Nỗi Đau Của Trí Thức Miền Nam Qua Biến Cố 1975: Trường Hợp Gs Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân

Nguyễn Bá Lộc

Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân

Trong tháng trước, tôi có nhận từ người bạn, bài báo với chủ đề “Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL 2020” đăng trên Tập san Người Đô Thị  https://uploads.nguoidothi.net.vn  ngày 18-2-2021, tờ báo nầy phát hành ở VN.Trong Tập san nầy có một bài nói về Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân, có cái tựa “Từ Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu long: Tiếc nuối một con người”. Ở một đoạn khác có câu” GS Nguyễn Duy Xuân có thiện tâm ở lại phục vụ đất nước trong hòa bình”. Và ở một đoạn khác của bài báo đó, có nhận định “ Nếu những người như GS Nguyễn Duy Xuân không bị đối xử quá nghiệt ngã, nếu tài năng của họ được dùng đúng chỗ, đúng tầm sau 1975, liệu ĐBSCL ngày nay có phải đứng trước những thử thách sống còn như trong Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL nói ở trên nhắc tới”.

Các ý trong bài báo nói trên về GS Nguyễn Duy Xuân làm tôi suy nghĩ. Từ một góc độ nào đó, từ một cảm tính nào đó,  tác giả hay bất cứ một người nào đó có thể nói sự “nuối tiếc”, tôi không ý kiến hôm nay. Có một điều nếu không nói ra thì thực là đáng trách. Đó là những nhận xét sai lệch về lập trường quốc gia chơn chánh, về tinh thần phục vụ và hy sinh cao cả chấp nhận hiểm nguy của GS Xuân, cuối cùng ông phải bị nhận cái chết thảm thương trong trại tù CS.

Thứ nữa, GS Nguyễn Duy Xuân là người thầy được các cựu sinh Quốc gia Hành chánh kính trọng, trong đó có tôi. Sau khi ra trường, tôi có nhiều dịp hầu chuyện, học hỏi và hiểu thầy Xuân, nhứt là những ngày cận kề biến cố 1975. Bởi vậy, sau nhiều suy nghĩ, tôi cảm thấy có bổn phận giải bày ở đây một số điều, mà báo ở trên, nhận xét sai GS Xuân về đạo đức chánh trị , cái trách nhiệm của một sĩ phu, và cái chánh nghĩa của đại đa số trí thức miền Nam.

Như vậy câu chuyện được tóm tắt qua hai phần:

  • Về trường hợp GS Nguyễn duy Xuân và
  • Về nỗi đau của trí thức miền Nam, qua biến cố 1975

Thứ nhứt: Trường hợp GS Nguyễn Duy Xuân  

Có mấy điểm xin nêu ra đây (Tôi mạn phép khi kể về câu chuyện GS Nguyễn Duy Xuân, tôi xin nói chút về tôi trong những cơ hội hay tương  quan gữa tôi và thầy, như một xác nhận qua những gì tôi nói là có thật):

GS Xuân là một trí thức chơn chánh và có đạo đức  

Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng như các nhà trí thức có học vị Tiến sĩ miền Nam lúc bấy giờ đã phải khổ công rất lớn trên con đường theo đuổi học vị nầy. Ông tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế ở Pháp, Cao học Kinh tế ở Anh và Tiến sĩ Kinh tế ở Mỹ qua ba giai đoạn không liên tục. Giáo sư tiếp thu được kiến thức rất tốt của đại học tại ba quốc gia hàng đầu về học vấn đại học. Ngoài ra ông đã kết hợp được kinh nghiệm thực tế qua nhiều chức vụ quan trọng, trong các giai đoạn giữa ba chương trình học đại học. Yếu tố đó cộng với đạo đức cá nhân đưa ông đến sự trọng dụng và mến phục. Dù ông ít nói, nhưng lúc nào gặp ông thường đề cập tới trách nhiệm. Ông có cuộc sống khá thanh đạm.

Sự hợp nhứt tri hành của GS thấy được qua các chức vụ và địa vị của ông trong Bộ máy Công quyền hay Giáo sư đại học của giai đoạn đầu xây dựng miền Nam. Ông là một trong rất ít GS ở Học Viện QGHC, lúc đó còn rất ít Tiến sĩ từ Mỹ về. Khóa tôi được ông dạy khi mới về nước. Ngoài ra, sau nầy, cá nhân tôi có một số dịp gặp ông nhiều hơn khi tôi làm Luận văn Cao học mà đề tài là “Tín dụng và Phát triển Kinh tế”, tôi cần tham khảo nội dung luận án Tiến sĩ của GS có chủ đề gần gần như vậy, và được học hỏi kinh nghiệm khi ông làm Tổng giám đốc Quốc gia Nông Tín Cuộc.

GS Xuân có tầm nhìn chiến lược 

Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế, ngoài việc dạy học, GS Xuân còn giữ một số chức vụ quan trọng. Lần lược, Tổng trưởng Kinh tế (1965?), Phụ tá Đặc biệt Thổng Thống (1968) , Viện Trưởng Viện Đại học Cần Thơ (1971) và Tổng trưởng Giáo dục (1975).

Dù ở vị trí và vai trò nào GS luôn tỏ ra có tầm nhìn chiến lược và coi trọng trách nhiệm của một kẽ sĩ dấn thân. Xin kể ra đây một vài trường hợp mà tôi biết .

Khi là Bộ trưởng Kinh tế (khoảng 1965), ông rất chú trọng sự phát triển kinh tế nông nghiệp là nền tảng cho kinh tế tự túc tự cường. Năm 1965, Ông thành lập Nha Thanh Tra Kinh Tế Miền Tây (Đồng bằng sông Cửu long),  trước đó chỉ có Nha Thanh Tra Kinh Tế Miền Trung (Vùng I), và Nha Kinh Tế Cao Nguyên Trung Phần (Vùng II). Tới 1974 các Nha nầy được đổi tên thành Nha Phối Hợp Kinh Tế Địa Phương (cấp vùng). Tôi phụ trách Nha Kinh Tế nầy từ 1968 đến 1975. Cũng như khi làm Tổng Giám đốc Quốc gia Nông tín cuộc trước đó, (khoảng 1958), ông mở rộng các Ty Nông tín cuộc khắp miền Nam.

Về phương diện kinh tế, GS Xuân là người đứng ra thành lập Hội kinh tế VN đầu tiên, gồm một số Tiến sĩ, một số chuyên gia, chuyên viên kinh tế, và Hội ra mắt vào khoảng 1970 .

Khi GS làm Viện trưởng Viện Đại học Cần thơ (vào khoảng 1972), tôi có dịp gặp GS nhiều hơn, học hỏi ở GS nhiều hơn, vì lúc đó tôi còn đang phụ trách Nha Thanh tra kinh tế/ Nha Phối hợp kinh tế Vùng IV. Và đồng thời tôi là Giảng viên ở Phân khoa Luật và Xã hội học thuộc Đại học Cần Thơ.Trong quảng thời gian nầy, với vai trò Viện trưởng, GS lại có dịp đẩy mạnh quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp qua một số chủ trương như: Cho nhiều kỹ sư nông nghiệp đi học thêm hay tu nghiệp. Đại học Cần thơ nhận được nhiều viện trợ hơn để phát triển tốt hơn, nhứt là từ chánh phủ Nhựt. GS thành lập chương trình đào tạo Giáo sư cơ hữu cho Đại học Cần Thơ mà hai ngành chánh là Nông nghiệp và kinh tế. Đây là chương trình phối hợp qua hai bên, của hai Đại học Cần Thơ, và một Đại học ngoại quốc, Hoa kỳ, Nhựt, và Anh.  (Tôi được cho tham gia vào chương trình nầy và vì vậy phải gặp thầy nhiều hơn). Chương trình bị chết năm 1975.

Cũng trong quan niệm, giúp nông dân có hiểu biết hơn, lợi tức họ tăng hơn thì cách tốt nhứt để con cái họ có học vấn cao hơn, và do đó ý thức chánh trị sẽ khá hơn, đúng hơn. Năm 1973, ông cho thêm vào chương trình Đại học Sư phạm, môn phụ “Thương mại hóa nông sản”.

ĐBSCL trước kia là hy vọng là căn bản cho kinh tế miền Nam, ngày nay bị suy tàn và có quá nhiều trở ngại vì vậy trong Báo cáo thường niên năm 2020, họ có cảm nghĩ phải chi còn GS Xuân hay đúng ra còn áp dụng kế hoạch của GS Xuân thì vùng nầy đâu có bị hủy hoại như ngày nay.  Thực sự, sự suy sụp của ĐBSCL, chánh yếu là do sự áp đảo của Trung cộng xây nhiều đập thủy điện ở thượng nguồn, mà VN không dám chống lại. Mặc khác, dù GS Xuân còn sống và được làm việc lại, ông cũng không đóng góp gì được trong chế độ nầy.  Đó là một kinh nghiệm, một nhận xét của một số nhà trí thức trong nước và từ nước ngoài về sau 1975.

GS Xuân có lập trường Quốc gia Dân tộc và chấp nhận hiểm nguy.

Đây là điểm chánh mà thấy cần nói ra. Vì chỉ đọc qua bài báo trong Tập san Người Đô Thị nói trên, hay bài báo nào ở VN, thì sẽ có nhiều người hoang mang, hay hơn nữa, có thể trách ông về lập trường chánh trị lúc thời thế đổi thay.

Nhưng những ngày trong tháng tư/75, tôi thường gặp GS hơn, nên biết khá rõ ràng GS vẫn giữ lập trường trước sau như một: không bao giờ theo CS, kể cả nghiên qua thành phần thứ ba, như một số ít trí thức lúc đó đã làm. Tôi có thể kể, mà tưởng như mới ngày nào.

Một lần tôi đến văn phòng ông ở Đại học Cần Thơ, vừa vào tôi chợt thấy đôi mắt ông rất đỏ dường như có ngấn lệ. GS nói ông vừa về từ văn phòng Tư lịnh Nguyễn Khoa Nam, và nói tình thế lâm nguy. (GS Xuân được Tư lịnh NKN tham vấn một số vấn đề trong những ngày tháng đen tối đó).

Rồi mấy ngày sau, tôi nghe tin GS nhận chức Bộ trưởng Giáo dục của Nội các Nguyễn Bá Cẩn (vào khoảng 10 tháng tư/1975). Tôi gọi điện thoại cho ông. Tôi hỏi GS liệu tình hình quá bi đát GS nghĩ sao ở trong Chánh phủ quá muộn màng như vậy. GS trả lời “hiện giờ thuyền sắp chìm, không thể nói nên hay không nên, mà giờ mọi người phải cùng nhau tát nước để cứu thuyền khỏi chìm”. GS Xuân tham gia nội các Nguyễn Bá Cẩn trong tinh thần và trách nhiệm của một sĩ phu, trong tình thế cực kỳ nguy hiểm.

Nội các Nguyễn Bá Cẩn chưa làm được gì , thì TT Nguyễn văn Thiệu từ nhiệm, Phó Tổng Thống Trần văn Hương  lên thay. Rồi Quốc Hội biểu quyết cho Tướng Dương văn Minh lên làm Tổng Thổng để đầu hàng ba ngày sau đó.

Khi lên TT, Tướng Dương văn Minh, thành lập ngay Nội các mà GS Vũ văn Mẫu là Thủ tướng, và vỏn vẹn trong ba ngày, Nội các nầy chỉ mới có được ba bốn Tổng trưởng. Cho nên chưa có sự bàn giao, Nội các Nguyễn Bá Cẩn vẫn ở tư thế xử lý, chờ trao quyền cho Nội các mới. GS vẫn ở trong Nội các NBC chờ bàn giao, GS Xuân không phải ở trong “Nội các Dương văn Minh” như bài báo viết sai, thực sự là Nội Các Vũ văn Mẫu.  Cái sai nầy có ý nghĩa trong trường hợp GS Xuân, tai hại danh dự GS vì sai lập trường chánh trị của ông

 Ông không phải thành viên của “nội các Dương văn Minh”, ai cũng hiểu Nội các đó là nội các của thành phần thứ ba , hay một Nội các lót đường, một nội các tay sai của CS.  Còn Nội các Nguyễn Bá Cẩn được kết hợp nhiều đoàn thể và lực lượng quốc gia chống cộng. Lập trường GS Xuân là trong lập trường chung đó.

Trong mấy ngày cuối tháng tư, tôi có lên Sài gòn, đến Bộ Giáo dục không gặp GS, tôi gặp anh Huỳnh kim Thoại (Cao học khóa I), anh vừa  được GS Xuân bổ nhiệm Phó Tổng Thư ký, anh cho tôi biết vợ con GS đã rời VN, GS ở lại, dù lúc đó việc ra đi dễ dàng với  ông. AnhThoại  còn cho biết, GS nhờ anh mua cho ông một món thuốc độc cực mạnh, và một con dao nhỏ luôn bỏ theo mình. Điều nầy chứng tỏ GS Xuân thấy được những giờ  phút cục kỳ nguy hiểm, ông phải tự hủy đời mình khi cần. Một điều rõ hơn nữa là GS chắc chắn không thay đổi lập trường để theo thành phần thứ ba, hay chạy theo CS vào giờ chót vì lý do nào đó.

 Sự cương quyết của GS không phải như lời suy diễn của bài báo Thanh niên 28-4-2015, có tựa

 “Giữ huyết mạch cho Hòn ngọc Viễn đông, vị Tổng trưởng quyết không rời quê hương”, khi nói về Tổng trưởng Nguyễn Duy Xuân.

Tôi có nghe trong mấy ngày đầu chiếm Viện Đại học Cần Thơ, nhóm sinh viên CS ở đây đòi đưa GS về Cần Thơ để “hỏi tội”, bọn nó muốn “trả thù”,  vì vài năm trước đó, có một số sinh viên CS ở Đại học Cần thơ bị Cảnh sát vùng IV bắt giam.

GS Xuân cũng như rất nhiều trí thức khác và đa số học trò của ông tại Học viện QGHC bị CS giam giữ lâu dài và trải qua nhiều trại tù. Trong cái sống nghiệt ngã, GS bị bịnh nặng và qua đời tại trại tù Nam Hà, năm 1986, thọ 61 tuổi. Dù dưới góc nhìn nào, đó là một trong rất nhiều thảm họa của trí thức VN qua lịch sử nhiều đắng cay. Và hôm nay, tôi lại xin cầu nguyện hương hồn thầy được bình yên ở cõi vĩnh hằng.

Thứ hai: Vài suy nghĩ về “nỗi đau” của trí thức miền Nam

Qua câu chuyện thảm thương của GS Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân. Một trí thức nhiều khả năng , giàu lòng hy sinh , rất đạo đức, nhưng cuộc đời ông bị kết thúc cách thảm thương, chỉ vì lòng yêu nước, vì theo đuổi trách nhiệm cũa kẽ sĩ. Sự đối xử của chủ thuyết chánh trị CS không căn cứ trên đạo đức thông thường và lòng yêu nước chân chánh.

Về tình trạng đau thương và hỗn tạp của trí thức miền Nam qua biến cố 1975

Theo truyền thống văn hóa VN thì trí thức có vai trò quan trọng bực nhứt trong xã hội, có khả năng và hiểu biết hơn thường dân và có bổn phận hướng dẫn giáo dục quần chúng.

Nhưng trong chế độ CS, một loại “trí thức mới” không phải như vậy.

Trước khi CS chiếm miền Nam, tầng lớp trí thức cấp cao cũng như những chuẩn trí thức (sinh viên), có thể tạm chia làm ba thành phần: thành phần chống cộng, thành phần thân cộng, và thành phần không có hay không muốn tỏ ra lập trường và ý thức chánh trị rõ ràng.

Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến thành phần “trí thức thân cộng”, dù không nhiều nhưng có thể là một điển hình của sự đối đầu ý thức hệ, hay tâm lý chánh trị “thời hậu thực dân” ở VN.

Dù những người trí thức nầy tự mình không hiểu CS hay bị CS dụ dỗ hoặc lý do nào khác mà  hoạt động của họ trở thành có lợi cho CS, nhứt là trong những tháng ngày của 1975. Hầu hết họ không phải là CS chánh cống, họ là “công cụ” của CS. Họ ở rải rác trong nhiều  nơi kể cả khu vực tư. Và sau thời gian sống với CS, họ không thể hội nhập được, không có cơ hội làm được việc gì đáng kể, họ tự nhận sự thất vọng, và tan biến, và để lại một số bài học đớn đau .

 Tôi xin ghi nhận ra đây một số trường hợp có thể được xếp loại dưới nhiều hình thái:

Loại hình thái được CS kết nạp, huấn luyện trước 1975, và cho vai trò quan trọng như  GS Nguyễn văn Kiết (GS Văn Khoa), và Hồ Hữu Nhựt (sinh viên Đại học sư phạm), cả hai vào cục R.  Sau tháng tư/ 1975 được đưa về Saigon làm Bộ trưởng và Thứ trưởng Giáo dục của Mặt trận GPMN. Qua năm 1976, VN thống nhứt, Mặt trận và các viên chức đó biến mất luôn.

Loại hình thái có tham vọng chánh trị chạy theo CS với hy vọng là nhập vào thành phần thứ ba, theo Hiệp định Paris. Mặt dù có nhiều người họ đang ở trong nhiều bộ phận chánh quyền quốc gia. Có thể kể  các Dân biểu Lý quí Chung, Hồ ngọc Nhuận, Dương văn Ba, GS Đại học Trần kim Thạch, Lý chánh Trung, Luật sư Nguyễn Phước Đại, LS Trần ngọc Liễng… Sau 1975 các người nầy được cho “đóng góp” làm kiểng, như chức dân biểu Quốc hội, hay chức vụ tào lao nào đó.

 Kết cuộc, họ trải qua những ngày tháng phất phơ, thất vọng, thất chí, bất mãn và tàn phai .

Loại hình thái “trở cờ” hay “tự diễn biến” với những lý do riêng: như Tiến sĩ Nguyễn văn Hảo, nguyên Phó Thủ Tướng VNCH, ở lại và viết Kế hoạch phát triển kinh tế với tựa “Vận Hội Mới” dâng cho CS và không đựơc đoái hoài. Tới 1982(?) Tiến sĩ Hảo trong lần gặp một số anh em trong khối kinh tế tài chánh của Chánh quyền cũ, ông nói “giã từ VN” và ra ngoại quốc.  Người thứ nhì tôi có gặp lại khoảng 1982 là cựu Tổng trưởng Thương mại và Tiếp tế VNCH, ông Nguyễn Văn Diệp, ông là xếp của tôi. Ông cũng đi trình diện cải tạo, nhưng chỉ sau 3 tháng ở Long Thành, và được cho về. Có thể vì ông Nguyễn văn Diệp thuộc thành phần “thân cộng” hay ít nhứt không phải loại “trí thức phản động”. Nhưng CS chỉ cho làm công tác nghiên cứu phát triển kinh tế. Tôi có thăm ông hồi 1982, vợ con ông ở Pháp và sau đó ông chết âm thầm tại VN.

Một trí thức lớn nữa là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, nguyên Phó Thủ Tướng VNCH, dường như được CS cho đóng góp sau 1975, với chức Cố vấn ngoại thương, và sau đó được cho mở  Văn phòng Tư vấn kinh tế .

Loại hình thái có công nhiều với “Cách mạng” trong nhiều hoạt động sinh viên trước 1975. Có thể kể một vài người như Huỳnh Tấn Mẫm, Hoàng phủ ngọc Tường, Nguyễn Hữu Thái, Dương văn Đầy… CS cho họ một số nhiệm vụ sau 1975. Nhưng không được trọng dụng và có sự va chạm với trí thức XHCN  miền Bắc, một số lớn sau nầy bất mãn và rút lui.

Loại hình thái đặc biệt: Một số trí thức hải ngoại không phải CS nhưng không hiểu CS, qua lời kêu gọi của Chánh quyền CS, họ  “về nước đóng góp xây dựng quê hương” từ một số nước Pháp, Anh , Nhựt , Úc, Hoa kỳ… CS tuyên truyền rất nhiều về kế hoạch nầy. Có một số trí thức  phần khởi trở về,  và sau độ 5 năm, tuyệt đa số lại rời VN trong hối hận.

Và còn nhiều nữa những “trí thức lầm lẫn” đó lần lượt rời quê hương hay sống âm thầm trong sự đổi đời, mà chính họ hay chế độ mới nầy cho rằng không thích hợp. Trí thức XHCN, dù thế nào cũng tốt hơn đối với đảng, mà trung với đảng là yêu cầu tuyệt đối.

Về chánh sách và biện pháp của CS đối với trí thức miền Nam

Nói chung, CS không ưa và có phần lo sợ trí thức chân chánh, mặc dù cần phải có trí thức để phát triển. Chính Lê Nin đã “dạy” cho các đàn em khi nắm được chánh quyền thì nên sử dụng lại trí thức của chánh quyền cũ. Trí thức đó là công cụ cho phát triển. Mặt khác, CS luôn cảnh giác và sợ trí thức thông thường, vì trí thức hiểu biết cao và đúng, còn CS thì dốt và độc tài , nhiều sai trái, nhiều khác biệt với đa số người dân. Cho nên CS chỉ đào tạo, nâng đỡ, sử dụng trí thức XHCN.

Trong nguyên tắc đó, những trí thức cũ của miền Nam không có thế đứng nào cả , kể cả những người có dính dáng hay có cảm tình ủng hộ CS lúc đầu từ nhiều nguồn khác nhau.

Nguyên tắc chung, CS có ba nguyên tắc căn bản về trí thức:

Trí thức cần cho xây dựng phát triển sau khi nắm quyền, nhưng chỉ là một công cụ (Lê Nin). Trí thức không giá trị gì mà còn cản trở cuộc “Cách mạng vô sản”(Mao trạch Đông).

Cần cảnh giác với trí thức, nhứt là “trí thức tiểu tư sản”, vì họ gần quần chúng và có ảnh hưởng đến quần chúng về nhiều mặt.

Cần phân biệt “trí thức XHCN” và trí thức chung chung, tính “hồng“ phải được đặt cao hơn khả năng “chuyên môn”.

Một số chương trình hay biện pháp của CS đối với trí thức Miền nam

Trấn an và hứa hẹn với trí thức miền Nam qua “chánh sách khoan hồng và cải tạo”. Đầu tiên, khi mới chiếm miền Nam, CS liền trấn an trí thức trong mọi ngành. Chánh quyền mới nói sẽ dùng lại các viên chức cũ, trừ những người “có tội” với nhân dân là phải được “cải tạo” thành “con người mới XHCN”, biến cải thành con người mới khác với con người cũ, xây dựng cho họ   có tình cảm đúng là “yêu nước là phải yêu XHCN”. Khoan hồng có nghĩa là không giết .

Đề phòng và trấn áp trí thức. Song song với chương trình trên, CS thực hiện biện pháp trấn át và theo dõi trí thức, nhứt là trong các đảng phái chánh trị chống cộng, trong các tôn giáo. Vụ nổi dậy của nhà thờ Vinh Sơn, làm CS càng siết chặt hơn. Một số trí thức “bị bắt nguội”. Một số trí thức hoạt động sau 1975, bị CS bắt và bị kết án rất nặng, tôi có biết trong số đó có GS Đoàn viết Hoạt, GS  GS cựu Viện trưởng QGHC  Vũ quốc Thông, GS Đào quang Huy (Học Viện QGHC),…

Chiêu dụ trí thức trong nước và hải ngoại. Vì gần như tất cả trí thức miền Nam, trí thức cao cũng như những người tốt nghiệp đại học, đều lần lượt  vượt biên trốn khỏi quê hương. Có lúc CS chơi “chiêu dụ dỗ”, một số trí thức có tài năng , vượt biên bị bắt và được thả ngay (vào khoản 1980). Trong số có những người tôi có dịp gặp sau 1982, và họ cũng đi qua Pháp cách chánh thức như: Tiến sĩ Trần an Nhàn, Kỹ sư Dương kích Nhưỡng, GS Nguyễn văn Tương.

Chánh sách “Hòa hợp hòa giải Dân tộc, HGHH”. vào khoảng những năm thập niên 1980, tình hình quốc tế có biến đổi . Trong nước kinh tế bị kiệt quệ, CS thay đổi chách sách kinh tế, cần sự hỗ trợ từ ngoài. CSVN đưa ra chiêu bài “Hòa hợp Hòa giải Dân tộc”, kêu gọi mọi người quên đi hận thù, đoàn kết mọi người Việt trong và ngoài nước .

HGHH trên nguyên tắc, có hai bước và hai cách thực thi. “Hòa giải”, trước hết là giải tỏa các mâu thuẩn lớn, sự khác biệt lớn giữa hai bên, thứ nhì là cả hai bên phải phải tự loại bỏ sự khác biệt lớn, để cuối  cùng hai bên có thể chấp nhận được trong tinh thần đặt quyền lợi đất nước trên hết. Thứ nhì, sự thỏa hiệp phải không có sự cưỡng bách. Nhưng trên thực tế, CS vẫn đi con đường cố hữu, cũng cố quyền lực, độc tài toàn trị, bằng bạo lực , bằng gian trá, lừa dối, ngăn cách người dân, bằng cưỡng đoạt tài sản quốc dân.  Thực tế, gần như ai cũng biết,  cách cai trị và hành xử với dân của CS, từ 1975 cho tới nay, cơ bản không thay đổi . CS chỉ muốn “hòa giải” theo cách của họ.

Bước thứ hai là “hòa hợp” cũng không khả thi, vì không qua bước thứ nhứt “hòa giải” được thì làm sao đến “hòa hợp”. Chánh sách HGHH cho quyền lợi dân tộc, chỉ có trong tuyên truyền, hay chỉ thực hiện được từ một số ít người vì quyền lợi cá nhân.

Mặt khác, nếu nghĩ con đường Hòa giải Hòa hợp từ yếu tố quốc tế của chiến tranh VN, thì rất phức tạp và gần như xa vời. Vì căn nguyên và sự giải quyết chiến tranh VN, tự nó là sự pha trộn một loại chiến tranh quốc nội cộng với chiến tranh quốc tế.

Kế hoạch HGHH của CS đã thất bại.

Hơn bất cứ dân tộc nào khác, người Việt bất cứ thuộc thành phần nào, đều mong ước có một ngày Hòa giải Hòa hợp thực sự trong một tình huống khác, với điều kiện khác, cách thức khác hiện nay.

Trong nhiều giới hạn của cá nhân, tôi đã góp một số ý kiến, đúng hơn là một cảm nghĩ  của một vấn đề. Mà sự suy nghĩ của tôi chánh yếu là xuất phát từ cái “đạo nghĩa”. Thêm một chút là quần chúng bao giờ, và trong hoàn cảnh nào, cũng mong chờ và tin tưởng ở những trí thức chân chính.

Cali,  22 tháng tư /2023

Nguyễn Bá Lộc

Hits: 93

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? (Phần 3)

Cao Tuấn

PHẦN THỨ 3: Ý KIẾN VỀ MỘT GIẢI PHÁP HOÀ BÌNH TRƯỜNG CỬU CHO UKRAINE

Ngưng chiến không nhất thiết dẫn đến một giải pháp hoà bình trường cửu cho Ukraine. Một giải pháp kết thúc chiến tranh Nga-Ukraine, bảo đảm hoà bình lâu dài cho Ukraine chỉ có thể trở thành sự thật nếu cả ba nước Mỹ, Nga và Ukraine đều muốn giải quyết mâu thuẫn bằng thương thuyết và tương nhượng. Quan trọng nhất là Mỹ và Nga nhưng Mỹ, ở thế mạnh hơn, phải đi bước đầu tiên trên con đường có tên là “chung sống hoà bình” ở lục địa Âu Châu.

“Chung Sống Hoà Bình ở Âu Châu” phải xem là một Sách Lược của nước Mỹ để đối phó với “Trung Quốc Mộng” của Tập Cận Bình

Để đi bước đầu tiên này, trước hết Mỹ phải tự thuyết phục một số điểm căn bản:

1. Muốn làm Nga kiệt quệ phải rút quân khỏi Ukraine Mỹ sẽ phải trả giá rất đắt về thời gian, tiền bạc cũng như những khó khăn ngay trong nội bộ nước Mỹ mà kết quả cũng không có gì chắc chắn.

Không có gì chắc chắn Putin sẽ bị lật đổ ngay cả cuộc phiêu lưu ở Ukraine của Putin thất bại.

Ngay cả Putin bị lật đổ cũng không có gì chắc chắn nước Nga sẽ không có một Putin khác – vẫn “dân tộc chủ nghĩa quá khích” chưa kể còn có thể cộng thêm “phục thù chủ nghĩa” cũng quá khích không kém.

Hoặc sẽ có một nước Nga tan vỡ làm rối loạn cả Âu Châu và kho vũ khí nguyên tử của Nga lại lọt vào tay Tàu, Iran hay Bắc Hàn? Hoặc kho vũ khí nguyên tử ấy bị chia 5, sẻ 7 và một phần lại rơi vào tay các nhóm khủng bố quốc tế tử thù của Mỹ ?

2. Nếu bị dồn đến thế cùng quẫn trong cuộc chiến Ukraine, không còn gì để mất, Nga có thể dùng đến vũ khí hạt nhân. Hoặc Nga  đành phải… “bán mình” cho Tàu. Cả 2 trường hợp đều là tai hoạ lớn lao đối với Mỹ.

3. Mỹ nên bắt tay giải hoà với Nga ở Âu Châu để có thể tập trung sức mạnh và tâm trí để đối phó với Tàu ở Á Châu. Đụng độ với Nga ở Âu Châu là chuyện thứ yếu, dàn xếp được. Đụng độ với Tàu ở Á Châu là chuyện trọng yếu, cấp bách và “bất khả thoái lui” nếu Mỹ muốn bảo vệ vị thế đệ nhất siêu cường.

4. Tiến trình hoà giải Mỹ-Nga nên bắt đầu càng sớm càng tốt. Cuộc chiến Ukraine càng đẫm máu, càng khó giải hoà. Đã leo thang tới việc  xử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật thì càng khó xuống thang. Càng gần cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Mỹ sắp tới, đương kim Tổng Thống Biden càng thiếu tự do hành động, càng bị nhiều áp lực. Nga càng “lậm” với Tàu bao nhiêu càng khó gỡ  bấy nhiêu. “Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ” !

5. Mỹ sẽ phải làm một số nhượng bộ với Nga – đối thủ của Mỹ và đối thủ  của đồng minh của Mỹ –  nhưng là “nhượng bộ có nguyên tắc”. Chẳng hạn không làm suy yếu NATO, không làm các nước Đồng Minh của Mỹ bất mãn hay mất tinh thần, không vi phạm đạo lý, luật pháp quốc tế, không bán rẻ, không phản bội Ukraine (như Mỹ đã làm với Việt Nam Cộng Hoà, với chính quyền Afghanistan !)

6. Mỹ không cần và không nên trình bầy trước công luận “nước cờ mới” có mục đích “trói tay” Tàu ở Á Châu mà chỉ cần và chỉ nên nhấn mạnh sáng kiến chiến lược này là cần thiết cho “hoà bình, ổn định, thịnh vượng của Ukraine, của Âu Châu và của toàn thế giới”

7. Sẽ có ít nhất 3 hiệp định hoà bình. Một giữa Nga và Ukraine. Một giữa Nga và NATO. Một giữa NATO + EU và Ukraine.  Hội nghị hoà bình có thể diễn ra chính thức ở một quốc gia trung lập “tương đối” nhưng có trọng lượng như Ấn Độ chẳng hạn.   Tuy nhiên, những nét chính của nội dung nên được thảo luận trước và riêng tư giữa đặc sứ của Biden với Putin tương tự như Henry Kissinger, đặc sứ của Nixon,  đã làm trong sứ mạng bí mật tại Bắc Kinh năm 1971. Biden có thể bay đến Moscow họp thượng đỉnh với Putin, theo lời mời của Putin như trường hợp Nixon gặp Mao năm 1972. Hoặc Biden gặp Putin ở một nước trung lập. Lý do công khai là để tránh một cuộc chiến tranh nguyên tử làm nổ tung trái đất ! Mà có thể cũng đúng là như thế.

8. Kế tiếp là các buổi họp riêng của Mỹ với Ukraine, Mỹ với các nước NATO Âu Châu quan trọng nhất như Anh, Pháp, Đức và những quốc gia đã và đang giúp đỡ nhiều nhất cho Ukraine chống Nga  như Ba Lan, Tiệp Khắc, các nước vùng Baltic…Các buổi họp này nhằm “đả thông tư tưởng, tìm sự đồng thuận nếu có thể” đồng thời chứng tỏ Mỹ tôn trọng đồng minh.

9. Mỹ có quyền có lập trường không hoàn toàn đồng nhất với các đồng minh Âu Châu trong việc hoà giải với Nga. Các nước Âu Châu nếu quá lo ngại về Nga thì phải tự làm mạnh hơn về quân sự quốc phòng của mình thay vì trông cậy quá nhiều vào “dù che” của Mỹ. Nếu Mỹ có “nghĩa vụ” sát cánh với các đồng minh Âu Châu để đối phó với Nga thì các đồng minh Âu Châu cũng có “nghĩa vụ” sát cánh với Mỹ để đối phó với Tàu ở Á Châu , bảo vệ các giá trị Dân Chủ, Tự Do và vị thế của khối  Tây Phương nói chung thay vì tính chuyện xé lẻ để làm ăn với Tàu.

10. Hiệp định hoà bình cho Ukraine nói riêng và cho Âu Châu nói chung chỉ “có lý” (make senses) và sẽ được tôn trọng nếu Nga, Ukraine, Mỹ , dù phải tương nhượng nhau,  đều cảm thấy “được” nhiều hơn “mất”, hoặc không có lựa chọn nào tốt hơn, hoặc ít nhất cũng thấy hoà giải có lợi về lâu dài hơn là tiếp tục cuộc xung đột.

11. Sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Bình, Mỹ nên có chính sách giúp Nga và Ukraine đẩy nhanh tiến trình hoà giải, bình thường hoá các quan hệ song phương để Ukraine trở thành “cầu nối” thân hữu giữa các nước Âu Châu và Nga, một biểu tượng của sống chung hoà bình thay vì là một lò lửa chiến tranh hay một vùng tranh chấp liên miên không dứt. Sự hoà giải giữa Ukraine và Nga cũng giúp sự hoà hợp và ổn định ngay trong xã hội Ukraine, đặc biệt giữa miền Đông Ukraine ít nhiều chịu ảnh hưởng Nga do các yếu tố địa lý, lịch sử, chủng tộc, ngôn ngữ, kinh tế, khuynh hướng chính trị  và miền Tây Ukraine thiên về các nước Dân Chủ Âu Châu cũng vì những lý do tương tự. Ukraine cần có một chính sách đối nội và đối ngoại thật khôn ngoan để có thể tồn tại, phát triển trong hoà bình, độc lập.

12. Mỹ không nên kỳ vọng Nga lập tức thay đổi chính sách 180 độ , từ “thân Tàu” chuyển sang “thân Mỹ”. Hoà giải Mỹ-Nga có nghĩa Nga-Mỹ không còn coi nhau là kẻ thù, Nga sẽ đứng trung lập đối với cuộc tranh chấp Mỹ-Tàu. Chỉ như thế đã là một thắng lợi lớn của Mỹ. Thay vì MỘT chống HAI, chỉ còn MỘT chống MỘT. Mỹ không còn phải “lưỡng đầu thọ địch”, ở cả 2 mặt trận Châu Âu và Châu Á. 80 tỉ đô la/ một năm, một tổn phí cực lớn mà Mỹ đang “phí phạm” trong cuộc chiến Ukraine, có thể được  xử dụng một cách hữu ích trong việc giúp Đài Loan gia tăng khả năng phòng thủ cũng như củng cố thế trận của Mỹ ở trong toàn miền Đông Á.

13. Mỹ có thể kỳ vọng rằng nếu Nga cảm thấy được Mỹ và các đồng minh Âu Châu không những đã hết thù nghịch mà còn đối xử “tốt” (chẳng hạn như sốt sắng đầu tư giúp Nga phát triển vùng Tây Bá Lợi Á tiếp giáp với Tàu ) thì Nga có thể nghiêng dần về phía Mỹ. Vì  sẽ sớm đến lúc Nga hiểu đầy đủ rằng Mỹ cách Nga đại dương mênh mông, thù oán cũ đều có thể bỏ qua, nhưng Tàu sát bên, chung biên giới rất dài mà Tàu đang lúc hùng mạnh và đang chuẩn bị cướp thời cơ, toan  tính giải quyết nợ nần, ân oán địa lý, lịch sử của “một trăm năm quốc nhục”.  Toan tính “thu hồi” Đài Loan, Việt Nam, Cao Ly, Mông Cổ, vốn là các “vùng đất cũ của …Thiên Triều”.  Tiến từ “trị quốc” đến “bình thiên hạ”.  Dựng Pax Sinica (“thế giới hoà bình kiểu Tàu”) thay thế Pax Americana (“thế giới hoà bình kiểu Mỹ”).  Nga không những sẽ phải trả lại mấy triệu cây số vuông lãnh thổ đã lấy của Tàu trong các thế kỷ trước, từ Ngoại Mông đến bắc Mãn Châu, phải từ bỏ các địa điểm chiến lược, các bán đảo và hải đảo trên Thái Bình Dương mà có thể còn mất thêm cả vùng Tây Bá Lợi Á  rất nhiều tài nguyên mà Nga không đủ sức bảo vệ. Tóm tắt, nếu “Trung Quốc Mộng” của Tập Cận Bình trở thành sự thực, Mỹ sẽ mất quy chế siêu cường nhưng Nga thì …mất nước !

14. Nếu Nga nghiêng về Mỹ hay Mỹ-Nga chính thức lập liên minh,          MỘT chống HAI trở thành HAI chống MỘT,  Tàu lập tức phải lo thêm mặt Bắc.

Lo vũ khí hạch tâm của Nga bao trùm cả nước Tàu mà không cần đến hỏa tiễn liên lục địa. Lo hoả tiễn hạch tâm tầm trung của Nga đủ sức “vươn tới” Cáp Nhĩ Tân, Trường Xuân, Thẩm Dương, Đại Liên, Bắc Kinh, Thái Nguyên, Thiên Tân, Thượng Hải, Vũ Hán, Thành Đô, Trùng Khánh…

Lo hàng triệu quân Nga hờm sẵn biên giới.

Đến lượt chính Tàu rơi vào cảnh “lưỡng đầu thọ địch”, không còn là Mỹ.

Tàu sẽ phải đổi thế trận. Phải phân chia lực lượng đối phó.

Mặt Bắc phải đối phó với sức mạnh của Nga.

Mặt Đông phải đối phó lực lượng của Mỹ  – đang túc trực gần eo biển Đài Loan, tại Nhật Bản, Nam Hàn và quần đảo Phi Luật Tân – được tăng cường sau khi Mỹ và NATO không còn phải vướng vào cuộc chiến tiêu hao với Nga ở Âu Châu.

Đài Loan, Biển Đông, Đông Bắc Á, Đông Nam Á sẽ được bảo vệ tốt hơn. Toàn vùng Đông Á có thể kịp thời chuyển NGUY thành AN.

Một thế thăng bằng chiến lược mới rất có lợi cho Mỹ và đặt nước Tàu  của Tập Cận Bình vào thế phải chịu bó tay. Nước Tàu của Tập Cận Bình phải chịu bó tay cũng đồng nghĩa với hòa bình, ổn định ở Á Châu và trên toàn thế giới.

Gợi ý một số điều khoản chính của các Hiệp Định Hoà Bình 2023 tại Âu Châu

Trở lại câu hỏi chính “Chiến tranh Nga- Ukraine sẽ kết thúc thế nào?”

Không ai biết chắc được tương lai nên chỉ có thể trả lời rằng nên có một giải pháp hoà bình ở Ukraine nói riêng và ở Âu Châu nói chung, một giải pháp mà ngay cả Tàu muốn phản đối cũng không có lý do để phản đối.

Như đã nói ở trên, giải pháp hoà bình đề nghị gồm các điều khoản của ít nhất 3 hiệp định. Một hiệp định giữa NATO và Nga. Một hiệp định giữa Ukraine và Nga. Một Hiệp Định giữa NATO+EU và Ukraine. Cả 3 hiệp định, họp thành toàn thể một giải pháp hoà bình,  cần được ký cùng lúc, song song mới đầy đủ ý nghĩa. (Không có gì ngăn cản Mỹ và các đồng minh Âu Châu của Mỹ ký các thoả ước riêng song phương khác với Nga hay với nhau miễn là không đi ngược với các điều khoản của 3 hiệp định trên.)

Căn cứ trên những điểm đã phân tích, hiệp định hoà bình giữa NATO và Nga nên gồm những điều khoản sau đây:

  1. Hai bên bầy tỏ ý chí “sống chung hoà bình”, giải quyết mâu thuẫn, khác biệt bằng đối thoại, thương thuyết, tương nhượng, tránh va chạm, tránh khiêu khích, tránh chiến tranh bằng mọi cách. Hai bên cũng cam kết tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp vào nội bộ của nhau.
  1. NATO xác nhận sau khi Phần Lan, Thuỵ Điển hoàn tất thủ tục gia nhập NATO sẽ không nhận thêm bất cứ thành viên mới nào khác.
  1. Hai bên cam kết thâu hồi hay chấm dứt tất cả các biện pháp thù nghịch, bất thân thiện đối với nhau kể cả các chế tài, cấm vận, trừng phạt, trả đũa cũ hay mới ; cam kết bình thường hoá quan hệ về mọi mặt chính trị ngoại giao, kinh tế tài chánh, văn hoá xã hội ; cam kết thay thế kỷ nguyên đối đầu bằng kỷ nguyên hợp tác cho sự nghiệp hoà bình, thịnh vượng, thân hữu, cởi mở cho tất cả các quốc gia Âu Châu và cho toàn thế giới.
  • Hiệp định hoà bình giữa Nga và Ukraine nên có những điều khoản sau đây :
  1. Ngưng bắn tại chỗ trước khi thương thuyết bắt đầu. Nga thực hiện việc rút quân nhanh chóng ngay sau khi Hiệp Định được ký kết. Hai bên cũng nhanh chóng xúc tiến việc trao trả tù binh chiến tranh.
  1. Ukraine cam kết theo đuổi chính sách trung lập thực sự, không gia nhập bất cứ một liên minh quân sự nào kể cả NATO.  Thuỵ sĩ và Áo là 2 mẫu mực trung lập mà Ukraine sẽ rút kinh nghiệm để áp dụng cho mình một cách thích nghi. Nga cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập và chính sách trung lập của Ukraine. Hai bên cũng cam kết không can thiệp vào nội bộ của nhau.
  1. Nga và Ukraine đồng ý cùng tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý mới tại vùng Crimea với sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để người dân địa phương này quyết định Crimea là một nước độc lập, hoặc Crimea thuộc về Nga hoặc Crimea thuộc về Ukraine. Nga và Ukraine cam kết tôn trọng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý tự do và công bằng này.
  1. Vùng Donbas gồm 2 tỉnh Luhansk và Donetsk và phụ cận, nơi có dân số gốc Ukraine và gốc Nga suýt soát nhau, vẫn thuộc về Ukraine tuy nhiên Ukraine cam kết Donbas sẽ được hưởng  qui chế tự trị rộng rãi như trường hợp tỉnh Quebec của Canada, cam kết bảo đảm tự do, bình đẳng cho mọi cư dân, nghiêm cấm mọi đối xử kỳ thị vì khuynh hướng chính tri, tiếng nói, sắc tộc, cam kết thi hành chính sách hoà hợp, hoà giải trong xã hội tại Donbas và trên toàn cõi Ukraine.
  1. Ukraine và Nga đồng ý tái lập ngoại giao, bình thường hoá mọi quan hệ, hợp tác thân hữu để cùng tiến bộ trên căn bản “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Ukraine hoan nghênh mọi nỗ lực của Nga đóng góp vô điều kiện vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, đặc biệt tại vùng Donbas nhưng không chỉ giới hạn tại vùng Donbas.
  • Hiệp Định Tái Thiết và Phát Triển giữa NATO, EU và Ukraine đúng như danh xưng có mục đích vừa khuyến khích Ukraine chấp nhận giảng hoà với Nga, vừa bù đắp những tàn phá, thiệt hại xương máu mà Ukraine phải gánh chịu khi can đảm “đứng mũi chịu sào” đương đầu với Nga, vừa giúp củng cố Ukraine thành một quốc gia “tiền phương” mạnh cả về quân sự và kinh tế, đủ sức tự bảo vệ đối với bất cứ thách thức nào trong tương lai. Hiệp Định này nên gồm các điều khoản như sau:
  1. Ukraine đặc cách được mời gia nhập EU với tư cách thành viên.
  1. Các quốc gia thành viên EU, NATO cam kết đóng góp 100 tỉ Euros vào quỹ tái thiết Ukraine.  Mỹ với tư cách là một thành viên trụ cột của NATO cam kết đóng 50% số này.  Ngân khoản viện trợ sẽ được trao cho Ukraine trong vòng 5 năm, mỗi năm 20 tỉ Euros. Ngoài ra mỗi nước thành viên cũng cam kết dành cho Ukraine mọi sự ưu đãi trong tương lai, khi có thể.
  1. Mặc dù theo chính sách trung lập, luôn luôn mong muốn hoà bình, Ukraine sẽ xây dựng một nền tảng quân sự quốc phòng đủ mạnh để tự bảo vệ và dành quyền nhận sự trợ giúp từ bất cứ ai, kể cả NATO cho mục đích này.
Được gì, mất gì?

Nói chung hoà bình tốt hơn chiến tranh. Tốt cho Châu Âu. Tốt cho Châu Á. Tốt cho cả thế giới. Tốt cả cho nhân dân Tàu ở cả 2 bên bờ eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, không chắc tốt cho Đảng Cộng Sản Tàu vốn theo chủ trương của Mao: “thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”.

Đối với cuộc chiến tranh Nga-Ukraine còn đang tiếp diễn, bài tiểu luận này đã phân tích chính trị của “thế chân vạc” và đã kết luận “chung sống hoà bình ở Âu Châu” là giải pháp tốt nhất cho Mỹ và Nga vì “cái được” vượt xa “cái mất” hoặc vượt xa “cái sẽ mất”.

Riêng với Ukraine, nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo, đang chịu bao nhiêu tang tóc và đổ nát khó có thể nói giải pháp hoà bình như phác hoạ là công bằng và xứng đáng với sự chiến đấu anh dũng của quân dân Ukraine. Đấy là chưa kể đến triển vọng Ukraine còn phải chịu mất vùng Crimea một cách vĩnh viễn sau khi người dân ở đây, đại đa số gốc Nga, trong cuộc trưng cầu dân ý tương lai dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, vẫn tỏ ý muốn Crimea thuộc về Nga.

Tuy nhiên, người Ukraine, một lần nữa, cũng cần can đảm và sáng suốt nhận định thời cuộc một cách thực tế, tự đặt những câu hỏi và tự trả lời, chẳng hạn như:  Cần bao nhiêu năm nữa để Ukraine đánh bại Nga nếu không có sự trợ giúp của Mỹ vì Mỹ đã quyết định “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” hoặc vì chính trị nội bộ của nước Mỹ đã làm gió đổi chiều ? Và Ukraine sẽ đơn độc tiếp tục cuộc chiến với giá “núi xương, sông máu” nào ? Crimea là tiêu sản hay tích sản của Ukraine nếu người dân Crimea vì các lý do lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn hoá, kinh tế thực sự muốn Crimea ly khai Ukraine để trở về với  Nga như chuyện cũ 300 năm ? Ukraine nên “giữ người ở hay giữ người đi?” Và sau cùng: trong hoàn cảnh của Ukraine, ở thời điểm lịch sử đặc biệt khó khăn này, phải chăng giải pháp hoà bình “đỡ xấu nhất” đành phải coi là tốt nhất ?

Cao Tuấn

(tháng 4/2023)

Hits: 134

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? ( Phần 1 và 2)

Cao Tuấn

PHẦN THỨ NHẤT: CÁC KỊCH BẢN

Cuộc chiến của người Ukraine chống Nga xâm lăng là cuộc chiến tranh vệ quốc có chính nghĩa rất khó phủ nhận.  Ngay cả đối với những người muốn bênh vực hay ủng hộ nước Nga của ông Tổng Thống Vladimir  Putin.

Chính nghĩa tất thắng?

  • Đúng vậy,  theo quan điểm đạo lý.
  • Không hẳn, nếu nhìn vào lịch sử các cuộc chiến tranh hoặc vào “chính trị thực tế”.

Cuộc chiến tranh Phần Lan chống một triệu quân Liên Xô xâm lăng 1939-1940 là một thí dụ gần gũi nhất.  Chính nghĩa của Phần Lan đầy đủ, minh bạch – một nước nhỏ hiền hoà bị một nước lớn vô cớ xâm lược.  Quân đội Phần Lan ngày ấy, không kém gì quân đội Ukraine bây giờ,  khôn ngoan và anh dũng – đánh bại quân Liên Xô nhiều lần trước sự thán phục của cả thế giới.  Tuy nhiên cuối cùng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, Phần Lan phải chịu thất trận và chịu mất một phần lãnh thổ cho Liên Xô.

Chính nghĩa, như thế, dù có tầm quan trọng chiến lược, chỉ là một yếu tố – cần nhưng chưa đủ – để thắng một cuộc chiến tranh.

Để trả lời câu hỏi chủ yếu “chiến tranh Nga-Ukraine sẽ kết thúc thế nào? “ thử xem xét một số kịch bản khác nhau và bàn về mức độ khả hữu của mỗi kịch bản.

Kịch bản 1 : Chiến tranh kết thúc với Nga toàn thắng, đè bẹp Ukraine trên chiến trường, chính quyền Ukraine đầu hàng và bị thay thế bởi một chính quyền bù nhìn thân Nga.

Bước qua năm thứ hai của cuộc chiến, kịch bản này có mức độ khả hữu rất thấp.  Lý do:

– Ukraine có lãnh đạo chính trị xuất sắc, nổi bật là Tổng Thống Zelensky tài năng, khôn ngoan và rất phong cách.  Trước công luận thế giới, chính nghĩa của Ukraine “chống Nga xâm lược” áp đảo hẳn tuyên truyền của Nga về “chiến dịch quân sự đặc biệt chống Mỹ và các nước NATO đang xử dụng Ukraine để bao vây, chèn ép, phá hoại nước Nga trong sách lược làm tan rã nước Nga – như đã làm tan rã Liên Xô trước đây”.

– Dân Ukraine rất đoàn kết chống xâm lược.  Xâm lược càng tàn bạo, căm thù càng cao, quyết tâm càng mạnh.

– Quân đội Ukraine quả cảm, càng đánh càng tinh nhuệ.

– Ukraine được các nước trong khối NATO chi viện rất nhiều về đủ mọi mặt . Đặc biệt là Mỹ đã cung cấp trên dưới 80 tỉ đô la quân viện và kinh viện chỉ trong năm đầu tiên của cuộc chiến – một con số phá kỷ lục.  Kế đó là Anh, Ba Lan, Canada, Hoà Lan, Na Uy, Đan Mạch, các nước vùng Baltic …cũng giúp tận tình.

– Mạnh như Liên Xô, như Mỹ mà không khuất phục được nước Afghanistan 40 triệu dân thì Nga, dù có leo thang tổng tấn công tràn ngập Ukraine (có kích thước tương đương Afghanistan), dù chiếm được các thành phố kể cả thủ đô Kiev, sẽ không bình định nổi Ukraine, sẽ bị sa lầy với chiến tranh du kích của người Ukraine.

Kịch bản 2 :  Putin, tác nhân chủ yếu – hoạch định, phát động, điều khiển cuộc chiến tranh – bị ám sát hay bị lật đổ, chiến tranh Nga-Ukraine kết thúc.

Kịch bản này cũng có mức độ khả hữu không đáng kể.

Ám sát hay lật đổ Putin cũng khó như ám sát hay lật đổ Tập Cận Bình hay Kim Jong Un.

Putin, Tập, Kim đều là nhưng lãnh tụ độc tài cai trị bằng bàn tay sắt cùng lúc ban phát quyền lợi hậu hĩ cho các thuộc hạ trung thành được tuyển chọn kỹ, nắm vững tình hình nội bộ, không để lộ sơ hở.

Riêng Putin  – xuất thân tình báo cao cấp KGB, thâm hiểm, mưu mẹo, phất cờ dân tộc chủ nghĩa, khai thác mặc cảm tự tôn, tự ti, các ẩn ức của dân Nga – đã làm độc tài, độc tôn gần 1/4 thế kỷ sau khi  diệt trừ hết mọi đối thủ.  Triển vọng Putin đột nhiên biến mất trên chính trường nước Nga là ảo vọng.

Mặt khác, Putin có thể đang là một hình ảnh xấu xí trên thế giới nhưng có thể rất khác ở bên trong nước Nga, ngược hẳn lại với trường hợp của Gorbachev – được ca tụng ở các nước Tây Phương như một vĩ nhân, lại bị ghét bỏ ở Nga.  Gorbachev bị dân Nga, công bằng hay không, quy trách nhiệm đã làm đế quốc Liên Xô tan vỡ, quy trách nhiệm đã làm cho nước Nga tang thương, lụn bại cả chục năm sau đó – một nước Nga dưới sự lãnh đạo của… Boris Yeltsin!  Thay vì tặng huy chương “quán quân dân chủ” hay  “quán quân hoà bình” cho Gorbachev thì dân Nga gắn mề đay cho Putin vì “đã vực dậy nước Nga của họ từ đống tro tàn”.  Thực tế này, sai đúng đến đâu, vẫn là một thực tế phải ghi nhận.

Kịch bản 3 :  Cuộc chiến kết thúc với Ukraine đại thắng trên chiến trường, lấy lại toàn bộ lãnh thổ bị xâm chiếm kể cả Crimea, Nga đại bại phải bồi thường thiệt hại như Ukraine đòi hỏi.

Kịch bản này cũng có mức khả hữu thấp.  Nga sẽ không đại bại.  Ukraine sẽ không đại thắng.  Và không có bồi thường chiến tranh.

Lý do:

– Nga có lợi thế và tận dụng lợi thế của một cường quốc sở hữu vũ khí nguyên tử vĩ đại, lợi hại bằng hoặc hơn Mỹ.  Đánh nhau với bất cứ nước nào, với lợi thế này, chung cục thì Nga hoặc thắng, hoặc hoà chứ rất khó bại, trừ khi tự ý buông tay, ngửa cổ cho địch thủ chặt đầu mình.

Điều này, vào ngày 22/02/2023 vừa qua tại thủ đô của đồng minh Ba Lan, ngay sau chuyến viếng thăm Ukraine bất ngờ, đã được Tổng Thống Mỹ Biden xác nhận một cách gián tiếp nhưng lại rõ ràng đến mức không giải thích khác được.  Lời phát biểu của Biden ngày này, nơi này, được báo chí thế giới đồng loạt đăng tải, nghe qua có vẻ đanh thép nhưng thực ra  lại rất…”khiêm tốn” nếu không nói là “yếu xìu”  : “Ukraine will never be a victory for Russia — never.” ( Ukraine sẽ không bao giờ là một chiến thắng đối với Nga. Không bao giờ.” )

Nếu nhớ lại thông điệp của Mỹ gửi cho Nhật vào cuối thế chiến thứ hai : “Đầu hàng vô điều kiện hoặc bị tiêu diệt!”, người ta phải tự hỏi tại sao Biden không tuyên bố, ít nhất, một lời minh bạch chẳng hạn như : “Nga chắc chắn sẽ bị đánh bại hoàn toàn ở Ukraine. Không thể khác được!“  Tại sao không nói?!

Phải chăng, “vừa đánh, vừa run” hay “vừa đánh, vừa hồi hộp”?  Phải chăng đánh mà không dám thắng?   Phải chăng “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng cố thây?”

     – Mỹ và Nga có quyền lợi “địa chính trị” trái ngược nhau ở Âu Châu nói chung và Ukraine nói riêng.  Cuộc chiến Nga-Ukraine cũng là cuộc chiến Nga-Nato, cốt lõi là cuộc chiến Nga-Mỹ bất kể 2 nước có trực tiếp giao chiến hay không.  Nga leo thang tấn công Ukraine đến đâu, Mỹ leo thang yểm trợ Ukraine ứng phó đến đó nhưng lại cẩn thận…trói tay Ukraine để yên tâm không làm Nga tức giận, mất mặt hay thất vọng đến mức phát khùng mà ấn nút phóng bom nguyên tử.

Nga biết thế, càng làm già, càng dậm doạ, càng mặc sức leo thang, mặc sức đánh Ukraine túi bụi.  Nga tự tung, tự tác trên khắp lãnh thổ Ukraine – nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ kia, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi.  Tự do mang xe tăng uy hiếp Kiev.  Tự do bố trí  hàng ngàn hoả tiễn có tầm bắn vài trăm cây số hay hàng ngàn cây số, đặt sâu trong lãnh thổ Nga để ngày đêm bắn phá các mục tiêu ở khắp Ukraine.  Tự do mang phi cơ bỏ bom bất cứ nơi nào…Và …tự do dùng vũ khí nguyên tử chiến thuật để tiêu diệt các sư đoàn của Ukraine, một quốc gia chưa chính thức là thành viên NATO – trong trường hợp Ukraine phản công quá mạnh và Nga bị nguy ngập trên chiến trường.

Cung cấp viện trợ khổng lồ cho Ukraine nhưng Mỹ từ chối cung cấp cho Ukraine đủ số lượng xe tăng có phẩm chất tốt, phi cơ tầm xa, pháo binh tầm xa, hoả tiễn tầm xa mà Zelensky khẩn thiết yêu cầu… Thực tế có nghĩa là Ukraine bị “cấm” trả đũa tương xứng, bị  “cấm” đánh qua biên giới,  bị “cấm” tiến quân vào Moscova, bị “cấm” bắn phá các căn cứ hoả tiễn, phi trường nằm trong đất Nga nơi xuất phát các cuộc tấn công có tính cách khủng bố của Nga, bị “cấm” đụng đến Belarus, một quốc gia “khách hàng” đang tự nguyện làm “bệ phóng” cho Nga.  Bị “cấm” rất nhiều thứ… Những giới hạn hay cấm đoán này cũng có nghĩa là Ukraine, chỉ tự chủ về chiến thuật, hoàn toàn lệ thuộc Mỹ về chiến lược.  Mà chiến lược của Mỹ phải phục vụ an ninh nước Mỹ trước hết !

Ukraine hôm nay chẳng khác Việt Nam Cộng Hoà năm xưa bị Mỹ “cấm” tiến binh ra Bắc trong khi phe Cộng Sản cứ tuỳ nghi hàng hàng lớp lớp  đổ quân vào Nam.  Chiến đấu tự vệ mà bị trói tay một cách bất công như thế thì chỉ có thua hay hoà, chứ làm sao thắng cả cuộc chiến tranh đến mức bắt buộc kẻ xâm lược phải bồi thường thiệt hại !?

Kịch bản 4 :  Cuộc chiến kết thúc bằng thoả ước đình chiến như (trường hợp chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) ) hoặc hiệp định hoà bình như trường hợp chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954).  Cuộc chiến kết thúc khi mà cả Nga và Mỹ đều ý thức rằng tiếp tục chiến tranh là vô ích và chỉ có lợi cho…Tầu.

Kịch bản này có mức độ khả hữu cao nhất.  Tuy nhiên nó sẽ trải qua một quá trình hình thành tiệm tiến  – đồng nghĩa chiến tranh có thể còn kéo dài thêm một vài năm với những diễn biến,  nguy hiểm đáng sợ.   Xin lý giải như sau:

  1. Tranh chấp giữa 2 cường quốc nguyên tử cuối cùng chỉ có 2 cách giải quyết : dàn xếp tương nhượng hoặc hoặc chiến tranh nguyên tử đồng nghĩa với tự sát tập thể.  Không muốn chết thì phải hoà.
  1. Qua năm thứ hai, cuộc chiến khốc liệt, đẫm máu hơn nhưng ngang ngửa, dằng co. Nga không đè bẹp được Ukraine có Mỹ và đồng minh Âu Châu chống lưng.  Ukraine cũng không trục xuất được Nga ra khỏi lãnh thổ.

Ukraine chịu thiệt hại nhiều nhất. Viện trợ của các nước NATO gồm cả Mỹ dù lớn lao vẫn chỉ bù đắp được một phần rất nhỏ những tàn phá khủng khiếp, những đảo lộn đời sống kinh tế xã hội, những tổn thất nhân mạng.  Kế đến là Nga, cuộc phiêu lưu đắt giá với hàng trăm ngàn thương vong trên chiến trường, cơ man khí tài quân sự bị  phá huỷ, với  trừng phạt, cấm vận làm cho điêu đứng.  Mỹ và các đồng minh ngoài tổn phí viện trợ hàng trăm tỉ đô la cũng phải chịu hệ luỵ của cuộc chiến tranh – lạm phát, người tị nạn, kinh tế đình trệ, dân bất mãn, mất kiên nhẫn bỏ phiếu những kẻ chủ hoà…

Thế mà, chưa bên nào thực sự muốn ngưng chiến.  Cả Nga, Ukraine, Mỹ, các nước NATO Âu Châu đều… chưa sẵn sàng.  Bởi vì còn  sức, bởi vì còn hăng, còn nuôi hy vọng đạt mục tiêu bắt đối phương phải chấp nhận đòi hỏi của mình, bởi vì còn muốn dậy cho đối thủ một bài học, còn muốn nhận thêm…sự kính nể.

  1. Nếu Nga và Mỹ cùng thực sự muốn hoà vào lúc này thì không nước nào ngăn cản được.  Cuộc chiến sẽ giảm cường độ.  Không có Mỹ, NATO sẽ như rắn mất đầu.  Không có viện trợ Mỹ, Ukraine nếu muốn tiếp tục chiến tranh sẽ phải chuyển qua đánh du kích trường kỳ vô hạn định.
  1. Chiến tranh Nga-Ukraine dù do Nga khởi xướng vẫn phải nhìn như là một phần của ván cờ chiến lược toàn cầu – không phải tay đôi mà tay ba: Mỹ, Tầu, Nga.  Ba chiến lược gia quan trọng nhất thế giới hiện nay tất nhiên là Joe Biden, Tập Cận Bình, Vladimir Putin.  Kết quả của ván cờ có thể là một trật tự thế giới mới khác hẳn với trật tự thế giới hiện nay.
  1. Sáng kiến hoà bình 12 điểm công bố mới đây của Tầu là tuyên truyền, hoả mù, không có thực tâm.  Sách lược CĂN BẢN của Tầu là “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” kết hợp với  “toạ sơn quan hổ đấu” – đợi cọp chết, cọp bị thương thì xuống núi ra tay làm nốt phần còn lại rồi lột lấy da.  Áp dụng trong thực tế Tầu sẽ tiến, thoái, gia, giảm thích nghi miễn là lật đổ được Mỹ để làm bá chủ hay làm Thế Giới Đệ Nhất Siêu Cường.
  1. Putin, Biden phải biết hay đoán biết Tập nghĩ gì, tính gì, làm gì.  Tuy nhiên, mũi tên đã bắn đi, mũi tên đã bắn lại, mỗi bên đều có chiến lược riêng của mình… Khởi động chiến tranh thì dễ, kết thúc thì khó.

Thời gian đều có thể là kẻ thù của các bên lâm chiến – bộc lộ những điểm yếu.  Thời gian có thể không đứng phía Nga.  Không đứng về phía Mỹ.  Không đứng về phía Ukraine.

  1. Chiến lược của Mỹ là làm cho Nga kiệt quệ phải bỏ cuộc nhưng tới nay Nga chưa kiệt quệ.  Một, hai năm nữa có lẽ chưa thành vấn đề.  Độc tài, độc quyền và nắm vững tình hình nội bộ, Putin có khả năng huy động nhân lực, tài nguyên dễ dàng hơn hơn Biden rất nhiều.

Putin đã ném vào chiến trường 5, 6 trăm ngàn quân, đã “nướng” cả 5, 7 chục ngàn hay cả trăm ngàn quân nhưng vẫn còn dưới tay khoảng 15 hay 20 triệu thanh niên Nga trong tuổi nghĩa vụ quân sự để tuỳ nghi xử dụng trong tổng số 144 triệu dân.

Kẻ “bần cùng cố thây” thực ra là Bắc Hàn của Kim Jong Un chứ không phải Nga .  Xung đột Nga với Mỹ chỉ nên ví von “chén sành đụng chén kiểu” là cùng.  Bị trừng phạt, cấm vận, phong toả, tẩy chay, kinh tế của Nga có gặp khó khăn nhưng không sụp đổ hay chưa sụp đổ.  Dự trữ ngoại tệ trị giá mấy trăm tỉ đô la vẫn còn đó. Kết quả của chuẩn bị và quản trị khá tốt từ nhiều năm trước. Đồng tiền “Rúp” của Nga vẫn tương đối ổn định cũng là một chỉ dấu phản ảnh thực trạng sức chịu đựng của Nga.  Chủ yếu là nhờ bán vũ khí, khoáng sản, nhất là dầu hoả và hơi đốt.  Âu Châu cấm vận thì Nga bán cho Á Châu, Phi Châu.  Tiền vẫn vào như nước.  Lợi tức thâu được không kém gì thời kỳ trước chiến tranh.

Nga cũng không hoàn toàn cô độc dù bị 141 quốc gia tại Liên Hiệp Quốc mới bỏ phiếu lên án trắng trợn xâm lược Ukraine.  Nga vẫn có 38 nước ủng hộ gồm 6 nước công khai bỏ phiếu và 32 nước “bán công khai” bỏ phiếu…vắng mặt.  Trong số này đáng lưu ý là Tầu, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Iran, South Africa, Việt Nam, Bắc Hàn, Belarus, Syria, Cuba, Nicaragua, Mongolia, Algeria.  Đáng lưu ý nhất, dĩ nhiên là nước Tầu của Tập Cận Bình –  siêu cường số 2 và cơ xưởng sản xuất của thế giới.

Hiện thời thế trận của Nga trông còn vững.  Tuy nhiên nếu chiến  tranh mở rộng, kéo dài, hết tiền, hết đạn, hết gạo, yếu sức, hụt hơi thì sẽ phải nghĩ đến việc cầu cứu Tầu.  Tầu tất nhiên không để Mỹ thắng Nga một cách dễ dàng.  Tầu tất nhiên cũng không cứu Nga vô điều kiện.

Từ tuyên bố miệng “đối tác vô giới hạn” đến hiệp ước đồng minh chính thức của hai nước  Tầu – Nga sẽ có tác dụng chia đôi thế giới như thời kỳ chiến tranh lạnh hay thời gian ngay trước thế chiến 1 và thế chiến 2.   Một bên Dân Chủ Tư Bản.  Một bên Độc Tài Cộng Sản hay Độc Tài cựu Cộng Sản.

Nhưng trước hết giữa Tầu – Nga không thể có hợp tác bình đẳng.  Làm sao có bình đẳng  giữa một quốc gia có dân số gấp mười và qui mô kinh tế cũng gấp 10 quốc gia kia? Lại chung biên giới?  Cùng có óc đế quốc tham lam ?  Ân oán lịch sử chồng chất còn chưa giải quyết?

Cái nguy cơ của Nga là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”.  Chưa chiếm được Ukraine có thể đã mất Ngoại Mông, Siberia, Vladivostok.  Nga sẽ phải chịu lệ thuộc Tầu, phải chịu phận đàn em, phải làm con nợ, phải gán nợ, mất đất, mất nhà, phải chìa tay ăn xin, phải chịu cảnh thay bậc đổi ngôi – rất trớ trêu :  “Trời làm một sự lăng nhăng, ông biến ra thằng, thằng biến ra ông !”

Nga có muốn thế không?  Có muốn ký hiệp ước ràng buộc làm “đồng minh vô giới hạn” với  Tầu như Ý với Đức làm thành phe Trục trong thế chiến 2 ?

Mỹ có muốn Nga như thế không?  Mỹ có muốn Nga “gán” vài ngàn hoả tiễn liên lục địa có gắn đầu đạn hạt nhân cho Tầu để nhận lại gạo, mì, thịt, cá, đường, sữa, thuốc men, quần áo lạnh, đạn pháo binh, súng AK, đại liên, xe tăng, phi cơ… những thứ mà Nga đã cạn kiệt đúng vào lúc ngân khố đã trống rỗng ?

  1. Tổng Sản Lượng GDP của Nga bằng 7% của Mỹ không có nghĩa trong chiến tranh Mỹ mạnh hơn Nga 14 lần (và mạnh hơn… Afghanistan (Taliban) hay Bắc Hàn (Kim Jong Un) mấy trăm lần).  Chiến tranh là một nghệ thuật. GDP cũng là một yếu tố quan trọng phải tính đến trong nghệ thuật chiến tranh nhưng không phải là yếu tố quan trọng nhất.

Điều đáng quan tâm hơn ở đây là chính trị nội bộ của nước Mỹ. Một nước Mỹ dân chủ bất toàn.  Mỹ là Siêu Cường nhưng không có khả năng thích hợp cho những cuộc chiến lâu dài.

Hệ thống lưỡng đảng và cung cách tranh cử để nắm quyền với bất cứ giá nào làm nước Mỹ phân hoá quá đáng.  Như căn bệnh trầm kha, càng ngày càng nặng hơn. Đối lập mà như thù địch, trên chính trường và trong xã hội.  Kẻ làm, người phá.  Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.  Rất khó tập trung và vận dụng sức mạnh.  Rất khó có một chính sách dài hạn trước sau như một.  Rất bất công đặt đồng minh chiến tranh như Ukraine trong tình trạng thường trực bất an.

Hiện thời, chưa có dấu hiệu chính quyền Mỹ của Tổng Thống Biden sẽ bỏ rơi Ukraine như chính Biden đã đôi lần bỏ rơi các đồng minh khác của nước Mỹ trong cuộc đời làm chính trị của mình.  Tuy vậy, đang ở tuổi 80, giữa nhiệm kỳ Tổng Thống 4 năm, với mức độ ủng hộ quanh quẩn 40% của dân Mỹ, Biden không được coi là  một Tổng Thống mạnh mặc dù ứng phó khá tốt với cuộc chiến ở Ukraine – cho đến nay.

Dân Mỹ, nói chung, dù đã ngán ngẫm cả Joe Biden và cựu tổng thống Donald Trump , 76 tuổi  thuộc đảng Cộng Hoà, vẫn rất có thể, 20 tháng nữa, lại phải chọn 1 trong 2 ông già “gần đất xa trời” này trong ngày tổng tuyển cử 5/11/2024  để giao phó sinh mệnh của nước Mỹ (và sinh mệnh của các nước quá lệ thuộc Mỹ và quá tin Mỹ).

Biden và Trump là… “kỳ phùng địch thủ” nên đều có cơ may được tái cử làm Tổng Thống, theo các thăm dò mới nhất – trong bối cảnh 2 đảng Dân Chủ, Cộng Hoà tiếp tục ngang ngửa. Một tin tức đáng lưu ý là  Trump, bắt đầu vận động tranh cử, vừa cho nổ trái bom: “bảo đảm” sẽ giải quyết chiến tranh Nga-Ukraine trong vòng 24 tiếng đồng hồ!

Một hứa hẹn hấp dẫn với cử tri người Mỹ chán chuyện chiến tranh – xa xôi, tốn phí, thích… “America first” và chưa quên “mối thân tình rất đặc biệt và có phần bí hiểm” giữa Trump và Putin.

Riêng người Ukraine tất nhiên phải  tự hỏi : Còn tin tưởng được nước Mỹ đến đâu ? Liệu Ukraine có bị tặng không hay bị bán rẻ cho Nga ? Ukraine sẽ phải chuẩn bị thế nào từ bây giờ hay cứ để “nước đến chân mới nhẩy” ?

* Tóm tắt, sẽ đến lúc các bên lâm chiến ngộ ra rằng nên ngưng chiến vì đánh đến thời điểm này là vừa đủ, cố nữa cũng không hơn gì hoặc lợi bất cập hại.  Ngưng chiến để thương thuyết. Thương thuyết đồng nghĩa với tương nhượng.  Đồng nghĩa với cho hoà bình một cơ may.

PHẦN THỨ HAI: CUỘC CHIẾN TẠI UKRAINE NHÌN TRONG CHÍNH TRỊ CỦA “THẾ CHÂN VẠC”

Như đã nói ở PHẦN THỨ NHẤT, để hiểu đầy đủ chiến tranh Nga-Ukraine, cần phải đặt nó trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược của 3 đại cường quốc là Mỹ, Tàu, Nga. Vậy, cái bối cảnh ấy gồm những điểm đáng lưu ý nào ?

“Siêu” nhưng không “siêu”

Mỹ, Tàu, Nga là 3 cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, vượt xa các nước khác. Mỹ là siêu cường. Tàu là siêu cường. Hai nước mạnh gần như toàn diện. Nga không phải là siêu cường nhưng Nga “siêu” về kho vũ khí nguyên tử lợi hại ; “siêu” về sản xuất và xuất cảng các loại vũ khí chiến tranh ; “siêu” về kỹ thuật thám hiểm không gian ; “siêu” về lãnh thổ rộng gần gấp đôi toàn thể Châu Âu ; “siêu” về năng lượng dầu hỏa và khí đốt ; “siêu” về tài nguyên thiên nhiên – vàng, bạc, sắt, đồng, chì, kẽm, uranium, than đá, đất, nước ; “siêu” vì là đang là quốc gia Châu Âu “hung hăng” nhất trên lục địa này ; “siêu” về hào quang là hậu thân của Liên Xô – có đạo lục quân mạnh nhất trong thế chiến 2, đã đánh bại đế quốc Nhật và nhất là đánh bại Đức Quốc Xã ; “siêu” về vị thế là một trong 5 thành viên thường trực có quyền phủ quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Mặt khác, Nga chỉ có 144 triệu dân so với 335 triệu của Mỹ, 1.420 triệu của Tàu. Tổng sản lượng GDP chỉ bằng 7% của Mỹ và 10% của Tàu tính theo hối suất chính thức (cao hơn một chút nếu tính theo mãi lực). Kinh tế của Nga trì trệ vì năng suất yếu, dân số giảm sút mỗi năm, sinh suất thấp hơn tử suất. Mức sống vào loại thấp nhất ở Châu Âu. Với những giới hạn này, Nga không có (vì không thể có) tham vọng làm bá chủ hay đệ nhất siêu cường như Mỹ hay Tàu mà Nga còn khó tiếp tục đứng độc lập trong thế chân vạc như hiện tại.

“Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” không phải là độc quyền chiến lược của Tập Cận Bình

Trong tương lai, Nga có thể “phải” chọn ký hiệp ước chính thức làm đồng minh chiến lược của Tàu giúp Tàu lật đổ Mỹ và lên ngôi đệ nhất siêu cường với “rất nhiều quyền lợi” và “tột đỉnh vinh quang”.

Nếu Mỹ chấp nhận thỏa mãn một số đòi hỏi tối thiểu của Nga, Nga cũng có thể chọn làm đồng minh chiến lược của Mỹ giúp Mỹ chặn không cho Tàu vươn lên nữa, đồng nghĩa giúp Mỹ duy trì nguyên trạng “Pax Americana”. “Trong chính trị quốc tế không có bạn muôn đời, không có kể thù muôn kiếp mà chỉ có quyền lợi của quốc gia” và quyền lợi của… lãnh tụ !

Nếu Nga ký hiệp ước đồng minh quân sự dứt khoát đứng hẳn về một bên, Tàu hay Mỹ, thế giới sẽ không còn “chân vạc”, chỉ có “lưỡng cực”. Thế “lưỡng cực” có thể dẫn đến “nhất cực” nếu liên minh Tàu-Nga thắng Mỹ hoặc liên minh Mỹ-Nga buộc Tàu phải chịu bó tay. 

Lẽ tất nhiên, Nga sẽ cố duy trì “thế chân vạc” – cho đến khi không thể duy trì được nữa – để có “triều đình riêng một góc trời” và để khỏi rơi vào tình cảnh khốn quẫn “chồn, thỏ hết, chó săn chết” hay “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”.

“Diện” và “Điểm”

Mặc dù bị Tàu thách thức và cạnh tranh rất mạnh, Mỹ vẫn còn là đệ nhất siêu cường của thế giới. Cả Châu Âu và Châu Á đều cực kỳ quan trọng cho vị thế này của Mỹ. “Mất” Châu nào trước cũng làm Mỹ suy sụp. Suy sụp rất nhanh vì “mất” Châu này sẽ nhất thiết làm “mất” luôn cả Châu kia. 

Tại Châu Âu, đối thủ chính của Nga là Mỹ và đối thủ chính của Mỹ là Nga. Tuy nhiên Nga tự biết không đủ sức nên chiến lược của Nga không nhằm “hất” Mỹ khỏi Châu Âu. Nga chỉ đang tranh một chỗ đứng mà Nga nghĩ mình “xứng đáng” tại lục địa này. Sự khuấy động có phần hung hãn của Nga ở Châu Âu cũng không nhằm phục hồi Đế quốc cộng sản Xô Viết, một mục tiêu đã lỗi thời và vượt quá tầm tay, mà là những động thái của sách lược lấy “công” làm “thủ” trong tình cảnh “bất tiến, tắc thoái” của Nga – sau khi Liên Xô tan vỡ. Nước Nga hay Liên bang Nga, một mảnh vỡ lớn còn lại của Liên Xô, nếu không thật cứng cả đối nội và đối ngoại cũng sẽ vỡ thêm lần nữa thành những mảnh nhỏ hơn. Đó là nguy cơ có thật đối với Nga dù nhìn khách quan hay nhìn theo quan điểm của Putin. Tuy nhiên, cứng quá sẽ gặp phản ứng. Như “gieo gió thì gặt bão” – như nước Nga đang gặp “bão” ở Ukraine. Như chỗ đứng “xứng đáng” mà Nga muốn áp đặt tại Châu Âu đã và đang bị những đối thủ của Nga chống lại.

Tại Châu Á, đối thủ chính của Mỹ là Tàu và đối thủ chính của Tàu là Mỹ. Khác với Nga, Tàu có tham vọng vĩ đại hơn rất nhiều. Tàu ở thế công không phải thế thủ. Mặc dù bề ngoài mục tiêu của Tàu có vẻ khiêm tốn và chính đáng : “thâu hồi Đài Loan để giải quyết chuyện tranh chấp nội bộ nước Tàu, chấm dứt nội chiến, thống nhất tổ quốc”. Tuy nhiên ai cũng thấy kết quả sẽ không dừng ở đấy. Một khi Đài Loan và Hoa lục hợp nhất thành một khối, thế trận ở Châu Á hoàn toàn đảo lộn. Vô cùng lợi cho Tàu. Vô cùng hại cho Mỹ.

Sự quan trọng của Đài Loan không chỉ là một hải đảo 36 ngàn cây số vuông, 24 triệu dân, thịnh vượng, tiên tiến mà còn ở vị trí chiến lược nằm án ngữ hải đạo huyết mạch nối liền Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Vị trí chiến lược này của Đài Loan có giá trị được nhân lên gấp nhiều lần sau khi Tàu đã hoàn tất việc độc chiếm và quân sự hóa gần như toàn bộ Biển Đông bất chấp sự phản đối vô vọng của Mỹ, đồng minh của Mỹ và hầu hết các nước trên thế giới.

Đài Loan giống như một hàng không mẫu hạm khổng lồ, không bao giờ chìm, lợi hại gấp mấy chục lần tất cả các hàng không mẫu hạm của Mỹ gộp lại. 

“Mất” Đài Loan, sẽ đặt Nhật và Nam Hàn – đồng minh quan trọng nhất của Mỹ tại Châu Á, nơi Mỹ có căn cứ quân sự – trong tình trạng bị uy hiếp nghiêm trọng.

Con đường giao thương tiếp tế sinh tử trên biển cho 2 nước này có thể bị Tàu phong tỏa bất cứ lúc nào, cắt đứt dễ dàng như trở bàn tay. Thiếu dầu, thiếu khí đốt, thiếu phân bón, thiếu thực phẩm, thiếu gạo, thiếu nguyên liệu… gần 180 triệu người Nhật, người Hàn lúc ấy sẽ phải chọn giữa chết rét, chết đói và kéo cờ trắng. 

Mất Đài Loan là Mỹ mất Đông Bắc Á. Sự hiện diện vốn đã yếu ớt của Mỹ ở Đông Nam Á cũng cáo chung rất sớm.

Lấy Đài Loan như vậy, đối với Tàu, không phải chỉ để thống nhất tổ quốc như tuyên truyền và kích động người dân mà chủ yếu là nhằm trục xuất Mỹ ra khỏi Châu Á rồi thừa thắng xông lên thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế giới.

Nói một cách khác, trên toàn thế giới, Tàu là địch thủ chính của Mỹ, không phải Nga. Thách đố lớn nhất của Mỹ nằm ở Châu Á, không phải Châu Âu. Đối với Mỹ, trận đấu Đài Loan ở Châu Á phải coi là “điểm”, chiến trường Ukraine ở Châu Âu chỉ nên coi là “diện”.

Địa Lợi là then chốt

Đương đầu với Tàu trên toàn cầu, Mỹ, nói chung, có một số lợi thế – nhiều đồng minh, nhiều căn cứ, nhiều hàng không mẫu hạm (tầu sân bay), nhiều bom nguyên tử và TẠM THỜI có thể in tiền đô la xài khắp thế giới, v.v. – nên vẫn được coi là siêu cường số 1, nhưng riêng ở Đông Á (gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á) thì Mỹ lại ở thế yếu vì không thể tập trung đủ lực lượng quân sự để đối phó với một địch thủ rất mạnh và có chiến lược tận dụng yếu tố ĐỊA LỢI, tức là “gần nhà” với khả năng huy động nhân, vật lực gần như vô giới hạn. Đài Loan là đấu trường tại một vùng địa lợi do Tàu chủ động chọn lựa vì tầm quan trọng chiến lược để, nếu thắng, sẽ mở ra một cuộc diện hoàn toàn mới có lợi cho Tàu. Nếu thắng, Tàu sẽ ở trong “thế chẻ tre” như Nhật sau trận Pearl Harbour, như Liên Xô sau Stalingrad.

Mỹ có thừa đầu đạn hạt nhân, thừa bom nguyên tử để tiêu diệt toàn bộ nước Tàu 19 lần. Tàu chỉ có đủ hạt nhân, nguyên tử đủ để tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ một lần. Nhưng 19 lần hay một lần, trong trường hợp này, khác nhau thế nào ? Ưu thế mà không hẳn là ưu thế.

Đồng minh trong “bộ tứ Kim Cương” (QUAD) của Mỹ chỉ có Nhật và Úc là “đáng tin cậy” còn Ấn Độ thì “khả nghi”. Đáng tiếc, Nhật, Úc đều không phải là cường quốc quân sự. Nhật ngày nay không phải Nhật trong thế chiến thứ hai, cả về tinh thần lẫn sự chuẩn bị chiến tranh. Ấn Độ có vũ khí nguyên tử tạm đủ cho mục đích “gián chỉ” nhưng trong chiến tranh quy ước Ấn Độ ở dưới thấp, Tàu ở trên cao (Tây Tạng) nên Ấn Độ sợ chiến tranh với Tàu hơn là Tàu sợ chiến tranh với Ấn Độ. Đại quân của Ấn Độ vừa không có kinh nghiệm vừa không có khả năng “vạn lý trường chinh” vượt Hy Mã Lạp Sơn tiến vào sâu vào đất Tàu. Thêm nữa, người Ấn, theo đạo Bà La Môn, tin vào nhân quả, luân hồi không thích đánh nhau, chưa kể Tàu đã chuẩn bị sẵn cho Pakistan ngáng chân Ấn Độ. Khi “hữu sự”, nhiều phần là Ấn Độ giữ thái độ “vô can”.

Khối AUKUS (Australia-UK-US) phảng phất lá bài chủng tộc Anglo-Saxon nhưng New Zealand, Canada lại chọn đứng ngoài. AUKUS vừa trùng hợp với các tổ chức đồng minh khác của Mỹ vừa gây thêm chia rẽ nội bộ các nước đồng minh nên sẽ không có nhiều tác dụng. Trường hợp Pháp mới đây phản đối Úc hủy bỏ hợp đồng chế tạo 12 tầu ngầm của Pháp để mua tầu ngầm nguyên tử do Anh, Mỹ phối hợp cung cấp là một thí dụ.

Các nước Anh, Pháp, Đức nói riêng, các nước NATO Châu Âu nói chung cũng không có trọng lượng đáng kể ở vùng Đông Á. Chỉ đoàn kết miệng với Mỹ trong việc đối phó với sự bành trướng của Tàu. Khác Mỹ, vì lý do lịch sử, địa lý, tương quan lực lượng và cả thành kiến, các nước này cảm thấy mối nguy Nga gần gũi và hiển nhiên hơn mối nguy Tàu, chưa kể bị Tàu dùng tiền hay các lợi ích kinh tế để mua chuộc và phân hóa. Chiến thuật “đi đêm” hay “đối tác song phương” với từng nước Châu Âu xem ra khá hiệu quả với Tàu.

Kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, chiến tranh Afghanistan… cho thấy Mỹ, trên lý thuyết, có khá nhiều đồng minh nhưng thực tế là Mỹ luôn luôn phải đảm đương 90% hay 95% gánh nặng của các cuộc chiến tranh mà Mỹ dẫn đầu.

Nếu xung đột quân sự Mỹ – Tàu bùng nổ lần này, Mỹ cũng chỉ có thể trông cậy vào… Mỹ, khó có thể trông cậy vào các ông “thợ vịn” đồng minh – bất kể Âu hay Á.

Như vậy vấn đề là Mỹ còn đủ mạnh hay không ? Nhất là một nửa nước Mỹ lại cầu mong nửa kia bị thua kẻ thù của nước Mỹ cho… bõ ghét hoặc cho “phe ta” thừa dịp “mượn gió bẻ măng” lên nắm chính quyền.

Ai “thượng phong” và ai “hạ phong” ?

Nếu chiến tranh quy ước xẩy ra ở Đông Á, hỏa lực của Tàu, sau nhiều năm “canh tân”, “hiện đại hóa”, “thao quang dưỡng hối”, có thể không kém gì Mỹ hoặc giả sử còn kém hơn Mỹ một chút về phẩm chất nhưng lại hơn hẳn Mỹ về số lượng trong đấu trường Đông Á.

Mỹ, từ lâu, được xem là có ưu thế về Hải quân và Không quân nhưng Lục quân không địch lại bộ binh đông như kiến của Tàu. Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ và 15 nước đồng minh như Anh, Pháp, Canada, Turkey, Netherland, Australia, Thái Lan, Phi Luật Tân, Bỉ, Hy Lạp… đã kinh nghiệm xương máu về chiến thuật “biển người” của Tàu. Sau 3 năm chinh chiến, chính Mỹ đã chủ động đề nghị ngưng bắn để thương thuyết chứ không phải nước Tàu “khố rách áo ôm” của những ngày xa xưa ấy. 

Tàu mất một triệu quân chẳng hề hấn gì, Mỹ mất 100 ngàn quân thì Tổng thống Mỹ bay chức. Trong chiến tranh, Dân chủ thất thế trước Độc tài ở điểm chiến lược này.

Nếu bây giờ chiến tranh Mỹ-Tàu bùng nổ và mở rộng thì ngay cả (giả sử) các nước Đông Nam Á đều chọn đứng về phía Mỹ, Mỹ cũng chỉ có thể miễn cưỡng bảo vệ được các quốc gia hải đảo như Phi Luật Tân, Nam Dương, Brunei nhưng chỉ có thể chống mắt đứng nhìn quân Tàu tràn ngập 7 nước Đông Nam Á còn lại là Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Lào, Cao Miên. Các nước này đều quá yếu so với Tàu về mọi phương diện và là một cái gánh quá nặng cho Mỹ cưu mang. Đông Nam Á, nơi cư trú của hơn 40 triệu “Hoa kiều hải ngoại” đang kiểm soát 80% kinh tế toàn vùng, đúng là sân sau của Tàu trong khi cách xa Mỹ nửa vòng trái đất. Tàu có thể đưa 3 triệu quân đến chiến trường trong vòng một tháng, Mỹ cần 2 năm. Nước xa không cứu được lửa gần !

10 năm, 15 năm trước đụng độ Hải quân, Không quân với Tàu chắc chắn Mỹ thắng, bây giờ thì không chắc chắn nữa, nhất là đụng độ trong vùng tranh chấp Đài Loan nơi Mỹ đã mất hết các căn cứ quân sự lân cận trong vùng như Cam Ranh, Long Bình, Pattaya, Utapao, Clark, Subic Bay… sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Lực lượng đồn trú của Mỹ tại Nhật và Nam Hàn không đủ để đối phó với thế trận của Tàu ngoài ra chính những căn cứ này cũng có thể bị uy hiếp vì nằm trong tầm tác xạ hỏa tiễn tầm trung của Tàu. 

 Tàu đã quân sự hóa Biển Đông với một tốc độ chóng mặt, công khai, chẳng còn thấy cần cải chính khi bị tố cáo – lấp biển làm thêm đảo nhân tạo, xây phi trường cho chiến đấu cơ, lập vùng nhận dạng phòng không, thiết lập các dàn hỏa tiễn, đối hạm, phòng không, các căn cứ hải quân, căn cứ tầu ngầm, cơ sở quân sự, hành chánh đủ loại, tuần tiễu, tuần tra đêm ngày, trên trời dưới nước… phối hợp các căn cứ này với các căn cứ ở đảo Hải Nam, các căn cứ trên đất liền dọc duyên hải Trung Hoa suốt từ Mãn Châu xuống Quảng Đông làm thành một hệ thống quân sự chặt chẽ, chằng chịt, liên hoàn. Một thế trận lợi hại cho cuộc thư hùng quyết định ai sẽ là đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế giới đã được Đảng cộng sản Tàu chuẩn bị cẩn thận trong mấy chục năm, từ thuở “ẩn mình chờ thời” cho đến khi “đối thủ biết được ý định thực của ta thì đã muộn”.

Mang lực lượng từ xa đến, đối với Mỹ, có rất nhiều vấn đề. Chẳng hạn vì thiếu căn cứ, Mỹ phải trông cậy chủ yếu vào hơn chục hàng không mẫu hạm. Nhưng dù tối tân đến đâu các Tàu sân bay này cũng có kích thước quá lớn và di chuyển quá chậm nên dễ làm mục tiêu cho các loại tên lửa đạn đạo, hỏa tiễn di chuyển bằng vận tốc âm thanh, hướng dẫn bằng radar hay vệ tinh và gắn khối chất nổ khổng lồ. Chẳng hạn như các loại hỏa tiễn Đông Phong DF-21, DF-26 của Tàu có tầm bắn xa hàng ngàn cây số đã được trình diễn trong cuộc diễn binh vĩ đại ở Bắc Kinh năm 2015. Câu hỏi quan trọng là : Tàu đã sản xuất được bao nhiêu hỏa tiễn như thế ? Và độ chính xác thế nào ? Nếu Mỹ không biết hay chưa biết thì Mỹ có định mang các hàng không mẫu hạm trị giá từ 10 đến 20 tỉ đô la đến eo biển Đài Loan để thử sức với những hỏa tiễn của Tàu chỉ có giá một vài triệu hay không ?

Nếu không, làm sao bảo vệ Đài Loan và các đồng minh trong vùng ? 

Lực lượng hỏa tiễn đối không và đối hạm cùng các dàn cao xạ dầy đặc của Tàu đợi B52 của Mỹ xuất hiện còn được phối hợp với 2, 3 ngàn phi cơ xung kích sẵn sàng cất cánh từ các phi trường gần biển kể cả những phi trường tân lập trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông và phối hợp cả với những đội tầu ngầm quanh quẩn trong vùng…

Sự bố trí quân sự của Tàu tại Biển Đông và miền duyên hải Trung Hoa nói chung chuẩn bị cho cả 2 trường hợp. 

Trường hợp 1 (tối hảo) không cần bắn một phát súng : Mỹ thấy thế trận quân sự của Tàu bầy ra Mỹ không phá nổi, đành phải rút lực lượng, có ký giấy hay không. “Bất chiến tự nhiên thành” của Tôn Tử !

Trường hợp 2 : Chiến tranh bùng nổ, Tàu thắng, Mỹ triệt thoái quân sự khỏi Châu Á, có ký giấy hay không. 

Dĩ nhiên đối với Tàu Trường hợp 1 tốt hơn hẳn, không sứt mẻ, lại không bị rủi ro chiến tranh nguyên tử và có thể nó chính là phương án mà Tàu đang thực hiện “chậm rãi nhưng chắc chắn” để “bức hàng” cả Đài Loan và Mỹ.

Mỹ tất nhiên cũng rất muốn “bất chiến tự nhiên thành” giống như Tàu – “Win Without Fighting” hay “ta không cần đánh mà người chịu khuất” – nhưng Mỹ bị giới hạn và bất lợi rất nhiều mặt nên ngay cả một thế trận “trung bình”, “coi được” mà các chiến lược gia của Mỹ đang cố gắng sắp xếp một cách lúng túng như “QUAD”, như “AUKUS”, như “Five eyes” để đối phó với thế trận của Tàu có thể cũng không hiện thực – trừ khi có một “sáng kiến chiến lược” với tầm cỡ… “Kissinger bí mật đi Tàu năm 1971” thì mới mong Tập Cận Bình phải chịu bó tay.

Cao Tuấn

(02/04/2023)

Mời xem tiếp PHẦN THỨ BA:

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? (Phần 3)

Hits: 140

Thực Lực Của Người Việt Tỵ Nạn Tại Hải Ngoại

TS LS Lưu Nguyễn Đạt

Từ 1975, hơn bốn triệu người Việt Tỵ Nạn định cư và sinh sống tại hải ngoại, trên khắp thế giới tự do, đều chia sẻ cùng một thân phận khắc nghiệt, trầm bổng, hồi sinh.  Đa số đã mất tất cả — tài sản, nhà cửa, địa vị, danh dự, hạnh phúc, liên hệ gia đình, ân tình làng xóm để bơ vơ nơi đất khách quê người và tại đó cố gắng tạo dựng lại từ đầu một đời sống mới, nhiều thách thức trở ngại, nhiều thương đau, đổ vỡ: chính khách mất chính thể; sĩ tướng mất quân quyền; chủ nhân ông trắng tay, đổi đời; chuyên viên giải nghiệp; trí thức mất thế; gia đình, tập thể, cộng đồng lo âu tái lập truyền thống, lý tưởng, tình người.

Có một điều họ không mất, đó là niềm tin vào thực lực tồn tại của họ, vào lẽ sống trong thế hội nhập của ba khả năng chọn lựa:

  1. Tồn giữ Nhân phẩm, Chia sẻ Giá Trị Việt Tính;
  2. Yêu Chuộng Tự do, Công Lý, Dân Chủ chân chính;
  3. Gắn bó Đại Nghĩa với Chí Nhân.

Các đặc tính và khả năng trên thụ hình ít hay nhiều, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cá biệt, đa dạng, nhưng hiển nhiên đều là những thành tích tiếp nối  tới ngày nay, sau 47 năm phấn đấu.

I. THỰC LỰC TỒN GIỮ NHÂN PHẨM, CHIA SẺ GIÁ TRỊ VIỆT TÍNH

Người Việt Tỵ Nạn bỏ nước ra đi vì họ quyết tâm khước từ thân phận tù đày, vô nhân cách. Họ từng bị “điều kiện hoá”, nhồi sọ; hạ nhục thành loài vật, thành dụng cụ khai thác đoản kỳ; thành kẻ tiêu thụ hạ cấp, lỗi thời, ươn hèn, vô thức.

Họ quyết tâm thoát ly cảnh tù túng, đày đoạ, bất nhân, bất nghĩa trong nước là vì họ còn đủ nghị lực kiên trì bảo trọng giá trị làm người tử tế, tự trọng, biết nhận, biết hưởng và biết cho lại.

Phẩm giá làm người chân chính đó có tính cách bẩm sinh, bất khả tước đoạt, mà con người chỉ từ bỏ khi lìa đời.  Nhân phẩm và lòng tự trọng không cho phép mình hạ thấp, quỵ lụy hơn những gì cần thiết; không cho phép con người sống còn trong nhục nhã, sợ hãi, hèn mọn.  Con giun xéo lắm cũng quằn, huống chi là con người?

Do đó, quyết tâm ra khỏi địa ngục CSVN là vì con người chưa vô cảm, còn biết quằn quại, vùng vẫy, đứng dậy và chạy thoát cảnh nô lệ, thoái hoá và thú hoá vậy.

Ngoài ra, khả năng “vượt thoát” ra khỏi bế tắc, sa lầy và sai lầm cũng như khả năng “vượt thắng” đều chiết tự ngay từ “Việt tính”, mà ông cha chúng ta ra công gắn liền với “siêu việt”, vì “Việt” (越, bính âm: yuè) là một từ gốc Hán-Việt có nghĩa là “vượt qua”.  Hy sinh của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản dám liều lĩnh thách đố cái chết trăm hình vạn trạng để đổi lấy hy vọng sống thực, sống trọn vẹn có đáng gọi là hành động “siêu việt”, vượt bực hay không?

Người Việt còn lại trong nước chưa “vượt ngục” CSVN, không hẳn vì hèn nhát, thiếu can đảm, mà chỉ vì họ chưa hồi hướng đúng mức, đúng độ, hay chưa gặp đúng thời, đúng cuộc. Người dân trong nước sẽ tụ tập đứng lên khởi nghĩa khi vỡ lẽ CSVN chỉ là quân bịp bợm, phá hoại, bất tài, vô luân; khi toàn dân thấy rõ xã hội họ đang sống chỉ là “nhà tù tập thể” không còn tầm vóc và mánh khoé bao vây, kìm hãm, doạ nạt họ được nữa.

II. THỰC LỰC CỦA NGƯỜI VIỆT YÊU CHUỘNG TỰ DO DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH

Bên cạnh một thiểu số nạn nhân bị thời cuộc rày vò điêu đứng, bị phá hủy nhân vị đến kiết sức phân tâm, nên không sao hội nhập toàn vẹn cuộc sống phấn khởi, rộng lượng hài hoà nơi đất khách quê người, thì may mắn hơn, đa số người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản trên thế giới tự do đã biết hoàn chỉnh, cải sinh đời sống và thân phận mình từng bị CSVN ngược đãi, hủy hoại.

Sau 47 năm gắn bó với nếp sống đáng sống, đa số người Việt Tỵ Nạn và nhất là hậu duệ, con cháu họ đều ý thức rõ rệt phạm vi định chế nhân quyền, dân quyền và trách nhiệm công dân là một thoả ước xã hội chính trực, kết sinh đa thể, linh động và hiển nhiên, luôn luôn cần bảo trọng, tu bổ cho thêm vẹn toàn, siêu thoát.

Sức mạnh của người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản chỉ hội đủ khi đa số

  • thực thi dân chủ chân chính, pháp trị, hài hoà, tử tế, nhân đạo;
  • tôn trọng tự do và nhân phẩm của chính mình và tha nhân;
  • ý thức về quyền sở hữu, quyền hành chính trị và trách nhiệm công dân.

Như vậy, người Việt Quốc Gia chúng ta cần thi hành và bảo trọng đúng mức tôn chỉ dân chủ tự do, chứ không thể ỷ lại vào “căn cước” dân chủ tự do vừa được cung cấp để làm ngược lại.  Đó là trường hợp của một thiểu số cá nhân cố vị, bị lây thói võ đoán hàm hồ, thường khôi phục thủ đoạn võ đoán, mánh mung, bằng cách chụp mũ, chửi-rủa, phá phách bất cứ ai không vừa ý họ, thì chắc chắn họ không thể “thắng cuộc”, vì không sao sánh kịp ma phiệt CSVN, vốn nổi tiếng về các thủ đoạn rừng rú, hèn mọn; ném đá giấu tay, phun máu hại người.

Nếu giả thử tất cả người Việt Tỵ Nạn chúng ta tiếp tục long đong, sai quấy, thiệt thòi, thất thế, thất thểu, thì con cái họ và người dân trong nước lấy gì để trông mong, nhờ vả, noi theo?

May thay, người Việt Tỵ Nạn đi trước đã từng vượt thoát và thành công chính trực, thì những đợt tỵ nạn sau này cũng có bề vượt thoát và thành tựu như chúng ta mong muốn.  Đó là trách nhiệm quy tụ, bao bọc bằng nghĩa cử dấn thân gương mẫu, bằng thực hành đối chiếu.

Chúng ta hãy cố hành động đúng nhân cách của người Việt tự do, tự trọng đề thẳng tiến và đem lại hy vọng cho hậu duệ, cho người “tới” sau.  Chúng ta không thể tự hủy bằng cách đi ngược đường hay dùng ngõ tắt thủ lợi sáo mòn, do địch gài bẫy kết dụ, ám hại như theo “nghị quyết 36” chẳng hạn.[1]

III.  ĐẠI NGHĨA & CHÍ NHÂN

Thế lực của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản là khả năng dấn thân theo đại nghĩa, đại cuộc: biết cưu mang lẽ phải, bảo trọng công lý; trợ lực nghĩa sống và phúc lợi nhân loại. Đó là cách ứng dụng “chính nghĩa siêu việt” của Ông Cha chúng ta vào đời sống hiện đại:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”[2]

Nguyên văn “Bình Ngô đại cáo” 

 ĐEM ĐẠI NGHĨA ĐỂ THẮNG HUNG TÀN

Đại Nghĩa là Lẽ Sống Chính Đáng, Toàn Diện; là Trào lực Chỉ đạo lấy phẩm giá con người làm trọng tâm cho mọi sinh hoạt hiện hữu.  Do đó, luật pháp công minh và công lý đạo đức phải căn cứ vào nhân phẩm để định chế hoá và hướng dẫn đời sống toàn vẹn.

Phẩm giá làm người chân chính có tính cách bẩm sinh, bất khả tước đoạt. Nhân phẩm phải được kết tạo bằng nguồn gốc nhân sinh và truyền thống văn hoá của một dân tộc hài hoà, phân minh, hướng thượng; bằng kích thước và vị trí địa-chính của một lãnh thổ; bằng tầm vóc môi sinh và dưỡng khí bao bọc liên hệ.

Nhân phẩm đòi hỏi một hiện tượng tổng hợp, mà bất cứ kết tố nào khiếm khuyết đều làm nhân phẩm chao đảo, thất tung, bất toàn.

Do đó, con người sẽ mất nhân phẩm khi phải sống cảnh nô lệ, đói khát, bệnh hoạn, ngu xuẩn, tù đày, đe doạ, khinh miệt, kỳ thị, bóc lột, lợi dụng, quên lãng.  Như toàn dân Việt đang sống lây lất dưới ách cộng sản Việt Nam, trừ thiểu số đại gia, băng đảng của chúng.

Hiển nhiên công dân mất nhân phẩm khi đất nước họ bị ngoại bang xâm lấn; khi lãnh thổ họ bị tháo ranh, cắt đất; khi lãnh hải, hải đảo, núi rừng, nguồn lợi thiên nhiên bị tài phiệt đại gia tham ô trục lợi, bị ngoại nhân bất chính cưỡng đoạt, phá hủy; khi dân oan thấy mình thất lạc, hắt hủi ngay nơi chôn nhau cắt rốn, ngay nơi thờ phụng tổ tiên.

Công dân cũng bị tước đoạt nhân phẩm khi tiếng mẹ đẻ thuần túy mỗi lúc trở nên pha tạp, hổ lốn, ngọng ngịu, sai lạc, bôi bác, sa đoạ.

Vậy “Đại Nghĩa”, song song với công minh chính đại, đòi hỏi:

  1. người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do phải dứt khoát “Tr Cộng”
  • không chỉ để “chống đỡ, chống cự, phòng thủ, tự vệ” một cách tiêu cực, yếm thế;
  • mà thực sự để vạch rõ làn ranh giữa chính nghĩa nhân bản và ý thức hệ của tội ác;
  • để sáng suốt thu thập tài liệu vạch trần hành động và thủ đoạn của kể hung tàn diệt chủng; bá quyền, bá đạo, vô nhân, thất đức;
  • để xác định lập trường cảnh tỉnh, minh mẫn trong việc chuẩn bị đối phó và ngăn ngừa kẻ trọng tội tái phạm.  Ngăn ngừa đã là thực hiện nửa đường của điều trị.
  1. người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do phải dứt khoát “Thắng Cộng”
  • không bằng thế quân sự, vì lúc này chiến tranh ở ngoài tầm tay “bất bạo động” của người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do; hơn nữa, quân sự chỉ là giải pháp ngoại vi, cục diện, tạm bợ, không thể giải quyết toàn thể quốc nạn, tai ương nhân tạo dưới ách cộng sản;
  • cũng không áp dụng chính sách hung tàn để trả đũa trừng phạt, khai trừ, thủ tiêu con người cộng sản, khi họ chỉ là những thành phần mù quáng, lỗi thời, bất tài, bệnh hoạn;
  • mà thực sự để “khử trùng cộng sản”; để điều trị, tảy trừ tận gốc căn bệnh cộng sản hiểm nghèo, ngu xuẩn, điên cuồng bằng cách [a] nâng cao dân trí, [b] phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người dân, [c] bảo trọng công lý thượng tôn luật pháp, v.v.
  • “Thắng Cộng” vắn tắt là nỗ lực trừ ác tính để trọng sinh, khi dõng dạc, công minh bảo đảm quyền lợi và phẩm giá toàn diện của người dân, tại học đường; trong xã hội mở rộng; tại thương trường; nơi công quyền, pháp quyền, chính quyền; dưới mọi hình thức chọn lựa tín ngưỡng, phát biểu tư tưởng sáng tạo, bảo trọng môi sinh, đời sống căn bản.

 LẤY CHÍ NHÂN ĐỂ THAY CƯỜNG BẠO

Nhưng “Đại Nghĩa” tức lẽ sống chân chính đó phải được thực hiện và bảo trọng một cách ôn hoà, nhân từ, bác ái. Quyền sống phải được thực hiện đúng mức và bảo vệ đúng nghĩa, một cách công bằng, đạo đức, trách nhiệm.

Trong quan niệm “Chí Nhân”, nhân từ là căn bản.  Khi nhân từ được tôn trọng và thực hiện ở mức cao đẹp, thì mẫu mực nhân từ trở thành chí nhân, ở mức độ toàn hảo, cao vượt.  Do đó:

  • người chiến sĩ tự do phải luôn luôn tố cáo, khai trừ mọi vi phạm nhân quyền;[3] đồng thời cổ võ các biện pháp ôn hoà “phục hồi công lý”; ứng dụng pháp lý công bình[4] thay vì công lý trừng phạt, trả thù.[5]
  • người chiến sĩ tự do chủ trương hoàn trả, bồi thường, bù đắp tương xứng mọi thiệt hại trong quá khứ giao tranh; mặt khác chỉ trừng phạt những trọng tội, sai phạm quá đáng như tàn bạo, lạm quyền, tham nhũng bất chính; còn các tội danh khác đều được hưởng miễn trách[6] hay ân xá [7] nếu nghi can chỉ thi hành nhiệm vụ giao phó.  Điều này không có gì khó hiểu, vì trước đây, chính thể Việt Nam Cộng Hoà đã từng áp dụng chính sách “chiêu hồi”.  Dù sao, chính sách “Chí Nhân” không nhằm phục vụ mục tiêu chính trị của “chiêu hồi”, mà thực sự nhằm chấn hưng đạo đức; tái phục nhân phẩm; cải thiện nhân tính công dân.

Với quyết tâm đem đại nghĩa để thắng hung tàn cộng phỉ, lấy chí nhân để thay tận gốc căn bệnh cộng sản, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản và người chiến sĩ tự do đã rõ rệt “vượt cộng” hay vượt thắng CSVN khi dồn sức tạo dựng một nhân sinh quan trong sáng, phồn thịnh, tử tế, khả trọng.

ĐỂ TẠM KẾT:

Thắng lợi là điều hay nếu chúng ta không đánh mất liêm khiết trong lúc thi hành.[8] Vậy, muốn có thế lực đối phó với chính mình, với đối tác và đối thủ, và muốn thực sự “thắng cuộc” một cách chân chính, nhân hậu, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản cần

  • có can đảm đối mặt với sự thật, để bổ túc lẽ phải hay kịp thời sửa sai;
  • sống ngay thẳng, làm điều tốt lành, vì như thế sẽ giúp chúng ta sống một cách chính trực, làm gương mẫu cho hậu duệ và đồng bào trong nước;
  • chủ trương công minhbất bạo động vì cách đó sẽ đưa tới trình độ đạo đức cao nhất, vốn là cứu cánh của mọi tiến hoá;
  • thương xót tất cả những gì thuộc về đời sống, vì đạo đức không khác gì hơn là sự kính cẩn đời sống.[9]

Phẩm chất của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, của người chiến sĩ tự do còn lại sau khi gạt bỏ mọi hư danh, ảo tưởng; mọi mánh mung, thiển cận; mọi mặc cảm tự hủy. Thực lực của họ chỉ đáng kể khi đo lường bằng kinh nghiệm sống chính trực, can đảm; bằng trí tuệ và viễn kiến trong giai đoạn liên kết phục hồi sự vẹn toàn cho đất nước; an sinh, phúc lợi và phẩm giá cho toàn dân, cho tha nhân, cho chính mình.

Trân trọng,

LƯU NGUYỄN ĐẠT, PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University

CHÚ THÍCH

[1] Nghị Quyết số 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm Công tác chính vận “kết dụ” cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

[2] “Bình Ngô đại cáo” (平吳大誥) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
[3] human rights violations
[4] equity justice
[5] penal repression, vengeance & retaliation justice
[6] excuse
[7] amnesty
[8] “Winning is nice if you don’t lose your integrity in the process.” Arnold Horsham
[9] “I can do no other than be reverent before everything that is called life. I can do no other than have compassion for all that is called life. That is the beginning and the foundation of all ethics.” — “Ethics is nothing else than reverence for life.” Albert Schweitzer [1952 Nobel Peace Prize]

Hits: 52

Việt Nam Trong Chiến Tranh Lạnh Mỹ – Trung

Nguyễn Bá Lộc

Chiến tranh lạnh hiện nay giữa Hoa kỳ và Trung cộng công khai bắt đầu từ “Chiến tranh mậu dịch” (Trade war) hồi tháng 7/2018. Rồi sự xung đột giữa hai bên lan rộng qua các lãnh vực khác và ảnh hưởng trên toàn cầu. Sự đối đầu càng ngày càng căng thẳng.

Vì ở trong vị trí và hoàn cảnh đặc biệt, Việt Nam bị ảnh hưởng và tác động mạnh bởi chiến tranh lạnh mới nầy.

I.TÓM LƯỢC CHIẾN TRANH LẠNH MỸ-TRUNG

1. Nguồn gốc Chiến tranh lạnh mới (New Cold War)

Định nghĩa Chiến tranh lạnh (Cold War)

Dựa theo tự điển và các nhà nghiên cứu, thì “Chiến tranh lạnh là cuộc chiến không bằng võ lực, giữa hai hay nhiều quốc gia,với mức độ rộng lớn và mục tiêu quan trọng, có ảnh hưởng nhiều đến thế giới”.

Chiến tranh lạnh cũ (Cold War I, CW1) (1945-1991) xảy ra sau đệ nhị thế chiến, giữa Hoa kỳ và Liên xô, nói rộng hơn là  giữa Khối Dân chủ Tự do và Khối Cộng sản.

Bản chất của CW1 là xung đột về chánh trị, nguyên tắc chủ nghĩa CS, đi kèm là kinh tế, và khoa học kỹ thuật.

Còn Chiến tranh lạnh hiện nay (New Cold War, CW2), xảy ra giữa Hoa kỳ và Trung cộng, căn bản là kinh tế, với yếu tố phụ là nguyên tắc của Dân chủ đối đầu với Chuyên chính.

Bối cảnh: Sự khác biệt và đối nghịch về hệ tư tưởng chánh trị và mô thức kinh tế. Tự do dân chủ và Chuyên chính vô sản đã được hình thành và lớn mạnh trước đệ nhị thế chiến. Sau khi liên kết chống và thanh toán được phát xit, hai khối quay lại chống nhau với mục tiêu phải triệt hạ, chớ không thể dung hòa. Hai phe cùng phát triển mạnh và đương đầu trên nhiều mặt trận khắp thế giới. Cuối cùng Liên sô sụp đổ (1991). Hoa kỳ coi như thắng. Nhưng không trọn vẹn, vì một mảng của khối CS, gồm Trung cộng, Việt nam, Cuba, Bắc hàn còn sống với một số biến dạng. Đó là mầm mống của chiến tranh lạnh mới Mỹ-Trung hiện nay.

Sự khác biệt giữa hai cuộc Chiến tranh lạnh.

Sự khác biệt trên 3 điểm về mục tiêu và sách lược:

Về chủ thuyết, Hoa kỳ vẫn dựa trên Dân chủ Tự do và Nhân quyền, nhưng Trung cộng có thay đổi phần nào khác Liên sô, Trung cộng nay là nước cộng sản biến thể, áp dụng theo phân nửa là kinh tế tự do, chánh quyền vẫn độc tài toàn trị.

Về mặt trận chiến đấu, nay phức tạp hơn chiến tranh lạnh cũ nhiều. Ngày nay TC sau khi mạnh về kinh tế, lợi dụng các nhà kinh doanh ngoại quốc của mọi quốc gia dưới sự hợp tác nào đó. TC còn thâm nhập vào một số cơ chế, công ty kỹ thuật cao của Hoa kỳ hay đồng minh, và một số cơ quan quốc tế.

Con đường tiến rất nhanh đó của TC gây sự thiệt hại lớn cho Hoa kỳ về kinh tế lẫn giá trị tinh thần.

Mối tương quan Mỹ-Trung trong 70 năm qua có thể tóm tắt: Chống đối, Thương lượng, Hòa hoãn, Hợp tác, Đương đầu và Hợp tác một số mặt. Với các mốc thời điểm :

1949 Chế độ CS thành lập ở Trung hoa. 1950 Mỹ TC đụng mạnh ở chiến tranh Triều tiên, 1972 Mỹ TC bắt tay. 1978 TC đổi mới kinh tế,1979 Mỹ TC thiết lập bang giao, 2000 Mỹ TC đạt Thỏa ước mậu dịch, 2008 TC là chủ nợ lớn nhứt của Hoa kỳ, 2010 TC là siêu cường kinh tế thứ nhì, 2011 Hoa kỳ chuyển trục qua Á châu, 2012 Hai bên có căng thẳng mậu dịch, 2015 Hoa kỳ cảnh cáo TC về Biển đông, 2018 Chiến tranh mậu dịch Mỹ Trung, 2018 PTT Pence: Mỹ cứng rắn với TC, Mỹ tăng cường độ chiến tranh mậu dịch, 2019, Mỹ cho TC lũng đoạn tiền tệ, 2019 TT Trump ban hành luật ủng hộ phe chống đối Hồng kông, 2020 Mỹ TC thỏa ước mậu dịch “Phase I”, 2020 căng thẳng về đại dịch, Ngoại trưởng Pompeo tuyên bố các cam kết với TC đều thất bại, 2021 Mỹ cho TC diệt chủng ở Tân cương, 2021 TT Biden giữ thuế quan do TT Trump đưa ra, 2021 Biden – Tập cận Bình họp cố tránh xung đột. Hai phái đoàn Mỹ TC lại họp thảo luận tìm một thỏa ước.Vấn đề còn yên đó tới nay.

2.Diễn biến chiến tranh lạnh mới (CW2)

Sau khi nghịch với Liên sô, TC làm thay đổi mạnh mẽ, lại quay bắt tay với Hoa kỳ (1972).

TC tìm con đường đi mới, về chánh trị và kinh tế. Sách lược mới là kinh tế trước đã, theo chủ trương của Đặng tiểu Bình khởi đầu từ 1978, với mô hình phối hợp hai nền kinh tế tự do và XHCN. TC mở rộng cửa ra thế giới, lúc đó phong trào toàn cầu hóa do Mỹ lãnh đạo lên rất cao. Trong hơn 40 năm, TC trở thành siêu cường kinh tế thứ hai thế giới. Lợi tức đầu người từ $155,2 (1978) lên $6991,9 (2015). Thế giới kinh ngạc, để tâm đến sự thành công của“con đường Trung quốc mới”

Mặt khác, trong quảng thời gian đó, Mỹ ỷ y, không hiểu thâm mưu của TC, lại vướn vào chiến tranh Trung đông,và khủng bố quốc tế, Mỹ gần như buông lỏng TC.

Vài con số kinh tế Hoa kỳ và TC năm 2019. (Nguồn World Bank)

GDP             Xuất cảng        GDP/đầu người

Mỹ      $21374 tỷ     $1646 tỷ           $65,165

TC      $14,343 “      $2479 “            $10,260

Cuộc chiến chánh thức vào tháng 7/2018, một khởi đầu dù trễ còn hơn không, TT Trump ra chiêu tăng thuế quan từ 10% lên 25% hàng TC nhập vào Hoa kỳ. Trận mở màn nầy có tên là “Chiến tranh mậu dich”(Trade war) (7/2018). Tiếp theo đó, các mặt trận khác. Tương quan Mỹ Trung càng căng thẳng, và lan rộng ra ảnh hưởng cả thế giới. Một “chiến tranh lạnh mới” bắt đầu, nay chưa có dấu hiệu chấm dứt hay đình chiến.

Mục tiêu của Hoa kỳ và Trung quốc.

TC có 3 mục tiêu:

Muốn đoạt ngôi vị thứ nhứt trên toàn cầu, hoặc ít nhứt bằng Mỹ tới năm 2049, thứ hai là chứng tỏ “mô hình chánh trị kinh tế mới” (XHCN trong thời đài mới)tốt hơn, thực tế hơn, thứ ba là trả mối hận thù xưa TQ bị các nước tư bản xâu xé.

Còn mục tiêu của Mỹ là chống đỡ TC, để bảo vệ địa vị số một trên thế giới, thứ hai là bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, thứ ba là bảo vệ giá trị Dân chủ Tự do và Nhân quyền.

Nếu TC lên số một lãnh đạo thế giới thì sẽ có một trật tự mới, sẽ có tai họa lớn cho mọi quốc gia.

Do đó TC và Mỹ đã có những cuộc chạy đua và cạnh tranh:

Về kinh tế, đến 2016 TC hơn về xuất khẩu. Dù GDP TC thua.

Về khoa học kỹ thuật, dù còn thua Mỹ, TC tiến nhanh nhờ qua cách ăn cắp, buộc công ty FDI nộp bản kỹ thuật, và nỗ lực của chính TC:

– Về chiêu dụ các nước, tung tiền viện trợ, hợp tác đầu tư.

– Về quân sự,TC tăng nhịp độ nhanh, nhưng còn kém Mỹ.

– Về chánh trị và tuyên truyền, TC vận động mạnh mẽ các nước.

TC cho rằng mô hình “XHCN thời đại mới” tốt hơn. Tư bản đang lỗi thời và còn nhiều tệ hại. Mỹ và đồng minh thức tỉnh, thấy được khó khăn và mối nguy hiểm từ TC. Đa số dân chúng, và truyền thông Mỹ và nhiều nước Tây phương cũng hiểu TC nay là đối thủ chớ không phải là đối tác nữa.

Cái mối nguy trước mắt cho Mỹ là mậu dịch và đầu tư, nhập siêu hàng TC vào Mỹ tăng nhanh quá (trên dưới $500 tỷ/năm trong mấy năm gần đây), Mỹ yêu cầu TC giảm nhập siêu $100 tỷ/năm. Còn FDI Mỹ vào TC quá nhiều làm trong nước Mỹ bị thất nghiệp cao, kỹ nghệ trong nước xuống, vì không cạnh tranh nổi hàng TC giá quá rẽ. Mỹ đưa ra kế hoạch chiêu dụ các công ty hồi hương. Mặt khác xuất cảng giảm vì bị TC cạnh tranh hàng hóa trên thế giới, và nắm độc quyền nhiều chuổi cung ứng. TC nhập nội đầu tư cạnh tranh ngay tại Mỹ.

Về Khoa học & Kỹ thuật, Mỹ bị TC đánh cắp và xâm nhập vào các trung tâm nghiên cứu chiến lược, cũng như một số nhà nghiên cứu Mỹ cộng tác hay bán kết quả cho TC. Hoa kỳ phản công bằng cách bắt các nhà nghiên cứu bán tài liệu cho TC, cấm công ty quốc phòng Mỹ mua bộ phận điện tử TC, cấm một số công ty TC mua bán với Mỹ, vì an ninh quốc gia.

Về Bang giao quốc tế và an ninh, TC từ nhiều năm qua chiêu dụ kết hợp đối tác và đồng minh khắp năm châu bằng tiền bạc, viện trợ lớn, như đại kế hoạch Belt & Road. Mỹ và đồng minh đã nhận ra và phản công bằng sự củng cố khối Dân chủ (TT Biden có buổi họp hồi tháng 10/2021 với 100 quốc  gia), Mỹ và Âu châu lập Liên minh chận TC ở Á châu Thái bình dương, với Bộ tứ Mỹ, Nhựt, Ấn, Úc, và Bộ ba Mỹ, Anh, Úc, Mỹ tiếp cận o bế ASEAN, hứa sẽ viện trợ cho các nước vùng Á châu Thái bình dương, cam kết sát cánh với Nhựt, Nam hàn và Đài loan, đồng thời đoàn kết hơn nữa với Âu châu để chống TC. Diễn tiến đó theo các nhà nghiên cứu, là “chiến tranh lạnh mới”

II. TÁC ĐỘNG CHIẾN TRANH LẠNH MỸ TRUNG ẢNH HƯỞNG VIỆT NAM   

Chiến tranh lạnh Mỹ Trung hiên nay đưa đến nhiều hậu quả trên thế giới mà VN là một trong số các quốc gia bị tác động và chịu ảnh hưởng nhiều nhứt. Ở trong hoàn cảnh và vị thế có tầm quan trọng khá đặc biệt,VN có thể lại trở thành một nạn nhân, hay có thay đổi lớn nếu sự xung đột mạnh nữa.

Là một cuộc chiến có nguồn gốc là kinh tế, nên phần trình bày tóm lược dưới đây chánh yếu là về phương diện kinh tế.

1. Các lãnh vực bị tác động và ảnh hưởng

Chánh tri kinh tế xã hội VN không bình thường. Nay có tác động mạnh từ bên ngoài, tình hình khó khăn nhiều hơn nữa. Các lãnh vực chánh bị tác động và ảnh hưởng:

Về kinh tế, VN sống chánh yếu là dựa vào kinh tế đối ngoại, xuất cảng và đầu tư ngoại quốc. VN mở cửa rất rộng trong hội nhập toàn cầu, đã có 17 Hiệp ước mậu dịch và rất nhiều đối tác. Mỹ và TC là hai nước có tương quan kinh tế lớn nhứt với VN, nhứt là ngoại thương, VN còn là một trong những nơi thuận tiện cho các công ty ngoại quốc từ TC di dời, và VN có tiềm năng thay thế TC về một số chuổi cung ứng (supply chain) cho thế giới. Nhưng kinh tế VN dù có mức phát triển cao, nhưng vì không có công bằng kinh tế, công bằng xã hội, nền kinh tế đó dễ bể nát khi có biến cố.

Về Địa chánh trị, cuộc chiến Mỹ Trung xẩy ra trên toàn cầu, vì ảnh hưởng của hai siêu cường nầy rộng lớn trên cả thế giới. Nhưng chiến trường chánh yếu là Á châu Thái bình dương, vùng có tiềm năng dầu lửa lớn và hải lộ quốc tế quan trọng. Các nước Đông nam Á có sức phát triển mạnh và bền vững. VN là quốc gia có vị thế trọng yếu, là trung tâm vùng, là cửa ngỏ của TC ra Biển đông. Đối với Hoa kỳ và đồng minh cũng xem vùng nầy rất quan trọng. Mỹ và TC là hai nước có tương quan kinh tế lớn nhứt với VN, vì vậy có ảnh hưởng lớn với VN chẳng những về kinh tế mà còn về an ninh trong vùng.

Về chánh trị và bang giao quốc tế. VN vẫn còn là một nước XHCN, một nước độc tài chuyên chính. Bất công xã hội, tham nhũng, vi phạm trầm trọng ‎nhân quyền Dân quyền, là những vấn nạn có thể bị Mỹ và đồng minh cưỡng ép khi có xung đột mạnh với TC, nhứt là khi VN không giữ “vị thế đứng giữa” trong chánh sách “đu dây “. VN có thể bị kẹt cả hai bên.

“Thế tam giác” Mỹ-TC-VN chỉ tạm thời không vững chắc.

Với Mỹ, VN có lợi kinh tế nhiều,VN xuất siêu 40 tỷ/năm.  Nhưng với TC, VN bị quá nhiều cái kẹt, bị cưỡng bách từ chánh trị, lãnh thổ, lãnh hải tới ngoại thương và tiền đồn cho TC. Riêng ngoại thương, VN nhập siêu trung bình năm năm qua tới $35 tỷ mỹ kim/năm.

Ví dụ  Năm 2019, tình trạng xuất siêu của VN (triệu mỹ kim)

VN-Hoa kỳ          VN-TC              VN-Thế giới

Xuất siêu           Xuất siêu               Xuất siêu

$46,898,77        -$34,009,56          $10,371,37

(Nguồn: IMF, Trade statistic)

 

Về kinh tế đối ngoại, một thử thách lớn nữa mà VN cần phải sửa đổi cho đúng qui định của các Hiệp định mậu dịch quốc tế mà VN đã cam kết. Đó là VN không phải là nền kinh tế thị trường thực sự, khu quốc doanh lớn và có nhiều ưu tiên, tham nhũng, hạ tầng cơ sở kém, bộ máy chánh quyền không hiệu năng, không lương thiện… Hoa kỳ và Tây phương có thể bắt ép khi cần.

b/.Tác động và ảnh hưởng về bang giao quốc tế. Trên nguyên tắc VN bang giao với mọi nước, không có liên minh với nước nầy để chống nước khác. VN không chọn bên, tại Liên hiệp quốc VN có bề ngoài trung lập. Nhưng trên thực tế ai cũng biết VN là nước CS còn lại, chịu sự trói buộc của TC. VN thân thiện với Hoa kỳ và các nước Tự do dân chủ khác chỉ vì tiền, vì khoa học kỹ thuật, vì thế kẹt ở Đông nam Á. Cái thế đó rất dễ tác động của chiến tranh lạnh mới.

c/. Tác động và ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng

Dù Mỹ và TC có bước qua chiến tranh nóng, trong khoảng 10 năm nay, TC đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên biển đông cũng như cá cuộc tập trận của hai bên, tạo một không khí căng thẳng hơn bao giờ hết. VN nằm ở trung tâm. Cả Mỹ và TC đều muốn kéo VN vào. Và hệ lụy sẽ không nhỏ nếu VN nghiên nhiều về một bên.

d/Tác động và ảnh hưởng về tâm l‎ý quần chúng.

Khó khăn và thử thách từ phía quần chúng. Khi VN được quốc tế hóa còn hơn là âm thầm CS kéo dài biết bao giờ. Kinh nghiệm sự giải thể tại nhiều nước có khi ở trong tình cảnh như thế.  Những mở rộng trong bang giao quốc tế, đưa tới nhiều cơ hội cho người dân hiểu rõ hơn về chuyên chính vô sản, về tự do và nhân quyền. Chiến tranh lạnh mới tác động đến dân có hiểu biết cho công cuộc tranh đấu chung.

2. VN ứng phó với chiến tranh lạnh Mỹ Trung

Trong chiến tranh lạnh lần nầy, cũng như lần trước, chỉ bị tác động, tức là chánh yếu là nhận chịu kết quả của hai siêu cường. Tuy nhiên VN phải có những cách ứng phó, thì có thể làm cho VN ít thiệt hại hơn và nhiều thuận lợi hơn trong tương lai trước mắt cũng như lâu dài. Ở hoàn cảnh của VN việc ứng phó quốc tế phải từ dân và từ chánh quyền. Có thể có những ứng phó trong thời gian trước mắt hay trong tương lai xa. Có thể ba thành phần cần ứng phó: Chánh quyền VN, quần chúng trong nước, và Hải ngoại, gồm người Việt hải ngoại và quốc tế.

Về phía chánh quyền VN

Chánh quyền VN có nhiều thử thách vì là chánh thể độc tài, lệ thuộc TC. Cho nên sự ứng phó của chính quyền có nhiều thử thách, nếu “bắt cá hai tay”, và quen thói dối trá, thì VN sẽ gặp nhiều khó khăn trong tương lai. Có ba điều chánh quyền phải đối phó và phải chuyển biến.

Thứ nhứt là “chánh sách đu dây”, VN phải chứng tỏ trên thực tế theo đuổi chánh sách “không chọn bên mà chọn công bằng” ‎”nếu bị TC ép mạnh, Mỹ cũng sẽ có áp lực VN về quan thuế, về tiền tệ, và đầu tư năng lượng Mỹ hứa (khoảng 10 tỷ), về nhân quyền. Trong trường hợp Mỹ cấm vận kinh tế TC, VN sẽ bị ảnh hưởng gián tiếp.

Thứ hai là một số yêu cầu của kinh tế đối ngoại. Kinh tế VN dựa vào Mỹ và đồng minh Mỹ lớn hơn nhiều dựa vào TC và Nga. VN phải cải thiện những điều đã cam kết trong các Hiệp định quốc tế về Công đoàn độc lập, về giảm quốc doanh, về sự minh bạch, và tuân thủ nghiêm chỉnh luật quốc tế.

Thứ ba là có sự công bằng kinh tế xã hội và lương thiện, tham nhũng trong kinh tế quốc nội VN để có tin tưởng ở dân và uy tín với quốc tế.

Về phía quần chúng trong nước   

Khi chánh quyền bị áp lực mạnh hơn từ chiến tranh lạnh thì chánh quyền CSVN sẽ gia tăng cưởng bức, đàn áp. Nhưng người dân nói chung các Hội đoàn dân sự nói riêng nên thấy đây là cơ hội mới. Một cuộc chơi mới theo luật quốc tế có qui định. Những mục tiêu tranh đấu ngay từ bây giờ cần đẩy mạnh như công đoàn độc lập, dân quyền công bằng kinh tế, sở hữu đất, bảo vệ tài nguyên quốc gia, bảo vệ lãnh hải…

Về phía bên ngoài VN

Đó là cộng đồng người Việt hải ngoại, và các Tổ chức hay cơ quan quốc tế. Nói chung cộng đồng quốc tế đang điều chỉnh lại, khôi phục lại con đường chung, công việc chung là bảo vệ Dân chủ Tự do và Nhân quyền. Vai trò của cộng đồng hải ngoại là làm gạch nối giữa cộng đồng thế giới với khối dân chúng trong nước . Về công việc nầy, tôi nghĩ tới viễn kiến của GS Nguyễn Ngọc Huy trong sách lược tranh đấu là thành lập “Ủy ban quốc tế yểm trợ VN tự do” cách dây hơn ba thập niên.

Dù cuộc chiến chuyển biến như thế nào, chưa biết được, nhưng vì quyền lợi kinh tế ràng buộc có khả năng đi tới một giải pháp thương lượng. Nhưng trong biến động lớn Mỹ Trung lại thêm việc Nga xâm lăng Ukraina mà TC ủng hộ Nga, làm xung đột gia tăng, thương thảo khó hơn, hậu quả là cộng đồng thế giới bị nhiều mất mát, ít hay nhiều, về vật chất lẫn tinh thần. Riêng VN, người Việt cần chuẩn bị cho thời cơ nầy, trong cái rũi có thể có cái may cho Dân tộc.

Nguyễn Bá Lộc

Cali, 31/07/2022 (Nhân ngày giỗ GS Nguyễn Ngọc Huy)

locba9999@yahoo.com

Hits: 126

Từ Ukraine đến Đông Á : “Gió Đông thổi bạt Gió Tây” ?

Cao Tuấn

Thế giới ngày mai sẽ được định hình chủ yếu bởi chính sách của các đại cường hôm nay. Các nước khác thường bị cuốn theo. Các nước nhỏ, yếu, thiếu khôn ngoan có thể chịu hậu quả tai hại. Việt Nam là một bài học lịch sử. Trường hợp Ukraine hiện thời nên là một dấu hỏi.

Ba nước “nặng ký” nhất trong chính trị quốc tế hiện tại là Nga – đại cường, Mỹ – siêu cường, Tầu – cũng siêu cường. Thế chân vạc. Cả ba nước luôn trong tình trạng cạnh tranh và canh chừng nhau. Bề trong thường không giống bề ngoài. 

Địa chính trị, không phải Ý thức hệ, là lý do chính của sự cạnh tranh .

Mâu thuẫn Cộng Sản-Tư Bản không thực sự là vấn đề vì kinh tế của cả 3 nước Mỹ, Nga, Tầu đều đang vận hành theo các nguyên tắc của chủ nghĩa Tư Bản và đều hội nhập vào kinh tế thế giới, khác hẳn thời kỳ chiến tranh lạnh. Mặc dù Tầu trên danh nghĩa vẫn giữ cái vỏ Cộng Sản.

Mâu thuẫn Dân Chủ-Độc Tài, nếu có, cũng chỉ là thứ yếu vì Dân Chủ kiểu Mỹ đang trong khủng hoảng về thực chất, với gần một nửa dân số mất lòng tin – một cách hữu lý hay không – vào nền dân chủ của chính họ trong khi độc tài kiểu Nga hay độc tài kiểu Tầu đã kém hẳn phần “toàn trị” so với độc tài của Stalin, độc tài của Mao trước kia. Bức màn tre hay bức màn sắt đã thuộc về quá khứ nhất là với cuộc cách mạng truyền thông đại chúng hiện nay.

Mặt khác, Mỹ vẫn có đồng minh độc tài, vi phạm nhân quyền liên tục như Saudi Arabia trong khi Tầu, Nga hiện thời không tỏ dấu hiệu muốn xuất cảng “mô thức cách mạng phi dân chủ” của họ sang các nước khác. Mà có muốn “xuất cảng” cũng không ai muốn “mua” các sản phẩm tư tưởng không còn gì hấp dẫn, đại loại “nửa trăng, nửa đèn”, như “kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa”, “mèo trắng mèo đen không thành vấn đề miễn mèo bắt chuột” hay “độc tài sáng suốt” (!), v.v.

Lý do chính hay nguyên nhân chính của tranh chấp Nga-Mỹ-Tầu là địa chính trị (geopolitics), là quyền lực, quyền lợi quốc gia lồng trong quyền lực, quyền lợi của lãnh tụ. Không khác với những trường hợp va chạm, đụng độ giữa các cường quốc trong Thế chiến 1, Thế chiến 2. Không khác các cuộc chiến tranh trước nữa như chiến tranh giữa Pháp và các nước Âu Châu thời Napoleon (1803-15), chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha (1898) chiến tranh Nga-Nhật (1904- 05) hay hàng chục cuộc chiến tranh khác giữa các cường quốc đã được ghi nhận trong lịch sử. Nên nói thêm, trong các cuộc chiến tranh hùng hay tranh bá đó, phần thắng thuộc về những nước có nền kinh tế vững chắc, có lãnh đạo chính trị hữu hiệu và có sách lược chiến tranh khôn khéo.

Nga sa lầy nhưng Mỹ khó… rút chân

Chiến tranh Nga-Ukraine đã bước qua tuần lễ thứ 4, với triển vọng mở rộng thành cuộc xung đột Nga-NATO, cốt lõi là xung đột Nga-Mỹ – 2 quốc gia đang sở hữu 80% hay 90% vũ khí hạch tâm của toàn thế giới. Nếu xung đột leo thang từ chiến tranh quy ước đến chiến tranh nguyên tử bấm nút thì số vũ khí hạch tâm này không những đủ để tiêu diệt cả Nga lẫn Mỹ mà còn đủ để tiêu diệt luôn cả nhân loại. 

Chắc chắn không có chính quyền nào muốn điều này nhưng một khi đã bị cuốn vào “vòng xoáy tác động-phản ứng-tác động-phản ứng” thì không ai có thể bảo đảm nó sẽ không xẩy ra, dù người đó là Joe Biden của Mỹ hay Vladimir Putin của Nga.

Tuy nhiên, hãy giả sử xung đột Nga-Ukraine, Nga-NATO, hay Nga-Mỹ, tiếp tục leo thang dưới mọi hình thức ngoại trừ chiến tranh nguyên tử. 

Một cuộc chiến như thế có thể kéo dài vài tháng hay vài năm mà không có thắng bại rõ rệt vì không bên nào dám dồn đối thủ vào đường cùng tuyệt vọng khiến đối thủ phải dùng đến vũ khí hạch tâm để địch, ta cùng chết, thay vì chịu chết một mình.

Hậu quả : Nga sa lầy trên chiến trường Âu Châu nhưng Mỹ cũng sa lầy luôn bất kể quân đội Nga và quân đội Mỹ có trực tiếp giao chiến hay không.

Nga yếu đi. Mỹ cũng yếu đi. 

Chiến tranh càng kéo dài, càng bất lợi cho cả hai.

Nga càng bị phong tỏa, cấm vận, càng bị sa lầy, càng phải xin Tầu giúp đỡ, càng phải lệ thuộc Tầu và tất nhiên bị Tầu bắt chẹt, lợi dụng, sử dụng cho mục đích của Tầu, kể cả tìm cách tiếp cận kho vũ khí hạt nhân của Nga một cách có lợi cho Tầu. Đại Nga sẽ bị Đại Hán nuốt dần. Như con gấu ốm đói làm mồi cho con trăn anaconda khổng lồ 10 lần lớn hơn.

Mỹ càng bị trói tay, trói chân ở chiến trường Âu Châu càng bị Tầu “cướp thời cơ” trên toàn cầu và đặc biệt ở miền Đông Á.

Một chống hai hay hai chống một ?

Đã đến lúc các chính trị gia và chiến lược gia của nước Mỹ phải nhìn xa hơn là cuộc chiến đang tiếp diễn ở Ukraine và không quên những điểm căn bản. 

Nếu Nga là một đe dọa đối với Mỹ thì Tầu là một đe dọa lớn hơn và nghiêm trọng hơn rất nhiều.

Nga tranh một chỗ đứng ở Âu Châu, đối lập với Mỹ, nhưng Nga không thể có tham vọng trục xuất Mỹ khỏi lục địa này. Nga cũng không thể tranh địa vị đệ nhất siêu cường của Mỹ trên toàn thế giới. Không phải vì Nga không muốn mà vì “lực bất tòng tâm”. Quy mô kinh tế của Nga như đã nói chỉ bằng 10% của Tầu và chừng 7% của Mỹ ! Muốn vượt Mỹ, Nga cần thêm 50 năm hay 100 trăm năm, hoặc ngày ấy không bao giờ tới vì Nga, dù có kho vũ khí hạt nhân ngang với Mỹ, là cường quốc đang đi xuống.

Ngược lại, Tầu là cường quốc đang đi lên. Tầu có tham vọng, có quyết tâm, có khả năng, có kế hoạch, có sách lược. Tất cả nhằm trục xuất Mỹ ra khỏi vùng Đông Á là bước thứ nhất, tiến lên thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường trên toàn thế giới là bước thứ hai. Hai bước có thể rất gần nhau. Vì nếu Mỹ bị bắt buộc triệt thoái sự hiện diện quân sự khỏi vùng Đông Á, bỏ mặc Đài Loan, Nhật, Nam Hàn, các nước Đông Nam Á cho số phận thì thế lực còn lại của Mỹ cũng suy sụp nhanh chóng trên toàn cầu do “hiệu ứng Domino”. “Gió Đông” sẽ  thổi bạt “gió Tây” – thực hiện lời tiên đoán ngạo mạn của lãnh tụ đảng cộng sản Tầu Mao Trạch Đông. Nên ngờ vực rằng nước Tầu của Tập Cận Bình đang chuẩn bị nước rút để tới đích trong vòng một thập niên hay sớm hơn.

Nếu Mỹ cảm thấy còn đủ mạnh, thì cứ nên gom cả hai đối thủ Nga, Tầu mà thanh toán một lần cho tiện. Hoặc “đánh gục” Nga ở Âu Châu trước rồi quay sang Á Châu “hạ thủ” Tầu. Không cần phân biệt đối thủ chính, đối thủ phụ. 

Nếu Mỹ tự biết không còn đủ mạnh thì nên tìm cách phân chia Nga-Tầu, làm mọi cách để Nga, Tầu không hợp sức hay không thể hợp sức chống Mỹ. Nga đứng trung lập, đối với Mỹ, vẫn tốt hơn Nga ngả về phía Tầu hay trở thành đàn em của Tầu.

Còn tốt hơn gấp bội nữa, nếu Mỹ với Nga đổi thù thành bạn, rồi từ bạn thành đồng minh để cùng làm “gió Tây thổi ngược lại gió Đông” nghĩa là cùng chặn không cho Tầu vươn lên nữa. 

Một thế thăng bằng chiến lược đồng nghĩa với hòa bình

Lẽ dĩ nhiên muốn thành công, Mỹ, ở thế mạnh hơn, phải tỏ thiện chí với Nga, phải đi bước trước. Mỹ và NATO tất nhiên phải nhượng bộ một số đòi hỏi của Nga. Nhượng bộ đến mức có thể nhượng bộ được. Chẳng hạn không mở rộng NATO thêm nữa, nhưng cũng sẽ không làm NATO yếu đi, vẫn duy trì được an ninh, thịnh vượng của toàn Âu Châu. Cùng Nga chung sống ổn định, hòa bình bất kể khác biệt thể chế…

Một khi đã cảm thấy được Mỹ, NATO, EU “chấp nhận” vào đại gia đình Âu Châu thì Nga sẽ nhận chân rằng Mỹ làm đệ nhất siêu cường thế giới nếu không tốt hơn thì cũng đỡ xấu hơn, đỡ nguy hiểm hơn là Tầu thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường. Không cần thuyết phục, Putin phải biết từ lâu : Nga cách Mỹ đại dương mênh mông, ân oán cũ đều có thể bỏ qua, nhưng Tầu sát bên, chung biên giới rất dài. Cả 2 dân tộc Nga, Tầu đều có… máu bành trướng mà Tầu thì đang lúc hùng mạnh. Nợ nần, ân oán địa lý, lịch sử sẽ phải giải quyết… Nga không những sẽ phải trả lại mấy triệu cây số vuông lãnh thổ đã cưỡng đoạt của Tầu trong các thế kỷ trước, phải từ bỏ các địa điểm chiến lược, các bán đảo và hải đảo trên Thái Bình Dương mà có thể còn mất thêm cả vùng Tây Bá Lợi Á mênh mông, rất nhiều tài nguyên nhưng chính Nga không đủ nhân lực bảo vệ.

Nếu Nga ngả về Mỹ, Tầu lập tức phải lo mặt Bắc. 

Lo vũ khí hạch tâm của Nga bao trùm cả nước Tầu mà không cần đến hỏa tiễn liên lục địa. Hỏa tiễn tầm trung của Nga đủ để uy hiếp Trường Xuân, Thẩm Dương, Đại Liên, Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Thành Đô, Trùng Khánh…

Lo hàng triệu quân Nga hờm sẵn biên giới. 

Tầu sẽ phải đổi thế trận. 

Phải phân chia lực lượng đối phó. 

Phía Bắc đối phó với sức mạnh của Nga, phía Đông đối phó sức mạnh của Mỹ – một sức mạnh được tăng cường sau khi Mỹ và NATO không còn phải vướng vào cuộc chiến tiêu hao với Nga ở Âu Châu. 

Đông Á có thể kịp thời chuyển NGUY thành AN. Đài Loan, Biển Đông có thể được bảo vệ tốt hơn. 

Một thế thăng bằng chiến lược mới rất có lợi cho Mỹ và đặt nước Tầu của Tập Cận Bình vào thế phải chịu bó tay.

Nước Tầu của Tập Cận Bình phải chịu bó tay cũng đồng nghĩa với hòa bình, ổn định ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á và trên toàn thế giới !

Cao Tuấn

(19/03/2022)

Hits: 453

Cuộc tranh hùng giữa các đại cường và các vấn đề chiến lược

Cao Tuấn

Thế giới có ít nhất 3 điểm nóng có thể bùng lên thành bão lửa : Ukraine, Bắc Hàn và Đài Loan. Lửa đã bắt đầu cháy ở Ukraine, hai chỗ kia âm ỉ nhưng có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Cả 3 nơi này đều liên quan đến sự tranh chấp quyền lực và quyền lợi của một vài cường quốc. Thế giới sẽ đi về đâu ?

thegioi1

Thế giới có ít nhất 3 điểm nóng có thể bùng lên thành bão lửa : Ukraine, Bắc Hàn và Đài Loan.

Tranh bá hay tranh hùng? Tay đôi hay tay ba?

Thế giới hiện có trên dưới 10 đại cường gồm cả 2 Siêu Cường (tiếng Anh gọi là Superpowers) vượt xa các nước khác về sức mạnh kinh tế, quân sự, ảnh hưởng chính trị. Mỹ số 1, Tầu số 2. Số 1 là số 1 nhưng không có nghĩa là làm bá chủ thế giới. Khi Donald Trump của nước Mỹ phải đi vạn dậm để cầu hòa với Kim Jong-un của Bắc Hàn thì Mỹ rõ ràng không phải là bá chủ – có quyền lực ra lệnh bắt thiên hạ phải phục tùng.

Mà không phải riêng Bắc Hàn có hỏa tiễn gắn đầu đạn hạt nhân nên dám thách thức Mỹ, ít nhất trên dưới 10 quốc gia trên thế giới ngày nay cũng có khả năng gây chiến tranh nguyên tử như Bắc Hàn, nếu muốn. Mưu đồ bá chủ thế giới trong điều kiện hiện tại gần như là chuyện là bất khả.

Cuộc tranh chấp, tranh đua Mỹ – Tầu, vì thế, không phải là “tranh bá”, mà là “tranh hùng” – tranh nhau làm đệ nhất siêu cường.

Tầu muốn thay Mỹ làm đệ nhất siêu cường và Mỹ tất nhiên muốn giữ nguyên trạng, tìm cách chống lại.

Mỹ và Tầu có thể hoán đổi vị trí số 1 và số 2 trong khoảng một thập niên và nếu việc này xẩy ra thì chủ yếu do Mỹ mệt mỏi vì chuyện nội bộ nên mất khả năng và ý chí trong khi Tầu đã chuẩn bị từ lâu một cách rất có kế hoạch, bài bản cho cái cơ hội “ngàn năm một thuở” – Làm số 1 đối với 1.400 triệu người Tầu nói chung và Tập Cận Bình nói riêng đồng nghĩa với “rất nhiều quyền lợi” và “tột đỉnh vinh quang”. Đã gần tới đích, lẽ nào chịu bỏ cuộc ?

Nga có kho vũ khí hạt nhân ngang ngửa Mỹ, có diện tích lớn nhất thế giới nhưng Nga không được coi là siêu cường số 3 dù Nga rất muốn như vậy. Lý do chính : kinh tế Nga yếu, mức phát triển thấp. Tính đến 2020 theo Wikipedia, Nga có dân số 144 triệu, tổng sản lượng GDP 1.483 tỉ đô la so với Tầu có dân số 1.402 triệu, GDP 14.720 tỉ đô la. Nga đại khái chỉ còn bằng 1/10 Tầu theo 2 thước đo quan trọng này.

Tình thế đã hoàn toàn đảo ngược nếu so sánh với hơn 70 năm trước – cuối năm 1949, khi Mao Trạch Đông, vốn rất kiêu ngạo, đã phải nhẫn nhục chầu chực ở Moscova suốt 2 tháng để xin Stalin viện trợ xây dựng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mới thành lập. Muốn thị uy với với Mao là một lý do nhưng lý do chính có lẽ là Stalin đã nghĩ đến một ngày Tầu trở nên quá mạnh. Cái ngày ấy thực sự đã đến.

Nga, bây giờ, chỉ có thể ngồi cùng chiếu đại cường với Anh, Pháp, Nhật, Đức, Ấn Độ đặc biệt hơn một chút là cùng chứ không thể đòi “qui chế siêu cường” ngang với Tầu và Mỹ.

Dĩ nhiên nước Nga của Putin bất mãn vì cảm thấy bị coi thường, lại càng bực bội vì thêm nỗi luyến tiếc hào quang siêu cường đế quốc sô viết cũ.

Nước Nga của Putin cũng phải lo ngại cả tình hình cả 2 đầu Đông, Tây. Putin không thể tiếp tục làm Tổng thống nếu không giải quyết được vấn đề an ninh chiến lược cho nước Nga.

Phía Đông, nước Tầu càng ngày càng mạnh thêm, Nga không còn mong gì phát triển theo hướng đó. Giữ được nguyên trạng là may nhưng nhiều phần là sẽ không giữ nổi. Hòa hoãn, thân hữu Nga – Tầu chỉ là tạm thời và bề ngoài. Vì cần tập trung đối đầu, tranh đua nước rút với Mỹ, Tầu làm ngơ chưa “hỏi tội” Nga nhưng một ngày nào đó, có thể rất gần, sẽ tính sổ nợ, những món nợ lịch sử, địa lý – cả vốn lẫn lời – với Nga.

Tầu đã thâu hồi được tất cả các nhượng địa, tô giới, lãnh thổ mất vào tay ngoại nhân ngoại trừ những phần đất mất vào tay đế quốc Nga hay đế quốc Sô Viết trong các thế kỷ trước .

Hải cảng Vladivostok quan trọng nhất của Nga trên Thái Bình Dương trước kia là hải cảng Hải Sâm Uy của Tầu.

Một triệu rưỡi cây số vuông đất Ngoại Mông (rộng gần bằng 3 lần nước Pháp) Nga đã “cướp đoạt” của Tầu để làm thành nước Cộng Hòa Mông Cổ (the Republic of Mongolia), một quốc gia vệ tinh của Nga, một căn cứ lớn của Nga án ngữ cả mặt Bắc nước Tầu.

Biên giới lịch sử sóng gió dài mấy ngàn cây số giữa hai dân tộc Nga – Tầu nhất thiết sẽ phải vẽ lại…

Nước Tầu lúc nhúc người lại cũng… “cần” tài nguyên quặng mỏ, khí đốt, các nguồn nước của vùng Tây Bá Lợi Á. Nếu Tầu có dòm ngó hay thèm thuồng phần đất này của Nga thì cũng chẳng khác Nga đã từng dòm ngó, thèm thuồng (và tranh nhau với Nhật trước đây) vùng đất Mãn Châu của Tầu. Chỉ là lịch sử lập lại theo chiều hướng khác do tương quan sức mạnh thay đổi giữa các dân tộc sống cạnh nhau. Dân tộc nào mà không muốn “không gian sinh tồn” tốt cho mình nhất ?

Trong khi “mặt Đông” vẫn còn yên tĩnh” thì “mặt Tây” không được như vậy. Liên Xô sụp đổ kéo theo sự sụp đổ của tổ chức liên minh quân sự WARSAW. Các nước Đông Âu lần lượt thoát cũi, sổ lồng. Xung đột ý thức hệ Cộng Sản-Tư Bản đã chấm dứt ở Âu Châu nhưng liên minh quân sự NATO, lập ra cốt để chống Liên Xô, đối lực của WARSAW, đã không giải tán. Ngược lại còn tiếp tục mở rộng cửa thâu nhận các nước vốn là thành viên cũ của khối Cộng Sản Đông Âu thêm cả các nước mới ly khai khỏi Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết như trường hợp 3 nước Estonia, Latvia, Lithuania, nâng tổng số từ mười mấy thành viên lên tới 30 quốc gia – mặc cho Nga ngăn cản.

Nga không thể không cảm thấy bị chèn ép, bị ngăn chặn, bị cô lập hóa, bị bao vây bởi các lực lượng và căn cứ quân sự của NATO áp sát biên giới. Hiển nhiên vì các lý do địa-chính-trị (geo-politics), những ám ảnh lịch sử về các cuộc chiến tranh tranh giành lãnh thổ, quyền lợi, ảnh hưởng, những xung đột vì chủng tộc, tôn giáo hay ý thức hệ ở lục địa này trong mấy thế kỷ vừa qua, kể cả 2 cuộc thế chiến , các nước Âu Châu, nhất là các nước lớn, vẫn xem nước Nga là một đe doạ, một đối thủ tiềm năng, cần bị kiềm chế và làm cho yếu hơn nữa.

Điều này cũng dễ hiểu vì dù cho GDP của Nga còn kém Đức, kém Anh, kém Pháp, kém cả Ý, dù cho dân số 144 triệu của Nga ngày nay chưa bằng nửa dân số Liên Xô cũ, Nga vẫn là gã khổng lồ ở Âu Châu, lãnh thổ rộng lớn gấp mấy lần lãnh thổ của 48 quốc gia Âu Châu gộp lại, sức mạnh quân sự và vũ khí hạt nhân, thừa hưởng từ Liên Xô, hoàn toàn đủ sức khống chế toàn Âu Châu – nếu thiếu vắng sự hiện diện trọng yếu của nước Mỹ như là một thành viên trụ cột của NATO

Sự việc Nga xâm lăng Ukraine đang diễn ra, khá đột ngột nhưng không nên ngạc nhiên. Ukraine đang vận động để trở nên thành viên của EU và cả NATO. Nga cảm thấy thương tổn và bị đe doạ. Ukraine quan trọng đặc biệt với nước Nga.

Một vài sự kiện có ý nghĩa :

Trong 15 xứ cộng hòa (tiểu bang) hợp thành Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết có chiều dài lịch sử 70 năm (1922-1991), Ukraine đã luôn luôn là cộng hòa trọng yếu thứ hai, chỉ sau cộng hòa Nga.

Trong số 8 lãnh tụ của đảng cộng sản Liên Xô thay phiên nhau cầm quyền có tới 3 nhân vật gốc gác từ Ukraine là Khrushchev, Brezhnev và Chernenko.

Trận Kiev 1, năm 1941, Liên Xô mất Kiev vào tay Đức Quốc Xã sau khi chịu thiệt hại hơn 600 ngàn quân, 44 sư đoàn. Trận Kiev 2, năm 1943, Liên Xô lấy lại Kiev với giá hơn 100 ngàn quân tử trận. Kiev 1 và 2 đều được xếp vào loại các trận chiến lớn nhất trong quân sử thế giới.

Trong tổng số 42 triệu dân Ukranians ngày nay có 8 triệu người là gốc Nga, khoảng 40% dân Ukranians sử dụng tiếng Nga trong gia đình

Ngao cò tranh nhau ngư ông đắc lợi

Sau khi Liên Xô tan vỡ, Ukraine trở thành một quốc gia độc lập, một thành viên của Liên Hiệp Quốc. Trắng trợn xâm lăng Ukraine là một việc sai trái, bất hợp pháp, đáng bị lên án và phải bị lên án.

Ukraine cũng không dễ nuốt. Xe tăng Nga có thể tràn ngập cả nước Ukraine. Chính quyền bù nhìn thân Nga có thể được dựng lên ở thủ đô Kiev. Người Ukraine vẫn tiếp tục kháng cự với sự yểm trợ vũ khí, tiếp liệu của các nước Âu Châu và Mỹ. Triển vọng là chiến tranh kéo dài – du kích và phản du kích. Nga sẽ phải đối diện với nguy cơ bị sa lầy và xuất huyết ở Ukraine như Liên Xô từng trải nghiệm ở Afghanistan – trước cả Mỹ và giống như Mỹ.

Tuy nhiên đừng chờ đợi Putin – lãnh tụ gian hùng không đối thủ, khống chế chính trường nước Nga hơn 2 thập niên – sẽ chấp nhận thất bại, ra lệnh rút quân và bị lật đổ.

Nên chờ đợi Putin mở rộng chiến tranh ngoài biên giới Ukraine, đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân, xâm lăng các nước chưa phải nhưng đang chuẩn bị gia nhập NATO như Georgia, Bosnia.

Nên chờ đợi quân Nga sẽ tập trung ở biên giới 3 nước Estonia, Latvia, Lithuania và có thể đe dọa tấn công cả Poland, Romania, Hungary, Czech Republic, Slovakia… đang là thành viên của NATO.

Nên chờ đợi Putin cố ý gây ra một đại khủng hoảng ở Âu Châu và cả thế giới, tạo không khí chiến tranh ảm đạm, lo lắng, bao trùm khiến kinh tế đình trệ, thị trường chứng khoán lao dốc…

Tất nhiên, Putin không muốn tự sát bằng chiến tranh nguyên tử nhưng nếu Kim Jong-un của Bắc Hàn, với kho vũ khí hạt nhân nhỏ bằng 1% hay 2% của Nga còn làm thế giới hoảng loạn, buộc Tổng thống Mỹ phải hạ mình ngồi thương thuyết tay đôi thì tại sao Putin lại không thể ?

Vậy thực sự nước Nga của Putin muốn gì ? Câu trả lời là :

– Muốn thương thuyết trong thế mạnh.

– Muốn NATO chấm dứt chính sách be bờ, bao vây, cấm vận và các biện pháp bất thân thiện khác đối với Nga.

– Muốn được tôn trọng và được chấp nhận là Nga cũng cần có một vùng ảnh hưởng riêng hoặc ít nhất một vòng đai an ninh.

Nếu sự thực đúng hoặc gần đúng như thế, thì đến lượt Tổng thống Joe Biden của nước Mỹ phải tự đặt câu hỏi và tự trả lời :

– Đối thủ chính của Mỹ trên thế giới hiện nay là Tầu hay Nga ?

– Nga có mạnh như Liên Xô và Putin có mạnh như Stalin không ?

– Nga và Mỹ có còn là kẻ thù Ý Thức Hệ phải tiêu diệt nhau không ? Có quyền lợi xung khắc đến nỗi không thể làm bạn với nhau không ?

– Mỹ có cần quá thận trọng và khe khắt với Nga như các nước Âu Châu không ?

– Ngay cả NATO chấp nhận nhượng bộ những đòi hỏi của Putin thì Putin có cơ may nào tái lập đế quốc Sô Viết khi mà các nước Đông Âu đã sợ và chán cái chủ nghĩa cộng sản độc tài toàn trị tới tận cổ không ?

– Nếu Mỹ phải dồn sức đối phó Nga ở Âu Châu thì còn bao nhiêu sức để đối phó Tầu ở vùng Đông Á ? Nếu Mỹ, Nga làm ngao, cò tranh nhau thì có phải Tầu là ngư ông hưởng lợi không ?

– Nếu Tầu dùng kế “Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” để rồi “gió Đông thổi át gió Tây”, tại sao Mỹ không làm y như vậy, liên kết với Nga, (cùng gió Tây với nhau) mà thổi ngược lại ?

– Thay vì mở cửa NATO thu nhận Ukraine làm thành viên, tại sao không khuyến khích Ukraine thực hiện chính sách độc lập và trung lập thân hữu với tất cả các bên như trường hợp Finland, Austria hay Switzerland ? Trung lập mà có hòa bình chẳng hơn vào NATO mà chịu chiến tranh hay sao ?

Cao Tuấn

(05/03/2022)

Hits: 369

Luận Về Tâm Lý Chính Trị

Trần Xuân Thời

Người ta thường nói đến tâm lý quần chúng, tâm lý xã hội, nhưng ít nghe ai nói đến “tâm lý chính trị”. Thật ra tâm lý chính trị thường được thể hiện qua “diễn đàn chính trị” nghĩa là tư tưởng lên khuôn cho hành động theo nhiều chủ trương, đường lối khác nhau, gọi chung là lập trường chính trị… Hành động nào cũng thường nhắm thực hiện một chủ đích, một sứ mệnh. Từ quan niệm tồn cổ, những gì do quá khứ tạo nên và lưu truyền lại cho hậu thế đều tốt đẹp, đều đáng quý, đáng học hỏi và đáng được xem là khuôn vàng thước ngọc, “Xưa Bày Nay Làm” hoặc hiện tại đáng yêu, đáng mến, đáng duy trì không cần phải thay đổi, đến quan niệm cải cách, phá hoại truyền thống, khuynh đảo trật tự xã hội đương thời để thay thế bằng cơ cấu tổ chức và trật tự mới, con người đã đi từ quan niệm cực hữu (reactionary–rightist) đến quan niệm cực tả (radical–leftist).

Trong quần chúng có những người đắn đo kỹ lưỡng trước khi chấp nhận một lập trường vĩnh viễn, cũng có người thay đổi lập trường tùy hoàn cảnh. Dù trong hoàn cảnh nào, lập trường chính trị cá nhân hay tập thể thường được thể hiện qua bốn ý niệm chính:

  1. Cực tả/Cách mạng (Radical extremist/Revolutionary);
  2. Cấp tiến (Liberal/Progressive);
  3. Bảo thủ (Conservative);
  4. Cực hữu/Phản cách mạng (Far right/Reactionary).

Các “nhãn hiệu” này thường được đề cập trên sách báo hiện hành, nhất là tại các nước dân chủ, trong đó người công dân có quyền tự do ngôn luận và có quyền gán bất cứ “nhãn hiệu” nào cho người đối lập trong phạm vi tự do tư tưởng theo luật định.

1. Cực tả/Radical extremist

Chúng ta thường gọi người theo chủ thuyết cộng sản là “bọn phá hoại” (radical). Người cộng sản gọi là cách mạng (revolutionary). Vì cộng sản chủ trương tiêu diệt tư bản chủ nghĩa, đả phá hệ thống xã hội đương thời tận gốc rễ. Nói khác đi kẻ chống đối phải bị thủ tiêu. Ngôi nhà cũ thì phải bị triệt hạ, đập nát để xây ngôi nhà mới, không cần tu bổ hay sửa chữa. Thay đổi tận gốc rễ như chính sách cải cách điền địa của nhà nước cộng sản. Cộng sản không những chỉ tịch thu ruộng đất mà còn đấu tố, sát hại các địa chủ nhằm khủng bố và triệt tiêu đầu óc tiểu tư sản như đã áp dụng ở các nước cộng sản “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Đa số những người theo Cộng sản hoặc vì hận thù, hoặc vì nhẹ dạ, nóng lòng thay đổi, nghe theo lời hứa hẹn hão huyền, những lời hứa hẹn không mất tiền mua của các “Đỉnh cao trí tuệ CS”. CS không hề có chủ tâm thực hiện điều họ hứa hẹn, như triết gia chính trị Edmund Burke đã nhận xét “Hypocrisy can afford to be magnificient in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”. Những người mù quáng mơ ước thiên đường cộng sản, ngày nay đã dần dần vỡ mộng. Thực tế chứng minh các lãnh tự CS Đông Âu, Trung Cộng hay Việt Nam đều lợi dụng giới vô sản, bần cố nông để giành quyền lực với danh nghĩa giả tạo, hứa hẹn hão huyền sẽ mang lại “Độc lập–Tự do–Hạnh phúc”. Sau khi cướp được chính quyền, các đảng vỉên CS trở thành tư bản đỏ, triệu phú, tỷ phú, nhà cao cửa rộng, áo xiêm buộc trói lấy nhau, nắm giữ các đặc quyền đặc lợi.

Thực sự, không hề có tự do, hạnh phúc thực sự trong một xã hội mà chính quyền không tôn trọng luân thường đạo lý. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Không có luân lý, đạo đức thì không thể có tự do. Người đời gọi chủ nghĩa cộng sản vô thần hay chủ nghĩa Tam Vô:

(1) Vô gia đình: CS xoá bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xã hội là gia đình, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc;

(2) Vô Tổ quốc: Cộng sản chủ trương xóa bỏ biên giới quốc tổ để hòa mình vào thế giới vô sản đại đồng. Hồ Chí Minh chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng, vì đảng CSVN không chiến đấu cho sự sinh tồn giống tộc Việt Nam mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa CS, cho quan thầy Nga Sô, Trung cộng;

(3) Vô Tôn giáo vì CS chủ trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc lòng người.

Tôn giáo hướng thượng con người. Giúp con người tạo cho mình một lý tưởng để sống vượt lên trên loài cầm thú vì loài thú chỉ sống theo bản năng, duy vật, không có lý tưởng cao cả. Con người biết sống, hành thiện đời này để hưởng phước đời sau. Đó là chủ đích của đời người mà nhân loại hướng đến qua sự chấp nhận và thi hành tín điều do các tôn giáo truyền dạy. Hay nói khác đi, người không thể xứng danh là con người trọn vẹn nếu không có lý tưởng cao cả. Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge (1872–1933) đã nhận xét, chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới có thể sống đời sống trưởng thành “It is only when men begin to worship that they begin to grow”.

Cộng sản duy vật quan niệm con người chỉ là sản phẩm thiên nhiên (product of natural selection) như các lãnh giới khoáng vật, thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho mình thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu trình độ hiểu biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhận xét này được thể hiện phần nào qua lời chứng được ghi nhận trong vụ án:

Flemming v. Nestor 363.U.S. 603 (1960). Nestor, an alien, became eligible for Social Security payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the Communist Party from 1933 to 1939. Section 202(n) of the Social Security Act provided for the termination of Social Security payments when an alien is deported for being a member of the Communist Party. “Ephram (Fedya) Nestor, a Bulgarian–born immigrant to the United States, was ‘an unusual person,’ according to his second wife Barbara. She met him in 1933 when he was selling vegetables from his car and remembers not really liking him. ‘He stayed too long,’ he ‘talked too much,’ and worst of all to this devoted radical, he ‘passionately espoused the cause of Communism [but] he didn’t know too much about it.’ Interviewed when she was ninety, sharp–witted Barbara Nestor still recalled how Fedya embarrassed her at a Marxist study group with his ‘foolish’ statements and obvious lack of knowledge about Marx or communism. His family agreed he was ‘not much of a Communist’ when he joined the local party in 1936 and could not be trusted with the simplest duties. Nonetheless, the federal government deported Fedya in 1956 for his brief Communist Party (CP) membership.”

Trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lãnh của tôn giáo lớn nhất hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản:

“The unspeakable doctrine of Communism, as it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this doctrine were accepted, the complete destruction of everyone’s laws, government, property, and even of human society itself would follow.” (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày 9/11/1846). (Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật thiên nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người.)

Nhiều quốc gia đã xoá bỏ chủ nghĩa CS. Nhiều người đã ly khai đảng CS, mặc dù trước đây họ đã hết sức hăng hái mang nhãn hiệu cách mạng, hãnh diện là đồ đệ của đệ nhất, đệ nhị hoặc đệ tam Cộng Sản Quốc Tế. Chủ nghĩa CS đã tạo nên những kẻ sát nhân như Stalin đã tàn sát hơn 20 triệu người, Mao Trạch Đông giết trên 70 triệu người, Hồ Chí Minh, cũng như Pol Pot được liệt kê vào danh sách của những kẻ diệt chủng nổi tiếng nhất trên thế giới. (Mao: The Unknown Story, Jung Chang).

Tại Hoa Kỳ, môn phái cực tả quá khích đã phát triển từ cuộc suy sụp về kinh tế năm 1929. Họ chủ trương tái tạo xã hội Hoa Kỳ mới, dựa trên căn bản lý thuyết của Karl Marx. Họ hỗ trợ tích cực các phong trào công nhân thợ thuyền với khẩu hiệu “Not Black, not white Power but Worker’s Power”, như là phương tiện gián tiếp để cộng sản hóa Hoa Kỳ… Môn phái cực tả chủ trương canh tân các chương trình xã hội, tôn giáo và xã hội Hoa Kỳ theo quan điểm của Chủ nghĩa Cộng Sản.
Hiện nay có hai nhóm cực tả: Nhóm thứ nhất chủ trương cải cách xã hội bằng phương tiện cách mạng bạo động và sắt máu. Nhóm thứ hai chủ trương cải tổ ôn hoà bằng cách lợi dụng quyền đầu phiếu. Các nhóm này lôi cuốn một số người nhẹ dạ, nhưng không đủ khả năng lôi cuốn quần chúng và chính quyền. Những người này thường không liên kết với đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ. Những người Mỹ theo đường lối này thường áp dụng chính sách mị dân. Chủ trương tự do cá nhân phải có tính cách tuyệt đối nhằm dụ hoặc quần chúng. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện, nghĩa là dùng bất cứ phương tiện tốt, xấu gì cũng được miễn là đạt được kết quả mong muốn. Họ tuyệt đối tin tưởng vào chương trình cải cách Chủ nghĩa CS là thể chế hoàn mỹ, không có chủ nghĩa nào có thể thay thế…

Các tổ chức tà phái của Hoa Kỳ đã từng hoạt động như Communist Party – USA, W.F.B Dubois Club of America, Progressive Labor Party, Socialist Labor Party, Socialist Worker Party, Young Socialist Alliance, Spartacist League, Guardian, Worker League, World Socialist Party of USA, Ramparts, Monthly Review… Mỗi tổ chức đều ấn hành tạp chí để phổ biến chủ trương đường lối cho hội viên và quần chúng. Cũng nên lưu ý là ngược lại danh từ Radical ngày nay còn được dùng để mệnh danh những phần từ chủ trương đả phá chế độ cộng sản tại Nga và các nước Cộng Sản Trung Âu hay những phần tử quá khích như Radical Islam….

2. Cấp tiến/Liberal:

Chủ trương thay đổi với mức độ ôn hoà thường được gọi là cải cách (reformer/liberal). Những người cấp tiến sẵn sàng chấp nhận sự thay đổi nhưng không có tính cách đả phá, hủy hoại chế độ hay hệ thống đương thời. Tu bổ, sửa chữa lại ngôi nhà đang cư ngụ hơn là áp dụng phương thức phá hoại như cộng sản đã và đang áp dụng. Cộng sản chủ trương đốt nhà để cho nhân dân sống cảnh màn trời chiếu đất, nghĩa là chịu hy sinh cực khổ trong hiện tại, trong lúc xây cất lại ngôi nhà mới nhưng không biết bao giờ ngôi nhà mới hoàn thành.

Những người chủ trương thay đổi cải cách thường chấp nhận chủ thuyết của đảng Dân Chủ hoặc cấp tiến, đều có khuynh hướng cải cách xã hội, và thường được quần chúng Mỹ liệt vào loại thiên tả ôn hoà (leftist) vì đảng CS được tự do hoạt động tại Mỹ dưới nhiều hình thức, kể cả hình thức đoàn thể xã hội và lợi dụng các quyền tự do để bành trướng. Danh từ “Liberal” phát xuất từ thế kỷ thứ 19 do tiếng Tây Ban Nha, tên của một chính đảng ở quốc gia này. Đảng viên Liberal tin tưởng vào khả năng của công dân biết sử dụng quyền hành của mình một cách xứng đáng. Trong cuộc tranh cử Tổng Thống năm 1988, ứng cử viên TT Bush đã nhận xét ứng cử viên TT Dukakis là “Liberal”. Dù danh hiệu này rất thông dụng, nhưng hiện nay vẫn chưa được xem là ý niệm tốt trong tâm lý quần chúng vì có tính cách thiên tả và các phương pháp cải cách của tả phái.

3. Bảo thủ/Conservative

Khác với hai chủ trương nêu trên (radical và liberal) có tính cách khuynh tả (leftist), theo quan niệm hiện hành của đa số công dân Hoa Kỳ. Những người chủ trương bảo thủ (conservative) ôn hoà bằng lòng với hiện tại. Họ cho rằng hiện tại vẫn tốt đẹp, không cần phải thay đổi. Những người này thường chủ trương hỗ trợ đảng Cộng Hòa. Danh từ Bảo thủ nghĩa là bảo tồn, như bảo tồn truyền thống, thuần phong mỹ tục và định chế chính quyền dân chủ đã được hình thành qua kinh nghiệm chung của nhân loại. Môn phái bảo thủ cũng chống lại chủ trương tự do quá trớn hay tự do phóng nhậm, vì tự do cũng cần phải được giới hạn để mọi người có cơ hội hưởng tự do đồng đều. “The extreme liberty as we all know, in every point, is destructive to both virtue and enjoyment” (Edmund Burke).

Sở dĩ đảng Cộng Hòa giành được thắng lợi trong các cuộc tranh cử Tổng thống ba nhiệm kỳ liên tiếp trong 12 năm (1981–1993), một phần cũng nhờ dân chúng nhìn thấy tình trạng xã hội đương thời không cần thay đổi nên đã dồn phiếu cho đảng Cộng Hòa thay vì bầu cho Dân Chủ. Đa số những người trung niên, giới trí thức và lão niên chấp nhận khuynh hướng bảo thủ. Khuynh hướng này đang là những làn sóng ngầm ảnh hưởng đến tâm lý quần chúng hiện nay khiến cho những đề nghị cải cách táo bạo không có cơ hội phát triển. Tuy nhiên những cải cách táo bạo vẫn được các ứng cử viên Clinton, Sander quảng bá trong cuộc tranh cử năm 2016 và Ứng cử Viên Trump đã đắc cử với chủ trương “Make America Great Again”. Nền chính trị Hoa Kỳ phức tạp nên khó tiên đoán đảng nào sẽ đắc cử trong các nhiệm kỳ sắp đến.

4. Cực hữu/Reactionary

Lớp người bảo thủ cực hữu (reactionary/far right) là những người vẫn thích thay đổi, nhưng thích tồn cổ hơn. Những gì do tiền nhân để lại đều đáng quý trọng, đáng được học hỏi, đáng bảo tồn, đúng với câu “xưa bày nay làm”, và thích trở lại những ngày vàng son của thời đại vua Nghiêu, vua Thuấn. Những người này đương nhiên không chấp nhận thái độ cách mạng, phá hoại truyền thống của cộng sản nên đã gây trở ngại cho sự bành trướng của cộng sản. Cộng sản gọi những người quốc gia chống cộng thuộc khuynh hướng cực hữu là thành phần “phản động” (right wing extremist/Reactionary).

Tại Hoa Kỳ hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian Anti–Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church League of America, Harding College’s National Education Program, Richard Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v. những người di dân từ các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế chiến hoạt động mạnh trong các tổ chức cực hữu.

Mỗi cơ quan đều có tạp chí để phổ biến đường lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết không công nhận cộng sản dưới bất cứ hình thức nào, đã đang là thành trì chống cộng hăng hái nhất hiện nay. Tâm lý chính trị tại Miền Nam VN trước 1975 cũng vậy, không chấp nhận CS dưới bất cứ hình thức nào nên đã trục xuất ra Bắc một số điệp viên CS len lỏi vào chính quyền Miền Nam. Trong lịch sử xây dựng nền dân chủ tại Nhã Điển (Athens), thủ đô của Hy lạp, năm 461 trước Công Nguyên, Pericles cũng đã dùng biện pháp an trí (ostracism) các phần tử chống đối ra khỏi thành Athens một thời hạn tối đa 10 năm. Nền dân chủ tại Nhã Điển thời bấy giờ là nền dân chủ trực trị như hình thức Hội Nghị Diên Hồng, người dân trực tiếp tham gia bàn luận kế sách về thuế khóa, hòa hay chiến…

Tâm lý chung của những người bảo thủ cho rằng không phải người nào cũng đáng tin cậy, cho nên phải “chọn mặt gởi vàng”. Họ không hẳn tin tưởng vào khả năng của công dân có thể quyết định sáng suốt, nên họ chủ trương cần có chính quyền. Họ chủ trương quốc gia cần được giai cấp ưu tú (enlightened group) lãnh đạo. Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 cũng do các vị khai quốc công thần ưu tú soạn thảo. Quốc hội Hoa Kỳ cũng gồm hai viện. Thượng Viện thể hiện giá trị truyền thống, tôn trọng kho tàng văn hiến, khôn ngoan đã được tích lũy qua hàng trăm năm lịch sử.

Trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, Pennsylvania năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln đã tái xác nhận Hoa Kỳ sẽ được tái sinh trong Ơn Thánh Chúa là quốc gia tự do của dân, bởi dân, để phục vụ nhân dân và sẽ không biến mất trên thế gian này: “This nation, under God, shall have a new birth of freedom –– and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.” (Abraham Lincoln, November 19, 1863)

Trong thời gian chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, giữa hai khối Tự do và Cộng sản, Mao Trạch Đông đã từng khích lệ các lãnh tụ CS Nga Xô tấn công tiêu diệt Hoa Kỳ. Năm 1963 dưới thời TT Kennedy, Nga Xô đã đem hoả tiễn thiết trí tại Cuba, chỉ cách Hoa kỳ 90 miles. Hoa kỳ phản ứng mạnh mẽ, một mặt phong tỏa vịnh Cuba, mặt khác ra lệnh chuẩn bị tấn công, nếu Nga Sô không tháo gỡ các dàn hoả tiễn. Nga Sô sợ Thượng Đế bảo vệ Hoa Kỳ qua lời “Sấm” của Tổng Thống Lincoln “Hoa Kỳ sẽ không biến mất trên thế gian này” bèn lui binh vô điều kiện!

Xã hội Hoa Kỳ đã và đang được thay đổi bằng những cải cách tiệm tiến, tuy chậm nhưng chắc, cũng nhờ những anh tài thực sự nỗ lực làm việc vì quốc gia dân tộc. Thay đổi nhanh chóng theo kiểu cách mạng cộng sản, thiếu suy tư và thiếu điều nghiên kỹ lưỡng đã đưa đẩy các nước cộng sản đến bờ vực thẳm, thảm khốc về cả hai phương diện kinh tế lẫn chính trị.

Những người cực hữu chống Cộng Sản mãnh liệt tại Hoa Kỳ cũng như các nước tự do trên thế giới, nhiều khi “dùng gậy ông để đập lưng ông”, nghĩa là “dĩ độc trị độc”. Họ dùng ngay phương pháp cộng sản để trị cộng sản. Họ là những người lớn tiếng cảnh giác quần chúng về hiểm hoạ cộng sản trước và sau khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời. Trong suốt 100 năm từ khi cuộc cách mạng Cộng Sản năm 1917 xảy ra tại Nga sô, những người chống cộng cực hữu chấp nhận thái độ bất cộng đái thiên với cộng sản, đa số không vì tư lợi cá nhân mà chỉ vì quốc gia dân tộc. Họ sẵn sàng chống đối những gì sinh lợi cho cộng sản, kể cả vấn đề bang giao, viện trợ cho thế giới cộng sản. Nhờ đó vào cuối thập niên 1980, Cộng Sản Nga Sô và Đông Âu sụp đổ. Từ sau đệ nhị thế chiến, khối Cộng sản Nga sô Đông Âu và Trung hoa vẫn mua ngũ cốc của Hoa Kỳ vì nền kinh tế của Nga Sô và Trung hoa trì trệ không đủ thực phẩm bán cho quần chúng. Hoa Kỳ thường dùng kinh tế làm đòn bẩy để thăng tiến nhân quyền đối các quốc gia cộng sản hoặc chuyên chế, như Tu Chính Án Jackson–Vanik mà chúng ta thường nhắc đến trong thập niên 1975–85 để tranh đấu cho vấn đề di dân, đoàn tụ gia đình, phóng thích tù nhân chính trị từ các nước CS Đông Âu hay Á Châu, VN đến Hoa Kỳ. (19 US. Code S.2432 Freedom of emigration in East–West trade).

Những người cực hữu cũng rất quan tâm về sự suy đồi của nền luân lý và giá trị cổ truyền. Họ rất trung thành với giá trị luân lý của đảng Cộng Hoà. Họ thường chống đối những chương trình, kể hoạch mà họ nghĩ là do cộng sản quốc tế hỗ trợ, các tệ đoan như tham những, hối lộ trong công quyền, trong nền tư pháp của Hoa Kỳ và các cơ quan cảnh sát. Họ chủ trương chính quyền có nhiệm vụ giáo huấn quần chúng để tránh sự lợi dụng của cộng sản và các phần tử phá hoại. Đặc biệt những người cực hữu hỗ trợ chế độ tự do kinh doanh và tư bản chủ nghĩa và chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa do nhóm cực tả chủ trương.

Đặc nét của chính quyền dân chủ là tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh. Tâm lý kinh tế chính trị này thể hiện rõ rệt nhất trong các cuộc bầu cử. Cử tri sẽ luận xét về chủ trương và đường lối của ứng cử viên về phương diện kinh tế nhiều hơn về các phương diện khác. Sự kiện này cũng hiển hiện ngay trong các nước cộng sản, vì tình trạng kinh tế suy sụp, quần chúng nghi ngờ khả năng quản trị của giới lãnh đạo, hô hào đòi tự do kinh doanh, tự do dân chủ. Vì thế, bây giờ các nước Đông Âu kể cả Nga Sô không còn noi gương xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại các nước này noi gương các nước tư bản để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của quần chúng. Marx, Lenin, Stalin không còn là thần tượng mà là tội đồ của các dân tộc Đông Âu. Do đó chúng ta có thể nói, bất cứ hình thức chính quyền nào mang lại cho quần chúng hạnh phúc, no cơm ấm áo với các quyền tự do căn bản theo Thiên luật đều được dân chúng hỗ trợ. Tự do dân chủ là môi trường thuận lợi nhất cho vấn đề phát triển về mọi phương diện nhân sinh.

5. Sứ mệnh bảo vệ chính nghĩa tự do, dân chủ, nhân quyền

Hoa Kỳ là một quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do dân chủ, nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Cơ quan FBI quản lý an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi phá rối trị an của CS Quốc tế. CIA quản lý an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu khiến cho Cộng Sản Quốc Tế, dù đã chiếm gần một nửa thế giới, từ sau thế chiến thứ hai, nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo thành trì của Thế Giới Tự Do cho đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980.

Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938–1953) nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II… Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan.

Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and Sedition Act ngăn ngừa và trừng trị cuồng ngôn nhằm làm mất uy tín chính quyền địa phương và trung ương… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô.

Năm 1901, Tổng thống William McKingley bị các phần tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Vị Tổng Thống thứ 25 của Hoa Kỳ, đã để lại các nhận xét bất hủ: “In the time of darkest defeat, victory may be nearest… That’s all a man can hope for during his lifetime – to set an example – and when he is dead – to be an inspiration for history”.

Tiểu bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính phủ… Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án chiếu luật Espionage Act 1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn văn trước 1,200 khán giả nhằm sách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp…. Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ…

Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đã ban hành luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội.

Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa cộng sản, nhân viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đại Học Massachusetts tại Boston, tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ CSVN tham gia vào công tác viết về lịch sử người Việt tỵ nạn hải ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2002, Cộng đồng người Việt hải ngoại đã nỗ lực tranh luận với Đại học Mass tại Boston hầu điều chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.

Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động hay các phương thức bất hợp pháp khác. Đảng cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng cộng sản là đảng không được luật Massachusetts công nhận. Tổng trưởng Tư pháp có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ, không được nhập tịch, v.v.

Luật Massachusetts, Chương 264,

Điều 16 ấn định: “… Subversive organizations… mean any form of association… whether incorporated or otherwise for the common purpose of advocating, advising, counseling or inciting the overthrow by force or violence or by any unlawful means, of the government of the Commonwealth or of the United States.”

Điều 16 A: “The Communist Party is hereby declared to be a subversive organization.”

Điều 17: “A subversive organization is hereby declared to be unlawful.”

Điều 18: “The attorney general shall bring an action… against any organization which has reasonable cause to believe is a subversive organization.”

Điều 19: “Any person who becomes or remains a member of any organization knowing to be a subversive organization shall be punished by imprisonment in the state prison for not more than three years….”

Điều 20: “No person who has been convicted of a violation of the provisions… of section nineteen… shall be eligible to… employment… in any public or private institution… The attorney shall have jurisdiction in equity to restrain and enjoin any such person from performing such duties.”

Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước cộng sản vì lý do kinh tế, thương mại, an ninh toàn cầu; vì lý do nhân đạo để nâng cao sinh hoạt của các lĩnh vực nhân sinh, và để bảo vệ nền văn minh nhân bản dựa trên các quyền thiên nhiên (natural rights civilization) hay nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà không ai được quyền xâm phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng.

Quan niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Tạo hóa ban cho nhân loại là quan niệm phát xuất từ dân gian. Hầu hết nhân loại hướng về đấng Tạo Hoá. Từ ngàn xưa các bộ tộc, quốc gia đều quan niệm tộc trưởng các bộ lạc hay vua chúa các quốc gia là Thiên Tử, trung gian giữa Trời và loài người, thừa mệnh Trời trị vì thiên hạ. Quan niệm này bàng bạc trong lịch sử và văn hóa nhân loại từ cổ đến thế kỷ 20. Tại Á Châu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi mới được thực thụ tấn phong vào chức vụ Hoàng Đế năm 238 trước Công nguyên. Các vua qua các triều đại tại Trung Hoa đều được tấn phong theo quan niệm Vua là Thiên Tử, thay mệnh Trời trị vì thiên hạ cho đến đời vua cuối cùng của Triều đại Mãn Thanh vào đầu thế kỷ thứ 20.

Bên phương trời Tây, các Đức Giáo Hoàng La Mã, đại diện cho Thần quyền, là Giáo hội Công Giáo, thường tấn phong các vị Hoàng Đế như Giáo Hoàng Lê–ô thứ III năm 800 sau Công nguyên đã tấn phong Hoàng Đế Charlemagne. “Thần quyền và thế quyền như linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau.”

Khổng giáo quan niệm “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. “Dân là nước, vua là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền”. Nhưng Khổng học cũng quan niệm “Trung thành bất sự nhị quân”. CS Tàu đã lợi dụng chủ trương “Trung Thành” này để khuyến dụ dân chúng trung thành với Đảng CS. Ngày nay Trung Cộng lập các Viện Khổng Tử tại một số quốc gia trên thế giới để bành trướng văn hoá Tàu. Nhưng tiếc thay, các Viện Khổng Tử cũng là cơ quan tình báo. Sự lạm dụng này đã khiến cho một số cơ quan truyền bá văn hoá của Trung Cộng bị các quốc gia đóng cửa.

Chủ nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền bất khả xâm phạm và nổi tiếng trên thế giới là chủ nghĩa vi phạm nhân quyền. Vì CS vô thần, không tin con người có đời sau, nên không có tín ngưỡng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế, không có linh hồn, nên cũng sống theo bản năng như các cầm thú khác. Ngược lại, các quốc gia tự do quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền bình đẳng và những quyền thiên nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm được Tạo hóa ban cho nhân loại.

Một trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương quảng bá và trọng nhân quyền, tôn trọng nhân phẩm, nhân vị của con người. Mọi người được bình đẳng, được tạo dựng theo hình ảnh của Tạo hoá. Con người có:

(1) trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo;

(2) lý trí (reason) để suy xét, phân biệt phải trái, thiện ác;

(3) ý chí (will) để quyết tâm thực hiện điều mình mong ước hay lý tưởng của mình và

(4) tự do (freedom) để hành động theo lương tri.

Do đó, con người “Nhân linh ư vạn vật” cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình, Hà Nội, ông HCM cũng lập lại những câu văn trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, mở đầu với câu:

“Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”

CSVN muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận thế giới tự do, vì nếu chúng ta xét qua thực chất hoạt động của đảng CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rõ CSVN chỉ hứa suông mà không bao giờ có thành ý thực hiện những điều hứa hẹn. Lời hứa không mất tiền mua. Edmund Burke rất hữu lý khi nhận xét về những hứa hẹn hão huyền của các chính quyền độc tài: “Hypocrisy can afford to be magnificent in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”.

Về phương diện tri thức, nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá ban cho nhân loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ý niệm về nhân phẩm, nhân quyền, các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức tin (Faith seeking understanding: If you do not believe, you will not understand) hơn là qua suy lý. CS Vô Thần không tin vào đấng Tạo Hóa tạo ra vũ trụ và nhân loại, nên chưa trưởng thành để am hiểu các ý niệm về quyền tự do Tạo Hoá ban cho nhân loại. Những quyền này Tạo Hoá ban cho mọi người, nhưng Tạo Hóa cũng ban cho con người tự do để chọn sự lành, lánh sự dữ hay ngược lại.

Ngoài ra, vì trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc sống trần tục, có những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận được nên chúng ta cần phải có lòng tin tưởng để được Thiên khải. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã nhận định: Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới mong được trưởng thành. “It is only when men begin to worship that they begin to grow” – “Có cầu mới được, có xin mới cho, có gõ mới mở”.

Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho nhân loại đã và đang ảnh hưởng đến tâm lý chính trị, tư duy và hành động, của nhân dân hữu thần trên thế giới và các triết thuyết chính trị của các quốc gia dân chủ Tây phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt giống cưu mang mầm mống của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789) trong thế kỷ thứ 18 và ý niệm giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm 1833 và sau đó được khai triển tại Mỹ gây nên cuộc nội chiến 1861–1865 trong thế kỷ thứ 19.

Tư tưởng lên khuôn cho hành động. Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ quyền tự do thiên nhiên (Natural Rights Liberty) do Tạo Hóa ban cho nhân loại đã và đang là nguyên động lực điều hướng chính sách đối nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.

Đối nội, một trong những nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ (1861–1865) là để bảo vệ nhân quyền, giải phóng chế độ nô lệ, vì chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lý, phản bội lý tưởng tự do. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ đã trả một giá rất đắt, đã hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến Nam–Bắc phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống Cộng hoà khả kính Abraham Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xã hội.

Đối ngoại, Hoa kỳ đã tham chiến chống Đức Quốc Xã và Phát-xít Nhật trong đệ nhị thế chiến (1939–1945) tại hai mặt trận Âu, Á. Hoa Kỳ đã hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ không tham chiến thì Âu Châu, Phi Châu đã bị Đức Quốc Xã xâm lăng. Á Châu và ngay cả Úc Châu cũng bị Phát-xít Nhật chiếm đóng thì vận mệnh của các dân tộc liên hệ tang thương như thế nào!

Nếu không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản thì Trung hoa chẳng những đã hy sinh 14 triệu người mà còn phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa và nhất là Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao giờ mới thoát khỏi ách độc tài đảng trị của Đức và Nhật. Trong cuộc chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại Việt Nam, Hoa Kỳ cũng hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lãnh.

Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh chịu, không phải để xâm lăng, chiếm đất, giành dân, mà đã thể hiện ý chí bất khuất trong chủ trương “bảo vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm lăng. Đúng với triết lý nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:

“Nếu người tốt không ra tay nghĩa hiệp thì kẻ gian tà chiến thắng –Evil triumphs if good men do nothing.” (Edmund Burke) Và người hành động dưới ngọn cờ chính nghĩa chứ không phải xâm lăng qua chiêu bài giải phóng để áp đặt chế độ độc tài đảng trị, xoá bỏ biên giới quốc gia mà tổ tiên đã hy sinh xương máu gầy dựng qua hàng ngàn năm lịch sử từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

Hơn 125,000 quân nhân anh dũng, binh sĩ và tướng lãnh Hoa Kỳ, đã “sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ đã hy sinh để giành lại chủ quyền cho các quốc gia lâm chiến như Anh, Pháp, Phi và các nước khác tại Âu châu, Á châu… Hàng năm, đến ngày kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc gia này đã đem vòng hoa ra tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh mạng sống để giải phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hy sinh vì Chính nghĩa, vì lý tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.

Ngoài vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đã viện trợ hằng ngàn triệu Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa kỳ đã lột xác Nhật Bản từ chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi khía cạnh nhân sinh văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị. Nhờ thế, Nhật Bản đã trỗi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đã trở thành một quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến Tây phương. Nhật Bản tuy bại trận, nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đã từng vinh danh Tướng MacArthur vào danh sách phong thần, một trong 12 ân nhân của dân tộc Nhật.

Tại Việt Nam, năm 1975. Cộng Sản Bắc Việt đã vi phạm Hoà Ước Ba Lê và xâm lăng miền Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết. Cộng sản Bắc Việt, quá lạc hậu và dã man, đã trả thù Miền Nam bằng cách bắt giam hằng triệu dân, quân, cán, chính Miền Nam. Hàng chục ngàn người đã chết trong ngục tù CS vì bị tra tấn, đói khát và bệnh tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa triệu người đã chết thảm trên biển cả hay vùi thây bên góc rừng, xó núi, trên đường vượt thoát tìm tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đã gây nên cuộc chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.

6. Tâm lý cử tri

Ngoài các chủ trương thượng dẫn thể hiện qua tâm lý quần chúng, ảnh hưởng trầm trọng đến kết quả các cuộc tranh cử cấp tiểu bang và liên bang, thái độ chính trị của cử tri còn thể hiện hai loại khuynh hướng về chính trị và kinh tế:

(1) Khuynh hướng thứ nhất là bầu cho người tại vị (incumbency–oriented) và chọn ứng cử viên theo chính sách quốc gia (policy–oriented),

(2) Khuynh hướng thứ hai là chọn ứng cử viên theo kinh nghiệm kinh tế cá nhân của cử tri (personal experiences) và lượng định tình trạng kinh tế quốc gia (national assessment).

Cử tri thường dồn phiếu cho ứng cử viên đương nhiệm hoặc ứng cử viên cùng đảng với vị tiền nhiệm, nếu tình trạng kinh tế khả quan. Năm 1981, cử tri Hoa Kỳ đã bầu Tổng thống Reagan (1981–1988) và sau đó bầu cho Tổng thống Bush (1989–1993) thể hiện nền kinh tế khả quan dưới thời Cộng Hoà so với nền kinh tế suy sụp lạm phát phi mã dưới thời Carter (1976–1980) nên TT Carter đã thất cử khi ra tranh cử nhiệm kỳ hai.

Trong nền kinh tế Hoa Kỳ, nên lưu ý đến hai vấn đề quan trọng: thất nghiệp (unemployment) và lạm phát hay sinh hoạt đắt đỏ (inflation). Hai hiện tượng kinh tế này có tính cách nghịch vị: Thất nghiệp tăng thì lạm phát giảm. Thời Tổng thống Carter (1977–1981) lạm phát quá cao, (mortgage interest rate để mua nhà từ 12–18%). Cử tri chú trọng vào chính sách hơn là đảng phái hoặc cá nhân khiến cho Carter thất cử. Cử tri không bầu cho Carter đương nhiệm mà bầu cho Reagan. Từ năm 1981 đến 1993, đảng Dân Chủ không thể giành lại ngôi vị Tổng thống vì đảng Cộng Hoà có nhiều bí quyết chế ngự được nạn lạm phát và giảm tỷ số thất nghiệp. Thường nạn thất nghiệp dưới thời Cộng Hoà cao hơn dưới thời Dân Chủ, do đó những người sợ nạn thất nghiệp, hay lo lắng về tình trạng kinh tế cá nhân thường dồn phiếu cho ứng cử viên đảng Dân Chủ. Hai vấn đề này đều thuộc về kinh tế đại tượng (macro econ.). Đảng nào quân bình được cán cân thất nghiệp và lạm phát sẽ có nhiều cơ hội gặt hái được kết quả tốt đẹp trong các cuộc bầu cử. Sau cuộc bầu năm 2016, TT Trump đắc cử, nền kinh tế khởi sắc, nạn thất nghiệp giảm, kinh tế phồn thịnh.

Kinh nghiệm của cử tri về kinh tế cá nhân (personal experiences) và tình trạng kinh tế quốc gia (national assessment) cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành quyết định của cử tri. Nếu tình trạng gia đình khả quan, cử tri sẽ tiếp tục bầu cho Tổng thống, Thống đốc đương nhiệm hoặc cùng đảng. Sự kiện này có thể suy luận từ tình trạng kinh tế và kết quả các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang. Chính cá nhân cử tri mới hiểu rõ tình trạng hạnh phúc hay đau khổ của mình vì sự thăng trầm của nền kinh tế, đúng như nhận xét của kinh tế gia Adam Smith: “Every man feels his own pleasures and his own pains more sensibly than those of other people.”

Lại nữa trong bất cứ nhiệm kỳ nào của Dân Chủ hay Cộng Hoà đều có người thất nghiệp. Những người thất nghiệp có thể có hai thái độ: bầu cho tổng thống đương nhiệm nếu nhận thấy tình trạng quốc gia khả quan và không cần luận về tình trạng thất nghiệp cá nhân. Cũng có thể họ bầu cho ứng cử viên mới để mong tình trạng cá nhân hầu có thể thay đổi. Vấn đề này thuộc tâm lý cá nhân nghĩ đến quốc gia dân tộc hay đặt nặng quyền lợi cá nhân, do đó cùng một hoàn cảnh có thể hai người có hai thái độ khác nhau.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (2001–2008), đa số dân chúng Mỹ nghĩ rằng tình trạng kinh tế khả quan, đời sống gia đình thoải mái nên bầu cho ứng cử viên Cộng Hoà George Bush về cả hai phương diện kinh nghiệm kinh tế cá nhân và tình trạng kinh tế quốc gia. “When the nation’s economy is doing well, the voters would tend to vote for the incumbents, while those who believed it had been worsened would tend to vote for the challengers.”

Nhưng sau cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông nhằm tiêu diệt khủng bố đã đánh vào thành trì tư bản của thế giới từ năm 2001. Tình trạng kinh tế gặp khó khăn nên dân chúng muốn có sự thay đổi. Ông Obama, nhờ chủ trương “Change” đã được bầu làm Tổng Thống được 2 nhiệm kỳ (2008–2016).

Tuy nhiên, khi gần hết hai nhiệm kỳ của Obama, xem ra dân chúng không thấy được sự thay đổi như Đảng Dân Chủ đã hứa hẹn. Ngân sách quốc gia thâm hụt đến 18 trillion hay 18,000 tỷ ($18,000,000,000,000). Tình hình an ninh quốc nội lại bị khủng bố đe dọa, thất bại về chính sách đối nội và đối ngoại.

Năm 2008, khi TNS Obama nhậm chức Tổng Thống, đảng Dân Chủ chiếm đa số cả Thượng viện lẫn Hạ Viện Hoa Kỳ. Sau 4 năm trị vì, dân chúng bất mãn, đảng Dân chủ mất một số lớn ghế Thống Đốc và mất luôn quyền kiểm soát Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ và lưỡng viện quốc hội tại nhiều tiểu bang.

Dự định phân phối người lớn và trẻ em vượt biên bất hợp pháp từ Nam Mỹ, hoặc di dân từ Trung Đông đến các tiểu bang, không nghĩ đến lý do an ninh và gánh nặng an sinh xã hội. Sự kiện này đã gây phẫn nộ trong quần chúng và hơn 30 vị Thống Đốc đã phản đối TT Obama về vấn đề di dân và nhiều vấn đề nhiêu khê khác.

Sở dĩ cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2016–2020 đã có nhiều ứng cử viên đảng Cộng Hòa ra tranh cử vì các đảng viên Cộng Hoà thấy đây là cơ hội tốt để thắng cử. Trong lúc đó đảng Dân Chủ chỉ có 4 ứng cử viên, nhiều người không tham gia tranh cử vì thấy cơ hội thắng cử của đảng Dân chủ không cao. Thêm vào đó, chính trị Hoa Kỳ thường thay đổi đảng cầm quyền quốc gia cứ 8 năm một lần.

Tuy nhiên kết quả thăm dò dư luận thường thay đổi có khi tùy theo một số biến cố không thấy trước được như nạn khủng bố ở Pháp, hay ở San Bernardino, CA năm 2015, đã nâng cao điểm tín nhiệm cho một số ứng cử viên quan tâm đến chủ trương mạnh mẽ về vấn đề chống khủng bố, chống di dân mà các chính khách nhà nghề thường giữ thái độ dè dặt sợ bị phản ứng không dám lên tiếng. Nói khác đi một con bướm bay ở Âu châu có thể tạo nên làn gió mạnh ở Mỹ châu hoặc ngược lại. “Butterfly effect: This effect grants the power to cause a hurricane in China to a butterfly flapping its wings in New Mexico. It may take a very long time, but the connection is real. If the butterfly had not flapped its wings at just the right point in space/time, the hurricane would not have happened. “

Trong các xã hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do Thượng Đế (natural law) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã ghi rõ: “All men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness”. Mọi người sinh ra đều được bình đẳng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc…

Nền chính trị tại Hoa kỳ rất phức tạp, luôn luôn có những làn sóng ngầm xung đột giữa các quan niệm khác nhau, về vấn đề chọn ưu tiên trong khi thực hiện quốc sách.

(1) Ý niệm phổ quát cổ truyền được công chúng nhắc đến là ý nguyện của các bậc khai quốc công thần đã thể hiện qua Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và Hiến Pháp năm 1787 chủ trương giành ưu tiên để bảo vệ quyền tự do thiên nhiên của con người do Thượng Đế ban cho “Natural Rights liberty”. Từ khuynh hướng căn bản này, một số ý niệm khác được khai triển.

(2) Ý niệm thứ hai là dành ưu tiên đề bảo quản quyền tự trị địa phương hay tiểu bang “Classical Communitarian Liberty”. Ý niệm này bênh vực quyền quản trị địa phương, tăng quyền tiểu bang và hạn chế quyền liên bang. Các tiểu bang đều có hai Thượng Nghị Sĩ và cứ khoảng trên dưới 500,000 dân được bầu một dân biểu trong Quốc hội Liên bang. Mỗi tiểu bang có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

(3) Khuynh hướng thứ ba là ưu tiên để bảo vệ tự trị kinh tế cá nhân “Economic Autonomy Liberty”.

(4) Khuynh hướng thứ tư là dành ưu tiên bảo vệ công bằng xã hội “Social Justice Liberty” và

(5) Thứ năm là dành ưu tiên bảo vệ quyền tự do cá nhân “Personal Autonomy Liberty”, trong đó có vấn đề phá thai mà cuộc tranh luận khéo daì cho đến ngày nay. Nhân kỷ niệm 48 năm án lệ Roe v. Wade (1973-2021). Chúng ta thử xem qua lập trường đôi bên:

“The Biden Administration made the announcement in a press statement put out by the White House. “The Biden-Harris Administration is committed to codifying Roe v. Wade and appointing judges that respect foundational precedents like Roe,” reads the statement. “In the past four years, reproductive health, including the right to choose, has been under relentless and extreme attack,” it continues. “We are deeply committed to making sure everyone has access to care—including reproductive health care—regardless of income, race, zip code, health insurance status, or immigration status.” Roe v. Wade was the 1973 Supreme Court 7-2 decision ruling that the Constitution of the United States protects a pregnant woman’s liberty to choose to have an abortion without excessive government restriction. It struck down many U.S. federal and state abortion laws.

Meanwhile, Sen. Rand Paul (R-Ky.) said, “Today marks the grim 48th anniversary of Roe v. Wade. Since this ruling in 1973 over 62 million innocent lives have been lost due to abortion. Every single life matter including the unborn. We must protect the sanctity of life & prevent taxpayer dollars from funding abortions.”

Rep. Debbie Lesko (R-Ariz.) echoed Paul’s criticism. “Today is the tragic anniversary of Roe v. Wade,” Lesko wrote. “I am proud to be a pro-life woman in Congress and fight for the right to life for every unborn baby. Every life is a gift from God, and I will continue to defend the sanctity of life at every stage.”

Những người làm chính trị có thể, không ít thì nhiều, am hiểu tâm lý chính trị. Nhưng không hẳn người hiểu tâm lý chính trị lại làm chính trị. Trường hợp này, nghiên cứu để hiểu biết chính trị hơn là áp dụng kiến thức vào sinh hoạt chính trị một cách tích cực qua chính đảng. Hoặc nói cách khác đi không có “khiếu” hoặc không thích làm chính trị.

Làm chính trị cần sự dấn thân, can đảm, bền chí, nhẫn nhục… có khi hy sinh cả cuộc đời, không vì tư lợi mà vì quốc gia dân tộc. Tuy vậy, số người hy sinh vì quốc gia dân tộc thường ít, và khi hành động cần người hợp tác. Người hợp tác có thể vì danh lợi, thừa gió bẻ măng, tạo nên nạn bè phái, oán cừu, làm cho người có tâm huyết thân bại danh liệt.

Người có tâm huyết làm chính trị chỉ vì muốn thực hiện một sứ mệnh cao cả, không nề gian khổ, nếm mật nằm gai, noi gương Việt Vương Câu Tiễn, quyết chí xây dựng quốc gia dân tộc, như lời thơ diễn tả của Đằng Phương:

“Họ là những anh hùng không tên tuổi,
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.”

Chung quy, con người thường hành động theo tư tưởng của mình. Tư tưởng thu nhận từ xã hội, học đường, bạn bè… kết tinh thành trạng thái tâm lý, gọi chung là tâm lý quần chúng.

Muốn thu phục nhân tâm, trước hết phải am hiểu tâm lý quần chúng. Muốn am hiểu quần chúng phải có tâm hồn khoáng đạt, cởi mở để có thể tiếp nhận ý kiến từ nhiều quan điểm thuận cũng như nghịch, để rồi tinh luyện, biến hoá, tương kế tựu kế, hầu thực hiện sứ mệnh cao cả của mình.

Dầu sinh hoạt chính trị dưới hình thức nào đi nữa thì bốn lập trường nêu trên từ cách mạng tả phái đến phản cách mạng hữu phái, vẫn là đặc tính chung của phạm trù tâm lý chính trị.

Trong bất cứ xã hội nào, thường một thiểu số chấp nhận một thái độ, một lập trường và dùng lập trường đó như kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó một thiểu số tranh đấu cho lý tưởng của họ, nếu thắng thế, họ sẽ trở thành cấp lãnh đạo. Lãnh đạo vì dân vì nước là phước của quốc gia. Lãnh đạo vì xôi thịt là quốc nạn.

Thế thì không nên hờ hững với chính trị. Một mặt sinh hoạt chính trị “nhằm sửa trị sự việc cho chính trực”. Mặt khác nếu mình không tỏ rõ lập trường, tà đạo lên nắm quyền thì chính mình sẽ là nạn nhân của thời cuộc. “Evil triumphs when good men do nothing” (Edmund Burke). Nhận xét này là kim chỉ nam hướng dẫn hành động của đống bào quốc nội yêu chuộng tự do và quý vi đồng hương hải ngoại trong công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức các đoàn thể ái hữu, tôn giáo, cộng đồng địa phương, tiểu bang, liên bang, quốc tế để xây dựng đời sống mới hầu hỗ trợ cho đại nghiệp cứu quốc chóng được viên thành.

Nhờ tự do tư tưởng mà các nước dân chủ đã tiến xa trên bước đường xây dựng quốc gia dân tộc, ý thức chính trị của quần chúng cao. “Ý dân là ý trời- vox populi vox dei”, không phải thể hiện bằng cách mạng, bằng đảo chánh, gây chiến tranh, cướp chính quyền mà bằng phương thức ôn hoà, nhân bản qua phương thức văn minh: Bầu cử tự do, thực thi quyền dân tộc tự quyết.

Bầu Cử Tự Do thật sự hiện hữu mỗi khi cơ quan tổ chức bấu cử, cử tri, ứng cử viên dựa trên động cơ đạo đức cao thượng” Một lòng vì dân, vì nước” qua quá trình (1) nghiên cứu, kiện toàn, tìm hiểu tường tận kỹ thuật, luât lệ tổ chức, điều kiện cử tri, ứng cử viên, chiếu theo nhu cầu của môi trường dân sinh, phát triển xã hội (cách vật trí tri); (2) tham gia bầu cử với tư cách cử tri, ứng viên hay nhân viên phòng phiều với tấm chân tình nhằm mục đích phung sự xã hội, “thương vì đức, hạ vì dân” (thành tâm); (3) Khi sự thành tâm đã an định thì không dùng phương pháp lương lẹo, gian trá, thay trắng đổi đen, (chánh ý); (4) Người được vinh danh là người có phẫm hạnh, là người luôn xét mình, tự sửa sai để hoàn thiện trong lời nói và việc làm (tu thân); (5) chọn người đại diện một cách công minh, chính trực thể hiện sự liêm chính, là hành vi nêu gương tốt cho con, cháu, trong công tác giáo dục, xây nền tảng gia đình (tề gia) (6) các cuộc bấu cử tự do được điều hành một cách chính trực gia tăng giá trị của tập thể, lòng tín nhiệm của đồng bào, sự thoã mãn của ứng cử viên, trong công tác xây dựng nhân quần xã hội (trị quốc); một khi mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia tuân giữ đaọ đức truyền thống thì công đồng quốc tế đươc thái bình thịnh trị, (bình thiên hạ).

Nếu vai trò của các đoàn thể, cộng đồng, chính đảng, chính phủ là để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị để mời gọi sự hợp tác của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc, thì công dân phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường cho chính mình vậy.

Trần Xuân Thời

Hits: 167

Tưởng Niệm Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông – 50 Năm Nhìn Lại (1971 – 2021)

Hội CSV QGHC Miền Đông Hoa Kỳ

Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông (2/4/1929 -10/11/1971)

Nhìn lại  một giai đoạn lịch sử, năm 1963 Giáo sư Nguyễn Văn Bông chấp nhận lời mời của chính phủ về nước, giáo sư dạy môn luật hiến pháp và khoa học chính trị tại Đại học Luật Khoa Sài Gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh qua các giai đoạn sau:

  • 1964-1971: Giáo Sư Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
  • 1966-1971: Phó Khoa Trưởng trường Đại Học Luật Khoa, Saigon
  • 1968-1971: Sáng lập viên kiêm Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Chủ Nhiệm báo Cấp Tiến, Nguyệt San Cấp Tiến.
  • Ngày 25 tháng 11 năm 1968: Một quả bom phát nổ cạnh phòng làm việc của giáo sư tại tầng hai Học viện Quốc Gia Hành chánh.  Giáo sư  thoát nạn.
  • Ngày 09/11/1971: Giáo sư chấp nhận chức vụ Thủ Tướng dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
  • Ngày 10/11/1971: Giáo sư bị ám sát tại ngã tư đường Cao Thắng – Phan Thanh Giản. Giáo Sư vĩnh viễn ra đi lúc 42 tuổi.

Tư Tưởng của Giáo sư Nguyễn Văn Bông: Tri Hành

Tưởng niệm Giáo sư Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, chúng tôi xin nhìn lại những hoạt động của Giáo Sư trong tư tưởng của một người Thầy, một chính trị gia, một nhà hoạt động chính trị trong các vấn đề xây dựng và phát triển Miền Nam Việt Nam.

Giáo sư đã nói ra rất rõ ràng:

1) Lý tưởng dân chủ pháp trị:

Lý tưởng này được Giáo sư đưa ra từ năm 1963  – vào ngày 1/8/1963 khai giảng niên khóa 1963-1964  của trường Đại Học Luật Khoa. Giáo sư đã đăng đàn giảng thuyết với đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ. Đề tài cấm kỵ trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Giáo sư đã can đảm nói lên tiếng nói chính trị đối lập trong sinh hoạt chính trị đương thời nên đã gây được nhiều tiếng vang trên chính trường nhứt là kêu gọi  thực thi một chế độ dân chủ với sự cho phép hình thành các lực lượng đối lập chính trị, hoạt động tự do và công khai.

2) Thành Lập Đảng Chính Trị Đối Lập:

Cuối năm 1968, khi qui chế chánh đảng vừa được ban hành, Giáo sư cùng với Giáo sư  Nguyễn Ngọc Huy đứng ra vận động thành lập một tổ chức chánh trị lấy tên là  Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.  Giáo sư là chủ nhiệm tờ báo Cấp Tiến, Nguyệt San Cấp Tiến – cơ quan ngôn luận của Phong trào và chính GS Bông, trong các bài viết đăng trên mục lập trưòng hay quan điểm, luôn kêu gọi dân sự hóa guồng máy công quyền. Phong Trào là một một lực lượng chính trị – dân biểu Khối Cấp Tiến – trong Quốc Hội . Phong trào đã lôi cuốn một số đông các cựu sinh viên Học Viện QGHC trong đó có các dân biểu như Trương vi Trí, Nguyễn văn Quí, Nguyễn văn Tiết.

3) Tham Gia vào Cải Cách Hành Chánh

Vào khoảng năm 1969-1970, chính quyền đương thời muốn thực hiện một sự cải cách hành chánh rộng lớn trong guồng máy hành chánh từ trung ương xuống địa phương, nên  Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã mời GS Bông – GS Bông đồng ý giữ chức Đồng Chủ Tịch với Tổng Thống Thiệu trong Hội Đồng Cải Cách Hành Chánh Trung Ương.

4) Tham Chính:

GS Nguyễn Văn Bông (phía trước), GS Nguyễn Văn Tương, (bên phải) và GS Tạ Văn Tài đến trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường Luật. Ảnh: Internet – chưa rõ nguồn.

Giáo sư Nguyễn Văn Bông đã đem tâm huyết thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến để đem lý tưởng của mình ra “Tri Hành” mong đưa dân tộc Việt qua khúc quanh lịch sử để cùng sống còn với chế độ Cộng sản Bắc Việt độc tài đảng trị. Trong đầu tuần tháng 10 năm 1971, tin Giáo sư được mời ra tham chính thành lập nội các với vai trò “Thủ Tướng” thì đảng Cộng sản đã hay tin và ra tay trước triệt hạ. Chúng biết uy tín của Giáo sư – một nhà lãnh đạo chính trị tại miền Nam – có nhiều triển vọng sẽ đối đầu bất lợi  trên chính trường quốc nội và quốc tế  trong tương lai.

Mất GS Bông, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và trường Luật mất đi một vị giáo sư ưu tú, một người thầy tận tụy, một ân sư của lớp sinh viên trong giai đoạn này. Phong Trào QGCT cũng mất đi một lãnh tụ quan trọng, thu phục cảm tình quần chúng,  được giới  thanh thiếu niên cùng giới trí thức trẻ tâm phục. Miền Nam mất đi một chính khách có uy tín trên chính trường quốc nội và quốc tế để xây dựng một Miền Nam Độc Lập – Tự Do – Tiến Bộ.

5) Phát Triển Học Viện QGHC:

Trong thời gian này (1963-1971), Học Viện  Quốc Gia Hành Chánh đã được nhiều uy tín với các đại học bạn, hơn nữa Học Viện đang tiến  ngang tầm với các nước tiên tiến. Học Viện đã đào tạo hàng ngàn cán bộ hành chánh ưu tú hỗ trợ cho việc xây dựng, kiến thiết  nền hành chánh quốc gia qua các điểm chính sau:

  • Lập Ban Cao Học: Học viện đã phát triển không ngừng, ngoài Ban Tham Sư, Ban Đốc Sự, GS cho mở thêm Ban Cao Học với thêm nhiều ngành như ngoại giao và thẩm tra kế toán, để đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh dấn thân có trình độ hiểu biết về tình hình chánh trị ở trong nước cũng như trên thế giới.
  • Thể lệ chọn nhiệm sở cho các sinh viên tốt nghiệp: Để công bình và khuyến khích các sinh viên chuyên tâm học hành, thể lệ mới ấn định các sinh viên  được chọn nhiệm sở theo thứ tự kỳ thi tốt nghiệp .
  • Tăng cường chương trình đào tạo giáo sư cho Học Viện: Tạo ra thể lệ sinh viên thủ khoa các khóa Đốc Sự và Cao Học được học bổng du học tại các đại học Mỹ để lấy bằng tiến sĩ . Nhờ thể lệ nầy, số giáo sư trẻ của Học Viện được tăng cường rất đáng kể.
  • Tham gia các sinh hoạt của các CSV: điển hình là hình chụp buổi đá banh giao hữu trong giải chung kết sinh viên Liên khóa Sàigòn 1963-1964.

GS Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông và Đội Tuyển Túc Cầu Quốc Gia Hành Chánh

Thay Lời Kết:

Sau cùng, trong cái nhìn của người cựu sinh viên QGHC, một cán bộ Quốc gia, một công dân của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi  chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc Giáo sư Nguyễn Văn Bông qua bốn câu thơ trích từ bài thơ Chiến Sĩ Vô Danh của Giáo sư Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy, người đồng chí của cố  GS Nguyễn Văn Bông:

Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc,
Cưỡi hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.”

Một lần nữa, năm nay, ngày 10 tháng 11 là lần giỗ thứ 50, Hội CSV QGHC  Miền Đông xin được ghi lại những hình ảnh trong các sinh hoạt của Hội để “Tưởng Niệm Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông – 50 Năm Nhìn Lại “.

Xin mời xem video:

Hội CSV QGHC Miền Đông Hoa Kỳ

Hits: 645

Về sự khác biệt của 2 cuộc chiến tranh Việt Nam và Afghanistan (A Phú Hãn)

Cao Tuấn

Đoạn kết của chiến tranh A Phú Hãn tháng 8/ 2021 giống như đoạn kết của chiến tranh Việt Nam tháng 4/ 1975. Người Mỹ tháo chạy trong hỗn loạn, không xứng đáng là đệ nhất siêu cường. Cùng lúc, chính quyền Kabul giống như  chính quyền VNCH, được Mỹ ủng hộ trên dưới 20 năm, sụp đổ tan hoang.

Tuy nhiên nhìn kỹ hơn thì cuộc chiến tranh Việt Nam và chiến tranh A Phú Hãn khác nhau về nhiều mặt.

Một: 

Chiến tranh Việt Nam là sự đụng độ giữa Mỹ và cả khối Cộng Sản, lúc đầu chính yếu là Cộng Sản Tầu, Cộng Sản Việt nhưng sau gồm cả Liên Xô, Bắc Hàn, Cu Ba, các nước Cộng Sản Đông Âu. Mỹ kéo được một số đồng minh Á Châu tham chiến như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân nhưng các đồng minh mạnh nhất của Mỹ ở trong Nato lại chọn đứng ngoài. Dù sao, chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc xung đột dữ dội nhất, nóng nhất , dai dẳng nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh giữa 2 phe Cộng Sản và Tư Bản, một thứ thế chiến thu gọn trên chiến trường Đông Dương.

Mỹ ở thế “thắng rất khó” mà “thua thì hiểu được” vì khối Cộng Sản lúc đó rất mạnh và dốc toàn lực dù bề ngoài là chỉ có Cộng Sản Việt Nam đánh nhau với Mỹ. Nhờ sự chống lưng vô giới hạn của Trung Cộng, Bắc Việt không cần chia quân lo phòng thủ vì biết trước Mỹ, sau kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh Triều Tiên, không muốn hoặc không dám đụng độ trực tiếp với một biển quân Tầu thêm lần nữa, nên chắc chắn sẽ không vượt sông Bến Hải  tiến binh ra Bắc. Trong khi đó thì Bắc Việt cứ tự do hàng hàng lớp lớp theo hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đổ quân vào Nam.

Bắc Việt cũng  không cần làm kinh tế sản xuất vì lương thực, súng đạn đã được đàn anh cung cấp đủ. Không còn là một quốc gia bình thường, phe Cộng Sản đã biến Bắc Việt thành một trại lính – chỉ ăn, ngủ, huấn luyện ngắn ngủi rồi lên đường “chống Mỹ, cứu nước”, “sinh Bắc, tử Nam” nghĩa là đánh cho tới chết, đánh đến người Việt Nam cuối cùng. (Ngay cả người Việt chết hết, Mỹ vẫn còn đối phó với một tỉ người Tầu thù nghịch…)

Chiến tranh A Phú Hãn ngược lại. Tương quan lực lượng hoàn toàn chênh lệch. Lợi cho Mỹ và bất lợi cho Taliban. Trước sau chỉ đơn độc Taliban đối đầu với Mỹ và các lực lượng đồng minh của Mỹ gồm cả quân đội của chính quyền Kabul do Mỹ dựng lên cộng với quân đội trong khối NATO như của Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Spain, Portugal, Norway, Canada …Thế mà cuộc chiến 20 năm kết thúc với Taliban toàn thắng mặc dù sự giúp đỡ từ bên ngoài mà Taliban nhận được rất không đáng kể. Đó là một điều rất đáng ngạc nhiên: Tại sao người khổng lồ và “bè đảng” lại thua một chú bé con một cách thảm thương như vậy!? Không những Mỹ là cọp giấy- như Mao Trạch Đông từng nói – mà cả NATO cũng là cọp giấy luôn, ít nhất trong trường hợp này.

Hai: 

Mỹ tốn phí khoảng 1,000  đến 2,000 tỉ đô la cho chiến tranh A Phú Hãn, tuỳ theo cách tính. Có thể là ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn chi phí của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tính theo thời giá hiện hành. Mặt khác, cường độ và qui mô của chiến tranh A Phú Hãn lại chỉ bằng 1/10 hay 1/20 chiến tranh Việt Nam.

Trong chiến tranh Việt Nam ước lượng Mỹ chết 58 ngàn, phe Quốc Gia VN chết trận 250 ngàn, phe Cộng Sản VN chết 1 triệu. Số bị thương gấp mấy lần số chết. Thường dân chết vì bom đạn cũng thêm cả triệu. Trong chiến tranh A Phu Hãn, Mỹ chết khoảng tổng cộng 6 ngàn (cả quân sự, dân sự); quân đội và cảnh sát của chính quyền Kabul chết khoảng 70 ngàn; Taliban chết 60 ngàn; thường dân chết vì bom đạn cũng khoảng 70 ngàn. Tại cao điểm của chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ hiện diện là hơn nửa triệu so với 100 ngàn tại cao điểm chiến tranh A Phú Hãn. Toàn bộ chiến tranh Việt Nam lấy đi ít nhất 3 triệu sinh mạng so với hơn 200 ngàn chết trong toàn bộ chiến tranh A Phú Hãn.

Chiến tranh A Phú Hãn căn bản là đánh du kích và phản du kích không có những trận đại chiến “long trời, lở đất” cấp sư đoàn như ở Việt Nam. Các  trận đánh Tết Mậu Thân, Lam Sơn 719, Bình Long, Kontum, Quảng Trị, Ban Mê Thuật, Long Khánh…đều đáng ghi vào quân sử thế giới.

Có thắng, có bại nhưng thực tế đã chứng tỏ quân đội của phe quốc gia Việt Nam thiện chiến và rất anh dũng dù sự lãnh đạo chính trị ở tầm mức quốc gia thì kém cỏi. Con số tử sĩ 250 ngàn cũng chứng tỏ chính đạo quân 1 triệu người này – trải qua hàng ngàn trận chiến lớn, nhỏ – mới là chủ lực ngày đêm bảo vệ cái thực thể Việt Nam Cộng Hoà suốt 20 năm chứ không phải quân viễn chinh của nước Mỹ, trông cậy quá nhiều vào hoả lực áp đảo và thường “vồ hụt” địch quân.

Đạo quân người Việt này đã bị “bức tử” một cách vội vã, hết sức thiếu công bằng trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Giữa lúc đối phương mang toàn lực tấn công, viện trợ không được gia tăng mà còn bị cắt tàn nhẫn – đột ngột và toàn diện – cho nên không sụp đổ mới là chuyện lạ.

Nếu Liên Xô, Trung Cộng cũng cúp lương thực, cúp xăng dầu, cúp đạn, cúp pháo, cúp tăng…đối với Bắc Việt y chang như Mỹ đã làm đối với đồng minh Nam Việt thì chắc chắn không bao giờ có biến cố lịch sử tháng 4/1975!

Chiến tranh Việt Nam cũng làm đảo điên nước Mỹ trong nhiều năm. Phong trào chống chiến tranh lan tràn khắp nước Mỹ và khắp thế giới. Hội thảo, biểu tình liên tục. Trốn lính, bắt lính. Vừa đánh, vừa đàm. Leo thang, xuống thang. Nước Mỹ mất ăn, mất ngủ vì số thương vong quá cao được công bố mỗi ngày. Ngược lại, chẳng mấy ai lưu tâm đến chiến tranh A Phú Hãn, ngoại trừ   biến cố trùm khủng bố Bin Laden bị giết hoặc khi các chính trị gia Mỹ nêu vấn đề “rút hay không rút” vào lúc tranh cử.

Nói một cách khác, chiến tranh Việt Nam “sôi nổi, lôi cuốn” bao nhiêu thì chiến tranh A Phú Hãn lại “bình thường, tẻ nhạt” bấy nhiêu – tất nhiên là đối với công luận quốc tế, công luận Mỹ chứ không phải đối với hàng chục triệu dân A Phú Hãn phải hứng chịu tai hoạ chiến tranh mỗi ngày, không phải đối với mấy triệu người A Phú  Hãn sống vất vưởng ở các trại tị nạn ở các vùng biên giới.

Ba:

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ 1954, nếu Mỹ phủi tay, quay lưng luôn thì Miền Nam Việt Nam chắc chắn sẽ mất vào tay Cộng sản rất sớm, cùng lúc với Lào và Cao Miên. Kế tiếp là các nước Đông Nam Á, nghèo nàn, bất ổn và đã nhen nhúm hoạt động cộng sản “Mao Ít” như Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Phi Luật Tân… cũng sẽ lần lượt rơi rụng đúng như các quân cờ Domino.

Mỹ can thiệp vào chuyện Việt Nam và lập Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á (SEATO) để ngăn chặn phong trào cộng sản quốc tế đang bành trướng mạnh, vì thế, là chuyện phải làm, là chuyện chẳng đặng đừng. Hành động ngăn chặn, “be bờ” của Mỹ tại Việt Nam (1954-1975 ) có tích cách phòng thủ chứ không phải có mục đích tấn công, không khác gì Mỹ đã hành động tại Tây Âu và thiết lập NATO sau khi các nước Đông Âu lần lượt bị cộng sản hoá trong tay của Stalin. Mỹ không xâm lăng Việt Nam như Cộng Sản vu cáo. Nỗ lực của Mỹ là giữ cho miền Nam Việt Nam và Đông Nam Á không bị cộng sản tràn ngập.

Cuối cùng, khác với trường hợp Nam Hàn, Việt Nam Cộng Hoà đã bị hy sinh nhưng phần lớn các nước Đông Nam Á khác đã được cứu rỗi. “Chiến tranh Việt Nam của nước Mỹ” đã trực tiếp và gián tiếp giúp Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Phi Luật Tân có đủ thì giờ củng cố, phát triển tương đối vững mạnh để thoát khỏi mối nguy “bị cộng sản hoá cách này hay cách khác”. Đông Nam Á có ngày nay là nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm ấy. Đó chính là nhận xét của thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu.

Chiến tranh Việt Nam cũng mang đến một kết quả khá lạ lùng: Mỹ “xuống nước” bắt tay với Trung Cộng để cùng chống Liên Xô và Liên Xô đã sụp đổ chỉ 15 năm sau khi được coi là thắng Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Sáng kiến của Kissinger/ Nixon có thể là thảm hoạ cho nước Mỹ tính về lâu dài nhưng ít nhất, Mỹ cũng được coi là bá chủ thế giới hay “siêu cường duy nhất” trong 2 thập niên kế tiếp cho đến khi nước Tầu Cộng Sản của Tập Cận Bình ra mặt thách thức Mỹ.

Trong khi chiến tranh Việt Nam đối với nước Mỹ, như vậy, là sự cần thiết. Cuộc chiến 20 năm tại A Phú Hãn, đối với nước Mỹ, trái lại, là một sự phí phạm vô ích, một sự sai lầm gần như hoàn toàn.

Ngoài trừ việc săn đuổi và giết Bin Laden, hành động của Mỹ ở A Phú Hãn, về mọi phương diện, khó có thể biện minh.

Mỹ có quyền trừng phạt Taliban đã giúp đỡ và dung dưỡng Bin Laden và Al Qaeda tấn công nước Mỹ trong vụ 9/11 giết gần 3 ngàn người nhưng chiếm đóng A Phú Hãn và  ngang dọc tự tung, tự tác là một sự xâm lăng. Dù nhân danh sứ mệnh “giải phóng” hay “khai hoá” xã hội A Phú Hãn. Dù có giúp thiết lập một chính quyền thân Mỹ và “tự do, dân chủ” theo kiểu Tây Phương. Dù có giúp cải thiện đời sống vật chất và cả tinh thần của một thiểu số khá lớn người bản xứ sống trong các thành phố. Dù có cổ võ chuyện giải phóng phụ nữ và nam nữ bình quyền…

“Khai hoá” trong trường hợp này là một sự “áp đặt văn hoá” bằng võ lực vừa có tính cách tự tôn, ngạo mạn vừa làm dấy lên sự ngờ vực “khai hoá” chỉ là chiêu bài không khác chiêu bài của nước Anh khi mang hạm đội đến “khai hoá” Ấn Độ, của Hoà Lan “khai hoá” Indonesia, của Pháp khai hoá “Việt Nam”, của Tây Ban Nha “khai hoá” Phi Luật Tân trong các thế kỷ trước.

Chính Pakistan đã chứa chấp Bin Laden, tại sao Mỹ không đánh, chiếm Pakistan và lập chính quyền “tự do, dân chủ” thân Tây Phương? Còn bao nhiêu nước Hồi Giáo khắc nghiệt, vi phạm nhân quyền liên tục như Iran, Saudi Arabia… tại sao Mỹ và Nato làm ngơ? Hàng chục nước Phi Châu độc tài, áp bức, lạc hậu, nghèo đói…tại sao Mỹ và Nato không mang binh lực đến giải phóng, khai hoá? Tại sao lại chọn A Phú Hãn?

Người ta có quyền suy luận Mỹ dám mang lực lượng đến lật đổ chính quyền Taliban năm 2001 và dựng lên một nước A Phú Hãn mới vì lúc ấy chính quyền của tổng thống Bush (con) tự tin nước Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, muốn làm gì thì làm, không ai có thể ngăn cản. Chẳng hạn, nước Nga vẫn chưa đứng vững trên đống tro tàn của đế quốc Liên Xô. Nước Tầu với qui mô kinh tế  GDP nhỏ bằng 1/4 hay 1/5 của Mỹ còn đang rất nhũn nhặn với Mỹ theo lời căn dặn “dấu mình, chờ thời” của Đặng Tiểu Bình. Các nước Nato thì sẵn lòng sắp hàng theo gậy chỉ huy của Mỹ. Hơn thế nữa, chính quyền Taliban đơn độc không có đồng minh. Nước A Phú Hãn, nghèo nàn, lạc hậu “dường như” là một mục tiêu dễ dàng…

Người ta cũng có quyền suy luận Bin Laden, Al Qaeda, Taliban chỉ là cái cớ, tiềm năng quặng mỏ phong phú và nhất là vị trí chiến lược của A Phú Hãn ở Trung Á án ngữ con đường nối Âu, Á và Trung Đông, lại nằm sát Nga, Tầu, Ấn Độ, Iran, Pakistan mới là lý do thực sự Mỹ đến A Phu Hãn và muốn ở lại đây. “Lý tưởng” là một nước A Phú Hãn “tân tiến” khác hẳn các nước Hồi Giáo khác – thân Mỹ, có hiệp ước an ninh với Mỹ, chấp nhận sự hiện diện quân sự thường trực của Mỹ, cho Mỹ bố trí hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân trên những vùng cao nguyên chót vót có khả năng khống chế toàn vùng… Mỹ sẽ giữ được ngôi vị bá chủ lâu dài trên toàn thế giới…

Tuy nhiên, tất cả đã là “lâu đài xây trên cát”.

Nhân danh việc tìm công lý cho gần 3 ngàn người chết oan trong vụ khủng bố 9/11 nước Mỹ đã ném mình vào một cuộc chiến tranh sai lầm và không cần thiết khiến có thêm hơn 200 ngàn người nữa chết oan, chưa kể  2000 tỉ đô la ném xuống sông, xuống biển trong khi số tiền khổng lồ này đáng lẽ có thể dùng để tăng cường nước Mỹ về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc thư hùng không tránh được với nước Tầu cộng sản.

“America first” cũng được đi, nhưng đến bao giờ thì các chính trị gia và cả các chiến lược gia của nước Mỹ mới hết chủ quan, mới hết “ngây thơ vô… số tội”?!

Cao Tuấn

(24/ 8/2021)

Hits: 412