mặt hầm hầm của nàng để biết chắc gương mặt ‘đáng yêu’ đó sẽ không hiện diện trong cuộc đời hắn trong một tháng. Sau khi nàng lên máy bay, hắn ‘lưu luyến’ đứng nhìn chiếc máy bay (có nàng trong đó) lên cao dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ, khuất vào trong mây trời, hắn mới tát vào mặt mình mấy cái, để biết chắc mình không nằm mơ, rồi ngâm nga “Vợ đi! Ừ nhỉ, vợ đi thực. Nàng giờ đây ở trên máy bay. Nàng giờ đây nhỏ như hạt bụi. Ta giờ đây, phải nhậu cho say…” Và hắn reo lên “Ha ha! Không thấy mặt vợ đến một tháng luôn!” Rồi nhảy chân sáo, ra xe, mở chai ‘Thằng Johny đi bộ’ (Johny Walker, đã mua, giấu kỹ cho giờ phút nầy), tì tì từng ngụm, mắt ngước nhìn mấy cánh chim đang lướt trên bầu trời xanh bao la, để suy ngẫm và thưởng thức hai chữ Tự Do. Hắn cứ ngồi lơ tơ mơ như thế cho đến khi dã rượu, hắn lái xe về mà cứ hồi hộp, lo lắng, không hiểu, vợ còn ở nhà hay đã về Việt Nam? Ngay đêm đầu tiên, nằm ngủ trên giường, thỉnh thoảng hắn quờ quạng khắp giường, thấy trống vắng, biết chắc vợ không nằm bên cạnh, hắn mỉm cười, chìm vào giấc ngủ (cô đơn!).

VÀ CHUYỆN NÀNG HOA PHƯỢNG 

Sáng hôm sau, trước khi đi làm, hắn móc điện thoại.

– A lô! Em Hoa Phượng đó hả? Anh Ba đây!

– Anh Ba nào vậy?

– Anh Ba Trợn đây!

– Dạ. Chào anh Ba Trợn. Em Hoa Phượng nghe anh đây!

– Trưa nay, giờ lunch (nghỉ ăn trưa) mình ra chợ Eden (tiểu bang VA) kiếm gì ăn?

– Dạ. Cám ơn anh. Khoảng mười hai giờ. Em sẽ ra với anh.

Nàng Hoa Phượng nầy là một trong các cô bạn rất thân của hắn, nhưng tình bạn còn rất trong sáng, không như các cô, bà khác (đã hết trong sáng). Sau khi chào hỏi, ngồi vào bàn, hắn làm bộ ngạc nhiên nói với người đẹp.

– Em là ảo thuật gia tài ba nhất ở đây.

Nàng cảnh giác.

– Em có ảo, iếc gì đâu?

– Em làm cách nào mà chung quanh đây anh chẳng thấy ai. Chỉ thấy mình em!

Rồi hắn cất giọng vịt đực hát “… Và hỏi tại sao thế giới đông người anh chỉ thấy riêng em?”

Cô bậm môi rồi nhìn hắn phì cười.

– Miệng ông dẻo như kẹo mạch nha!

Đàn ông có tật xấu là thấy đàn bà, con gái là cứ lỏ mắt nhìn mấy điểm chiến lược của người ta. Vì tò mò chứ chẳng ham muốn gì. Chỉ cần thoáng qua, các ông biết ngay hai quả đào tiên là thật hay ‘made in China’, quả cam hay trái mướp. Sách Thiên Mệnh Kinh (Tàu) có câu “Thiếu nữ như trái nho tươi, nạ dòng như trái nho khô!”. Quí bà mặc quần đùi ra đường là các ông nhìn chăm chăm, chẳng phải chiêm ngưỡng mà vì tò mò, xem đùi nàng có mấy con trùn (nổi gân xanh). Các bà, các cô biết “tật” của các ông là cứ nửa kín, nửa hở các ông mới lỏ mắt nhìn mê mẩn chứ mấy cô gái sắc tộc để ngực trần hay ở các bãi biển, người ta mặc hai mảnh tí xíu, các ông đâu thèm nhìn? Mà cũng chẳng có gì tội lỗi vì các bà cũng cần các ông ngắm nghía. Mình có đẹp, có hấp dẫn người ta mới ngắm nhìn. Bị ngó lơ mới đáng tủi thân. Nhưng xin quí ông đừng nhìn “nham nhở” quá khiến quí bà “nhột”. Trước khi đi đâu, quí cô, quí bà bỏ hàng giờ để trang điểm, lựa chọn áo quần để làm gì? Để “khoe” với các ông. Trên đời nầy mà không có đàn ông thì quí bà hoặc trùm kín mít như bên Ả Rập hoặc chẳng thèm mặc áo quần làm gì cho mất thì giờ. Cứ “vườn không, nhà trống” mà thổn thệnh ngoài đường “Cho gió mát cái bàn chân, cho gió mát cái cùi tay…” Ở bên Âu Châu có hội khỏa thân, ra bãi biển, chẳng ai thèm nhìn ai. Các bà, các cô không mặc áo quần thì cũng giống như con chim công, con chim phượng hoàng bị vặt trụi lông, chẳng biết đẹp ở chỗ nào?

Trở lại chuyện cậu Ba Trợn. Nàng Hoa Phượng ngồi trước mặt, trang phục lịch sự, kín đáo, chỉ dưới cổ, để trần một chút ngực trắng nuốt, mà mắt hắn cứ láo liên, nhìn trộm. Đàn bà nhạy cảm với đôi mắt đàn ông về mấy vụ nầy. Nàng biết, mỉm cười hỏi.

– Âm mưu gì đây? Không hi vọng gì đâu!

Bị lộ tẩy, hắn làm bộ rầu rỉ.

– Vui sướng gì! Vợ về Việt Nam…

Nàng ngạc nhiên.

– Anh mà cũng nhớ vợ?

– Không phải. Vợ anh về Việt Nam, đem luôn chìa khóa cửa. Tối nay không biết ngủ đâu!

Nàng lại cười.

– Thì ngủ khách sạn. Nhà em đông người lắm.

Đó là cách hắn “thả thính” dọ đường, mục đích cho người đẹp hiểu ý. Nếu nàng “lơ lửng” thì sẽ có chút hi vọng. Nghe trả lời như thế, hắn ngỡ mình sắp được ôm nàng Hoa Phượng trong vòng tay. Không ngờ, nàng cảnh giác, mấy lần sau, hắn mời nàng đi ăn thì bị từ chối thẳng thừng. Nàng chỉ đồng ý cho gặp trên điện thoại mươi phút thôi. Thấy nàng quyết liệt, mà một tuần đã trôi qua, hắn sốt ruột, đổi chiến thuật. Hắn khen nàng đẹp trên điện thoại. Khen từ mái tóc, gương mặt, đôi mắt cho đến hình dáng. Dĩ nhiên hắn phải khen đúng để nàng soi gương, mỉm cười và hài lòng. Đàn bà, con gái có chỗ yếu là được ai khen thì có cảm tình với người đó. Hắn thêm một bước nữa. Hắn tỉ tê rằng nhớ nàng, mong được gặp mặt cho đỡ nhớ. Nàng không trả lời, có lẽ còn đắn đo. Hắn biết, không lẽ nàng “Ừ!” ngay. Và hắn chờ đợi.

Một buổi chiều mùa thu, trời mưa lất phất và lạnh. Cảnh nầy làm các cô hơi lớn tuổi, độc thân, buồn ghê lắm. Không có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn cô đơn! Nàng Hoa Phượng gọi cho hắn.

– Em đi công chuyện, ngang nhà anh, em sẽ ghé thăm, độ năm phút thôi. Vì chuyện gấp nên em đến thăm anh là đi liền.

– Em có thể đến sớm, để chuyện trò lâu một chút? Cả tháng (xạo!) nay, em có cho anh gặp đâu!

Im lặng. Một phút sau.

– Bảy giờ em đến, bảy rưỡi em đi.

Ôi chà chà! Nửa giờ! Rõ ràng là nàng Hoa Phượng đã phó mặc số phận đẩy đưa, đến bến bờ nào cũng… OK!.

Hắn đi nấu trà, đem bộ đồ trà chưng trong tủ búp-phê ra, để trên bàn khách cho thêm phần long trọng. Nàng Hoa Phượng đến, hắn mở cửa mời vào. Nàng ngồi đối diện. Hắn rót trà mời. Trong ánh đèn mờ, hắn thấy trang phục nàng sang trọng, son phấn cẩn thận, chứng tỏ nàng  có đi đâu đó thật chứ không phịa chuyện để đến gặp hắn. Coi bộ gay go đây! Các bậc thức giả  có câu “Tri hành hợp nhất” nghĩa là khi ‘biết’ đối tượng muốn gì thì mình phải làm sao cho đương sự ‘hợp ý nhất’. Nhưng nàng có ý nghĩ giống như hắn không? Chợt nàng xem đồng hồ tay. Hắn thử đoán, nàng sốt ruột, muốn đi công chuyện hay muốn nói với hắn “Coi chừng hết giờ!”? Trò chuyện thêm mấy câu nữa, nàng nói.

– Thôi, em về!

Hắn cũng nói.

– Anh cũng đi công chuyện ngay bây giờ. Để anh tắt đèn!

Hắn đứng lên, tắt đèn. Tối thui!

Tôi, (người kể chuyện nầy) chưng hửng! Mà quí bạn đọc cũng chán nản “Tưởng gì gay cấn sắp xẩy ra. Mất công theo dõi nãy giờ!” Mà tôi có muốn kể tiếp, tả tình, tả cảnh cũng chẳng thấy gì. Tối mò mò!  Vả lại, họ sắp rời nhà, ra xe. Nhưng khoan. Xin lắng nghe. Trong bóng tối dày đặc, có tiếng nàng Hoa Phượng.

– Chìa khóa xe em đâu rồi?

– Anh đang giữ đây.

– Cho em, để em về.

– Cho anh hôn, anh đưa chìa khóa.

Yên lặng…

– Để em về!

Có tiếng rù rì của hắn, nghe không rõ nhưng đoán chừng hắn đang tỉ tê gì đấy với người đẹp. Nàng Hoa Phượng, giọng miễn cưỡng.

– Để em về kẻo trễ.

Lại tiếng thì thầm. Nàng cũng thì thầm.

– Đừng anh! Đừng làm em sợ!…

Rồi thì, tất cả rơi vào im lặng. Sự im lặng đáng sợ! Thưa quí bạn đọc kính mến. Quí bạn thử đoán xem chuyện gì đang xảy ra trong căn phòng tối om kia? Tôi thú thật, chịu thua! Trong nhà mà bị mất điện thì thành người mù, chả thấy đường mà làm việc gì!

Thời gian như ngừng trôi. Bỗng (trong bóng tối) có tiếng cười rúc rich.

– Anh là đồ ‘quỉ xứ!’. Làm người ta sợ muốn chết. Lần sau em không dám đến thăm anh nữa đâu!

Hắn cất tiếng hát “Thôi rồi còn chi đâu em ơi. Hết rồi còn chi đâu em ơi!”.

Có tiếng đập lưng hắn thình thịch

– Hết rồi thì đưa chìa khóa xe cho ngưòi ta về. Mở đèn lên. Quần áo xốc xếch hết cả rồi nè!

Đọc chuyện nầy, xin quí bà đừng trách rằng “Lũ đàn ông các ông như gậy thằng mù, chỗ nào cũng thọt được!” Xin thưa rằng. Bản tính đàn ông vốn tò mò mà người nữ lại là một sinh vật bí ẩn. Càng huyền bí, mơ hồ càng khiến lũ đàn ông say mê theo đuổi, khám phá. Ai lên mặt trăng. Quí ông. Ai đã cắm cờ trên đỉnh Everest? Cũng quí ông. Ai đã tìm ra Châu Mỹ? Cũng quí ông. Ai là chồng của quí bà? Cũng quí ông. Thế nên, thưa quí cô chưa chồng, quí bà độc thân, xin hãy thông cảm cho nàng Hoa Phượng cô đơn của hắn.

Phạm Thành Châu

Visits: 148

Đi thăm Australia và New Zealand

Đặng-Quốc-Tuấn 

                                                          

Australia và New Zealand thường được gọi là Down Under (Miệt Dưới) vì ở Nam Bán Cầu và “below” rất nhiều nước khác. Down Under được dùng từ cuối Thế-kỷ 19 và trở nên rất thông-dụng. Bản nhạc nổi tiếng “Down Under” của ban nhạc Men At Work đã quảng-bá thêm cho tên gọi thân-thương này với những lời ca yêu-mến:

Do you come from a land down under

Where women glow and men plunder

I come from a land down under

Where beer does flow and men chunder

Năm 2004, khi hoa-hậu Úc Jennifer Hawkins thắng giải Hoa-hậu Hoàn-vũ (Miss Universe), cô được giới-thiệu là Hoa-hậu của Miền Down Under.

Hội-ngộ Liên Khóa Úc Châu 2018

Tôi không gọi là HNLK Kỳ 4 như Ban Tổ-chức và nhiều người gọi vì theo tôi, đây là Kỳ 5. Năm 1999, Tổng Hội CSV/QGHC đã tổ-chức Họp Mặt lần đầu tiên ở Virginia. Năm 2014, Hội CSV/QGHC Texas tổ-chức cuộc Họp Mặt Kỳ 2 nhưng lại gọi là Kỳ 1. Một hội-viên Hội Miền Đông đã đính-chính nhưng Hội CSV/QGHC Texas vẫn giữ tên là Kỳ 1 và giải-thích rằng Họp Mặt Năm 1999 là Đại Hội QGHC Thế Giới, đêm Liên-hoan gọi là Đêm Hành Chánh Hội Ngộ chứ không phải Hội-nghị Liên Khóa; bởi vậy HNLK 2014 ở Houston là HNLK Kỳ 1. Tôi không hiểu sự khác biệt giữa “Đêm Hành Chánh Hội Ngộ” và “Hội Ngộ Liên Khóa” ra sao? Có lẽ chỉ nên đặt tên Họp Mặt theo năm và nơi tổ-chức, không cần “Kỳ” nữa. Nói vậy thôi chứ Hội CSV/QGHC nào tổ-chức họp mặt và đặt tên ra sao tôi cũng đi để gặp bạn-bè.

Tôi và Nhà Tôi vẫn có ý-định đi thăm vùng Miệt Dưới từ lâu nên khi Hội CSV/QGHC Úc tổ-chức HNLK 2018 tôi ghi tên ngay. HNLK 2018 được tổ-chức rất chu-đáo, thành-công tốt-đẹp. Trước ngày Đại-hội có tour đi Canberra, hai buổi họp-mặt “Tiền Hội-ngộ” và “Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô.” Sau ngày Đại-hội lại có tour Sydney, tour Symbio Wildlife Park và cruise Great Barrier Reef. Thật là qúa đầy đủ, ít cuộc họp mặt thân-hữu nào có nhiều “options” như vậy.

Trung Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa Cộng Đồng

Tour Canberra do anh Đặng Văn Hiền hướng-dẫn. Anh Hiền vốn là một công-chức lâu năm ở đây nên hiểu biết rành-rẽ tổ-chức của chính-quyền Úc. Anh Hiền và người hướng-dẫn ở văn-phòng Quốc-hội đã đưa chúng tôi đi thăm các văn-phòng Thượng và Hạ Nghị-viện Úc. Đi thăm Australian War Memorial thấy hình ảnh cuộc chiến Việt Nam lại buồn nhớ đến hơn 3 triệu người Việt Nam chết, gần 60,000 chiến-sĩ Hoa Kỳ và Đồng Minh đã bỏ mình để ngăn làn sóng Đỏ ở Việt Nam, bảo-vệ tự-do cho Thế-giới. Xin cám-ơn Chính-phủ, Quân-đội, và nhân-dân Úc đã trực-tiếp tham chiến tại Việt Nam, khởi sự từ con số khiêm-nhường 30 Cố-vấn Quân-sự năm 1962 lên đến một lực-lượng hùng-mạnh 7,672 chiến-sĩ. Trước chiến tranh Afghanistan, chiến-tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất trong lịch-sử Úc. Tuy chiến tranh Afghanistan dài hơn chiến-tranh Việt Nam, lực-lượng Quân-đội Úc ở Afghanistan lại ít hơn ở Việt Nam nhiều. Khoảng 60,000 chiến-sĩ Úc đã tham chiến tại Việt Nam, 521 chiến-sĩ Úc đã bỏ mình, và hơn 3,000 người bị thương. Chúng ta không thất trận ở Việt Nam, chúng ta đã thất trận ở Paris và Washington!

Trụ-sở Quốc-hội Australia

 

Sydney Opera House

Tour Sydney và Tour Symbio Wildlife Park do hai anh David Ngô và Lê Văn Thái hướng-dẫn đã đưa chúng tôi đi thăm hầu hết các thắng cảnh ở Sydney. Vào những đêm giao-thừa Dương lịch, tôi hay theo-dõi Năm Mới tuần-tự đến với các nước. Sydney, vì ở Down Under, nên là thành-phố lớn đầu tiên đón Năm Mới. Nhìn cảnh pháo bông rực-rỡ trên Sydney Opera House và Sydney Harbour Bridge, vợ chồng tôi vẫn có ý-định đến thăm nơi này vào một đêm giao-thừa. Nay tuy không phải là giao-thừa nhưng chúng tôi cũng đã được đi trên Harbour Bridge, vào thăm Opera House thì cũng mãn nguyện. Hàng năm có hơn 8 triệu người viếng thăm Sydney Opera House, một thắng cảnh được liệt-kê là UNESCO World Heritage Site. Tour Symbio Wildlife Park không hấp-dẫn cho lắm vì tôi không thấy con kangaroo mẹ đìu con trước bụng như tôi đã thấy ở Mỹ; kangaroo ở sở thú này nhỏ nhưng rất hiền và thân-thiện. Nhà Tôi rất thích con két trắng cứ luôn luôn chào “Hello” với nàng.

Sri Venkateswara Temple – Helensburg                            

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô đựợc tổ-chức rất long-trọng và cảm-động. Hội CSV/QGHC Úc vẫn tổ-chức lễ này hàng năm nên có nhiều kinh-nghiệm, tổ-chức rất chu-đáo. Có Chủ Tế, Bồi Tế mặc áo thụng, khăn đóng cổ-truyền với tiếng chiêng, tiếng trống linh-thiêng. Có dâng hương, hoa, rượu, trà, bánh trái. Anh Trần Thiện Tích đã nói lên tình thầy trò đậm-đà và nỗi lòng biết ơn, thương-tiếc của CSV/QGHC với các Thầy, các Cô đã qua đời. Anh Tích và Chủ Tế Bùi Đức Hùng cũng nhắc đến một số đồng môn đã đi trước chúng ta, nhiều người đã anh-dũng hy-sinh cho Tổ-quốc. Đặc-biệt năm nay khi các CSV/QGHC tổ-chức Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô thì một vị Thầy khả-kính là Giáo-sư Nguyễn Khắc Nhân vừa nằm xuống ngày hôm trước ở Sydney. Nơi Thầy đang nằm chỉ cách chỗ các học-trò đang tổ-chức Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô một khoảng đường rất ngắn. Nguyện xin Thầy an-nghỉ và cầu mong hương-linh Thầy sớm siêu-thoát về Miền Cực Lạc. Riêng con, con không bao giờ quên ơn Thầy đã chấm Luận-văn Tốt-nghiệp Khóa Đốc-sự 10 của con hạng nhất trong lớp.[1]

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô

Tôi sang Úc hơi trễ nên đã không còn gặp được một vài người bạn thân-thương đã đi trước chúng ta. Anh Lưu Văn Của học chung với tôi Khóa Cao-học 2. Anh Nguyễn Khoa Huân, huynh-trưởng Khóa Đốc-sự 2, một người bạn vong niên của tôi. Khi Anh làm Trưởng-ty Thuế-vụ Nha-trang / Khánh-hòa thì tôi làm Trưởng-ty Thuế-vụ Lâm-đồng, chúng tôi có chung một “xếp” và vẫn đi họp với nhau. Anh không nề-hà tuổi cao đã dấn thân ra làm Chủ-tịch Hội CSV/QGHC South New Wales với ý-định cùng ACE tổ-chức HNLK 2018 cho thật đẹp. HNLK chưa tới thì anh đã ra đi. Một đàn anh nữa là Anh Nguyễn Văn Thực làm Chánh Sự Vụ Sở Hành-chánh khi tôi về học Cao-học. Về Sài-gòn tôi phải thuê nhà hết gần $2,000 một tháng lại mất phụ-cấp chức-vụ nên ăn tiêu hơi thiếu thốn; tôi đi tìm việc làm thêm. Anh Thực lúc ấy đang coi Trung-tâm Văn-hóa Bình-dân vào buổi tối; anh nhường cho tôi khi biết tôi chưa tìm được việc làm. Hội Văn-hóa Bình-dân mở các lớp học vào buổi tối dạy chữ, dạy nghề cho các em lớn tuổi nhưng không có điều-kiện theo học các trường ban ngày. Hết khóa học, tôi trả lại anh Thực việc làm này và đi dạy học ở Trường Trung-học La-san Đức Minh. Tôi không bao giờ quên nghĩa-cử này của anh Thực đã dành cho tôi. Nói chuyện với chị Thực tôi mới biết anh Cung Đình Thanh, Luật-sư Chủ-tịch Hội Văn-hóa Bình-dân cũng mới mất ở Úc.

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô

Một người bạn nữa tôi không được gặp là anh Đặng Gia Thoại; Thoại học chung với tôi Khóa Đốc-sự 10 lại ở cùng phòng trong Ký Túc Xá. Tôi quen biết hầu như hết mọi người trong gia-đình Thoại. Tôi còn học chung với chị Thoại ở Đại-học Văn-khoa Sài-gòn. Xem danh-sách, tôi có thấy chị Thoại ghi tên tham-dự Lễ Tưởng Niệm nhưng tôi đi quanh phòng họp mấy lần cũng không thấy chị. Sợ rằng không gặp Chị từ lâu nên tôi không nhận được Chị, tôi nhờ Dũng và Khôi là dân Khóa 10 ở Úc đi tìm mới hay Chị không đi dự được. Trong buổi Lễ Tưởng Niệm này, tôi đau buồn nhớ đến mấy người bạn thân-thương của tôi ở Úc mà tôi không còn gặp được nữa. Họ đã bỏ chúng ta sang bên ấy thành-lập một Chi-hội CSV/QGHC mới. Chắc chắn là Chi-hội của họ sẽ càng ngày càng đông hội-viên, Chi-hội của chúng ta ở lại sẽ càng ngày càng ít đi. Không biết ai sẽ là người cuối cùng ở lại cõi đời vô thường này?

Về đến Hoa Kỳ, nhà tôi, vốn là một nhà giáo, vẫn tấm-tắc khen-ngợi “Em chưa từng dự một Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô long-trọng và cảm-động như ở Úc.” Tôi đề-nghị các Hội CSV/QGHC và ACE/CSV gửi về Hội QGHC Úc Châu hình, ngày sinh, ngày qúa vãng của các thầy, các cô, các bạn CSV đã qua đời để Hội Úc Châu cập nhật Bàn Thờ. Nếu không đủ chỗ thì in hình nhỏ, nếu không có hình thì chỉ ghi tên trên bài-vị. Hiện nay Hội Úc Châu chỉ có hình của 8 Thầy.

Đêm Liên Hoan được tổ-chức rất tưng-bừng, náo-nhiệt, thành-công rực-rỡ. Văn-nghệ rất hay, MCs lưu-loát, thức ăn đầy-đủ. Đặc-biệt Ban Tổ-chức còn “đãi” anh em món thịt đuôi con Kangaroo. Nhà Tôi rời bàn ăn, không muốn nhìn tôi ăn thịt Kangaroo là một con vật Nhà Tôi rất thương-yêu vì chúng có tình mẫu tử vô cùng đặc-biệt.

Đêm Liên Hoan là một đêm tràn đầy niềm vui được “Hội Ngộ.” Video đẹp, rõ-ràng nhưng chỉ tiếc là mỗi khi anh Đượm hay MC giới-thiệu ai thì video vẫn chỉ chiếu hình anh Đượm hay MC chứ không thấy “long nhan” của người được giới-thiệu. Video cũng ít chiếu hình những bàn ở xa.

Đêm Liên-Hoan

Xin chân thành cám ơn Anh Hà, Anh Thái, Anh Đượm và Ban Tổ Chức đã bỏ công, bỏ của, bỏ thời giờ tổ-chức một cuộc Hội Ngộ vui-vẻ, chu-đáo, đẹp-đẽ, thành-công vượt bực mặc dù Cờ Luân Lưu đã có lần bị gửi trả lại cho Hội CSV/QGHC Nam Cali để tìm một hội khác tổ-chức HNLK 2018. Với tư cách là một thành viên của Hội CSV/QGHC Miền Đông, tôi đang lo-ngại cho Hội của tôi sang năm tới rất khó “qua mặt” được Hội CSV/QGHC Úc.

Đêm Liên-Hoan

Tổ-chức nào cũng có người khen, kẻ chê. Tôi có nghe loáng thoáng mấy lời “xì xào” của vài tham-dự viên và vài ACE trong Ban Tổ-chức nhưng, các anh ơi, không bao giờ chúng ta có thể thỏa-mãn 100% mọi người. Người không bao giờ bị chỉ-trích là người không làm gì và cũng chẳng bao giờ phát-biểu ý-kiến, chẳng bao giờ viết một bài gì. Học-viện QGHC đào-tạo sinh-viên thành những công-chức cao-cấp. Dù theo nhiều ngành hành-chánh, quân-sự khác nhau nhưng nói chung, các cựu sinh-viên này đều phải điều-khiển nhân-viên dưới quyền để đạt mục-đích phục-vụ dân chúng. Khi làm nhiệm-vụ này, chúng ta khó (có thể là không bao giờ) thỏa-mãn 100% nhân-viên dưới quyền và thỏa-mãn 100% dân chúng.

Cruise Sydney-Great Barrier Reef

Sau Đêm Liên Hoan, 56 người đi cruise Sydney-Great Barrier Reef với Carnival Legend. Tôi đã đi “cruise” nhiều lần và tôi không thích đi “cruise” vì tôi thấy rất “boring.” Tuy nhiên tôi thông-cảm rằng đi “cruise” là cách tổ-chức dễ nhất cho các Ban Tổ-chức họp mặt: không phải lo xe bus, không lo ăn uống, không cần tổ-chức tours, không sợ “trẻ lạc;” mọi việc đều do “cruise” lo hết. Nếu Ban Tổ-chức siêng thì lo chụp hình nhóm và sinh-hoạt nhóm trên tàu. Anh Đượm đã lo hết các vụ này, lo chu-đáo. Trong hai buổi Họp-mặt Nhóm trên tàu, anh Đượm bao ACE uống rượu “unlimited.” Tiền rượu, thuê phòng họp, thuê đàn, thuê chuyên-viên âm-thanh đều do tiền bonus của anh khi anh booked cruise cho ACE (cứ 8 cabins anh được một vé free). Anh đã không bỏ tiền bonus này vào túi mà bao ACE hết; tôi sợ tiền bonus này không đủ trả tiền rượu cho ACE; có lẽ “Cô Thắm” phải chi thêm. Hoan Hô Anh Chị Đượm!

Cruise Great Barrier Reef

Chuyến đi “cruise” có một chuyện làm nhiều người bất-mãn là đã không được đi thăm Great Barrier Reef mặc dù tên chuyến đi là Sydney – Great Barrier Reef. Tàu Carnival chở hơn 2,500 hành-khách mà khi đi thăm Great Barrier Reef chỉ có một tàu nhỏ chở 60 người; khi chúng tôi ghi tên thì đã hết chỗ. Sau cùng, Carnival tăng thêm một tàu nhỏ 60 chỗ nữa, chúng tôi hí-hửng ghi tên. Sáng hôm sau Carnival thông-báo tàu nhỏ thứ hai không có glass bottom; như vậy hành-khách không nhìn thấy san-hô và cá lội. Chúng tôi đành hủy-bỏ chuyến đi thăm Great Barrier Reef và đi thăm quanh Airlie Beach. Đi Úc mà không thăm được Great Barrier Reef là một thiếu-sót lớn. Tụi tôi buồn mà anh Đượm cũng rất buồn.

Uluru / Ayers Rock

Đi “cruise” về, vợ chồng tôi tạm-biệt ACE rồi bay vào sa-mạc Úc thăm Uluru / Ayers Rock. Uluru là một hòn đá nguyên khối (monolith) lớn thứ nhì trên thế-giới, chỉ thua Mount Augustus (Burringurrah) ở Western Australia. Tính từ mặt đất, Uluru cao 348 m (1,142 ft) [2], nhưng nếu tính từ mực nước biển, Uluru ở độ cao 863 m (2,831 ft). Chu-vi hòn đá Uluru phần sát mặt đất là 9.4 km (5.8 mi). Người thổ-dân Anangu gọi hòn đá là Uluru, một địa-danh linh-thiêng của họ. Người Âu Châu tìm thấy Uluru năm 1872; năm sau họ đặt tên hòn đá là Ayers Rock để vinh-danh Sir Henry Ayers, Chief Secretary of South Australia. Sau vài lần thay đổi, tên chính-thức từ 2002 là “Uluru / Ayers Rock.”

Uluru / Ayers Rock

Uluru là một “hòn đảo núi” (inselberg hay island mountain) là một ngọn núi nổi lên giữa một vùng đất bằng-phẳng có khí-hậu khô, nóng. Hàng trăm triệu năm trước đây nước biển tràn ngập khu-vực này mang theo nhiều “phù-sa” gồm đất, cát và đá. Cát này rất lớn có đường kính từ 2 đến 4 millimeters. Nước biển rút đi mang theo đất nhưng để lại cát và đá tương-đối nặng hơn. Nhờ những chất hoá-học calcite, clays, và silica mang tới từ những dòng nước ngầm, cát và đá “dính” lại thành một khối: “sands” trở thành “sandstone,” Uluru là một sandstone (sa thạch). Sau hàng trăm triệu năm, khối sandstone này trở thành một hòn đá nguyên-khối trồi lên mặt đất trong thời-kỳ Petermann Orogeny[3] cách đây khoảng 550 triệu năm[4]. Cùng vào thời-gian này, những hòn đá ở vùng Kata Tjuṯa, cách Uluru 25 cây số, cũng được tạo dựng tương-tự như Uluru. Kata Tjuta có nhiều hòn đá nhưng đều nhỏ hơn Uluru. Ngày nay, cả Uluru và Kata Tjuta cùng nẳm chung trong Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park.

Người thổ-dân Anangu tin rằng Uluru và Kata Tjuta là địa-danh linh-thiêng của họ; Uluru có nghĩa là “Mẹ Trái Đất” (Earth Mother). Tổ-tiên người Anangu đã định-cư tại vùng này từ 10,000 năm trước. Thổ dân Anangu không bao giờ bước chân trên mặt các hòn đá, nhất là Uluru, vì họ tin rằng đó là một điều bất-kính, một tội-lỗi với thần-linh của họ. Gần trăm năm qua, người Anangu cố-gắng vận-động Chính-phủ Úc cấm các du-khách đi trên mặt Uluru; có lúc họ thắng nhưng rồi lại thua. Năm 2017, Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park mới ra quyết-định cấm không cho ai được leo qua Uluru kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019. Tôi cũng muốn leo qua một lần cho biết nhưng hãng du-lịch của tôi rất thân-thiết với người Anangu nên không tổ-chức hoạt-động này; chúng tôi chỉ đi bộ quanh chân các hòn đá. Khi dừng lại uống trà, cà-phê chúng tôi cũng không được đổ trà, cà-phê, nước ngọt thừa xuống đất; cô hướng-dẫn-viên du-lịch đem những nước thừa này về đổ ở thành-phố. Cô ta nói thẳng với chúng tôi là không được tiểu tiện ở đây. Cô ta cho hay ngoài tính cách thiêng-liêng của vùng này, cây cỏ ở đây có thể chết vì những thứ “nước lạ” này, mà cây cỏ ở vùng sa-mạc rất quý. Nhà Tôi cũng không muốn tôi leo lên đỉnh Uluru vi dốc cao và trời nóng 106° F [5]. Kể từ thập-niên 1950s đã có 37 người chết vì leo qua Uluru và nhiều người khác phải nhờ trực-thăng chở về bệnh-viện.

Leo qua Uluru

 Uluru thay-đổi màu sắc trong ngày tùy theo thời-tiết, ánh sáng. Đặc-biệt Uluru có màu đỏ thắm tươi đẹp khi mặt trời mọc và lặn. Phần lớn du-khách tới đây đều đi thăm “Sunrise at Kata Tjuta” và “Sunset at Uluru”. Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park có sẵn nhiều nơi để du-khách đứng coi cảnh này. Tôi cũng dậy từ 3:30 sáng vì xe bus đến đón lúc 4:30 để đi xem Sunrise at Kata Tjuta. Hàng ngàn người chen chúc nhau, máy hình trong tay, dành nhau chỗ tốt để xem những cảnh đẹp của mặt trời.

Sunset at Uluru

Uluru và Kata Tjuta là sa-mạc nhưng cũng có nhiều loại thú, đặc-biệt có Red Kangaroo, đà-điểu (emu), và lạc-đà (camel). Cuối thế-kỷ 19, người Anh mua lạc-đà từ Ấn Độ, Afghanistan để chuyên-chở dụng-cụ xây cất vào vùng sa-mạc Úc. Khi có phương-tiện chuyên-chở cơ-khí họ thả lạc-đà sống tự-do ở sa-mạc. Khí-hậu ở đây rất thích-hợp với lạc-đà nên hiện nay Úc có khoảng 700,000 con lạc-đà hoang; nhiều nhất trên thế-giới. Chính-phủ Úc đang tìm cách giảm số lạc-đà này vì chúng dành ăn cỏ, cây hiếm-hoi ở sa-mạc với những con vật khác. Nhiều người cũng tìm bắt lạc-đà hoang để bán sang Afghanistan, Pakistan vì lạc-đà ở những nơi này bị chết nhiều vì chiến-tranh. Giá một con lạc-đà bán sang Afghanistan hay Pakistan khoảng một triệu đồng Úc. ACE/CSV/QGHC nào còn khỏe-mạnh nên sang Úc bắt lạc-đà hoang; mỗi năm chỉ cần bắt được một con cũng đủ nhậu nhẹt lai-rai.

Sống ở vùng sa-mạc Uluru / Ayers Rock ba ngày là một kỷ-niệm khó quên của vợ chồng tôi. Ngày nào cũng nóng trên 100° F, ra khỏi cửa là lo đuổi ruồi, muỗi, và nhiều con “bugs” khác. Vậy mà chúng tôi rất vui-thích được thăm vùng sa-mạc cằn-cỗi này.

Melbourne

Vợ chồng tôi nằm ở Melbourne một tuần để chờ ngày đi “The Ghan” nên có nhiều thời-giờ thăm viếng Melbourne và vùng phụ-cận. Melbourne có nhiều tours du-lịch, có lẽ hai tours được nhều người đi nhất là “Great Ocean Road Tour” và “Phillip Island Penguin Parade Tour.”

Twelve Apostles

Tour Great Ocean Road đi thăm một vùng bờ biển đẹp với những trụ đá nằm dọc theo bờ biển (gần giống bờ biển Oregon). Có 12 trụ đá gọi là Twelve Apostles. Nếu đi vào buổi chiều thì có thể thấy cảnh đẹp của hoàng-hôn trên mặt biển: mặt trời từ từ lặn xuống mặt nước biển.

Đi tour Great Ocean Road, chúng tôi được đi ngang một khu-vực đồi núi thấp với những đồng cỏ mênh-mông; bò, cừu tràn-lan trên đồng cỏ. Khu này do các cựu-chiến-binh Thế Chiến II định-cư. Sau cuộc Thế Chiến II, các cựu-chiến-binh Úc không có việc làm lại không còn lương quân-nhân nên rất nghèo-đói. Chính-phủ Úc đem họ lên vùng rừng núi âm-u này để khai-hoang. Chính-phủ không đầy họ lên đây như một Vùng Kinh-tế Mới của Việt Cộng; Chính-phủ Úc đem theo máy ủi đất hạng nặng, máy cày, máy cưa…để phá rừng làm rẫy rồi bán đất cho các cựu-chiến-binh với một giá tượng-trưng, gần như cho không.

Chính-phủ và nhân-dân Úc luôn luôn kính-trọng và biết ơn các cựu-chiến-binh. Hầu như thành-phố lớn nào cũng có các Trung-tâm trưng-bày hình ảnh các cuộc chiến-tranh mà người Úc đã tham-dự. Các cựu-chiến-binh Việt-Nam cũng được Úc công-nhận vì đã chiến-đấu cạnh chiến-sĩ Úc trong cuộc Chiến-tranh Việt-Nam; các cựu-chiến-binh Việt-Nam cũng được hưởng quyền-lợi về ý-tế, hưu-bổng…như cựu-chiến-binh Úc. Thật là một Tình Huynh Đệ Chi Binh không đâu có trên thế-giới. Chính-phủ Hoa-kỳ đã đài-thọ hầu hết chiến-phí cho cuộc chiến Việt-Nam nhưng sau cuộc chiến, họ cũng không có một chính-sách cựu-chiến-binh cho người Việt như ở Úc. Mấy trăm chiến-sĩ Biệt-kích đã phải mướn luật-sư kiện Chính-phủ Hoa-kỳ mới được bồi-hoàn mỗi người vài nghìn US Dollars, tiền lương cho mấy chục năm bị tù. Họ đã được Hoa-kỳ tuyển-dụng (trực-tiếp hoặc gián-tiếp), huấn-luyện và thả dù ra Miền Bắc để hoạt-động gián-điệp. Đa số bị bắt và bị tù nhiều năm. Năm 1973, họ cũng không được nằm trong chương-trình trao-đổi tù-binh như đã quy-định trong Hiệp-định Đình-chiến Paris vì họ là những”chiến-binh không có quân số.” Thật ra Chính-phủ và nhân-dân Hoa-kỳ đã hy-sinh rất nhiều trong việc định-cư mấy triệu người Việt-Nam gồm những người tị-nạn năm 1975, những người vượt biển, vượt biên, những người đến Hoa-kỳ theo chương-trình đoàn-tụ gia-đình ODP và “Chương Trình Tái Định Cư Những Cựu Tù Nhân Chính Trị.”[6]. Chúng tôi xin thành tâm cám-ơn Chính-phủ và nhân-dân Hoa-kỳ đã mở rộng vòng tay đón-tiếp chúng tôi, chúng tôi không hề than-vãn, so-sánh với chính-sách cựu-chiến-binh của Úc. Chương Trình Tái Định Cư Những Cựu Tù Nhân Chính Trị và Gia-đình là một quyền-lợi đặc-biệt, vĩ-đại cho các cựu-chiến-binh Việt-Nam, một chương trình đầy ắp tình người, hoàn-toàn ngược lại với chính-sách dã-man, tàn-bạo, vô nhân đạo, không còn tình người của các trại học-tập, cải-tạo của Cộng-sản Việt-nam.

Knickers, một con bò khổng-lồ ở Australia  

Những khu rừng âm-u, khỉ ho cò gáy đã được các cựu-chiến-binh Úc khai-phá thành những đồng cỏ mênh-mông, bò, cừu tràn-lan. Vùng nầy bây giờ là xương sống của nền chăn-nuôi ở Úc. Năm 2017, dân-số Úc là 24.3 triệu người; họ có 27.8 triệu con bò, 99.3 triệu con cừu; như vậy mỗi người Úc có hơn một con bò và hơn 4 con cừu. Úc đứng thứ 4 trong năm nước trên thế-giới có số bò nhiều hơn dân số. Làm sao mà họ đói được? Nhìn những đàn bò, đàn cừu đi ăn trên những đồng cỏ mênh-mông mà thương cho những con bò, con trâu ở quê-hương mình, thương cho dân mình!

Cừu ở Australia

Tour Phillip Island Penguin Parade thì không được như ý muốn. Nhìn hình quảng-cáo cũng như nhớ lại hình ảnh trên TV, tôi tưởng sẽ được thấy hàng ngàn con penguins chạy lạch-bạch trên bãi cát đề về nhà. Không có như vậy. Ngồi chờ gần hai giờ, tôi chỉ thấy có 12 con penguins chạy từ biển qua bãi cát đề về nhà trong đám cỏ. Gió biển lạnh quá nên vợ chồng tôi bỏ cuộc, đi lên nhà hàng ăn chờ xe bus đến đón. Trời lạnh nhưng vẫn có hàng ngàn người ngồi dưới bãi biển chờ xem “Penguin Parade.” Không ngờ trên đường về chúng tôi lại thấy rất nhiều penguins chạydọc theo con đường dẫn lên nhà hàng ăn. Thì ra có nhiều con penguins đã vượt bãi cát ở những chỗ tối nên chúng tôi không thấy. Chính lúc thất vọng nhất lại được xem vài trăm con penguins. Penguins ở đây rất nhỏ, chỉ nhỏ bằng con vịt; penguins ở Australia và New Zealand là penguins nhỏ nhất trên thế-giới.

Penguins ở Australia

Những tours du-lịch ở Melbourne có rất nhiều du-khách Tầu; tour nào họ cũng chiếm hơn một nửa. Họ đi thành từng đoàn, có hướng-dẫn-viên du-lịch người Tầu. Họ nói chuyện lớn tiếng như chỗ không người, chen ngang vào những hàng người đang xếp hàng chờ đợi. Họ hút thuốc lá, xả rác công-khai. Năm ngoái vợ chồng tôi đi sang Âu Châu cũng đã gặp cảnh này. Nhiều người Âu Tây liếc nhìn mình làm mình xấu-hổ; chắc họ cũng tưởng vợ chồng tôi là Tầu, có những hành-động xấu tương-tự. Ở khu xem “Penguin Parade” luôn luôn có những loan-báo bằng tiếng Tầu theo sau loan-báo bằng tiếng Anh. Phi-trường, khách-sạn ở Melbourne cũng in chữ Tầu ở dưới các bảng chỉ-dẫn bằng chữ Anh. Nhiều người Tầu có máy “thông-dịch” nhỏ: họ nói vào máy bằng tiếng Tầu rồi bấm nút dịch sang tiếng Anh. Đôi khi tôi và người Úc cũng chẳng hiểu lời dịch tiếng Anh của họ khi muốn giúp-đỡ vài du-khách Tầu.

Theo Tổ-chức Du-lịch thế-giới của Liên Hiệp Quốc, du khách Tầu chi $257.7 tỷ USD trong năm 2017, đứng nhất trên thế-giới trong khi du khách Hoa-kỳ (đứng thứ nhì trên thế-giới) chỉ tiêu có $135.0 tỷ USD. Năm 2017 có 130.5 triệu người Tầu du-lịch nước ngoài, tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước. Du-khách Tầu là mối lo lớn cho các nước trên thế-giới dù họ mang đến lợi-ích kinh-tế qua ngành du-lịch. Nhưng lợi mà họ đem lại không bằng cái hại họ gây ra về môi-sinh, về thuần-phong mỹ-tục của dân chúng địa-phương.

”The Ghan” là một trong những đoàn tàu vận chuyển hành-khách bằng đường sắt dài nhất trên thế-giới, chạy xuyên qua sa-mạc Úc. Cái tên “The Ghan” và huy-hiệu hình một người cưỡi lạc-đà được đặt theo tên Afghanistan (hay còn gọi là Ghan) vì lạc-đà nhập-cảng từ Afghanistan đã đưa những người thám-hiểm đầu tiên vượt qua sa-mạc Úc vào cuối thế kỷ 19.

The Ghan

The Ghan chạy từ Adelaide, miền Nam nước Úc, tới Darwin, miền Bắc[7] . The Ghan đi qua rất nhiều địa danh tuyệt vời của Australia như: Alice Springs, Tennant Creek, Kulgera, Kingoonya, Katherine… với chiều dài quãng đường là 2,979 km. Chuyến tàu đi hết 3 ngày 2 đêm[8]. Hiện nay, The Ghan có ba loại vé: Red Service, Gold Service, và Platinum Service; gía vé rất khác nhau. Gold Service lại chia ra mấy loại nữa. Đoàn xe có chiều dài trung-bình 902 meters có 25 giường Platinum Service, 258 giường Gold Service và một số toa Red Service, nhà hàng ăn, máy điện, toa chứa nước, diesel, và các vật-liệu khác.

The Ghan

Đầu tháng 6 tôi vào website của The Ghan để xem tin-tức chứ không định mua vé vì sớm quá; mãi ngày 1 tháng 11 Cruise Great Barrier Reef mới về lại Sydney. Không ngờ khi vào website của The Ghan tôi mới biết hầu hết vé các chuyến xe sau ngày 1 tháng 11 đã “sold out.” Chuyến ngày 4 tháng 11 thì còn mấy vé Gold Service nhưng đi chuyến này thì hơi trục-trặc vì tôi định thăm Melbourne trước The Ghan. Chuyến xe ngày 11 tháng 11 thì Gold Service và Red Service đều “sold out,” chỉ còn vé Platinum Service.

The Ghan chạy qua vùng sa-mạc khô-cằn, cây cỏ thấp, thưa-thớt. Đất phần lớn màu đỏ nên người ta gọi vùng này là “Red Centre” bao gồm Uluru, Kata Tjuṯa và là trung-tâm-điểm của Australian Outback. Thỉnh-thoảng tôi thấy vài con bò, cừu mà tôi không biết là bò hoang, cừu hoang hay của thổ-dân nuôi? Tôi thấy có nhiều đám muối trắng, không biết muối này có liên-hệ gì đến nước biển mấy triệu năm trước hay không?

The Ghan

Mặt Trời mọc ở sa-mạc Úc

Từ Adelaide, trạm dừng đầu tiên là Manguri. Chúng tôi xuống tàu từ 4 giờ sáng để xem mặt trời mọc. Manguri chỉ là trạm xe lửa của The Ghan ở giữa sa-mạc chứ không phải là một thành-phố. Chúng tôi quây-quần quanh hai đống lửa trại để ăn sáng chờ mặt trời mọc. Chúng ta quen dùng những chữ mặt trời mọc, sunrise, mặt trời lặn, sunset là sai, hoàn-toàn phản khoa-học. Mặt trời không mọc, không lặn mà đứng yên một chỗ bởi vì mặt trời là một định-tinh. Thời Cổ Hy-lạp, những chữ này được coi là rất đúng vì người ta tin rằng trái đất là trung-tâm của vũ-trụ; mặt trời, mặt trăng và các tinh tú xoay quanh trái đất (terracentric).

The Ghan

Nitmiluk Gorgges

Trước khi đến Darwin, The Ghan dừng lại rất lâu ở hai trạm Alice Springs và Katherine. Ở hai trạm này, du-khách chọn đi những tours du-lịch địa-phương khác nhau. Alice Springs là một thành-phố nằm giữa sa-mạc mà cũng có một Đài Kỷ-niệm các trận chiến Quân-đội Úc đã tham-dự, trong đó có Việt-Nam. Katherine có nhiều cảnh đẹp hơn, tôi chọn đi thuyền trên sông Katherine để thăm các Nitmiluk Gorgges; phong-cảnh rất đẹp.

Tưởng cần nói thêm là ở Melbourne, du-khách người Tầu chiếm hơn 50%; ở Uluru / Ayers Rock tỉ-lệ này chỉ còn dưới 10%. Đi The Ghan, chúng tôi chỉ gặp một người Á Châu (Nhật Bản) trong số gần một ngàn du-khách.

New Zealand:Kia Ora!”

Kia Ora là tiếng chào thông-dụng ở New Zealand. Kia Ora nguyên nghĩa là “Chào mạnh giỏi” và thường dùng như “Hello.” New Zealand rất đẹp nên du-lịch là một phần quan-trọng trong nền kinh-tế New Zealand. Năm 2016, New Zealand thu được $12.9 tỷ USD về du-lịch (5.6% GDP) và xử-dụng 7.5% nhân lực toàn quốc.

New Zealand đứng thứ hai trong năm nước có số bò nhiều hơn số dân. Năm 2017, dân-số New Zealand là 4.6 triệu mà có tới 9.9 triệu con bò và 39.6 triệu con cừu. Tính ra mỗi người dân New Zealand có 2.17 con bò và 8.6 con cừu. Đi đâu cũng thấy đồng cỏ mênh-mông; bò, cừu đầy đồng; vườn nho, vườn kiwi tươi-tốt.

Nữ Hoàng Anh cũng là Nữ Hoàng của Australia và New Zealand[9]; tuy nhiên, quyền-hành nằm trong tay các Thủ-tướng (Prime Minister). Thủ-tướng hiện-tại của New Zealand là Jacinda Ardern. Bà là nữ lãnh-tụ quốc-gia trẻ nhất trên thế-giới. Bà là người lãnh-tụ quốc-gia thứ hai sinh con khi tại chức [10]. Tuy nhiên Bà Ardern lại là lãnh-tụ quốc-gia thứ nhất bế con nhỏ đi họp Liên Hiệp Quốc. Tòa nhà Dinh Thủ-tướng có mái tròn với nhiều khuôn cửa sổ trông giống như một tổ ong nên dân chúng gọi đùa là “Beehive;” Chính-phủ New Zealand bèn đặt tên website của mình là “beehive.govt.nz.” Dân chúng gọi Jacinda Ardern là “Queen Bee.”

New Zealand chọn con chim kiwi là biểu-tượng cho đất nước mình nên người ta gọi người dân New Zealand là Kiwi. Khi dùng để gọi người New Zealand chữ Kiwi viết với chữ K hoa, khi dùng để chỉ chim kiwi, chữ kiwi viết với chữ k thường. Ngoài ra, khi dùng để chỉ người New Zealand, chữ Kiwis có “s” cho số nhiều nhưng khi dùng để chỉ chim kiwi thì số nhiều cũng không có “s”. Bởi vậy “two Kiwis” là hai người New Zealand còn “two kiwi” là hai con chim kiwi. Rất nhiều người trên thế-giới, kể cả người Việt-Nam, đều biết hình chim kiwi. Các bạn đi lính chắc còn nhớ dầu đánh giày hiệu kiwi; đây là một sản-phẩm của New Zealand đang bán trên khắp các nước trên thế-giới và con chim kiwi này là biểu-tượng cho nước New Zealand.

Auckland

Auckland là thành-phố lớn nhất New Zealand có dân-số 1.6 triệu người, khoảng một phần ba dân-số New Zealand. Trước đây (1842 – 1865) Auckland là thủ-đô của New Zealand. Tôi ở Khách-sạn SkyCity Hotel nằm sát cạnh Sky Tower. Sky Tower cao 328 meters, cao hơn Tháp Eiffel 28 meters và cao gấp 3.5 lần Tượng Nữ Thần Tự-do. Sky Tower có thể chịu-đựng được động đất với cường độ 8.0 độ Richter. Auckland là thành-phố duy nhất trên thế-giới được xây-dựng trên một vùng núi lửa vẫn còn hoạt-động. Cũng nhờ núi lửa, Auckland có nhiều động đá (caves) rất đẹp.

Auckland với Sky Tower

Trên đường từ Auckland đến Rotorua, chúng tôi ghé thăm Động Waitomo Glowworm. Động này không lớn bằng Động Luray Caverns ở Virginia nhưng Waitomo Glowworm Caves không có đèn điện, chỉ có nhiều ánh-sáng của những con glowworms bám trên trần, trên tường, có chỗ phải đi bằng thuyền nên có vẻ âm-u, kỳ-bí như trong truyện kiếm-hiệp. Glowworms là những côn-trùng phát ra ánh sáng như con đom đóm. Glowworms có nhiều loại và có ở nhiều nơi trên thế-giới nhưng con Glowworms Arachnocampa Luminosa sống trong Waitomo Glowworm Caves thì chỉ có ở New Zealand. Đời sống của con glowworm này kéo dài độ 11 tháng và chia ra làm 4 thời-kỳ: trứng, ấu-trùng, con nhộng, và con glowworm. Con glowworm mẹ đẻ từng chùm trứng, mỗi chùm có khoảng từ 30 đến 40 trứng. Sau 20 ngày trứng nở ra con ấu trùng. Ấu trùng tự làm tổ, phát ra ánh sáng để dẫn-dụ những con mồi. Tổ nó làm bằng những sợi tơ có nhựa dính nên dễ bắt mồi. Ấu trùng sống như vậy khoảng 9 tháng thì biến thành con nhộng tương tự nhộng tằm. Con nhộng sống 13 ngày thì cắn tổ nở thành con glowworm giống như một con muỗi to. Con glowworm không có miệng nên sẽ chết đói sau vài ngày. Nhiệm-vụ của chúng trong vài ngày ngắn-ngủi này là giao-hợp và đẻ trứng; mỗi con glowworm cái đẻ độ 120 trứng. Cuộc đời của chúng còn buồn hơn đời sống con ve sầu.

Glowworms trong Waitomo Glowworm Caves

Waitomo Glowworm Caves không cho chụp hình, quay phim. Hình tôi đứng trong Động là một hình ghép. Trước khi vào Động họ chụp hình cho mọi người, chụp đủ kiểu. Khi cô thợ chụp hình yêu-cầu tôi chỉ tay lên trời, tôi không hiểu ý định của cô ta. Cô ta ghép hình này với một hình trong Động, ngón tay tôi chỉ lên những con glowworms như diễn-tả cảnh đẹp kỳ bí của chúng. Những hình này họ bán cho du-khách rất dễ-dàng[11] .

Trung-tâm-điểm của Waitomo Glowworm Caves là “The Cathedral,” chỗ cao nhất trong Động có nhiệt độ 14° C (57° F) quanh năm suốt tháng. Sự cấu-tạo của trần và vách tường thạch-nhũ chung quanh The Cathedral đã khuếch-tán âm-thanh một cách tuyệt-vời. Nhóm du-khách nào cũng có một người hát ở The Cathedral. Đi xa The Cathedral vẫn còn nghe thấy du-khách Tầu hát. Có đoàn du-khách Tầu đã sửa-soạn trước đồng ca một bài ca hùng-tráng; chắc là nhạc Cách-mạng Văn-hóa hoặc nhạc chiếm Trường-sa, Hoàng-sa của Việt-Nam. Tôi định trở lại The Cathedral để hát bài Hội-nghị Diên Hồng hoặc Bạch Đằng Giang để trả lời họ nhưng thấy cũng hơi lố-bịch nên lại thôi. Hơn nữa nhóm tôi đã có một người Đức hát một bài nhạc cổ-điển Tây-phương rất hay.

Waitomo Glowworm Caves

30 triệu năm trước, Waitomo ở sâu dưới mặt nước[12] với những hòn đá vôi bắt-đầu hình thành. Khi núi lửa hoạt-động đã đẩy những hòn đá vôi này trồi lên mặt nước; những hòn đá vôi này cũng bị rạn-nứt tạo ra nhiều khe nhỏ. Nước chảy qua những khe này chảy vào khoảng trống bên dưới. Đá vôi theo nước đọng lại ở chỗ nhỏ nước trên trần và ở chỗ nước nhỏ xuống nền. Chỗ đá vôi đọng lại trên trần gọi là “stalactites,” chỗ đá vôi đọng lại dưới nền là “stalagmites.” Cứ mỗi 100 năm đá vôi đọng lại được một phân khối (1 cubic centimeter). Khi stalactites gặp stalagmites sẽ tạo nên một cây thạch-nhũ từ trần xuống nền gọi là “helicti,” chu-kỳ này cần mấy trăm nghìn năm mới hoàn-thành.

Nông-trại Agrodome

Quanh vùng Auckland chúng tôi còn đi thăm nông-trại Agrodome xem họ cắt lông cừu, dùng chó đuổi cừu vào chuồng…Trước đây tôi cứ tưởng trái kiwi mọc trên cây (trees) nhưng đến Agrodome tôi mới biết kiwi leo như nho (vines); gốc và nhành đều lớn hơn cây nho nhiều. New Zealand trồng rất nhiều kiwi. Phải tới năm 1966 Hoa-kỳ mới nếm thử mùi-vị trái kiwi và những trái kiwi đầu tiên này đã nhập-cảng từ New Zealand. Ngày nay nhiều người Mỹ “nghiện” mùi-vị ngọt, chát, chua của kiwi và thích những chất bổ-dưỡng của kiwi. Có thuyết cho rằng tên trái kiwi do người New Zealand đặt ra từ giữa thế-kỷ 20. Họ đổi tên từ “gooseberry”[13] thành “kiwi” vì thấy trái kiwi và cái bụng con chim kiwi hơi giống nhau. Mặt khác, thời ấy các sản-phẩm mang tên Kiwi, hình ảnh tượng-trưng của New Zealand, được hưởng thuế nhẹ.

Chúng tôi thăm làng Te Puia để xem những tục-lệ cổ-truyền của người Maori. Buổi tối, chúng tôi lại ghé thăm Mitai Maori Village để xem những vũ-khúc văn-hóa cổ-truyền của họ, xem họ diễn lại những chiến trận trên sông. Tối đó chúng tôi thưởng-thức “hangi dinner” của người Maori, một bữa ăn nấu trên đá nóng. Họ đào một hầm sâu, đốt củi thành than rồi kê một tấm đá lớn trên mặt than hồng. Gà, cừu, khoai tây, các loại rau đuợc “nướng” trên tấm đá nóng này.

Mitai Maori Village

Trên đường từ Rotorua đi Napier, chúng tôi đi ngang rừng Kaingaroa, một rừng thông nhân tạo lớn nhất thế-giới, rộng 2,900 cây số vuông. Xe bus chạy 100 cây số một giờ mà đi mãi vẫn không hết rừng thông nhân tạo. Dân số New Zealand chưa tới 5 triệu (ít hơn dân số nhiều thành-phố) mà họ trồng được một rừng thông vĩ-đại như vậy trong khi Việt-Nam cứ chặt cây rừng bán cho Nhật và Tầu.

Napier là một thành-phố nhỏ, dân-số khoảng 64 ngàn, nhưng đón tiếp nhiều du-khách nhờ kiến- trúc Arc Deco, hòa nhạc, và hải-cảng quan-trọng. Trận động đất năm 1931 hầu như hủy-diệt Napier, nhất là khu trung-tâm thành-phố. Trận động đất cường-độ 7.8 này giết hại 256 người và là một thiên-tai giết hại nhiều người nhất trong lịch-sử New Zealand. Bên cạnh sự tàn-phá kinh-khủng này, trận động đất lại tạo nên 40 cây số vuông đất mới vì đã nâng vùng bờ biển lên khoảng 2 meters (đáy Đầm Ahuriri Lagoon được nâng lên 2.7 meters). Người hướng-dẫn-viên du-lịch đưa chúng tôi đi thăm thành-phố thỉnh-thoảng lại dậm chân xuống sàn xe “This was water before.”

Ahuriri Lagoon trước (trái) và sau (phải) trận động đất

Mission Estate do các Cha người Pháp thành-lập ở New Zealand vào năm 1838 nhằm mục-đích giảng Đạo Thiên Chúa. Năm 1851, Mission Estate xây-cất trụ-sở ở Pakowhai nhằm nuôi bò, trồng nho và cây ăn trái. Mission Estate là nhà máy làm rượu nho đầu-tiên ở New Zealand. Năm 1858, các Cha mua được một miếng đất mới ở gần Napier nên dọn về đây. Trụ-sở Nhà Dòng là một căn nhà gỗ rất lớn. Các Cha cắt căn nhà này ra làm 11 phần và chuyển về miếng đất mới bằng các dụng-cụ di-chuyển thô-sơ. Các Cha làm thêm căn phòng chính rồi ghép 11 “miếng nhà” từ trụ-sở cũ vào. Riêng Nhà Thờ thì các Cha không chuyển về và quyết-định xây một Nhà Thờ mới bằng đá. Trận động đất 1931 đã phá-hủy Nhà Thờ đá, giết hại 2 linh-mục và 7 tu-sĩ trong khi trụ-sở Nhà Dòng ghép lại bằng 12 “miếng” bằng gỗ lại không việc gì. Thật là kỳ-lạ!

Năm 1931, tờ báo The Dominion nói “Napier là một thành-phố đã bị xoá tên trên bản-đồ” (Napier as a town has been wiped off the map). Mười năm sau, tờ báo New Zealand Listener nhận-xét “Napier đã sống lại từ tro tàn như một con chim Phượng Hoàng” (Napier had risen from the ashes like a phoenix).[14]

Wellington là thủ-đô của New Zealand được gọi là “the World’s Coolest Little Capital” bởi vì trung-tâm thành-phố chỉ rộng khoảng một cây số vuông. Tòa nhà trụ-sở của Chính-phủ là một trong những căn nhà gỗ lớn nhất trên thế-giới. Wellington rất đẹp nhờ có biển, đồi núi bao quanh.

Wellington – New Zealand

Người dân Wellington có những kỷ-niệm đẹp với US Marines. Đầu năm 1942, Chính-phủ New Zealand rất lo sẽ bị Nhật tấn-công trong khi hầu hết lực-lượng New Zealand đang chiến-đấu bên cạnh Quân-đội Anh ở Âu Châu và Trung Đông. Cùng lúc đó, Hoa Kỳ sửa-soạn tấn-công Nhật nên muốn tìm một căn-cứ quân-sự để tổ-chức một hậu-phương vững-chắc nhằm yểm-trợ mặt-trận Thái Bình Dương và săn-sóc các thương binh. New Zealand là một địa-điểm lý-tưởng. Giữa năm 1942, Sư-đoàn 2 US Marines đã đổ-bộ lên Wellington làm đẹp lòng cả ba nước New Zealand, Hoa-kỳ, và Anh. US Marines trải quân bảo-vệ thủ-đô Wellington và các quân-nhân Công-giáo thường đi xem lễ ở Nhà Thờ Old St. Paul’s. Dần dần giáo-dân và Marines đã vun-đắp những tình bạn thân-thiết, đậm-đà. Từ đó đến nay, năm nào Nhà Thờ Old St. Paul’s cũng cử-hành một Lễ Cầu-nguyện cho US Marines. Trong Nhà Thờ vẫn còn treo lá cờ của Second Division of the US Marines và cờ Hoa Kỳ; Quốc kỳ này chỉ có 48 sao vì hồi ấy, Hoa Kỳ chưa có hai tiểu-bang Alaska và Hawaii. Ngày nay, nhiều người dân Wellington, dù sinh ra sau năm 1942, cũng biết tên những con đường, nhà thương…do US Marines xây nên. Một điểm dễ thương nữa là Wellington có một khu phố mang tên Brooklyn, cạnh Brooklyn là Central Park; Wellington có nhiều đường phố mang tên các tổng-thống Mỹ.

Cờ trong Nhà Thờ Old St. Paul’s

Đến Wellington thì phải đi thăm vườn hồng, đi Cable Car, đi lên đỉnh Mount Victoria, và đi xe Tram. Có hai vườn hồng mà vườn nào cũng có hàng trăm loại hoa hồng khác nhau. Mount Victoria cao 196 meters nên từ trên đó có thể nhìn thấy toàn cảnh Wellington. Xe Tram gần giống như xe điện ở Hà Nội; ngồi trên xe Tram có thể đi khắp thành-phố, rẻ hơn mua một tour “sightseeing.” Wellington đẹp đến nỗi Nhà Tôi muốn dọn qua Wellington ở vài năm để tránh nghe về Tổng-thống Trump.

Christchurch

Năm 1848, John Robert Godley đề-nghị đặt tên cho thành-phố là Christchurch; Godley vốn tốt-nghiệp từ Trường Đại-hoc Christ Church ở Oxford, Anh-Quốc. Christchurch được gọi là “The Garden City” nên rất hãnh-diện với các vườn hoa của mình, nhất là “Christchurch Botanic Garden” rộng 52 mẫu (acres). Vườn này trồng rất nhiều loại cây, hoa trên thế-giới. Có cả cây Red Wood đem từ California sang trồng hơn 100 năm trước, vườn hồng có hơn 250 loại hồng khác nhau. Christchurch Botanic Garden không thu tiền vào cửa nhưng những hãng du-lịch cho thuê xe, thuê thuyền đi thăm các nơi trong vườn. Mỗi năm có hơn 1.1 triệu du-khách thăm-viếng Christchurch Botanic Garden.

Christchurch Botanic Garden

Muốn nhìn Christchurch từ một góc cạnh khác thì đi xe “Gondola,” một toa xe nhỏ treo vào giây “cable” rồi kéo lên đỉnh núi hoặc đưa xuống mặt đất tương-tự như “Ski Lift” ở những núi trượt tuyết. Christchurch Gondola đưa du-khách lên đỉnh núi Cavendish, cao 445 meters trên mực nước biển. Từ trên cao, Christchurch giống như cảnh thần tiên.

Christchurch nhìn từ Mount Cavendish

Năm 2010, một trận động đất cường-độ 7.1 đã tàn-phá Christchurch nặng-nề nhưng không có ai chết. Năm 2011, một trận động đất 6.3 yếu hơn lại giết hại 185 người. Kể từ 2010 đến 2014, có 4,558 trận động đất có cường-độ lớn hơn 3.0. Rất nhiều tòa nhà bị hư-hại mà đến nay vẫn chưa tu-bổ xong kể cả Vương-cung Thánh-đường Christchurch. Thánh-đường này thuộc Giáo-hội Anglican được xây từ 1864 và hoàn-tất năm 1904; Thánh-đường bị hư-hại trầm-trọng sau nhiều trận động đất. Năm 2012 Tòa Giám-mục quyết-định phá-hủy ngôi Thánh-đường rồi xây một Nhà Thờ mới nhưng có nhiều nhóm dân phản-đối; UNESCO World Heritage Centre cũng hậu-thuẫn cho những nhóm này. Phá-hủy rồi xây một Nhà Thờ mới sẽ tốn-kém từ $56 triệu tới $74 triệu, và cần từ 4 đến 9 năm trong khi sửa-chữa lại sẽ tốn-kém từ $104 triệu tới $221 triệu, và cần từ 6 đến 22 năm. Tiền bồi-thường từ bảo-hiểm động đất là $40 triệu. Tòa Giám-mục không chịu sửa-chữa vì qúa đắt, phần lớn giáo-dân cũng đang bị hư-hại nhà cửa nên không thể đòi-hỏi họ đóng góp nhiều cho việc sửa-chữa Nhà Thờ. Các nhóm dân phản-đối kiện Tòa Giám-mục và họ thắng. Năm 2017, Tòa Giám-mục quyết-định sẽ sửa-chữa Vương-cung Thánh-đường Christchurch.

Christchurch là cửa ngõ đi xuống Nam Cực. Không-quân và Hải-quân Hoa-Kỳ cộng thêm Không quân New Zealand và Không-quân Australia đều lấy phi-trường Christchurch làm điểm xuất-phát để đi tiếp-tế cho các căn-cứ McMurdo và Scott Bases ở Nam Cực. Hậu-cứ Christchurch chứa hàng ngàn bộ quần áo và đồ phụ-tùng để chống lại nhiệt-độ cực lạnh dùng cho các chương-trình của Hoa-Kỳ ở Nam Cực.

Christchurch là thành-phố cuối cùng của cuộc du-lịch “Miệt Dưới” 40 ngày của hai vợ chồng tôi. Đi dự HNLK năm nay còn là dịp hai đứa tôi kỷ-niệm hơn nửa thế-kỷ chung sống bên nhau, hơn nửa thế-kỷ trôi-nổi theo vận-mệnh đất nước. Ở New Zealand chúng tôi đi tour của hãng Thrifty Tours New Zealand nhưng suốt 9 ngày này tôi không gặp một nhân-viên nào của Thrifty Tours; họ chỉ là người trung-gian thuê các hãng du-lịch địa-phương để ghép lại thành 9 ngày du-lịch cho vợ chồng tôi. Từ trước tới nay, khi du-lịch nước ngoài, tôi đều đi với hãng Grand European Travel hay Trafalgar; họ tổ-chức khác hẳn Thrifty Tours. Grand European đón mình từ nhà, đưa mình về lại nhà sau tour. Tour dù dài, dù ngắn cũng chỉ có một hướng-dẫn-viên du-lịch đi với mình từ đầu đến cuối (đôi khi họ có thêm hướng-dẫn-viên người địa-phương). Nhóm du-khách đi tour với mình cũng không thay-đổi. Ở New Zealand 9 ngày, chúng tôi đi với hơn mười hãng du-lịch khác nhau, hướng-dẫn-viên du-lịch cũng như bạn du-khách cũng thay-đổi theo mỗi tour địa-phương. Mặt khác, mua tours ở Australia và New Zealand phải đọc kỹ chi-tiết vì nhiều tours rẻ họ cắm trại (camping) chứ không ở khách-sạn hoặc mình phải lái xe lấy.

Anh Nguyễn Trường Phát, Hội QGHC Miền Đông HK, nhận cờ Luân Lưu từ Anh Nhan Tử Hà

Cảm tạ Chúa, cám ơn Thượng-đế đã cho chúng con sống đến tuổi này lại cho chúng con còn sức-khỏe để đi đây đi đó. Cám ơn Anh Nhan Tử Hà, Anh Lê Văn Thái, Anh David Ngô Văn Đượm và các ACE trong Ban Tổ-chức HNLK 2018, các ca-sĩ, nhạc-sĩ, MCs.. đã cho chúng tôi có cơ-hội gặp mặt nhau; cám ơn Anh Nguyễn Văn Sáu đã như con thoi chuyển tin từ Úc đến chúng tôi. Cám ơn tất cả ACE/QGHC ở Úc đã đón-tiếp chúng tôi rất niềm-nở, thân-thiện, chan-hòa tình-nghĩa ACE đồng song, đồng môn. Hẹn gặp lại các ACE trong kỳ HNLK 2019 ở Washington. Tuổi chúng ta đều đã 6, 7, 8 bó; hãy tận-dụng những ngày còn lại ít-ỏi của chúng ta để gặp mặt nhau, hàn-huyên, thăm hỏi nhau. Tôi xin cám ơn hai anh David Ngô Văn Đượm và Nhan Tử Hà đã sốt-sắng gửi cho tôi nhiều tài-liệu du-lịch Australia và New Zealand.

Tôi đi Úc về trễ nên giữa Tháng 12 mà vẫn chưa viết xong bài này thì vừa nghe tin Chị Trần Thiện Tích mới qua đời ở Úc. Khi sang Úc, vợ chồng tôi có ghé thăm Chị vì Chị không đi họp HNLK. Anh Tích học với tôi ở Cao-học 2, Chị Mỹ Nam học với tôi ở Đại-học Văn-khoa Sài-Gòn. Vừa được gặp lại Chị thì nay Chị đã ra đi. Mong xin Chị an-nghỉ, quên đi cõi đời vô thường này và nguyện cầu hương-linh Chị Mỹ Nam, Pháp-danh Tâm Tường sớm tiêu-diêu Miền Vĩnh Hằng.

Đặng-Quốc-Tuấn

ĐS 10 / CH 2

12/2018


Ghi chú:

[1] Tôi được giải nhất Luận-văn Tốt-nghiệp Khóa Đốc-sự 10 và Khóa Cao-học 2 (Ban Hành-chánh) nhưng ở cả hai khóa, tôi đều đồng điểm với một sinh-viên khác. Cả hai lần Giáo-sư Bông đều phải họp Hội-đồng Giáo-sư để chọn một sinh-viên nhất vì Học-viện muốn tặng một quyển Luận-văn chiếm Giải Nhất cho vị Chủ-tọa Lễ Tốt-nghiệp. May mắn thay, tôi được Hội-đồng Giáo-sư chọn cả hai lần. Cám-ơn Thầy Nguyễn Văn Bông, Thầy Nguyễn Khắc Nhân, Thầy Nguyễn Văn Tương và các Thầy, Cô khác đã chọn con. Nhờ vậy con đã có đủ lòng tự tin khi viết Luận-án Tiến-sĩ Tài-chính / Kế-toán ở Pace University, Hoa-Kỳ. Lần này con đã chiếm giải Nhất mà không có sinh-viên nào đồng điểm vì cả 5 vị Giáo-sư chấm Luận-án Tiến-sĩ của con đều cho con A+.

[2] phần dưới mặt đất của Uluru lớn hơn phần trên mặt đất nhiều

[3] Orogeny là sự tạo núi hay mountain building

[4] ký-hiệu là 550 Ma (Ma viết tắt chữ megaannum, đơn-vị đo thời-gian cho một triệu năm)

[5] bây giờ đang Mùa Xuân; Mùa Hè có thể nóng tới 115° F (46° C), mùa Đông có thể xuống

tới 23° F (-5° C).

[6] Từ nhiều năm nay, chúng ta quen dùng tên “Chương-trình H.O.” theo nghĩa HO là Humanitarian Operation nhưng có người cho rằng chữ “H” là chữ viết tắt chữ “Hồ-sơ” của Hà-nội, 0 không phải là chữ O mà là số zero; H 01 là Hồ-sơ 01 chứ không phải là HO 1, H 02 là Hồ-sơ 02 chứ không phải là HO 2… Những Hồ-sơ từ 10 trở lên không có số zero nữa (H 11, H 12….). Cộng-sản Việt-nam đã lợi-dụng tên sai-lạc H.O. Humanitarian Operation này để tuyên-truyền cho một chính-sách nhân-đạo tưởng-tượng của họ. Tôi tìm (chỉ “Googled” sơ thôi chứ chưa nghiên-cứu kỹ) trong vài hồ-sơ của Bộ Ngoại-giao Hoa-kỳ thì không thấy họ dùng chữ “H.O. Humanitarian Operation.” (In 1989, the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former ARVN soldiers and officials held in re-education camps and allow them to emigrate to the United States under the Orderly Departure Program (ODP)).  Tôi sẽ tìm hiểu thêm về vấn-đề này.

[7] tàu sẽ đi ngược lại cho chuyến tàu Southbound, bán vé riêng biệt

[8] có những chuyến xe đặc-biệt, “The Ghan Expedition,” đi 4 ngày 3 đêm, giá vé đắt hơn

[9] New Zealand vốn là thuộc-địa của Anh từ 1841, được độc-lập năm 1947.

[10] người thứ nhất là Thủ-tướng Benazir Bhutto của Pakistan

[11] tương-tự như các du-thuyền

[12] Waitomo là chữ Maori; wai có nghĩa là nước, tomo là động sâu

[13] tên gọi trái kiwi ở Tầu; Tầu là nước trồng kiwi nhiều nhất trên thế-giới.

[14] Con chim Phượng Hoàng khi gìa gần chết lại nhẩy vào “tắm” trong lửa để trẻ lại như thời son trẻ.

Visits: 648

Dịch COVID-19 Với Suy Nghĩ Của Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Biết bạn đang trải qua một thời gian dài tự cô lập trong lo lắng và buồn bực vì nạn Covid-19, tôi sẽ viết linh tinh “đủ thứ bà rằng” và cố gắng thêm thắt sao cho bạn nằm trong chăn, vừa hưởng cái thú gây gây lạnh của mùa thu vừa mĩm cười với những dòng chữ lẩm cẩm nầy. Tuy chẳng nghiêm trang, nhưng cũng được “một vài trống canh”.

Từ tháng 3 năm 2020, dịch Covid-19 bùng phát khắp thế giới. Tử thần Covid khởi hành từ thành phố Vũ Hán bên Tàu. Đó là một trong những thứ vũ khí sinh hóa, giết người tàn độc nhất mà tất cả các quốc gia, từ văn minh đến chậm tiến đều bó tay chịu chết. Nó tàn sát, đa số là những người lớn tuổi. Đã già mà còn thêm bịnh nền (có sẵn) trong người thì lưỡi hái của nó vung lên lấy mạng trong chớp mắt. Người lớn tuổi khiếp vía. Họ không dám ra đường, không dám tiếp xúc với ai. Có một bà già sợ đến nỗi không đi chợ, không lấy thức ăn mà bạn bè, con cháu để trước cửa, sợ vi rút dính ở bao bì, nên cứ để đó suốt mấy ngày, hàng xóm thấy lạ, gọi cảnh sát. Hóa ra bà ta gần chết vì đói. Chưa bao giờ người lớn tuổi nhìn thấy rõ cái chết của người khác (cỡ tuổi mình) bằng lúc nầy. Bạn bè, thân quyến chết hằng ngày, chết liệt địa! Tuần trước, ông X. mới gọi nói chuyện, hôm qua đã nghe “đi” rồi. Ông K. mình mới đến nhà thăm hôm kia, thấy vẫn mạnh khỏe, cười nói vui vẻ, vậy mà vừa nghe, đã được đưa vô bịnh viện, thở Oxy. Giở tờ báo, mấy trang sau đầy cáo phó với chia buồn. Tính đến hôm nay (thời điểm tháng 9 năm 2020) trên thế giới, đã có gần 30 triệu người nhiễm Covid-19 với gần 1 triệu người chết. Bịnh dịch đã giết hơn 7,000 bác sĩ, y tá, y công, là những người làm công tác chống đỡ, cứu chữa người bị lây nhiễm. Riêng nước Mỹ, số người nhiễm dịch Covid-19 gần 7 triệu người và số người chết đã trên 200 nghìn. Điều buồn cười là một quan chức y tế hàng đầu của Canada, Therese Tam khuyên mọi người không hôn và cần đeo “khẩu trang?” (che miệng lại!) khi quan hệ tình dục để bảo vệ bản thân khỏi virus corona.

Sau đây là những suy nghĩ vụn vặt của một người lớn tuổi, đang bị Cô (tên) Vít ám ảnh trong đầu. Như người lính ra trận, trước kẻ thù mà run sợ thì có mà bỏ mạng sớm. Nhưng kẻ thù thì có thể thấy được, chứ với cái “Cô Vít-19” nầy thì dung nhan chỉ thấp thoáng trong kính hiển vi điện tử với hình chụp như trái banh có gai màu sắc sáng chói, thấy đã lạnh người. Cá nhân tôi,  “thí mạng cùi”, cứ nhởn nhơ khắp nơi, cà phê, cà pháo với bạn bè mà vẫn bình yên vô sự. Mà giả sử như thình lình Cô Vít-19 (tuổi) nhảy đến ôm chầm lấy tôi thì sao? Sao trăng gì! Sống đến tuổi nầy, trên bảy mươi, quá đủ rồi, Còn gì phải lưu luyến chốn trần ai nầy nữa? Đời chỉ là vở hài kịch mà tôi là tên hề giễu dỡ, hạ màn thì vừa. Nhưng, cũng giống như trong tuồng cải lương, Nhân vật sắp chết mà vẫn ngóc đầu ca đủ sáu câu vọng cổ mới chịu tắt thở. Tôi cũng vậy, nhưng chỉ nói chuyện vui thôi vì “Khóc lóc, rên rỉ là hèn nhát”.

Mỗi người, sinh ra đời có ba giai đoạn. Giai đoạn đầu, “tin” có ông già Noel (Santa Claus), giai đoạn kế tiếp là “không tin” có ông già Noel và giai đoạn cuối cùng là “làm” ông già Noel. Giai đoạn đầu, trẻ con, ăn chơi và học hành, không có gì đáng nói. Đoạn giữa mới nhiều chuyện rắc rối cuộc đời, mà cái rắc rối nhất là tình yêu, rồi  tiến đến hôn nhân (lập gia đình), có cặp  chia tay (ly dị) và cuối cùng kéo nhau chui xuống đất (xuống “âm phủ!).

Xin nói chuyện tình yêu trước. Yêu ai phải tìm cách cho người ta biết. Người ta yêu lại mình mới ngỏ lời xin cầm bàn tay tức là cầu hôn. Mà muốn cầu hôn phải làm gì? Quì xuống dưới chân người đẹp với bó hoa hoặc với chiếc nhẫn hột xoàn. Khi người đẹp đã khoái mình thì dù nói “ba hoa thiên địa” gì nàng cũng gật đầu. Ngược lại người ta không ưng mà mình cứ lải nhải thì coi chừng ăn guốc lên đầu. Có vài màn cầu hôn đáng chú ý như sau.

Ngày 8 tháng 3, 2020, một cậu ở đường Abbeydale, nam Yorkshire, nước Anh, sửa soạn một buổi tối long trọng gồm hàng trăm ngọn nến được thắp lên, rượu, bong bóng bay và thức ăn bày lên bàn rồi vội vã lên xe đi đón người yêu. Lúc quay về thì căn nhà đang cháy tưng bừng với ba xe cứu hỏa đang xịt nước vào đám cháy một cách tuyệt vọng. Người đẹp khoái quá, nhận ngay lời cầu hôn của cậu ta trước đống tro tàn. Chả cần, hoa lá, đèn đóm phiền phức.

Một chuyện khác. Cậu Jérémy đưa người đẹp Athina Yalias vào công viên quốc gia Kruger, Nam Phi. Đến một nơi vắng vẻ, rậm rạp, cậu Jérémy quì xuống, thiết tha ngỏ lời yêu thương. Người đẹp cảm động, cúi xuống, hôn lên trán cậu ta. Thình lình, một con nhện có nọc cực độc tanratula, chích cho cậu ta một phát vào mông đít. Cậu Jérémy hét lên đau đớn, người đẹp cũng suýt ngất xiu vì lo sợ. Cũng may, con nhện không chích vào “điểm chiến lược” nên cậu vẫn là vợ chồng được như thường.

Một cậu khác, có sáng kiến lặn xuống nước, ngỏ lời cầu hôn với người đẹp đang đứng trên cầu nhìn xuống, lắng nghe. Cậu nói cách nào mà nước tràn vào họng và cậu chết đuối. Kính lạy ngài Allah! Xin ngài nhận cậu ta lên thiên đường và tặng cho cậu bảy (7) nàng trinh nữ kẻo tội nghiệp.

Rồi đến chuyện gia đình. Có mấy ông thần ve chai ngồi nhậu, gật gù với nhau. Một ông đề nghị, mọi người thử gửi tin nhắn (message) bằng điện thoại về cho vợ câu “Anh yêu em” để xem các bà trả lời ra sao? Bà vợ 20 tuổi trả lời “Em cũng yêu anh” Bà 30 tuổi “Xỉn rồi phải không?” Bà 40 tuổi “Ông điên rồi hả?” Bà 50 tuổi “Ông gửi lộn cho con đĩ chó nào hở? Về đây, bà thiến tận gốc cho biết tay bà”                            

Sống với nhau qua thời gian, làm gì cũng xảy ra chuyện “Ông ăn chả, bà ăn nem”, nghĩa là ngoại tình. Đã là vợ chồng mà còn ngoại tình thì gia đình trở thành địa ngục. Khi một người ngoại tình cũng giống như cây đinh đã đóng vào tường. Cây đinh có được nhổ đi nhưng cái lỗ đinh vẫn còn đấy. Nó ám ảnh suốt đời sống vợ chồng. Nhiều khi cố quên để hàn gắn tình cảm gia đình, nhưng đã thật sự nguội lạnh, thấy ghê tởm, hết phương cứu chữa, đành sống với nhau như đóng kịch, coi như bạn “share” phòng. Hiếm có những cặp vợ chồng lớn tuổi sống hòa hợp bên nhau tuy người ngoài nhìn vào tưởng như họ đang hạnh phúc, vì trải qua bao nhiêu năm, làm gì cũng có lúc họ vi phạm nghĩa vụ vợ chồng (nghĩa vụ đồng cư, chung thủy). Với người Âu, Mỹ, hễ có xích mích nhỏ là họ chia tay. Người Việt thường vì sĩ diện, vì con cái, vì xã hội mà miễn cưỡng chịu đựng nhau “Ở chung với người nghịch như nếm mật nằm gai” Không gì khổ sở bằng sống dưới một nhà mà hằng ngày phải nhìn thấy mặt người mà mình không dám nhìn. Có mấy ông già ngồi uống cà phê. Một ông hỏi các bạn “Ở tuổi gần đất xa trời. các ông ghét nhất là điều gì?” Người thì nói “Cái mặt lầm lì của mụ vợ khi có chuyện không vừa ý. Nó như người câm, miệng như dán băng keo” Người khác “Vợ tôi mở miệng ra là gầm gừ như sủa. Hỏi nó thì nó hỏi ngược lại. Nó cũng có học mà không hiểu sao càng ngày nó càng hỗn hào, mất dạy. Tôi là chồng nó mà nó nạt tôi như đứa ở”  Ông khác “Mình già rồi, đâu thiết chuyện lăng nhăng. Vậy mà cứ ghen bóng ghen gió. Hết chuyện mới lại đem chuyện xưa rích ra kể lễ, đay nghiến. Ước gì được như mấy ông độc thân. Sống không có vợ sung sướng như đang ở trên thiên đàng”. Báo chí thường đăng chuyện nhiều ông chồng sợ vợ đến nỗi phải vào nhà băng cướp tiền rồi ngồi chờ cảnh sát đến bắt đi. Hỏi tại sao? Ông ta bảo, mong được ở tù còn hơn là phải về nhà nhìn thấy mặt bà vợ. Muốn “thoát ly” khỏi tay bà vợ đâu phải chuyện dễ. Trốn đi dâu mà không bị “dẫn độ” về nhà? Ăn uống, sinh hoạt ra sao? Ai săn sóc khi bịnh hoạn? Chỉ có nhà tù là tốt nhất. (xin lưu ý. Tốn kém mỗi năm để giam giữ một tù nhân ở Mỹ là trên ba mươi nghìn USD, thời giá năm 2000)

Bây giờ nói qua chuyện ly dị. Ở Việt Nam ta, ngày xưa, có luật “Thất Xuất” (7 lý do chồng đuổi vợ ra khỏi nhà)

1- Tuyệt tự. Không con trai nối dõi tông đường.

2- Dâm dật (không chung thủy)

3- Không thờ cha mẹ chồng.

4- Lắm điều (chua ngoa, khiến người khác khó chịu).

5- Trộm cắp.

6- Ghen tuông vô cớ.

7- Có ác tật (bịnh tật, không đảm đương được việc nhà, có thể truyền bịnh cho người nhà, con cái)

Xem ra, người chồng, chỉ cần viện cớ mơ hồ (điều 4, điều 6) là có thể tống xuất vợ ra khỏi nhà. Tuy nhiên, cũng có luật “Tam Bất Khả Xuất” để bảo vệ người đàn bà dù người vợ phạm “Thất Xuất”.

1- Người vợ đã từng để tang cha mẹ chồng trong ba năm.

2- Trước nghèo, sau giàu (người vợ đã góp công sức vào gia đình nhà chồng)

3- Không còn chỗ nương thân (thông thường, chồng trả vợ về bên nhà vợ. Nếu cha mẹ vợ không còn thì không được đuổi vợ)

Tôi không thấy luật cho vợ được phép bỏ chồng?! Luật xưa, coi cho biết, chứ thời bây giờ, không ưa nhau, thì lôi nhau ra tòa xin li dị mà không cần nêu lí do. “Anh đi đường anh, tôi đường tôi…” Ly hôn chớp nhoáng được luật Hồi giáo chấp nhận. Người chồng chỉ nói, (có thể gọi điện thoại) 3 lần, 2 tiếng “Galak” (ly hôn) là coi như đã ly hôn (Xin báo một tin vui. Tôi đã theo đạo Hồi sáng nay. Chiều nay tôi sẽ về nói với vợ tôi “Galak. Galak. Galak!” Hê Hê Hê!)

Sau đây là một vài lý do (vui) khiến vợ chồng đưa nhau ra tòa. Một bà vợ đòi li dị ông chồng vì “Ông ta cứ gài ngược cuộn giấy vệ sinh khiến tôi bực mình hết sức”. Một bà vợ phát hiện chồng dẫn gái về nhà trong lúc bà ta đi vắng, vì con vẹt cứ nói “Vào nhà đi em. Anh nhớ em, thèm em quá!” Một bà khác thưa chồng vì tội phỉ báng “Hắn nói tôi là con khỉ già” Quan tòa hỏi “Ông ta nói như thế với bà từ khi nào?”Cách nay 20 năm” “Sao bây giờ bà mới thưa ông ta ra tòa?” “Tuần trước tôi đi sở thú mới thấy rõ con khỉ già nó như thế nào” Một bà khác đưa chồng ra tòa vì nói nhiều quá, chịu hết nỗi, quan tòa hỏi lý do, ông chồng trình bày sự việc suốt bốn tiếng đồng hồ khiến quan tòa cũng phải phát khùng! Một bà khác thưa với quan tòa “Buổi sáng, tôi chiên trứng cho thằng chả ăn thì hắn nói “Sao không làm ốp-la?”(chiên hơi sống). Bữa sau tôi làm ốp-la, thằng chả lại hòi “Sao không chiên trứng mà làm ốp-la?” Bữa sau nữa tôi làm ốp-la một trứng, chiên một trứng khác. Thằng chả lại nói “Trứng chiên thì làm ốp-la, trứng ôp-la thì lại đem chiên. Ai ăn cho được?”                                                                                                          

Vậy thì vợ là người như thế nào? Một ông bố nhận được thiệp hồng (thư mời đám cưới)  của con trai, ông ta trả lời thư như sau. “Một số người nói. Khi hai người kết hôn, họ trở thành những người thân. Nhưng bố muốn nói với con rằng. Cho dù con kết hôn bao nhiêu năm, con phải nhớ. Cha mẹ, con cái mới là người thân, còn vợ chỉ là người yêu. Vợ con không phải là người thân của con. Con có thể la lối, hờn trách bố mẹ vì bố mẹ là người sinh ra con. Mối liên hệ nầy không thể chối bỏ được, nhưng vợ thì không. Quan hệ với cô ấy là hai bên cùng có lợi. Nếu con phạm lỗi, cô ấy có thể rời con bất cứ lúc nào” (và thành vợ người khác)

Nói vậy tôi không có ý đánh giá thấp tình vợ chồng. Người Á Đông như người Việt, nhất là vùng thôn quê, hiếm có chuyện vợ chồng bỏ nhau. Họ yêu  thương nhau cho đến trọn đời. (Ngày xưa, vợ gian dâm với người không phải chồng mình thì bị gọt đầu, bôi vôi, đóng bè cho trôi sông, không ai dám cứu). Ở hải ngoại, vợ chồng sống giữa xã hội văn minh với người bản xứ, ngôn ngữ bất đồng, như người câm điếc, cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng nên vợ chồng phải nương tựa, che chở cho nhau, tình nghĩa vợ chồng càng trở nên sâu đậm. Thế nên khi đôi vợ chồng già mà một người từ giả cõi đời thì người kia đau khổ, nhớ nhung dẫn đến suy sụp cả tinh thần lẫn thể chất. Người đàn ông chịu đựng mất mát tình cảm kém hơn đàn bà nên thường gục ngã rất nhanh sau khi vợ chết.

Có vài chuyện kể, khiến ta cảm động.

Cụ ông John Wilson 92 tuổi, cụ bà Marjorie 88 tuổi sống bên nhau gần 62 năm. Cụ bà bị bịnh phải vào nằm nhà thương Queen Hospital Burton ở Staffordshire, nước Anh. Rồi cụ ông mắc bịnh ung thư giai đoạn cuối phải vào cùng bịnh viện. Lúc đó cụ bà bịnh đã ổn định sẽ được đưa về nhà dưỡng lão. Nhận thấy, có thể hai người sẽ không còn dịp gặp nhau, bịnh viện sắp xếp hai giường của hai cụ gần nhau. Cụ ông nắm tay cụ bà, nói lời vĩnh biệt rồi mỉm cười, nhắm mắt đi vào cõi hư vô.

Đôi vợ chồng đều mù. Ngày cưới về, chồng nắm tay vợ dẫn đi khắp nhà cho vợ quen biết mọi vật. Nay cả hai đã gần tám mươi tuổi. Chồng làm nghề thổi kèn đám cưới, lúc nào cũng nắm tay vợ, dẫn theo, coi như thổi kèn cho vợ nghe “Trăm con phượng hoàng”, “Niềm vui đầy nhà”. Trong đám đông lao xao tiếng cười nói, chỉ cần nghe tiếng gọi nho nhỏ, chỉ cần nghe hơi thở, họ cũng tìm thấy nhau. Một lần, chồng ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện. Vợ bốn ngày không ăn hạt cơm. Không sờ thấy bàn tay quen thuộc kia, bà không còn hồn vía nào nữa.

Bây giờ đến “Cái vấn đề” mà các cụ ông, cụ bà quan tâm, lo lắng. Đó là cái Chết.

Đứa bé, vừa lọt lòng mẹ đã chào đời bằng tiếng khóc “Oe oe!”. Trần có vui sao chẳng cười khì? Lớn chút nữa, chập chửng biết đi. Bước đi đầu tiên cũng là bước tiến đến bức tường trước mặt. Bức tường vô hình nhưng không người nào, kể cả vua chúa hay thánh nhân có thể vượt qua. Đó là cái Chết.

Nhưng chết là hết hay còn gì xảy ra?

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

(Đến như nước chảy, như gió thoảng.

Không biết ta từ đâu đến, rồi về đâu?)

Nếu người có linh hồn thì khi chết, hồn đi đâu? Lang thang trong cõi âm tăm tối, mịt mù, không thấy đường đi, không có lối về, bơ vơ, trơ trọi. Ai? Có ân nhân nào ra tay cứu vớt, đưa đường, dẫn lối cho linh hồn về với ánh sáng, thoát khỏi trầm luân? Thế là các triết gia, các ngài giáo chủ các tôn giáo đứng ra giải thích, rằng có những thế giới khác. Nó ở “trên cao” là thiên đường, nát bàn, cõi tiên… sướng lắm! Nó ở “dưới” địa ngục, hỏa ngục, âm phủ… đau đớn, khổ sở?

Triết gia Epicure (341-270 tcn) viết “Ta không sợ chết. Nó chẳng là gì đối với ta cả, vì khi ta sống, nó chưa có, đến khi nó có mặt thì ta không còn tồn tại”. Phái Khắc Kỷ, đặc biệt là Senèque và Epitète, lại có một lý luận khác để chiến thắng nỗi sợ chết. Họ coi sự chết là một tất yếu của thiên nhiên. Con người là một phần của thiên nhiên. Thiên nhiên có lý tính và con người tham dự vào lý tính ấy. Với cái chết, cá nhân sẽ tan biến, nhưng thiên nhiên là cái toàn thể vẫn tồn tại. Vì thế ta hãy chấp nhận cái chết như một “tất yếu theo định luật thiên nhiên”.

Đa số những lời giải thích của các tôn giáo thường siêu hình và áp đặt. Tôi không có thẩm quyền trên tôn giáo nên chỉ trích đăng một vài đoạn ngắn về phát biểu của các tín đồ của tôn giáo họ.

Trước hết là bài viết vui của luật sư Nguyễn văn Chức, một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ông tưởng tượng, sau khi mình chết, linh hồn mình sẽ “sinh hoạt” như sau. (bài của vip kk)… Sau khi đi thăm một vài nơi ở thế giới của Dante, tôi được đưa ra trước tòa phán xét của Thượng Đế. Tôi là người Công Giáo, tôi phải trả lời về tất cả những hành vi và ý nghĩ của tôi lúc còn sống. Ôi “ngày của thịnh nộ” (Dies irae, dies illa). Nếu linh hồn tôi có tội trọng (mortal sin), tôi sẽ phải xuống hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt đời đời. Nếu linh hồn tôi không có tội trọng và trong trắng như gương, tôi sẽ được lên Thiên Đàng ngay lập tức. Nhưng nếu linh hồn tôi, tuy không có tội trọng, nhưng không trong sáng như gương, nghĩa là còn lợn cợn bụi trần, thì tôi sẽ đi đâu? Tôi sẽ phải xuống ngục luyện tội (purgatory) một thời gian để lửa đốt con người tôi cho sạch những lợn cợn, và sau đó tôi mới được lên Thiên Đàng. Thời gian ở luyện tội, có thể là 10 năm, 20 năm, 50 năm . . . Tùy trường hợp nặng nhẹ. Mà tôi thì như cụ đã biết, nhiều lợn cợn lắm, thể xác cũng như tâm hồn. Có lẽ phải ở luyện tội cả mấy trăm năm.   Tôi được đưa đến tòa phán xét. Chưa đầy 5 phút, có tiếng loa. “Ai có vợ, và đã sống với vợ từ 30 năm trở lên, hãy đứng sang bên phải.” Tôi lễ mễ chạy theo tiếng loa, đứng sang bên phải. Đông lắm, người nào trông cũng thiểu não quá sức. Hai phút sau, có tiếng vọng từ trời cao: “Các con yêu mến, lúc còn sống, các con có vợ và đã ở với vợ trên 30 năm, như thế các con được coi như đã ở luyện tội cả mấy trăm năm rồi, các con sạch mọi tội lỗi và đáng được lên Thiên Đàng ngay lập tức để hưởng Thiên Nhan Chúa”. Mọi người đều hoan hô. Một ông già Mỹ móm mém, phều phào “All right!”. Tôi cũng phều phào “All right!”.                                              

Sự chết đối với người Hồi giáo.  Theo Qur an: Thiên Chúa định trước thời điểm một người chết trước khi được sinh ra. Không ai có thể đẩy nhanh hoặc trì hoãn cái chết của chính mình hoặc cái chết của người khác nếu điều ấy trái với ý muốn của Thiên Chúa, bất kể nguyên nhân cái chết. Theo Kinh Qur an 45:26: “ Allah sẽ ban cho bạn sự sống, sau đó giết bạn, và sau dó Ngài sẽ tập hợp bạn đến Ngày Phục sinh, trong đó không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết điều nầy”.  Có người nói rằng, người chiến binh Hồi giáo chết vì kẻ thù, linh hồn sẽ được lên thiên đàng và được Allah thưởng cho bảy (7) trinh nữ. Trước kẻ thù mà người chiến binh Hồi giáo bỏ chạy thì đàn bà cũng có quyền chém chết.                                                                                                   

Phát biểu của đức Đạt Lai Lạt Ma (Phật giáo) về cái chết.    

Với những người chuyên tạo ác nghiệp thì hơi ấm của thân thường thất thoát ở phần trên của thân trước tiên và sau đó mới thất thoát ở các phần khác của thân. Ngược lại, người chuyên tạo nghiệp thiện, thì hơi ấm thường thất thoát từ dưới chân trước tiên. Trong cả hai trường hợp trên, hơi ấm sau cùng tụ lại ở nơi tim, và từ đấy lìa khỏi thân. Các phần tử vật chất này, gồm tinh cha và huyết mẹ kết hợp lại, là nơi thần thức nhập vào lúc đầu tiên để vào tử cung mẹ khi bắt đầu sự sống. Các phần tử vật chất này biến thành trung tâm luân xa tim, và chính từ những điểm nầy mà thần thức cuối cùng lìa khỏi thân. Ngay khi thần thức lìa luân xa tim, thân trung ấm bắt đầu, trừ trường hợp của các vị tu hành cao, thác sinh trong cảnh trời vô sắc của các cõi không vô biên giới, thức vô biên giới, các “cõi Không” hoặc là các cảnh giới cao nhất của cõi luân hồi, thì đi tái sinh ngay sau khi chết. Những người thác sinh vào các cõi dục giới và sắc giới thì vẫn phải trải qua thân trung ấm, ở trong đó những người này sẽ mang hình dạng của thân tái sinh tương lai. Thân trung ấm có đầy đủ 5 giác quan và có cả nhãn thông, có khả năng đi xuyên qua vật chất, và bay ngay lập tức đến nơi mình muốn. Thân trung ấm cũng có thể thấy được các thân trung ấm khác cùng thể loại (tức là cùng cõi đi tái sinh). Các thể loại khác nhau là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, a tu la và trời. Khi thân trung ấm chưa tìm được nơi đi tái sinh thích hợp với nghiệp lực của mình sau 7 ngày thì nó sẽ phải trải qua sự chết của trung ấm và tái sinh trong một thân trung ấm mới. Tái sinh trung ấm chỉ có thể diễn ra nhiều nhất là 6 lần, có nghĩa là thần thức chỉ có thể trải qua tối đa là 49 ngày trong cõi trung ấm. Điều đó cũng có nghĩa là khi một thần thức sau khi chết đi một năm trời, hiện ra và cho biết vẫn chưa được tái sinh, không còn ở trong cõi trung ấm nữa, thì thần thức đó đã tái sinh thành ma. (hết  trich) 

 Tóm lại đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Do Thái tin rằng, sau khi chết, linh hồn sẽ bất diệt, được về với Thiên Chúa nơi thiên đàng. Đạo Phật thì cho rằng, linh hồn không bất diệt mà được  đầu thai vào kiếp khác tùy theo cái nghiệp mà mình đã tạo nên. Thế thì với người Á Đông (đặc biệt Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, Đài Loan, Nhật Bản) chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, và Đạo giáo, nhận định ra sao về cái chết?

Như đã nói ở trên, với Phật giáo, con người khi chết, thân xác tiêu tan nhưng linh hồn sẽ đầu thai vào sáu cõi tùy nghiệp chướng do mình tạo ra khi còn sống. Lão giáo (Đạo gia) cho rằng, ngoài thân thể, là phần vật chất hữu hình còn có hồn và phách (vía).  Lão Tử không bàn đến Thượng Đế, linh hồn, thiên đàng, địa ngục mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng trở về Đạo, hòa với Đạo. “Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh” (Đạo mà có thể nói ra được không phải là đạo thường hằng vĩnh cửu, Tên mà có thể gọi ra được không phải là tên thường hằng bất biến)  Xin trích một bài báo: Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh Tăng quan còn có cả Đạo quan. Từ đời Lê Trung hưng Đạo giáo bắt đầu suy thoái, những đạo quán bị Phật giáo hóa, trở thành chùa. Bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tượng Phật[3]. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người Việt thì vẫn còn. Thuật phong thủy, các phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, các hình thức bói toán, cúng bái, trừ tà của Đạo giáo vẫn phổ biến tại Việt Nam. Tại Hà Nội vẫn còn một số đạo quán của Đạo giáo như Thăng Long tứ quán bao gồm Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.

 Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng “cưỡi diều tìm long mạch” để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới. Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên (hết trích).

Tóm lại, theo đạo Giáo, ngoài thân thể, phần vật chất hữu hình, còn có hồn và phách (vía). Hồn là phần tinh thần. Khi thân thể chết đi thì phách không còn nữa, hồn tiếp tục tồn tại trong thế giới vô hình. Nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng về với Đạo hòa với Đạo. “Sống chết là do khí tụ lại hay tan mà thôi” (Trang Tử). Đạo giáo là một triết lý, sau biến thành một thứ mê tín dị đoan, ma thuật, phù thủy, bùa chú.

Còn theo Nho giáo thì người có khí, có hồn, có phách. Chết không phải là hết. Chỉ chết cái hình hài, còn cái khí tinh anh, cái hồn khí ấy thì lại về với chỗ sáng tỏ của vũ trụ. Tuy nhiên, đạo Nho chỉ hướng sự quan tâm về những vấn đề nhân sinh, nên xiểng dương phương châm “Sự quỉ thần” (khí, phách được gọi cung kính là sự quỉ thần) “Kính nhi viễn chi” và dụng đạo thần minh làm phương tiện giáo hóa tức đề cao khía cạnh phong hóa mà không bàn về khía cạnh siêu hình. Có người hỏi Khổng Tử “Con người có số mệnh không?” Khổng tử đáp “Có số mệnh nhưng không nên đứng dưới bức tường sắp đổ” “Chưa biết chuyện sống, sao biết được chuyện chết?”

Còn người Việt ta nghĩ gì về cái chết, về linh hồn?

Người Việt đa số, có đi chùa lễ Phật, xin lễ cầu siêu cho thân nhân, tin lời Phật dạy nhưng vẫn tự cho rằng mình theo “Đạo Ông Bà”. Họ vẫn tin rằng thân nhân mình, chết đi không phải đầu thai kiếp khác, không phải lên Niết Bàn hay xuống địa ngục mà vẫn ở cùng với con cháu trong gia đình. Trong nhà, chỗ trang trọng nhất là bàn thờ tổ tiên, thân nhân người đã khuất. Ngày xưa, trên bàn thờ có bài vị (thần chủ), là nơi linh hồn người đã khuất ẩn náu, ngày nay thay bài vị bằng di ảnh, tưởng như người đã chết vẫn hiện diện trong gia đình. Khi người thân trong gia đình bị “bất tỉnh nhân sự”. Để hồi sinh, chủ nhà đứng trước sân kêu lớn “Hú ba hồn chín vía (bảy vía nếu là nam) X. về nhập xác” đồng thời thắp đèn nhang trên bàn thờ, cầu xin ông bà phò hộ cho con cháu tai qua nạn khỏi. Khi người thân bị tai nạn hay bịnh tật mà “chết đường, chết chợ” thì gia chủ ra nơi người đã chết kêu lên “Hú ba hồn chín vía Nguyễn, hay Lê… X. theo tôi về nhà” Họ tin rằng nếu không gọi như vậy, hồn người chết sẽ không biết nhà ở đâu mà về để hưởng sự cúng kiếng, sẽ thành ma đói, ma khát. Người chết đuối phải nhờ thầy cúng đến lập đàn trục vong, hướng dẫn hồn về chùa nghe kinh kệ mà siêu thoát, nếu không hồn vẫn phải ở dưới nước cho đến khi (lôi kéo) một người khác chết (đuối) thay, hồn mới thoát khỏi trầm luân. Họ tin rằng, những người chết đuối, chết oan, chết “bất đắc kỳ tử”, linh hồn vất vưởng (oan hồn uổng tử) không nơi nương tựa thành ma, thành quỉ nên ngày rằm, mồng một thường có lẽ vật cúng ngoài trời (bàn thiên) cho các hồn ma đến hưởng và chấp nhận lời cầu xin của gia chủ đừng quấy phá, gây xáo trộn trong nhà đồng thời phù hộ cho mọi người được mạnh khỏe, vạn sự như ý. Vào dịp cuối năm âm lịch có lễ “rước ông bà” về đoàn tụ, vui xuân với con cháu. Sau ba ngày tết có lễ “tiễn ông bà”. Đa số người Việt tin rằng, linh hồn thân nhân vẫn đoàn tụ với nhau  ở một thế giới (vô hình) khác gọi là Âm Phủ. Âm Phủ không phải là địa ngục như Phật giáo mô tả mà là nơi linh hồn những người đã chết vẫn sinh hoạt, đi lại, giao tiếp, chuyện trò với nhau giống như một xã hội bình thường nơi dương thế. Vì vậy đến ngày giỗ chạp, rằm tháng bảy, ngoài lễ vật còn đốt theo “giấy tiền vàng bạc”, áo quần, nhà lầu, xe hơi, đô la… để người thân nơi cõi âm được sung sướng. Người bịnh nặng thường kể lại. Họ thấy cha, me, vợ, chồng… (đã khuất) đến nắm tay đòi dẫn đi. Trong cuộc chiến vừa qua “Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình”. Mạng người như hạt gạo trên sàng. Sống sót được là nhờ phước đức ông bà.

Bây giờ mới thực sự là những suy nghĩ của bọn đàn ông già của chúng tôi. Người trẻ thường hỏi người già “Có sợ chết không?” Xin trả lời “Không sợ chết, chỉ sợ bịnh” Già lão đi đôi với bịnh tật. Nhiều người lớn tuổi ngồi với nhau thường nói về bịnh hoạn của mình như chuyện thời sự. Sau đây là những lời đối đáp của mấy ông già. Một ông nói “Tôi không muốn đến thăm người bịnh, vì thấy chính mình sẽ như vậy. Nằm một chỗ, cựa mình cũng đau, thở không nỗi, ăn uống, tắm rửa, thậm chí đi vệ sinh cũng phải có người giúp đỡ… Khổ như thế thà chết quách còn hơn” Một ông khác thở dài “Vậy mà lúc đó lại muốn sống. Chẳng phải lưu luyến cuộc đời mà vì bản năng sinh tồn của một sinh vật. Hơn nữa, người bịnh chẳng nghe ai nói mình sẽ chết mà an ủi rằng không sao đâu, bịnh sẽ hết. Ngay đến bác sĩ cũng quả quyết rằng bịnh đang được cải thiện, nhưng ra bảo nhỏ với người thân rằng. Bịnh nhân khó qua khỏi, về chuẩn bị tang lễ là vừa” Một ông có vẻ vô tư “Người chết có số. Mới thấy đó mà đã bịnh chết, còn người khác bị ung thư cả mấy chục năm vẫn sống nhăn. Có người cho rằng, do di truyền. Ông bà, cha mẹ sống thọ được bao nhiêu tuổi thì con cháu thọ được khoảng tuổi đó. Vậy tôi xin hỏi. Mấy ông có lưu luyến cuộc đời nầy không?” “Ra đi tay không. Chết là hết. “Gia tài” theo mình là cái “Quan tài”. Giờ thì chỉ cầu sao ngủ một giấc và không hề thức dậy nữa” .

               Đọc  đến đây, làm gì bạn cũng sẽ phàn nàn “Viết dài dòng quá! Tôi chỉ muốn biết ông đã chuẩn bị những gì trước khi ông từ giã cõi đời?” Xin thưa “Tôi chả làm gì cả ngoài việc viết mấy dòng di chúc, đại ý: Khi đưa tôi vô bịnh viện, thấy không hi vọng gì thì rút ống trợ thở. Liên lạc với nhà quàng, lo quan tài, tẩn liệm. Không làm lễ tang ma, không cáo phó, không thăm viếng, không phúng điếu. Tẩn liệm xong đưa quan tài thẳng ra nghĩa trang. Thế là xong một đời người!” Hết!

Phạm Thành Châu

tháng 9/2020

         

Visits: 343