Chia sẻ vài kỷ niệm với GS Nguyễn quốc Trị.

Triệu Huỳnh Võ (ĐS 6)

Vào mùa hè năm 1966, khi tôi sắp hoàn tất chương trình Cao học Hành Chánh Công Quyền (HCCQ) tại phân khoa School of Public Administration của University of Southern California (USC) thì anh Nguyễn quốc Trị và sau đó chị Trương hoàng Lem cũng  được học bổng của USAID theo học ngành HCCQ  tại đây nhưng để lấy bằng Tiến sĩ.

Rất may vừa lúc sinh viên người Thái Lan share phòng với tôi  dọn ra, nên tôi và anh Trị trở thành roommates của một apartment khá tiện nghi, được gần trường và thư viện.

Vào lúc này tôi có mua được một chiếc xe hơi cũ nên việc đi lại của cả hai cũng đỡ vất vả .Xin nói thêm ở Cali lúc đó cho phép dùng home driver license.

Vừa ổn định việc move in xong, khi bước qua tuần lễ thứ hai thì anh Trị cho tôi biết ý định là sẽ tìm cách trở về Việt Nam ngay càng sớm càng tốt , vì lo ngại sức khoẻ của chị Trị có vấn đề, bởi hơn một tuần qua anh chưa nhận thư của chị.

Trước dự tính quyết liệt và đột ngột này, tôi đã hết sức khuyên can anh bằng cách đưa kinh nghiệm bản thân từng gặp phải vấn đề tương tự lúc mới qua tới đây. Nhưng anh vẫn lo lắng lắm vì anh cho biết sức khoẻ của chị ấy vốn đã không được tốt từ nhỏ rồi.

Chừng ấy biểu hiện đã nói lên lòng thương yêu và lo lắng cao độ của anh dành cho chị Trị.
Cũng may là vài hôm sau thì anh nhận được tin nhà.

Qua trao đổi tâm tư, lúc đó tôi mới biết anh nguyên là Công Cán Ủy Viên phục vụ tại Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương ( tên gọi mới của Phủ Thủ Tướng) do ông Nguyễn cao Kỳ làm Chủ Tịch. Anh còn cho biết, trước khi qua Mỹ, anh cũng có xúc tiến việc trình Luận án Tiến sĩ Công Pháp  sau khi anh lấy được hai Chứng chỉ Cao Học Công Pháp, nhưng điều đó bị bế tắc ngay từ đầu. Lý do là anh có trình bản đề cương luận án cho GS bảo trợ VQT để ông phê duyệt trước, sau đó mới khai triển tiếp nội dung, nhưng đã không được phản hồi. Mãi về sau anh ấy được cho biết nó đã bị thất lạc.

Ngoài việc chia sẻ tâm sự ,tôi và anh Trị còn chia sẻ khẩu vị ăn uống nữa.  Đó là vì không biết công thức kho cá , chiên cá , nên tôi chỉ biết làm và ăn các món ăn của thịt bò hay thịt heo thôi. Trái lại anh Trị rất thích các món ăn quen thuộc chế biến từ cá,và chịu khó thực hiện qua thư hướng dẫn của chị Trị. Nhờ vậy mà từ đó bữa cơm hằng ngày được thay đổi khi thì với thức ăn của thịt, khi thì của cá.

Cuối tháng 9 năm 1966 tôi tạm thời chia tay với anh Trị để về lại Việt Nam sau khi đã hoàn tất chương trình của mình. Mối liên lạc của tôi với anh vẫn tiếp nối khi anh về Việt Nam, nhất là qua các buổi gặp gỡ, các trận đấu giao hữu tại sân Tennis của Học viện.

Sau ngày 30-4 -1975, mãi tới năm 1990 tôi và gia đình mới  được định cư ở Mỹ sau hơn 12 năm tôi bị đi tù Cộng sản, và nhờ có tham dự Đại Hội Thể Giới QGHC năm 1999 tại DC nên tôi mới gặp lại anh Trị,và lần đó anh có mời tôi về nhà và gặp gỡ chị Trị.

Từ đó về sau, mọi liên lạc được tiếp diễn qua điện thoại hoặc e-mail. Cũng qua các lần trao đổi này, được biết gia đình anh đã đi tản được vào phút chót, đầy cam go và vất vã lắm mới lên được Tàu Trường Xuân hay Việt Nam Thương Tín (tôi không nhớ rõ lắm). Và trên đường đi ra Vũng Tàu thì con Tàu này bị Việt Cộng bắn đuổi có gây thương tích cho người di tản trên Tàu trong đó có thân nhân của anh nữa, (lâu rồi tôi chỉ nhớ mang máng như vậy)

Chỉ vài năm sau Đại Hội QGHC năm 1999  vừa để cập bên trên thì sức khỏe của chị Trị sút giảm và trở nên trầm trọng  và anh Trị lúc đó đã dành toàn thời gian để chăm sóc cho chị cho tới khi chị ra đi vào năm 2001.

Mới gần đây, nhân dịp dự Đại Hội QGHC được tổ chức lần thứ 2 cũng tại DC năm 2019, tôi và anh Trị lại được gặp gỡ nhau. Qua Tiếp xúc và trao đổi ý kiến tôi nhận thấy thần thái và phong độ  anh vẫn còn đầy đủ. Nay trước tin anh vừa qua đời, tôi vô cùng bồi hồi và xúc động khi ký ức về thời gian sinh hoạt chung với anh thời còn theo học ở USC đã ùa về.

Về tài năng, đức độ, thành tích nổi bật của anh đã được cố đại huynh Bữu Viên vinh danh trong buổi lễ ra mắt cuốn sách của anh,”Nguyễn văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của nhà Nguyễn”, tổ chức tại DC các năm trước, và mới đây được post lên lại trên diễn đàn QGHC.

Tại đây tôi chỉ muốn nêu lên điểm son nồi bật ở anh mà tôi đã cảm nhận rõ nét nhất, đó là lòng thương yêu và lo lắng sâu đậm của anh đã dành cho chị Trị.

Điều đó đã được thể hiện lần thứ nhất, vào mùa Hè năm 1966, khi anh vì lo cho sức khoẻ của chị Trị bên nhà bị trục trặc sao đó nên không gởi thư cho anh, khiến anh sẵn sàng muốn bỏ học quay về nhà để săn sóc cho chị.

Điều đó được thể hiện lần thứ hai vào các năm 2000 và 2001 khi chị Trị lâm trọng bệnh và lòng thương yêu cao độ của anh dành cho chị đã được thể hiện qua việc anh  bỏ toàn thời gian của anh  để chăm sóc chị cho tới lúc chị trút hơi thở cuối cùng.

Giờ đây tôi thiết nghĩ quí anh chị cũng như tôi tin rằng anh Trị đã đề huề gặp lại chị ấy nơi cõi Vĩnh Hằng.

Elk Grove ngày 20 tháng 10 năm 2024

Triệu huỳnh Võ, ĐS 6

Views: 153

Vài Nét Về Con Người Của Giáo Sư Nguyễn Văn Bông

Triệu Huỳnh Võ

Khi Giáo Sư Nguyễn văn Bông về làm Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (HV/QGHC), tôi đã tốt nghiệp trước đó gần 2 năm, tuy nhiên có nhiều cơ duyên với một số cơ hội tự nhiên xảy đến, khiến tôi có dịp hiểu biết nhiều về GS Bông, cũng như nhận xét được đức độ của một người thầy khả kính, một nhà lãnh đạo chính trị sắc bén trong nền Đệ Nhị Cộng Hoà.

Vào trước năm 1975, tình cờ trong một chuyến đi nghỉ mát tại Vũng Tàu, tôi gặp gỡ một cựu giáo viên, ông Ngô quang Vinh, từng làm hiệu trưởng một trường tư thục ở đường Phan Thanh Giản, Sàigòn, cùng quê Gò Công với GS Bông. Ông Vinh cho biết, ông Bông vốn là một người học trò giỏi, rất thông minh và hòa nhã với mọi người. Thời gian ở Saigon, ông Bông cư ngự trong trường Lê bá Cang. Lúc ông Bông chuẩn bị sang  Pháp du học, các người thân quen với ông Bông ở trường  nầy đã hết lòng giúp đỡ cho chuyến xuất ngoại của ông.

Vào tháng 9/2007, tôi có dịp du lịch ở Pháp và gặp lại bác sĩ Nguyễn  Minh Tân, trước đây từng là Chủ Tịch Đô Thành Bộ Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (PTQGCT). BS Tân  cho tôi biết,  theo lời GS Nguyễn Ngọc Huy kể lại,  khi tới Pháp, một số sinh viên VN thiên tả thời đó có ý định tiếp xúc và lôi kéo ông Bông theo họ. Ông Huy lúc bấy giờ đã đến với ông Bông, sau đó hai ngưòi đã kết thành bạn thân và dứt khoát chống Cộng từ đó.

GS Bông về nước lúc nào thì tôi không rõ lắm, nhưng tên tuổi của ông trở nên sáng chói sau khi ông đọc bài diễn văn khai giảng đầu niên học ở trường Luật Sài Gòn,  khoảng năm 1963, với đề tài “ Quyền Đối Lập Chính Trị ”.  Đây là một đề tài mới mẽ, chưa  ai chính thức và công khai đề cập. Có thể nói, GS Bông là người đầu tiên đã phát động và kêu gọi sự thực thi một chế độ dân chủ với sự cho phép hình thành các lực lượng đối lập chính trị, hoạt động tư do và công khai. Cũng chính vì sự tha thiết với chủ trương đó, sau này ông cùng với GS Nguyễn Ngọc Huy đã thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, một lực lượng chính trị đối lập với chính quyền đương thời trong nền Đệ Nhị Cộng Hoà.

Bài diễn văn khai giảng về Quyền Đối Lâp Chính Trị của GS Bông được đăng trong Luật Học Tập San và sau này trong quyển Luật Hiến Pháp do ông biên soạn. Những ai có dịp đọc qua bài này đều phải khâm phục về nội dung sâu sắc, phong phú của bài viết, với sự trích dẫn các điển tích dí dõm, lời văn trau chuốt đến độ không thể thêm hoặc bớt một chữ nào trong câu văn của ông. Các sinh viên có dịp học với GS Bông ở các lớp Cao  học Luật còn cho biết thêm là có nghe GS Bông giảng bài bằng tiếng Pháp thì càng thấy thán phục hơn nữa truớc lối trình bày quá lưu loát và sự “ngọt lịm” trong lời văn của ông.

Sau cuộc cách mạng 1-11-63, GS Bông được bổ nhiệm làm Viện trưởng  HV/QGHC thay thế  GS Vũ quốc Thông. Lúc bấy giờ, HV/QGHC vốn có chương trình cấp phát học bổng cho các sinh viên đậu thủ khoa ở các khóa học, sau hai năm ra làm việc, được đi tu nghiệp ở Mỹ lấy bằng cao học, hoặc tiến sĩ để rồi sau đó sẽ về phục vụ cho HV/QGHC.

Tôi được học bổng đi tu nghiệp tại đại học University of Southern California(USC) ở tiểu bang California vào tháng 1/1965. Mùa hè năm 1965, GS Bông có dịp chính thức viếng thăm Phân Khoa Hành Chánh Công Quyền (School of Public Administration ) của đại học USC. Là sinh viên VN duy nhất đang học tại phân khoa nầy nên tôi đượcc trưòng USC chỉ định tiếp đón và đưa ông gặp gỡ khoa trưởng và các giáo sư của Phân khoa Hành Chánh Công Quyền trong suốt thời gian nầy. Qua thời gian ngắn ngủi đó, tôi đã nhận thấy ở ông một người trí thức khoa bảng,  một cấp lãnh đạo trẻ trung có tính tình rất xuề xòa bình dị, và rất cởi mở. Theo tôi, chính những đức tính nầy giúp ông chinh phục được sự cảm mến và quí trọng của bất cứ ai có dịp tiếp xúc hay gặp gỡ ông ngay lúc sơ giao. Sự quen biết và quan hệ của tôi với ông bắt đầu từ đây và tiếp tục sau ngày tôi về VN.

Giữa năm 1968, sau Tết Mậu Thân, trong cương vị Giám Đốc phụ trách một Nha đặc trách về chính trị Phủ Thủ Tướng thời cụ Trần văn Hương làm Thủ Tướng Chính Phủ, hằng ngày tôi được Nha Báo Chí cung cấp một copy bản tóm lược tin tức viễn ấn (teletype) của các hãng thông tấn ngoại quốc liên quan đến hiện tình chính trị, xã hội của VNCH. Bản chính trình lên cho Thủ tướng xem. Tôi  cho copy một bản nữa và sau đó nhờ một nhân viên tín cẩn mang tay đến công ốc của GS Bông trên đường Phan Thanh Giản để ông cũng có thể cập nhật được các tin tức mới nhất nầy .

Vào khoảng năm 1969-1970, do sự thúc đẩy của cơ quan USAID muốn thực hiện một sự cải cách hành chánh rông lớn trong guồng máy hành chánh từ trung ương xuống địa phương, nên Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã  mời GS Bông –và được sự đồng ý của GS Bông – giữ chức Đồng Chủ Tịch (Co- Chairman) với Tổng Thống Thiệu trong Hội Đồng Cải Cách Hành Chánh Trung Ương ( HDCCHCTU ). Trực thuộc hội đồng nầy là một Phủ Đặc Ủy Cải Cách Hành Chánh, dưới quyền điều khiển của một Đặc Ủy Trưởng, xếp ngang hàng  Thứ Trưởng. GS Bông  cho tôi biết là ông đã đề nghị tôi vào chức vụ nầy, dựa vào khả năng chuyên môn cuả tôi ( vưà tốt  nghiệp Học Viện QGHC, vừa có bằng Cao học HC công quyền ở Mỹ), nhưng Tổng Thống Thiệu đã chọn ông Nguyễn đình Xướng, cũng là cựu sinh viên khóa 1 Học Viên QGHC,  đang làm Tổng Quản Trị Hành Chánh Phủ Tổng Thống, kiêm nhiệm  Đặc Ủy Trưởng Cải Cách Hành Chánh. Cơ quan USAID có in các sơ đồ cơ cấu tổ chức HDCCHCTU, Phủ Đặc Uỷ Cải Cách Hành Chánh, để phổ biến rộng rãi đến các Phủ, Bộ ở Trung Ương, nhưng sau đó không thấy Phủ Đặc Ủy Cải Cách Hành Chánh có những hoạt động cụ thể nào; chủ trương cải tổ hành chánh trong thực tế coi như chưa thực hiện được. (Mãi tới năm 1973, vấn đề cải tổ hành chánh lại được Tổng Thống Thiệu chính thức phát động trở lại và rầm rộ thực hiện qua một Phủ Tổng Ủy Công Vụ do đại tá Quách huỳnh Hà là Tổng Ủy Trưởng, xếp ngang hàng Tổng Trưởng, với sự trợ lực của 2 phụ tá là GS Trương hoàng Lem và GS Lê Công Truyền, xếp ngang hàng Thứ Trưởng.).

Tuy vẫn tiếp tục giữ chức vụ Viện Trưởng HV/QGHC, nhưng uy tín và thanh thế của GS Bông ngày một lên cao, với sự lớn mạnh của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến lúc bấy giờ, có lẽ vì thế mà sự an toàn của ông đã bị đe dọa nhiều lần.

Lần thứ nhất, khoảng vài tháng sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đợt hai ở Sài Gòn, kẻ địch, lợi dụng cửa phòng họp Hội Đồng Giáo Sư, sát vách phòng làm việc của Viện Trưởng, không có khóa, đã lén đặt chất nổ trong  phòng nầy,  cố ý sát hại GS Bông ở phòng kế bên. Theo anh Lê công Truyền, cựu sinh viên QGHC, lúc đó làm Chi Vụ Trưởng Học Vụ kể lại, thì sức ép của chất nổ đẩy ghế ngồi có bánh xe của GS Bông chạy sát vào bàn làm việc của ông và kỳ diệu thay, còn đẩy thân người ông chui vào dưới gầm bàn trước khi bức tường ngăn đôi hai phòng đổ sập, Nhờ vậy, cơ thể ông chỉ bị xây xát nhẹ, mà không bị thương tích trầm trọng. Khi nghe tiếng nổ, anh Truyền cùng với một anh sinh viên nữa chạy lên lầu, vào phòng GS Bông, cả hai cùng dìu ông xuống lầu,  lên công xa của ông,  đưa thẳng đến bệnh viện Đồn Đất. Anh Truyền lúc đó không nhớ taị sao lại đưa GS Bông tới  Đồn Đất (một bệnh viện tư cuả người Pháp ), đúng ra là phải  đưa đến bệnh viện Đô Thành (bệnh viện của chính phủ ). Một điều đã làm cho anh Truyền kính phục và thương cảm GS Bông hơn nữa, là sau khì để bác sĩ khám nghiệm thương tích xong, câu hỏi đầu tiên mà GS Bông hỏi anh Truyền là “các anh em có ai bị thương tích gì không?”

Lần thứ nhì, vào năm 1970, tại công ốc của GS Bông trên đường Phan thanh Giản, nằm đối diện trường Nữ Trung học Gia Long, có một đêm cả nhà bị xông thuốc mê, tất cả đồ đạc trong phòng làm việc của GS Bông ở trên lầu đều bị lục soát vất tung toé, nhưng mọi ngưòi ngủ trên lầu đều vô sự. Sau lần nầy, tôi dùng quan hệ cá nhân của tôi với một ông bạn thân, cũng là cựu sinh viên QGHC, đang là cấp điều khiển một cơ quan an ninh, cấp thời biệt phái một nhân viên thân tín có vũ trang đến túc trực bên GS Bông để bảo vệ an ninh cho ông. Mỗi khi GS Bông di chuyển ngoài đường,  anh nhân viên nầy chạy vespa theo sau xe để hộ tống; ban đêm  anh ấy ngủ ở lầu dưới, để bảo đảm phần nào sự an toàn cho GS Bông, cho tớí lúc  Bộ Tư Lệnh CSQG chính thức biệt phái người của khốì Bảo Vệ Yếu Nhân sang thay thế.

Vào các năm sau đó, với sự lớn mạnh của PTQGCT mà GS Bông là chủ tịch của Chủ tịch Đoàn, có  nhật báo Cấp Tiến làm cơ quan ngôn luận của Phong trào, chính GS Bông trong các bài viết đăng trên mục lập trưòng hay quan điểm, luôn kêu gọi dân sự hóa guồng máy công quyền, nhất là ở cấp đô, tỉnh, thị, trong thực tế, đã và đang bị cấp lãnh đạo đương thời quân sự hóa với lý do vì an ninh và nhu cầu bình định v.v…Theo tôi, đây là một chủ trương lớn thứ nhì sau lần ông kêu gọi việc chấp nhận quyền đối lập chính trị khi ông mới về phục vụ đất nước. Chủ trương dân sự hóa guồng máy hành chánh của ông có gây được tiếng vang, nhưng không thuyết phục được cấp lãnh đạo, các quân nhân vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ở cấp đô thị, các quận và đặc khu cho tới ngày 30/4/75.

Đóng góp lớn nhất của ông,  với sự cộng tác của GS Huy là đã hình thành và phát triển được thưc sự một lực lượng đối lập chính trị, PTQGCT, đã đi vào sinh hoạt chính thức trong chính trường lúc bấy giờ với sự hiện diện của các dân biểu Khối Cấp Tiến trong Quốc Hội, được đánh giá là đối lập thực sự chứ không phải là đối lập theo kiểu “lom khom”.Đa phần các vị dân biểu thuộc khối Cấp Tiến đều tốt nghiệp hoặc trường Luật hoặc trường Quốc Gia Hành Chánh như các ông Trần minh Nhật (trường Luật), Trương vi Trí, Nguyễn văn Quí, Nguyễn văn Tiết (trường Quốc Gia Hành Chánh) v.v…

Riêng về đức độ và cá tính, trong suốt thời gian gần gũi ông, từ khi ở  Mỹ, đến lúc ở VN, cho tới ngày ông bị sát hại năm 1971, điểm đáng nói nhất là GS Bông chưa hề kêu gọi tôi tham gia vào PTQGCT.  Một lần tôi đến hỏi ý kiến là tôi có nên gia nhập đảng Tân Đại Việt không, vì một số bạn bè thân thiết mời, ông đã nhanh chóng trả lờì ngay là không nên, nhưng  không cho biết lý do tại sao. Gần đây, khi trao đổi ý kiến với anh Lê Công Truyền về điểm này, anh cũng cho biết bản thân anh cũng có hỏi ý kiến GS Bông là có nên gia nhập PTQGCT không, sau khi anh ấy được GS Huy mời, GS Bông cũng ngăn cản, còn nói thêm là việc gia nhập chỉ làm cho tướng Đặng văn Quang để ý chứ không có lợi .

Tuy tôi và anh Lê Công Truyền không tham gia PTQGCT, nhưng mỗi lần có sinh hoạt đại hội của phong trào nầy, GS Bông đều kêu chúng tôi cùng đi chung với ông đến dự. Lần chót là kỳ họp đại hội tại xã Khánh Hậu thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, sát tỉnh Long An.

Phải chăng cũng vì mối liên hệ này với GS Bông nên lúc tôi bị CS cầm tù sau ngày 30/ 4/1975, cán bộ CS hai lần đến tìm tôi (một lần khi tôi ở trại giam Thủ Đức trong Nam, và một lần khi tôi ở trại giam Hà Tây ngoài Bắc ), yêu cầu tôi viết lại tổ chức, điều hành Hoc Viện QGHC trong khi tôi không  làm việc cho Học Viện ngày nào cả. Trong mỗi lần gặp gỡ như vậy, cán bộ CS đều hỏi tôi, dưới hình thức như là câu chuyện trao đổi bên lề, không chính thức. Họ hỏi : “ Theo anh, ai đã giết GS Bông ?.” Tôi trả lời: “Bộ Tư lệnh CSQG đã mở cuộc họp báo trưng bằng cớ là người cộng sản đã giết hại GS Bông”. Tôi có nói thêm một câu lấp lững: “ Theo cán bộ, ai đã giết Đức Thầy Huỳnh phú Sổ ?”(Giáo chủ của Phật giáo Hòa Hảo). Họ không trả lời.

GS Nguyễn Văn Bông (phía trước), GS Nguyễn Văn Tương, (bên phải) và GS Tạ Văn Tài đến trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường Luật. Ảnh: Internet – chưa rõ nguồn.

Cũng trong phần nói về đức độ và tinh thần phóng khoáng của GS Bông, tôi cũng xin được nói thêm ở đây: Sau ngày GS Bông về dạy tại trường Luật, Sàigòn, từ 1963 trở đi, các sinh viên ban Công Pháp đã xem ông như là vị giáo sư cứu tinh của họ, bởi lẽ ông đã giải tỏa được sự tắt nghẽn, hay nói nôm na là hiện tuợng nút chặn trên con đường trình luận án Tiến Sĩ Công Pháp. Thật vậy, trước đó số người học tiếp và được cấp bằng Tiến sĩ Công pháp gần như có tính cách nhỏ giọt, vì sinh viên đã gặp quá nhiều trở ngại đến nản lòng trong việc đi tìm ra người chịu nhận làm giáo sư bảo trợ để làm luận án Tiến sĩ Công pháp. Lúc bấy giờ người có thẩm quyền cao nhất bên Công pháp là GS Vũ quốc Thông. Đến khi GS Bông về dạy tại đây, gần như năm nào cũng đều có người trình luận án và đỗ bằng Tiến sĩ Công Pháp. Lý do chính là do GS Bông đã thay thế GS Thông trong cương vị đó.

Về trường hợp GS Bông bị đặt chất nổ sát hại năm 1971. Lúc đó vào khoảng gần 12 giờ trưa, tôi đang làm viêc tại Phủ Thủ Tướng, được anh Nguyễn Thành Thân, cựu sinh viên Cao học HC, vừa là con vừa là Chánh Văn Phòng cho ông Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng Nguyễn văn Vàng, thông báo là ông Vàng đang cùng Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm trên đường đi đến bệnh viện Đô Thành sau khi nghe tin GS Bông lâm nạn. Tôi liền phối kiểm lại tin tức với Trung tá Tạo, chánh văn phòng của Tư Lệnh CSQG, được biết thêm là Việt Cộng đã ném chất nổ dưới gầm xe khi xe dừng lại tại ngã tư Cao Thắng và Phan thanh Giản, chất nổ làm cháy xe chở GS Bông khiến thân thể cũng bị cháy và ông đã qua đời rồi. Tôi lặng người trong bàng hoàng và vô cùng xúc động với một lòng tiếc thương không thể nào tả hết được.

Chiều hôm đó, tôi đến nhà anh Lê công Truyền ở Gia Định, cả hai cùng đi đến bệnh viện Đô Thành. Tại đây, chúng tôi chỉ đứng bên ngoài vì bên trong đã quá đông người và đang tiến hành lễ tẩn liệm theo nghi thức Phật giáo, nên bản thân tôi không được nhìn mặt GS Bông lần cuối. Riêng anh Truyền thì ngay buổi trưa hôm ấy, khi hay tin, anh đã chạy bộ đến BV Đô Thành và đã nhìn đươc thi thể cuả GS Bông. Theo anh, hình ảnh sau cùng của GS Bông rất là thê thảm.

Sau nầy anh Truyền có nói với tôi rằng, từ sau vụ đặt chất nổ năm 1968 làm sập tường trong phòng Viện Trưởng ,GS Bông tạm thời phải làm việc ở một phòng khác, gần cầu thang và gần phòng làm việc của anh, nên anh có dịp tiếp xúc với GS Bông nhiều hơn. Trong các dịp nầy, anh có kể cho GS Bông nghe một số các trường hợp CS ám sát người quốc gia, sau khi họ điều nghiên giờ giấc và thói quen đi đứng cuả những người đó. Anh Truyền đã khuyên GS Bông cần lưu ý trong việc đi lại hơn nữa. Mới đây, khi có dịp liên lạc với ông bạn thân đã biệt phái người đển bảo vệ an ninh cho GS Bông mà tôi có dịp đề cập ở phần trên, anh ấy cũng cho tôi biết những chi tiết sau: Vài tháng trước ngày GS Bông bị đặt chất nổ, trên đường đi làm việc, tình cờ xe anh chạy sau xe GS Bông lúc xe này vừa ra khỏi nhà ở đường Phan thanh Giản, Anh ấy cố ý chạy theo sau cho đến khi tới Học Viện. Tại HọcViện, anh đã vào gặp GS Bông và nói rằng, trong suốt lộ trình vừa rồi, lúc ngồi trên xe, giáo sư đã chăm chú ngồi đọc tài liệu mà không quan tâm đến quang cảnh chung quanh. Anh cũng đề nghị giáo sư cần thay đổi lộ trình di chuyển.

Một thời gian ngắn  sau khi GS Bông mất,  Bộ Tư Lệnh CSQG  tổ chức họp báo trưng bằng cớ chính bọn CS đã sát hại GS Bông, theo đó toán đặc công thực hiện viêc ám sát thuộc ban trí vận của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do Trần Bạch Đằng cầm đầu. Lúc bấy giờ, vẫn có dư luận hoài nghi kết quả điều tra này.

Một sự ngẩu nhiên là sau ngày ra tù CS năm 1987, tình cờ tôi có dịp găp được anh Nguyễn bá Minh ở Sàigòn, một người cùng học ở tiểu học và trung học với anh Trương đình Thăng ở Nha Trang (anh Thăng là cựu sinh viên QGHC). Anh Minh cho biết, trước khi thi hành công tác, tổ đặc công VC ném chất nổ vào xe GS Bông đã đến trường Bồ Đề (trường tư thục nằm trên đường Nguyễn thái Học, khu chợ Cầu Ông Lãnh) để mượn chiếc xe Honda của một người đang cư ngụ trong cư xá nầy. Một chi tiết khác nữa tôi được biết qua anh Trương đình Thăng, theo đó sau khi ra tù CS, anh có đi làm việc cho cơ quan dịch vụ đầu tư ở Bến Chương Dương. Tại đây, anh nghe các nhân viên cho biết tên Nguyễn văn Bé, một đảng ủy CS làm việc cho khu chế xuất ở trên lầu, là người đã thực hiện việc ám sát GS Bông.  Tên Bé đã kể lại, khì xe ông Bông ngừng lại đã ở ngã tư Cao Thắng và Phan thanh Giản thì chính Bé ném cặp táp đựng chất nổ xuống gầm xe cuả GS Bông, sau đó y phóng xe  qua đường Cao Thắng, chạy tiếp vào trong hẽm để đào thoát.

Trong khi đó, anh Lê văn Bỉnh, cũng là cựu sinh viên QGHC, lại cho tôi biết, anh ấy có đọc một cuốn sách không nhớ tựa, do CS xuất bản vào giữa thập niên 1980, trong đó có nói đến người thực hiện việc sát hại GS Bông lúc ấy đang làm phường trưởng ở quận Bình Thạnh.  Gần đây nhất, vào khoảng tháng 7/2007, một người ký tên Trần Thanh, trong một bài viết tựa đề “ Ai đã giết GS Bông ” lại đưa ra các chi tiết khác, theo đó, sau 1975, tạp chí Đứng Dậy ( tên mới của tờ Đối Diện trước 1975 của linh mục Chân Tín ) có đăng bài viết, dưới dạng hồì ký, kể lại chiến công của toán biệt động thành của tác giả Vũ Quang Hùng. Hùng tự nhận là sinh viên năm thứ ba đại học Khoa học Saigòn, thuộc ban an ninh T4 biệt động thành, trực thuộc Trung Ương Cục R, nhận lệnh ám sát GS Nguyễn văn Bông. Hùng đã cùng một đồng bọn, dùng xe Honda 90, y ngồi phía sau và chính y đã ném chất nổ dưới gầm xe GS Nguyễn văn Bông tại ngã tư Cao Thắng và Phan thanh Giản. Sau 1975, Hùng được cho làm Chủ tịch Uỷ Ban Nhân dân Quận 3 thành phố Hồ chí Minh.

Một chi tiết khá đặc biệt khác nữa tôi xin đề cập thêm ở đây: anh Trần Quang Trí, cựu sinh viên QGHC, trước khi qua đời, trong một bài viết, tường thuật về cái chết của GS Bông, có lưu ý tới sự có mặt của kịch sĩ Kim Cương, đang ở  bên cạnh bà Bông trên lầu, khi anh ấy từ bệnh viện Đô Thành về nhà GS Bông để chuẩn bị tang lễ.(Lúc đầu tang lễ được dự định tổ chức ở nhà, về sau được quyết định cử hành  tại trụ sở của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến trên đường Phan đình Phùng). Về điểm nầy, trong lần gặp gỡ với bà Jackie Bông Wright vào tháng 5/2008 tại Sacramento, tôi có hỏi, được bà xác nhận, cô Kim Cương có đến nhà, ở bên cạnh bà suốt ngày hôm đó.  Hồi ấy, bà cũng thấy ngạc nhiên trước sự việc nầy, bởi lẽ, tuy gia đình bà và gia đình Kim Cương trước kia có quen biết, nhưng sau nầy không còn liên lạc nhau. Theo bà nghĩ, có thể CS đã cho cô Kim Cương đến dò la tin tức chung quanh cái chết của GS Bông. (Từ trung tuần tháng 5/1975, các báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân đều có đăng bài tường thuật trên trang nhất, liệt kê Kim Cương là thượng tá công an, một cán bộ nằm vùng, hoạt động đắc lực tại miền Nam).

Vấn đề ai trực tiếp giết GS Bông không quan trọng.  Điểm chính yếu là chính giới lãnh đạo CS đã chủ trương sát hại ông, với chủ đích vừa triệt hạ một nhà lãnh đạo chính trị tại miền Nam, có nhiều triển vọng sẽ đối đầu bất lợi với họ trong tương lai, vừa gây nghi ngờ trong nội bô những người quốc gia. Theo suy nghĩ của riêng tôi, GS Bông ra đi, là một sự mất mát to lớn cho chính trường miền Nam vì ông được xem là nhân vật sáng giá nhất để cầm đầu một nội các dân sự mà dư luận lúc đó cho là sắp xảy ra trong tương lai gần. Mất GS Bông, PTQGCT mất đi một trụ cột quan trọng bởi lẽ ông là người dễ thu phục cảm tình, có khả năng tập hợp đông đảo giới trí thức trẻ về với ông hơn so với GS Huỵ. Mất GS Bông, sinh viên trường QGHCvà trường Luật mất đi một vị giáo sư ưu tú, một người thầy tận tụy, tận tình giúp đỡ sinh viên khi được yêu cầu, nhất là đốí với các sinh viên bậc cao học đang chuẩn bị đệ trình luận án tiến sĩ công pháp. Hình ảnh vị giáo sư khả kính nầy vẫn mãi sống trong tâm khảm của những người từng làm việc, cộng tác và gần gũi ông.

TRIỆU HUỲNH VÕ

Cựu sinh viên khóa 6 HVQGHC

ELKGROVE  ngày 8 tháng 11 năm 2008

Views: 129

Một Chuyện Rất Việt Nam

Đỗ Tiến Đức

Năm 1994 tình cờ tôi dính vào một chuyện tình của một người đàn bà ở trong nước có người yêu vượt biển định cư tại Nam Cali. Tôi không biết phụ nữ đó bao nhiêu tuổi, xấu đẹp thế nào, giàu hay nghèo, sang hay hèn, Bắc hay Trung hay Nam và Phật giáo hay Thiên Chúa Giáo. Tôi chỉ biết tên người đó là Thanh.
Như tôi vừa nói, đây chỉ là sự tình cờ. Hôm ấy, hình như đầu tháng 5, tôi đang trông chiếc máy CNC chạy giữa một cơ xưởng rộng mênh mông, bên hàng trăm chiếc máy khác trong một cơ xưởng tiện, thì một đồng nghiệp người Ba Tây tên là Washington đi tới. Anh ta chìa tay về phía tôi, đưa cho tôi một miếng giấy nhỏ, nói :
– Hello, Nguyễn, tao nghĩ cái thư này viết bằng tiếng Việt Nam của mày. Mày xem có phải không ?
Liếc nhìn miếng giấy trong lúc tôi đón lấy từ tay Washington, tôi đã nhận ra ngay chữ Việt rồi. Tôi gật đầu và tò mò đọc ngay vì tổng cộng chỉ có ít dòng :

“Gửi người bạn phương xa,
Tôi tên là Thanh, công nhân viên của xí nghiệp may xuất khẩu Thành Công ở số 1955 đường Lê nin, huyện Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Người mà tôi yêu, chồng tôi, tên là Nguyễn Ngọc Luận, tốt nghiệp Đại học Y Khoa Sài Gòn, vượt biên năm 1988, từ đó mất tích luôn. Gần đây gặp một Việt kiều về, tôi hỏi thăm thì người ấy nói ở Mỹ có một bác sĩ tên là Nguyễn Ngọc Luận nhưng không biết điạ chỉ. Ai nhận được lá thư này là ân nhân của tôi, xin tìm giúp tôi chồng tôi, người mà tôi thương yêu suốt đời. Ngày đêm tôi chờ đợi tin của ân nhân…
Thanh

Đọc xong thư, tôi mỉm cười hỏi Washington :
– Bạn có thân nhân mới tới Việt Nam du lịch chăng ?
– Không ? Sao mày hỏi điều đó ?
– Vậy chứ từ đâu mà bạn có lá thư này ?
Washington thích thú kể :
– À, ngày birthday của tao, vợ tao mua tặng tao chiếc sơ mi. Mở áo ra mặc thử, tao thấy mảnh giấy nào trong túi áo…
Tôi ngạc nhiên :
– Thế nghĩa là sao ? Bạn mua phải áo cũ ?
– Tao không nghĩ vậy. Theo vợ tao đoán thì có thể là một người thợ may để thư vào chiếc áo này, bắt chước kiểu người ta hay bỏ thư vào chai rồi thả xuống biển xem nó trôi dạt tới tay ai… Nhưng có phải là chữ Việt Nam không ?
– Phải.
– Vậy thì tao không hiểu điều này, mày giải thích cho tao nghe. Label của chiếc áo này là một nhãn hiệu nổi tiếng của Mỹ, đề là may ở Nam Hàn, sao lại có lá thư của người Việt Nam trong túi ?
– Giản dị thôi. Tụi Mỹ nó thuê mấy thằng Nam Hàn may cho rẻ. Mấy thằng Nam Hàn lại thuê thợ Việt Nam cho rẻ hơn vì lương công nhân viên Sài gòn chỉ cỡ ba mươi đô la một tháng.
Washington kết luận :
– Câu chuyện thú vị đấy chứ ! Mày nói cho tao nghe bức thư viết cái gì.
Tôi lẩm nhẩm :
– Thư của một người đàn bà nhờ kiếm chồng …
Rồi tôi nói cho Washington nghe những điều viết trong thư. Nghe xong, Washington còn hăm hở hơn tôi :
– Nhất định phải giúp bà ta rồi. Mày kiếm cái tên bác sĩ này hẳn không khó, phải không ? Và mày có thể viết ngay cho bà ta cái thơ báo tin cho bà ta biết mày, à quên, tao chứ, đã nhận được cái thơ của bà ta. Mày nhớ làm nhá, Chúa sẽ trả ơn mày…
Tôi gật đầu cho Washington vui lòng :
– Ô kê. Tôi có thể cho bạn biết kết quả ngay là tôi đã tìm ra ông chồng của thiếu phụ này rồi. Ông ta có phòng mạch ở Los Angeles và ông ta cũng là một nhà tranh đấu chống cộng rất quyết liệt.
– Ông ta đang hành nghề bác sĩ ? Thế tại sao lại không liên lạc với vợ ?
– Làm sao tôi biết ? Bạn nên nhớ là mười chín năm qua, dân tộc tôi bất hạnh lắm, chuyện gì cũng có thể xẩy ra cả.
– Thí dụ như ông này đã có vợ mới thì sao ?
– Có thể.
– Nếu thế thì thôi, đừng cho người đàn bà này biết.
– Tôi mới nói “có thể” chứ đã chắc chắn đâu. Tại sao không nghĩ tốt hơn là khi ông ta vượt biên rồi thì ở nhà, vợ ông ta bị Việt cộng tịch thu nhà, bắt bà ta đi tù vì tội đồng lõa giúp người vượt biên. Cho nên hai vợ chồng này mất tin tức địa chỉ của nhau. Tưởng tượng hôm nào mình tới nhà ông ta, thấy ông ta sống một mình trong một căn nhà năm trăm ngàn đô la ở Beverly Hills và phòng nào cũng có treo ảnh của người đàn bà tác giả lá thư này…
Washington hồn nhiên reo vui :
– Hay quá! Vậy hôm nào mày đi gặp ông bác sĩ đó, nhớ hú cho tao đi cùng, nhé.

Buổi chiều hôm đó, trên đường tan sở trở về nhà tôi cứ bâng khuâng với lá thư của thiếu phụ tên Thanh có người chồng là bác sĩ Luận. Tới bữa ăn, tôi đem câu chuyện này nói với vợ tôi thì vợ tôi kêu lên :
– Ông ta có vợ rồi mà. Bà này đi chiếc Mercedes trắng, nghe nói bà này giầu lắm, đã nuôi ông này ăn học cho tới khi lấy được bằng tương đương để được hành nghề lại đấy.
Tôi khựng lại, tự nhiên tôi đứng về phía người thiếu phụ tên Thanh :
– Sao em biết?
– Thì thỉnh thoảng đi dự ba cái vụ khiêu vũ gây quỹ đó, người này chỉ chỏ người kia, ai đeo hột soàn mấy ca ra, vuông hay tròn, giá bao nhiêu, mặc áo bốn số hay ba số hay hai số cũng còn biết…
– Em nói gì mà áo bốn số, ba số ?
– Tiền. Bốn số là áo mắc tiền, trên một ngàn, ba số là áo bạc trăm còn hai số như em là đồ on sale ở Loehmanns hay Northrom Rack…
Tôi hỏi một câu hơi ngơ ngẩn :
– Như vậy thì làm sao ? Có nên gặp cái ông bác sĩ này nữa không ?
– Người ta nhờ thì mình làm. Anh bỏ lá thư vào phong bì, dán 29 cent tem, mail đi…
– Không được đâu. Sợ bà vợ ông ta trông coi văn phòng, gặp lá thư này thì ông ta đã không bao giờ được đọc những hàng chữ của vợ ông ta viết, và chẳng những thế, gia đình ông ta còn xào xáo từ nay nữa, đâu có lợi gì.
Tối hôm ấy, tôi ngồi cặm cụi viết thư cho người đàn bà tên Thanh. Dường như đã vài năm nay tôi không viết thư cho ai nên trong lòng dạt dào ý tưởng mà viết không ra chữ. Đời sống xứ Mỹ đã phát sinh ra trong tôi tính lười biếng kỳ cục này. Nhớ lại hồi sống ở quê nhà, gần như ngày nào tôi cũng có ít nhất một phong bì gửi đi vì tôi rất đông bạn bè và gia đình nội ngoại. Ấy là không kể tới hồi còn trẻ, “khi đã yêu thì mơ mộng nhiều”, viết thư cho “nàng” bất kể giờ giấc, ngay cả lúc ngồi trong nhà thờ nghe cha giảng. Nhưng ở Mỹ, mọi việc giao thiệp đều qua đường dây điện thoại. Chẳng hạn bà vợ tôi hễ về đến nhà là y như cái ống điện thoại không dây đã áp dính vô tai, dù làm bếp hay coi ti vi và đôi khi cả lúc vào trong phòng vệ sinh. Ba đứa con tôi cũng không kém, thành ra gia đình tôi chẳng buôn bán gì mà cũng đã có hai đường dây điện thoại, máy chính máy phụ giăng mắc từ phòng này sang phòng kia cứ y như trung tâm hành quân của một tiểu khu ngày xưa. Cái thói quen viết thư mất dần cho đến bây giờ, nhìn hàng chữ trên giấy, tôi thấy vừa xấu lại vừa vô duyên chi lạ. “Phấn đấu” tới hai giờ sáng, tôi mới hoàn thành một lá thư dài khoảng hai chục giòng để gửi về xí nghiệp may xuất khẩu Thống Nhất cho người đàn bà tên Thanh.

Sáng hôm sau, vừa tới sở thì Washington đã chặn hỏi tôi :
– Mày liên lạc với ông bác sĩ kia chưa ?
– Để cuối tuần này.
– Mày không có quyền chậm trễ. Mày hãy nhớ tới người đàn bà kia, bà ta giống như thằng cha nào mà tao quên tên rồi, hình như là Robinson thì phải, thằng cha bị đắm tàu dạt vào hoang đảo, hàng ngày ngóng ra ngoài khơi xem có tàu nào tới vớt không sau khi thằng cha này thả xuống biển vài cái chai mang thơ cầu cứu.
– Nhưng mà thì giờ đâu ? Hàng ngày phải vô đây từ sáng tới chiều rồi …
– Thì mày gọi điện thoại.
Tôi trả lời cho qua là chưa kiếm ra số điện thoại vì thấy anh chàng Ba Tây này ồn ào qúa khiến tôi nghĩ rằng anh chàng đang giải trí với câu chuyện tình chia cách của một cặp vợ chồng Việt Nam, anh chàng tò mò muốn biết thêm chi tiết để tối về, kể cho vợ nghe và vợ anh ta bốc điện thoại kể cho bạn nghe tùm lum một cách rất khoan khoái. Thấy tôi lạnh nhạt bước tới dàn máy CNC thì Washington nhún vai bỏ đi.
Không ngờ đến lúc nghỉ giải lao, Washington hớn hở trở lại chỗ tôi, đập mạnh vào vai tôi y như khi anh ta thắng cuộc đánh đề football :
– Tao cho mày số điện thoại của ông bác sĩ Luận.
Washington chìa vào mặt tôi mảnh giấy tèm lem vết dầu nhớt, tôi lại ngạc nhiên :
– Làm sao bạn có?
Washington cười hề hề :
– Mày ở Mỹ gần chục năm mà dở tệ. Nhắc cái điện thoại lên, gặp con tổng đài, đọc tên thành phố và tên bác sĩ Luận rồi hỏi số điện thoại là một giây nó trả lời mày.
Washington nắm tay tôi lôi đi :
– Bây giờ còn mười phút, mày ra máy điện thoại công cộng này, tao bỏ 25 cent cho mày gọi ông bác sĩ Luận.
Thực sự là tôi không đồng ý cái lối hành động nóng nẩy của Washington, vì không hiểu sao tôi cứ nghĩ anh chàng Ba Tây này làm chỉ vì tò mò, tìm hứng thú cho bản thân anh ta hơn là cho người đàn bà Việt Nam tên Thanh. Nhưng nếu tôi không gọi điện thoại thì anh chàng này sẽ hiểu qua tôi là người Việt thiếu tình cảm, lạnh lùng, không thương ngay cả đồng bào mình. Với lại, tôi biết, nếu tôi không nói chuyện với bác sĩ Luận lúc này thì Washington sẽ nói. Vì thế, tôi đành miễn cưỡng theo Washington tới máy điện thoại. Chính anh chàng to con rềnh rang này bỏ tiền vào máy rồi quay số, chỉ khi nghe tiếng chuông reo rồi mới chuyển máy cho tôi.
Tôi nghe bên kia đầu giây là giọng đàn bà :
– Phòng mạch bác sĩ Luận, tôi nghe.
– Thưa chị, tôi xin được nói chuyện với bác sĩ Luận.
– Xin lỗi, ông muốn lấy hẹn khám bệnh phải không ? Ông cho tôi biết tên, số điện thoại để tôi ghi vào sổ cho ông. Ông có medical, bảo hiểm hay trả tiền mặt ?
– Thưa không, tôi muốn nói chuyện riêng ?
– Thế hả ? Bác sĩ đang bận khám bệnh nhá. Ông cho tôi số điện thoại rồi bác sĩ gọi lại. Mà xin lỗi ông, chuyện riêng là chuyện gì ?
– Thưa chị, đã bảo là chuyện riêng mà…
– Không sao, tôi là vợ bác sĩ Luận đây, ông cứ nói…
– Dạ, thưa bà bác sĩ, bà có thể ghi số điện thoại của tôi, nếu bác sĩ muốn thì gọi cho tôi sau..
Tôi xưng tên, đọc số điện thoại xong rồi gác máy. Washington bồn chồn ra mặt, anh chàng muốn tôi kể cho nghe ngay cuộc đối thoại vừa rồi. Khi tôi nói chưa hết thì chợt nghe chuông điện thoại reo, Washington tò mò nhấc lên. Tôi thấy Washington nhìn tôi, nhướng cao đôi lông mày và nghe hắn trả lời :
– Vâng. Đây là sở làm của nó.
– …
– Vâng. Tôi biết nó mới gọi cho phòng mạch.
– …
– Vâng. Nó cho bà số điện thoại ở nhà.
Cúp máy xong, Washington cười :
– Con mẹ này đáo để thật. Nó kiểm soát mày là ai đấy ?
Tôi hỏi Washington :
– Sao bà ấy biết được số điện thoại này ? Chắc chắn là ban nãy tôi không có nói.
– Mày ngu qúa. Ở Mỹ mấy năm rồi ? Nó có máy ghi lại những số điện thoại gọi vào văn phòng nó để nếu mày tống tiền thì nó trình FBI, hiểu chưa.
Từ đó, câu chuyện của người đàn bà tên Thanh trở thành một ám ảnh khiến tôi lúc nào cũng bận tâm suy nghĩ. Chắc chắn là bác sĩ Luận giờ đây đã lập gia đình mới. Vậy thì tôi có nên chuyển lá thư của người đàn bà tên Thanh cho ông ta nữa không ? Ông ta còn thương yêu còn nhớ người đàn bà tên Thanh đó không ?
Nếu ông ta còn yêu bà Thanh thì liệu ông ta sẽ phản ứng thế nào ? Và, người đàn bà đang chung sống với ông ta có biết mối tình của ông ta với bà Thanh không ?
Nếu ông ta nói dối chưa yêu ai, chưa gọi ai bằng vợ, nay bà ta biết được lá thư này thì gia đình đó sẽ ra sao ?
Ông bác sĩ Luận không hề gọi điện thoại lại cho tôi. Tính tò mò đã thúc đẩy tôi vào một buổi sáng cuối tuần lái xe kiếm phòng mạch của bác sĩ Luận. Ông bác sĩ này rất đông khách, hàng chục bệnh nhân dáng điệu mỏi mệt ngồi chân co chân duỗi trước bức tường treo lá cờ vàng ba sọc đỏ và la liệt hình ảnh sinh hoạt của cộng đồng mà tấm hình nào cũng có bác sĩ Luận là vai chính. Thấp thoáng phía sau ô cửa sổ là hai phụ nữ, một người mặt hoa da phấn và một người da dẻ đơn sơ, áo quần giản dị, như thế chỉ nhìn qua cũng biết ngay một người là bà chủ và một người làm công với đồng lương tối thiểu.
Quan sát bà bác sĩ Luận một hồi, tự nhiên tôi thấy người đàn bà này đang hưởng hạnh phúc mà bà ta đã gây dựng nên, nếu như lời vợ tôi nói đúng, là bà ta đã nuôi ông Luận ăn học để lấy lại được giấy phép hành nghề. Thế thì lá thư của người đàn bà tên Thanh chẳng nên để thêm một người khác biết nữa. Tôi sẽ cất giữ lá thư đó làm kỷ niệm hoặc sẽ bôi tên ông bác sĩ rồi gửi lên đại học Yale cho giáo sư Huỳnh Sanh Thông cất vào thư viện Việt Nam.

*

Nhưng ba tuần sau thì tôi nhận được thư của người đàn bà tên Thanh từ Việt Nam gửi sang. Bức thư viết :

Thành phố Hồ chí Minh, ngày 25 tháng 6, 1994
Thưa ông Nguyễn,
Tôi là Triệu Thị Thanh, 35 tuổi, vợ của bác sĩ Nguyễn Ngọc Luận, từ nay xin được gọi ông là ân nhân. Tôi không ngờ lá thư của tôi lại tới tay ông, thật là may mắn. Thế thì hẳn phải có trời có phật thật, ông nhỉ.
Tôi đang là công nhân viên xí nghiệp may xuất khẩu Thành Công, làm gia công cho thương gia Nam Triều Tiên. Hàng ngày chúng tôi đóng thùng đưa xuống tàu chở ra nước ngoài hàng chục ngàn cái áo sơ mi đấy. Thế mà cái thơ tôi bỏ vội vào túi một chiếc áo, lại tới ông mới là đặc biệt, ông nhỉ.
Bây giờ, tôi kể cho ông nghe câu chuyện của tôi nhé. Tôi là gái Hà nội đấy. Hồi Mỹ đánh bom Hà nội 12 ngày, tôi mới có 13 tuổi, đã phải chạy tản cư lên Sơn Tây đấy. Thế rồi năm 1975, giải phóng được miền Nam, bố tôi vào trong đó tiếp quản. Thấy Sài gòn dễ sống hơn Hà nội, bố tôi đưa cả nhà vào. Tôi trở thành nữ sinh trường Nguyễn Thị Minh Khai. Tốt nghiệp Trung học Phổ thông cấp 2 xong, bố tôi đưa tôi vào làm công an.
Năm 1980, có một ngụy quân được trại cải tạo tạm tha, giao về cho phường quản lý, đến công an phường trình diện. Tên anh ta là Nguyễn Ngọc Luận, đại úy quân y trong quân đội ngụy. Tôi là người quản lý hồ sơ những người bị quản chế, chưa có quyền công dân nên anh Nguyễn Ngọc Luận phải trình diện tôi và làm việc với tôi.
Thoạt đầu, tôi thấy anh ta cũng như những ngụy quân ngụy quyền khác thôi. Tôi giao cho anh ta nhiệm vụ theo dõi các hoạt động phản động chống cách mạng trong khu phố, phải báo cáo với tôi những dấu hiệu khả nghi như người lạ mặt tới lui và phải gặp tôi làm việc một tuần ba lần vào thứ hai thứ tư và thứ sáu. Theo hồ sơ khai báo của anh ta thì trong lúc anh ta đi cải tạo, vợ anh ta đã đi lấy chồng khác, là một cán bộ ngành Hải quan. Hai đứa con anh ta được người chị gái ở kinh tế mới Gia Ray nuôi.
Một hôm, anh ta tới gặp tôi, xin tôi cấp giấy phép di chuyển để đi thăm con. Tôi trả lời là theo nguyên tắc thì khi còn quản chế, anh ta không được ra khỏi khu vực. Thế là anh ta khóc ngay trước mặt tôi, nói là nhớ con vì mới nhận được thư của người chị gởi về nói là đứa con nhỏ của anh trong lúc làm rẫy đã bị bọ cạp cắn. Tôi nói với anh ta là sao không đưa hai đứa con về đây thì anh ta trả lời là anh ta không có công ăn việc làm nên không nuôi con nổi. Tôi hỏi thế sao anh ta không đi kinh tế mới với con anh ta thì anh ta nói anh ta là bác sĩ, nếu đi kinh tế mới thì chỉ là nông dân thôi, còn nếu ở lại thành phố, hết thời gian quản chế, có thể xin phép cách mạng mở phòng mạch, chừng đó sẽ đưa con về.
Thấy hoàn cảnh anh ta rất tội nghiệp, tôi đã cấp giấy đi đường cho anh ta. Khi trao tờ giấy, tôi nói : “Thông cảm hoàn cảnh của anh nên tôi đã làm sai nguyên tắc đây. Mong anh trở về đúng hạn, nếu không thì tôi bị kỷ luật”. Anh Nguyễn Ngọc Luận đã xúc động tới mức khi anh nhận tờ giấy phép trên tay tôi, anh đã nắm cả bàn tay tôi. Và, chính lúc bất ngờ bị anh ấy nắm tay, tôi cũng đã chợt thấy toàn thân tôi như bị luồng điện giật, ông ạ.
Thế nên trong một tuần lễ anh Luận đi xa, tôi là người duy nhất mong đợi anh ấy trở về. Không phải chỉ vì tôi sợ anh ấy đi mất luôn khiến tôi bị kỷ luật đâu, tôi còn thấy một điều khác, đó là sự vắng vẻ, sự thiếu thốn kỳ lạ lắm. Chắc tôi không nói thì ông cũng biết, tôi đã có cảm tình với anh Luận rồi, phải không ?
Đúng bảy ngày sau, anh Luận tới trụ sở công an phường trình diện tôi, tôi mừng không thể tả, khiến mấy bạn tôi phát hiện được tình cảm của tôi. Họ bắt tôi kiểm điểm. Họ mách với bố tôi là tôi yêu một tên ngụy. Bố tôi giận lắm, chửi mắng tôi là mất tác phong cách mạng. Chẳng ngờ lòng tôi như giòng nước, gặp vách núi chặn thì thành thác đổ. Tôi đã ngã vào vòng tay anh Luận. Lúc đó thì tôi không cần gì nữa. Tôi chấp nhận mất tất cả để được tình yêu của anh Luận. Bố mẹ tôi từ tôi, đảng sa thải tôi, tôi bị khai trừ khỏi công an vì tôi không nhận lệnh di chuyển về Hải Dương. Tôi trở thành thợ may và buôn bán linh tinh để nuôi anh Luận.
Để trả thù tôi, công an đã không trả quyền công dân cho anh Luận sau một năm quản chế. Chúng tôi xin di chuyển đi nơi khác, công an không chứng giấy. Hy vọng được mở phòng khám bệnh của anh Luận coi như hết, anh buồn lắm. Anh xin vào làm ở một xưởng đóng bàn ghế với chân đánh vẹc ni. Nhiều đêm thấy anh không ngủ, cứ nằm hút thuốc, tôi nghĩ vì tôi mà anh ấy khổ. Gía như tôi không lấy anh ấy thì sau một năm quản chế, anh ấy được trả quyền công dân và mở phòng khám bệnh, có tiền thì mang hai con anh ấy về cha con sống chung. Nay chỉ vì có tôi mà anh Luận bí đường tắc lối.
Cuộc sống điêu đứng như thế cứ ngày qua ngày, cuối cùng, vì yêu anh Luận nên tôi điều đình với bố tôi là tôi chấp nhận về Bắc với điều kiện anh Luận được trả quyền công dân và được giấy phép mở phòng khám bệnh. Bố tôi đồng ý. Tôi không cho chồng tôi biết chuyện này, một mình tôi, tôi lén chuẩn bị cho chồng tôi những thứ cần thiết, phần tôi, tôi chỉ có một cái túi xách tay với hai bộ quần áo của tôi, một bộ quần áo của chồng tôi mà tôi sẽ không bao giờ giặt để giữ lại chút hơi ngàn đời tôi thương mến, và một tấm hình mà tôi và anh Luận chụp chung, để trở về Bắc.
Đến ngày phải xa chồng vĩnh viễn, tôi cố cầm nước mắt, làm tiết canh vịt cho chồng tôi ăn, mua bia ngoại cho chồng tôi uống và ở với chồng tôi lần chót.
Chẳng ngờ khi ân ái, tôi đã không còn giữ nổi nữa, tôi òa khóc. Chồng tôi kinh ngạc ôm lấy tôi, an ủi tôi, hỏi tôi chuyện gì. Tôi vừa khóc vừa kể cho chồng tôi rồi bảo chồng tôi đã đến giờ ra bến xe hỏa rồi, để tôi đi kẻo trễ chuyến tàu Thống Nhất. Nhưng chồng tôi không buông tôi ra. Anh ấy bảo : “Anh không cần quyền công dân. Anh không cần phòng mạch. Anh cần em. Không, em không đi đâu hết”.
Hai vợ chồng tôi lại tiếp tục sống cảnh “một mái nhà tranh hai trái tim vàng” ở trong con hẻm đường Minh Mạng, phường Minh Mạng, quận 10. Thêm một năm rồi hai năm, đảng vẫn tiếp tục hành hạ chồng tôi và lần này ra tay trừng phạt bằng lệnh đuổi vợ chồng tôi đi Kinh tế mới Kà tum ở Tây Ninh.
Chúng tôi rời thành phố một cách bình thản, có lẽ chồng tôi không thể còn chuyện gì để xúc động hơn, để làm cho anh ấy buồn hơn nữa. Anh ấy nói với tôi :
“Nghĩ cho cùng thì cái xã hội này cũng chẳng có gì đáng tiếc nếu phải chết. Và nếu chết mà hai chúng mình có nhau thì chết còn vui hơn sống”.
Khu kinh tế mới Kà Tum nằm sát biên giới Miên Việt. Tôi nghe những người ở đây nói rằng Kà Tum cũng là nơi dừng chân của bọn buôn lậu, bọn đưa người vượt biên sang Thái Lan. Qủa thật, ít tháng sau, chúng tôi gặp một toán bộ đội đưa khoảng hai chục người từ thành phố Hồ Chí Minh lên, chuẩn bị quần áo Miên để qua biên giới. Chuyến ấy đi xong, vài ba tuần sau lại có chuyến khác. Nhìn người ta đi, chồng tôi thở dài ao ước : “Giá mình có vàng, em nhỉ, vợ chồng mình xin họ cho đi. Sang tới Thái Lan, anh sẽ được Mỹ nhận ngay. Khi đó mình mới hết khổ”.
Thấy chồng tôi muốn thì tôi làm. Tôi dò hỏi toán vượt biên, được biết mỗi đầu người phải đóng hai lượng vàng mà gia tài chúng tôi chỉ có hai chiếc nhẫn cưới mà anh Luận và tôi mua của một người bán vàng rồi đeo vào tay nhau ở ngoài vỉa hè để kỷ niệm, để tôi được hãnh diện là đã có chồng. Tôi bèn ngỏ lời với anh Luận cho tôi về thành phố một chuyến. Và tôi đã xin, đã mượn, đã vay của bạn bè, em tôi, anh tôi, chị tôi, cô tôi, đồng chí cũ của tôi, được đúng hai lượng vàng mang lên Kà Tum cho chồng tôi. Chồng tôi hỏi : “Em tính thế nào ?”. Tôi trả lời : “Em lo vàng cho anh vượt biên mà”. Chồng tôi nói : “Còn em ?”. Tôi lại cố giữ bình tĩnh : “Em đâu dám đi. Anh không thấy người ta nói các phụ nữ vượt biên qua đất Miên là khi thì bị Khmer Đỏ hiếp, khi thì bị lính Hun Sen hiếp. Thôi, anh cứ đi mình, rồi sau này lo cho em sang với anh”.
Chồng tôi đã nhập được vào nhóm người vượt biên giới đi tìm tự do sau khi tôi cài vào túi áo chồng tôi chiếc kim băng để giữ khỏi rớt tất cả những đồng bạc mà tôi có, và địa chỉ của một người bạn thân ở thành phố Hồ chí Minh để mai sau anh ấy gửi thư về. Tôi chỉ giữ lại cho tôi duy nhất một chiếc nhẫn một chỉ trên ngón tay để tôi nhớ về anh Luận, người mà tôi thương yêu suốt đời.
Nhưng tôi mất tin chồng tôi từ đó. Không biết anh ấy có thoát tới Thái Lan hay bị hại giữa những làn đạn của bọn Miên bắn giết nhau ? Tôi đã dò hỏi, tìm kiếm mọi nơi mọi cách mà vẫn không thấy chút tin nào của chồng tôi. Tôi chỉ mong anh ấy sống thôi.
Một hôm, ngồi xếp những chiếc áo sơ mi vào thùng sau khi kiểm phẩm xong để xuất khẩu, tự nhiên tôi có ý nghĩ, tại sao không gửi một lá thư vào một trong những chiếc áo này, biết đâu nếu qủa thực có ông Trời thì chồng tôi sẽ mua trúng cái áo đó ? Không ngờ lá thư lại tới tay ông cũng là may cho tôi, chứ nếu chiếc áo đó bán ở nước khác như Nam Triều Tiên, Nhật Bản thì tôi sẽ chẳng bao giờ được cái hy vọng qua ông rồi tôi sẽ nhận được tin về chồng tôi…
Bây giờ tôi là người rất tin rằng có ông Trời đấy, ông ạ. Một lần nữa, tôi xin gọi ông là ân nhân, và mong ông giúp tôi tìm gặp anh Nguyễn Ngọc Luận, cho anh ấy địa chỉ của tôi để anh ấy làm hồ sơ đoàn tụ cho tôi ngay.
Kính thư
Triệu Thị Thanh

Lá thư càng làm tôi lẩn quẩn hơn về câu chuyện tình của chị Triệu Thị Thanh. Tôi nghĩ mọi suy đóan của tôi đều có thể chủ quan và sai. Điều tốt nhất là tôi phải gặp bác sĩ Luận một lần. Vả lại, thông báo cho ông ta là trách nhiệm của tôi mà chị Thanh đã hết lòng nhờ cậy.
Quyết định như thế nên vào một sáng thứ bẩy, tôi đóng vai người bệnh tới phòng mạch bác sĩ Luận. Sau khi làm phiếu, đóng tiền mặt bốn mươi đô la xong, tôi ngồi chờ khoảng nửa giờ thì được y tá gọi đi cân đo trước khi gặp bác sĩ.
Ông bác sĩ là người trắng trẻo, nét mặt rất nhân ái, đôi mắt nhiệt tình và đôi môi lúc nào cũng như cười. Tôi nằm trên giường, quan sát ông ngồi đọc hồ sơ của tôi, tôi nghĩ, không biết trong cái đầu kia có còn chút hình ảnh nào của chị Thanh, của những ngày gian khổ ở Kà tum không ? Nếu tôi không đọc thơ chị Thanh, làm sao tôi biết con người này đã từng trải qua biết bao ngày tháng đắng cay, đã có ít nhất ba người đàn bà trong đời, và không hiểu hai đứa con ông ở khu Kinh tế mới Gia Ray đã được ông bảo lãnh sang đây chưa ?
Tôi chợt nghe bác sĩ Luận hỏi tôi :
– Chào anh, anh đau gì ?
Tôi nhìn quanh, thấy cô y tá đứng khá xa, mới nói nhỏ :
– Tôi có bệnh kín muốn nhờ bác sĩ xem. Ông có thể khép cửa, đừng cho y tá hay bà nhà vô được không ?
Bác sĩ Luận gật đầu ngay :
– Được, được…
Chờ cánh cửa khép xong, tôi mới nói :
– Bác sĩ có còn nhớ một người đàn bà tên là Triệu Thị Thanh ?
Lập tức ông ta như bị điện giật. Đôi mắt ông ta hớt hải liếc nhanh ra phía cửa, miệng lúng búng như muốn nói mà lại như không nói được. Tôi thì thầm tiếp :
– Bà Thanh có gửi cho tôi một lá thư để nhờ chuyển cho bác sĩ. Tôi xin giao lại cho bác sĩ…
Bác sĩ Luận run run đón nhận lá thư, miệng vẫn không nói một câu nào. Tôi không biết ông ta nghĩ gì ? Xúc động vì bất ngờ được tin người vợ cũ đã lạc nhau ?
Hay lo sợ bà vợ mới chợt đẩy cửa vào bắt gặp lá thư của chị Thanh ? Nhìn mặt ông ta tái nhợt như người bị cảm, trán lại nhơm nhớp mồ hôi, tôi hơi khôi hài nghĩ rằng giờ này ông ta chính là kẻ phải leo lên nằm trên cái giường này và tôi chẩn mạch cho ông ta mới đúng.
*

Bẵng đi khoảng ba tuần lễ, vào chiều chủ nhật, vợ con tôi chở nhau đi shopping, tôi ở nhà coi đánh bốc. Hồi ở Việt Nam tôi rất ghét môn này vì thấy nó chả có vẻ thể thao chút nào, tàn bạo là khác. Thể thao là cách thể hiện ba tiêu chuẩn cao hơn, nhanh hơn, xa hơn, đằng này đánh đấm nát mặt nhau, nói theo thời thượng là “vi phạm nhân quyền” qúa. Chính phủ Tân Gia Ba mới chỉ dùng roi đét vào đít một thanh niên Mỹ mà thế giới làm ồn lên, chỉ trích hình phạt này là dã man, thế mà công khai đánh tét mắt tét môi nhau công khai thì được ti vi trực tiếp truyền hình và càng thấy máu đổ càng ăn khách, càng cho là nghệ thuật.
Nhưng từ khi sang sống ở Mỹ, tự nhiên tôi lại thích xem đánh bốc. Tôi chưa tìm hiểu tại sao tôi thay đổi cách giải trí, có phải ở bầu thì tròn ở ống thì dài, tôi đã ảnh hưởng nhân sinh quan người Mỹ, hay thực tế chỉ là bây giờ tôi gìa yếu thì tôi thích vay mượn sức mạnh của kẻ khác?
Tôi đang ngồi xem hai ông võ sĩ đấm nhau thì điện thoại reo. Bên kia đầu giây là người mà tôi vẫn có ý chờ, đó là bác sĩ Luận. Ông chào tôi xong rồi nói :
– Tôi rất cảm ơn anh đã chuyển cho tôi thơ của Thanh…
– Không có chi. Chị ấy nhờ thì tôi làm.
– Nhưng cũng bởi vì mình có duyên với nhau chứ.
Tôi thăm dò :
– Vâng, tôi cũng nghĩ thế. Tôi mong bác sĩ không phiền tôi.
– Ồ, ồ, không bao giờ. Tôi đề nghị mình gọi nhau thân mật hơn, bỏ cái danh xưng bác sĩ đi, tôi đang gọi anh là anh mà. Hôm nào anh có thể đi ăn với tôi một bữa không ?
– Dạ, thế thì còn gì bằng.
Bác sĩ Luận hỏi ngay :
– Tối nay anh có rảnh không ?
– Cũng được.
Bác sĩ Luận hẹn tôi tới quán The Ambassador tại Pasadena, một quán ăn nổi tiếng với đầu bếp Thụy Điển lúc bẩy giờ rưỡi tối. Khi gặp nhau, ông bắt tay tôi rất thân mật và vào đề ngay :
– Tôi biết ơn anh đã nhận lời dù tôi mời anh qúa đột ngột.
Tôi pha trò :
– Nếu thế thì tôi cũng cám ơn anh vì tôi rất thích ăn ngon, với lại tôi cũng thích nghe chuyện lạ…
Bác sĩ Luận vui vẻ :
– Anh biết tại sao tôi mời anh ngay tối nay không ?
– Vì bà nhà mắc bận ?
– Anh thông minh qúa. Tại tôi có buổi họp về công việc làm ăn với tụi Mỹ, nhưng tôi không ăn với chúng nó mà gọi điện thoại mời anh. Vâng, thường thì tôi khó có dịp đi một mình, bà ấy đeo qúa.
Tôi thành thật nói :
– Sau khi đóng bốn mươi đô la để được gặp anh, trao thư của chị Thanh cho anh, mà hai ba tuần sau không nghe anh điện thoại, thú thực tôi hơi thất vọng.
– Anh không hiểu, xin lỗi anh không hiểu. Ngay lúc anh vừa ra khỏi phòng mạch là nhà tôi lột mất mấy cái thư đó ngay.
– Sao bà biết?
– Tại tôi không dấu được tình cảm. Nhìn mặt tôi bà ấy sinh nghi, chặn hỏi tôi. Tôi vội dấu thư của Thanh vào thùng rác mà bà ấy cũng khám phá ra.
– Như vậy là anh không còn yêu chị Thanh?
– Yêu chứ. Nhưng mà anh cũng hiểu, mình đâu có giải quyết được gì.
Tôi hỏi :
– Vậy là anh chưa được đọc thơ chị Thanh?
– Chưa. Bà ấy đốt ngay trước mắt tôi.
Tôi cười :
– Không sao, nếu anh muốn thì tôi sẽ cho anh bản khác, vì tôi có photo giữ kỷ niệm.
Chẳng ngờ khi nghe tôi nói thế, bác sĩ Luận năn nỉ cho ông ta được đọc ngay. Thấy lòng thiết tha của ông ta, tôi không thể từ chối, rốt cuộc hai chúng tôi rời quán án, lên xe về nhà tôi. Ngồi trên xe, tôi kể sơ sơ cho Luận nghe đầu đuôi câu chuyện một cách vô tư mà không kết luận vì chưa biết tình cảm của Luận thế nào ngoài tính sợ vợ qúa đáng của ông ta. Luận nói :
– Người chứ đâu phải chó mà quên được mối tình chung thủy như Thanh đối với tôi, anh ? Lúc gần bà Hoan, tên bà vợ tôi bây giờ, thành thật mà nói với anh là chẳng có ai nói yêu ai cả. Cảnh đàn ông đàn bà sáp vô nhau là chơi thôi. Không ngờ bà ấy chịu tôi, giúp tôi tiền bạc học lại và có với tôi đứa con. Anh biết không, tôi đã từng mua vé du lịch Việt Nam để tìm kiếm Thanh …
– Tôi nghe nói anh là Chủ tịch Ủy ban chống du lịch Việt nam mà lại về du lịch Việt Nam ?
– Vâng. Tình cảm con người mà anh. Mình về nước đâu có nghĩa là mình theo Việt cộng.
– Thế tại sao anh chống ?
– Bà vợ tôi đó. Bà đẩy tôi tới cái thế chống du lịch Việt Nam để cắt đường về của tôi mà. Hễ chỗ nào biểu tình chống du lịch là bà ấy chở tôi tới, bà ấy ủng hộ ban tổ chức ít tiền, bà ấy bảo tôi cầm cái bảng “Du lịch Việt Nam là cộng sản” để cho mấy tờ báo có chạy quảng cáo phòng mạch tôi chụp hình rồi đăng lên…
Tự nhiên tôi nói với Luận :
– Thôi, theo tôi thì anh chẳng nên đọc thư của chị Thanh làm gì.
Luận kêu lên nhè nhẹ :
– Không ! Anh cứ cho tôi mấy lá thư của Thanh đi. Ban này tôi đã nói với anh là tôi đâu phải là chó mà quên được tình yêu của Thanh. Nhưng anh hiểu cho tôi mà, hoàn cảnh này tôi làm gì được cho Thanh chứ ?

*

Ngày 10 tháng 8, 1994, tôi viết cho chị Triệu Thị Thanh một lá thư và kèm một phiếu gửi tiền về cho chị hai ngàn đô la tiền của bác sĩ Luận nhưng nói là tiền của tôi. Đầu tháng 9, tôi nhận được thư của chị Thanh. Chị viết :

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 8, 1994
Ông Nguyễn kính mến,
Thưa ông, tôi đã nhận được thư và số tiền hai ngàn US đô của ông gửi về. Trong thư ông cho tôi nhiều lời khuyên, an ủi tôi nên quên người chồng mà tôi yêu thương nhất đời là anh Nguyễn Ngọc Luận. Nhưng, thưa ông, lá thư của ông khiến tôi không thể quên chồng tôi mà còn làm niềm tin trong tim tôi sống lại mãnh liệt hơn.
Ông biết sao không, ông Nguyễn ? Bởi vì ông với tôi là hai người xa lạ, vì vậy dù là triệu phú ông cũng không dễ dàng gửi tặng tôi khơi khơi hai ngàn US đô. Tôi chắc chắn rằng tiền này là của anh Luận. Ông đã gặp anh Luận mà vì một lý do gì ông không tiện nói cho tôi biết mà thôi.
Vậy, để tìm hiểu sự thực, tôi sẽ dùng tiền này và tiền tôi dành dụm được đem đăng ký với công ty du lịch Bến Thành theo đoàn thương mại thành phố sang triển lãm công nghệ ở Los Angeles vào tháng 10, 1994. Theo báo đăng quảng cáo thì mỗi người tham dự phải đóng bốn ngàn tám trăm đô la, bao gồm tiền máy bay đi và về, tiền khách sạn và ăn ở hai tuần, được đi chơi DisneyLand, Las Vegas, sở thú San Diego và Hoa Thịnh Đốn.
Để hồ sơ được thông qua nhanh, tôi sẽ đăng ký là công nhân viên xí nghiệp may xuất khẩu Thành Công. Tôi rất mong được gặp ông trong dịp này. Ông cứ tới cửa hàng của xí nghiệp Thành Công trong khu triển lãm là thấy tôi. Hoặc ông gửi về cho tôi sớm số điện thoại của ông, khi nào tới Los Angeles, tôi sẽ gọi cho ông hay.
Kính thư
Triệu Thị Thanh

Đọc xong thư tôi không khỏi khen thầm là người đàn bà qủa nhiên thường có giác quan thứ sáu. Lá thư của chị Thanh lại khiến tôi cứ lẩn quẩn suy nghĩ, chiếm thì giờ của tôi còn nhiều hơn thì giờ tôi dành cho chiếc máy CNC.
Tôi tìm cách thông báo tin này cho bác sĩ Luận vì chỉ còn có ba tuần là chị Thanh đã có mặt ở Mỹ. Đã hai lần tôi điện thoại tới phòng mạch của Luận đều gặp người nghe là vợ ông ta. Và như lần trước, sau khi tôi cúp máy thì bà vợ ông ta gọi lại để kiểm soát. Tới cuối tuần, tôi đọc báo Việt ngữ, thấy tin cộng đồng sẽ họp vào chiều chủ nhật ở Little Saigon để thành lập ban tổ chức biểu tình chống phái đoàn của Việt cộng tới Los Angeles chiêu dụ đầu tư, tìm cách đi với Mỹ để dùng Mỹ chống áp lực của Tầu đang lấn chiếm quần đảo Trường Sa. Tôi nghĩ thế nào bác sĩ Luận cũng có mặt ở buổi họp này nên tôi trở thành người hưởng ứng cuộc biểu tình, hiện diện tại đó.
Qủa nhiên, bác sĩ Luận đang ngồi cùng với hai vị nũa chủ tọa buổi họp với khoảng năm sáu chục mái đầu bạc nhiều hoặc bạc ít. Nhiều ý kiến phát biểu chém đinh chặt sắt hô hào phải bằng mọi cách phá tan kế hoạch chiêu dụ tư bản Mỹ tới đầu tư ở Việt Nam, bảo bọn tư bản này hãy tới Trung cộng hay Phi Luật Tân mà làm ăn, đừng có mà tiếp tay Việt cộng. Khoảng một giờ trôi qua thì bác sĩ Luận đề nghị nghĩ giải lao trước khi đúc kết bản tuyên cáo chống phái đoàn giao thương của cộng sản Hà nội.
Bác sĩ Luận nheo mắt cười với tôi rồi tới gần, nói nhỏ, giọng hồi hộp :
– Chắc có tin của Thanh phải không, anh ?
– Giỏi. Không lẽ thần giao cách cảm nhỉ ?
– Tại anh đâu có phải là khuôn mặt của những buổi họp này ? Sự xuất hiện của anh là phải có chuyện đặc biệt cho tôi, tức chỉ là chuyện của Thanh.
– Vâng, tôi nói ngay kẻo và vợ anh bà ấy để ý rồi khổ cho anh. Chị Thanh mới gửi thư cho tôi đây này. Chị ấy nói sẽ theo phái đoàn thương mại Việt cộng sang dự triển lãm hội chợ tháng 9 tới. Chị ấy làm việc trong gian hàng may xuất khẩu Thành Công.
Qủa là bác sĩ Luận không chờ đợi một tin tức như thế. Mặt ông ngẩn ngơ đến tội nghiệp. Tôi dúi vào tay Luận lá thư của chị Thanh :
– Anh cầm lấy thư của chị ấy để biết là số tiền anh nhờ, tôi đã gửi tới tay chị Thanh.

*

Gần đến ngày có cuộc triển lãm hội chợ thương mại của cộng sản Việt nam, các cơ quan truyền thông của cộng đồng người Việt đồng loạt đả kích rất dữ dội. Tuyệt nhiên không thấy ý kiến nào ngược lại được phát biểu trong vùng này. Phần tôi, câu chuyện của chị Thanh cũng bắt tôi cứ phải nghĩ tới cái hội chợ đó một cách dai dẳng. Người đàn bà vì tình yêu đã tìm mọi cách sang Los Angeles, đã hẹn gặp tôi mà chả lẽ tôi không tới. Mà tới thì sẽ có khối người chửi tôi là thân cộng, là trở cờ đón gió, là đủ mọi thứ xấu xa tội lỗi.
Chỉ quyết định tới hội chợ hay không tới hội chợ của Việt cộng tổ chức mà tôi bị dằn vặt cả nửa tháng, đầu óc bị xâu xé rốt cuộc chỉ thêm rối bời. Vào ngày mở cửa đầu tiên của hội chợ, tôi kiếm Washington vào giờ nghỉ buổi sáng và nói với anh ta :
– Ê bạn, bạn còn nhớ lá thư bạn nhận được từ người đàn bà Việt Nam bữa trước không ?
– Ồ làm sao quên được ? Bà ta giờ ra sao ?
– Bà ta đang ở Los Angeles.
– Ông bác sĩ gì đó đón bà ta sang đoàn tụ hả ? Hoan hô !
– Chưa. Bạn có muốn gặp bà ta không ?
– Cũng hay.
– Vậy thì trưa nay, tôi mua hamburger cho bạn ăn trên xe tranh thủ thì giờ, tôi chở bạn tới gặp bà ta nhé.
– Ô kê.
Cuộc triển lãm mở ở Phòng Thương Mại Los Angeles, nơi khó kiếm ra chỗ đậu xe. Nhưng đó chính là điểm tốt cho tôi vì tôi chỉ muốn Washington xuống xe và vào hội chợ một mình. Tôi viết tên chị Thanh, tên gian hàng Thành Công và đưa luôn tờ giấy mười đồng để Washington mua vé vô cửa. Tôi dặn :
– Bạn vô một mình cũng được, khi gặp bà ta thì đưa số điện thoại của tôi cho bà ta. Nói với bà ta điện thoại cho tôi.
Washington cũng tự hiểu ra sự do dự của tôi :
– Mày ngại những người Việt Nam của mày đang biểu tình chửi mày, phải không ?
Tôi gật đầu thú nhận, táp xe vào lề đường chỗ sơn đỏ, đạp thắng xe cho Washington xuống :
– Tôi chạy vòng vòng chờ bạn. Ô kê.
Đoàn biểu tình đông khoảng hai ba trăm người với nhiều quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa và những tấm biểu ngữ đả đảo Việt cộng, đòi Việt cộng thực thi nhân quyền, thả nốt những tù binh Mỹ bị bắt trong cuộc chiến tranh trước 1975. Tôi không khó khăn gì mà không thấy bác sĩ Luận. Ông ta đứng trên lề đường, có vài người ở phía sau cầm cờ vàng ba sọc đỏ, trông ông ta hùng dũng như vị nguyên soái. Bà vợ ông ta đeo kính mát, tóc bới cao, mặc váy đầm hở mạng ngực trắng như kem đang đi qua đi lại phân phát truyền đơn. Tôi quay kính xe kín mít, chạy tà tà quanh khu phố để chờ Washington. Mãi chừng hai chục phút sau thì anh chàng mới lơn tơn bước dọc hè phố kiếm tôi.
Lên xe, chưa kịp đóng cửa, Washington đã ồm ồm :
– Không gặp bà ta. Mẹ kiếp ! Mất thì giờ mà không hiểu cái gì hết. Tụi nó không biết nói tiếng Mỹ. Tất cả chỉ có một thằng thông dịch thôi nên phải chờ. Đến phiên mình, hỏi nói về bà Thanh đâu, nó trả lời cộc lốc : Tôi không biết. Hỏi thêm, nó không nói vì bận tiếp mấy thằng Mỹ khác.
Rồi Washington hỏi tôi :
– Cộng đồng mày chống cái gì vậy ?
– Chống cộng sản.
– Tao không thấy cộng sản trong đó. Chỉ có hàng hóa thôi.
– Thì hàng hóa của cộng sản. Chúng nó mang sang đây triển lãm kiếm thị trường.
– Tao không hiểu. Tụi Ba Tây tao mong kiếm thị trường mà không được. Còn… tại sao mày vô thì không được, tao vô thì được ?
– Bạn đã nói bạn không hiểu mà còn hỏi thêm làm gì.
Suốt buổi chiều hôm đó, và cả buổi tối nữa, tôi sinh ra gắt gỏng, người gây gây mệt như mắc bệnh ăn không tiêu. Đầu óc tôi cứ lẩn quẩn hình bóng một thiếu phụ mà tôi chưa bao giờ thấy mặt, chưa một lần nghe giọng nói. Không biét ngày hôm nay, đứng trong phòng triển lãm nhìn ra đoàn người Việt biểu tình ở phía ngoài, bà Thanh có nhận ra hình bóng người mà bà thương yêu nhất mà bà đi tìm kiếm là bác sĩ Luận đang đứng trước khu triển lãm, cách bà có vài trăm mét không ? Trời ơi ! Tôi chợt kêu lên kinh hoàng khi tưởng tượng bà ta có chiếc ống dòm, qua ống dòm bà ta thấy chồng bà, thế là bà ta lao ra cửa, chạy nhào tới bác sĩ Luận.
Sáng hôm sau, tôi quyết định bề gì thì cũng phải tới gặp người đàn bà bất hạnh này. Tôi cũng biết nếu có gặp, tôi chẳng mang tới cho bà ta niềm vui nào, trái lại là khác, nhưng nếu tôi không gặp bà ta, tôi sẽ ân hận vì trong tôi đã không còn tình người. Khi tôi tới phòng triển lãm, vài người tóc đã ngả màu sương chặn tôi lại :
– Anh vô đây làm gì ?
– Anh muốn tiếp xúc với bọn Việt cộng hả ?
Tôi đã có câu trả lời gian dối sẵn :
– Người xưa nói biết địch biết mình thì trăm trận trăm thắng. Các ông để tôi vô coi xem chúng nó ra sao.
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Lâm bước tới, ông nhìn tôi thật dài và thật dịu dàng như gửi gấm hàng trăm lời nhưng đôi môi ông mím lại. Ông làm như không quen biết tôi, thản nhiên quay đi.
Vào trong khu triển lãm, cảm giác đầu tiên của tôi là sự trống vắng. Căn phòng qúa rộng, trần nhà qúa cao mà người thì ít và hàng hóa thì nghèo nàn, trình bầy vụng về như một cô gái quê bắt đầu làm quen với son phấn. Thế này mà cũng mang đi triển lãm làm gì, có thể họ không biết rằng khả năng của họ nếu chỉ có thế này thì còn thua những chợ trời ở xứ Mỹ. Tôi kiếm tìm và thấy ngay gian hàng Thành Công với khoảng vài chục cái áo sơ mi bầy trên mặt một chiếc bàn nhỏ và một cô gái mặc áo dài đứng tiếp khách.
Tôi bước tới trước mặt cô này :
– Xin hỏi thăm cô, ai là chị Thanh ?
Cô gái đứng im lặng quan sát tôi từ nãy tới giờ, chưa biết tôi là hạng người nào, đến đây làm gì, nên nghe tôi hỏi thăm một người bạn của cô, nét mặt cô thay đổi hẳn. Cô mừng rỡ y như cảnh đón họ hàng cách xa nhau hàng chục năm ngoài sân ga. Giọng cô ta ríu rít :
– Anh kiếm chị Thanh hả ? Anh là anh Luận hả ? Trời ơi, chị Thanh nhắc tới anh hoài à.
– Nhưng chị Thanh đâu ?
– Trời ơi, anh diễm phúc lắm đấy nhé. Chị Thanh yêu anh hết xẩy. Lúc nào cũng nói tới anh thôi à.
– Nhưng chị Thanh đâu ?
– Chị ấy bị gạch tên rồi. An ninh nghi chị ấy sang Mỹ sẽ bỏ trốn theo anh đấy.
– Sao chị ấy viết thư nói là đóng bốn ngàn tám đô la tiền vé máy bay rồi ?
– Vâng, đúng thế. Lúc ra phi trường, sắp vào phòng cách ly thì an ninh mới mời chị ở lại. Anh biết tại sao không ? Tại chị ấy mừng qúa, cứ liến thoắng nói về chồng chị ấy ở bên Mỹ sẽ tới phòng triển lãm đón chị ấy đi chơi. Có người trong đoàn nghe được mật báo cho an ninh. Thế là cúp. Trời ơi, tội nghiệp qúa, gía chị ấy được đi, được gặp anh chắc chị ấy mừng mà khóc hết nước mắt đấy…
Tôi không buồn cải chính tôi là ai nữa. Tôi chào cô gái mà cũng chẳng hỏi họ tên cô ta là gì. Tôi không nhắn gửi một lời nào cho chị Thanh. Tôi bước ra cửa bằng đôi chân của người say rượu. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Luận thấy tôi vội quay mặt nhìn đi nơi khác dường như sợ mọi người biết ông ta quen tôi khi tôi gọi tên ông ta giữa đám đông đang đứng dưới bóng cờ vàng ba sọc đỏ.
Sáng hôm sau, tôi tới xưởng máy qúa trễ. Mọi chiếc máy đã reo hò ầm ĩ với những vòng quay hối hả chung quanh chiếc CNC của tôi còn nằm ụ như một nấm mồ.
Washington dường như chờ tôi đã lâu nên nhào ngay lại, hỏi :
– Sao ? Mày gặp bà Thanh rồi chứ ? Bà ta thế nào ?
Tôi ủ ê cười nhếch mép :
– Việt cộng không cho bà ta sang Mỹ nữa.
Washington trố mắt :
– Cái gì kỳ cục vậy ? Đi thăm chồng mà cũng cấm à ?
Rồi chẳng cần tôi trả lời, anh chàng Ba Tây thất vọng vừa bỏ đi vừa nói :
– Tao đếch hiểu cái nước Việt Nam của mày. Sao mày khoe với tao là nước mày có tới bốn năm ngàn năm văn hiến gì đó, hả ?

Đỗ Tiến Đức

Lời BBT:

Truyện ngắn ” Một Chuyện Rất Việt Nam” của Nhà Văn Đỗ Tiến Đức đã đăng tải trên Báo Thời Luận số ra ngày Thứ Bảy, 13/7/2024.

BBT HCMĐ xin cảm ơn nhà văn Đỗ Tiến Đức đã cho phép đăng tải truyện ngắn này trên website QGHC Miền Đông.

Views: 172

Tiếng Nói Vì Dân Đã Tắt

Trần Bạch Thu

Năm 1967 sau khi thi đậu Tú Tài I, tôi đến văn phòng quận Châu Thành, tỉnh Đinh Tường (Mỹ Tho) để khai “Lược Giải Cá Nhân”, một giấy chứng nhận rất quan trọng để sau nầy đình kèm theo đơn xin dự tuyển vào các trường cao đẳng hay đại học. Cô nhân viên văn phòng quận giải thích đơn giản và thực tế  hơn “em thuộc tài nguyên sĩ quan”, cô bảo chờ chút xíu, đợi ông Phó quận ký tên. Đó là lần đầu tiên tôi biết anh Lê Tấn Trạng.

Từ sau đó, tôi mới bắt đầu tìm hiểu và biết về ông Phó Quận, còn rất trẻ với những hoạt động gây chú ý trong giới học sinh, ông là người đã vận động thành lập đoàn “Văn Sinh Đất Lành” qui tụ hầu hết các học sinh Trung học trong tỉnh để phát động các phong trào dọn vệ sinh đường phố Mỹ Tho vào những dịp nghĩ lễ hay cuối tuần, thành lập ban văn nghệ trình diễn trong các buổi cắm trại của học sinh …

Hầu như giới trẻ ở Mỹ Tho lúc bấy giờ rất ngưỡng mộ ông Phó Trạng, rất bình dân và gần gủi với mọi thành phần trong xã hội. Đăc biệt là hiếm khi sử dụng công xa, anh thường di chuyển, đi lại bằng chiếc xe gắn máy đàn ông hiệu Honda, đời cũ màu đen.

Ngoài các sinh hoạt văn nghệ, xã hội, đoàn Văn Sinh Đất Lành còn là một tổ chức khuyến học duy nhất tại Mỹ Tho có thuyết trình, hướng dẫn chi tiết cho học sinh biết về các trường cao đẳng và đại học ở Sài Gòn, có những điều kiện như thế nào để thi tuyển nhập học. Lần đầu tiên tôi mới biết, muốn làm Phó Quận thì học ở trường nào, thời gian mấy năm và có gì hay hơn so với Bác Sĩ, Dược Sĩ hay Kỹ Sư v..v… Anh nói:

– Học ngành nào cũng được, miễn mình thích là tốt nhất.

Hai năm sau, tôi thi đậu vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, ban Đốc sự khóa 17 và gặp lại anh Trạng vừa mới thất cử Nghị viên Hội đồng tỉnh Định Tường bèn về trường ghi danh theo học Cao Học khóa 6. Xin được nói thêm về điều nầy, anh Trạng tốt nghiệp Đốc Sự khóa 11 với thứ hạng cao nên được quyền ưu tiên, khỏi thi, về học Ban Cao học kể từ sau 2 năm ra trường.

Tuy là Phó Quận nhưng khi ra ứng cử chức Nghị viên anh đã thua 2 ứng cử viên khác là ông xã Huỳnh, rất khôn ngoan trong chiến dịch tranh cử, ông lấy dấu hiệu tranh cử là chiếc nón lá và kín đáo phát cho dân chúng trong địa phương, ngay ngày bỏ phiếu ông còn cho rãi nón lá hai bên đường ở địa điểm bầu cử để nhắc nhở cử tri. Người thứ hai là chỉ huy trưởng Thám sát tỉnh, Huỳnh Hoa. Điều nầy nói lên sự công bằng và giá trị thật sự của lá phiếu bầu cử.

Tuy về trường học lại, nhưng hình như là anh đang chuẩn bị cho một cuộc bầu cử khác, chúng tôi ở chung với nhau trong “Ký Túc Xá” của Học Viện, chưa đầy 6 tháng theo học lớp Cao học 6, anh nói với tôi là sẽ trở về Mỹ Tho ra tranh cử chức Dân biểu đơn vị Thị xã Mỹ Tho. Tôi im lặng vì thấy hơi khó, vì vừa mới thất cử Nghị viên chưa đủ thời gian chuẩn bị lấy lại tinh thần, hơn nữa ứng cử viên tranh chức Dân biểu thị xã Mỹ Tho lại là người bà con của Bà Thiệu (Phu nhân của Tổng Thống), hiện đang là Chánh Sở Học Chánh tỉnh Định Tường. Anh nói:

– Hai phương diện bầu cử khác nhau, hai thành phần cử tri cũng khác nhau, một là vùng dân cư hỗn hợp và một là vùng dân cư tương đối có trình độ chọn lọc. Thị xã Mỹ Tho có truyền thống chuộng người trí thức và cử tri biết đến các hoạt động của một ông Phó Quận nhiều hơn.

Thật vậy, năm 1971 anh Trạng đắc cử chức Dân biểu đơn vị Thị xã Mỹ Tho một cách vẻ vang, mặc dù đối phương được sự ủng hộ tối đa của chính quyền, cụ thể là nhân viên công lực vận động đến gõ cửa từng nhà trong thị xã. Nhưng anh Trạng có các đoàn thể học sinh (Văn Sinh Đất Lành), nghiệp đoàn lao động, nhất là đảng phái đang lên lúc bấy giờ (Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến) nhiệt tình ủng hộ, các em học sinh đi gõ cửa từng nhà, mang biểu ngữ vận động tranh cử dán khắp thị xã.

Tại diễn đàn Hạ Nghị Viện, anh Trạng có tài hùng biện và được bầu làm Tổng Thư Ký khối Dân Quyền (đối lập) mà đa số trong đó là thành viên của Phong trào Quốc Gia Cấp Tiến. Anh là tiếng nói mạnh mẽ về các chương trình dân sinh và tranh đấu cho người dân bị ức hiếp. Điển hình qua vụ kiện tham nhũng nổi tiếng trên cả nước được mệnh danh là “Ông già Bến Tranh.”

Vụ án như thế nầy, ông già Bến Tranh tên thật là Lê văn Duyên, người dân xã Tân Lý Tây, Bến Tranh (Định Tường) khởi kiện ông Quận trưởng tham nhũng và hối mại quyền thế, bức hại dân lành có chứng cớ, nhưng cấp trên không xét xử thỏa đáng nên ông đã lên tận Sài Gòn nhờ các cơ quan công quyền giúp đỡ. Lúc bấy giờ phong trào chống tham nhũng đang rầm rộ qua các phương tiện truyền thông, báo chí nên đã làm lung lay chiếc ghế của ông Quận trưởng. Để bảo vệ, ông Quận cho người ngầm cảnh cáo ông Duyên, nhưng không có kết quả. Sau cùng, ông Duyên bị ám sát chết tại nhà, không bắt được thủ phạm.

Sự việc gây chấn động trong cả nước và anh Trạng vào cuộc đòi công lý cho ông Duyên, mặc dù cũng có lời hăm dọa của kẻ thủ ác. Thời gian kéo dài, có lúc gần như vô vọng vì các thế lực yểm trợ cho ông Quận trưởng rất lớn, nhưng Dân biểu Lê Tấn Trạng đã kiên trì tranh đấu bằng nhiều phương tiện hợp pháp để đưa vụ kiện ra ánh sáng. Cuối năm 1974 sự thật được phanh phui, bắt được hai kẻ sát nhân và ông Quận trưởng đã bị giáng cấp, bị bắt giam vào Quân Lao ở Cần Thơ chờ ngày ra tòa lãnh án.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhóm Dân biểu thuộc thành phần thứ ba, thân cộng như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba đã tiếp xúc và can thiệp với chính quyền mới cho một số đồng viện được cải tạo tại chỗ, ngắn ngày trong đó có dân biểu Lê Tấn Trạng. Mặc dù được chính Mai Chí Thọ ngưỡng mộ qua vụ án ông già Bến Tranh gợi ý nên tham gia vào tổ chức Mặt trận Tổ quốc cùng với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, nhưng anh đã từ chối và trở về quê sinh sống như người dân thường.

Cho đến tháng 10 năm 1976 anh Trạng bị bắt trong đêm tại nhà, làng Tân Hòa Thành, Bến Tranh vì tội tham gia tổ chức “Sư Đoàn Tiền Giang” chống lại cộng sản đương thời.

Tháng 8 năm 1977 cộng sản mở một phiên tòa tại Mỹ Tho xử một vụ án âm mưu lật đổ chính quyền, tổ chức có danh xưng là “Sư Đoàn Tiền Giang.” Tuy luôn luôn nói là công khai nhưng không có thân nhân bị cáo tham dự, cũng như không có phóng viên báo chí theo dõi hay tường thuật, kể cả báo chí trong nước. Phiên tòa chỉ đọc cáo trạng trong khoảng hơn 2 giờ đồng hồ. Không có Luật sư bào chữa, nhân viên pháp lý cũng như bồi thẩm nhân dân đều do chính quyền chỉ định.

Tất cả bị can không có kháng án. Hoàng văn Ngãi, Tư lệnh sư đoàn, tử hình. Hai anh em Trương văn Thân (Bí danh Trần Minh Dũng), Tham Mưu Trưởng và Trương văn Dậy (Mười Dậy) Chỉ Huy Trưởng khu căn cứ Long An, mỗi người lãnh án 10 và 20 năm tù khổ sai. Khoảng hơn 20 người khác bị kết tội phản động và lãnh án từ 5 đến 10 năm tù giam. Tất cả đều bị bắt tại nhà Trần Minh Dũng vào buổi chiều tối ngày 10 tháng 10 năm 1976 đem về Trung tâm Thẩm vấn (Tân Mỹ Chánh) nhốt vào xà lim hay biệt giam. Sau đó từng đợt được chuyển lên khám đường cũ ở số 2 đường Lãnh Binh Cẩn, thành phố Mỹ Tho.

Riêng anh Trạng bị biệt giam ở Trại chấp pháp cả năm trời và bị xử kín không có ra tòa cùng với một số người khác, có người cho đến nay không biết còn sống hay đã bị thủ tiêu.

Sau đó, anh được chuyển xuống trại giam mới xây để tiếp tục tạm giam vì cho đến lúc nầy, công an cũng chưa bắt hết các thành viên của sư đoàn cũng như các cảm tình viên vẫn còn lẫn trốn. Cộng sản qui cho anh là chính ủy của sư đoàn nên canh chừng rất nghiêm ngặt.

Cho đến một ngày, nhờ gia đình lo lót cho cán bộ trại giam, anh được ra ngoài lao động làm cỏ, dọn vệ sinh xung quanh trại giam. Anh có người chị ruột trông duyên dáng và lanh lợi luôn thăm anh ở trại giam, lợi dụng sự tín cẩn của cán bộ, có hôm còn cho phép anh về thăm nhà trong ngày, chị Ba đã nhanh chóng tổ chức cho anh vượt biển thành công.

Anh không có lập gia đình, sống độc thân cho đến khi qua đời. Ước nguyện của anh, sống không về Việt Nam khi còn cộng sản, chết đem tro cốt về quê cũ làng Tân Hòa Thành, Bến Tranh chôn bên cạnh mồ mã của song thân. Chỉ vậy thôi.

Nhớ đến anh tôi viết ít dòng về anh trong niềm thương tiếc khôn nguôi. Chúc anh thượng lộ bình an và cám ơn anh đã để lại cho đời tiếng nói vì dân thật mạnh mẽ của một con người yêu nước chân chính.

Trần Bạch Thu

Lời BBT: Trong bài viết anh Trần Bạch Thu có nhắc việc anh Lê Tấn Trạng tham gia “Sư Đoàn Tiền Giang”. Mời theo dõi bài viết  “Sư Đoàn Tiền Giang” của cùng tác giả, ở link dưới đây:

Sư Đoàn Tiền Giang

Views: 125

Xã Tắc Tiêu Vong

Phạm Thành Châu

Năm 1981, tôi đi tù cải tạo về. Tôi không về với gia đình ở ngoài Trung mà sống chui nhủi ở Sài Gòn. Tù “ngụy” ra khỏi nhà tù vẫn bị công an theo dõi, hạch sách. Mỗi tuần phải đến công an trình diện, nộp báo cáo trong tuần làm gì? tiếp xúc với những ai?… Nhưng tôi là “dân lậu” (không giấy tờ) không phải làm chuyện đó. Công an khu vực biết nhưng người bà con biết cách “giao thiệp” nên anh ta làm lơ. Tôi sống bình thường như những người khác, miễn thấy công an thì tránh xa. Nhờ người quen giới thiệu, tôi làm thư ký cho một “hợp tác xã cơ khí”. Nhân cô kế toán của hợp tác xã nghỉ đẻ, lại nghe tôi tự xưng “Biết đủ thứ. Làm gì cũng được’ ông chủ nhiệm hợp tác xã nhận tôi vô làm thay ít lâu. Vì cần người gấp trong vài tháng chứ chẳng ai dám nhận tù cải tạo vào làm việc. Tôi còn xưng mình tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh để thêm uy tín. Ông chủ nhiệm nghe vậy thì biết vậy chứ ông ta chỉ biết đọc theo kiểu đánh vần và ký tên bằng cách vẽ hình “một con chim đang tung cách lên bầu trời xanh” (Trước 1975 ông ta là võ sĩ nổi danh Phi Ðiểu, có cú đá bay rất nguy hiểm). Ông ta mở tủ lôi ra một đống giấy tờ cao hơn gang tay “Anh xem lại tất cả hồ sơ, sắp xếp cho tử tế, đâu ra đấy. Cô Nguyệt (kế toán, tài vụ?) để lôn xộn quá, khi cần hồ sơ, chứng từ, tìm không ra”.

Tôi bỏ ra hai ngày, chỉ để sắp xếp hai thứ riêng biệt. Chứng từ “Chi” để riêng, vô một cuốn sổ. Chứng từ “Thu” vô một sổ khác. Mỗi mục chi, thu tôi ghi ngày giờ, số chứng từ, mục đích chi, thu theo thứ tự thời gian, nghĩa là đúng “sách vở” của một tay tốt nghiệp Ðốc Sự Hành Chánh. Tiền thì ông chủ nhiệm để trong túi, nhiều quá thì đem về nhà cất giữ. Khách hàng đưa ông chủ nhiệm bao nhiêu, chẳng ai biết. Ông chỉ bảo tôi ghi vào mục thu một con số nào đó. Chi cũng vậy, ông ta chỉ nói miệng, bảo tôi ghi vào. Tôi bắt ông ta phải viết mấy chữ, ký tên vào để tôi giữ làm chứng từ. Ðược vài tuần, tôi hí hửng trình ông ta xem cách làm sổ sách đúng kiểu “kế toán thương mại”. Chiều lòng tôi, ông ta đeo kiếng vào, nheo mắt đánh vần phần chi. Mới một trang, ông ta la trời “Tôi đi nhậu với đối tác, đổ xăng, phong bì “bôi trơn”…… anh đều ghi rõ thì chết tôi. Anh phải tư duy, sáng kiến ra thành những chi phí công tác quan trọng, nhất là hồ sơ, chứng từ phải để lộn xộn, sao cho trên quận xuống kiểm tra không biết được chi, thu như thế nào, lúc đó tôi sẽ giải thích với họ. Quận xuống kiểm tra mục đích là để đi nhậu và được bồi dưỡng phong bì… Kiểm tra cho có lệ chứ hợp tác xã nầy đâu phải là tài sản của quận hay nhà nước. Anh làm qua loa cho có là được rồi”

Hợp tác xã cơ khí nầy chỉ do một người là ông chủ nhiệm bỏ vốn, thỉnh thoảng tìm được một hợp đồng gia công cho nhà nước là đủ sống. Ví dụ, ký hợp đồng gia công kềm, búa, đinh… cho thương nghiệp thành phố để bày bán trong các cửa hàng quốc doanh. Ông ta vô Chợ Lớn giao cho mấy chú ba Tầu làm. Sau đó chở đến cho sở thương nghiệp, sở phân phối đến các cửa hàng bán cho dân chúng. Tiền trao cháo múc. Sau khi “lại quả” từ xếp lớn đến thư ký, ông ta mang chi phiếu về giao cho tôi đi lãnh tiền. Ông chủ nhiệm báo trước là ngân hàng nầy hay làm khó thiên hạ đến lãnh tiền. Trưa đó, khoảng hai giờ, tôi đến ngân hàng, xin gặp ông phó giám đốc, trình giấy tờ và nói “Ông chủ nhiệm hợp tác xã bảo với tôi rằng. Nếu ông phó giám đốc mà không ký thì sẽ đuổi tôi. Nghĩa là tôi có bị đuổi việc hay không là quyền của ông phó giám đốc”. Có lẽ vừa đi ăn trưa về, lại có chút hơi men, ông ta cười hề hề, chả thèm xem giấy tờ, ký ngay. Nhận tiền của thương nghiệp thành phố xong, trong vòng một tuần (sau đó), ông ta cho người đi vét hết các thứ kềm, búa, đinh…ở các cửa hàng “mậu dịch quốc doanh” (dĩ nhiên đã móc ngoặc với cửa hàng trưởng), đem về cất giấu. Các cửa hàng không còn những thứ đó nữa. Coi như dân đã mua hết. Nhà nước lại cần kềm, búa, đinh… để phục vụ “nhân dân, quần chúng”. Thế là ông ta lại làm hợp đồng “gia công” với giá cao hơn vì mọi thứ đều lên giá bởi lạm phát. Hợp đồng lại được ký, lại chia chác nhau và ông ta chở kềm, búa, đinh (đã thu gom)… đến giao cho sở thương nghiệp thành phố. Nhờ “chu kì khép kín” đó cứ lặp đi lặp lại mãi nên cán bộ và chủ nhiệm làm giàu.

Nhưng hợp tác xã của ông ta chỉ là loại cò con. Người Tàu Chợ Lớn móc nối với thương nghiệp thành phố trong những vụ làm ăn lớn hơn, ngon hơn nhiều, chẳng hạn cung cấp xe đạp Cửu Long, sườn xe làm bằng thùng phi (vấp cục đá là gãy), ruột xe, vỏ xe đi ít bữa thì bể, nổ… thì tiền chia chác mới nhiều. Thời thập niên 1980, cán bộ, đảng viên nào có chỗ ngồi ngon lành nghĩa là chức vụ hái ra tiền thì vẫn làm như trong sạch vì sợ ganh tị, soi mói nên ông, bà nào cũng nuôi heo trong nhà để ra vẻ ta đây giàu có nhờ nuôi heo. Vài con heo, mướn người nuôi nấng, chăm sóc… trả lương thì làm sao lời được nhưng vào sở làm cứ khoe nhặng lên là bán heo lời rất nhiều. Thế nên khoảng thập niên 1980, nhà cán bộ nào cũng nuôi heo. Nuôi trong biệt thự, nuôi trên lầu, nuôi trước sân (để cho thiên hạ thấy)… Cứt heo thúi nồng nực, hàng xóm không dám phàn nàn. Quan cán bộ đi làm về, đứng dòm vô chuồng heo, hỏi han người nuôi heo vài câu, đốc thúc dọn cứt heo, tắm heo cho bớt hôi rồi vung vẫy chùm chìa khóa đi vô nhà. Một cách biện minh khác cho sự giàu có của mình là mua lại vé số của người khác trúng. Trả tiền nhiều hơn số tiền trúng, nhất là trúng độc đắc rồi vào sở khoe tờ vé số đó cho thiên hạ thấy, khỏi dị nghị mình giàu. Thời đó, hễ xổ số là chỉ có quí ông cán bộ gộc trúng độc đắc. Nhân viên biết rõ nhưng vẫn cứ xuýt xoa với xếp là “Anh Tư (Năm, Sáu… gì đó)         thật là người có số hên”. Từ năm 1986, sau chính sách mở cửa của đảng Cộng Sản Việt Nam thì cán bộ, đảng viên nào không làm giàu, không khoe xe hơi, nhà lầu thì bị coi khinh là bất tài.

Ít lâu sau, tôi xin nghỉ việc. Thư ký kế toán kiểu nầy có ngày đi tù, vì đổ bể ra họ sẽ trút hết trách nhiệm cho tôi là tên ngụy, CIA gài lại để phá hoại “sự nghiệp xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa của đảng, nhà nước và nhân dân ta”.

Tôi nghĩ đến cách kiếm ăn khác. Tôi bán bánh mì. Tôi học nghề từ một anh chàng có xe bánh mì trên đường Tô Hiến Thành, quận mười, Sài Gòn, là nơi tôi trú ngụ nhà người bà con. Nguyên do là sáng nào ngồi uống cà phê với mấy thằng em bà con trước hẻm, tôi cũng tặng anh chàng bán bánh mì một li cà phê để làm quen rồi lân la hỏi chuyện bán buôn. Anh ta truyền nghề. Hóa ra cũng rất đơn giản. Mua một xe bánh mì đóng sẵn chỗ ngã bảy, tìm nơi bán rồi cứ đến lò bánh mì lấy bánh, đến chỗ cung cấp pâté, sauce, chả, thịt … đem về bày ra, chỉ phải tự mình làm đồ chua, dưa leo, hành ngò.  Vậy thôi. Thời đó, tù về chỉ làm những nghề thấp kém như bán vé số, đạp xích lô, bán thuốc tây (chợ Tân Ðịnh), sửa xe đạp, bỏ mối kẹo bánh… kiếm chút tiền, đủ bỏ mồm. Sở dĩ tôi chọn nghề bán bánh mì vì thời còn là sinh viên ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, trước trường, góc Cao Thắng-Phan Thanh Giản có xe bánh mì Tám Cẩu chỉ bán buổi tối mà rất đông khách. Tối nào chúng tôi cũng ra đó mua một ổ về ký túc xá, nằm gặm. Xe bánh mì Tám Cẩu có nhiều người phụ giúp nên khách không phải chờ lâu. Nghe nói mấy cô “phụ tá” ông chủ gồm vợ ông ta và mấy cô em vợ. Một mình ông ta “xơi” hết mấy cô em vợ. Các cô đứng một dãy, hình thành “hệ thống dây chuyền” bán bánh mì. Xe bánh mì rộng hơn nửa thước, dài hai thước, ba mặt bằng kính. Người mua đứng sắp hàng. “Nàng” thứ nhất xẻ bánh mì, chuyền cho “chàng”, chàng trét pâté, sauce, thịt thà… xong chuyền cho nàng bên cạnh, nàng nầy bỏ đồ chua, rắc tiêu muối, gói lại đưa cho nàng kế tiếp. Nàng kế tiếp trao bánh cho khách, thu tiền. Bán đến gần khuya, hết bánh, dẹp tiệm, về “ngủ”. Không biết mỗi nàng một phòng riêng hay nằm chung theo thứ tự như chỗ bán bánh mì? Mà ở Việt Nam, dân lao động, nhà có vài phòng riêng đã là hiếm rồi.

Chúng ta ở Mỹ, bánh làm bằng bột mì nguyên chất mà không ngon bằng thời “bao cấp” (trước năm 1986) của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ấy là nhờ vào sáng kiến của dân miền Nam. Số bột mì nhà nước bán ra rất giới hạn, người làm bánh mì phải thêm đủ thứ bột (bột khoai mì, bột gạo, bột dong…), họ còn đánh trứng vịt vào, bỏ thêm một mớ thuốc bổ, vitamine A, B gì đó vào thau nước trước khi đổ bột vào nhồi để ủ men. Ổ bánh làm ra thơm phức, xốp và ngon. Chiều nào đến lò bánh mì lấy bánh (ở đường Hai Bà Trưng) để bán, tôi cũng xơi ngay một ổ nóng giòn, coi như bữa cơm chiều. Bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn thèm, ước được một ổ như thế mà thưởng thức. Nói vậy cho ra vẻ lãng mạn, chứ ở Mỹ, thứ gì chẳng có. Tôi đặt xe bánh mì ở góc đường Hiền Vương-Duy Tân, bán rất rẻû nên đông khách, đa số là giới bình dân, lời lãi không bao nhiêu. Vậy mà thiên hạ thấy khách sắp hàng chờ mua bánh mì, tưởng tôi lời nhiều nên đua nhau đặt xe bán bánh mì quanh đó để giành khách. Có hai xe bánh mì. Một chiếc bên phải, bên kia đường cách chỗ tôi vài trăm mét, một chiếc bên trái, cũng cách vài trăm mét. Coi như chận đầu, chận đuôi. Mà xe nào cũng đèn đóm sáng trưng, bánh mì để đầy, năm ba đòn chả lụa to đùng, pâté, sauce, thịt thà trình bày phong phú, hấp dẫn. Có điều họ không biết là thời điểm sau 1975 dân miền Nam rất nghèo, cơm không có mà ăn nên ăn uống lề đường, quán chồm hổm… rẻ tiền đã quen, nay thấy hai xe bánh mì sang trọng đó, họ không dám đến, sợ bị “chặt đẹp”. Thế nên, khi hai đối thủ hùng hậu xuất hiện, tôi “cạnh tranh bất chính” bằng cách bán rất rẻ, coi như bán lỗ vốn. Tôi cứ trét pâté, sauce, bỏ thịt, chả đầy ổ bánh mà vẫn lấy giá cũ, lại còn dặn lũ nhỏ vào xóm  kêu lên “Ông bánh mì bán rẻ lắm!”. Ðối phương (s) chịu đựng độ một tuần là đủ chết. Bánh mì không thể để bán qua ngày hôm sau, pâté, thịt, chả… có để tủ lạnh cũng độ năm ngày là bốc mùi, đổ nhớt, ăn vô tiêu chảy ngay. Tôi không có tủ lạnh nên mua hàng đủ bán một bữa, hôm sau mua tiếp. Bánh mì bán không hết, tôi đem tặng cho dân kinh tế mới ngủ đầy lề đường Hai Bà Trưng. Khoảng chín, mười giờ tối, đắc, ế gì tôi cũng “dẹp tiệm”. Nếu còn bánh mì (không thể để ngày mai vì bánh sẽ cứng như đá) tôi bỏ vào giỏ, đạp xe ra đường Hai Bà Trưng rao lên “Bánh mì ế đây!” Vậy là họ tốc mùng chạy ra. Tặng mỗi người một ổ, đỡ đói lòng. “Dân kinh tế mới” là dân Sài Gòn, bị chính quyền tịch thu tài sản (đánh tư sản mại bản) tống lên vùng cao nguyên, tự khai phá, trồng trọt lấy mà sống. Họ không biết làm rẫy nên đói, bịnh chết dần. Họ bỏ về Sài Gòn, ngủ đầy lề đường. Khoảng năm 1980, ở Sài Gòn, có khoảng vài trăm nghìn dân kinh tế mới sống “đầu đường, xó chợ”. Hằng ngày, người lớn tản mác đến các hố rác móc ve chai, đến các chợ, ai sai gì làm nấy. Trẻ con đi bụi đời. Mấy đứa con gái, có đứa làm “gái”, buổi tối, lang thang chỗ “Ngã Ba Sung Sướng” góc đường Hồng Thập Tự-Lê Văn Duyệt, trước bộ Y Tế cũ, đón khách. Hôm nào bị công an bố ráp (tìm bắt đưa đi tù cải tạo) thì đói. Nhiều buổi tối, đói quá, các cô sai một con bé đến nói “Bán cho chị tôi bốn ổ bánh mì” Tôi hỏi “Có tiền không?” “Không. Mai chị tôi trả” “Mầy có mấy chị?” “Nhiều lắm. Bốn chị” “Chị nào? Sao không thấy?” Nó quay đi mấy bước. Thì ra các cô nấp sau góc tường. Nghe con nhỏ báo, các cô chỉ thò đầu ra (vì mắc cỡ), nhìn tôi cười cầu tài. Tôi hỏi “Mua bánh mì, khi nào trả?” Một cô nói “Mai em trả” Tôi hỏi “Trả bằng gì?” “Gì cũng được. Tụi em đói quá!” “Tối nay trả được không?”  Mấy cô hết mắc cỡ nhưng vẫn lấp ló sau tường, vui cười “Ðược. Tụi em chờ anh bán xong thì đi chơi” “Chơi với mấy người?” “Cả tụi em. Càng đông càng vui” “Vui chơi xong có đi mét với thiên hạ không?” Các cô long trọng thề “Tụi nầy mà mét với người khác thì xe tung chết ngay. Cho bánh mi ăn đi. Ðói quá!” Một số bánh mì tôi để trên lò than nhỏ, sưởi cho bánh dòn, nếu bán không kịp, cứng ngắt. Tôi lấy loại bánh đó, trét chút pâté, sauce, chút thịt, rau dưa, xịt nước tương, gói lại. Các cô mừng rỡ, cám ơn rối rít. Tôi biết, các cô chẳng phải con cháu gì ông Khổng Tử mà phải giữ chữ tín. Chỉ ba mươi giây sau, các cô vào xóm kinh tế mới, sẽ nói rùm lên ngay. Quả nhiên hôm sau, có bà ra mua bánh mì vừa cười vừa nói “Ông cho mấy đứa ăn bánh mì “chùa” chúng còn vô xóm nói “Ông bánh mì đòi chơi cả bốn đứa”. Tôi cũng cười “Tôi coi tụi nó như em út. Nói giỡn cho vui. Ðụng tới tụi nó là tối nào tụi nó cũng ra ăn “chùa” cho mà sập tiệm luôn” “Tụi nó “trây” lắm. Nói bậy mà không biết mắc cỡ” Tôi thở dài “Khổ quá, làm nghề đó thì còn gì xấu hổ để mà giữ gìn mồm miệng”. Giờ đây, nhớ lại, Tôi mềm lòng vì cảm thương cho các cô. Sau 1975 dân Miền Nam gặp đại họa. Tài sản bị tịch thu, gia đình tan nát. Người con gái nào cũng có quyền ước mơ được đi học, được làm vợ, làm mẹ, nhưng chế độ đã đẩy họ vào đường cùng còn tìm cách loại trừ, cách ly họ khỏi xã hội, cho họ chết dần trong các trại tù cải tạo nơi rừng thiêng nước độc. Tôi nghĩ, giá mà tôi là “Việt kiều” như bây giờ, tôi sẽ tặng hết xe bánh mì cho các cô, nhưng lúc đó tôi cũng nghèo như họ.

Buôn bán, cũng vui vì được chuyện trò với khách. Ðôi khi, có ông đạp xe đến, mua một ổ bánh đứng ăn, nói chuyện cả buổi. Ðó là những ông đi tù cải tạo về. Chuyện trò thường là hỏi thăm ở tù trại nào? về ngày nào? vợ con ra sao? trước kia làm việc ở đâu? Chỉ vài câu thì thấy thông cảm như thân thiết từ lâu. Có ông trung úy Hiếu, cảnh sát đặc biệt, trước 1975, cùng làm việc với tôi ở quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên. Ông ta đi tù về, vào Sài Gòn, ở trong xóm, sau nhà thờ Tân Ðịnh, tối nào cũng đem một xị đế với cái ly nhỏ ra ngồi với tôi. Tôi để một ít thịt chả, pâté… bên cạnh để ông ta “đưa cay”. Tôi uống một chút lấy có, chỉ ngồi nghe ông ta tâm sự. Ông ta kể “Sau tám năm tù về, mới được vài bữa thì công an huyện Quảng Ðiền có giấy “mời” lên. Tôi lên công an huyện với cái bị áo quần, thuốc men…sẵn sàng vào nhà tù lần nữa. Không ngờ, mới bước vào thì tay trưởng công an huyện đích thân ra bắt tay, mời vào văn phòng với tất cả thân tình, vui vẻ như tôi là anh em ruột thịt của anh ta, lâu ngày không gặp. Tôi lại được mời uống cà phê sữa với thuốc “có cán” (đầu lọc, sang lắm) do đích thân một cô thư ký trẻ đẹp mang đến. Sau khi hỏi thăm gia cảnh, anh ta nói qua chính trị, rằng tất cả ai đã làm việc cho chính quyền miền Nam đều là tay sai của đế quốc Mỹ, đều có nợ máu với nhân dân, đáng tội chết, nhưng nhờ chính sách khoan hồng của “đảng và nhà nước ta” cho tập trung cải tạo để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa… Nay được đảng và nhà nước cho về sum họp với gia đình thì phải tuân thủ luật pháp, chính sách nhà nước, khi chính quyền cần thì phải xung phong góp sức xây dựng xã hội chủ nghĩa. Anh ta nói y như cán bộ trong tù đã nói vì họ học cùng một sách, nói như vẹt, sau đó anh ta kêu gọi sự cộng tác của tôi với công an huyện để “lập công chuộc tội” bằng cách xử dụng (điều hành) lại mạng lưới tình báo của cảnh sát đặc biệt Việt Nam Cộng Hòa thuộc quận Quảng Ðiền trước 1975 (mạng lưới gồm nhân viên, cộng tác viên, cảm tình viên…) Tôi ngạc nhiên “Trước đây, tình báo là để tìm hiểu, theo dõi Việt Cộng các ông, nay mấy ông sờ sờ ra đó mà chế độ cũ không còn, quân đội, cảnh sát tan rã hết rồi, theo dõi ai? Tôi mà tiếp xúc với họ là họ báo với công an ngay vì chính họ cũng đang bị theo dõi” Anh ta nói “Những người của anh sẽ hoạt động bình thường như trước 1975. Họ báo cáo tất cả những việc của chính quyền xã, ấp trong huyện, nhất là báo cáo việc làm của công an chúng tôi trong huyện. Anh thu thập và báo cáo thẳng cho tôi, không qua bất cứ người nào. Anh hoạt động tình báo thì anh đã rõ. Kỹ thuật nghiệp vụ bên nào cũng giống nhau, nếu sai phạm, kỷ luật, hậu quả cũng giống nhau” Tôi biết, nếu không làm theo lịnh anh ta thì sẽ mục xương trong tù. Tôi đành hứa sẽ cố gắng xem sao. Anh ta dặn không được tiết lộ nội dung buổi gặp mặt nầy. Sau khi ra về tôi thông báo cho tất cả các cộng tác viên trong mạng lưới của tôi (trước đây) đề phòng, rồi tôi đi gặp và nói huỵch toẹt với trưởng công an các xã trong quận để cảnh giác rồi vô đây (Sài Gòn) sống chui nhủi với người bà con”

Vì trước đây, chúng tôi làm việc với nhau mấy năm ở quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên, nên gặp tôi, ông ta quen miệng gọi tôi là “Ông phó” (phó quận), tôi dặn đừng gọi như vậy, nhưng khi đã xỉn, ông ta lại “Ông phó”. Rượu đế thường pha thêm thuốc trừ sâu cho “lên độ”, uống mau “phê”. Tôi có nói cho ông ta biết đó là rượu độc, nhưng ông ta bảo “Chết càng sớm càng tốt” Rượu đế pha thuốc trừ sâu, ruột gan nào chịu thấu nên chỉ mấy tháng sau, ông ta bị sưng gan chết.

Trong số khách mua bánh mì của tôi có hai ông bán vé số. Buổi tối, họ đến mua bánh mì rồi ngồi nhai bánh ngay trên lềà đường. Một ông là cựu “lính ngụy”, khoảng trên bốn mươi, trước 1975, bị thương thành thương phế binh, về với vợ con ở Củ Chi, làm phó trưởng ấp an ninh, đêm nào cũng dẫn nhân dân tự vệ đi phục kích Việt Cộng từ các hầm hố trong rừng mò về ấp tuyên truyền, thu thuế, kiếm ăn. Thỉnh thoảng bắn được vài Việt Cộng nên ấp được bình yên. Sau 1975, mất nước, bị Việt Cộng truy lùng trả thù, anh ta trốn về Sài Gòn, gia đình lập bàn thờ, nói rằng anh ta vượt biên, chìm tàu chết rồi. Ông bán vé số thứ hai, gia đình ở Mỹ Tho, được gọi là Bắc Kỳ chín nút (di cư vào Nam 1954, để phân biệt với Bắc Kỳ 75 vào chiếm miền Nam 1975) lớn tuổi hơn, là cựu giáo viên, vì Việt Cộng bắt ông ta giảng bài “Mỹ Diệm Ăn Thịt Người” (Trong tập “Từ Tuyến Ðầu Tổ Quốc”), ông ta nói “Tôi không thấy lính Mỹ Diệm nào ăn thịt người cả. Họ có đói đâu. Họ to mập như trâu” Ông ta bị ghép tội phản động, cần phải đưa đi “học tập cải tạo”, bèn bỏ trốn lên Sài Gòn, đi bán vé số. Ðó là con mọt sách lại có trí nhớ phi thường. Tôi rất thích nghe, thích hỏi ông ta đủ thứ. Hai ông bán vé số ăn bờ ngủ bụi, lang thang khắp Sài Gòn. Tích góp được chút đỉnh thì gửi lén về nuôi vợ con. Hai ông đúng là yêu đời, lúc nào cũng vui cười. Buổi tối, họ hẹn nhau đến chỗ xe bánh mì của tôi ngồi nhai bánh mì, trò chuyện. Thời ông Hiếu còn sống, thì có thêm sự góp mặt của ông cựu trung úy cảnh sát đặc biệt nầy. Khi ông Hiếu chết, hai ông vẫn giữ thói quen đến chỗ tôi.

Một buổi tối, hai ông vé số đến xe bánh mì của tôi, miệng cười toe toét “Bữa nay, tụi này “zdô mánh” (có tiền). Một ông khách mua vé số tụi nầy. Lúc đó ông ta mua vé số của cả hai đứa nên không biết vé trúng đó ai bán. Cũng không biết ông ta trúng bao nhiêu mà tìm tụi này cho một mớ. Tụi nầy mời ông đi nhậu một bữa” “Chà. Chơi sang thiệt. Ði nhà hàng phải không?” Hai ông vé số biết tôi nói đùa “Tụi nầy mua sẵn mồi rồi. Mời ông, lát nữa ra lề đường Hai Bà Trưng, phía nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, làm mấy li cho vui”.

Tôi “dẹp tiệm”, đẩy xe bánh mì, gửi ở nhà người ta rồi đạp xe ra đường Hai Bà Trưng. Lúc đó khoảng chín giờ tối (tôi còn nhớ, mùa hè năm 1983). Nhờ lúc chiều trời mưa nên không khí mát mẻ. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng là hai dãy mùng của dân kinh tế mới. Hai ông vé số đã ngồi chờ sẵn ở khoảng trống giữa hai chiếc mùng của người ngủ lề đường. Một tờ báo trải xuống làm khăn bàn, một gói thịt quay cỡ một lí lô cùng với rau dưa. Một con vịt luộc được chặt nhỏ để bên cạnh. Hai chai rượu đế với cái li nhỏ sẵn sàng chờ đợi. Tôi lôi trong bị cói ra mấy ổ bánh mì, gói patê, đồ chua… bày ra. Ông thầy giáo già lịch sự mời hai ông “chủ nhà” hai chiếc mùng bên cạnh ra tham dự. Hai gia đình nầy chưa ngủ, nhưng thấy tụi tôi bày đồ nhậu thì nằm yên, sợ bị hiểu lầm, đến khi nghe mời mới ngồi lên, chui ra khỏi mùng. Tôi mổ mấy ổ bánh mì, bỏ thịt quay với rau dưa, mời đàn bà và trẻ con hai gia đình đó. Họ ngồi trong mùng nhai bánh mì rào rào (vì bánh mì ế, đã nướng, nguội và cứng, cắn rộp rộp). Hai ông khách được mời, nói mấy câu lấy lệ rồi ăn uống tận tình vì đã bao nhiêu năm rồi có biết thịt quay, vịt luộc bao giờ! Chúng tôi mời nhau. Tôi không biết uống rượu nên chỉ vài ly đã thấm. Rượu cũng như ma túy đã “phê” rồi thì vui thì quá vui, buồn thì buồn thêm. Thấy tôi trầm ngâm, ông thầy giáo hỏi vì sao? Tôi kể rằng “Lúc trong tù, có ông bạn tù nằm bên cạnh bị bịnh kiết lỵ. Biết mình không qua khỏi mới ghi địa chỉ vợ con, nhờ khi nào được thả về thì đến báo cho biết ngày mất để mà giỗ quãi. Mấy năm sau, ra tù tôi tìm đến địa chỉ, hỏi dò, biết được chị vợ vẫn chưa biết chồng mình đã chết, mấy năm mà nhà tù không thông báo, vì khi ngồi ở quán cà phê gần nhà chị ta, nghe chị ta rầy thằng con, độ mười tuổi rằng “Ba con về sẽ dạy con chứ mẹ thì hết cách rồi” Tôi không còn can đảm mà đem tin buồn đến cho gia đình đó. Bây giờ vẫn cứ phân vân. Báo cho họ biết hay cứ để cho mẹ con chị ta hi vọng trong đợi chờ? Xin quí vị cho biết ý kiến” Chẳng ai biết nói sao! Ông thầy giáo thở dài, nhìn vào khoảng không, đọc hai câu thơ “Khả liên Vô Ðịnh hà biên cốt. Do thị Xuân Khê mộng lý nhân” (Nắm xương bên sông Vô Ðịnh đã tàn rồi mà người thiếu phụ chốn khuê phòng vẫn còn chờ đợi) rồi bảo “Anh viết thư báo cho chị ta biết. Viết sao cho khéo. Cứ bảo rằng. Anh ta vẫn mạnh khỏe, vui vẻ. Không hiểu sao buổi sáng không thức dậy. Lay gọi mới biết anh ta đã đi rồi. Chôn cất tử tế. Anh cho biết tên trại tù, ngày mất, nơi chôn cất để gia đình ra dời di cốt về quê… Thôi đổi qua chuyện tầm phào cho vui đi” Hai ông khách kinh tế mới, chẳng biết văn chương thi phú là gì, chỉ quan tâm tới chai rượu “Tụi nầy bị lùa đi kinh tế mới cũng giống như mấy ông đi tù. Dân thành phố, biết phá rừng làm rẫy là gì? Ðói, bịnh, chết liệt địa. Nhất là mấy ông bà già và con nít… Mấy tuần nay tụi nầy đập mồ, đập mả rả rời chân tay, nay vô li rượu, máu chạy “thông suốt”. Khỏe sao đâu!” Tôi ngạc nhiên “Ðập mồ, đập mả ai?” “Bộ anh không biết nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi bị cào sao? Cả tháng nay rồi” “Người ta thuê mấy anh vô đập mồ hả?” “Ai mà thuê. Trên thành phố xuống nói. Ai muốn đập mồ mả cứ vào mà đập” “Bộ khùng sao đi làm công không cho mệt xác?” “Ðập nắp mộ để kiếm sắt vụn bán ve chai. Ðập rả tay một nắp mộ bia bằng bê tông cũng được năm, bảy ký sắt, đủ mua gạo” “Rêm mình chịu chi thấu” “Chưa xong đâu. Mở huyệt xong còn phải hốt xương lên. Những mộ có thân nhân đến dời đi thì bỏ vô tiểu sành cho họ đem đi” “Họ trả tiền công có khá không?” “Ai mà biết. Thân nhân người dưới mộ phải liên hệ với chính quyền, đóng tiền bốc mộ rồi mang xương cốt đi đâu thì đi. Tụi nầy chỉ được chút tiền chủ mộ “bồi dưỡng” để tìm cho đủ bộ xương, sắp ngay ngắn vào tiểu sành. Họ dọa nếu không tìm đủ thì hồn ma về đòi người bốc mộ. Thiếu một lóng tay cũng phải tìm cho ra. Tụi nầy đâu có ngán. Quỉ còn sợ tụi nầy. Sá gì hồn ma” “Nếu không có thân nhân người dưới mộ thì làm sao?” “Thì cứ bỏ xương cốt dồn đống, chính quyền đưa đi đâu đó, đào hố trút xuống, lấp lại, cho ở tập thể luôn” Ông thầy giáo Bắc Kỳ thở dài “Xương cốt vất bỏ, mồ mả san bằng. Ðã chết rồi mà cũng không yên. Nghĩa tử nghĩa tận. Mồ mả tổ tiên, cha mẹ họ mà bị đối xử như vậy, họ có chịu được không?” Lúc đầu, hai ông kinh tế mới không hăng hái chuyện trò vì bận thưởng thức các món nhậu, sau đó đã lửng dạ lại được phụ trợ bởi mấy li ‘ba xi đế” nên cao hứng nói lung tung, kiểu “rượu nói” chứ không phải người nói. Tôi hỏi “Hốt xương như vậy có ngán không?” “Giết người mới ngán chứ hốt xương là hốt của, ngán nỗi gì” “Sao hốt xương là hốt của?” “Nó như thế nầy. Mấy người chết mà gia đình giàu có thường chôn theo vàng ngọc, châu báu. Ít ra cũng có mấy cái răng vàng, chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, trong miệng ngậm một viên ngọc. Tụi nầy nhờ vậy cũng đỡ khổ” Tôi nói đùa “Giàu chứ đỡ khổ gì?” “Tụi nó ngu lắm. Móc được trong quan tài thứ gì thì khoe rùm lên. Công an biết được. Vậy là sau đó, mỗi khi mở nắp quan tài, công an đứng sẵn, tịch thu hết. Trơ mỏ!” Ông thầy bán vé số lại thở dài “Ðất đai, nhà cửa, ruộng vườn, sông núi, biển đảo… đều là tài sản riêng của đảng và nhà nước ta. Nhân dân làm chủ nhưng nhà nước quản lý. Xương cốt nhà nước cũng quản lý luôn. Trơ mỏ cũng đúng thôi” “Tụi nó biết mình ngu nên khôn ra. Hễ vàng ngọc, cà rá, hột xoàn… cái gì nuốt được thì chúng lén bỏ vô miệng nuốt trộng. Lớn hơn, nuốt không được thì nhét trong quần xì. Làm bộ lom khom, ai thấy được” Tôi lo ngại “Coi chừng có ngày thủng ruột, mất mạng” “Không có đâu. Chúng mua rau muống già, để nguyên cây, luộc rồi nuốt trộng. Sau đó đi cầu. Rau muống lôi hết ra ngoài, lấy đi rửa rồi đem ra tiệm vàng bán. Có đứa trúng mánh, mua nhà rồi” “Có chén dĩa, đồ gia dụng chôn theo không? Mấy thứ đó là đồ cổ, quí lắm, bán được tiền lắm” “Tụi nó đập bỏ, công an có tịch thu cũng chẳng bán được” Tôi tò mò “Mấy ông hốt cốt người ta, có gì lạ không? Bên Châu Âu, thời trung cổ, có người chết bị đóng đinh chỗ trái tim trước khi đem chôn để phòng ngừa xác chết sống lại thành Dracula, chuyên hút máu người. Nghe nói trong nghĩa trang đó có chôn người Châu Âu nữa?” Ông kinh tế mới thứ hai, nãy giờ cứ tì tì uống rượu, nay mới lè nhè “Tôi không thấy đinh chỗ ngực, nhưng bị một lần hoảng vía, té đái trong quần” “Chắc là gặp Dracula rồi” Ông ta lắc đầu “ Có cái mả Tây chôn đứng. Không phải chôn xuống đất mà để cái quan tài dựng đứng như cái tháp trên mặt đất, bên ngoài xây bê tông. Mấy người Pháp đến nhờ phá cái tháp, lấy hài cốt đem về Pháp. Tụi nầy đập bê tông phía trước cho lòi nấp quan tài ra rồi nạy nắp quan tài. Không biết họ bỏ chất gì mà bay mùi thơm phức. Mấy đứa đang phá mồ bỏ việc xúm đến coi đông như kiến. Xác người còn nguyên, như đứng trong cái tủ đứng. Tôi sớn sác bước tới gỡ mớ cây gì như rong màu vàng, tấp trên tấm vải liệm. Mấy cây rong đó với tấm vải liệm thơm còn hơn nước hoa. Tôi vừa kéo tấm vải liệm xuống thì lòi mặt một bà đầm, xám đen, khô đét. Mắt nhắm, thụt vô, môi teo lại, hàm răng trắng nhởn, nhe ra. Tóc còn nguyên, phủ xuống mặt. Ðúng là con ma. Tôi sợ quá, bước lui. Ngay lúc đó, xác bà đầm ngã ụp lên người tôi như nhào đến ôm tôi. Tôi sợ đến cứng người, ngã ngửa. Cái xác đè lên tôi. Tôi vùng chạy. Người ta chạy tán loạn. Tôi vừa chạy vừa nhìn lui, sợ nó đuổi theo. Mấy ông biết sao không? Chỉ nửa giờ sau, cái xác đó bốc mùi thúi khủng khiếp, hít một chút là ngộp thở, đau đầu chịu hết nỗi. Cái xác lúc đầu còn nguyên. Thân thể, chân tay như vừa mới chết, cứng ngắt. Một lúc sau thì rả ra, thúi rum ra tới ngoài đường Hai Bà Trưng, Hiền Vương. Người đi đường hít phải chóng mặt, ói mửa. Nhà nào cũng đóng cửa vì mùi thúi bay vô nhà, không cách chi cho hết thúi. Người ta đem vôi với chất gì đó đổ lên xác con ma rồi tưới xăng đốt. Tôi ra sông, tắm ngày năm lần, xài hết một cục xà bông đá to, tắm xong bôi dầu thơm lên mà người cứ thúi. Bữa nay đỡ thúi nên tôi ngủ chung với vợ con. Mọi khi tôi giăng mùng ngủ riêng, ai đến gần, nghe mùi là né đi chỗ khác” Ông thầy giáo hỏi “Nghe nói tổng thống Ngô Ðình Diệm với ông cố vấn Ngô Ðình Nhu cũng chôn trong nầy. Bây giờ ra sao?” “Có người đến xin dời hài cốt. Hình như đem lên Gò Dưa, Thủ Ðức cải táng, nhưng công an không cho để tên trên mộ bia mà chỉ được ghi chữ Huynh trên mộ bia tổng thống Ngô Ðình Diệm và chữ Ðệ trên mộ bia ông cố vấn Ngô Ðình Nhu mà thôi”                   Ðúng ra, tôi còn có thể kể nhiều chuyện về cái nghĩa trang nầy, nhưng sợ mất thì giờ người đọc, vả lại, bữa đó, làm vài ly, tôi đã “gật gù” nên không nhớ được nhiều và chính xác. Mà không chỉ riêng tôi, mọi người đều “xỉn”. Hai ông vé số và tôi cứ nhường rượu cho hai ông kinh tế mới “Làm giùm tụi nầy cho hết hai xị. Bỏ lại, phí của” Một ông lè nhè “Bỏ đi đâu? Mười xị nữa cũng chưa “xi nhê” (xỉn) tụi nầy”. Thấy mồi đã hết, rượu cũng cạn, hai ông kinh tế mới chui vào mùng ngủ, còn lại ba người tụi tôi cũng quá say, không đứng dậy nỗi, nằm dài ra đó. Tôi chóng mặt, thở không được nhưng cũng đủ tỉnh trí mà xỏ chân vào khung xe đạp để đề phòng bị ăn cắp (xe) rồi mê man, chẳng biết trời trăng gì nữa.

               Có lẽ trời lạnh nên tôi tỉnh dậy. Lúc đó khoảng một, hai giờ sáng. Cả thành phố bị cúp điện, tối thui, chỉ trên bầu trời cao có mấy vì sao lấp lánh. Một chiếc xe gắn máy chạy từ bờ sông Sài Gòn về chợ Tân Ðịnh. Ánh đèn loang loáng dọc theo hai dãy nhà rồi mất hút. Thành phố yên lìm như chết chìm trong bóng tối tràn ngập, đặc cứng. Tôi thấy mờ mờ hai ông vé số nằm ngửa, chân tay giang ra như đứa bé nằm ngủ.

Thình lình, ông vé số Bắc Kỳ la lên, giọng Nam Kỳ rõ ràng “Xã tắc tiêu vong. Hồn phách phiêu bạt, biết đi về đâu!?” Tôi lạnh người, tưởng như những hồn ma trong nghĩa trang, không tìm thấy mồ mả, xương cốt mình, không còn nơi trú ngụ, đành đi lang thang rồi nhập vào ông thầy giáo bán vé số mà kêu lên. Tôi đứng lên, dựng xe đạp, định về nhà trọ, nhưng chóng mặt quá, trời lại tối thui, đâu thấy đường mà đi, đành nằm xuống, gát chân lên xe đạp, ngủ tiếp.

Views: 47

Xin Hãy Ghé

Thơ Trần Văn Lương

Dạo:
Hỡi người “du lịch” quê hương,
Có còn nhớ chuyện đau thương năm nào?

Xin Hãy Ghé

Bạn lại bảo sắp về quê du lịch,
Và lần nào cũng thích thú như nhau,
Được chen chân vào những chốn “sang giàu”,
Lòng thơ thới, chẳng bao giờ thấy chán!

Người như bạn, giờ nơi đây nhan nhản,
Đủ loại từ tỵ nạn đến di dân
Qua đường nhân đạo, qua ngả hôn nhân,
Hay may mắn được người thân bảo lãnh.

Bạn bảo bạn có tiền và quá rảnh,
Nên về quê ngoạn cảnh với vui chơi
Thật nhiều lần cho đầu óc thảnh thơi,
Để quên hết nhọc nhằn thời vượt biển.

Lâu lâu rải ra ít đồng “từ thiện”,
Để người nghèo phải luôn miệng cám ơn,
Để thấy mình bỗng chốc “vĩ đại” hơn,
Rồi hể hả lơn tơn đi du lịch.

Bạn cứ việc làm điều gì bạn thích,
Chẳng còn ai dám chỉ trích bạn đâu,
Tôi chỉ xin nhờ bạn mỗi một câu:
Hãy thăm viếng trước sau giùm mấy chỗ.

***

Xin hãy ghé thăm đoạn đường khốn khổ,
Được đặt tên là Đại Lộ Kinh Hoàng,
Nơi dân lành xưa tay xách nách mang,
Bị Cộng pháo chết không toàn thân thể.

Xin hãy ghé, nếu có về qua Huế,
Thăm mồ chôn tập thể Tết Mậu Thân,
Nơi oan hồn vô tội của người dân,
Bao năm vẫn còn âm thầm kêu khóc.

Xin hãy ghé thăm chiến trường An Lộc
Để biết về trận đánh khốc liệt xưa,
Nơi hàng ngàn dân với lính sớm trưa,
Hứng đạn pháo như mưa rào tuôn dội.

Xin hãy ghé thăm nghĩa trang quân đội
Để thấy vô số tội của bạo quyền,
Đã say men “chiến thắng” đến cuồng điên,
Đập phá nát các đền đài bia mộ.

Xin hãy ghé Trường Thiếu Sinh Quân cũ,
Nơi vài trăm khóa sinh nhỏ hiên ngang,
Cuối Tháng Tư quyết chẳng chịu đầu hàng,
Liều sinh mạng để bảo toàn chính khí.

Xin hãy ghé thăm Cổ Thành Quảng Trị,
Nơi năm xưa, các binh sĩ can trường
Của miền Nam đã chẳng tiếc máu xương,
Giành lại được từ tay phường xâm lược.

Xin hãy ghé thăm Hoàng Sa, nếu được,
Để tỏ tường lòng yêu nước tận trung
Của Hải Quân với bao vị anh hùng
Đã dũng cảm giao tranh cùng lũ Chệt.

Xin hãy ghé tìm thăm nơi tuẫn tiết
Của năm vì Tướng trung liệt sắt son,
Theo gương xưa, quyết chẳng chịu sống còn,
Chọn cái chết để giữ tròn tiết tháo.

Xin hãy ghé thăm trại tù “cải tạo”,
Nơi xưa kia bạn bị bạo quyền giam,
Bị đọa đầy hành hạ biết bao năm
Mới được thả về kiếm ăn xuôi ngược.

Xin hãy ghé thăm bến tàu ngày trước,
Nơi bạn tìm đường bỏ nước ra đi,
Dù lắm khi mất cả lưới lẫn chì,
Nhưng nhờ mãi kiên trì nên thoát khỏi.

Xin hãy ghé thăm nhà giam tăm tối
Đã cầm tù bạn về tội vượt biên,
Để rõ thêm cái bộ mặt bưng biền
Của bè lũ cầm quyền đang đắc thế.

Rồi muốn ghé chỗ học xưa thì ghé,
Nhưng chớ lầm gọi “Trường Mẹ”, trường con,
Sau Bảy Lăm, “Trường Mẹ” đó đâu còn,
Sớm đã bị lũ cáo chồn cướp xác!

***

Nếu chỉ biết toàn rong chơi chỗ khác,
Thì qua đây đừng mang rác tìm tôi,
Để khoe khoang cùng quảng cáo lôi thôi,
Rồi giở giọng cười chê tôi “ngoan cố”.

Đừng ngụy biện bảo rằng về bên đó,
Cốt cho mình được biết rõ quê hương!
Sao ngày xưa phải van vái tứ phương,
Chui nhủi kiếm cho được đường bỏ xứ?

Quê hương cũ giờ đây còn đâu nữa,
Chỉ là nơi bầy quỷ dữ lộng hành,
Khiến triệu triệu dân lành
Luôn tiếc nhớ cảnh thanh bình thuở trước.

Kể từ Tháng Tư mất nước,
Quê nhà bước bước tang thương,
Vẫn văng vẳng đêm trường,
Tiếng than khóc từ đại dương vọng lại.

Trần Văn Lương

Cali, đầu Mùa Quốc Hận 4/2024

Views: 34

Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) và Chiến Tuyến Việt Nam

TS.LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT 

I. CĂN BẢN CỦA CHỦ NGHĨA BE-BỜ

George F. Kennan

Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1] là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2] ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo.  Chính sách này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt.  Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947[5] và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6]

Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau:[7]

  1. Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
  2. Xôviết cộng sản tìm mọi cách kết tác với thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
  3. Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;

Tổng Thống Harry S. Truman

Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9]  Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:

  • hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2,  song song với việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quý Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund];
  • cảnh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới hình thức liên minh quân sự Bắc Âu  [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
  • thu thập tin tức cẩn mật từ  quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]

Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].  Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự, MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13] 

  1. KHAI MỞ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa kỳ tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.

TT Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO] trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông Dương.

Tổng Thống Dwight D. Eisenhower

TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản.[14] Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:

  1. tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
  2. Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương;
  3. Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến.

Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ.  Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.

  1. VIỆT NAM THÀNH THÍ ĐIỂM CHỦ NGHĨA BE-BỜ 

Tổng Thống John F. Kennedy

TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia.  Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.

Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:

Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.

Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đãi của một thiểu số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo.  Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng v.v., các nhà trí thức độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v.  đã mất cơ hội tham dự vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến Tuyến này.  Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá trên đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất đáng tiếc.  Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự do.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Sau hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963.  Nhiều tài liệu lịch sử [mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn của CIA Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17] dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở.  Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và  ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu.[18]

Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu là do [a] tình trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và [c] phần nào vì Ngô Đình Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đình Diệm v.v. với ý định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]

  1. BIẾN HOÁ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô.  Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:

— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22] để lấy cớ  trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney;

— Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận để đưa tới thảo luận ngưng chiến;

— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy] tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh phòng chung quanh các phi trường và các địa điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Tổng Thống Lyndon Johnson

TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đòi hoà bình của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng]  phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử.  Đó là lý do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt.  Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến.

Về phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân quản” với 10 biến cố chính trị gồm những cuộc đảo chính hụt và những cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia, Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là  Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó.  Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các nơi sôi động.

Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:

  • về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại.
  • Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN.  Biến cố Tết Mậu Thân đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích.  Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”.  Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[23]  Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30, 000 binh si tử thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện hằng ngày trên Ti Vi Hoa Kỳ. 
  1. CHẤM DỨT CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

Khi thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ.  Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger đếu thấy rõ cuộc chiến không thể thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng không thể kéo dài tình trạng cầm cự này lâu dài thêm.

Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi” [“Détente”][24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms Limitation Talks],[25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”[26] tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.

Tổng Thống Richard Nixon & Chủ Tịch Mao Trạch Đông

Trong tinh thần đó, TT. Nixon quyết định giảm thiểu quân số tác chiến từ  537,000 xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,[27] bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho Quân Đội VNCH.  Trong giai đoạn này đã xẩy ra những chiến cuộc ác liệt như sau:

  • Cuộc Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc hành quân nầy, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham chiến.  Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch.  Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn.
  • Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972.  Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt [QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lần nầy QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn 3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại.   Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công.  Sau 81 ngày đêm tranh đấu, các binh chủng Nhẩy Dù, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
  • Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54 ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt hại khoảng 30 ngàn binh sĩ.  QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh và Biệt động quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô tiến đánh Thủ Đô Sài Gòn.  Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu  & Tổng Thống Richard Nixon

Sau nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng đồng minh và nhiều điều cam kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973, giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].

Năm 1973, Tổng trưởng Quốc Phòng Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ đem quân đánh lớn tại Miền Nam.  Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để cấm việc thả bom này.[28] Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với TT NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu không muốn gọi là lừa đảo.

Trong khi đó,  QBV thao túng dùng đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng tiếp viện để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới 1976.  Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà đã đem lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà Nội.  Sau khi Ban Mê Thuột bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975.  Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]

  • hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàng tật].
  • khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
  • khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong;
  • Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.

II. PHẢN DIỆN CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM: AI THẮNG, AI THUA? 

  1. Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn:[A] Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower, [B] xác định vị trí “be-bờ“ do TT JK Kennedy & Cố Vấn Bundy, [C] biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson, [D] để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30]với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger.

Sự thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản.   Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :

  • vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
  • vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[31]
  • vừa vận chuyển guồng máy sản xuất chiến cụ “phòng thủ chiến lược” do tư bản ứng vốn, thu lời.

Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[32] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng:

This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience…In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist. We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33]

Quyền lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực của dân chúng.  Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111 Tỷ Mỹ Kim [tương đương 900 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2016], dù hạn chế vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ.  Dân sẽ chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một.

  1. Với cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”, nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc chiến lẫn định mệnh sống còn.  Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt vô cảm.  Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt.  Nhưng chúng ta vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng minh kém vế.

Trong cuộc “Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính thể Quốc gia lẫn nhân dân Miền Nam đều thất bại.

  1. Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập.Quân đội và Nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng.  Quân đội CS Băc Việt thực sự đánh cho Nga, đánh cho Tầu.  Họ là kẻ thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ đã chiếm được Sài Gòn, nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất Nước trong “hoà bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán đảo, bán dân.
  2. VẬY AI LÀ PHE THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM?

“Đồng Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất thành cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết Be Bờ/Chiến tranh lạnh/” đã tháo chạy với hội chứng “Vietnam Syndrome” trên đài truyền hình và tại hậu phương Hoa Kỳ, nhưng thực sự đã “thắng cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch] thế giới, tạm cho tới ngày nay.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ vì đảm nhận vai vế “hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối với nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, Bắc Phi, phần nào để duy trì kho bạc “petro dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ đại) phát triển kỹ nghệ chiến cụ –“Military Industrial Complex”, cánh tay phải của uy lực tư bản Hoa Kỳ.

Song song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung Cộng.  Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi Tây, đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu “ping pong/coca cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War] với các chính thể Nixon-Kissinger và kế nhiệm, đế quốc cộng sản này đã trở thành “phó chủ” toàn cầu [với kỳ vọng trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam, Biển Đông, và bất cứ nơi nào thèm “tiền xì dầu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay thấy bắt buộc [chẳng đặng đừng] phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc “made in China”.

Phải chăng Trung Cộng đang trở thành con khủng long thế kỷ 21, và  Việt  Nam là cái đuôi xã hội mafia của nó?

III. TẠM KẾT:

Cuộc chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng là bài học chung cho những thế hệ sau. Đất nước là của chung, phải định đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại nhân, vì họ có mục tiêu và quyền lợi của họ.  Cái khôn là biết hợp tác để trao đổi thế lực, trí tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc, từng  thể chế tác động nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền lợi của đảng phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt.  Không ai sống hộ chúng ta và cũng không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu chúng ta.  Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi theo đuổi, thực hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương tự.

Chúng ta, con cháu chúng ta hãy tránh là nạn nhân lẫn tòng phạm của những cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng thế hệ này sang thế hệ khác.  Hãy lật ngược những trang bi sử đó và nhất quyết trở thành sáng lập viên chung của một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững bền, tích cực, trọng sinh, trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo trọng, thân thương.  Việt Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn bị vĩnh viễn xoá bỏ.

Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân dân Việt Nam, toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những Người Việt thực sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây giờ và tiếp nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc tài.

Dù là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít, hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ quyền lợi và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó, cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây dựng và bảo trọng một Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy. 

TS.LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT

PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University

CHÚ THÍCH

[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for a cordon sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease.

[3] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.

[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[5] Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.

Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and intellectual respectability.”

[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine” Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727

[7] At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…

[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402

[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press

[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and the Triumph of Democracy. (1993).  Gimbel, John, The origins of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).

[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives

[12] Amy B. Zegart,  Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC

[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy

[14] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.”

[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)

[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia

[17] Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963 that “Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they will mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem, he should also be sent outside Southeast Asia.”  He further went on to anticipate what he termed a “Götterdämmerung in the palace”. We should encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the Nhus should be banished to France or any other country willing to receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer, Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.

[18] According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese found themselves.”

[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.

[20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”

[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”

[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The New York Times, 1970-06-25

[23] Television brought the brutality of war into the comfort of the living room. Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.

[24] Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard University Press (2003).

[25] SALT [Strategic Arms Limitation Talk]

[26] With honor

[27] Vietnamization or Nixon Doctrine

[28] Senate passed the Case-Church Amendment to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam SyndromeKarnow, Stanley (1991)

[29]  Battlefield:Vietnam | Timeline

20 Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech University.

R.J. Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources & Calculations”. web site. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved 2010-01-01.

Tran Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site. http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm. Retrieved 2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF

Kevin Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.

[30] Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon & Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam’

[31] Effect of the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen Western institutions in order to render them invulnerable to the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet regime.

[32] Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.

[33] President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961

Views: 78

Kén Chồng Cho Con

Phạm Thành Châu

Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường, không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng rồi, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm (1975), hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi…? Tất cả chỉ là giả thiết. và vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ trẻ đến lớn tuổi đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái. Năm 1973 hắn tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Ông có một thói quen buồn cười. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho ông, đốt thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại đốt điếu khác, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Đến ngày mất nước (1975), ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại tù cải tạo Long Thành 15 NV hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể. Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ kể rõ.

Còn chuyện hắn biết cô con gái của ông đại tá tỉnh trưởng (trước 1975) cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo. – Nhưng trong túi “moa” (tôi) tài sản chỉ mấy nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì “hẻo” (tệ) quá! Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội (thành phố Huế) mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà vì là giờ hành chánh, chỉ có cô gái ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô như nụ hồng hé nở, ngây thơ, tinh khiết. Cô học trường Đồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Chiều đó hắn ngồi tán tỉnh tía lia, khi ra về, em cho hắn ôm hôn lên má, rồi ôm cái tô ra về. Hắn hẹn với em vài hôm sau sẽ đến nữa. Đến hẹn, hắn lại ôm cái tô đến. Lính gác cổng thấy xe quận quen thuộc, không bận tâm. Em tươi cười, mừng rỡ chờ đón hắn. Gặp em được mấy lần thì ông tỉnh trưởng về sớm. – “Moa” (ta) nghe mấy bữa nay “toa” (cậu) cứ ôm cái tô đến trò chuyện với con bé Mai của moi mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con bé lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe! Dù sao thì hắn cũng được em cho ôm hôn mấy lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”. Một lần, ôm hôn em, hắn thì thầm “Em làm vợ anh nghe!” Có lẽ em không biết rõ “làm vợ” là làm gì, nhưng em vẫn ngước nhìn hắn cười và gật đầu. Đáng lẽ chuyện tình của hắn với em sẽ còn dài, nhưng sau đó sập tiệm (miền Nam bị đô hộ 1975). Hắn đi tù, ông (đại tá) bố em, cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng, hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ, hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán McDonald! Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe, hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe, và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông không biết tiếng Mỹ, lại già cả, nên lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỹ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo. – Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket. – Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay. Ông ta ngạc nhiên. – Ủa, sao toa biết moa? Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác. – Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình? – Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm (1975) sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO (tù cải tạo đi Mỹ) thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gả con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa. Ông ta bảo. – Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức. – Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu. Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái của ông bà bưng trà ra mời khách. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà, chững chạc hơn trước. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dửng dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn kể lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô con gái của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích lắm nhưng có cô gái ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường, hắn đâm ra mong được nghe cô mời trà để ngắm hai bàn tay búp măng, trắng tinh, dịu dàng. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như rằng, cô đăm đăm nhìn lại và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Một nụ cười đẹp hơn tất cả các nụ cười trên thế gian. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn. Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như hắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân. Nhớ nhé!”” Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo. – Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà. Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại. – Chớ ba mạ cháu ở mô rứa? – Dạ, ở nhà. – Còn cháu ở mô? – Dạ, cũng ở nhà. – Rứa là biết rồi hỉ. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ. Hắn tự hỏi, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất với ông bà. Khi giả từ, bà lại hỏi. – Bà cụ có mạnh khỏe không? – Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia. Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn. – Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta. Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ. Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ thêm mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô con gái đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới gợi ý gã cô con gái xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô ta, nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng, họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá. Vì không biết ý định của ông bà, nên một lần được mời đến uống trà, hắn đánh nước cờ cầu may bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước cờ “tiếp chiến”. Hôm đó, chủ nhật đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ (Việt Nam Cộng Hòa) trước chợ Eden (tiểu bang Virginia) Tối thứ bảy, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi. – Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không? – Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất. – Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden, sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ. – Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ. Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành (cô gái) đến trước miệng con chốt (là hắn), nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn. Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý gì với nhau bao giờ? Đến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Thời đi học, mỗi đầu tuần đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca… Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Kẻ mất nước như người mất hồn, như người thất tình. Thế nên hắn sợ mọi người thấy hắn ứa nước mắt khi hát quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ. Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục. Ông bà có tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẩn gì đó nhưng hồn vía để cả vào người đẹp ngoài kia. Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định lò dò theo trò chuyện với cô gái nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi? Đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô con gái hiếu thảo của bà vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố trong tù. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ, cô tỏ ý vâng lời. Hắn nghe mà tưởng mình nằm mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!? Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui. – Chào chú ạ! – Chú đến thăm Mai. – Dạ, mời chú vào. Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thước tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì. – Có ông bà cụ ở nhà không? – Dạ không. Mời chú ngồi. Cô ngồi đối diện. Cô rót trà rồi mở hộp bánh ra. – Mời chú! Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười. – Trà còn nóng, cháu vừa mới pha. Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin! – Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không? – Dạ không. – Thế mạ có nói chuyện nầy với Mai không? – Dạ có. Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn. – Chú xin lỗi đã làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui. – Dạ. – Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số… Qua đây chú đi làm trong tiệm McDonald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng, qua Mỹ, cũng chẳng khá hơn. (Hắn rào đón trước) Một mình, kiếm sống còn vất vả, họa chăng có cô nào điên mới chấp nhận sống với chú. – Cháu thấy, ở đây, có nhiều cặp vợ chồng cũng lao động chân tay mà vẫn sống đầy đủ, hạnh phúc. – Mai nói vậy, sao Mai vẫn sống độc thân? – Sau năm bảy lăm (1975), cháu chưa đến tuổi trưởng thành thì bị họa mất nước. Tảo tần vì đời sống, lo thăm nuôi ba trong tù hơn chục năm, tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện yêu đương. Qua Mỹ, vì cuộc sống, cháu cũng phải đi làm. Sáng đi, chiều về, chẳng có thì giờ tiếp xúc với ai mà nói chuyện lập gia đình. Rồi cô lắc đầu, trầm ngâm. – Thực ra, lòng cháu đã nguội lạnh từ lâu rồi, chẳng có ai làm cháu xao xuyến. – Chú đoán. Hoặc Mai đang mang một mối tình câm, hoặc đã bị phụ tình. Đúng không? Cô ngước nhìn hắn vẻ bí mật. – Cháu bị cả hai, nhưng không bị phụ tình. Bị người ta vô tình thì đúng hơn. Hắn làm bộ bất mãn. – Tay vô tình nầy thật đáng trách, và cũng đáng tiếc nữa. Mai có thể cho cho chú tên người đó không? Cô nhìn hắn, buồn buồn. – Cháu đã gọi đó là người vô tình rồi mà! – Vẻ buồn rầu của Mai làm chú nhớ lại ánh mắt của một cô bạn nhỏ ngày xưa, cũng nhìn chú lưu luyến khi chú từ giả cô ta để ra về. Chuyện đã lâu. Nay thì cô ta đã quên chú rồi! Thấy buổi trò chuyện kéo dài mà không đi đến đâu, hắn quyết định từ giả. – Chú đến thăm Mai, có lẽ là lần cuối. Ít hôm nữa, chú sẽ đi sang tiểu bang khác. Cô nhìn hắn, vừa ngạc nhiên vừa tức giận. – Vậy chứ mạ cháu dặn chú đến gặp cháu vì chuyện gì? Hắn bối rối. – Mạ Mai bảo chú đến gặp Mai để biết rõ tình cảm của Mai đối với chú? Nhưng thấy Mai chuyện trò, tâm sự với chú như với người bạn nên chú không dám hỏi. Điều chú phân vân vì sao Mai để ý đến chú, có cảm tình với chú? Trẻ và đẹp như Mai, biết bao người xứng đáng với Mai. Sao Mai lại chọn chú? Vì không rõ lý do, nên chú không dám nhận những cảm tình của Mai ban cho chú. – Cháu đã nói từ lúc nãy đến giờ mà chú vẫn không hiểu cháu. Cháu đã nói. Từ nhỏ đến lớn, cháu chỉ yêu một người thôi. Nếu không có vụ mất nước, cháu và người ấy đã nên vợ chồng từ lâu rồi. Đâu đến nỗi gần như suốt đời cháu phải đi khắp nơi tìm người ta. Nước Mỹ mênh mông.. . Rồi cô úp mặt vào hai bàn tay khóc nức nở, đôi vai rung lên… Hắn ngồi chết sững. – Cho chú xin lỗi Mai. Thú thật. Đời chú quá vất vả. Chú không còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện tình cảm với ai. Tình yêu của Mai dành cho chú thật kỳ lạ. Giống như là một chuyện cổ tích. Cô lau nước mắt. – Cổ tích sao được. Chú chờ cháu. Cô đứng lên, vào phòng một lúc rồi đi ra, tay cầm một tấm hình, trao cho hắn. – Chú xem đi! Hình ai trong đó? Hắn ngạc nhiên kêu lên. – Ôi. Hình chú đây mà! Đó là tấm hình hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh hôm tốt nghiệp. Sau tấm hình là câu (thề non hẹn biển) “Anh hứa yêu em suốt một đời” Cô hằn học. – Chú chú, cháu cháu! Bộ xưng “anh” sợ bị lính bắt hay sao?

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng, cám ơn quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rể phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè. – Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con bé Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô hắn cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp để tìm cho ra cụ mi. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình cụ mi chụp tặng hắn, đã mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô cỡ tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Cũng may! Hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Đáng lẽ, chuyện tôi kể còn dài, nhưng phải tạm ngưng ở đây, vì tôi nghe vợ tôi nôn ọe, ói mữa gì trong phòng tắm. Trăng mật cho cố, bây giờ ói mật xanh, mật vàng! Tôi phải vào với cô ấy, xem sao?

Phạm Thành Châu

Views: 88

Năm Thìn Nói Chuyện Con Rồng

Phạm Thành Châu

Năm 2024 - Giáp Thìn Ảnh: AI tạo hình

Năm 2024 – Giáp Thìn (Ảnh: AI tạo hình)

Năm nay là năm Thìn, cầm tinh con rồng. Chẳng ai thấy dung nhan con rồng ra sao. Nó là sản phẩm của tưởng tượng. Có điều, không hiểu ai đã đồng hóa con rồng của châu Á với con dragon của châu Âu. Một bên là con rắn (long), bên kia là con kỳ nhông, kỳ đà (dragon). Con rồng Á Châu tượng trưng cho cao quí, quyền năng (nhà vua) và nhân hậu (rồng hút nước, phun nước làm mưa giúp mùa màng xanh tốt) trong khi con dragon Âu châu vừa giống con khủng long vừa giống con hải mã (các ông thường ngâm rượu để uống cho mạnh gân cốt), là con ác thú, chuyên phun lửa đốt người ta. Bài nầy sẽ nói đại khái về con Dragon Châu Âu trước sau đó sẽ nói về con rồng Á Châu.

Con dragon, trong thực tế, có thật. Ðó là con vật ăn thịt, giống như con kỳ đà, rắn mối của ta. Bạn mở Google rồi đánh chữ “Dragon” thì thấy đủ loại Dragon. Con Dragon tiếng La Tinh: Draco, tiếng Anh, Pháp: Dragon, tiếng Ý: Dragone… Dragon nhỏ cỡ con thằn lằn, to lớn thì có con Dragon Komodo ở đảo Komodo, Indonesia, tên khoa học là Varamuo Komodoensi, dài 2 mét, nặng 150 ki lô. Tôi xem trong TV. thấy chúng ở chung với người trên đảo Komodo. Dân trên đảo phơi cá, chúng bò tới ăn, phải đánh đuổi. Hình như chính phủ nuôi chúng để hấp dẫn khách du lịch, nhưng cũng khá tốn kém, có mấy con trâu già chết, người ta mang cho chúng, chúng nhai sạch cả xương, lông. Không hiểu khi đói chúng có ăn thịt trẻ con không? chứ tôi thấy mấy đứa nhỏ lấy roi đuổi đánh chúng chạy vô rừng. Khi giành ăn, giành con mái, chúng đánh nhau rất hăng, máu me tùm lum mà vẫn cứ lăn xả vào nhau. Nhỏ hơn có con Dragon Volan mà ta gọi là thằn lằn bay, tên khoa học là Physignathus Cocinan. Miền thượng du Bắc Việt cũng có loại nầy. Có một loại tương tự lớn hơn, tên là rồng đất, người Tày gọi là Turong Ðang, người Mường gọi là Rềnh, dài khoảng 50 cm. Con chuồn chuồn không giống con dragon mà cũng được gọi là Dragon Fly? Có con cá dưới biển, màu sắc sặc sỡ, đầu dẹp cũng được gọi là con Dragonet. Ở Mỹ, có nhiều con dragon nhỏ được bày bán trong các tiệm bán thú nhỏ (pet). Mấy con nầy chẳng làm được tích sự gì, chỉ thấy bò tới , bò lui như con kỳ nhông vậy thôi (con tắc kè còn kêu được vài tiếng vào ban đêm). Tôi xem phim (vẽ) truyện cổ tích cho trẻ con Châu Âu, con Dragon được thêm vây, cánh, móng vuốt dữ dằn. Có con năm bảy đầu. Nó to như cái nhà, hiệp sĩ đến gần để chiến đấu thì nó phun lửa, chặt đầu, nó mọc lại đầu khác, phun lửa tiếp. Có khi nó bay trên trời, dùng móng vuốt bắt người. Cuối cùng chàng hiệp sĩ cũng giết được nó (hoặc bắn tên cho nó rớt xuống đất) để vào hang cứu công chúa (và để vui lòng lũ trẻ), tương tự chuyện Thạch Sanh, Lý Thông của ta vậy. Dragon là con ác thú, các ông gọi mấy bà dữ dằn, ác phụ là Dragon lady.

Bây giờ qua chuyện con rồng của ta.

Chưa ai thấy con rồng thật, tôi cũng chưa thấy, nên tôi chỉ dựa vào sách báo, truyền thuyết, tranh vẽ, hình tượng để để trình bày với hi vọng quí độc giả có được những giây phút giải trí thoải mái trong mấy ngày xuân.

Hình tượng con rồng có từ khi nào? Có thể khẳng định, rồng có từ thời lập quốc nước Việt Nam ta. Sử Trung Hoa có nhắc đến con Giao Long, là con rồng của người Giao Chỉ. Các di chỉ lịch sử của Trung Hoa không thấy hình tượng con rồng (chỉ có con lân), mãi đến đời Tuyên Ðức (1426-1435) mới thấy rồng xuất hiện trên các đồ đồng, đồ gốm, đồ sành (ông vua nầy chỉ thích đá dế, sao lại thích con rồng?). Ðến đời Thành Hóa (1465-1487) mới thấy xuất hiện Long Phụng Hòa Minh rồi Phụng Mao Lân Giác… Ngay cả đến con Phụng Tàu cũng chỉ xuất hiện sau Phụng Việt ít ra cũng 400 năm. Ðời Lý, thế kỷ 11, phụng đã thấy xuất hiện trên đồ gốm, đồ đồng rồi. Con phụng Việt dáng uy nghi nhưng nặng nề, người Trung Hoa “chế biến” con phụng Việt thành bay bướm, rực rỡ, thanh thoát ra vẻ mẫu nghi thiên hạ (phụng tượng trưng cho hoàng hậu). Xem thế từ thời thượng cổ, người Lạc Việt đã vẽ hình giao long trên người để tránh bị giao long làm hại, thuyền bè cũng vẽ con mắt phía trước mũi thuyền, mục đích đồng hóa với giao long. Người Mường (gốc người Việt cổ) gọi con rồng là Prudồng và con thuồng luồng là Tu Luông. Con rồng ở Việt Nam không chỉ dành riêng cho vua chúa mà dân gian cũng có thể dùng hình tượng rồng, chỉ khác biệt là con rồng, tượng trưng cho nhà vua thì mỗi chân có năm (5) móng, rồng của các quan bốn (4) móng, dân chúng (các đình chùa, miếu đền) chỉ được làm hình con rồng ba (3) móng thôi. Ra Huế, bạn thăm cung điện, lăng tẩm các vua đều thấy rồng năm móng, Ðồ cổ, có hình vẽ rồng năm móng là biết đó là đồ ngự dụng (vua dùng), rất có giá trị. Nếu có lên Ða Lạt, nhớ ghé thăm biệt điện Bảo Ðại, bạn xem trong tủ triển lãm đồ ngự dụng, có một bình trà (cho vua dùng) vẽ hình con rồng sẽ biết. Thời các vua nhà Nguyễn, có lịnh cấm dân chúng dùng hình tượng con rồng. Theo Khâm định Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ , quyển 186 về luật lễ thì “Nếu thêu vẽ con rồng, con phượng, giao long thì quan hay dân đều bị phạt 100 trượng (đánh bằng gậy) và lưu đầy 3 năm. Quan thì cách chức, thợ làm bị phạt 100 trượng”. Ðến thời Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn nên chẳng ai sợ lệnh vua mà phải tuân hành nên đình chùa, miếu võ, các đồ dân dụng (ấm, tách, đĩa, chén) vẫn vẽ con rồng, có khi rồng năm móng!

Huyền sử Việt Nam có kể rằng chúng ta là con Rồng cháu Tiên (các cháu gặp người “ngoại quốc” có thể tự giới thiệu “We are children of the Dragon and the Fairy” nhưng nhớ chỉ rõ hình con rồng chứ không phải con dragon, khủng long hay ác thú phun lửa giết người, và cô Tiên của chúng ta là người đẹp bằng người thật, nhân hậu và có phép tiên, chứ không phải cô tiên có cánh, bé tí xíu như con ong, tay cầm chiếc đũa thần, nhấp nháy như pháo cầm tay thường xuất hiện trong các hình vẽ và phim cổ tích cho trẻ em ở Châu Âu).

Sách xưa có ghi rõ về các loại rồng như sau: Rồng có cánh gọi là Ứng Long, rồng có sừng gọi là Cù Long, không có sừng gọi là Ly Long, rồng có vảy gọi là Giao Long (con rồng ở xứ Giao Chỉ. Giao Long thường xuất hiện ở bến sông thành Ðại La và Long Biên). Rồng 500 tuổi thì có sừng, 1000 tuổi thì có cánh, rồng chưa bay lên được thì gọi là Bàn Long. Trung Hoa đem con Giao Long (của xứ Giao Chỉ) ra “vẽ rắn thêm chân” (đầu lạc đà có sừng, tai bò, bốn chân, râu ria, móng vuốt trông rất hùng vĩ, dữ tợn) phổ biến đến các nước chung quanh nên nước Nhật chọn con rồng đen là rồng thiêng của họ (trước 1945, có đảng Hắc Long của Nhật), và con Thanh Long là rồng thiêng của dân tộc Triều Tiên.

Trở lại tục xăm mình của người Việt mà đến đời Trần vẫn còn giữ và con rồng đời nhà Lý chỉ là con rắn có vảy, có chân đến đời nhà Trần mới dùng hình tượng con rồng (có vây, kỳ) như của người Trung Hoa. Nhưng con rồng có thật hay không? hay biến dạng từ con vật nào? Theo các nhà nghiên cứu về tục xâm mình và con rồng Việt Nam thì có lẽ đó là hình ảnh con thủy quái. Họ suy luận rằng: Thời thượng cổ, đồng bằng sông Hồng và vùng bờ biển vịnh Hạ Long (vịnh rồng đáp xuống) còn rất hoang vu, thú dữ đầy dẫy. Người Việt đánh cá thường bị loại thủy quái nầy sát hại. Họ sợ hãi và nghĩ cách xâm hình con thủy quái lên toàn thân, hi vọng chúng tưởng đồng loại mà không ăn thịt. Loài thủy quái nầy rất to lớn, chúng thường băng qua sông hoặc lội từ đảo nầy qua đảo kia ở vịnh Hạ Long để săn mồi. Vì là ác thú hại người nên con người phải chiến đầu, tiêu diệt chúng để sống còn, giống như đã tiêu diệt hổ báo, cá sấu ở nam bộ thời người Việt mới đến khai phá. Tuy vậy đến thời Pháp thuộc, loài thủy quái nầy vẫn còn. Xin trích sau đây một số tài liệu liên quan đến con thủy quái mà người ta gọi là rồng biển, có ghi nhận trong các “Nhật Ký Hải Trình” của hải quân Pháp trên vịnh Hạ Long như sau. Theo Oudemans người ta đã trông thấy rồng hiện ra 134 lần từ năm 1802 đến năm1890. Ông Oudemans đã được trông thấy rồng hiện lên ở vịnh Hạ Long (bai d ùAlong) nên ông có tả rõ hình con rồng dài từ 15 đến 30 thước, đầu nhỏ có râu, đuôi dài lắm, có 4 vây to, lúc ngoi dưới nước mình như con rắn. Vị chỉ huy tàu Avalanche là Lagrisill có kể chuyện rằng: Năm 1897, hồi tháng 7, tàu ông đang đi ở vịnh Hạ Long, thình lình, ở đằng xa, xuất hiện một vật đen đen, chiếu ống dòm thì thấy con rồng đang rẽ nước, ông liền cho tàu chạy đến gần độ 600 thước rồi ra lịnh lấy súng đại bác bắn một phát, nhưng không trúng, rồng lặn xuống nước. Rồng thở phì phào như con trâu đầm nước và phun nước lên cao như cá ông voi. Ngày 15 tháng 2 năm 1898 rồng lại hiện lên gần Faist-si-long, trên tàu bắn nhiều phát súng, cách rồng 3, 4 trăm thước, hình như có hai phát trúng nên thấy rồng cuộn khúc lên khỏi mặt nước và phun nước lên trên không. Chín ngày sau, từ tàu Bayard, một sĩ quan (quan năm) hải quân và tám hạ sỹ quan đang đứng chơi trên tàu cũng lại thấy rồng hiện lên, đầu nó nhỏ như đầu chó bể (phoque), lưng có gai như răng cưa”. Mới đây, vào năm 2009, ở vịnh Bristol (Alaska) người ta quay video được một sinh vật to lớn, dài khoảng 6 – 9 mét, di chuyển trong nước với cổ dài, đầu giống đầu ngựa. Giáo sư Paul LeBlond, trưởng khoa Khoa Học Trái Ðất Và Ðại Dương, đại học British Columbia cho biết, sinh vật trong video dao động lên xuống theo chiều dọc chứ không di chuyển sang hai bên như cá. Có thể đó là loài rắn biển khổng lồ, được gọi là Cadborosaurus, là động vật bò sát biển, thường xuất hiện ở các bờ biển Bắc. Như vậy, con Giao Long (con rồng của người Giao Chỉ) là có thật, đến thế kỷ 19 còn sống sót vài con và bị người Pháp tiêu diệt. Có phải con thủy quái ở hồ Loch Ness (xứ Scottland) cũng là bà con giòng họ gì với con giao long của ta chăng?

Năm 1925, giáo sư Gruvel xuất bản một cuốn sách nói về nghề đánh cá cũng có kể chuyện về con rồng biển. Theo lời ông bác sĩ Kremp, nguyên quản đốc viện Ðông Dương Hải Học đã nghe một người Nam phần, 56 tuổi, chủ thuyền ở sở Thương Chánh Sài Gòn thuật lại rằng, năm 1883, có trông thấy trên bể một con rắn biển to bị sóng đánh giạt vào. Con rắn bể nầy dài 19 thước, lưng rộng 1 thước và có nhiều đốt. Da nó xám, cứng, gõ kêu như sắt tây (Theo Nguyễn Công Huân, Văn Hóa Nguyệt San, T. XIII, Q I, Sài Gòn 1964, tr. 26-30).

Trở lại chuyện con rồng. Vì là con vật được tượng trưng cho cao quí, sang trọng, quyền năng và nhân hậu nên các vua tự xem mình là rồng, những gì thuộc về nhà vua đều thêm chữ long vào. Long nhan (mặt rồng), long sàn (giường vua nằm), long xa (xe vua)… Trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung có “Ðồ Long Ðao” (đồ long là giết rồng) là cây đao sẽ dùng để giết vua Mông Cổ giành lại nước Trung Hoa cho người Hán. Người Việt mình rất thích dùng chữ “long” để chỉ các công trình, địa danh. Long Biên, Hàm Rồng, Long Hải, sông Cửu Long, thành Thăng Long… ngoài ra còn có Long Beach (bãi biển rồng), Long Island (đảo rồng) ở xứ Mỹ, và Longine (con rồng nằm trong đồng hồ?) của Thụy Sĩ nữa!

Chùa Cầu – Hội An, Quảng Nam (Ảnh: Internet)

Hiện nay người ta thích vẽ, tạc tượng con rồng ở các đình chùa, miếu đền và cả các công viên, khu giải trí. Dài nhất Việt Nam là 2 con rồng bằng xi măng trước đền thờ Ngọc Hân công chúa và vua Trần Nhân Tông, cách đàn Nam Giao 6 km trên núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, thành phố Huế. Con rồng xi măng nầy dài 105 mét, thân cao 2,5 mét, đầu cao 3,5 mét. Trong truyền thuyết, có con rồng dài gần chục nghìn cây số, từ thành phố cổ Hội An đến nước Nhật. Người ta kể rằng. Nước Nhật thường hay động đất vì có con rồng nằm dưới đó, thỉnh thoảng cựa mình là đất đai rung chuyển, cây đổ, nhà sập. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, mình con rồng ở Nhật nhưng đầu nó ở tận xứ Việt Nam. Vậy nên, vào đầu thế kỷ 15, thầy địa lý Nhật đến xứ Ðàng Trong (của chúa Nguyễn), tìm long mạch thì thấy ở Phố Hội có đầu con rồng nằm dưới một rạch nước, họ bèn xây đè lên (đầu rồng) một cây cầu, xây thêm trên cầu một ngôi chùa, có tượng ông (thần) tướng cầm cây gươm, ghìm ngay đầu con rồng để kềm chế, không cho nó cục cựa, vậy là nước Nhật bớt động đất. Ðó là Chùa Cầu, tỉnh Quảng Nam, đến nay vẫn còn, như một kỷ niệm của người Nhật tặng cho dân Hội An, nhiều người gọi đó là cầu Nhật Bản, có ghi công trình nầy ở các bia đá trên cầu. Ðến Hội An xem Chùa Cầu, bạn nhớ vô chùa (ngay trên cầu) sẽ thấy rõ tượng ông (thần) tướng cầm gươm. Có lẽ người dân Hội An thêm thắt vô cho bọn trẻ chúng tôi tin là thật, sau nầy, đọc sách chúng tôi mới biết là khoảng thế kỷ 15, 16, người Trung Hoa và người Nhật đến phố Hội lập thương cục buôn bán. Phía bắc phố Hội bên kia con rạch là nơi cư ngụ của người Nhật, phía nam của người Tàu. Người Nhật xây cây cầu để tiện đi lại, nhưng sách vở không nói về chuyện ngôi chùa (miếu) thờ ông thần nào đó, tướng tá, võ phục trông giống của người Nhật.

Tượng (ảnh trái) và bàn thờ Bắc Đế Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An. Ảnh: V.V.H

Bây giờ, để chấm dứt bài con rồng, tôi xin hiến quí vị tuổi Thìn (con rồng) một quẻ bói. (Xin lỗi, tôi không có quẻ tuổi Thìn cho quí bà). Ðàn ông tuổi con rồng thường gặp may mắn. Năm nay lại càng may mắn hơn vì là năm Giap Thìn. Người tuổi Rồng có thừa sức khỏe, năng nổ nhưng dễ bị kích động và mất thăng bằng. Cực kỳ ương ngạnh nhưng ăn ở có đức độ, không biết đạo đức giả. Ðược thiên hạ kính nể, có thế lực. Tuổi Rồng hăng hái ít ai sánh kịp. Thời trẻ hay gặp trắc trở, lớn lên vùng vẫy như rồng có cánh tuy cũng lắm thăng trầm, về già nhàn nhã. Tuổi Rồng hợp với tuổi chuột, rắn, khỉ, gà. Kị nhất với tuổi trâu, chó. Năm nay, tuổi Rồng khá giả, yên thân, miễn là đừng giao dịch, tiếp xúc với người cùng tuổi Thìn (con rồng) vì là năm Rồng lại nằm ở cái thế “lưỡng long tranh châu”, chưa biết thắng bại ra sao?

Bài con Rồng xin chấm dứt, sang năm xin hầu quí vị chuyện con Rắn, năm Tỵ.

Phạm Thành Châu

Views: 60