Thảm Họa Kinh Tế Việt Nam Bị Lệ Thuộc Trung Cộng

Nguyễn Bá Lộc

Giữa tháng 12 vừa rồi, Chủ tịch Trung cộng (TC) Tập cận Bình đến VN, trong một bối cảnh thế giới nhiều biến động nguy hiểm hơn, và trong khi đó hiện nền kinh tế Trung cộng (TC) suy sụp có nhiều khó khăn khó giải quyết được trong thời gian ngắn. Hai lãnh đạo cao cấp nhất của “hai nước CS anh em”, Tập cận Bình (TCB) và Nguyễn phú Trọng (NPT) đã có nhiều lần và khá thường gặp nhau, lần nầy thì có vẽ dồn dập hơn, cho nên có thể nghĩ có chuyện gì khác thường. Thực sự, cái căn cơ gốc rễ của mối bang giao của hai nước thâm sâu đặc biệt, và khá bền chặt. Chỉ trong vòng hai năm mà hai Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng gặp rất thường như chúng ta biết. Đó có thể vài sự kiện mới liên hệ tới thế tam giác Mỹ, Trung và Việt nam. Có thể trước tình thế mới, lãnh tụ TC nay cần phải nhắc nhở CSVN phải kiên định lập trường và giữ vững niềm tin cậy, và sáng suốt trước các hành động của Hoa kỳ và đồng minh. Mặt khác, có thể TCB cũng muốn cho dân chúng VN và thế giới thấy VNCS vẫn còn trong vòng kềm kẹp của TC, và VN vẫn còn sát cánh bên TC.
VNCS từ lâu lệ thuộc TC cách khác biệt và sâu đậm về các phương diện chánh trị, kinh tế, và an ninh. Trong bài viết nầy, tôi xin trình bày sự lệ thuộc đó về kinh tế trong thời gian gần đây.

I. Con đường dẫn kinh tế VN tới sự lệ thuộc TC

1. Khái quát ý niệm Lệ Thuộc Kinh Tế

Theo nghĩa thông thường lệ thuộc kinh tế (economic dependence) của một quốc gia khi có tình trạng kinh tế yếu về một mặt nào đó, cần phải dựa vào quốc gia khác để phát triển khá hơn. Ví dụ: Tây Âu phải lệ thuộc dầu khí vào Nga, Hoa kỳ trước 2020 lệ thuộc chuổi cung ứng linh kiện điện tử và nguyên liệu dược phẩm của TC. Hàng hóa chế biến của VN lệ thuộc mạnh có tính cách sanh tử vào thị trường Mỹ và Âu châu..
Khi phong trào toàn cầu hóa mở rộng trên thế giới sau chiến tranh lạnh, sự cạnh tranh kinh tế càng quyết liệt, thì sự lệ thuộc kinh tế với nhau càng lớn mạnh. Trong trường hợp thế giới ổn định, thương mại và đầu tư giao lưu bình thường, thì sự lệ thuộc thường hay phụ thuộc kinh tế vào nước kia, thì đó là chuyện bình thường, không có vấn đề nghiêm trọng được đặt ra.
Song, nếu một nước lệ thuộc vượt qua mức độ và tính chất bình thường nói trên một cách quá đáng, thì tình trạng nầy có trục trặc, bất công, và thiệt hại cho một bên. Có thể chánh quyền một nước ở thế mạnh áp bức nước kia, hoặc chánh quyền nước yếu cầu cạnh hay tự dâng hiến quyền lợi đất nước mình, để trao đổi bất chánh một cái gì. Trường hơp này đã xảy ra cho một số nước. Cụ thể là trường hợp VN bị lệ thuộc TC cách bất thường, bất công, và bất chánh.

2. Con đường đưa tới kinh tế VN lệ thuộc TC

Nhu cầu hợp tác kinh tế VN-TC. Từ khi tái lập bang giao (1991), cả VNCS lẫn TC đều có nhu cầu dựa sát lại để tồn tại và phát triển. Tình trạng càng lớn mạnh hơn khi TCB ôm giấc mộng lên lãnh tụ thế giới và cũng từ khi tranh chấp Mỹ Trung càng căng thẳng thêm.
Với TC, thì nhu cầu trên mặt kinh tế phải kềm chặt VN là vì: VNCS và TC có mô hình và sách lược kinh tế giống nhau. TC là thầy của VNCS, nên mọi bàn thảo hợp tác dễ nói dễ bàn và thi hành ít có khác biệt. Thứ hai TC rất cần tài nguyên khoáng sản nhất là dầu lửa, cho phát triển mà trong nước rất thiếu, trong khi đó VN có tiềm năng nầy khá, mà VN thì muốn giao cho TC khai thác, TC dễ ép buộc VN thầu khai thác cũng như về giá cả. Thứ ba, hai nước ở cạnh nhau, nên ngoại thương rất thuận lợi. Thứ tư, kinh tế VN đang phát triển khá, lợi tức dân chúng tăng, TC đưa vô mọi hàng, và người Hoa tràn vô mở cửa hàng khắp nơi nhứt là các tỉnh ở biên giới.
Với CSVN, thì cần phải dựa vào TC là vì sau khi kinh tế CS sụp đổ năm 1985, VN không có lối thoát, nên dựa được TC là may rồi. Thứ hai, TC là thị trường rất lớn cho nông sản VN. Thứ ba, VN rất thiếu mọi thứ nhất là nguyên liệu, phân bón… mà TC có nhiều. Thứ tư, TC có chương trình cho vay ra các nước khá rộng rãi, VN cần vay mượn nhiều từ bên ngoài. Thứ tư, Bộ máy công quyền VN-TC giống nhau, nên khi thực hiện các dự án dễ dàng thương thảo về các điều thỏa mãn cả hai bên, kể cả tham nhũng lớn để chia chác nhau.
Dù một vài chuyển biến mới gần đây, nhưng mối tương quan kinh tế hai bên Việt Trung không thay đổi, mà còn tăng rất nhanh trong khoảng 5 năm nay. Vì vậy, hệ quả tai hại cho VN càng ngày càng lớn, và nay CSVN rất khó thoát ra được, dù VN đạt một số thành quả tốt trong hợp tác với Tây phương.

3.Thực tế “cái thế” yếu của VNCS trong lệ thuộc TC.

Thực tế, VNCS bị cưỡng bức và tự dâng cho TC trong cái gọi là hợp tác chiến lược toàn diện. Chúng ta có thể thấy được cái yếu thế của VNCS qua thực tế, qua cả dự án kinh tế lớn mà VN đưa cho TC không qua thầu công khai, và qua các phái đoàn VN-TC qua lại khai triển các dự án , các kế hoạch và các mưu mô thầm kín. Chúng ta cũng có thể hiểu qua rất nhiều Hiệp ước kinh tế mà hai bên đã ký. Và cũng có thể hiểu qua thái độ gần như sợ sệt của CSVN về sự vi phạm lãnh hải VN, hoặc các sự kiện quốc tế VNCS theo y như TC về lập trường và sự kiện thế giới.
Có thể tóm tắt những thỏa ước toàn diện và chiến lược VN-TC. Kể từ khi TC-VN nối lại bang giao (1991), hai bên ký rất nhiều thỏa ước về kinh tế, trong đó có các cam kết kín. VN bị đặt vào cái “tròng”phải tuân theo ý của TC. Không kể các Thỏa ước về an ninh, và chánh trị, các thỏa ước kinh tế gồm đủ mọi lãnh vực kinh tế. Một số thỏa ước quan trọng như: Thỏa ước hợp tác xây dựng “Hành lang kinh tế Việt Trung” (2008), “Thăm dò dầu khí và tài nguyên khác dưới biển” (2011), năm 2013 hai bên ký Thỏa ước Mậu dịch, hạ tầng cơ sở, và năm 2017 khi Tập cận Bình đến dự Hội nghị APEC, VN-TC ký thỏa hiệp về kinh tế trong đó có xây dựng đường xe lửa, kiểm soát quyền lợi lãnh hải. Sau chuyến đi đó của Tập, hai bên ký một loạt 83 thỏa ước chi tiết hóa thực hiện các cam kết. Sau cùng trong lần Tập đến vừa rồi, hai bên có 36 thỏa hiệp gồm nhiều lãnh vực từ chánh trị, an ninh và kinh tế.
Sau khi ký các thỏa ước, nhiều phái đoàn chánh phủ hai bên gặp nhau thường xuyên để lập kế hoạch thực hiện các thỏa ước. Tiến trình thi hành các cam kết các phương án hai bên đã hứa.
Ngoài sự gặp gỡ rất thường xuyên của các lãnh đạo cao cấp hai bên, tình trạng chưa thấy có quốc gia nào gắn bó với siêu cường TC như vậy trong độ chục năm gần đây. Cũng như VN chưa bao giờ đi ngược lại quyết định hay biểu quyết vấn đề quốc tế của TC.

II. Những lãnh vực kinh tế VN bị TC xâm lấn

Sau đây là những lãnh vực kinh tế bị TC ép buộc bị lệ thuộc hay tự CSVN muốn đưa tới sự lệ thuộc đó:

Tài nguyên khoáng sản, dầu mỏ. TC phát triển mạnh, nhu cầu nguyên liệu và khoáng sản nói chung TC phải nhập từ 40-50%. VN dâng cho TC (Công ty quốc doanh Chalco) khai thác hai quặng nhôm Giá rai và Nhân cơ (Trung nguyên) bằng đấu thầu giả (2015) hai gói thầu trị giá 980 triệu mỹ kim trong số dự trù các dự án khoáng sản trong 10 năm lên tới 15 tỷ mỹ kim. TC cho VN vay, và một đấu thầu giả cho TC trúng thầu, trong lúc có những công ty Mỹ, Anh, Úc có trình độ cao hơn công ty TC nhiều. VN phải số quặng nhôm đào được bán hết cho TC với giá rẽ. Lúc đầu chánh quyền VN ước tính mỗi năm thu về ít nhứt 200 triệu đô, nhưng sau khi khai thác (2018), mỗi năm lỗ gần 200 triệu đô. TC và VN còn hợp tác khai thác quặng sắt và sản xuất thép, công ty thép Thái nguyên, đầu tư hàng trăm triệu rồi bỏ đi sau 8 năm.
Quan trọng nhất là dầu khí. Theo khảo sát ước lượng tiềm năng dầu khí, VN có tiềm năng 4,4 ngàn tỷ thùng dầu thô, và 24,7 ngàn tỷ mét khối khí đốt. VN đã cho một số công ty ngoại quốc dò tìm trong nhiều năm qua. Nhưng TC tìm cách ngăn cản, cho là vùng lãnh hải của TC và xua đuổi các giàn khoan ngoại quốc. Một mặt, TC đem giàn khoan Hải dương HQ 981 vào lãnh hải VN ở Trường sa. Chỗ HQ 981 tìm kiếm dầu cách Nam hải 180 dặm, và cách đảo Lý sơn (Quảng ngải) 120 dặm, mà TC cho là vùng của họ. Dù HQ 981 rút đi, nhưng tranh chấp vẫn còn đó. Ngoài ra, số dầu khai thác được trong những năm qua phải bán cho TC, trong đó có việc bán lậu để chia chác, ước lượng tới 20-30% tổng số dầu thô VN khai thác được.
Gần đây VN khám phá có mõ đất hiếm, một loại khoáng sản rất cần thiết cho một số ngành kỹ nghệ quan trọng. VN có thể có trữ lượng đứng hạng nhì sau TC. TC muốn khai thác loại nầy, loại mà TC đã độc quyền từ lâu, nên Tập có đề cập trong lần qua VN kỳ nầy.

Xuất nhập cảng: Thương mại hai chiều, TC là đối tác lớn nhứt của VN. Nhưng VN phải nhập hàng TC quá nhiều thứ với số lượng trị giá gấp 3 lần hàng VN xuất qua TC. VN nhập siêu trong 10 năm qua trung bình 35-40 tỷ mỹ kim/năm, và mỗi năm mỗi tăng thêm. Con số nầy tương đương với số xuất siêu của VN qua Mỹ, tức là ngoại tệ từ Mỹ đưa qua cho Tàu gần hết.
Vài chi tiết, năm 2000 (tỷ mỹ kim) VN xuất $1,536, nhập vào $1,401, nhưng đến 2015 thì VN xuất $16,563, nhưng nhập tới $65,573, VN nhập siêu -$32,891, sang 2020 xuất $48,905 nhập $84,186 nhập siêu -$35,281, và trong 11 tháng 2023 VN xuất $61,4 nhập $140,8, nhập siêu -$69.8, nhập siêu tăng 3 lần từ 2015 tới nay, (Tân hoa xã 12/12/23).
Khi một nền kinh tế có sự chênh lệch nhập siêu quá cao, khi có một số hàng không thiết yếu mà nền kinh tế còn yếu, thì phải xem lại và cố cân bằng cân ngoại thương.

Đầu tư TC (FDI) tại VN: TC đầu tư ở VN tăng một cách nhanh chóng và bất thường trong 10 năm qua. Các lý do TC đầu tư nhiều và nhanh ở VN: Thứ nhứt, Chánh sách TC trong thập niên qua bung ra ngoại quốc, Thứ hai, VN có nhiều điều kiện kinh tế, chánh trị, văn hóa rất thuận lợi cho TC. Thứ ba, Mỹ và nhiều nước Âu châu gia tăng hợp tác kinh tế với VN. Thứ tư, TC bị cấm vận trong chiến tranh lạnh mới đẩy TC phải tìm con đường lách né bám sát sát về kinh tế và chánh trị. Tình hình FDI của TC ở VN được tóm tắt :
Trước năm 2000 FDI của TC không đáng kể, tới 2011 có một số dự án, nhưng còn nhỏ chỉ có $700 triệu mỹ kim, Năm 2018 lên $2.400 triệu, được hạng 9 trong các nước ngoài đầu tư ở VN. Nhưng đến 2019, FDI TC nhảy vọt lên hạng 3 với $7.100 triệu (Yosof Isank Intitute 4/2019), và 2022 FDI của TC lên hạng nhứt với $23.5 triệu. (VN Express Internatioal 9/2023).
Trong vòng 12 năm FDI của TC tăng hơn 7 lần. FDI của TC đủ mọi thứ mọi ngành, từ khai thác dầu và khoáng sản tới tơ sợi, sắt thép, máy móc điện tử, khu nghĩ dưỡng nhà đất, đến tiệm tạp hóa , tiệm thuốc Bắc, tình hình tràn ngập khắp nước.
Nhứt là từ khi VN mở rộng cho Hoa kỳ và Tây Âu, Hiệp định CPTPP, EUFTA, và nhiều nữa..
Vay nợ và thầu công trình: Chương trình này mở rộng từ khi TCB lên làm Chủ tịch TC. Viện trợ kinh tế và thầu thi công các dự án nước ngoài là hai mặt của đại kế hoạch vừa có tính cách kinh tế vừa quân sự vừa ngoại giao, nó có liên hệ tới mục tiêu đại bá TC.
Mục đích chánh là đem tiền có dư thừa nhiều cho các nước nghèo vay phần lớn là xây dựng hạ tầng cơ sở. Khi cho vay, với các điều kiện là phải để TC thầu thực hiện phương án, bán vật liệu và đem đến nhiều công nhân viên người Hoa. Có thể kể ở đây:
Dự án đường sắt Cát Linh – Đông Hà, Công ty Gang thép Thái nguyên, một số xa lộ, phi trường và hải cảng như Vân đồn ở Quảng ninh, các nhà máy nhiệt điện ở Bình thuận và Vĩnh Bình (tổng số vốn đầu tư tới 6 tỷ mỹ kim).
TC cho VN vay khá lớn, từ 2000-2017 VN vay $16.3 tỷ mỹ kim (The Diplomat 2010). Lãi suất rất cao (4%) gấp đôi lãi suất vay của Nhựt, Âu châu. TC đòi thế chấp rất cao. Mục đích không trả nợ nỗi sẽ bị TC quản lý tài sản thế chấp. Các dự án lớn vay nói trên nằm trong đại kế hoạch Belt & Road (BRI) của TC.
Phương án đặc biệt: TC dùng nhiều phương án và kế hoạch lớn để ép VN trên nhiều mặt vừa kinh tế, vừa an ninh, và văn hóa. Xin tóm tắt các phương án:
Hành lang kinh tế Việt Trung, nối TC với các tỉnh miền Bắc VN, qua bốn đường bộ và một đường sắt nối Côn minh (Vân nam) đến Hải phòng. Chi phí chung 4 tỷ (2 tỷ do Ngân hàng Á châu viện trợ). Thực hiện từ 1992 và đã xong. Trong chuyến đi qua VN vừa rồi của TCB ký 36 dự án về an ninh, kinh tế, .. trong đó có nói tới xây dựng đường xe lửa thứ hai, Quảng tây – Hải phòng .
Hiệp ước VN- TC thăm dò dầu khí khu vực lãnh hải VN (2013). VN hợp tác TC tìm kiếm và khai thác dầu khí ở vùng lãnh hải VN và cà vùng lãnh hải mà TC tự cho là của mình, cho nên có xảy ra sư tranh chấp, nhưng tới nay tình trạng chưa giải quyết, vì áp đảo của TC.
Đặc khu hành chánh kinh tế (2017) Vân đồn (Quảng ninh), Vân phong (Phú khánh), và Phú quốc (Kiên giang). Đây là các khu vực đặc biệt nó thích hợp cho sự chiếm đóng của TC về đất đai, về di dân Tàu theo truyền thống, và căn cứ quân sự tương lai trong vùng. Vì sự chống đối mạnh của dân chúng, chánh quyền VN tạm không ban hành luật nầy. Nhưng thực tế, các công ty TC đã qua xây dựng một số hải cảng, phi trường ở Vân đồn dựa theo cam kết trước và theo luật trước hay đôi khi bất cần luật lệ gì.
Phương án Vành đai & Con đường (BRI) 2013, đây là kế hoạch lớn trên khắp thế giới, nó nằm trong tham vọng bá quyền của TCB.
VN còn là thành viên của Hiệp định đa phương qui mô rất lớn của TC thiết lập, Hiệp ước hợp tác thương mại, RCEP (2020), chánh yếu là TC muốn kết hợp và nắm các nước ASEAN.
Trên đây là các phương án hay hợp tác kinh tế giữa TC và VN nó vừa mang mục tiêu kinh tế vừa an ninh. Hầu hết phương án nầy mang lợi cho TC nhiều hơn cho VN.

III. Những thiệt hại nghiêm trọng và vấn nạn tồn tại

VN là một điển hình về mức độ phát triển, về mục tiêu, nhứt là về cách vận hành guồng máy chánh quyền, cho nên sự gian xảo, cách độc ác với dân, cách dối trá với quốc tế, hai nước CS thực hiện sự “hợp tác” cách nhịp nhàng. Nhưng VN, đứng về phương diện quần chúng thì chịu quá nhiều thiệt hại về tinh thần lẫn vật chất. Cũng có phần nào có lợi cho VN, trong đó lợi cho đảng và đảng viên dính líu tới các hoạt động kinh tế TC, nhưng cái lợi cho TC nhiều hơn. Có thể tóm tắt các tai hại lớn cho VN như dưới đây:

1. Thiệt hại về mặt xã hội và chánh trị:

Chủ quyền quốc gia và sự độc lập của dân tộc bị mất hay ít nhứt bị xoáy mòn. Điều nầy là một đau thương lớn nhứt cho dân tộc VN.
Nạn tham nhũng do hai bên cấu kết trầm trọng thêm và không cứu chữa nỗi. Những tham nhũng kinh tế lớn có liên quan với sự vay nợ hay thầu thi công với TC. Hoặc các vụ tham nhũng liên hệ nhà đất, ngân hàng, hầu hết có dính đến người Hoa ở VN hay người Hoa từ ngoài vào.
TC dẫn VN theo con đường phi dân chủ, phi tự do trong kinh tế. Nền “kinh tế thị trường XHCN” không phải là kinh tế tự do thực sự, điều nầy có hại theo Thỏa hiệp kinh tế với Tây phương.
VN và TC không có thực hiện tôn trọng về nhân quyền trong kinh tế mà hai nước có cam kết với quốc tế, trong đó quyền công nhân là quan trọng nhứt.
Trong kinh tế đối ngoại, VN có giả dối trong các Hiệp ước Thương mại và đầu tư quốc tế với Tây âu mà VN rất cần, qua những vụ đấu thầu công khai. Nhưng với TC thì VN và TC không bao giờ đặt ra những vấn đề nầy về mặt Dân chủ và Nhân quyền, TC và VN còn dối quốc tế bằng cách hàng TC chuyển qua VN, dán nhản xuất xứ lại và tái xuất đến Âu Mỹ để tránh thuế cao do bị cấm vận.
Sự gian xảo trong thương mại theo con đường chánh hay theo con đường tiểu ngạch càng ngày càng khủng khiếp, hàng lậu , hàng trốn thuế, trốn kiểm soát, hàng hóa giả, thiệt hại hàng tỷ đô.
Các khu casino TC đã và sẽ, có một số tạm ngưng, đầu tư ở VN là nơi sản sinh đủ loại tệ trạng xã hội. Casino và khu nhà ở cho di dân là kế hoạch lớn cho TC.

2.Thiệt hại về kinh tế trực tiếp:

Tài nguyên kinh tế VN bị khai thác mạnh và thiệt hại với giá rẽ. Nhứt là dầu khí là tài sản quí giá.
TC ép VN nhập cảng quá nhiều hàng hóa, trong đó có nhiều món VN có thể tự làm ra được, với chánh sách giá rẽ, tràn ngập khắp nước, làm kỹ nghệ trong nước bị khó khăn và trình độ phát triển kinh tế khó đạt mức tự lực tự cường.
Kỹ nghệ trong nước bị hai khó khăn là hàng TC mọi thứ quá rẽ và tràn ngập, kể cả trang bị máy móc mua của TC với phẩm chất kém. Phần lớn kỹ nghệ VN chỉ là ráp nối hay kỹ nghệ sơ đẳng chế biến nông hải sản.
Chuyên viên và công nhân đi theo các công ty TC trúng thầu, làm thất nghiệp của VN càng cao
VN phải nhập quá nhiều nguyên liệu cho các ngành rất quan trọng như 80% tơ sợi cho ngành may mặc, ngành giày dép. Sau khi VN ký Thỏa hiệp thương mại CPTPP và EUFTA, hàng may mặc phải sử dụng nguyên liệu VN hay nước thành viên, TC nhào qua lập nhà máy sản xuất tơ sợi.
Nông nghiệp VN bị khó khăn không nhỏ, do chánh sách nhập phân bón thuốc sát trùng từ TC chiếm trên 75% nhu cầu, phải chi hàng tỷ đô cho loại mà VN có thể sản xuất được.
Nông sản VN có thể bị khó khăn vì sự thay đổi bất thường của TC .
Cách thức viện trợ kiểu TC đễ đưa tới cái kẹt cho nước đi vay, nó như “cái bẩy”, không trả nợ nỗi, thì bị chủ nợ siết tài sản thế chấp, đàng nào TC cũng có lợi.
Sau cùng, sư mở rộng du lịch và các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa ồ ạt tới VN định cư lâu dài là chiến thuật tạo ảnh hưởng chánh trị và hỗn tạp văn hóa của chánh sách “cộng đồng người Hoa hải ngoại”.

3.Vấn nạn tồn tại.

Trong ba mươi năm dưới sự áp đảo và chiếm đoạt kinh tế cách bất công. Giữa hai đảng thì là “đồng chí tốt”. Nhưng với hai “dân tộc”, hai “láng giềng” và hai “đối tác”, là không tốt. Sự thiệt hai rất nhiều. Tương lai, hãy còn nhiều khó khăn thiệt hại tồn tại. Có thể là:
Sách lược và con đường phát triển giống nhau. Kinh tế đang xuống và chưa có dấu hiệu chấm dứt, TC phải bung ra ngoài để tìm lợi ích kinh tế bù đắp vào, và bị đính thêm chương trình BRI.
VN còn phải nhập nhiều hàng TC, nhất là máy móc và phân bón, đồ gia dụng cho nên nhập siêu phải tiếp tục tăng lên cao nữa. Đó là bất lợi cho một nước đang phát triển.
Dầu khí sẽ còn là sự tranh chấp quan trọng trong tương lai, khi VN TC chưa giải quyết rõ ràng lãnh hải, nhứt là khi Mỹ có dự định tham gia khai thác khí đốt, hay tiếp tục hơp đồng với Exxon.
Kỹ nghệ VN sẽ còn gặp khó khăn do FDI TC tràn vào đầu tư mọi thứ mọi ngành, lợi dụng ngoại thương VN để tranh bớt hệ quả do cấm vận của Tây phương.
Nông sản bán cho TC sẽ còn những lúc khó khăn về số lượng hay giá cả.
VN còn phải vay nợ TC nhiều cho các dự án lớn xa lộ, đường hỏa xa, cảng. Khi nhờ TC phải gánh nặng trả nợ hay bị điều kiện bất lợi khác, kể cả vấn đề an ninh.

IV. Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”, và trong “thế cân bằng” vùng Á châu Thái bình dương

Nhân kiểm lại và cập nhựt bang giao kinh tế Việt Trung trong tình hình thế giới có diễn biến mới trong bang giao của “tam giác Mỹ Trung Việt”. Ở đây có hai vấn đề liên hệ.

1.Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”

Tuyên cáo chung của hai lãnh đạo VN- TC trong cuộc gặp hai lãnh đạo ngày 12-12-23, có đề cập “tiêu đề ngoại giao” trong một nhóm hợp tác với TC, đó là “Cộng đồng chung vận mạng” (Community of common destiny). Tuyên cáo nầy viết bằng ba thứ tiếng: Anh, Trung và Việt. Báo ngoại quốc xử dụng bản tiếng Anh có câu “Community of destiny” hay “Community of common destiny”, báo Trung hoa thì dùng chữ “ Công đồng chung vận mạng” (Community of common destiny) , còn báo chí VN thì nói “Cộng đồng chia sẻ tương lai” (Community of shared future” . Như vậy có sự khác biệt phần bản tiếng Việt, mà theo tin báo ngoại quốc thì Nguyễn Phú Trọng có “endorsed” trong bản tiếng Anh.
Theo như trên thì “tư cách thành viên” của VNCS với một số thanh viên của loại Cộng đồng chặc chẽ của TC. Thực sự các tên Cộng đồng nói trên hãy mơ hồ, quan trọng là những chi tiết cam kết giữa hai bên, mà thường với CS đó là vấn đề “mật”.
Dù giải thích cách nào, đối với dân chúng Việt nam, gần như không quan tâm. Đó chỉ cho những người ngoài cuộc.
Các tiêu đề hay thuật ngữ chánh trị kiểu Tàu (từ xưa tới nay các triết gia chánh trị Tàu thường ưa dùng chữ rất kêu, nhưng thường là rỗng) đã đươc đặt ra và xử dụng trong hơn 10 năm qua, trong nhiều lần tuyên bố hay diễn từ của Tập cận Bình .
Trước hết chữ “common destiny” được nói ra đầu tiên từ Chủ tịch Hồ cẩm Đào (2012). Sau đó Tập cận Bình lập lại nhiều lần trong các buổi họp ngoại giao quốc tế, kể cả những lần ông gặp NPTrọng (2017), và ông Hunsen của Cambodia và lãnh tụ Lào.
TCB đưa ra ý niệm “Cộng đồng chung vận mạng” là từ khi ông đưa ra mô hình và sách lược ngoại giao mới là: “XHCN trong thời đại mới”, và “mộng bá quyền toàn cầu”, hay ý kiến về “Trật tự thế giới mới”. Như vậy, lúc đó TCB đã định hình thế giới, phân ra các cực quyền lực, hay các khối mà bước đầu tiên TC muốn thay đổi “độc bá quyền” thế giới do Mỹ lãnh đạo từ sau thế chiến II.
Năm 2013, TCB dùng câu”common destiny” khi nói chuyện ở Viện bang giao quốc tế của Nga, và một lần nữa trong buổi họp với các nước Trung Á (2015), Tập cũng dùng “common destiny” trong thỏa ước chung với Cambodia và Lào trước kia.
Sau đó vài năm thì Tập cận Bình dùng “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trong những buổi nói chuyện với các Cộng đồng tương đối mở rộng hơn. Trong đó có tại đại Hội đồng Liên Hiệp quốc 2017 (Asian Journal of Middle Eastern 2017), Tập nói: “mọi quốc gia trên thế giới cần hợp tác xây dựng một tương lai chung cho nhân loại”, ông dùng tiêu đề “Cộng đồng chia sẻ tương lai của nhân loại” (Community of shared future for mankind).
Qua chút diễn đạt trên, chúng ta có thể hiểu TC muốn kết hợp và tạo đồng minh qua hai mức gắn bó. Một là loại Cộng đồng có vận mạng chung, nó chặc chẽ, sống chết có nhau, có thể như một “khối”, có thể hiểu đó là một “Liên minh” theo quan điểm Tây phương. Cái Cộng đồng thứ hai (chia sẻ tương lai) rộng lớn hơn, lỏng lẽo, có nhiều khác biệt nhưng cũng có một số mục tiêu chung với TC. Thành viên của Cộng đồng nầy đa số là các nước đang phát triển mà TC nhắm tới và lôi kéo từ hàng chục năm nay.

Thực tế, Cộng đồng thế giới theo ý niệm hay theo kiểu TC, có thể tóm tắt thành 4 loại, hay 4 mức độ về thành viên liên hệ dưới trướng TC:
A.”Cộng đồng của nước Trung hoa”. Gồm nước Trung hoa vĩ đại và các “khu vực tự trị” không có chủ quyền hoàn toàn như Tân cương, Tây tạng. Và các cộng đồng nhỏ ở hải ngoại trên thế giới, có liên kết với tổ quốc chánh là Trung hoa lục địa, đó là Cộng dồng người Hoa kiều ở hải ngoại, dù loại cộng đồngnhỏ, nhưng có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế, văn hóa và tình báo. Chúng ta biết khá nhiều các cộng đồng Hoa kiều hải ngoại rất mạnh nó chẳng những nắm rất lớn kinh tế mà cả chánh trị trong nhiều nước, đặc biệt ở Á châu như Cambodia, Lào, Thái lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Miền Nam Việt Nam trước 1975, và cả nước VN hiện nay. Dĩ nhiên không phải người Hoa nào cũng theo Trung hoa CS. Nhưng về kinh tế, những người Hoa hải ngoại khá hữu ích cho Trung hoa lục đia, có thể gọi là “cộng đồng A+”
B.”Cộng đồng chung vận mạng”, như nói ở trên, đó là tập hợp của một số nước đàn em hay bạn bè chí cốt. Có cùng mục tiêu, cùng con đường, sống chết có nhau.
C.”Cộng đồng chia sẻ tương lai”. Sự kết hợp lỏng lẽo, có một số mục tiêu chung, và một số quyền lợi chung. TC vận dụng trong các nước đang phát triển, một nhóm quốc gia rất đông và khá phức tạp “Cộng đồng C”. Trong loại Cộng đồng này có gồm một số cộng đồng nhỏ, nghĩa là số nước tập hợp do TC có vai trò quan trọng nhứt. Có thể gọi “Cộng đồng C+”. Nhóm nhỏ nhưng mạnh, có thể kể Liên minh TC, Nga và Iran . Nhóm lớn nói trên thì TC kết hơp trước hết là viện trợ, là đại dự án Belt & Road (150 thành viên).Thực sự “Cộng đồng chia sẻ tránh nhiệm” còn nhiều bất đồng và khác biệt, thứ hai là những nước nầy còn bị dao động bởi sự vận động lôi kéo của Tây phương trong những năm gần đây.
D.”Cộng đồng toàn thế giới”. Đó là tất cả mọi quốc gia trên quả địa cầu nầy, không phân biệt lớn nhỏ, không phân biệt mức độ kinh tế hay thể chế chánh trị. Cái nầy thì hãy còn rất mơ hồ. Nó chút gì gần ý niệm của triết lý Trung hoa xưa, Khổng Tử thường dùng từ “thiên hạ” , và thêm một chút triết lý Các Mác, ông nầy thường nói là “Global society” hay “Human society” để chỉ cái gọi là “Thế giới đại đồng” của CS.
Vậy VN ở trong loại Cộng đồng nào do TC vẽ ra và lãnh đạo ? VN hiện tại có thể đính vào các công đồng kiểu TC hay “made in China” nói ở trên.
Loại A+, Vì Hoa kiều ở VN nắm các ngành kinh tế trọng yếu như nhà đất, trong kỹ nghệ chế biến, trong các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa lục địa , hành lang kinh tế Việt Trung. Hoa kiều ở VN còn là đường dây tình báo quan trọng.
Loại B, VN chắc chắn ở trong cộng đồng loại nầy của TC về thực tế , “Chung vận mạng”, dù bề ngoài chánh quyền hay báo chí VNCS có đồng ý hay không .
Và VN cũng ở trong cộng đồng loại C (Chia sẻ tương lai) về nguyên tắc trong một số trường hợp, mà VNCS muốn nói với dân và quốc tế rằng VN không bị TC kềm kẹp.
Với mức độ lệ thuộc chặc chẽ tai hại như vậy, không phải chỉ VN mà tất cả các nước bị TC kềm kẹp như một loại “thực dân đỏ”, quốc gia nào cũng muốn thoát Trung hay giảm bớt lệ thuộc TC.
Trong mối tương quan Việt nam- TC hiện nay, khi nói đến “thoát Trung “ phải biết ai muốn thoát Trung, CSVN hay người dân Việt nam? Người dân thì đã nhiều lần tỏ thái độ và mong ước này. Chánh quyền phải không bỏ tù dân khi dân phản đối sự áp bức thô bạo từ TC.
Còn CSVN không muốn và không thể, vì vấn đề sinh tồn và quyền lợi của đảng CS. Hơn nữa TC đâu có muốn để VN thoát ra khỏi cái gọng kềm, nhứt là trong Chiến tranh lạnh mới hiện nay.

2.Vị thế VN trong “thế cân bằng Mỹ Trung”.

Việt Nam trong thế cân bằng Mỹ-Trung: Ngoại giao kiểu “Cây Tre”?

Trong mấy lần trước, tôi có nói qua cái thế kẹt của VN trong sự xung đột Mỹ Trung, nhứt là tại vùng Á châu Thái bình dương.Tình trạng càng ngày càng căng thêm. Trong phần cuối của bài này, tôi xin ít bổ xung và cập nhựt với một vài diễn biến mới trong năm qua.
Về chánh tri và ngoại giao, Cả Mỹ và TC đều đến sát VN, qua việc TT Biden và TCB đến VN . Nhưng Mỹ thì có vẻ tới nhiều hơn vì VN-Hoa kỳ nâng cấp ngoại giao lên Chiến lươc toàn diện. Lại thêm Nhật, đồng minh với Mỹ, cũng được lên cấp ngoại giao cao nhứt này. TCB qua VN rà soát và xác minh VN TC phải nắm chặt tay hơn về các lãnh vực, nhứt là về kinh tế và an ninh.
Về kinh tế, Mỹ hứa sẽ có những món đầu tư lớn cho VN trong khí đốt, đất hiếm, đường xe lửa, môi trường, kỹ nghệ kỹ thuật cao (Quan hệ Việt Mỹ là một trong bang giao quan trong nhứt, (VOA, 5/2023) .. Mỹ hứa sẽ mang đến hàng chục tỷ cho tương lai gần. Công ty Mỹ ở TC chuyển sang VN nhiều hơn, nhứt là công nghệ chip. Mặt khác, để đối trọng lại đại kế hoạch Belt & Road của TC, Hoa kỳ và khối G7 tung ra $1000 tỷ cho các nước đang mở mang vay xây dựng hạ tầng cơ sở. Còn TC thì mở rộng đầu tư tại VN rất nhanh trong hai năm qua, gia tăng ngoại thương .. như trình bày phần trước.
Năm qua, có sự bất lợi cho chính TC về kinh tế do khủng hoảng địa ốc và ngân hàng. Tình trạng nầy làm cho TC giảm bớt đầu tư và cho vay cho các nước Đông nam Á, trong đó có VN.
Về an ninh và quân sự, đối với Mỹ vùng Á châu Thái bình dương có mức quan trọng hàng đầu. TC đã ảnh hưởng khá nhiều ở đây, Mỹ và đồng minh không có cách nào khác là phải bao vây và đụng độ với TC.
Tình hình có thể trở thành nóng vì vấn đề Đài loan, nên hai năm qua, Mỹ và đồng minh kết hợp lớn hơn và chặt hơn bao giờ hết kể từ sau Chiến tranh lạnh I. Mỹ đã liên minh được hầu hết với các đồng minh quan trọng như Nhật, Úc, Anh, Tân tây Lan, Ấn độ, Singapore. Cũng cố Liên minh Mỹ, Nhật và Nam hàn. Đặc biệt sự quay lại của Phi luật tân, và sự đi gần thêm về an ninh của Mỹ và VN.
Như vậy nhìn chung trong bước mới nầy: VN đi nhiều với Mỹ hơn. Nhưng từ đầu tới nay thì VNCS vẫn phải lệ thuộc mạnh với TC về phần hồn lẫn xác hơn với Mỹ. Và cách thức VN tiếp xúc hay làm việc với lãnh đạo TC, và cả thái độ ngoại giao của VN với TC trên bình diện quốc tế, chúng có thể thấy phần nào CSVN có thái độ “đu giây” giữa Mỹ và TC.
Nhưng dù có vài điều mới, nhưng cách giao dịch giữa TC và Mỹ, chưa có thay đổi tình trạng cũ bao nhiêu, chánh yếu là vì quyền lợi kinh tế của hai bên và kinh tế thế giới mà chưa có đụng độ mạnh hơn, nhưng hai bên tiếp tục vận động kết hợp bạn bè, đồng minh giống như chuẩn bị cho một trật tự thế giới mới, nhưng lần nầy có nhiều cái khác, so với thời Chiến tranh lạnh I, về bạn và thù, về đối tác và đối nghịch, hai lằn ranh địa lý và địa chánh trị cũng lộn xộn, không minh bạch, không nhứt quán. Như vậy, CSVN vẫn phải kẹt với TC rất nhiều, dù trong cái thế mềm dẽo, linh động nào. Còn VN với Mỹ chỉ có lẽ là kinh tế, hay đúng hơn VN lợi dụng thời cơ khi Mỹ và Âu châu và một số nước giàu khác chỉ về kinh tế, và không phải là “đồng minh” hay “liên minh”. Cái sách lược ngoại giao mà nay VNCS gọi là “ngoại giao cây tre” là hợp lý trong hoàn cảnh hiện nay. Tình hình thế giới còn thay đổi và phức tạp.
Lịch sử VN cũng như lịch sử thế giới cho chúng ta nhiều bài học. Cái mối “bang giao nghiệt ngã” với TC, và cái gọi là “tình bằng hữu” với Hoa kỳ, thực tế có những lúc gặp đau thương. Khi nào dân tộc và đảng cầm quyền có cùng đi chung một con đường, thì lúc đó VN mới hy vọng có những buổi bình minh lâu dài.

Nguyễn Bá Lộc

Cali, January/ 01/2024

Visits: 39

Posted in thoi luan.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *