Tiếng Nói Vì Dân Đã Tắt

Trần Bạch Thu

Năm 1967 sau khi thi đậu Tú Tài I, tôi đến văn phòng quận Châu Thành, tỉnh Đinh Tường (Mỹ Tho) để khai “Lược Giải Cá Nhân”, một giấy chứng nhận rất quan trọng để sau nầy đình kèm theo đơn xin dự tuyển vào các trường cao đẳng hay đại học. Cô nhân viên văn phòng quận giải thích đơn giản và thực tế  hơn “em thuộc tài nguyên sĩ quan”, cô bảo chờ chút xíu, đợi ông Phó quận ký tên. Đó là lần đầu tiên tôi biết anh Lê Tấn Trạng.

Từ sau đó, tôi mới bắt đầu tìm hiểu và biết về ông Phó Quận, còn rất trẻ với những hoạt động gây chú ý trong giới học sinh, ông là người đã vận động thành lập đoàn “Văn Sinh Đất Lành” qui tụ hầu hết các học sinh Trung học trong tỉnh để phát động các phong trào dọn vệ sinh đường phố Mỹ Tho vào những dịp nghĩ lễ hay cuối tuần, thành lập ban văn nghệ trình diễn trong các buổi cắm trại của học sinh …

Hầu như giới trẻ ở Mỹ Tho lúc bấy giờ rất ngưỡng mộ ông Phó Trạng, rất bình dân và gần gủi với mọi thành phần trong xã hội. Đăc biệt là hiếm khi sử dụng công xa, anh thường di chuyển, đi lại bằng chiếc xe gắn máy đàn ông hiệu Honda, đời cũ màu đen.

Ngoài các sinh hoạt văn nghệ, xã hội, đoàn Văn Sinh Đất Lành còn là một tổ chức khuyến học duy nhất tại Mỹ Tho có thuyết trình, hướng dẫn chi tiết cho học sinh biết về các trường cao đẳng và đại học ở Sài Gòn, có những điều kiện như thế nào để thi tuyển nhập học. Lần đầu tiên tôi mới biết, muốn làm Phó Quận thì học ở trường nào, thời gian mấy năm và có gì hay hơn so với Bác Sĩ, Dược Sĩ hay Kỹ Sư v..v… Anh nói:

– Học ngành nào cũng được, miễn mình thích là tốt nhất.

Hai năm sau, tôi thi đậu vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, ban Đốc sự khóa 17 và gặp lại anh Trạng vừa mới thất cử Nghị viên Hội đồng tỉnh Định Tường bèn về trường ghi danh theo học Cao Học khóa 6. Xin được nói thêm về điều nầy, anh Trạng tốt nghiệp Đốc Sự khóa 11 với thứ hạng cao nên được quyền ưu tiên, khỏi thi, về học Ban Cao học kể từ sau 2 năm ra trường.

Tuy là Phó Quận nhưng khi ra ứng cử chức Nghị viên anh đã thua 2 ứng cử viên khác là ông xã Huỳnh, rất khôn ngoan trong chiến dịch tranh cử, ông lấy dấu hiệu tranh cử là chiếc nón lá và kín đáo phát cho dân chúng trong địa phương, ngay ngày bỏ phiếu ông còn cho rãi nón lá hai bên đường ở địa điểm bầu cử để nhắc nhở cử tri. Người thứ hai là chỉ huy trưởng Thám sát tỉnh, Huỳnh Hoa. Điều nầy nói lên sự công bằng và giá trị thật sự của lá phiếu bầu cử.

Tuy về trường học lại, nhưng hình như là anh đang chuẩn bị cho một cuộc bầu cử khác, chúng tôi ở chung với nhau trong “Ký Túc Xá” của Học Viện, chưa đầy 6 tháng theo học lớp Cao học 6, anh nói với tôi là sẽ trở về Mỹ Tho ra tranh cử chức Dân biểu đơn vị Thị xã Mỹ Tho. Tôi im lặng vì thấy hơi khó, vì vừa mới thất cử Nghị viên chưa đủ thời gian chuẩn bị lấy lại tinh thần, hơn nữa ứng cử viên tranh chức Dân biểu thị xã Mỹ Tho lại là người bà con của Bà Thiệu (Phu nhân của Tổng Thống), hiện đang là Chánh Sở Học Chánh tỉnh Định Tường. Anh nói:

– Hai phương diện bầu cử khác nhau, hai thành phần cử tri cũng khác nhau, một là vùng dân cư hỗn hợp và một là vùng dân cư tương đối có trình độ chọn lọc. Thị xã Mỹ Tho có truyền thống chuộng người trí thức và cử tri biết đến các hoạt động của một ông Phó Quận nhiều hơn.

Thật vậy, năm 1971 anh Trạng đắc cử chức Dân biểu đơn vị Thị xã Mỹ Tho một cách vẻ vang, mặc dù đối phương được sự ủng hộ tối đa của chính quyền, cụ thể là nhân viên công lực vận động đến gõ cửa từng nhà trong thị xã. Nhưng anh Trạng có các đoàn thể học sinh (Văn Sinh Đất Lành), nghiệp đoàn lao động, nhất là đảng phái đang lên lúc bấy giờ (Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến) nhiệt tình ủng hộ, các em học sinh đi gõ cửa từng nhà, mang biểu ngữ vận động tranh cử dán khắp thị xã.

Tại diễn đàn Hạ Nghị Viện, anh Trạng có tài hùng biện và được bầu làm Tổng Thư Ký khối Dân Quyền (đối lập) mà đa số trong đó là thành viên của Phong trào Quốc Gia Cấp Tiến. Anh là tiếng nói mạnh mẽ về các chương trình dân sinh và tranh đấu cho người dân bị ức hiếp. Điển hình qua vụ kiện tham nhũng nổi tiếng trên cả nước được mệnh danh là “Ông già Bến Tranh.”

Vụ án như thế nầy, ông già Bến Tranh tên thật là Lê văn Duyên, người dân xã Tân Lý Tây, Bến Tranh (Định Tường) khởi kiện ông Quận trưởng tham nhũng và hối mại quyền thế, bức hại dân lành có chứng cớ, nhưng cấp trên không xét xử thỏa đáng nên ông đã lên tận Sài Gòn nhờ các cơ quan công quyền giúp đỡ. Lúc bấy giờ phong trào chống tham nhũng đang rầm rộ qua các phương tiện truyền thông, báo chí nên đã làm lung lay chiếc ghế của ông Quận trưởng. Để bảo vệ, ông Quận cho người ngầm cảnh cáo ông Duyên, nhưng không có kết quả. Sau cùng, ông Duyên bị ám sát chết tại nhà, không bắt được thủ phạm.

Sự việc gây chấn động trong cả nước và anh Trạng vào cuộc đòi công lý cho ông Duyên, mặc dù cũng có lời hăm dọa của kẻ thủ ác. Thời gian kéo dài, có lúc gần như vô vọng vì các thế lực yểm trợ cho ông Quận trưởng rất lớn, nhưng Dân biểu Lê Tấn Trạng đã kiên trì tranh đấu bằng nhiều phương tiện hợp pháp để đưa vụ kiện ra ánh sáng. Cuối năm 1974 sự thật được phanh phui, bắt được hai kẻ sát nhân và ông Quận trưởng đã bị giáng cấp, bị bắt giam vào Quân Lao ở Cần Thơ chờ ngày ra tòa lãnh án.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhóm Dân biểu thuộc thành phần thứ ba, thân cộng như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba đã tiếp xúc và can thiệp với chính quyền mới cho một số đồng viện được cải tạo tại chỗ, ngắn ngày trong đó có dân biểu Lê Tấn Trạng. Mặc dù được chính Mai Chí Thọ ngưỡng mộ qua vụ án ông già Bến Tranh gợi ý nên tham gia vào tổ chức Mặt trận Tổ quốc cùng với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, nhưng anh đã từ chối và trở về quê sinh sống như người dân thường.

Cho đến tháng 10 năm 1976 anh Trạng bị bắt trong đêm tại nhà, làng Tân Hòa Thành, Bến Tranh vì tội tham gia tổ chức “Sư Đoàn Tiền Giang” chống lại cộng sản đương thời.

Tháng 8 năm 1977 cộng sản mở một phiên tòa tại Mỹ Tho xử một vụ án âm mưu lật đổ chính quyền, tổ chức có danh xưng là “Sư Đoàn Tiền Giang.” Tuy luôn luôn nói là công khai nhưng không có thân nhân bị cáo tham dự, cũng như không có phóng viên báo chí theo dõi hay tường thuật, kể cả báo chí trong nước. Phiên tòa chỉ đọc cáo trạng trong khoảng hơn 2 giờ đồng hồ. Không có Luật sư bào chữa, nhân viên pháp lý cũng như bồi thẩm nhân dân đều do chính quyền chỉ định.

Tất cả bị can không có kháng án. Hoàng văn Ngãi, Tư lệnh sư đoàn, tử hình. Hai anh em Trương văn Thân (Bí danh Trần Minh Dũng), Tham Mưu Trưởng và Trương văn Dậy (Mười Dậy) Chỉ Huy Trưởng khu căn cứ Long An, mỗi người lãnh án 10 và 20 năm tù khổ sai. Khoảng hơn 20 người khác bị kết tội phản động và lãnh án từ 5 đến 10 năm tù giam. Tất cả đều bị bắt tại nhà Trần Minh Dũng vào buổi chiều tối ngày 10 tháng 10 năm 1976 đem về Trung tâm Thẩm vấn (Tân Mỹ Chánh) nhốt vào xà lim hay biệt giam. Sau đó từng đợt được chuyển lên khám đường cũ ở số 2 đường Lãnh Binh Cẩn, thành phố Mỹ Tho.

Riêng anh Trạng bị biệt giam ở Trại chấp pháp cả năm trời và bị xử kín không có ra tòa cùng với một số người khác, có người cho đến nay không biết còn sống hay đã bị thủ tiêu.

Sau đó, anh được chuyển xuống trại giam mới xây để tiếp tục tạm giam vì cho đến lúc nầy, công an cũng chưa bắt hết các thành viên của sư đoàn cũng như các cảm tình viên vẫn còn lẫn trốn. Cộng sản qui cho anh là chính ủy của sư đoàn nên canh chừng rất nghiêm ngặt.

Cho đến một ngày, nhờ gia đình lo lót cho cán bộ trại giam, anh được ra ngoài lao động làm cỏ, dọn vệ sinh xung quanh trại giam. Anh có người chị ruột trông duyên dáng và lanh lợi luôn thăm anh ở trại giam, lợi dụng sự tín cẩn của cán bộ, có hôm còn cho phép anh về thăm nhà trong ngày, chị Ba đã nhanh chóng tổ chức cho anh vượt biển thành công.

Anh không có lập gia đình, sống độc thân cho đến khi qua đời. Ước nguyện của anh, sống không về Việt Nam khi còn cộng sản, chết đem tro cốt về quê cũ làng Tân Hòa Thành, Bến Tranh chôn bên cạnh mồ mã của song thân. Chỉ vậy thôi.

Nhớ đến anh tôi viết ít dòng về anh trong niềm thương tiếc khôn nguôi. Chúc anh thượng lộ bình an và cám ơn anh đã để lại cho đời tiếng nói vì dân thật mạnh mẽ của một con người yêu nước chân chính.

Trần Bạch Thu

Lời BBT: Trong bài viết anh Trần Bạch Thu có nhắc việc anh Lê Tấn Trạng tham gia “Sư Đoàn Tiền Giang”. Mời theo dõi bài viết  “Sư Đoàn Tiền Giang” của cùng tác giả, ở link dưới đây:

Sư Đoàn Tiền Giang

Views: 64

Xã Tắc Tiêu Vong

Phạm Thành Châu

Năm 1981, tôi đi tù cải tạo về. Tôi không về với gia đình ở ngoài Trung mà sống chui nhủi ở Sài Gòn. Tù “ngụy” ra khỏi nhà tù vẫn bị công an theo dõi, hạch sách. Mỗi tuần phải đến công an trình diện, nộp báo cáo trong tuần làm gì? tiếp xúc với những ai?… Nhưng tôi là “dân lậu” (không giấy tờ) không phải làm chuyện đó. Công an khu vực biết nhưng người bà con biết cách “giao thiệp” nên anh ta làm lơ. Tôi sống bình thường như những người khác, miễn thấy công an thì tránh xa. Nhờ người quen giới thiệu, tôi làm thư ký cho một “hợp tác xã cơ khí”. Nhân cô kế toán của hợp tác xã nghỉ đẻ, lại nghe tôi tự xưng “Biết đủ thứ. Làm gì cũng được’ ông chủ nhiệm hợp tác xã nhận tôi vô làm thay ít lâu. Vì cần người gấp trong vài tháng chứ chẳng ai dám nhận tù cải tạo vào làm việc. Tôi còn xưng mình tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh để thêm uy tín. Ông chủ nhiệm nghe vậy thì biết vậy chứ ông ta chỉ biết đọc theo kiểu đánh vần và ký tên bằng cách vẽ hình “một con chim đang tung cách lên bầu trời xanh” (Trước 1975 ông ta là võ sĩ nổi danh Phi Ðiểu, có cú đá bay rất nguy hiểm). Ông ta mở tủ lôi ra một đống giấy tờ cao hơn gang tay “Anh xem lại tất cả hồ sơ, sắp xếp cho tử tế, đâu ra đấy. Cô Nguyệt (kế toán, tài vụ?) để lôn xộn quá, khi cần hồ sơ, chứng từ, tìm không ra”.

Tôi bỏ ra hai ngày, chỉ để sắp xếp hai thứ riêng biệt. Chứng từ “Chi” để riêng, vô một cuốn sổ. Chứng từ “Thu” vô một sổ khác. Mỗi mục chi, thu tôi ghi ngày giờ, số chứng từ, mục đích chi, thu theo thứ tự thời gian, nghĩa là đúng “sách vở” của một tay tốt nghiệp Ðốc Sự Hành Chánh. Tiền thì ông chủ nhiệm để trong túi, nhiều quá thì đem về nhà cất giữ. Khách hàng đưa ông chủ nhiệm bao nhiêu, chẳng ai biết. Ông chỉ bảo tôi ghi vào mục thu một con số nào đó. Chi cũng vậy, ông ta chỉ nói miệng, bảo tôi ghi vào. Tôi bắt ông ta phải viết mấy chữ, ký tên vào để tôi giữ làm chứng từ. Ðược vài tuần, tôi hí hửng trình ông ta xem cách làm sổ sách đúng kiểu “kế toán thương mại”. Chiều lòng tôi, ông ta đeo kiếng vào, nheo mắt đánh vần phần chi. Mới một trang, ông ta la trời “Tôi đi nhậu với đối tác, đổ xăng, phong bì “bôi trơn”…… anh đều ghi rõ thì chết tôi. Anh phải tư duy, sáng kiến ra thành những chi phí công tác quan trọng, nhất là hồ sơ, chứng từ phải để lộn xộn, sao cho trên quận xuống kiểm tra không biết được chi, thu như thế nào, lúc đó tôi sẽ giải thích với họ. Quận xuống kiểm tra mục đích là để đi nhậu và được bồi dưỡng phong bì… Kiểm tra cho có lệ chứ hợp tác xã nầy đâu phải là tài sản của quận hay nhà nước. Anh làm qua loa cho có là được rồi”

Hợp tác xã cơ khí nầy chỉ do một người là ông chủ nhiệm bỏ vốn, thỉnh thoảng tìm được một hợp đồng gia công cho nhà nước là đủ sống. Ví dụ, ký hợp đồng gia công kềm, búa, đinh… cho thương nghiệp thành phố để bày bán trong các cửa hàng quốc doanh. Ông ta vô Chợ Lớn giao cho mấy chú ba Tầu làm. Sau đó chở đến cho sở thương nghiệp, sở phân phối đến các cửa hàng bán cho dân chúng. Tiền trao cháo múc. Sau khi “lại quả” từ xếp lớn đến thư ký, ông ta mang chi phiếu về giao cho tôi đi lãnh tiền. Ông chủ nhiệm báo trước là ngân hàng nầy hay làm khó thiên hạ đến lãnh tiền. Trưa đó, khoảng hai giờ, tôi đến ngân hàng, xin gặp ông phó giám đốc, trình giấy tờ và nói “Ông chủ nhiệm hợp tác xã bảo với tôi rằng. Nếu ông phó giám đốc mà không ký thì sẽ đuổi tôi. Nghĩa là tôi có bị đuổi việc hay không là quyền của ông phó giám đốc”. Có lẽ vừa đi ăn trưa về, lại có chút hơi men, ông ta cười hề hề, chả thèm xem giấy tờ, ký ngay. Nhận tiền của thương nghiệp thành phố xong, trong vòng một tuần (sau đó), ông ta cho người đi vét hết các thứ kềm, búa, đinh…ở các cửa hàng “mậu dịch quốc doanh” (dĩ nhiên đã móc ngoặc với cửa hàng trưởng), đem về cất giấu. Các cửa hàng không còn những thứ đó nữa. Coi như dân đã mua hết. Nhà nước lại cần kềm, búa, đinh… để phục vụ “nhân dân, quần chúng”. Thế là ông ta lại làm hợp đồng “gia công” với giá cao hơn vì mọi thứ đều lên giá bởi lạm phát. Hợp đồng lại được ký, lại chia chác nhau và ông ta chở kềm, búa, đinh (đã thu gom)… đến giao cho sở thương nghiệp thành phố. Nhờ “chu kì khép kín” đó cứ lặp đi lặp lại mãi nên cán bộ và chủ nhiệm làm giàu.

Nhưng hợp tác xã của ông ta chỉ là loại cò con. Người Tàu Chợ Lớn móc nối với thương nghiệp thành phố trong những vụ làm ăn lớn hơn, ngon hơn nhiều, chẳng hạn cung cấp xe đạp Cửu Long, sườn xe làm bằng thùng phi (vấp cục đá là gãy), ruột xe, vỏ xe đi ít bữa thì bể, nổ… thì tiền chia chác mới nhiều. Thời thập niên 1980, cán bộ, đảng viên nào có chỗ ngồi ngon lành nghĩa là chức vụ hái ra tiền thì vẫn làm như trong sạch vì sợ ganh tị, soi mói nên ông, bà nào cũng nuôi heo trong nhà để ra vẻ ta đây giàu có nhờ nuôi heo. Vài con heo, mướn người nuôi nấng, chăm sóc… trả lương thì làm sao lời được nhưng vào sở làm cứ khoe nhặng lên là bán heo lời rất nhiều. Thế nên khoảng thập niên 1980, nhà cán bộ nào cũng nuôi heo. Nuôi trong biệt thự, nuôi trên lầu, nuôi trước sân (để cho thiên hạ thấy)… Cứt heo thúi nồng nực, hàng xóm không dám phàn nàn. Quan cán bộ đi làm về, đứng dòm vô chuồng heo, hỏi han người nuôi heo vài câu, đốc thúc dọn cứt heo, tắm heo cho bớt hôi rồi vung vẫy chùm chìa khóa đi vô nhà. Một cách biện minh khác cho sự giàu có của mình là mua lại vé số của người khác trúng. Trả tiền nhiều hơn số tiền trúng, nhất là trúng độc đắc rồi vào sở khoe tờ vé số đó cho thiên hạ thấy, khỏi dị nghị mình giàu. Thời đó, hễ xổ số là chỉ có quí ông cán bộ gộc trúng độc đắc. Nhân viên biết rõ nhưng vẫn cứ xuýt xoa với xếp là “Anh Tư (Năm, Sáu… gì đó)         thật là người có số hên”. Từ năm 1986, sau chính sách mở cửa của đảng Cộng Sản Việt Nam thì cán bộ, đảng viên nào không làm giàu, không khoe xe hơi, nhà lầu thì bị coi khinh là bất tài.

Ít lâu sau, tôi xin nghỉ việc. Thư ký kế toán kiểu nầy có ngày đi tù, vì đổ bể ra họ sẽ trút hết trách nhiệm cho tôi là tên ngụy, CIA gài lại để phá hoại “sự nghiệp xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa của đảng, nhà nước và nhân dân ta”.

Tôi nghĩ đến cách kiếm ăn khác. Tôi bán bánh mì. Tôi học nghề từ một anh chàng có xe bánh mì trên đường Tô Hiến Thành, quận mười, Sài Gòn, là nơi tôi trú ngụ nhà người bà con. Nguyên do là sáng nào ngồi uống cà phê với mấy thằng em bà con trước hẻm, tôi cũng tặng anh chàng bán bánh mì một li cà phê để làm quen rồi lân la hỏi chuyện bán buôn. Anh ta truyền nghề. Hóa ra cũng rất đơn giản. Mua một xe bánh mì đóng sẵn chỗ ngã bảy, tìm nơi bán rồi cứ đến lò bánh mì lấy bánh, đến chỗ cung cấp pâté, sauce, chả, thịt … đem về bày ra, chỉ phải tự mình làm đồ chua, dưa leo, hành ngò.  Vậy thôi. Thời đó, tù về chỉ làm những nghề thấp kém như bán vé số, đạp xích lô, bán thuốc tây (chợ Tân Ðịnh), sửa xe đạp, bỏ mối kẹo bánh… kiếm chút tiền, đủ bỏ mồm. Sở dĩ tôi chọn nghề bán bánh mì vì thời còn là sinh viên ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, trước trường, góc Cao Thắng-Phan Thanh Giản có xe bánh mì Tám Cẩu chỉ bán buổi tối mà rất đông khách. Tối nào chúng tôi cũng ra đó mua một ổ về ký túc xá, nằm gặm. Xe bánh mì Tám Cẩu có nhiều người phụ giúp nên khách không phải chờ lâu. Nghe nói mấy cô “phụ tá” ông chủ gồm vợ ông ta và mấy cô em vợ. Một mình ông ta “xơi” hết mấy cô em vợ. Các cô đứng một dãy, hình thành “hệ thống dây chuyền” bán bánh mì. Xe bánh mì rộng hơn nửa thước, dài hai thước, ba mặt bằng kính. Người mua đứng sắp hàng. “Nàng” thứ nhất xẻ bánh mì, chuyền cho “chàng”, chàng trét pâté, sauce, thịt thà… xong chuyền cho nàng bên cạnh, nàng nầy bỏ đồ chua, rắc tiêu muối, gói lại đưa cho nàng kế tiếp. Nàng kế tiếp trao bánh cho khách, thu tiền. Bán đến gần khuya, hết bánh, dẹp tiệm, về “ngủ”. Không biết mỗi nàng một phòng riêng hay nằm chung theo thứ tự như chỗ bán bánh mì? Mà ở Việt Nam, dân lao động, nhà có vài phòng riêng đã là hiếm rồi.

Chúng ta ở Mỹ, bánh làm bằng bột mì nguyên chất mà không ngon bằng thời “bao cấp” (trước năm 1986) của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ấy là nhờ vào sáng kiến của dân miền Nam. Số bột mì nhà nước bán ra rất giới hạn, người làm bánh mì phải thêm đủ thứ bột (bột khoai mì, bột gạo, bột dong…), họ còn đánh trứng vịt vào, bỏ thêm một mớ thuốc bổ, vitamine A, B gì đó vào thau nước trước khi đổ bột vào nhồi để ủ men. Ổ bánh làm ra thơm phức, xốp và ngon. Chiều nào đến lò bánh mì lấy bánh (ở đường Hai Bà Trưng) để bán, tôi cũng xơi ngay một ổ nóng giòn, coi như bữa cơm chiều. Bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn thèm, ước được một ổ như thế mà thưởng thức. Nói vậy cho ra vẻ lãng mạn, chứ ở Mỹ, thứ gì chẳng có. Tôi đặt xe bánh mì ở góc đường Hiền Vương-Duy Tân, bán rất rẻû nên đông khách, đa số là giới bình dân, lời lãi không bao nhiêu. Vậy mà thiên hạ thấy khách sắp hàng chờ mua bánh mì, tưởng tôi lời nhiều nên đua nhau đặt xe bán bánh mì quanh đó để giành khách. Có hai xe bánh mì. Một chiếc bên phải, bên kia đường cách chỗ tôi vài trăm mét, một chiếc bên trái, cũng cách vài trăm mét. Coi như chận đầu, chận đuôi. Mà xe nào cũng đèn đóm sáng trưng, bánh mì để đầy, năm ba đòn chả lụa to đùng, pâté, sauce, thịt thà trình bày phong phú, hấp dẫn. Có điều họ không biết là thời điểm sau 1975 dân miền Nam rất nghèo, cơm không có mà ăn nên ăn uống lề đường, quán chồm hổm… rẻ tiền đã quen, nay thấy hai xe bánh mì sang trọng đó, họ không dám đến, sợ bị “chặt đẹp”. Thế nên, khi hai đối thủ hùng hậu xuất hiện, tôi “cạnh tranh bất chính” bằng cách bán rất rẻ, coi như bán lỗ vốn. Tôi cứ trét pâté, sauce, bỏ thịt, chả đầy ổ bánh mà vẫn lấy giá cũ, lại còn dặn lũ nhỏ vào xóm  kêu lên “Ông bánh mì bán rẻ lắm!”. Ðối phương (s) chịu đựng độ một tuần là đủ chết. Bánh mì không thể để bán qua ngày hôm sau, pâté, thịt, chả… có để tủ lạnh cũng độ năm ngày là bốc mùi, đổ nhớt, ăn vô tiêu chảy ngay. Tôi không có tủ lạnh nên mua hàng đủ bán một bữa, hôm sau mua tiếp. Bánh mì bán không hết, tôi đem tặng cho dân kinh tế mới ngủ đầy lề đường Hai Bà Trưng. Khoảng chín, mười giờ tối, đắc, ế gì tôi cũng “dẹp tiệm”. Nếu còn bánh mì (không thể để ngày mai vì bánh sẽ cứng như đá) tôi bỏ vào giỏ, đạp xe ra đường Hai Bà Trưng rao lên “Bánh mì ế đây!” Vậy là họ tốc mùng chạy ra. Tặng mỗi người một ổ, đỡ đói lòng. “Dân kinh tế mới” là dân Sài Gòn, bị chính quyền tịch thu tài sản (đánh tư sản mại bản) tống lên vùng cao nguyên, tự khai phá, trồng trọt lấy mà sống. Họ không biết làm rẫy nên đói, bịnh chết dần. Họ bỏ về Sài Gòn, ngủ đầy lề đường. Khoảng năm 1980, ở Sài Gòn, có khoảng vài trăm nghìn dân kinh tế mới sống “đầu đường, xó chợ”. Hằng ngày, người lớn tản mác đến các hố rác móc ve chai, đến các chợ, ai sai gì làm nấy. Trẻ con đi bụi đời. Mấy đứa con gái, có đứa làm “gái”, buổi tối, lang thang chỗ “Ngã Ba Sung Sướng” góc đường Hồng Thập Tự-Lê Văn Duyệt, trước bộ Y Tế cũ, đón khách. Hôm nào bị công an bố ráp (tìm bắt đưa đi tù cải tạo) thì đói. Nhiều buổi tối, đói quá, các cô sai một con bé đến nói “Bán cho chị tôi bốn ổ bánh mì” Tôi hỏi “Có tiền không?” “Không. Mai chị tôi trả” “Mầy có mấy chị?” “Nhiều lắm. Bốn chị” “Chị nào? Sao không thấy?” Nó quay đi mấy bước. Thì ra các cô nấp sau góc tường. Nghe con nhỏ báo, các cô chỉ thò đầu ra (vì mắc cỡ), nhìn tôi cười cầu tài. Tôi hỏi “Mua bánh mì, khi nào trả?” Một cô nói “Mai em trả” Tôi hỏi “Trả bằng gì?” “Gì cũng được. Tụi em đói quá!” “Tối nay trả được không?”  Mấy cô hết mắc cỡ nhưng vẫn lấp ló sau tường, vui cười “Ðược. Tụi em chờ anh bán xong thì đi chơi” “Chơi với mấy người?” “Cả tụi em. Càng đông càng vui” “Vui chơi xong có đi mét với thiên hạ không?” Các cô long trọng thề “Tụi nầy mà mét với người khác thì xe tung chết ngay. Cho bánh mi ăn đi. Ðói quá!” Một số bánh mì tôi để trên lò than nhỏ, sưởi cho bánh dòn, nếu bán không kịp, cứng ngắt. Tôi lấy loại bánh đó, trét chút pâté, sauce, chút thịt, rau dưa, xịt nước tương, gói lại. Các cô mừng rỡ, cám ơn rối rít. Tôi biết, các cô chẳng phải con cháu gì ông Khổng Tử mà phải giữ chữ tín. Chỉ ba mươi giây sau, các cô vào xóm kinh tế mới, sẽ nói rùm lên ngay. Quả nhiên hôm sau, có bà ra mua bánh mì vừa cười vừa nói “Ông cho mấy đứa ăn bánh mì “chùa” chúng còn vô xóm nói “Ông bánh mì đòi chơi cả bốn đứa”. Tôi cũng cười “Tôi coi tụi nó như em út. Nói giỡn cho vui. Ðụng tới tụi nó là tối nào tụi nó cũng ra ăn “chùa” cho mà sập tiệm luôn” “Tụi nó “trây” lắm. Nói bậy mà không biết mắc cỡ” Tôi thở dài “Khổ quá, làm nghề đó thì còn gì xấu hổ để mà giữ gìn mồm miệng”. Giờ đây, nhớ lại, Tôi mềm lòng vì cảm thương cho các cô. Sau 1975 dân Miền Nam gặp đại họa. Tài sản bị tịch thu, gia đình tan nát. Người con gái nào cũng có quyền ước mơ được đi học, được làm vợ, làm mẹ, nhưng chế độ đã đẩy họ vào đường cùng còn tìm cách loại trừ, cách ly họ khỏi xã hội, cho họ chết dần trong các trại tù cải tạo nơi rừng thiêng nước độc. Tôi nghĩ, giá mà tôi là “Việt kiều” như bây giờ, tôi sẽ tặng hết xe bánh mì cho các cô, nhưng lúc đó tôi cũng nghèo như họ.

Buôn bán, cũng vui vì được chuyện trò với khách. Ðôi khi, có ông đạp xe đến, mua một ổ bánh đứng ăn, nói chuyện cả buổi. Ðó là những ông đi tù cải tạo về. Chuyện trò thường là hỏi thăm ở tù trại nào? về ngày nào? vợ con ra sao? trước kia làm việc ở đâu? Chỉ vài câu thì thấy thông cảm như thân thiết từ lâu. Có ông trung úy Hiếu, cảnh sát đặc biệt, trước 1975, cùng làm việc với tôi ở quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên. Ông ta đi tù về, vào Sài Gòn, ở trong xóm, sau nhà thờ Tân Ðịnh, tối nào cũng đem một xị đế với cái ly nhỏ ra ngồi với tôi. Tôi để một ít thịt chả, pâté… bên cạnh để ông ta “đưa cay”. Tôi uống một chút lấy có, chỉ ngồi nghe ông ta tâm sự. Ông ta kể “Sau tám năm tù về, mới được vài bữa thì công an huyện Quảng Ðiền có giấy “mời” lên. Tôi lên công an huyện với cái bị áo quần, thuốc men…sẵn sàng vào nhà tù lần nữa. Không ngờ, mới bước vào thì tay trưởng công an huyện đích thân ra bắt tay, mời vào văn phòng với tất cả thân tình, vui vẻ như tôi là anh em ruột thịt của anh ta, lâu ngày không gặp. Tôi lại được mời uống cà phê sữa với thuốc “có cán” (đầu lọc, sang lắm) do đích thân một cô thư ký trẻ đẹp mang đến. Sau khi hỏi thăm gia cảnh, anh ta nói qua chính trị, rằng tất cả ai đã làm việc cho chính quyền miền Nam đều là tay sai của đế quốc Mỹ, đều có nợ máu với nhân dân, đáng tội chết, nhưng nhờ chính sách khoan hồng của “đảng và nhà nước ta” cho tập trung cải tạo để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa… Nay được đảng và nhà nước cho về sum họp với gia đình thì phải tuân thủ luật pháp, chính sách nhà nước, khi chính quyền cần thì phải xung phong góp sức xây dựng xã hội chủ nghĩa. Anh ta nói y như cán bộ trong tù đã nói vì họ học cùng một sách, nói như vẹt, sau đó anh ta kêu gọi sự cộng tác của tôi với công an huyện để “lập công chuộc tội” bằng cách xử dụng (điều hành) lại mạng lưới tình báo của cảnh sát đặc biệt Việt Nam Cộng Hòa thuộc quận Quảng Ðiền trước 1975 (mạng lưới gồm nhân viên, cộng tác viên, cảm tình viên…) Tôi ngạc nhiên “Trước đây, tình báo là để tìm hiểu, theo dõi Việt Cộng các ông, nay mấy ông sờ sờ ra đó mà chế độ cũ không còn, quân đội, cảnh sát tan rã hết rồi, theo dõi ai? Tôi mà tiếp xúc với họ là họ báo với công an ngay vì chính họ cũng đang bị theo dõi” Anh ta nói “Những người của anh sẽ hoạt động bình thường như trước 1975. Họ báo cáo tất cả những việc của chính quyền xã, ấp trong huyện, nhất là báo cáo việc làm của công an chúng tôi trong huyện. Anh thu thập và báo cáo thẳng cho tôi, không qua bất cứ người nào. Anh hoạt động tình báo thì anh đã rõ. Kỹ thuật nghiệp vụ bên nào cũng giống nhau, nếu sai phạm, kỷ luật, hậu quả cũng giống nhau” Tôi biết, nếu không làm theo lịnh anh ta thì sẽ mục xương trong tù. Tôi đành hứa sẽ cố gắng xem sao. Anh ta dặn không được tiết lộ nội dung buổi gặp mặt nầy. Sau khi ra về tôi thông báo cho tất cả các cộng tác viên trong mạng lưới của tôi (trước đây) đề phòng, rồi tôi đi gặp và nói huỵch toẹt với trưởng công an các xã trong quận để cảnh giác rồi vô đây (Sài Gòn) sống chui nhủi với người bà con”

Vì trước đây, chúng tôi làm việc với nhau mấy năm ở quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên, nên gặp tôi, ông ta quen miệng gọi tôi là “Ông phó” (phó quận), tôi dặn đừng gọi như vậy, nhưng khi đã xỉn, ông ta lại “Ông phó”. Rượu đế thường pha thêm thuốc trừ sâu cho “lên độ”, uống mau “phê”. Tôi có nói cho ông ta biết đó là rượu độc, nhưng ông ta bảo “Chết càng sớm càng tốt” Rượu đế pha thuốc trừ sâu, ruột gan nào chịu thấu nên chỉ mấy tháng sau, ông ta bị sưng gan chết.

Trong số khách mua bánh mì của tôi có hai ông bán vé số. Buổi tối, họ đến mua bánh mì rồi ngồi nhai bánh ngay trên lềà đường. Một ông là cựu “lính ngụy”, khoảng trên bốn mươi, trước 1975, bị thương thành thương phế binh, về với vợ con ở Củ Chi, làm phó trưởng ấp an ninh, đêm nào cũng dẫn nhân dân tự vệ đi phục kích Việt Cộng từ các hầm hố trong rừng mò về ấp tuyên truyền, thu thuế, kiếm ăn. Thỉnh thoảng bắn được vài Việt Cộng nên ấp được bình yên. Sau 1975, mất nước, bị Việt Cộng truy lùng trả thù, anh ta trốn về Sài Gòn, gia đình lập bàn thờ, nói rằng anh ta vượt biên, chìm tàu chết rồi. Ông bán vé số thứ hai, gia đình ở Mỹ Tho, được gọi là Bắc Kỳ chín nút (di cư vào Nam 1954, để phân biệt với Bắc Kỳ 75 vào chiếm miền Nam 1975) lớn tuổi hơn, là cựu giáo viên, vì Việt Cộng bắt ông ta giảng bài “Mỹ Diệm Ăn Thịt Người” (Trong tập “Từ Tuyến Ðầu Tổ Quốc”), ông ta nói “Tôi không thấy lính Mỹ Diệm nào ăn thịt người cả. Họ có đói đâu. Họ to mập như trâu” Ông ta bị ghép tội phản động, cần phải đưa đi “học tập cải tạo”, bèn bỏ trốn lên Sài Gòn, đi bán vé số. Ðó là con mọt sách lại có trí nhớ phi thường. Tôi rất thích nghe, thích hỏi ông ta đủ thứ. Hai ông bán vé số ăn bờ ngủ bụi, lang thang khắp Sài Gòn. Tích góp được chút đỉnh thì gửi lén về nuôi vợ con. Hai ông đúng là yêu đời, lúc nào cũng vui cười. Buổi tối, họ hẹn nhau đến chỗ xe bánh mì của tôi ngồi nhai bánh mì, trò chuyện. Thời ông Hiếu còn sống, thì có thêm sự góp mặt của ông cựu trung úy cảnh sát đặc biệt nầy. Khi ông Hiếu chết, hai ông vẫn giữ thói quen đến chỗ tôi.

Một buổi tối, hai ông vé số đến xe bánh mì của tôi, miệng cười toe toét “Bữa nay, tụi này “zdô mánh” (có tiền). Một ông khách mua vé số tụi nầy. Lúc đó ông ta mua vé số của cả hai đứa nên không biết vé trúng đó ai bán. Cũng không biết ông ta trúng bao nhiêu mà tìm tụi này cho một mớ. Tụi nầy mời ông đi nhậu một bữa” “Chà. Chơi sang thiệt. Ði nhà hàng phải không?” Hai ông vé số biết tôi nói đùa “Tụi nầy mua sẵn mồi rồi. Mời ông, lát nữa ra lề đường Hai Bà Trưng, phía nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, làm mấy li cho vui”.

Tôi “dẹp tiệm”, đẩy xe bánh mì, gửi ở nhà người ta rồi đạp xe ra đường Hai Bà Trưng. Lúc đó khoảng chín giờ tối (tôi còn nhớ, mùa hè năm 1983). Nhờ lúc chiều trời mưa nên không khí mát mẻ. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng là hai dãy mùng của dân kinh tế mới. Hai ông vé số đã ngồi chờ sẵn ở khoảng trống giữa hai chiếc mùng của người ngủ lề đường. Một tờ báo trải xuống làm khăn bàn, một gói thịt quay cỡ một lí lô cùng với rau dưa. Một con vịt luộc được chặt nhỏ để bên cạnh. Hai chai rượu đế với cái li nhỏ sẵn sàng chờ đợi. Tôi lôi trong bị cói ra mấy ổ bánh mì, gói patê, đồ chua… bày ra. Ông thầy giáo già lịch sự mời hai ông “chủ nhà” hai chiếc mùng bên cạnh ra tham dự. Hai gia đình nầy chưa ngủ, nhưng thấy tụi tôi bày đồ nhậu thì nằm yên, sợ bị hiểu lầm, đến khi nghe mời mới ngồi lên, chui ra khỏi mùng. Tôi mổ mấy ổ bánh mì, bỏ thịt quay với rau dưa, mời đàn bà và trẻ con hai gia đình đó. Họ ngồi trong mùng nhai bánh mì rào rào (vì bánh mì ế, đã nướng, nguội và cứng, cắn rộp rộp). Hai ông khách được mời, nói mấy câu lấy lệ rồi ăn uống tận tình vì đã bao nhiêu năm rồi có biết thịt quay, vịt luộc bao giờ! Chúng tôi mời nhau. Tôi không biết uống rượu nên chỉ vài ly đã thấm. Rượu cũng như ma túy đã “phê” rồi thì vui thì quá vui, buồn thì buồn thêm. Thấy tôi trầm ngâm, ông thầy giáo hỏi vì sao? Tôi kể rằng “Lúc trong tù, có ông bạn tù nằm bên cạnh bị bịnh kiết lỵ. Biết mình không qua khỏi mới ghi địa chỉ vợ con, nhờ khi nào được thả về thì đến báo cho biết ngày mất để mà giỗ quãi. Mấy năm sau, ra tù tôi tìm đến địa chỉ, hỏi dò, biết được chị vợ vẫn chưa biết chồng mình đã chết, mấy năm mà nhà tù không thông báo, vì khi ngồi ở quán cà phê gần nhà chị ta, nghe chị ta rầy thằng con, độ mười tuổi rằng “Ba con về sẽ dạy con chứ mẹ thì hết cách rồi” Tôi không còn can đảm mà đem tin buồn đến cho gia đình đó. Bây giờ vẫn cứ phân vân. Báo cho họ biết hay cứ để cho mẹ con chị ta hi vọng trong đợi chờ? Xin quí vị cho biết ý kiến” Chẳng ai biết nói sao! Ông thầy giáo thở dài, nhìn vào khoảng không, đọc hai câu thơ “Khả liên Vô Ðịnh hà biên cốt. Do thị Xuân Khê mộng lý nhân” (Nắm xương bên sông Vô Ðịnh đã tàn rồi mà người thiếu phụ chốn khuê phòng vẫn còn chờ đợi) rồi bảo “Anh viết thư báo cho chị ta biết. Viết sao cho khéo. Cứ bảo rằng. Anh ta vẫn mạnh khỏe, vui vẻ. Không hiểu sao buổi sáng không thức dậy. Lay gọi mới biết anh ta đã đi rồi. Chôn cất tử tế. Anh cho biết tên trại tù, ngày mất, nơi chôn cất để gia đình ra dời di cốt về quê… Thôi đổi qua chuyện tầm phào cho vui đi” Hai ông khách kinh tế mới, chẳng biết văn chương thi phú là gì, chỉ quan tâm tới chai rượu “Tụi nầy bị lùa đi kinh tế mới cũng giống như mấy ông đi tù. Dân thành phố, biết phá rừng làm rẫy là gì? Ðói, bịnh, chết liệt địa. Nhất là mấy ông bà già và con nít… Mấy tuần nay tụi nầy đập mồ, đập mả rả rời chân tay, nay vô li rượu, máu chạy “thông suốt”. Khỏe sao đâu!” Tôi ngạc nhiên “Ðập mồ, đập mả ai?” “Bộ anh không biết nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi bị cào sao? Cả tháng nay rồi” “Người ta thuê mấy anh vô đập mồ hả?” “Ai mà thuê. Trên thành phố xuống nói. Ai muốn đập mồ mả cứ vào mà đập” “Bộ khùng sao đi làm công không cho mệt xác?” “Ðập nắp mộ để kiếm sắt vụn bán ve chai. Ðập rả tay một nắp mộ bia bằng bê tông cũng được năm, bảy ký sắt, đủ mua gạo” “Rêm mình chịu chi thấu” “Chưa xong đâu. Mở huyệt xong còn phải hốt xương lên. Những mộ có thân nhân đến dời đi thì bỏ vô tiểu sành cho họ đem đi” “Họ trả tiền công có khá không?” “Ai mà biết. Thân nhân người dưới mộ phải liên hệ với chính quyền, đóng tiền bốc mộ rồi mang xương cốt đi đâu thì đi. Tụi nầy chỉ được chút tiền chủ mộ “bồi dưỡng” để tìm cho đủ bộ xương, sắp ngay ngắn vào tiểu sành. Họ dọa nếu không tìm đủ thì hồn ma về đòi người bốc mộ. Thiếu một lóng tay cũng phải tìm cho ra. Tụi nầy đâu có ngán. Quỉ còn sợ tụi nầy. Sá gì hồn ma” “Nếu không có thân nhân người dưới mộ thì làm sao?” “Thì cứ bỏ xương cốt dồn đống, chính quyền đưa đi đâu đó, đào hố trút xuống, lấp lại, cho ở tập thể luôn” Ông thầy giáo Bắc Kỳ thở dài “Xương cốt vất bỏ, mồ mả san bằng. Ðã chết rồi mà cũng không yên. Nghĩa tử nghĩa tận. Mồ mả tổ tiên, cha mẹ họ mà bị đối xử như vậy, họ có chịu được không?” Lúc đầu, hai ông kinh tế mới không hăng hái chuyện trò vì bận thưởng thức các món nhậu, sau đó đã lửng dạ lại được phụ trợ bởi mấy li ‘ba xi đế” nên cao hứng nói lung tung, kiểu “rượu nói” chứ không phải người nói. Tôi hỏi “Hốt xương như vậy có ngán không?” “Giết người mới ngán chứ hốt xương là hốt của, ngán nỗi gì” “Sao hốt xương là hốt của?” “Nó như thế nầy. Mấy người chết mà gia đình giàu có thường chôn theo vàng ngọc, châu báu. Ít ra cũng có mấy cái răng vàng, chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, trong miệng ngậm một viên ngọc. Tụi nầy nhờ vậy cũng đỡ khổ” Tôi nói đùa “Giàu chứ đỡ khổ gì?” “Tụi nó ngu lắm. Móc được trong quan tài thứ gì thì khoe rùm lên. Công an biết được. Vậy là sau đó, mỗi khi mở nắp quan tài, công an đứng sẵn, tịch thu hết. Trơ mỏ!” Ông thầy bán vé số lại thở dài “Ðất đai, nhà cửa, ruộng vườn, sông núi, biển đảo… đều là tài sản riêng của đảng và nhà nước ta. Nhân dân làm chủ nhưng nhà nước quản lý. Xương cốt nhà nước cũng quản lý luôn. Trơ mỏ cũng đúng thôi” “Tụi nó biết mình ngu nên khôn ra. Hễ vàng ngọc, cà rá, hột xoàn… cái gì nuốt được thì chúng lén bỏ vô miệng nuốt trộng. Lớn hơn, nuốt không được thì nhét trong quần xì. Làm bộ lom khom, ai thấy được” Tôi lo ngại “Coi chừng có ngày thủng ruột, mất mạng” “Không có đâu. Chúng mua rau muống già, để nguyên cây, luộc rồi nuốt trộng. Sau đó đi cầu. Rau muống lôi hết ra ngoài, lấy đi rửa rồi đem ra tiệm vàng bán. Có đứa trúng mánh, mua nhà rồi” “Có chén dĩa, đồ gia dụng chôn theo không? Mấy thứ đó là đồ cổ, quí lắm, bán được tiền lắm” “Tụi nó đập bỏ, công an có tịch thu cũng chẳng bán được” Tôi tò mò “Mấy ông hốt cốt người ta, có gì lạ không? Bên Châu Âu, thời trung cổ, có người chết bị đóng đinh chỗ trái tim trước khi đem chôn để phòng ngừa xác chết sống lại thành Dracula, chuyên hút máu người. Nghe nói trong nghĩa trang đó có chôn người Châu Âu nữa?” Ông kinh tế mới thứ hai, nãy giờ cứ tì tì uống rượu, nay mới lè nhè “Tôi không thấy đinh chỗ ngực, nhưng bị một lần hoảng vía, té đái trong quần” “Chắc là gặp Dracula rồi” Ông ta lắc đầu “ Có cái mả Tây chôn đứng. Không phải chôn xuống đất mà để cái quan tài dựng đứng như cái tháp trên mặt đất, bên ngoài xây bê tông. Mấy người Pháp đến nhờ phá cái tháp, lấy hài cốt đem về Pháp. Tụi nầy đập bê tông phía trước cho lòi nấp quan tài ra rồi nạy nắp quan tài. Không biết họ bỏ chất gì mà bay mùi thơm phức. Mấy đứa đang phá mồ bỏ việc xúm đến coi đông như kiến. Xác người còn nguyên, như đứng trong cái tủ đứng. Tôi sớn sác bước tới gỡ mớ cây gì như rong màu vàng, tấp trên tấm vải liệm. Mấy cây rong đó với tấm vải liệm thơm còn hơn nước hoa. Tôi vừa kéo tấm vải liệm xuống thì lòi mặt một bà đầm, xám đen, khô đét. Mắt nhắm, thụt vô, môi teo lại, hàm răng trắng nhởn, nhe ra. Tóc còn nguyên, phủ xuống mặt. Ðúng là con ma. Tôi sợ quá, bước lui. Ngay lúc đó, xác bà đầm ngã ụp lên người tôi như nhào đến ôm tôi. Tôi sợ đến cứng người, ngã ngửa. Cái xác đè lên tôi. Tôi vùng chạy. Người ta chạy tán loạn. Tôi vừa chạy vừa nhìn lui, sợ nó đuổi theo. Mấy ông biết sao không? Chỉ nửa giờ sau, cái xác đó bốc mùi thúi khủng khiếp, hít một chút là ngộp thở, đau đầu chịu hết nỗi. Cái xác lúc đầu còn nguyên. Thân thể, chân tay như vừa mới chết, cứng ngắt. Một lúc sau thì rả ra, thúi rum ra tới ngoài đường Hai Bà Trưng, Hiền Vương. Người đi đường hít phải chóng mặt, ói mửa. Nhà nào cũng đóng cửa vì mùi thúi bay vô nhà, không cách chi cho hết thúi. Người ta đem vôi với chất gì đó đổ lên xác con ma rồi tưới xăng đốt. Tôi ra sông, tắm ngày năm lần, xài hết một cục xà bông đá to, tắm xong bôi dầu thơm lên mà người cứ thúi. Bữa nay đỡ thúi nên tôi ngủ chung với vợ con. Mọi khi tôi giăng mùng ngủ riêng, ai đến gần, nghe mùi là né đi chỗ khác” Ông thầy giáo hỏi “Nghe nói tổng thống Ngô Ðình Diệm với ông cố vấn Ngô Ðình Nhu cũng chôn trong nầy. Bây giờ ra sao?” “Có người đến xin dời hài cốt. Hình như đem lên Gò Dưa, Thủ Ðức cải táng, nhưng công an không cho để tên trên mộ bia mà chỉ được ghi chữ Huynh trên mộ bia tổng thống Ngô Ðình Diệm và chữ Ðệ trên mộ bia ông cố vấn Ngô Ðình Nhu mà thôi”                   Ðúng ra, tôi còn có thể kể nhiều chuyện về cái nghĩa trang nầy, nhưng sợ mất thì giờ người đọc, vả lại, bữa đó, làm vài ly, tôi đã “gật gù” nên không nhớ được nhiều và chính xác. Mà không chỉ riêng tôi, mọi người đều “xỉn”. Hai ông vé số và tôi cứ nhường rượu cho hai ông kinh tế mới “Làm giùm tụi nầy cho hết hai xị. Bỏ lại, phí của” Một ông lè nhè “Bỏ đi đâu? Mười xị nữa cũng chưa “xi nhê” (xỉn) tụi nầy”. Thấy mồi đã hết, rượu cũng cạn, hai ông kinh tế mới chui vào mùng ngủ, còn lại ba người tụi tôi cũng quá say, không đứng dậy nỗi, nằm dài ra đó. Tôi chóng mặt, thở không được nhưng cũng đủ tỉnh trí mà xỏ chân vào khung xe đạp để đề phòng bị ăn cắp (xe) rồi mê man, chẳng biết trời trăng gì nữa.

               Có lẽ trời lạnh nên tôi tỉnh dậy. Lúc đó khoảng một, hai giờ sáng. Cả thành phố bị cúp điện, tối thui, chỉ trên bầu trời cao có mấy vì sao lấp lánh. Một chiếc xe gắn máy chạy từ bờ sông Sài Gòn về chợ Tân Ðịnh. Ánh đèn loang loáng dọc theo hai dãy nhà rồi mất hút. Thành phố yên lìm như chết chìm trong bóng tối tràn ngập, đặc cứng. Tôi thấy mờ mờ hai ông vé số nằm ngửa, chân tay giang ra như đứa bé nằm ngủ.

Thình lình, ông vé số Bắc Kỳ la lên, giọng Nam Kỳ rõ ràng “Xã tắc tiêu vong. Hồn phách phiêu bạt, biết đi về đâu!?” Tôi lạnh người, tưởng như những hồn ma trong nghĩa trang, không tìm thấy mồ mả, xương cốt mình, không còn nơi trú ngụ, đành đi lang thang rồi nhập vào ông thầy giáo bán vé số mà kêu lên. Tôi đứng lên, dựng xe đạp, định về nhà trọ, nhưng chóng mặt quá, trời lại tối thui, đâu thấy đường mà đi, đành nằm xuống, gát chân lên xe đạp, ngủ tiếp.

Views: 8

Xin Hãy Ghé

Thơ Trần Văn Lương

Dạo:
Hỡi người “du lịch” quê hương,
Có còn nhớ chuyện đau thương năm nào?

Xin Hãy Ghé

Bạn lại bảo sắp về quê du lịch,
Và lần nào cũng thích thú như nhau,
Được chen chân vào những chốn “sang giàu”,
Lòng thơ thới, chẳng bao giờ thấy chán!

Người như bạn, giờ nơi đây nhan nhản,
Đủ loại từ tỵ nạn đến di dân
Qua đường nhân đạo, qua ngả hôn nhân,
Hay may mắn được người thân bảo lãnh.

Bạn bảo bạn có tiền và quá rảnh,
Nên về quê ngoạn cảnh với vui chơi
Thật nhiều lần cho đầu óc thảnh thơi,
Để quên hết nhọc nhằn thời vượt biển.

Lâu lâu rải ra ít đồng “từ thiện”,
Để người nghèo phải luôn miệng cám ơn,
Để thấy mình bỗng chốc “vĩ đại” hơn,
Rồi hể hả lơn tơn đi du lịch.

Bạn cứ việc làm điều gì bạn thích,
Chẳng còn ai dám chỉ trích bạn đâu,
Tôi chỉ xin nhờ bạn mỗi một câu:
Hãy thăm viếng trước sau giùm mấy chỗ.

***

Xin hãy ghé thăm đoạn đường khốn khổ,
Được đặt tên là Đại Lộ Kinh Hoàng,
Nơi dân lành xưa tay xách nách mang,
Bị Cộng pháo chết không toàn thân thể.

Xin hãy ghé, nếu có về qua Huế,
Thăm mồ chôn tập thể Tết Mậu Thân,
Nơi oan hồn vô tội của người dân,
Bao năm vẫn còn âm thầm kêu khóc.

Xin hãy ghé thăm chiến trường An Lộc
Để biết về trận đánh khốc liệt xưa,
Nơi hàng ngàn dân với lính sớm trưa,
Hứng đạn pháo như mưa rào tuôn dội.

Xin hãy ghé thăm nghĩa trang quân đội
Để thấy vô số tội của bạo quyền,
Đã say men “chiến thắng” đến cuồng điên,
Đập phá nát các đền đài bia mộ.

Xin hãy ghé Trường Thiếu Sinh Quân cũ,
Nơi vài trăm khóa sinh nhỏ hiên ngang,
Cuối Tháng Tư quyết chẳng chịu đầu hàng,
Liều sinh mạng để bảo toàn chính khí.

Xin hãy ghé thăm Cổ Thành Quảng Trị,
Nơi năm xưa, các binh sĩ can trường
Của miền Nam đã chẳng tiếc máu xương,
Giành lại được từ tay phường xâm lược.

Xin hãy ghé thăm Hoàng Sa, nếu được,
Để tỏ tường lòng yêu nước tận trung
Của Hải Quân với bao vị anh hùng
Đã dũng cảm giao tranh cùng lũ Chệt.

Xin hãy ghé tìm thăm nơi tuẫn tiết
Của năm vì Tướng trung liệt sắt son,
Theo gương xưa, quyết chẳng chịu sống còn,
Chọn cái chết để giữ tròn tiết tháo.

Xin hãy ghé thăm trại tù “cải tạo”,
Nơi xưa kia bạn bị bạo quyền giam,
Bị đọa đầy hành hạ biết bao năm
Mới được thả về kiếm ăn xuôi ngược.

Xin hãy ghé thăm bến tàu ngày trước,
Nơi bạn tìm đường bỏ nước ra đi,
Dù lắm khi mất cả lưới lẫn chì,
Nhưng nhờ mãi kiên trì nên thoát khỏi.

Xin hãy ghé thăm nhà giam tăm tối
Đã cầm tù bạn về tội vượt biên,
Để rõ thêm cái bộ mặt bưng biền
Của bè lũ cầm quyền đang đắc thế.

Rồi muốn ghé chỗ học xưa thì ghé,
Nhưng chớ lầm gọi “Trường Mẹ”, trường con,
Sau Bảy Lăm, “Trường Mẹ” đó đâu còn,
Sớm đã bị lũ cáo chồn cướp xác!

***

Nếu chỉ biết toàn rong chơi chỗ khác,
Thì qua đây đừng mang rác tìm tôi,
Để khoe khoang cùng quảng cáo lôi thôi,
Rồi giở giọng cười chê tôi “ngoan cố”.

Đừng ngụy biện bảo rằng về bên đó,
Cốt cho mình được biết rõ quê hương!
Sao ngày xưa phải van vái tứ phương,
Chui nhủi kiếm cho được đường bỏ xứ?

Quê hương cũ giờ đây còn đâu nữa,
Chỉ là nơi bầy quỷ dữ lộng hành,
Khiến triệu triệu dân lành
Luôn tiếc nhớ cảnh thanh bình thuở trước.

Kể từ Tháng Tư mất nước,
Quê nhà bước bước tang thương,
Vẫn văng vẳng đêm trường,
Tiếng than khóc từ đại dương vọng lại.

Trần Văn Lương

Cali, đầu Mùa Quốc Hận 4/2024

Views: 21

Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) và Chiến Tuyến Việt Nam

TS.LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT 

I. CĂN BẢN CỦA CHỦ NGHĨA BE-BỜ

George F. Kennan

Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1] là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2] ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo.  Chính sách này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt.  Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947[5] và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6]

Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau:[7]

  1. Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
  2. Xôviết cộng sản tìm mọi cách kết tác với thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
  3. Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;

Tổng Thống Harry S. Truman

Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9]  Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:

  • hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2,  song song với việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quý Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund];
  • cảnh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới hình thức liên minh quân sự Bắc Âu  [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
  • thu thập tin tức cẩn mật từ  quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]

Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].  Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự, MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13] 

  1. KHAI MỞ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa kỳ tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.

TT Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO] trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông Dương.

Tổng Thống Dwight D. Eisenhower

TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản.[14] Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:

  1. tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
  2. Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương;
  3. Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến.

Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ.  Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.

  1. VIỆT NAM THÀNH THÍ ĐIỂM CHỦ NGHĨA BE-BỜ 

Tổng Thống John F. Kennedy

TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia.  Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.

Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:

Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.

Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đãi của một thiểu số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo.  Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng v.v., các nhà trí thức độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v.  đã mất cơ hội tham dự vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến Tuyến này.  Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá trên đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất đáng tiếc.  Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự do.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Sau hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963.  Nhiều tài liệu lịch sử [mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn của CIA Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17] dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở.  Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và  ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu.[18]

Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu là do [a] tình trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và [c] phần nào vì Ngô Đình Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đình Diệm v.v. với ý định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]

  1. BIẾN HOÁ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô.  Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:

— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22] để lấy cớ  trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney;

— Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận để đưa tới thảo luận ngưng chiến;

— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy] tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh phòng chung quanh các phi trường và các địa điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Tổng Thống Lyndon Johnson

TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đòi hoà bình của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng]  phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử.  Đó là lý do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt.  Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến.

Về phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân quản” với 10 biến cố chính trị gồm những cuộc đảo chính hụt và những cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia, Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là  Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó.  Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các nơi sôi động.

Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:

  • về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại.
  • Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN.  Biến cố Tết Mậu Thân đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích.  Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”.  Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[23]  Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30, 000 binh si tử thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện hằng ngày trên Ti Vi Hoa Kỳ. 
  1. CHẤM DỨT CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

Khi thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ.  Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger đếu thấy rõ cuộc chiến không thể thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng không thể kéo dài tình trạng cầm cự này lâu dài thêm.

Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi” [“Détente”][24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms Limitation Talks],[25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”[26] tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.

Tổng Thống Richard Nixon & Chủ Tịch Mao Trạch Đông

Trong tinh thần đó, TT. Nixon quyết định giảm thiểu quân số tác chiến từ  537,000 xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,[27] bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho Quân Đội VNCH.  Trong giai đoạn này đã xẩy ra những chiến cuộc ác liệt như sau:

  • Cuộc Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc hành quân nầy, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham chiến.  Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch.  Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn.
  • Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972.  Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt [QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lần nầy QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn 3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại.   Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công.  Sau 81 ngày đêm tranh đấu, các binh chủng Nhẩy Dù, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
  • Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54 ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt hại khoảng 30 ngàn binh sĩ.  QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh và Biệt động quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô tiến đánh Thủ Đô Sài Gòn.  Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu  & Tổng Thống Richard Nixon

Sau nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng đồng minh và nhiều điều cam kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973, giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].

Năm 1973, Tổng trưởng Quốc Phòng Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ đem quân đánh lớn tại Miền Nam.  Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để cấm việc thả bom này.[28] Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với TT NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu không muốn gọi là lừa đảo.

Trong khi đó,  QBV thao túng dùng đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng tiếp viện để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới 1976.  Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà đã đem lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà Nội.  Sau khi Ban Mê Thuột bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975.  Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]

  • hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàng tật].
  • khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
  • khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong;
  • Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.

II. PHẢN DIỆN CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM: AI THẮNG, AI THUA? 

  1. Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn:[A] Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower, [B] xác định vị trí “be-bờ“ do TT JK Kennedy & Cố Vấn Bundy, [C] biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson, [D] để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30]với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger.

Sự thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản.   Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :

  • vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
  • vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[31]
  • vừa vận chuyển guồng máy sản xuất chiến cụ “phòng thủ chiến lược” do tư bản ứng vốn, thu lời.

Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[32] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng:

This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience…In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist. We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33]

Quyền lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực của dân chúng.  Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111 Tỷ Mỹ Kim [tương đương 900 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2016], dù hạn chế vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ.  Dân sẽ chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một.

  1. Với cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”, nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc chiến lẫn định mệnh sống còn.  Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt vô cảm.  Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt.  Nhưng chúng ta vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng minh kém vế.

Trong cuộc “Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính thể Quốc gia lẫn nhân dân Miền Nam đều thất bại.

  1. Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập.Quân đội và Nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng.  Quân đội CS Băc Việt thực sự đánh cho Nga, đánh cho Tầu.  Họ là kẻ thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ đã chiếm được Sài Gòn, nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất Nước trong “hoà bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán đảo, bán dân.
  2. VẬY AI LÀ PHE THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM?

“Đồng Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất thành cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết Be Bờ/Chiến tranh lạnh/” đã tháo chạy với hội chứng “Vietnam Syndrome” trên đài truyền hình và tại hậu phương Hoa Kỳ, nhưng thực sự đã “thắng cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch] thế giới, tạm cho tới ngày nay.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ vì đảm nhận vai vế “hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối với nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, Bắc Phi, phần nào để duy trì kho bạc “petro dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ đại) phát triển kỹ nghệ chiến cụ –“Military Industrial Complex”, cánh tay phải của uy lực tư bản Hoa Kỳ.

Song song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung Cộng.  Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi Tây, đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu “ping pong/coca cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War] với các chính thể Nixon-Kissinger và kế nhiệm, đế quốc cộng sản này đã trở thành “phó chủ” toàn cầu [với kỳ vọng trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam, Biển Đông, và bất cứ nơi nào thèm “tiền xì dầu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay thấy bắt buộc [chẳng đặng đừng] phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc “made in China”.

Phải chăng Trung Cộng đang trở thành con khủng long thế kỷ 21, và  Việt  Nam là cái đuôi xã hội mafia của nó?

III. TẠM KẾT:

Cuộc chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng là bài học chung cho những thế hệ sau. Đất nước là của chung, phải định đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại nhân, vì họ có mục tiêu và quyền lợi của họ.  Cái khôn là biết hợp tác để trao đổi thế lực, trí tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc, từng  thể chế tác động nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền lợi của đảng phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt.  Không ai sống hộ chúng ta và cũng không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu chúng ta.  Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi theo đuổi, thực hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương tự.

Chúng ta, con cháu chúng ta hãy tránh là nạn nhân lẫn tòng phạm của những cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng thế hệ này sang thế hệ khác.  Hãy lật ngược những trang bi sử đó và nhất quyết trở thành sáng lập viên chung của một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững bền, tích cực, trọng sinh, trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo trọng, thân thương.  Việt Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn bị vĩnh viễn xoá bỏ.

Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân dân Việt Nam, toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những Người Việt thực sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây giờ và tiếp nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc tài.

Dù là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít, hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ quyền lợi và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó, cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây dựng và bảo trọng một Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy. 

TS.LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT

PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University

CHÚ THÍCH

[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for a cordon sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease.

[3] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.

[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[5] Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.

Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and intellectual respectability.”

[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine” Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727

[7] At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…

[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402

[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press

[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and the Triumph of Democracy. (1993).  Gimbel, John, The origins of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).

[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives

[12] Amy B. Zegart,  Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC

[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy

[14] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.”

[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)

[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia

[17] Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963 that “Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they will mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem, he should also be sent outside Southeast Asia.”  He further went on to anticipate what he termed a “Götterdämmerung in the palace”. We should encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the Nhus should be banished to France or any other country willing to receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer, Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.

[18] According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese found themselves.”

[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.

[20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”

[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”

[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The New York Times, 1970-06-25

[23] Television brought the brutality of war into the comfort of the living room. Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.

[24] Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard University Press (2003).

[25] SALT [Strategic Arms Limitation Talk]

[26] With honor

[27] Vietnamization or Nixon Doctrine

[28] Senate passed the Case-Church Amendment to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam SyndromeKarnow, Stanley (1991)

[29]  Battlefield:Vietnam | Timeline

20 Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech University.

R.J. Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources & Calculations”. web site. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved 2010-01-01.

Tran Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site. http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm. Retrieved 2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF

Kevin Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.

[30] Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon & Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam’

[31] Effect of the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen Western institutions in order to render them invulnerable to the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet regime.

[32] Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.

[33] President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961

Views: 20

Kén Chồng Cho Con

Phạm Thành Châu

Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường, không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng rồi, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm (1975), hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi…? Tất cả chỉ là giả thiết. và vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ trẻ đến lớn tuổi đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái. Năm 1973 hắn tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Ông có một thói quen buồn cười. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho ông, đốt thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại đốt điếu khác, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Đến ngày mất nước (1975), ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại tù cải tạo Long Thành 15 NV hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể. Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ kể rõ.

Còn chuyện hắn biết cô con gái của ông đại tá tỉnh trưởng (trước 1975) cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo. – Nhưng trong túi “moa” (tôi) tài sản chỉ mấy nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì “hẻo” (tệ) quá! Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội (thành phố Huế) mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà vì là giờ hành chánh, chỉ có cô gái ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô như nụ hồng hé nở, ngây thơ, tinh khiết. Cô học trường Đồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Chiều đó hắn ngồi tán tỉnh tía lia, khi ra về, em cho hắn ôm hôn lên má, rồi ôm cái tô ra về. Hắn hẹn với em vài hôm sau sẽ đến nữa. Đến hẹn, hắn lại ôm cái tô đến. Lính gác cổng thấy xe quận quen thuộc, không bận tâm. Em tươi cười, mừng rỡ chờ đón hắn. Gặp em được mấy lần thì ông tỉnh trưởng về sớm. – “Moa” (ta) nghe mấy bữa nay “toa” (cậu) cứ ôm cái tô đến trò chuyện với con bé Mai của moi mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con bé lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe! Dù sao thì hắn cũng được em cho ôm hôn mấy lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”. Một lần, ôm hôn em, hắn thì thầm “Em làm vợ anh nghe!” Có lẽ em không biết rõ “làm vợ” là làm gì, nhưng em vẫn ngước nhìn hắn cười và gật đầu. Đáng lẽ chuyện tình của hắn với em sẽ còn dài, nhưng sau đó sập tiệm (miền Nam bị đô hộ 1975). Hắn đi tù, ông (đại tá) bố em, cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng, hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ, hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán McDonald! Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe, hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe, và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông không biết tiếng Mỹ, lại già cả, nên lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỹ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo. – Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket. – Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay. Ông ta ngạc nhiên. – Ủa, sao toa biết moa? Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác. – Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình? – Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm (1975) sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO (tù cải tạo đi Mỹ) thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gả con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa. Ông ta bảo. – Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức. – Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu. Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái của ông bà bưng trà ra mời khách. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà, chững chạc hơn trước. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dửng dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn kể lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô con gái của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích lắm nhưng có cô gái ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường, hắn đâm ra mong được nghe cô mời trà để ngắm hai bàn tay búp măng, trắng tinh, dịu dàng. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như rằng, cô đăm đăm nhìn lại và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Một nụ cười đẹp hơn tất cả các nụ cười trên thế gian. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn. Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như hắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân. Nhớ nhé!”” Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo. – Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà. Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại. – Chớ ba mạ cháu ở mô rứa? – Dạ, ở nhà. – Còn cháu ở mô? – Dạ, cũng ở nhà. – Rứa là biết rồi hỉ. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ. Hắn tự hỏi, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất với ông bà. Khi giả từ, bà lại hỏi. – Bà cụ có mạnh khỏe không? – Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia. Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn. – Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta. Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ. Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ thêm mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô con gái đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới gợi ý gã cô con gái xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô ta, nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng, họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá. Vì không biết ý định của ông bà, nên một lần được mời đến uống trà, hắn đánh nước cờ cầu may bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước cờ “tiếp chiến”. Hôm đó, chủ nhật đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ (Việt Nam Cộng Hòa) trước chợ Eden (tiểu bang Virginia) Tối thứ bảy, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi. – Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không? – Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất. – Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden, sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ. – Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ. Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành (cô gái) đến trước miệng con chốt (là hắn), nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn. Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý gì với nhau bao giờ? Đến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Thời đi học, mỗi đầu tuần đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca… Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Kẻ mất nước như người mất hồn, như người thất tình. Thế nên hắn sợ mọi người thấy hắn ứa nước mắt khi hát quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ. Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục. Ông bà có tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẩn gì đó nhưng hồn vía để cả vào người đẹp ngoài kia. Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định lò dò theo trò chuyện với cô gái nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi? Đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô con gái hiếu thảo của bà vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố trong tù. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ, cô tỏ ý vâng lời. Hắn nghe mà tưởng mình nằm mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!? Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui. – Chào chú ạ! – Chú đến thăm Mai. – Dạ, mời chú vào. Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thước tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì. – Có ông bà cụ ở nhà không? – Dạ không. Mời chú ngồi. Cô ngồi đối diện. Cô rót trà rồi mở hộp bánh ra. – Mời chú! Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười. – Trà còn nóng, cháu vừa mới pha. Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin! – Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không? – Dạ không. – Thế mạ có nói chuyện nầy với Mai không? – Dạ có. Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn. – Chú xin lỗi đã làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui. – Dạ. – Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số… Qua đây chú đi làm trong tiệm McDonald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng, qua Mỹ, cũng chẳng khá hơn. (Hắn rào đón trước) Một mình, kiếm sống còn vất vả, họa chăng có cô nào điên mới chấp nhận sống với chú. – Cháu thấy, ở đây, có nhiều cặp vợ chồng cũng lao động chân tay mà vẫn sống đầy đủ, hạnh phúc. – Mai nói vậy, sao Mai vẫn sống độc thân? – Sau năm bảy lăm (1975), cháu chưa đến tuổi trưởng thành thì bị họa mất nước. Tảo tần vì đời sống, lo thăm nuôi ba trong tù hơn chục năm, tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện yêu đương. Qua Mỹ, vì cuộc sống, cháu cũng phải đi làm. Sáng đi, chiều về, chẳng có thì giờ tiếp xúc với ai mà nói chuyện lập gia đình. Rồi cô lắc đầu, trầm ngâm. – Thực ra, lòng cháu đã nguội lạnh từ lâu rồi, chẳng có ai làm cháu xao xuyến. – Chú đoán. Hoặc Mai đang mang một mối tình câm, hoặc đã bị phụ tình. Đúng không? Cô ngước nhìn hắn vẻ bí mật. – Cháu bị cả hai, nhưng không bị phụ tình. Bị người ta vô tình thì đúng hơn. Hắn làm bộ bất mãn. – Tay vô tình nầy thật đáng trách, và cũng đáng tiếc nữa. Mai có thể cho cho chú tên người đó không? Cô nhìn hắn, buồn buồn. – Cháu đã gọi đó là người vô tình rồi mà! – Vẻ buồn rầu của Mai làm chú nhớ lại ánh mắt của một cô bạn nhỏ ngày xưa, cũng nhìn chú lưu luyến khi chú từ giả cô ta để ra về. Chuyện đã lâu. Nay thì cô ta đã quên chú rồi! Thấy buổi trò chuyện kéo dài mà không đi đến đâu, hắn quyết định từ giả. – Chú đến thăm Mai, có lẽ là lần cuối. Ít hôm nữa, chú sẽ đi sang tiểu bang khác. Cô nhìn hắn, vừa ngạc nhiên vừa tức giận. – Vậy chứ mạ cháu dặn chú đến gặp cháu vì chuyện gì? Hắn bối rối. – Mạ Mai bảo chú đến gặp Mai để biết rõ tình cảm của Mai đối với chú? Nhưng thấy Mai chuyện trò, tâm sự với chú như với người bạn nên chú không dám hỏi. Điều chú phân vân vì sao Mai để ý đến chú, có cảm tình với chú? Trẻ và đẹp như Mai, biết bao người xứng đáng với Mai. Sao Mai lại chọn chú? Vì không rõ lý do, nên chú không dám nhận những cảm tình của Mai ban cho chú. – Cháu đã nói từ lúc nãy đến giờ mà chú vẫn không hiểu cháu. Cháu đã nói. Từ nhỏ đến lớn, cháu chỉ yêu một người thôi. Nếu không có vụ mất nước, cháu và người ấy đã nên vợ chồng từ lâu rồi. Đâu đến nỗi gần như suốt đời cháu phải đi khắp nơi tìm người ta. Nước Mỹ mênh mông.. . Rồi cô úp mặt vào hai bàn tay khóc nức nở, đôi vai rung lên… Hắn ngồi chết sững. – Cho chú xin lỗi Mai. Thú thật. Đời chú quá vất vả. Chú không còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện tình cảm với ai. Tình yêu của Mai dành cho chú thật kỳ lạ. Giống như là một chuyện cổ tích. Cô lau nước mắt. – Cổ tích sao được. Chú chờ cháu. Cô đứng lên, vào phòng một lúc rồi đi ra, tay cầm một tấm hình, trao cho hắn. – Chú xem đi! Hình ai trong đó? Hắn ngạc nhiên kêu lên. – Ôi. Hình chú đây mà! Đó là tấm hình hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh hôm tốt nghiệp. Sau tấm hình là câu (thề non hẹn biển) “Anh hứa yêu em suốt một đời” Cô hằn học. – Chú chú, cháu cháu! Bộ xưng “anh” sợ bị lính bắt hay sao?

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng, cám ơn quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rể phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè. – Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con bé Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô hắn cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp để tìm cho ra cụ mi. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình cụ mi chụp tặng hắn, đã mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô cỡ tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Cũng may! Hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Đáng lẽ, chuyện tôi kể còn dài, nhưng phải tạm ngưng ở đây, vì tôi nghe vợ tôi nôn ọe, ói mữa gì trong phòng tắm. Trăng mật cho cố, bây giờ ói mật xanh, mật vàng! Tôi phải vào với cô ấy, xem sao?

Phạm Thành Châu

Views: 26

Năm Thìn Nói Chuyện Con Rồng

Phạm Thành Châu

Năm 2024 - Giáp Thìn Ảnh: AI tạo hình

Năm 2024 – Giáp Thìn (Ảnh: AI tạo hình)

Năm nay là năm Thìn, cầm tinh con rồng. Chẳng ai thấy dung nhan con rồng ra sao. Nó là sản phẩm của tưởng tượng. Có điều, không hiểu ai đã đồng hóa con rồng của châu Á với con dragon của châu Âu. Một bên là con rắn (long), bên kia là con kỳ nhông, kỳ đà (dragon). Con rồng Á Châu tượng trưng cho cao quí, quyền năng (nhà vua) và nhân hậu (rồng hút nước, phun nước làm mưa giúp mùa màng xanh tốt) trong khi con dragon Âu châu vừa giống con khủng long vừa giống con hải mã (các ông thường ngâm rượu để uống cho mạnh gân cốt), là con ác thú, chuyên phun lửa đốt người ta. Bài nầy sẽ nói đại khái về con Dragon Châu Âu trước sau đó sẽ nói về con rồng Á Châu.

Con dragon, trong thực tế, có thật. Ðó là con vật ăn thịt, giống như con kỳ đà, rắn mối của ta. Bạn mở Google rồi đánh chữ “Dragon” thì thấy đủ loại Dragon. Con Dragon tiếng La Tinh: Draco, tiếng Anh, Pháp: Dragon, tiếng Ý: Dragone… Dragon nhỏ cỡ con thằn lằn, to lớn thì có con Dragon Komodo ở đảo Komodo, Indonesia, tên khoa học là Varamuo Komodoensi, dài 2 mét, nặng 150 ki lô. Tôi xem trong TV. thấy chúng ở chung với người trên đảo Komodo. Dân trên đảo phơi cá, chúng bò tới ăn, phải đánh đuổi. Hình như chính phủ nuôi chúng để hấp dẫn khách du lịch, nhưng cũng khá tốn kém, có mấy con trâu già chết, người ta mang cho chúng, chúng nhai sạch cả xương, lông. Không hiểu khi đói chúng có ăn thịt trẻ con không? chứ tôi thấy mấy đứa nhỏ lấy roi đuổi đánh chúng chạy vô rừng. Khi giành ăn, giành con mái, chúng đánh nhau rất hăng, máu me tùm lum mà vẫn cứ lăn xả vào nhau. Nhỏ hơn có con Dragon Volan mà ta gọi là thằn lằn bay, tên khoa học là Physignathus Cocinan. Miền thượng du Bắc Việt cũng có loại nầy. Có một loại tương tự lớn hơn, tên là rồng đất, người Tày gọi là Turong Ðang, người Mường gọi là Rềnh, dài khoảng 50 cm. Con chuồn chuồn không giống con dragon mà cũng được gọi là Dragon Fly? Có con cá dưới biển, màu sắc sặc sỡ, đầu dẹp cũng được gọi là con Dragonet. Ở Mỹ, có nhiều con dragon nhỏ được bày bán trong các tiệm bán thú nhỏ (pet). Mấy con nầy chẳng làm được tích sự gì, chỉ thấy bò tới , bò lui như con kỳ nhông vậy thôi (con tắc kè còn kêu được vài tiếng vào ban đêm). Tôi xem phim (vẽ) truyện cổ tích cho trẻ con Châu Âu, con Dragon được thêm vây, cánh, móng vuốt dữ dằn. Có con năm bảy đầu. Nó to như cái nhà, hiệp sĩ đến gần để chiến đấu thì nó phun lửa, chặt đầu, nó mọc lại đầu khác, phun lửa tiếp. Có khi nó bay trên trời, dùng móng vuốt bắt người. Cuối cùng chàng hiệp sĩ cũng giết được nó (hoặc bắn tên cho nó rớt xuống đất) để vào hang cứu công chúa (và để vui lòng lũ trẻ), tương tự chuyện Thạch Sanh, Lý Thông của ta vậy. Dragon là con ác thú, các ông gọi mấy bà dữ dằn, ác phụ là Dragon lady.

Bây giờ qua chuyện con rồng của ta.

Chưa ai thấy con rồng thật, tôi cũng chưa thấy, nên tôi chỉ dựa vào sách báo, truyền thuyết, tranh vẽ, hình tượng để để trình bày với hi vọng quí độc giả có được những giây phút giải trí thoải mái trong mấy ngày xuân.

Hình tượng con rồng có từ khi nào? Có thể khẳng định, rồng có từ thời lập quốc nước Việt Nam ta. Sử Trung Hoa có nhắc đến con Giao Long, là con rồng của người Giao Chỉ. Các di chỉ lịch sử của Trung Hoa không thấy hình tượng con rồng (chỉ có con lân), mãi đến đời Tuyên Ðức (1426-1435) mới thấy rồng xuất hiện trên các đồ đồng, đồ gốm, đồ sành (ông vua nầy chỉ thích đá dế, sao lại thích con rồng?). Ðến đời Thành Hóa (1465-1487) mới thấy xuất hiện Long Phụng Hòa Minh rồi Phụng Mao Lân Giác… Ngay cả đến con Phụng Tàu cũng chỉ xuất hiện sau Phụng Việt ít ra cũng 400 năm. Ðời Lý, thế kỷ 11, phụng đã thấy xuất hiện trên đồ gốm, đồ đồng rồi. Con phụng Việt dáng uy nghi nhưng nặng nề, người Trung Hoa “chế biến” con phụng Việt thành bay bướm, rực rỡ, thanh thoát ra vẻ mẫu nghi thiên hạ (phụng tượng trưng cho hoàng hậu). Xem thế từ thời thượng cổ, người Lạc Việt đã vẽ hình giao long trên người để tránh bị giao long làm hại, thuyền bè cũng vẽ con mắt phía trước mũi thuyền, mục đích đồng hóa với giao long. Người Mường (gốc người Việt cổ) gọi con rồng là Prudồng và con thuồng luồng là Tu Luông. Con rồng ở Việt Nam không chỉ dành riêng cho vua chúa mà dân gian cũng có thể dùng hình tượng rồng, chỉ khác biệt là con rồng, tượng trưng cho nhà vua thì mỗi chân có năm (5) móng, rồng của các quan bốn (4) móng, dân chúng (các đình chùa, miếu đền) chỉ được làm hình con rồng ba (3) móng thôi. Ra Huế, bạn thăm cung điện, lăng tẩm các vua đều thấy rồng năm móng, Ðồ cổ, có hình vẽ rồng năm móng là biết đó là đồ ngự dụng (vua dùng), rất có giá trị. Nếu có lên Ða Lạt, nhớ ghé thăm biệt điện Bảo Ðại, bạn xem trong tủ triển lãm đồ ngự dụng, có một bình trà (cho vua dùng) vẽ hình con rồng sẽ biết. Thời các vua nhà Nguyễn, có lịnh cấm dân chúng dùng hình tượng con rồng. Theo Khâm định Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ , quyển 186 về luật lễ thì “Nếu thêu vẽ con rồng, con phượng, giao long thì quan hay dân đều bị phạt 100 trượng (đánh bằng gậy) và lưu đầy 3 năm. Quan thì cách chức, thợ làm bị phạt 100 trượng”. Ðến thời Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn nên chẳng ai sợ lệnh vua mà phải tuân hành nên đình chùa, miếu võ, các đồ dân dụng (ấm, tách, đĩa, chén) vẫn vẽ con rồng, có khi rồng năm móng!

Huyền sử Việt Nam có kể rằng chúng ta là con Rồng cháu Tiên (các cháu gặp người “ngoại quốc” có thể tự giới thiệu “We are children of the Dragon and the Fairy” nhưng nhớ chỉ rõ hình con rồng chứ không phải con dragon, khủng long hay ác thú phun lửa giết người, và cô Tiên của chúng ta là người đẹp bằng người thật, nhân hậu và có phép tiên, chứ không phải cô tiên có cánh, bé tí xíu như con ong, tay cầm chiếc đũa thần, nhấp nháy như pháo cầm tay thường xuất hiện trong các hình vẽ và phim cổ tích cho trẻ em ở Châu Âu).

Sách xưa có ghi rõ về các loại rồng như sau: Rồng có cánh gọi là Ứng Long, rồng có sừng gọi là Cù Long, không có sừng gọi là Ly Long, rồng có vảy gọi là Giao Long (con rồng ở xứ Giao Chỉ. Giao Long thường xuất hiện ở bến sông thành Ðại La và Long Biên). Rồng 500 tuổi thì có sừng, 1000 tuổi thì có cánh, rồng chưa bay lên được thì gọi là Bàn Long. Trung Hoa đem con Giao Long (của xứ Giao Chỉ) ra “vẽ rắn thêm chân” (đầu lạc đà có sừng, tai bò, bốn chân, râu ria, móng vuốt trông rất hùng vĩ, dữ tợn) phổ biến đến các nước chung quanh nên nước Nhật chọn con rồng đen là rồng thiêng của họ (trước 1945, có đảng Hắc Long của Nhật), và con Thanh Long là rồng thiêng của dân tộc Triều Tiên.

Trở lại tục xăm mình của người Việt mà đến đời Trần vẫn còn giữ và con rồng đời nhà Lý chỉ là con rắn có vảy, có chân đến đời nhà Trần mới dùng hình tượng con rồng (có vây, kỳ) như của người Trung Hoa. Nhưng con rồng có thật hay không? hay biến dạng từ con vật nào? Theo các nhà nghiên cứu về tục xâm mình và con rồng Việt Nam thì có lẽ đó là hình ảnh con thủy quái. Họ suy luận rằng: Thời thượng cổ, đồng bằng sông Hồng và vùng bờ biển vịnh Hạ Long (vịnh rồng đáp xuống) còn rất hoang vu, thú dữ đầy dẫy. Người Việt đánh cá thường bị loại thủy quái nầy sát hại. Họ sợ hãi và nghĩ cách xâm hình con thủy quái lên toàn thân, hi vọng chúng tưởng đồng loại mà không ăn thịt. Loài thủy quái nầy rất to lớn, chúng thường băng qua sông hoặc lội từ đảo nầy qua đảo kia ở vịnh Hạ Long để săn mồi. Vì là ác thú hại người nên con người phải chiến đầu, tiêu diệt chúng để sống còn, giống như đã tiêu diệt hổ báo, cá sấu ở nam bộ thời người Việt mới đến khai phá. Tuy vậy đến thời Pháp thuộc, loài thủy quái nầy vẫn còn. Xin trích sau đây một số tài liệu liên quan đến con thủy quái mà người ta gọi là rồng biển, có ghi nhận trong các “Nhật Ký Hải Trình” của hải quân Pháp trên vịnh Hạ Long như sau. Theo Oudemans người ta đã trông thấy rồng hiện ra 134 lần từ năm 1802 đến năm1890. Ông Oudemans đã được trông thấy rồng hiện lên ở vịnh Hạ Long (bai d ùAlong) nên ông có tả rõ hình con rồng dài từ 15 đến 30 thước, đầu nhỏ có râu, đuôi dài lắm, có 4 vây to, lúc ngoi dưới nước mình như con rắn. Vị chỉ huy tàu Avalanche là Lagrisill có kể chuyện rằng: Năm 1897, hồi tháng 7, tàu ông đang đi ở vịnh Hạ Long, thình lình, ở đằng xa, xuất hiện một vật đen đen, chiếu ống dòm thì thấy con rồng đang rẽ nước, ông liền cho tàu chạy đến gần độ 600 thước rồi ra lịnh lấy súng đại bác bắn một phát, nhưng không trúng, rồng lặn xuống nước. Rồng thở phì phào như con trâu đầm nước và phun nước lên cao như cá ông voi. Ngày 15 tháng 2 năm 1898 rồng lại hiện lên gần Faist-si-long, trên tàu bắn nhiều phát súng, cách rồng 3, 4 trăm thước, hình như có hai phát trúng nên thấy rồng cuộn khúc lên khỏi mặt nước và phun nước lên trên không. Chín ngày sau, từ tàu Bayard, một sĩ quan (quan năm) hải quân và tám hạ sỹ quan đang đứng chơi trên tàu cũng lại thấy rồng hiện lên, đầu nó nhỏ như đầu chó bể (phoque), lưng có gai như răng cưa”. Mới đây, vào năm 2009, ở vịnh Bristol (Alaska) người ta quay video được một sinh vật to lớn, dài khoảng 6 – 9 mét, di chuyển trong nước với cổ dài, đầu giống đầu ngựa. Giáo sư Paul LeBlond, trưởng khoa Khoa Học Trái Ðất Và Ðại Dương, đại học British Columbia cho biết, sinh vật trong video dao động lên xuống theo chiều dọc chứ không di chuyển sang hai bên như cá. Có thể đó là loài rắn biển khổng lồ, được gọi là Cadborosaurus, là động vật bò sát biển, thường xuất hiện ở các bờ biển Bắc. Như vậy, con Giao Long (con rồng của người Giao Chỉ) là có thật, đến thế kỷ 19 còn sống sót vài con và bị người Pháp tiêu diệt. Có phải con thủy quái ở hồ Loch Ness (xứ Scottland) cũng là bà con giòng họ gì với con giao long của ta chăng?

Năm 1925, giáo sư Gruvel xuất bản một cuốn sách nói về nghề đánh cá cũng có kể chuyện về con rồng biển. Theo lời ông bác sĩ Kremp, nguyên quản đốc viện Ðông Dương Hải Học đã nghe một người Nam phần, 56 tuổi, chủ thuyền ở sở Thương Chánh Sài Gòn thuật lại rằng, năm 1883, có trông thấy trên bể một con rắn biển to bị sóng đánh giạt vào. Con rắn bể nầy dài 19 thước, lưng rộng 1 thước và có nhiều đốt. Da nó xám, cứng, gõ kêu như sắt tây (Theo Nguyễn Công Huân, Văn Hóa Nguyệt San, T. XIII, Q I, Sài Gòn 1964, tr. 26-30).

Trở lại chuyện con rồng. Vì là con vật được tượng trưng cho cao quí, sang trọng, quyền năng và nhân hậu nên các vua tự xem mình là rồng, những gì thuộc về nhà vua đều thêm chữ long vào. Long nhan (mặt rồng), long sàn (giường vua nằm), long xa (xe vua)… Trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung có “Ðồ Long Ðao” (đồ long là giết rồng) là cây đao sẽ dùng để giết vua Mông Cổ giành lại nước Trung Hoa cho người Hán. Người Việt mình rất thích dùng chữ “long” để chỉ các công trình, địa danh. Long Biên, Hàm Rồng, Long Hải, sông Cửu Long, thành Thăng Long… ngoài ra còn có Long Beach (bãi biển rồng), Long Island (đảo rồng) ở xứ Mỹ, và Longine (con rồng nằm trong đồng hồ?) của Thụy Sĩ nữa!

Chùa Cầu – Hội An, Quảng Nam (Ảnh: Internet)

Hiện nay người ta thích vẽ, tạc tượng con rồng ở các đình chùa, miếu đền và cả các công viên, khu giải trí. Dài nhất Việt Nam là 2 con rồng bằng xi măng trước đền thờ Ngọc Hân công chúa và vua Trần Nhân Tông, cách đàn Nam Giao 6 km trên núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, thành phố Huế. Con rồng xi măng nầy dài 105 mét, thân cao 2,5 mét, đầu cao 3,5 mét. Trong truyền thuyết, có con rồng dài gần chục nghìn cây số, từ thành phố cổ Hội An đến nước Nhật. Người ta kể rằng. Nước Nhật thường hay động đất vì có con rồng nằm dưới đó, thỉnh thoảng cựa mình là đất đai rung chuyển, cây đổ, nhà sập. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, mình con rồng ở Nhật nhưng đầu nó ở tận xứ Việt Nam. Vậy nên, vào đầu thế kỷ 15, thầy địa lý Nhật đến xứ Ðàng Trong (của chúa Nguyễn), tìm long mạch thì thấy ở Phố Hội có đầu con rồng nằm dưới một rạch nước, họ bèn xây đè lên (đầu rồng) một cây cầu, xây thêm trên cầu một ngôi chùa, có tượng ông (thần) tướng cầm cây gươm, ghìm ngay đầu con rồng để kềm chế, không cho nó cục cựa, vậy là nước Nhật bớt động đất. Ðó là Chùa Cầu, tỉnh Quảng Nam, đến nay vẫn còn, như một kỷ niệm của người Nhật tặng cho dân Hội An, nhiều người gọi đó là cầu Nhật Bản, có ghi công trình nầy ở các bia đá trên cầu. Ðến Hội An xem Chùa Cầu, bạn nhớ vô chùa (ngay trên cầu) sẽ thấy rõ tượng ông (thần) tướng cầm gươm. Có lẽ người dân Hội An thêm thắt vô cho bọn trẻ chúng tôi tin là thật, sau nầy, đọc sách chúng tôi mới biết là khoảng thế kỷ 15, 16, người Trung Hoa và người Nhật đến phố Hội lập thương cục buôn bán. Phía bắc phố Hội bên kia con rạch là nơi cư ngụ của người Nhật, phía nam của người Tàu. Người Nhật xây cây cầu để tiện đi lại, nhưng sách vở không nói về chuyện ngôi chùa (miếu) thờ ông thần nào đó, tướng tá, võ phục trông giống của người Nhật.

Tượng (ảnh trái) và bàn thờ Bắc Đế Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An. Ảnh: V.V.H

Bây giờ, để chấm dứt bài con rồng, tôi xin hiến quí vị tuổi Thìn (con rồng) một quẻ bói. (Xin lỗi, tôi không có quẻ tuổi Thìn cho quí bà). Ðàn ông tuổi con rồng thường gặp may mắn. Năm nay lại càng may mắn hơn vì là năm Giap Thìn. Người tuổi Rồng có thừa sức khỏe, năng nổ nhưng dễ bị kích động và mất thăng bằng. Cực kỳ ương ngạnh nhưng ăn ở có đức độ, không biết đạo đức giả. Ðược thiên hạ kính nể, có thế lực. Tuổi Rồng hăng hái ít ai sánh kịp. Thời trẻ hay gặp trắc trở, lớn lên vùng vẫy như rồng có cánh tuy cũng lắm thăng trầm, về già nhàn nhã. Tuổi Rồng hợp với tuổi chuột, rắn, khỉ, gà. Kị nhất với tuổi trâu, chó. Năm nay, tuổi Rồng khá giả, yên thân, miễn là đừng giao dịch, tiếp xúc với người cùng tuổi Thìn (con rồng) vì là năm Rồng lại nằm ở cái thế “lưỡng long tranh châu”, chưa biết thắng bại ra sao?

Bài con Rồng xin chấm dứt, sang năm xin hầu quí vị chuyện con Rắn, năm Tỵ.

Phạm Thành Châu

Views: 55

Thảm Họa Kinh Tế Việt Nam Bị Lệ Thuộc Trung Cộng

Nguyễn Bá Lộc

Giữa tháng 12 vừa rồi, Chủ tịch Trung cộng (TC) Tập cận Bình đến VN, trong một bối cảnh thế giới nhiều biến động nguy hiểm hơn, và trong khi đó hiện nền kinh tế Trung cộng (TC) suy sụp có nhiều khó khăn khó giải quyết được trong thời gian ngắn. Hai lãnh đạo cao cấp nhất của “hai nước CS anh em”, Tập cận Bình (TCB) và Nguyễn phú Trọng (NPT) đã có nhiều lần và khá thường gặp nhau, lần nầy thì có vẽ dồn dập hơn, cho nên có thể nghĩ có chuyện gì khác thường. Thực sự, cái căn cơ gốc rễ của mối bang giao của hai nước thâm sâu đặc biệt, và khá bền chặt. Chỉ trong vòng hai năm mà hai Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng gặp rất thường như chúng ta biết. Đó có thể vài sự kiện mới liên hệ tới thế tam giác Mỹ, Trung và Việt nam. Có thể trước tình thế mới, lãnh tụ TC nay cần phải nhắc nhở CSVN phải kiên định lập trường và giữ vững niềm tin cậy, và sáng suốt trước các hành động của Hoa kỳ và đồng minh. Mặt khác, có thể TCB cũng muốn cho dân chúng VN và thế giới thấy VNCS vẫn còn trong vòng kềm kẹp của TC, và VN vẫn còn sát cánh bên TC.
VNCS từ lâu lệ thuộc TC cách khác biệt và sâu đậm về các phương diện chánh trị, kinh tế, và an ninh. Trong bài viết nầy, tôi xin trình bày sự lệ thuộc đó về kinh tế trong thời gian gần đây.

I. Con đường dẫn kinh tế VN tới sự lệ thuộc TC

1. Khái quát ý niệm Lệ Thuộc Kinh Tế

Theo nghĩa thông thường lệ thuộc kinh tế (economic dependence) của một quốc gia khi có tình trạng kinh tế yếu về một mặt nào đó, cần phải dựa vào quốc gia khác để phát triển khá hơn. Ví dụ: Tây Âu phải lệ thuộc dầu khí vào Nga, Hoa kỳ trước 2020 lệ thuộc chuổi cung ứng linh kiện điện tử và nguyên liệu dược phẩm của TC. Hàng hóa chế biến của VN lệ thuộc mạnh có tính cách sanh tử vào thị trường Mỹ và Âu châu..
Khi phong trào toàn cầu hóa mở rộng trên thế giới sau chiến tranh lạnh, sự cạnh tranh kinh tế càng quyết liệt, thì sự lệ thuộc kinh tế với nhau càng lớn mạnh. Trong trường hợp thế giới ổn định, thương mại và đầu tư giao lưu bình thường, thì sự lệ thuộc thường hay phụ thuộc kinh tế vào nước kia, thì đó là chuyện bình thường, không có vấn đề nghiêm trọng được đặt ra.
Song, nếu một nước lệ thuộc vượt qua mức độ và tính chất bình thường nói trên một cách quá đáng, thì tình trạng nầy có trục trặc, bất công, và thiệt hại cho một bên. Có thể chánh quyền một nước ở thế mạnh áp bức nước kia, hoặc chánh quyền nước yếu cầu cạnh hay tự dâng hiến quyền lợi đất nước mình, để trao đổi bất chánh một cái gì. Trường hơp này đã xảy ra cho một số nước. Cụ thể là trường hợp VN bị lệ thuộc TC cách bất thường, bất công, và bất chánh.

2. Con đường đưa tới kinh tế VN lệ thuộc TC

Nhu cầu hợp tác kinh tế VN-TC. Từ khi tái lập bang giao (1991), cả VNCS lẫn TC đều có nhu cầu dựa sát lại để tồn tại và phát triển. Tình trạng càng lớn mạnh hơn khi TCB ôm giấc mộng lên lãnh tụ thế giới và cũng từ khi tranh chấp Mỹ Trung càng căng thẳng thêm.
Với TC, thì nhu cầu trên mặt kinh tế phải kềm chặt VN là vì: VNCS và TC có mô hình và sách lược kinh tế giống nhau. TC là thầy của VNCS, nên mọi bàn thảo hợp tác dễ nói dễ bàn và thi hành ít có khác biệt. Thứ hai TC rất cần tài nguyên khoáng sản nhất là dầu lửa, cho phát triển mà trong nước rất thiếu, trong khi đó VN có tiềm năng nầy khá, mà VN thì muốn giao cho TC khai thác, TC dễ ép buộc VN thầu khai thác cũng như về giá cả. Thứ ba, hai nước ở cạnh nhau, nên ngoại thương rất thuận lợi. Thứ tư, kinh tế VN đang phát triển khá, lợi tức dân chúng tăng, TC đưa vô mọi hàng, và người Hoa tràn vô mở cửa hàng khắp nơi nhứt là các tỉnh ở biên giới.
Với CSVN, thì cần phải dựa vào TC là vì sau khi kinh tế CS sụp đổ năm 1985, VN không có lối thoát, nên dựa được TC là may rồi. Thứ hai, TC là thị trường rất lớn cho nông sản VN. Thứ ba, VN rất thiếu mọi thứ nhất là nguyên liệu, phân bón… mà TC có nhiều. Thứ tư, TC có chương trình cho vay ra các nước khá rộng rãi, VN cần vay mượn nhiều từ bên ngoài. Thứ tư, Bộ máy công quyền VN-TC giống nhau, nên khi thực hiện các dự án dễ dàng thương thảo về các điều thỏa mãn cả hai bên, kể cả tham nhũng lớn để chia chác nhau.
Dù một vài chuyển biến mới gần đây, nhưng mối tương quan kinh tế hai bên Việt Trung không thay đổi, mà còn tăng rất nhanh trong khoảng 5 năm nay. Vì vậy, hệ quả tai hại cho VN càng ngày càng lớn, và nay CSVN rất khó thoát ra được, dù VN đạt một số thành quả tốt trong hợp tác với Tây phương.

3.Thực tế “cái thế” yếu của VNCS trong lệ thuộc TC.

Thực tế, VNCS bị cưỡng bức và tự dâng cho TC trong cái gọi là hợp tác chiến lược toàn diện. Chúng ta có thể thấy được cái yếu thế của VNCS qua thực tế, qua cả dự án kinh tế lớn mà VN đưa cho TC không qua thầu công khai, và qua các phái đoàn VN-TC qua lại khai triển các dự án , các kế hoạch và các mưu mô thầm kín. Chúng ta cũng có thể hiểu qua rất nhiều Hiệp ước kinh tế mà hai bên đã ký. Và cũng có thể hiểu qua thái độ gần như sợ sệt của CSVN về sự vi phạm lãnh hải VN, hoặc các sự kiện quốc tế VNCS theo y như TC về lập trường và sự kiện thế giới.
Có thể tóm tắt những thỏa ước toàn diện và chiến lược VN-TC. Kể từ khi TC-VN nối lại bang giao (1991), hai bên ký rất nhiều thỏa ước về kinh tế, trong đó có các cam kết kín. VN bị đặt vào cái “tròng”phải tuân theo ý của TC. Không kể các Thỏa ước về an ninh, và chánh trị, các thỏa ước kinh tế gồm đủ mọi lãnh vực kinh tế. Một số thỏa ước quan trọng như: Thỏa ước hợp tác xây dựng “Hành lang kinh tế Việt Trung” (2008), “Thăm dò dầu khí và tài nguyên khác dưới biển” (2011), năm 2013 hai bên ký Thỏa ước Mậu dịch, hạ tầng cơ sở, và năm 2017 khi Tập cận Bình đến dự Hội nghị APEC, VN-TC ký thỏa hiệp về kinh tế trong đó có xây dựng đường xe lửa, kiểm soát quyền lợi lãnh hải. Sau chuyến đi đó của Tập, hai bên ký một loạt 83 thỏa ước chi tiết hóa thực hiện các cam kết. Sau cùng trong lần Tập đến vừa rồi, hai bên có 36 thỏa hiệp gồm nhiều lãnh vực từ chánh trị, an ninh và kinh tế.
Sau khi ký các thỏa ước, nhiều phái đoàn chánh phủ hai bên gặp nhau thường xuyên để lập kế hoạch thực hiện các thỏa ước. Tiến trình thi hành các cam kết các phương án hai bên đã hứa.
Ngoài sự gặp gỡ rất thường xuyên của các lãnh đạo cao cấp hai bên, tình trạng chưa thấy có quốc gia nào gắn bó với siêu cường TC như vậy trong độ chục năm gần đây. Cũng như VN chưa bao giờ đi ngược lại quyết định hay biểu quyết vấn đề quốc tế của TC.

II. Những lãnh vực kinh tế VN bị TC xâm lấn

Sau đây là những lãnh vực kinh tế bị TC ép buộc bị lệ thuộc hay tự CSVN muốn đưa tới sự lệ thuộc đó:

Tài nguyên khoáng sản, dầu mỏ. TC phát triển mạnh, nhu cầu nguyên liệu và khoáng sản nói chung TC phải nhập từ 40-50%. VN dâng cho TC (Công ty quốc doanh Chalco) khai thác hai quặng nhôm Giá rai và Nhân cơ (Trung nguyên) bằng đấu thầu giả (2015) hai gói thầu trị giá 980 triệu mỹ kim trong số dự trù các dự án khoáng sản trong 10 năm lên tới 15 tỷ mỹ kim. TC cho VN vay, và một đấu thầu giả cho TC trúng thầu, trong lúc có những công ty Mỹ, Anh, Úc có trình độ cao hơn công ty TC nhiều. VN phải số quặng nhôm đào được bán hết cho TC với giá rẽ. Lúc đầu chánh quyền VN ước tính mỗi năm thu về ít nhứt 200 triệu đô, nhưng sau khi khai thác (2018), mỗi năm lỗ gần 200 triệu đô. TC và VN còn hợp tác khai thác quặng sắt và sản xuất thép, công ty thép Thái nguyên, đầu tư hàng trăm triệu rồi bỏ đi sau 8 năm.
Quan trọng nhất là dầu khí. Theo khảo sát ước lượng tiềm năng dầu khí, VN có tiềm năng 4,4 ngàn tỷ thùng dầu thô, và 24,7 ngàn tỷ mét khối khí đốt. VN đã cho một số công ty ngoại quốc dò tìm trong nhiều năm qua. Nhưng TC tìm cách ngăn cản, cho là vùng lãnh hải của TC và xua đuổi các giàn khoan ngoại quốc. Một mặt, TC đem giàn khoan Hải dương HQ 981 vào lãnh hải VN ở Trường sa. Chỗ HQ 981 tìm kiếm dầu cách Nam hải 180 dặm, và cách đảo Lý sơn (Quảng ngải) 120 dặm, mà TC cho là vùng của họ. Dù HQ 981 rút đi, nhưng tranh chấp vẫn còn đó. Ngoài ra, số dầu khai thác được trong những năm qua phải bán cho TC, trong đó có việc bán lậu để chia chác, ước lượng tới 20-30% tổng số dầu thô VN khai thác được.
Gần đây VN khám phá có mõ đất hiếm, một loại khoáng sản rất cần thiết cho một số ngành kỹ nghệ quan trọng. VN có thể có trữ lượng đứng hạng nhì sau TC. TC muốn khai thác loại nầy, loại mà TC đã độc quyền từ lâu, nên Tập có đề cập trong lần qua VN kỳ nầy.

Xuất nhập cảng: Thương mại hai chiều, TC là đối tác lớn nhứt của VN. Nhưng VN phải nhập hàng TC quá nhiều thứ với số lượng trị giá gấp 3 lần hàng VN xuất qua TC. VN nhập siêu trong 10 năm qua trung bình 35-40 tỷ mỹ kim/năm, và mỗi năm mỗi tăng thêm. Con số nầy tương đương với số xuất siêu của VN qua Mỹ, tức là ngoại tệ từ Mỹ đưa qua cho Tàu gần hết.
Vài chi tiết, năm 2000 (tỷ mỹ kim) VN xuất $1,536, nhập vào $1,401, nhưng đến 2015 thì VN xuất $16,563, nhưng nhập tới $65,573, VN nhập siêu -$32,891, sang 2020 xuất $48,905 nhập $84,186 nhập siêu -$35,281, và trong 11 tháng 2023 VN xuất $61,4 nhập $140,8, nhập siêu -$69.8, nhập siêu tăng 3 lần từ 2015 tới nay, (Tân hoa xã 12/12/23).
Khi một nền kinh tế có sự chênh lệch nhập siêu quá cao, khi có một số hàng không thiết yếu mà nền kinh tế còn yếu, thì phải xem lại và cố cân bằng cân ngoại thương.

Đầu tư TC (FDI) tại VN: TC đầu tư ở VN tăng một cách nhanh chóng và bất thường trong 10 năm qua. Các lý do TC đầu tư nhiều và nhanh ở VN: Thứ nhứt, Chánh sách TC trong thập niên qua bung ra ngoại quốc, Thứ hai, VN có nhiều điều kiện kinh tế, chánh trị, văn hóa rất thuận lợi cho TC. Thứ ba, Mỹ và nhiều nước Âu châu gia tăng hợp tác kinh tế với VN. Thứ tư, TC bị cấm vận trong chiến tranh lạnh mới đẩy TC phải tìm con đường lách né bám sát sát về kinh tế và chánh trị. Tình hình FDI của TC ở VN được tóm tắt :
Trước năm 2000 FDI của TC không đáng kể, tới 2011 có một số dự án, nhưng còn nhỏ chỉ có $700 triệu mỹ kim, Năm 2018 lên $2.400 triệu, được hạng 9 trong các nước ngoài đầu tư ở VN. Nhưng đến 2019, FDI TC nhảy vọt lên hạng 3 với $7.100 triệu (Yosof Isank Intitute 4/2019), và 2022 FDI của TC lên hạng nhứt với $23.5 triệu. (VN Express Internatioal 9/2023).
Trong vòng 12 năm FDI của TC tăng hơn 7 lần. FDI của TC đủ mọi thứ mọi ngành, từ khai thác dầu và khoáng sản tới tơ sợi, sắt thép, máy móc điện tử, khu nghĩ dưỡng nhà đất, đến tiệm tạp hóa , tiệm thuốc Bắc, tình hình tràn ngập khắp nước.
Nhứt là từ khi VN mở rộng cho Hoa kỳ và Tây Âu, Hiệp định CPTPP, EUFTA, và nhiều nữa..
Vay nợ và thầu công trình: Chương trình này mở rộng từ khi TCB lên làm Chủ tịch TC. Viện trợ kinh tế và thầu thi công các dự án nước ngoài là hai mặt của đại kế hoạch vừa có tính cách kinh tế vừa quân sự vừa ngoại giao, nó có liên hệ tới mục tiêu đại bá TC.
Mục đích chánh là đem tiền có dư thừa nhiều cho các nước nghèo vay phần lớn là xây dựng hạ tầng cơ sở. Khi cho vay, với các điều kiện là phải để TC thầu thực hiện phương án, bán vật liệu và đem đến nhiều công nhân viên người Hoa. Có thể kể ở đây:
Dự án đường sắt Cát Linh – Đông Hà, Công ty Gang thép Thái nguyên, một số xa lộ, phi trường và hải cảng như Vân đồn ở Quảng ninh, các nhà máy nhiệt điện ở Bình thuận và Vĩnh Bình (tổng số vốn đầu tư tới 6 tỷ mỹ kim).
TC cho VN vay khá lớn, từ 2000-2017 VN vay $16.3 tỷ mỹ kim (The Diplomat 2010). Lãi suất rất cao (4%) gấp đôi lãi suất vay của Nhựt, Âu châu. TC đòi thế chấp rất cao. Mục đích không trả nợ nỗi sẽ bị TC quản lý tài sản thế chấp. Các dự án lớn vay nói trên nằm trong đại kế hoạch Belt & Road (BRI) của TC.
Phương án đặc biệt: TC dùng nhiều phương án và kế hoạch lớn để ép VN trên nhiều mặt vừa kinh tế, vừa an ninh, và văn hóa. Xin tóm tắt các phương án:
Hành lang kinh tế Việt Trung, nối TC với các tỉnh miền Bắc VN, qua bốn đường bộ và một đường sắt nối Côn minh (Vân nam) đến Hải phòng. Chi phí chung 4 tỷ (2 tỷ do Ngân hàng Á châu viện trợ). Thực hiện từ 1992 và đã xong. Trong chuyến đi qua VN vừa rồi của TCB ký 36 dự án về an ninh, kinh tế, .. trong đó có nói tới xây dựng đường xe lửa thứ hai, Quảng tây – Hải phòng .
Hiệp ước VN- TC thăm dò dầu khí khu vực lãnh hải VN (2013). VN hợp tác TC tìm kiếm và khai thác dầu khí ở vùng lãnh hải VN và cà vùng lãnh hải mà TC tự cho là của mình, cho nên có xảy ra sư tranh chấp, nhưng tới nay tình trạng chưa giải quyết, vì áp đảo của TC.
Đặc khu hành chánh kinh tế (2017) Vân đồn (Quảng ninh), Vân phong (Phú khánh), và Phú quốc (Kiên giang). Đây là các khu vực đặc biệt nó thích hợp cho sự chiếm đóng của TC về đất đai, về di dân Tàu theo truyền thống, và căn cứ quân sự tương lai trong vùng. Vì sự chống đối mạnh của dân chúng, chánh quyền VN tạm không ban hành luật nầy. Nhưng thực tế, các công ty TC đã qua xây dựng một số hải cảng, phi trường ở Vân đồn dựa theo cam kết trước và theo luật trước hay đôi khi bất cần luật lệ gì.
Phương án Vành đai & Con đường (BRI) 2013, đây là kế hoạch lớn trên khắp thế giới, nó nằm trong tham vọng bá quyền của TCB.
VN còn là thành viên của Hiệp định đa phương qui mô rất lớn của TC thiết lập, Hiệp ước hợp tác thương mại, RCEP (2020), chánh yếu là TC muốn kết hợp và nắm các nước ASEAN.
Trên đây là các phương án hay hợp tác kinh tế giữa TC và VN nó vừa mang mục tiêu kinh tế vừa an ninh. Hầu hết phương án nầy mang lợi cho TC nhiều hơn cho VN.

III. Những thiệt hại nghiêm trọng và vấn nạn tồn tại

VN là một điển hình về mức độ phát triển, về mục tiêu, nhứt là về cách vận hành guồng máy chánh quyền, cho nên sự gian xảo, cách độc ác với dân, cách dối trá với quốc tế, hai nước CS thực hiện sự “hợp tác” cách nhịp nhàng. Nhưng VN, đứng về phương diện quần chúng thì chịu quá nhiều thiệt hại về tinh thần lẫn vật chất. Cũng có phần nào có lợi cho VN, trong đó lợi cho đảng và đảng viên dính líu tới các hoạt động kinh tế TC, nhưng cái lợi cho TC nhiều hơn. Có thể tóm tắt các tai hại lớn cho VN như dưới đây:

1. Thiệt hại về mặt xã hội và chánh trị:

Chủ quyền quốc gia và sự độc lập của dân tộc bị mất hay ít nhứt bị xoáy mòn. Điều nầy là một đau thương lớn nhứt cho dân tộc VN.
Nạn tham nhũng do hai bên cấu kết trầm trọng thêm và không cứu chữa nỗi. Những tham nhũng kinh tế lớn có liên quan với sự vay nợ hay thầu thi công với TC. Hoặc các vụ tham nhũng liên hệ nhà đất, ngân hàng, hầu hết có dính đến người Hoa ở VN hay người Hoa từ ngoài vào.
TC dẫn VN theo con đường phi dân chủ, phi tự do trong kinh tế. Nền “kinh tế thị trường XHCN” không phải là kinh tế tự do thực sự, điều nầy có hại theo Thỏa hiệp kinh tế với Tây phương.
VN và TC không có thực hiện tôn trọng về nhân quyền trong kinh tế mà hai nước có cam kết với quốc tế, trong đó quyền công nhân là quan trọng nhứt.
Trong kinh tế đối ngoại, VN có giả dối trong các Hiệp ước Thương mại và đầu tư quốc tế với Tây âu mà VN rất cần, qua những vụ đấu thầu công khai. Nhưng với TC thì VN và TC không bao giờ đặt ra những vấn đề nầy về mặt Dân chủ và Nhân quyền, TC và VN còn dối quốc tế bằng cách hàng TC chuyển qua VN, dán nhản xuất xứ lại và tái xuất đến Âu Mỹ để tránh thuế cao do bị cấm vận.
Sự gian xảo trong thương mại theo con đường chánh hay theo con đường tiểu ngạch càng ngày càng khủng khiếp, hàng lậu , hàng trốn thuế, trốn kiểm soát, hàng hóa giả, thiệt hại hàng tỷ đô.
Các khu casino TC đã và sẽ, có một số tạm ngưng, đầu tư ở VN là nơi sản sinh đủ loại tệ trạng xã hội. Casino và khu nhà ở cho di dân là kế hoạch lớn cho TC.

2.Thiệt hại về kinh tế trực tiếp:

Tài nguyên kinh tế VN bị khai thác mạnh và thiệt hại với giá rẽ. Nhứt là dầu khí là tài sản quí giá.
TC ép VN nhập cảng quá nhiều hàng hóa, trong đó có nhiều món VN có thể tự làm ra được, với chánh sách giá rẽ, tràn ngập khắp nước, làm kỹ nghệ trong nước bị khó khăn và trình độ phát triển kinh tế khó đạt mức tự lực tự cường.
Kỹ nghệ trong nước bị hai khó khăn là hàng TC mọi thứ quá rẽ và tràn ngập, kể cả trang bị máy móc mua của TC với phẩm chất kém. Phần lớn kỹ nghệ VN chỉ là ráp nối hay kỹ nghệ sơ đẳng chế biến nông hải sản.
Chuyên viên và công nhân đi theo các công ty TC trúng thầu, làm thất nghiệp của VN càng cao
VN phải nhập quá nhiều nguyên liệu cho các ngành rất quan trọng như 80% tơ sợi cho ngành may mặc, ngành giày dép. Sau khi VN ký Thỏa hiệp thương mại CPTPP và EUFTA, hàng may mặc phải sử dụng nguyên liệu VN hay nước thành viên, TC nhào qua lập nhà máy sản xuất tơ sợi.
Nông nghiệp VN bị khó khăn không nhỏ, do chánh sách nhập phân bón thuốc sát trùng từ TC chiếm trên 75% nhu cầu, phải chi hàng tỷ đô cho loại mà VN có thể sản xuất được.
Nông sản VN có thể bị khó khăn vì sự thay đổi bất thường của TC .
Cách thức viện trợ kiểu TC đễ đưa tới cái kẹt cho nước đi vay, nó như “cái bẩy”, không trả nợ nỗi, thì bị chủ nợ siết tài sản thế chấp, đàng nào TC cũng có lợi.
Sau cùng, sư mở rộng du lịch và các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa ồ ạt tới VN định cư lâu dài là chiến thuật tạo ảnh hưởng chánh trị và hỗn tạp văn hóa của chánh sách “cộng đồng người Hoa hải ngoại”.

3.Vấn nạn tồn tại.

Trong ba mươi năm dưới sự áp đảo và chiếm đoạt kinh tế cách bất công. Giữa hai đảng thì là “đồng chí tốt”. Nhưng với hai “dân tộc”, hai “láng giềng” và hai “đối tác”, là không tốt. Sự thiệt hai rất nhiều. Tương lai, hãy còn nhiều khó khăn thiệt hại tồn tại. Có thể là:
Sách lược và con đường phát triển giống nhau. Kinh tế đang xuống và chưa có dấu hiệu chấm dứt, TC phải bung ra ngoài để tìm lợi ích kinh tế bù đắp vào, và bị đính thêm chương trình BRI.
VN còn phải nhập nhiều hàng TC, nhất là máy móc và phân bón, đồ gia dụng cho nên nhập siêu phải tiếp tục tăng lên cao nữa. Đó là bất lợi cho một nước đang phát triển.
Dầu khí sẽ còn là sự tranh chấp quan trọng trong tương lai, khi VN TC chưa giải quyết rõ ràng lãnh hải, nhứt là khi Mỹ có dự định tham gia khai thác khí đốt, hay tiếp tục hơp đồng với Exxon.
Kỹ nghệ VN sẽ còn gặp khó khăn do FDI TC tràn vào đầu tư mọi thứ mọi ngành, lợi dụng ngoại thương VN để tranh bớt hệ quả do cấm vận của Tây phương.
Nông sản bán cho TC sẽ còn những lúc khó khăn về số lượng hay giá cả.
VN còn phải vay nợ TC nhiều cho các dự án lớn xa lộ, đường hỏa xa, cảng. Khi nhờ TC phải gánh nặng trả nợ hay bị điều kiện bất lợi khác, kể cả vấn đề an ninh.

IV. Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”, và trong “thế cân bằng” vùng Á châu Thái bình dương

Nhân kiểm lại và cập nhựt bang giao kinh tế Việt Trung trong tình hình thế giới có diễn biến mới trong bang giao của “tam giác Mỹ Trung Việt”. Ở đây có hai vấn đề liên hệ.

1.Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”

Tuyên cáo chung của hai lãnh đạo VN- TC trong cuộc gặp hai lãnh đạo ngày 12-12-23, có đề cập “tiêu đề ngoại giao” trong một nhóm hợp tác với TC, đó là “Cộng đồng chung vận mạng” (Community of common destiny). Tuyên cáo nầy viết bằng ba thứ tiếng: Anh, Trung và Việt. Báo ngoại quốc xử dụng bản tiếng Anh có câu “Community of destiny” hay “Community of common destiny”, báo Trung hoa thì dùng chữ “ Công đồng chung vận mạng” (Community of common destiny) , còn báo chí VN thì nói “Cộng đồng chia sẻ tương lai” (Community of shared future” . Như vậy có sự khác biệt phần bản tiếng Việt, mà theo tin báo ngoại quốc thì Nguyễn Phú Trọng có “endorsed” trong bản tiếng Anh.
Theo như trên thì “tư cách thành viên” của VNCS với một số thanh viên của loại Cộng đồng chặc chẽ của TC. Thực sự các tên Cộng đồng nói trên hãy mơ hồ, quan trọng là những chi tiết cam kết giữa hai bên, mà thường với CS đó là vấn đề “mật”.
Dù giải thích cách nào, đối với dân chúng Việt nam, gần như không quan tâm. Đó chỉ cho những người ngoài cuộc.
Các tiêu đề hay thuật ngữ chánh trị kiểu Tàu (từ xưa tới nay các triết gia chánh trị Tàu thường ưa dùng chữ rất kêu, nhưng thường là rỗng) đã đươc đặt ra và xử dụng trong hơn 10 năm qua, trong nhiều lần tuyên bố hay diễn từ của Tập cận Bình .
Trước hết chữ “common destiny” được nói ra đầu tiên từ Chủ tịch Hồ cẩm Đào (2012). Sau đó Tập cận Bình lập lại nhiều lần trong các buổi họp ngoại giao quốc tế, kể cả những lần ông gặp NPTrọng (2017), và ông Hunsen của Cambodia và lãnh tụ Lào.
TCB đưa ra ý niệm “Cộng đồng chung vận mạng” là từ khi ông đưa ra mô hình và sách lược ngoại giao mới là: “XHCN trong thời đại mới”, và “mộng bá quyền toàn cầu”, hay ý kiến về “Trật tự thế giới mới”. Như vậy, lúc đó TCB đã định hình thế giới, phân ra các cực quyền lực, hay các khối mà bước đầu tiên TC muốn thay đổi “độc bá quyền” thế giới do Mỹ lãnh đạo từ sau thế chiến II.
Năm 2013, TCB dùng câu”common destiny” khi nói chuyện ở Viện bang giao quốc tế của Nga, và một lần nữa trong buổi họp với các nước Trung Á (2015), Tập cũng dùng “common destiny” trong thỏa ước chung với Cambodia và Lào trước kia.
Sau đó vài năm thì Tập cận Bình dùng “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trong những buổi nói chuyện với các Cộng đồng tương đối mở rộng hơn. Trong đó có tại đại Hội đồng Liên Hiệp quốc 2017 (Asian Journal of Middle Eastern 2017), Tập nói: “mọi quốc gia trên thế giới cần hợp tác xây dựng một tương lai chung cho nhân loại”, ông dùng tiêu đề “Cộng đồng chia sẻ tương lai của nhân loại” (Community of shared future for mankind).
Qua chút diễn đạt trên, chúng ta có thể hiểu TC muốn kết hợp và tạo đồng minh qua hai mức gắn bó. Một là loại Cộng đồng có vận mạng chung, nó chặc chẽ, sống chết có nhau, có thể như một “khối”, có thể hiểu đó là một “Liên minh” theo quan điểm Tây phương. Cái Cộng đồng thứ hai (chia sẻ tương lai) rộng lớn hơn, lỏng lẽo, có nhiều khác biệt nhưng cũng có một số mục tiêu chung với TC. Thành viên của Cộng đồng nầy đa số là các nước đang phát triển mà TC nhắm tới và lôi kéo từ hàng chục năm nay.

Thực tế, Cộng đồng thế giới theo ý niệm hay theo kiểu TC, có thể tóm tắt thành 4 loại, hay 4 mức độ về thành viên liên hệ dưới trướng TC:
A.”Cộng đồng của nước Trung hoa”. Gồm nước Trung hoa vĩ đại và các “khu vực tự trị” không có chủ quyền hoàn toàn như Tân cương, Tây tạng. Và các cộng đồng nhỏ ở hải ngoại trên thế giới, có liên kết với tổ quốc chánh là Trung hoa lục địa, đó là Cộng dồng người Hoa kiều ở hải ngoại, dù loại cộng đồngnhỏ, nhưng có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế, văn hóa và tình báo. Chúng ta biết khá nhiều các cộng đồng Hoa kiều hải ngoại rất mạnh nó chẳng những nắm rất lớn kinh tế mà cả chánh trị trong nhiều nước, đặc biệt ở Á châu như Cambodia, Lào, Thái lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Miền Nam Việt Nam trước 1975, và cả nước VN hiện nay. Dĩ nhiên không phải người Hoa nào cũng theo Trung hoa CS. Nhưng về kinh tế, những người Hoa hải ngoại khá hữu ích cho Trung hoa lục đia, có thể gọi là “cộng đồng A+”
B.”Cộng đồng chung vận mạng”, như nói ở trên, đó là tập hợp của một số nước đàn em hay bạn bè chí cốt. Có cùng mục tiêu, cùng con đường, sống chết có nhau.
C.”Cộng đồng chia sẻ tương lai”. Sự kết hợp lỏng lẽo, có một số mục tiêu chung, và một số quyền lợi chung. TC vận dụng trong các nước đang phát triển, một nhóm quốc gia rất đông và khá phức tạp “Cộng đồng C”. Trong loại Cộng đồng này có gồm một số cộng đồng nhỏ, nghĩa là số nước tập hợp do TC có vai trò quan trọng nhứt. Có thể gọi “Cộng đồng C+”. Nhóm nhỏ nhưng mạnh, có thể kể Liên minh TC, Nga và Iran . Nhóm lớn nói trên thì TC kết hơp trước hết là viện trợ, là đại dự án Belt & Road (150 thành viên).Thực sự “Cộng đồng chia sẻ tránh nhiệm” còn nhiều bất đồng và khác biệt, thứ hai là những nước nầy còn bị dao động bởi sự vận động lôi kéo của Tây phương trong những năm gần đây.
D.”Cộng đồng toàn thế giới”. Đó là tất cả mọi quốc gia trên quả địa cầu nầy, không phân biệt lớn nhỏ, không phân biệt mức độ kinh tế hay thể chế chánh trị. Cái nầy thì hãy còn rất mơ hồ. Nó chút gì gần ý niệm của triết lý Trung hoa xưa, Khổng Tử thường dùng từ “thiên hạ” , và thêm một chút triết lý Các Mác, ông nầy thường nói là “Global society” hay “Human society” để chỉ cái gọi là “Thế giới đại đồng” của CS.
Vậy VN ở trong loại Cộng đồng nào do TC vẽ ra và lãnh đạo ? VN hiện tại có thể đính vào các công đồng kiểu TC hay “made in China” nói ở trên.
Loại A+, Vì Hoa kiều ở VN nắm các ngành kinh tế trọng yếu như nhà đất, trong kỹ nghệ chế biến, trong các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa lục địa , hành lang kinh tế Việt Trung. Hoa kiều ở VN còn là đường dây tình báo quan trọng.
Loại B, VN chắc chắn ở trong cộng đồng loại nầy của TC về thực tế , “Chung vận mạng”, dù bề ngoài chánh quyền hay báo chí VNCS có đồng ý hay không .
Và VN cũng ở trong cộng đồng loại C (Chia sẻ tương lai) về nguyên tắc trong một số trường hợp, mà VNCS muốn nói với dân và quốc tế rằng VN không bị TC kềm kẹp.
Với mức độ lệ thuộc chặc chẽ tai hại như vậy, không phải chỉ VN mà tất cả các nước bị TC kềm kẹp như một loại “thực dân đỏ”, quốc gia nào cũng muốn thoát Trung hay giảm bớt lệ thuộc TC.
Trong mối tương quan Việt nam- TC hiện nay, khi nói đến “thoát Trung “ phải biết ai muốn thoát Trung, CSVN hay người dân Việt nam? Người dân thì đã nhiều lần tỏ thái độ và mong ước này. Chánh quyền phải không bỏ tù dân khi dân phản đối sự áp bức thô bạo từ TC.
Còn CSVN không muốn và không thể, vì vấn đề sinh tồn và quyền lợi của đảng CS. Hơn nữa TC đâu có muốn để VN thoát ra khỏi cái gọng kềm, nhứt là trong Chiến tranh lạnh mới hiện nay.

2.Vị thế VN trong “thế cân bằng Mỹ Trung”.

Việt Nam trong thế cân bằng Mỹ-Trung: Ngoại giao kiểu “Cây Tre”?

Trong mấy lần trước, tôi có nói qua cái thế kẹt của VN trong sự xung đột Mỹ Trung, nhứt là tại vùng Á châu Thái bình dương.Tình trạng càng ngày càng căng thêm. Trong phần cuối của bài này, tôi xin ít bổ xung và cập nhựt với một vài diễn biến mới trong năm qua.
Về chánh tri và ngoại giao, Cả Mỹ và TC đều đến sát VN, qua việc TT Biden và TCB đến VN . Nhưng Mỹ thì có vẻ tới nhiều hơn vì VN-Hoa kỳ nâng cấp ngoại giao lên Chiến lươc toàn diện. Lại thêm Nhật, đồng minh với Mỹ, cũng được lên cấp ngoại giao cao nhứt này. TCB qua VN rà soát và xác minh VN TC phải nắm chặt tay hơn về các lãnh vực, nhứt là về kinh tế và an ninh.
Về kinh tế, Mỹ hứa sẽ có những món đầu tư lớn cho VN trong khí đốt, đất hiếm, đường xe lửa, môi trường, kỹ nghệ kỹ thuật cao (Quan hệ Việt Mỹ là một trong bang giao quan trong nhứt, (VOA, 5/2023) .. Mỹ hứa sẽ mang đến hàng chục tỷ cho tương lai gần. Công ty Mỹ ở TC chuyển sang VN nhiều hơn, nhứt là công nghệ chip. Mặt khác, để đối trọng lại đại kế hoạch Belt & Road của TC, Hoa kỳ và khối G7 tung ra $1000 tỷ cho các nước đang mở mang vay xây dựng hạ tầng cơ sở. Còn TC thì mở rộng đầu tư tại VN rất nhanh trong hai năm qua, gia tăng ngoại thương .. như trình bày phần trước.
Năm qua, có sự bất lợi cho chính TC về kinh tế do khủng hoảng địa ốc và ngân hàng. Tình trạng nầy làm cho TC giảm bớt đầu tư và cho vay cho các nước Đông nam Á, trong đó có VN.
Về an ninh và quân sự, đối với Mỹ vùng Á châu Thái bình dương có mức quan trọng hàng đầu. TC đã ảnh hưởng khá nhiều ở đây, Mỹ và đồng minh không có cách nào khác là phải bao vây và đụng độ với TC.
Tình hình có thể trở thành nóng vì vấn đề Đài loan, nên hai năm qua, Mỹ và đồng minh kết hợp lớn hơn và chặt hơn bao giờ hết kể từ sau Chiến tranh lạnh I. Mỹ đã liên minh được hầu hết với các đồng minh quan trọng như Nhật, Úc, Anh, Tân tây Lan, Ấn độ, Singapore. Cũng cố Liên minh Mỹ, Nhật và Nam hàn. Đặc biệt sự quay lại của Phi luật tân, và sự đi gần thêm về an ninh của Mỹ và VN.
Như vậy nhìn chung trong bước mới nầy: VN đi nhiều với Mỹ hơn. Nhưng từ đầu tới nay thì VNCS vẫn phải lệ thuộc mạnh với TC về phần hồn lẫn xác hơn với Mỹ. Và cách thức VN tiếp xúc hay làm việc với lãnh đạo TC, và cả thái độ ngoại giao của VN với TC trên bình diện quốc tế, chúng có thể thấy phần nào CSVN có thái độ “đu giây” giữa Mỹ và TC.
Nhưng dù có vài điều mới, nhưng cách giao dịch giữa TC và Mỹ, chưa có thay đổi tình trạng cũ bao nhiêu, chánh yếu là vì quyền lợi kinh tế của hai bên và kinh tế thế giới mà chưa có đụng độ mạnh hơn, nhưng hai bên tiếp tục vận động kết hợp bạn bè, đồng minh giống như chuẩn bị cho một trật tự thế giới mới, nhưng lần nầy có nhiều cái khác, so với thời Chiến tranh lạnh I, về bạn và thù, về đối tác và đối nghịch, hai lằn ranh địa lý và địa chánh trị cũng lộn xộn, không minh bạch, không nhứt quán. Như vậy, CSVN vẫn phải kẹt với TC rất nhiều, dù trong cái thế mềm dẽo, linh động nào. Còn VN với Mỹ chỉ có lẽ là kinh tế, hay đúng hơn VN lợi dụng thời cơ khi Mỹ và Âu châu và một số nước giàu khác chỉ về kinh tế, và không phải là “đồng minh” hay “liên minh”. Cái sách lược ngoại giao mà nay VNCS gọi là “ngoại giao cây tre” là hợp lý trong hoàn cảnh hiện nay. Tình hình thế giới còn thay đổi và phức tạp.
Lịch sử VN cũng như lịch sử thế giới cho chúng ta nhiều bài học. Cái mối “bang giao nghiệt ngã” với TC, và cái gọi là “tình bằng hữu” với Hoa kỳ, thực tế có những lúc gặp đau thương. Khi nào dân tộc và đảng cầm quyền có cùng đi chung một con đường, thì lúc đó VN mới hy vọng có những buổi bình minh lâu dài.

Nguyễn Bá Lộc

Cali, January/ 01/2024

Views: 39

Có Quê Hương Trong Giọng Nói Người Mình

Nguyễn Quang Dũng

Cửa Tùng – Vĩnh Linh, Quảng Trị

Tôi rời quê nhà, vượt biển với vợ con tìm tự do, năm 1981. Lúc đó tôi 27 tuổi. Đến nay như vậy đã hơn 43 năm xa xứ. Và Tết vẫn là khoảng thời gian nhắc nhớ nhiều nhất trong tôi về quê hương khốn khó Việt Nam.

Năm đầu tiên xa nhà, tôi ăn Tết ở trại tỵ nạn Bataan.
Tối giao thừa, tôi nghe bà con trong trại tỵ nạn xách nồi niêu, soong chảo, thùng thiếc lên mái nhà khua gõ ầm ĩ… thay cho tiếng pháo mừng xuân. Trong bóng đêm của trại tỵ nạn không có khung cảnh quen thuộc, ấm cúng mà trang nghiêm, của Ba tôi thắp đèn cầy, đốt nén nhang trên bàn thờ tổ tiên đã chưng đầy hoa quả, khấn vái cầu nguyện cho một năm mới bình yên, tôi bỗng thấy nhớ nhà vô hạn.
Nhớ nhà và buồn muốn khóc.

Tới Mỹ năm 1982, vất vả với những lo toan cho đời sống mới trước mặt, tất bật với ngày đêm và công việc mưu sinh, nhiều khi quên bẵng đi chuyện nhớ nhà, thì vẫn là ngày Tết nhắc nhớ trong tôi đến Ông-Bà-Cha-Mẹ-Anh-Em. Vậy mới biết những gì tôi lớn-lên-và-sống-với từ thuở nhỏ ở quê nhà đã ăn sâu trong tiềm thức tôi.

Tôi và vợ tôi lui hui dựng lại cái bàn thờ Tổ Tiên trong căn nhà mình ở Mỹ theo trí nhớ.
Tượng Phật Bà Quan Thế Âm thì bọn tôi xin được từ lúc đi lau chùi nhà bếp và cắt cỏ ở nhà một Ông Tướng người Mỹ từng chỉ huy lực lượng quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Bức tượng Phật Bà bằng đá Non Nước Đà Nẵng rất đẹp nhưng bị đặt nằm dưới đất trong một góc vườn của vợ chồng ông tướng. Với mớ tiếng Anh rất còn lơ mơ của tôi lúc đó, tôi hỏi bà Tướng là tại sao bà lại để lăn lóc tượng Phật Bà như thế này? Bà ấy rất ngạc nhiên, nhưng cuối cùng thì cũng hiểu ra và giải thích với tôi là bà ấy không hiểu về Phật giáo và không biết bức tượng là một biểu tượng thiêng liêng đối với chúng tôi như vậy. Và bà bèn tặng vợ chồng tôi tượng ấy. Tôi không bao giờ quên ông bà Tướng người Mỹ rất tốt bụng này.
Những thứ còn lại là chân đèn cầy, bình thắp hương, bình cắm hoa, dĩa chưng hoa quả và hình ảnh những người thân đã khuất. Vậy là tạm đủ cho Bàn Thờ Ông Bà, theo những gì bọn tôi còn nhớ.

Giao Thừa những năm đó, khoảng thập niên 90, chỉ có tôi và vợ tôi loay hoay chưng hoa quả nhang đèn trên bàn thờ Tổ Tiên. Đúng giao thừa, tôi đốt nén nhang khấn vái Ông Bà – cũng giống như Ba tôi vẫn khấn vái như vậy vào Lễ Giao Thừa.
Trong giây phút cuối năm ấy, trước bàn thờ Tổ Tiên, hình như tôi vẫn muốn được trở về, sống lại cái khung cảnh quay quần với Ba Má anh em tôi trong phút Giao Thừa.
Tôi vẫn thấy nhớ nhà và nghèn nghẹn muốn khóc.

Ở những khoảnh khắc chuyển giao của cũ và mới, của kết thúc và bắt đầu, của năm cũ và năm mới tôi nhận ra quê hương không phải là những gì trừu tượng, xa vời trong trí tưởng mà đó là những tình cảm rất rõ nét tự lúc nào đã bám chặt trong tôi. Là Ba tôi. Là Má tôi. Là Anh Em tôi. Là Nơi Chốn tôi sinh ra và lớn lên.

Dần dà, tôi tiếp xúc và tham gia sinh hoạt với những người đồng hương trong vùng tôi ở và quen dần với những cái tết xa quê.
Sinh sống giữa nơi chốn của người Mỹ và những người nói tiếng Mỹ, tôi vẫn khựng lại khi nghe tiếng người đàn ông hay đàn bà la rầy con bằng tiếng Việt, tiếng người mình, ở những siêu thị hay ở những nơi mà tôi không nghĩ là nghe được tiếng Việt.
Thì ra tự trong giọng nói người Việt mình tôi nhận ra trong tôi một sợi dây liền lạc, một nỗi gắn bó với quê nhà giờ đã xa tít nửa vòng trái đất.

Và tôi cũng nhận ra ở cộng đồng người Việt ở đây có rất nhiều Hội Ái Hữu mang tên những vùng đất ở Việt Nam. Hội Gò Công. Hội Long Xuyên. Hội Nha Trang. Hội Huế. Hội Quảng Đà. Hội Đà Lạt. Hội Quảng Trị….Gần gũi và thân tình nảy sinh một cách tự nhiên khi người mình gặp nhau, nghe lại được những giọng nói rất đặc thù Việt Nam – rất “Quảng Nam”, rất “Huế”, rất “Sàigòn”, rất “Nha Trang”, rất “Quảng Trị”…

Ba Má tôi gốc Quảng Trị – chánh quán làng An Du Nam, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Trước 1975, An Du Nam nằm bên kia vĩ tuyến 17, bên kia sông Bến Hải, thuộc miền Bắc.
Ba tôi, một công chức trung cấp của chính quyền miền Nam, trôi nổi theo vận nước từ Quảng Trị xuôi về miệt miền Nam. Cư sở cuối cùng của ông là Sài Gòn. Tôi dĩ nhiên cũng đi theo ông. Từ Phan Rang ra Nha Trang, rồi Kontum, về lại Nha Trang, và trước 1972, tới ở Sàigòn cho đến ngày mất nước. Vì di chuyển theo Ba tôi đó đây như vậy nên tôi dường như không gắn bó với vùng đất nào của quê nhà.
Nhưng có một điều theo tôi suốt từ nhỏ tới lớn, không rời: Đó là giọng nói Quảng Trị của Ba Má tôi. Tôi nghe và rất quen thuộc giọng Quảng Trị của Ba Má tôi từ nhỏ, nhưng không nói được giọng Quảng Trị, có lẽ là do tôi sinh tại Phan Rang và lớn lên trong Nam.
Tôi gặp lại các anh Lê Quyền, Phan Khâm, Nguyễn Bồng trong Hội Quảng Trị vùng Hoa Thịnh Đốn trong các sinh hoạt cộng đồng người Việt vùng Thủ Đô. Tôi được nghe lại giọng nói quê mình.
Giọng nói của các anh giống như giọng nói của Ba tôi. Rất Quảng Trị. Không lầm lẫn đâu được. Đó là giọng nói của nằng nặng, triũ buồn trong âm hưởng. Tôi nhớ Má tôi nói với tôi là – “ngoài quê mình sống cực lắm con ơi.” Có phải chăng là cuộc sống kham khổ trên mảnh đất Quảng Trị quê nhà làm giọng nói người Quảng Trị mình cũng bị trĩu nặng vì những lo toan?

Tết lại gần tới, khi viết những dòng này, tôi lại thấy nhớ quê nhà. Và nhớ hình ảnh Ba tôi lui hui khấn vái trước bàn thờ tổ tiên đêm Giao Thừa.
Ba tôi mất tháng 8 năm 2010, tại Sàigòn.

Tôi đang rất nhớ giọng nói Quảng Trị của Ba tôi. Hình như quê nhà đang vương vương trong ánh mắt.

Tôi lại thấy lòng buồn. Muốn khóc.

Nguyễn Quang Dũng

VA, những ngày gần Tết

Views: 82

Hoạn Thư Tập Sự

Phạm Thành Châu

Ghen đến trình độ "thượng thừa" như người đàn bà này: Từng bước đều cao ngạo và đánh thẳng mục tiêu, người đời sau đọc xong chỉ biết "tấm tắc" - Ảnh 1.Tứ nghiện thuốc lá. Bỏ được ít lâu, lại hút tiếp. Lan bực lắm, thường bảo.

– Anh chỉ được chọn một thôi, hoặc em hoặc thuốc lá.

Tứ thề thốt, coi bộ hăng hái lắm, được ít lâu, sau bữa ăn, Tứ biến đâu mất. Lan mở cửa đi tìm, thấy Tứ ngồi trước thềm phì phà điếu thuốc. Tứ hít một hơi thuốc, thở khói ra, ngón trỏ gõ gõ trên điếu thuốc, mắt đăm chiêu mơ màng. Lan đâm bực.

– Chà sướng quá há! Trốn ra ngoài hút thuốc. Ôm gói thuốc đi luôn đi, đừng vô nhà nữa nghe!

Tứ nhe răng cười.

– Anh sẽ súc miệng, đánh răng cho hết hôi. Em mà nghiện thuốc, em mới thấy được cái thú hút thuốc. Sau bữa ăn mà không có điếu thuốc thì cuộc đời mất hết một nửa thú vị.

– Thôi, đủ rồi, có vứt điếu thuốc đi không, hay là tôi khóa cửa lại?

Tứ hít một hơi dài rồi mới chịu dí dép lên điếu thuốc. Chuyện Lan nổi cơn ghen sau đây cũng vì Tứ ra ngoài sân hút thuốc. Một tối thứ bảy, vợ chồng đi dự đám cưới của một người đồng hương tại một nhà hàng. Theo truyền thống trong lúc thực khách thưởng thức các món ăn thì cô dâu, chú rễ và phái đoàn hai họ đến từng bàn tiệc ngỏ lời cám ơn tấm thạnh tình đã bỏ chút thì giờ quí báu… Rồi đại diện bàn tiệc sẽ đứng lên đáp từ và trao những phong bì tiền lì xì. Khi sắp đến bàn của vợ chồng Lan thì Tứ bỏ ra ngoài hút thuốc, Lan dặn với theo.

– Lẹ lên nghe, sắp đến bàn mình rồi.

Lan muốn khi cô dâu, chú rễ đứng chụp hình kỷ niệm phải có Tứ ngồi bên cạnh. Vậy mà chờ mãi, cô dâu chú rễ đã qua bàn khác vẫn không thấy Tứ vào. Lan bực mình đứng dậy đi tìm. Vừa bước ra khỏi cửa nhà hàng, Lan bỗng khựng lại nép người vào tường: Tứ đang nói chuyện với một cô gái trước một cửa tiệm bên cạnh. Tuy không xa lắm, nhưng Lan không nhìn rõ được cô gái vì cả hai đứng khuất ánh đèn dưới mái hiên. Lan thấy họ coi bộ vui vẻ, thân thiết lắm. Cô gái nói gì đó, Tứ đáp lại, rồi cả hai cười phá lên, cô ta còn đập tay vào người Tứ nữa. Lan như chết sững, tim đập thình thịch, người run lên. Cô muốn ra chỗ hai người, nhưng không hiểu sao chân tay không cử động được. Lối đập tay vào người Tứ của cô gái và cách nói chuyện tự nhiên vui vẻ đó chứng tỏ hai người quen biết, thân thương nhau coi bộ hơn cả Lan với Tứ nữa. Cô gái mở bóp, đưa Tứ tờ giấy nhỏ, Tứ nhanh nhẹn xé đôi tờ giấy viết gì đấy và trả lại cô ta nửa tờ, nửa kia bỏ vào bóp. Rồi Tứ ném điếu thuốc xuống đất và dí nát nó. Lan hiểu rằng Tứ sắp quay vào, cô vội vã trở vào nhà hàng, cố giữ vẻ bình tĩnh. Chờ một lúc, vẫn không thấy Tứ đâu, cô lại định ra tìm thì thấy Tứ đang cụng ly với mấy người bạn ở bàn phía xa kia. Cô muốn gọi Tứ để hỏi cho ra lẽ nhưng chợt nghĩ lại làm gì Tứ cũng bảo đó là người bạn cùng sở hay gì gì đó và chắc chắn sẽ có một câu: Đừng nghĩ bậy bạ, người ta có chồng rồi, anh chỉ là người quen thôi. Nếu nghe thế chắc chắn Lan sẽ nổi giận ngay: Quen, quen mà vỗ vai, vỗ vế, giống như mấy con đĩ. Lan biết hễ nổi nóng lên là cô không chịu giữ ý gì cả, và như thế mọi người trong tiệc cưới sẽ chú ý đến ngay. Lan nghĩ: Ai lại nổi ghen trước mặt người khác, người ta đồn đãi nhau xấu hổ chết, người bản lĩnh phải che dấu ý nghĩ. Mà nếu hắn trả lời như thế thì mình cũng chịu, giỏi lắm lầu bầu mấy câu, rồi hắn nịnh nịnh, cười cười là mình quên ngay như mấy lần trước, mà lại chẳng khác gì báo động tụi hắn sẽ dè dặt kín đáo hơn. Cho nên Lan quyết định làm như không biết gì hết. Lúc Tứ trở về chỗ ngồi, nghe nồng nặc mùi rượu, cô lại nghĩ Chà, uống mừng tái ngộ cố nhân đây! Lan thấy tức đến nghẹt thở nhưng cố nén giận, đứng lên.

– Say quá rồi! Thôi, về sớm!

Tứ lè nhè gì đấy, cô không thèm nghe, xin lỗi những người cùng bàn. Cô biết Tứ say, nếu lái xe mà cảnh sát hỏi thăm sức khỏe thì rắc rối to ngay, nhưng cô làm thinh, để mặc. Trước giờ đâu có uống đến say tí bỉ như thế, phải có lý do, đó là gặp con nhỏ kia, vui quá nên tự thưởng cho mình mấy ly chứ gì, lăng nhăng đi, gặp chuyện thì ráng chịu, đáng kiếp! Lúc về nhà, đáng lẽ như thói quen Lan phải ôm chồng mới ngủ được, lần nầy cô nằm xây mặt vào sát vách yên lặng. Tứ kéo tay, cô cưỡng lại, cô muốn nói mấy câu cho hả giận nhưng nhớ lại là cần giữ bí mật nên chỉ bảo.

– Hôi quá, tránh ra!

Tứ thấy bất thường nên hỏi.

– Có chuyện gì vậy?

– Đau đầu quá. Để tôi yên!

Thực sự Lan muốn bể cái đầu khi tưởng tượng lại cảnh lúc nãy, tưởng tượng sau nầy “hai đứa” lén lút hò hẹn, đưa nhau đi nhà hàng, cinê, có khi đi phòng ngủ nữa. Lan chỉ muốn hét to lên “Đồ phản bội!”, muốn đấm, muốn ngắt véo Tứ cho hả giận nhưng vì mưu kế nên đành yên lặng. Cô cứ thao thức mãi, trong khi Tứ đã ngáy khò khò, Lan giận mình dại, tại sao không đến ngay lúc đó cho con nhỏ kia biết điều mà buông tha Tứ, hay ít ra cô sẽ làm bộ vui vẻ hỏi tên, hỏi chỗ ở, sở làm của “con kia” để có thể theo dõi cho chính xác. Bây giờ thì mù tịt, hỏi hắn cũng vô ích, hắn sẽ nói láo ngay. À, hai đứa đã cho nhau số điện thoại rồi, như thế số điện thoại con nhỏ kia đang nằm trong bóp Tứ. Quần dài lúc nãy Tứ treo trong tủ áo quần, Lan quyết định sẽ lấy cái bóp trong túi quần Tứ, vào phòng vệ sinh, khóa cửa lại, mặc sức lục lọi. Nghĩ thế nên cô chồm dậy, định bước xuống giường, nhưng kẹt là phải làm sao bò qua người Tứ mà không đụng đến hắn. Tứ rất tỉnh ngủ, chỉ cần đụng nhẹ là hắn mở mắt ra ngay. Hai đầu giường thì kẹt cái vách và cái bàn. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng, Tứ vẫn ngáy đều, cô nhẹ nhàng lần xuống phía chân, cố chống hai tay, hai chân thật cao sao cho không đụng đến người Tứ, nhưng chợt Tứ ngừng ngáy, Lan thất vọng, có lẽ tà áo của cô đụng vào người Tứ. Đúng ra người say rượu thường ngủ li bì, giờ nầy có lẽ rượu không còn tác dụng nữa. Lan lại giận mình, biết vậy, lúc tối thay vì đi ngủ Lan làm bộ làm gì đấy để khỏi lên giường, hễ nghe Tứ ngáy là lấy bóp Tứ ra kiểm tra. Giờ thì đã lỡ rồi, không thể đến mở tủ được, sợ Tứ biết, cô đành đi xuống bếp, mở tủ lạnh lấy nước uống. Lan làm thong thả cố kéo dài thời gian. Một lúc sau, cô nhẹ nhàng về phòng. Tứ đang ngáy, bỗng trở mình và không ngáy nữa, Lan đoán Tứ vẫn ngủ say, cô kéo nhẹ cánh cửa tủ. Bỗng cô nghĩ Khi mình lấy bóp của hắn và tìm thấy số điện thoại hoặc địa chỉ con kia, mình phải chép ra và để lại chỗ cũ mới không bị nghi ngờ, vậy phải tìm một cây bút và một mãnh giấy. Nghĩ vậy, Lan tiến về phía chiếc bàn ở góc phòng. Cô nhớ có một cây bút để cạnh TV, nhưng ánh đèn đường chiếu qua cửa sổ không đủ sáng để cô phân biệt các vật trên bàn, Lan đành dùng tay mò mẫm, bỗng tay cô đụng cái ly, ngã nghe cạch một tiếng, cô giật mình đứng yên, sợ Tứ tỉnh dậy. Nhưng Tứ đã hỏi giọng tỉnh rụi.

– Làm gì mà đứng lù lù như ma vậy?

Lan tức quá trả lời.

– Kệ chó tui!

Rồi cô vùng vằng leo lên giường, tiện chân cô đạp cho Tứ một đạp vào lưng nghe đánh hự một tiếng.

– Làm gì zdậy? – Ai vẽ! (Ai bảo)

– Vẽ gì?

Lan định nói “Ai vẽ theo con đĩ ngựa kia chi!” nhưng cô giữ kịp miệng. Nói vậy thì lộ bí mật hết còn gì!

– Ngủ đi. Cứ lục đục hoài không cho người ta ngủ!

Thì ra hình như Tứ biết tất cả những gì Lan làm từ nãy giờ. May mà cô chưa lấy được cái bóp nếu không Tứ sẽ biết được, chúng nó sẽ kín đáo hơn, khó theo dõi. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn bốn giờ, vậy là gần như trắng đêm cô không ngủ với bao ý nghĩ ngổn ngang. Lan phân vân không biết những người có chồng ngoại tình xử trí ra sao? Cô nhớ lúc nhỏ đọc báo, ở Sài Gòn có người tạt acít tình nhân của chồng. Cô tưởng tượng lúc bắt gặp hai đứa trong phòng ngủ, cô dám tạt acít cả hai lắm, nhưng ở Mỹ acít đâu dễ tìm. Hay là khi tìm được con kia, Lan sẽ nhẹ nhàng bảo Biết chuyện cô Cẩm Nhung, (bị tạt acit) báo có đăng ở Sài Gòn trước đây không? Nếu nó không biết tất sẽ hỏi thằng tình nhân (là Tứ). Lúc đó Tứ sẽ về tìm cách dọa nạt cho Lan không làm điều đó, thế là cô sẽ bảo Tứ Hỏi bà Phương bên Vancouver Canada đã làm gì biết không? Và Tứ sẽ nhớ lại chuyện báo đăng một người đàn bà Việt Nam ở Canada cắt chim chồng bỏ vô cầu tiêu giật nước cho trôi mất tiêu, không hy vọng chắp vá gì được cả. Như thế Lan đã cảnh cáo cả hai. Nghĩ vậy Lan hơi yên tâm, nhưng lại tự nhủ, phải làm gấp, cho hai đứa xa nhau sớm, chứ để chúng hẹn hò, ôm nhau rồi thì khó mà dứt ra. Lối cho nhau số điện thoại như thế chứng tỏ chúng nó đã lâu không gặp nhau. Tình cũ không rũ cũng đến, lúc tái ngộ sẽ mùi dữ! Nghĩ đến đó trong đầu Lan lại hiện ra cảnh Tứ ôm con kia hôn hít như đã từng ôm cô, Lan càng sôi gan, tưởng như chuyện đó đã xảy ra rồi, cô lại đạp cho Tứ một cái thật mạnh, Tứ lại hự một tiếng, la lên. – Làm gì zdậy? Điên hả?! Lần nầy Lan không thèm trả lời nhưng thấy cơn giận tạm nguôi, cô trùm mền ngủ. Đến khi nghe đồng hồ reo Lan mới tỉnh dậy, thấy đã mười giờ sáng. Quái lạ, lúc nào cô cũng để bảy giờ, dậy sửa soạn ăn uống cho chồng con rồi đi làm là vừa, sao đồng hồ lại reo lúc mười giờ?. Đúng rồi, Tứ sợ cô dậy cùng lúc có thể sẽ theo dõi hắn, nên vặn cho đồng hồ reo trễ. Sáng nay làm gì hắn cũng hẹn với con kia đi ăn điểm tâm đây, có thể Tứ dậy lúc bảy giờ rủ nhau (ăn, ngủ) cho đã rồi tới sở làm cũng còn kịp chán. Lan thấy buồn đến rã rời người. Vậy là Tứ đã phản bội cô thật rồi. Tự nhiên nước mắt trào ra, và cô ngồi khóc. Lan nghĩ đến mấy câu thường hát ru con, trước kia thấy bình thường, bây giờ nghe thảm não quá. Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh ham vợ bé bỏ bè con thơ. Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Nghĩ đến mấy câu ru em đó, Lan tủi thân khóc nức nở. Khóc chán, cô điện thoại vào sở làm báo đi làm trễ vì bịnh phải đi bác sĩ. Công việc của Lan làm tại sở là xếp lại một số hồ sơ cũ, cô làm giờ nào, ngày nào cũng không ai quan tâm, có khi báo nghỉ vài ba hôm cũng không cần người thay thế và cũng chẳng trở ngại gì cho ai cả. Lan đi rửa mặt, cô soi gương thấy mắt mình mọng và đỏ lên. Bỗng cô chú ý đến nhan sắc của mình và tự hỏi có phải con kia đẹp hơn cô hay nó có gì đặc biệt mà quyến rũ được chồng mình? Hay là Tứ bị nó bỏ bùa?! Kiểu nầy thì tán gia bại sản ngay! Cô hoảng kinh với ý nghĩ đó. Buổi sáng yên tĩnh, các con đã đi học từ sáng sớm, chồng đi làm, Lan ít khi phải đối diện với cảnh trống vắng nầy, vì giờ cô đi làm về cũng là giờ cả nhà đều có mặt, tiếng TV trong phòng các con vọng ra, tiếng nhạc Tứ mở trong phòng khách, và tiếng nồi niêu, chén bát va chạm trong bếp là những âm thanh vui vẻ, hạnh phúc. Lan bỗng có cảm tưởng sự trống vắng hôm nay là bắt đầu cho những ngày tương tự sẽ xảy ra. Biết đâu Tứ lăng nhăng rồi về tìm cách gây gổ, rồi sẽ đưa đến tan vỡ, ly dị. Lan sợ hãi hai tiếng đó. Rồi cô sẽ không được ở trong ngôi nhà nầy nữa. Lan từng nghe những cặp vợ chồng ly dị, thường người chồng có nhiều tiền hơn, nhất là có con tình nhân hỗ trợ sẽ trả một số tiền cho người vợ ly dị coi như chia của để lấy căn nhà và người vợ phải ra đi. Rồi con kia và Tứ sẽ ôm nhau trên giường của cô, sẽ nấu nướng trong bếp của cô. Ý nghĩ đó làm Lan chỉ muốn chết quách cho xong, cô lại ngồi khóc tiếp. Khóc một lúc, cô bình tĩnh lại và tự trấn an mình Đàn ông ai mà chẳng lăng nhăng, coi như chơi qua đường, con nào dại ráng chịu, ăn thua người vợ biết giữ chồng hay không? Nhưng cô không biết giữ chồng cách nào. Lan đọc báo thấy nào là phải dịu dàng, chiều chuộng chồng, nào phải để ý đến bản thân, son phấn, ăn diện cho đẹp, nào là phải quyến rũ, hấp dẫn chồng trong phòng the. Hai tiếng phòng the lại làm Lan lại tưởng tượng đến chồng và con kia sẽ ôm ấp nhau ngay trên giường của mình, máu nóng lại xông lên đầu, cô nghiến răng “Gian phu dâm phụ, cho chết cả hai!”. Bỗng Lan tự hỏi, tại sao mình không mua lấy một khẩu súng, rình theo, hễ thấy hai đứa với nhau mình đến cảnh cáo “Lần sau bắt gặp sẽ bắn chết cả hai!” Có cho vàng chúng cũng phải khiếp vía. Rồi cô tự hỏi. Nhưng rủi chúng không khiếp vía thì sao, có dám bắn không? Cô nghiến răng “Dám bắn! Bắn chết tươi!” Cứ một câu hỏi hiện ra trong đầu Lan thì lập tức có câu trả lời, như thế một lúc thì cô bí lối. Lan thở dài, trang điểm sơ sài và lên xe đi làm. Vừa mệt vưà đói bụng, cô bơ phờ, chỉ muốn nằm lăn ra ngũ giấc nghìn thu cho quên hết sự đời. Chợt cô có sáng kiến cứ giả giọng con kia gọi đến sở làm của Tứ, làm gì Tứ cũng vọt miệng hỏi. “Em Hồng, Cúc, Ngọc, Ngà gì đó phải không?” Thế là cô biết tên đối phương. Lan còn nghĩ ra một sáng kiến nữa là sẽ cho Tứ uống thuốc ngủ, bằng cách hòa thuốc chữa bịnh dị ứng vào nước ngọt, Tứ uống vào sẽ ngủ như chết ngay, cô sẽ mặc sức lục lọi bóp của Tứ, ngửi áo xem có mùi nước hoa, tìm có sợi tóc nào, vết son nào không? Khi đã có chứng cớ rõ ràng thì Tứ không có cách nào chối cãi được. Lúc đó Lan sẽ nói thẳng vào mặt Tứ Nếu không sớm từ nó ra thì tôi sẽ bắn chết cả hai. Ôi đơn giản thế mà cô nghĩ không ra. Nhưng phải nói trúng tên con kia mới chứng tỏ mình biết hết, đừng hòng chối cãi. Vậy phải giả giọng con kia gọi đến Tứ ngay. Nhưng giọng gì? Bắc, Trung hay Nam? Theo Lan thấy, thái độ con nhỏ kia không phải là của người Bắc, người Bắc ăn nói điềm đạm và rất giữ ý, người Nam bộc trực hơn, đúng nó là người Nam rồi. Lan quay số, gọi đến sở làm của Tứ, giả giọng Nam.

– Cho gặp anh Tứ ạ!

– Tứ tôi nghe đây. Xin lỗi, ai ở đầu dây ạ?

– Em đây, anh không nhớ à?

– Tôi có nghe quen quen, nhưng thực tình chưa nhận ra là ai cả!

Lan cúp ngay điện thoại, sợ Tứ nhận ra giọng mình. Vợ chồng bao nhiêu năm, dù giả giọng, nói tiếp vài câu Tứ sẽ biết ngay. Cô hơi yên tâm, Tứ không tưởng là con kia nên không vọt miệng hỏi tên chứng tỏ cả hai chưa liên hệ nhau nhiều. Nhưng tại sao Tứ vặn đồng hồ cho cô dậy trễ? Nhất định phải có nguyên do. Cô phải cho Tứ ngủ say để tìm cho ra chứng cớ để buộc tội Tứ cố tình cho cô dậy trễ để đi với con kia mà không bị nghi ngờ. Lan đã lấy lại bình tĩnh. Khi về nhà cô vẫn làm bổn phận thường ngày là chuẩn bị bữa cơm tối và không quên pha sẵn một ly nước ngọt với thuốc dị ứng để khi Tứ uống vào là ngủ say ngay. Hai cô con gái ra than đói bụng, Lan bảo chúng chờ ba về ăn luôn, nhưng đứa lớn nói.

– Ba gọi về nói sẽ về trễ vì bận việc.

– Mẹ nấu chưa xong, các con chờ một chút!

Tuy nói bình tĩnh nhưng cô đã nghi ngờ. Hẹn hò với nhau đi đâu đây, nhưng đừng hòng qua mặt con nầy. Lan gọi ngay điện thoại vào sở làm của Tứ, nếu không có Tứ ở đó, tức đã đi với con kia. Nhưng chỉ mới reng một tiếng là đầu dây kia đã nghe Tứ nói.

– A lô, Tứ nghe đây.

Lần nầy cô giả giọng Bắc vì giọng Nam gọi lần trước Tứ nhận không ra.

– Em đây, anh không nhớ ra em à?

– Xin lỗi cô tên gì, tôi không nhận ra.

– Anh đoán xem, mới gặp đấy mà, người đâu mau quên thế!

– Ai hè?

Lan cúp ngay điện thoại, cô thấy hơi vui vì mưu kế kiểm soát của mình. Nhưng con nhỏ kia là ai? Thân mật đến độ đó thì ôm nhau lúc nào chẳng được. Trong lúc đang suy nghĩ thì cô con gái đưa cho Lan điện thoại.

– Mạ, có điện thoại.

– A lô Lan đây!

– Lan đó hả, mi? Có biết ai đang gọi mi không?

– Ai rứa hè? Nghe như giọng con Tiểu Hoa!

– Đúng rồi, giỏi lắm! Tao qua đây mấy năm mới có được số điện thoại của mi. Răng mi? Làm ăn ra răng? Nghe nói vợ chồng tụi mi mua nhà rồi hả? Làm chi giàu rứa hè?

– Giàu cái khỉ khô chi mi ơi! Thuê nhà cũng trả chừng đó tiền. Chừ mi đang ở mô, tiểu bang mô?

– Tụi tao mu (move) qua Maryland rồi.

Thế là hai chị đàn bà Huế gặp nhau trên điện thoại, nói chuyện sa đà, linh tinh suốt buổi, cứ líu lo như chim hót, người xứ khác chẳng hiểu được bao nhiêu. Lan và Tiểu Hoa là bạn học lại là hàng xóm, từ trường tiểu học Gia Hội cho đến trường Đồng Khánh đều chung một lớp, lớn lên lấy chồng, các ông chồng cũng là bạn thân với nhau. Thành ra khi có gia đình vẫn cứ rủ nhau đi chợ, ăn quà rong.

– Tao đâu biết mi ở Virginia, hôm qua ăn đám cưới bên tiểu bang mi, nửa chừng ông xã tao say quá, tao phải đưa về nhà gấp, lúc ra gặp ông xã mi đang đứng hút thuốc. Lúc đầu, tao không biết là ai, sau ổng tới phụ đẩy ông xã tao vô xe mới nhận ra, tụi tao mừng quá.

Lan lặng người một lúc lâu.

– Bữa mô mời cả nhà mi qua tao, lâu quá!

– Tao cũng định rứa, nhưng để coi, lâu lâu gọi nhau cũng vui rồi.

– Nhưng răng mi biết số điện thoại của tao?

– Thì bữa đó, ông xã mi cho tao chớ ai.

– À, tao biết rồi. Mệ tổ mi. Rứa mà tao tưởng ổng nói chuyện với con mô, tao nổi ghen, tối về tao đạp cho ổng mấy đạp thất kinh luôn.

– Răng ổng không nói cho mi biết?

– Rứa mới đáng đời ổng. Say quá, ổng quên. Lúc ra, tao thấy, nhưng đâu biết mi! Biết, tao đã chạy tới rồi. Thôi, rứa cái đã hỉ, tao sẽ gọi lại.

Lan tắt điện thoại, quay lại thì Tứ đã đứng sau lưng từ lúc nào rồi.

– À, khi hôm đạp tôi! Nhớ nghe! tối nay phải để tôi đạp lại. Hai lần nghe!

Lan mắc cỡ.

– Ông ni, ăn nói nham nhở!

Rồi cô la lên khi thấy Tứ bưng ly nước.

– Ly nước cam. Đừng uống nghe, có thuốc độc trong đó!

– Cô muốn giết tôi phải không?

– Ừ đó! Răng?

Tứ lầu bầu.

– Có mụ vợ ác ôn như ri thì cũng nên uống ly thuốc độc đó, chết sướng hơn!

– Chơ răng ông vặn đồng hồ cho tôi dậy trễ?

– Uả. Thấy cô lục đục cả đêm, sợ cô mất ngủ sinh bịnh, tôi phải vặn trễ.

Bỗng Tứ ôm cứng vợ và cười mãi. Lan vùng vẫy.

– Buông ra! Điên hả?

– Bộ tôi không biết cô giả giọng người khác gọi tôi sao? Số điện thoại cô gọi hiện rõ trong điện thoại sở làm.

Lan vừa giận vừa tức vì bị Tứ chọc quê nhưng cô vẫn nhìn Tứ cười cười rồi ôm Tứ, tay sờ soạn người Tứ. Tứ cảnh giác nhưng không biết sẽ bị gì? Đột nhiên Lan dùng hai ngón tay kẹp một miếng da hông của Tứ, vặn tréo, răng nghiến lại “Chọc quê tôi! Cho biết thế nào là lễ độ!” Tứ nhảy dựng lên “Ui da! Đau quá! Buông ra!”.

 

Phạm Thành Châu

Views: 42

Khủng Hoảng Kinh Tế Trung Cộng Hiện Nay Và Những Hệ Lụy Nghiêm Trọng

Nguyễn Bá Lộc 

Như nhiều người biết, Trung cộng (TC) đã làm được sự phát triển kinh tế “thần kỳ” trong vòng 40 năm. Từ một nước Cộng sản (CS) nghèo nàn, kinh tế TC sau khi “đổi mới” tiến rất nhanh lên hạng nhì thế giới về mặt Tổng sản lượng quốc gia (GDP), đã giải thoát 800 triệu dân vượt qua được mức nghèo đói (The Week, Sept/23/23), và đóng góp lớn cho kinh tế thế giới. Điều đặc biệt TC không phải chỉ đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, mà TC còn có những tiến bộ về khoa học kỹ thuật.

Nhưng dù có mức phát triển tốt, nhưng bản chất nền kinh tế nầy không bền vững và không có phẩm chất vì được vận hành trong một chế độ độc tài toàn trị, lại có tham vọng lãnh đạo thế giới, nền kinh tế TC đã đi xuống, và gần đây đang bị khủng hoảng.

Trong hoàn cảnh và bối cảnh của TC và thế giới hiện nay, cuộc khủng hoảng kinh tế rất phức tạp, nhiều thử thách cho TC. Nguyên nhân gần và rõ ràng là sự sụp đổ ngành địa ốc, nhưng sâu xa bên trong là từ chế độ, từ bộ máy công quyền, và từ tác động quốc tế.  Đây có thể là một bài học, một suy nghĩ, một kinh nghiệm, cho một số nước, trong đó có Hoa kỳ là quốc gia đang đối đầu với TC, cho Việt Nam, một nước có mô hình chánh trị kinh tế giống TC, và cho một số quốc gia đang phát triển chạy theo TC chánh yếu là vì tiền.

Để hiểu phần nào tình hình phức tạp của thế giới nhiều biến động hiện nay, tôi xin góp ý kiến tóm tắt về vấn đề được nêu ra, và đây cũng là phần bài để cập nhựt khảo luận trước kia về  Chiến tranh lạnh Mỹ-Trung.

I. Hiện tình Khủng hoảng Kinh tế Trung cộng

Cuộc khủng hoảng kinh tế của TC hiện bắt đầu mạnh mẽ từ chỉ độ vài tháng nay, chánh yếu là do sự sụp đổ nhà đất và ngân hàng. Nhưng vấn nạn không phải chỉ giới hạn trong lãnh vực nầy, mà còn lan rộng hơn, sâu hơn tới nhiều lãnh vực kinh tế khác. Cho nên sự khủng hoảng kinh tế tại TC hiện nay phức tạp hơn so với những nước khác. Trong phần nầy có hai mục: Tóm lược tiến trình kinh tế TC và những lãnh vực kinh tế bị sụp đổ hiện nay.

1. Tóm lược tiến trình kinh tế TC từ khi “đổi mới” đến khủng hoảng hiện nay

Trước hết, để hiểu sự khủng hoảng hiện nay của TC, thiết nghĩ cần biết rất tóm tắt các điểm chánh từ khi nước nầy có sự chuyển đổi kinh tế quan trọng. (Chi tiết tôi đã trình bày trước kia).

Tóm tắt hai giai đoạn phát triển:

Giai đoạn thứ nhứt, thời Đặng tiểu Bình và hai Chủ tịch kế tiếp trước Tập cận Bình

Bước 1: Đặng Tiểu Bình (ĐTB) thay đổi mô hình kinh tế chỉ huy qua mô hình kinh tế hỗn hợp tư bản và XHCN (1978). Chủ trương phát triển kinh tế bằng mọi cách để thoát khỏi nghèo đói của chế độ CS. Ý tưởng thực tế của Đặng tiểu Bình điều hướng suốt cả thời kỳ ông và các người kế vị ông trước Tập cận Bình (TCB) là Giang trạch Dân và Hồ cẩm Đào. Hai “huấn thị” sách lược của ĐTB nhiều người còn nhớ là “mèo trắng mèo đen, mèo nào bắt được chuột là tốt”, hay “ẩn mình chờ thời”. ĐTB đã thành công, nhờ ba yếu tố chánh thuận lợi là: thứ nhứt, áp dụng phần“kinh tế thị trường”, thứ hai là nhờ công nhân rẻ, thứ ba là nhờ phong trào Toàn cầu hóa (Globalization) lúc đó phát triển rất mạnh. TC đã đạt mức phát triển cao, 12-14%. Nước Tàu mạnh dần, và cuộc sống người dân khá hơn nhiều.  TC chẳng những được tồn tại và chế độ đứng vững, mà từ đó phát triển các lãnh vực khác như khoa học kỹ thuật, quân sự, khoa học không gian, văn hóa, mà còn có địa vị cao về kinh tế và bang giao quốc tế.

Bước 2: Sau khi ĐTB chết, các người thừa kế ông, Giang trạch Dân , Hồ cẩm Đào, cách tổng quát vẫn theo chánh sách của ĐTB . Tiếp tục chiêu dụ và hợp tác với tư bản khắp nơi, gồm sức mạnh tư bản làm “nội lực” để chờ thời cơ. Trong nước xây dựng nhiều hạ tầng, cơ sở kinh tế qui mô lớn, và ngành địa ốc bùng phát mạnh từ đó. Về tâm lý chiến, TC đem văn hóa cổ truyền phổ biến tại nhiều quốc gia, tạo cho thế giới hiểu mơ hồ về chế độ, và có cảm tình về một nước Tàu mới, sẵn sàng hợp tác với bất cứ quốc gia nào trong tinh thần lưỡng lợi. Kinh tế lúc nầy vẫn tiếp tục mạnh mẽ và ảnh hưởng quốc tế gia tăng.

Giai đoạn thứ hai,  thời kỳ Tập cận Bình (TCB)

Bước 1: Nhiệm kỳ đầu của TCB (2013-2018), TCB thừa kế một tình trạng kinh tế khá tốt và mạnh của một siêu cường thứ hai thế giới. Tuy nhiên, sau đó ít năm, kinh tế TC bị suy giảm, tỷ lệ phát triển xuống chỉ còn trung bình 7%.

TCB bắt đầu nuôi dưỡng cho kế hoạch “bá quyền toàn cầu”, ông tạo một bè phái và củng cố sự độc tôn độc tài.  Theo ông ngày nay TC có đủ sức mạnh, và tiếp theo là khởi dầu cho những đại kế hoạch để đương đầu và thay thế Hoa kỳ trong tương lai. Về phía Hoa kỳ và các nước tự do dân chủ thức tỉnh.

Sách lược TCB có các điểm chánh: Trong nước, khơi lại niềm tự hào dân tộc với “mô hình XHCN có sắc thái Trung hoa”. Đầu tư bung ra ngoài tại nhiều nước trên thế giới. Gia tăng mạnh ngân sách cho kỹ thuật và quốc phòng. TCB nêu rõ mục tiêu đến năm 2035 TC sẽ ngang hàng bằng Mỹ về mọi phương diện.  Viện trợ và khai thác tài nguyên ở nhiều nước từ Á qua Phi và Âu châu, với đại kế hoạch “Belt and Road” (2013, với dự chi $1000 tỷ ), gồm tụ một số nước phát triển mới nổi trong liên minh BRICS  gồm TC, Nga, Ấn độ, Ba tây và Nam phi nhằm muốn tiến tới sự cân bằng với khối G7.  TC tuyên truyền vận động cho mô hình mới “kinh tế XHCN trong thời đại mới” tự cho là đã rất thành công, tốt đẹp hơn mô hình của Tây phương từ lâu nay.

Về đối nội, một mặt có biện pháp kích thích tiêu thụ trong nước gia tăng thêm trong hy vọng kinh tế sẽ bền vững hơn, (hiện tiêu thụ trong nước chỉ có 38% GDP, Hoa kỳ tới 68%). Mặt khác, thì siết chặc an ninh nội chính, đẩy độc tài mạnh hơn nữa bằng nhiều biện pháp cứng rắn.

Qua bước 2 (2017-nay), TCB công khai tiến mạnh thực hiện “mộng bá quyền”. TCB tuyên bố tại Thiên An Môn 2017 rằng sẽ đưa “TC thành một siêu cường và nó sẽ là một mô hình mới cho các nước đang phát triển”, (Telegragh, 08/23/2023). Giai đoạn này có mấy điểm cần lưu ý: TC đầu tư nhiều ở Mỹ và Âu châu trong một số ngành quan trọng, nhứt là kỹ thuật cao. TC xây được một số cảng quan trọng, nhiều tuyến đường xe lửa, xa lộ, ở Á châu và Phi châu. Nhiều nước nghèo, vay TC hàng tỷ mỹ kim xây dựng hạ tầng trong đại kế hoạch Belt & Road. Nhưng 3- 4 năm sau, nhiều nước thất bại (như Sri Lanka, Pakistan, Lào , Miên, Nigeria..) không trả nổi nợ, TC siết nợ bằng cách chiếm khai thác nhiều công trình ở đấy.

Khi TC công khai với thái độ thách thức, Hoa kỳ và đồng minh thức tỉnh, thấy được sự nguy hiểm của TC, đánh trả trên nhiều trên nhiều mặt: kinh tế, kỹ thuật, tình báo, tuyên vận, kết hợp đồng minh cũ và mới trên khắp thế giới, thay đổi kế hoạch viện trợ… Chiến tranh lạnh mới càng ngày càng tăng cường độ, và khởi đầu bằng thương chiến Mỹ Trung (2018). Nhưng sự đương đầu của hai siêu cường tới nay, đã hơn bốn năm, hãy còn dằng co vì quyền lợi kinh tế gắn với nhau của hai bên. Rồi thế giới có biến động mới, vụ TC đòi giải phóng Đài loan, chiến tranh Ukraine, và gần đây là chiến tranh Israel- Hamas.

Những sự kiện biến động nêu trên, từ trong nước và trên thế giới trong những năm qua, có tác động làm cho TC và Hoa kỳ yếu đi. Và chuyện phải đến đã đến, TC bị khủng hoảng kinh tế như hiện nay.

2. Những lãnh vực kinh tế bị sụp đổ hiện nay 

Cuộc khủng hoảng kinh tế dù từ lãnh vực chánh thì rồi cũng ảnh hưởng tới các lãnh vực khác, nhứt là tại quốc gia độc tài có cách vận hành cứng rắn, thì sự giải quyết rất khó khăn. Tóm tắt các lãnh vực đang bị suy sụp:   

Tổng thể .  Tỷ suất phát triển: Tam cá nguyệt 1/2023: 2.2%, tam cá nguyệt 2/2023: 0.88%, trong khi đó chỉ tiêu nguyên năm là 5% , ước lượng năm nay chỉ có thể đạt 3% (UPI Sept/7/23). Nhìn lùi lại quá khứ, tỷ suất phát triển kinh tế 20-30 năm trước rất cao 12-14%, từ 1990-2012, rồi giảm xuống còn 8% từ sau 2015, các năm tiếp theo chỉ còn 6%, 2022 chỉ còn 3%, 2023 về sau theo đà nầy có lẽ nhỏ hơn 3%.

Một khó khăn khác của TC hiện nay là nền kinh tế bị giảm phát (deflation), có tác dụng làm trì trệ thêm sản xuất và tiêu thụ. Hiệu suất đầu tư nội địa rất thấp, tỷ lệ 9/1, nghĩa là phải bỏ ra $9 mới thu về $1, trong khi tỷ lệ trung bình của đa số nước là 4/1 (The Telegragh Sept/23).

Địa ốc và ngân hàng.  Đây là lãnh vực bị sụp đổ mạnh nhứt, nó bị lung lay từ 3 năm nay. Gần đây sụp đổ rất nặng, hiện có 80 triệu căn nhà chung cư bị bỏ trống (The Week 9/2023), và hàng triệu căn nhà đang xây cất còn dang dỡ không có hy vọng bán được trong tương lai. Tình trạng nầy trầm trọng hơn sụp đổ về nhà đất của bất cứ nước nào. Trị giá địa ốc TC chiếm tới 25% tổng sản lượng quốc gia (GDP), một tỷ lệ quá cao, nên khi nó bị suy sụp là ảnh hưởng mạnh đến toàn bộ nền kinh tế (CNN 8/2023). Công ty địa ốc lớn nhứt nhì là Evergrande hiện có số nợ vay ở ngân hàng là $332 tỷ mỹ kim, đã khai phá sản (Wall Steet Journal, June/2023), một công ty lớn khác là Country Garden đang được tái cấu trúc nợ $11 tỷ mỹ kim. Và còn hàng trăm công ty địa ốc khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Ngành này bị suy yếu từ 2021, càng ngày càng xấu hơn . Yếu tố là vì số cung nhà đất quá cao so với cầu. Chắc các công ty địa ốc và nhà đất tư nhà đất lẻ đã biết trước. Nhưng cung và cầu dưới cái nhìn và quan điểm TC có nhiều điểm khác. Và cứ xây thêm. Trong khi đó kinh tế từ 2020, có nhiều khó khăn từ sản xuất trong nước lẫn xuất cảng . Đa số dân không đủ khả năng mua nhà mới để ở, còn những người mua nhà để đầu tư thì khựng lại trong cảnh u ám chung nầy.

Sự sụp đổ thị trường nhà đất kéo theo sự sụp đổ ngân hàng. Vì các công ty địa ốc khai phá sản vì nợ cũ không thu được từ người mua nhà, mà nợ mới vay ở ngân hàng xây cất thêm bán nhà mới không có người mua. Số nhà mới bán ra giảm 22% trong quí 1/2023 so với cùng thời kỳ năm ngoái (The Economist Sept/23).

Trong kinh tế vĩ mô, địa ốc là ngành chủ lực của TC, vì nó dễ đầu tư (chớ không phải dễ bán), tiền bạc đất đai chánh phủ nắm cả, thực hiện thì có “tư sản đỏ”, hơn nữa ngành này đóng góp tới 25% GDP. Về kinh tế chánh trị, tăng GDP nhanh chóng, tạo ra kích thích dân chúng và cho nhiều nhà đầu tư ngoại quốc. Mặt khác quan trọng hơn, trong chế độ độc tài toàn trị thì ngành địa ốc đem lại cơ hội to lớn nhứt để đảng viên cán bộ tham nhũng. Vì vậy, chánh quyền yểm trợ mạnh ngành này.  Cho nên khi ngành địa ốc sụp, ngân hàng đổ theo, nợ của các công ty địa ốc lên tới $29 ngàn tỷ mỹ kim. Mà tình trạng nợ tại TC vốn đã quá cao (300%/GDP)(The Diplomat 8/2023), nay sự sụp đổ tài chánh ngân hàng làm khối nợ xấu tăng quá nhanh. Không phải chỉ trong ngành địa ốc và hạ tầng cơ sở mà ảnh hưởng xấu qua nhiều lãnh vực kinh tế khác.

Tình hình nhà đất và ngân hàng ở TC nay rất u ám, thiệt hại nhiều cho kinh tế. Chánh quyền có gần đây có gói cứu trợ tạm thời $585 tỷ, chánh yếu là bôm tiền để tăng tín dụng, và hạ lãi suất để kích thích tiêu thụ. Nhưng giải quyết nầy chưa đủ, khó khăn lớn còn đó.

Về đầu tư ngoại quốc và nhân dụng . Đầu tư ngoại quốc (FDI) là một bước căn bản và thành công của TC trong mấy thập niên trước khi phong trào toàn cầu hóa mở rộng. Nay tình hình va chạm giữa TC và nhiều nước, FDI giảm nay chỉ còn $20 tỷ trong quí 1/2023, cùng thời kỳ này năm 2022 là $100 tỷ (The Week), một số công ty ngoại quốc rút ra khỏi TC trở về cố hương hoặc đến các nước Đông Nam Á do tình hình kinh tế và do luật lệ TC ngày càng khó, FDI giảm 22% so với năm rồi, một phần do Mỹ cấm một số công ty giao dịch với công ty TC vì có liên hệ an ninh. Tới nay có tới 9000 công ty TC bị Tây phương không còn giao dịch (Telegragh Sept/23).

Thất nghiệp tăng, 21% lao động trẻ thất nghiệp. Về nhân dụng TC còn gặp khó khăn khác là sau 40 năm số lao động trẻ bây giờ già đi, là một trở ngại cho đầu tư nói chung và cho gánh nặng an sinh xã hội.

Về xuất cảng và thị trường quốc tế. Xuất cảng là lãnh vực quan trọng quan trọng nhứt của kinh tế TC để giải quyết lao động dư thừa của những thập niên trước. TC thu vào số ngoại tệ rất lớn và là sức mạnh cho kinh tế TC sau nầy. Xuất cảng là một cột trụ chánh của TC (40% GDP).

Xuất cảng TC gần đây bị giảm liên tục 4 tháng liền, và còn tiếp tục xuống nữa, xuất cảng chung bị giảm 27.5% trong  tháng 7/2023 so với tháng 7/22 (Reuters Sept/7/23). Xuất cảng qua Mỹ giảm 9.5% trong tháng 4/23 ((UPI 9/7/23). Cách tổng quát hàng TC bị giảm trong mấy năm qua, vì tiêu thụ giảm và một số chuỗi cung ứng TC nắm gần như độc quyền bị thay thế dần.

Trong nội địa, thị trường hàng hóa và dịch vụ từ thành thị tới thôn quê ở TC ngày nay bị suy giảm khá mạnh vì tình hình chung, đặc biệt vì biện pháp đóng cửa để kiểm soát đại dịch. TC hiện gặp phải tình trạng ngược là bị giảm phát (deflation). Mãi lực giảm phần vì thu nhập ít đi, và niềm tin của dân chúng giảm, khoảng cách giàu nghèo càng ngày càng lớn, bất công xã hội càng nhiều.

II. Nguyên do Khủng hoảng Kinh tế TC hiện nay

Lịch sử kinh tế thế giới cho biết nguyên do khủng hoảng và hậu quả tại mỗi nước có nhiều khác biệt. Tại TC hiện nay khủng hoảng như trình bày tóm tắt trên có những nguyên nhân phức tạp,  có thể tóm tắt gộp chung lại thành ba loại nguyên do chánh yếu. Đó là:

1. Từ yếu tố kinh tế khách quan.

Là những yếu tố kinh tế có tính nguyên tắc tác động gây ra bất quân bình về vĩ mô, hay làm guồng máy kinh tế chạy không bình thường, làm kinh tế bị khủng hoảng. Các nguyên nhân có tính nhứt thời và cũng có nguyên nhân căn cơ có từ lâu .

TC không đi theo đúng nguyên tắc kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường là phần quan trọng của mô hình đổi mới kinh tế TC. Đó là nguyên tắc quân bình tự động cung cầu. Về nhà đất nêu trên, cung quá cao trong khi cầu thấp và thu nhập không gia tăng nhanh như mức độ xây nhà mới. Nếu theo đúng kinh tế thị trường thì các công ty bất động sản phải luôn luôn theo dõi cân bằng cung cầu. Chớ không phải để tình trạng kéo dài hàng chục năm. Khi áp dụng mô hình kinh tế thị trường XHCN, TC cũng như VN chỉ cho tự do các hoạt động kinh tế cấp thấp, nhỏ, và không quan trọng, còn phần chánh phần gốc của nền kinh tế vẫn phải chịu sự hoạch định và chỉ huy của đảng và nhà nước.

Sự quản lý tài chánh công bừa bãi, kém hiệu quả, và mất mát nhiều.

Trong chế độ độc tài CS thì khối tài sản công đủ loại rất lớn. Nhứt là ở các khâu: phần phân bổ, xử dụng và in tiền thêm khi cần, người dân không có quyền tham dự. Nhà nước chi tiêu quá lớn cho ngân hàng hay cho đầu tư công, khi bị khủng hoảng tài chánh thì công nợ lên cao và khả năng cứu vãn càng khó hơn. Một phần cũng do sự kiểm soát công chi không hữu hiệu, từ khâu chuẩn chi, tới khâu thực hiện công tác, đến hậu kiểm. Bộ máy độc tài toàn trị, chẳng những yếu kém mà còn cấu kết nhau để tham nhũng.

Hiệu quả đầu tư quốc nội yếu kém.

 Sau một thời gian phát triển nhanh nhờ kinh tế đối ngoại, thì thông thường, để có tình trạng bền vững và có chất lượng, thì sự chấn chỉnh cải thiện đầu tư trong nước là rất cần thiết. Ở TC trong nhiều thập niên nay, dù có chút ít tiến bộ, nhưng nói chung hiệu quả đầu tư của tư sản nội địa và quốc doanh còn rất yếu, trừ một số ít đại công ty của tư sản đỏ hay quốc doanh trá hình. Vì nhiều lý do, hiệu suất đầu tư trong nước gần đây là 9/1, nghĩa là phải bỏ ra $9 mới thu về được $1, trong khi hiệu suất trung bình tại nhiều nước là 4/1. Hiệu suất đầu tư yếu làm cho mức độ tái phát triển yếu.

Hoạch định vĩ mô không xác thực .  

Ở đây muốn nói đến kế hoạch quốc gia. Xin nêu ra hai đại kế hoạch: Hạ tầng cơ sở và kế hoạch nhân dụng.

Xây dựng hạ tầng cơ sở là nhu cầu thiết yếu cho phát triển. Nhưng nếu chánh quyền lạm dụng quá sẽ thành tai hại hay không cần thiết. Ở TC có rất nhiều cầu cống, cảng, đường xe lửa, khu đô thị rất vĩ đại, dĩ nhiên rất thu hút rất đáng ca ngợi. Ở đây muốn nói cái quá đáng, tổn phí quá cao, mà thực tế hữu dụng còn thấp, ví vụ cầu dài ngoài biển, đảo nhân tạo, cầu treo rất dài qua núi…trong lúc đất nước còn có nhiều nhu cầu xây dựng khác ở vùng xa xôi. Ví dụ khác như đại kế hoạch Belt & Road, TC bỏ ra $1000 tỷ mỹ kim viện trợ, cho vay và đầu tư tại hơn 150 nước thành viên ở Á châu, Phi châu, Âu châu, trong đó có mục tiêu bành trướng bá quyền toàn cầu của TCB. Nay kế hoạch nầy bị thất bại tại nhiều nơi, chánh yếu là các nước nghèo và tham nhận quá nhiều viện trợ, sau đó không có khả năng trả nợ. TC bị mất một số không nhỏ tiền bạc đã bỏ ra. Đại hội Belt & Road kiểm điểm 10 năm sẽ họp vào 17 tháng 10 này.

Kế hoạch nhân dụng là phần quan trọng khác. TC ngày nay thiếu công nhân trẻ vì cái “chánh sách một con”. Và sau khi đất nước phát triển, không điều chỉnh kịp thời.

Mãi lực và niềm tin dân chúng thấp .

Lợi tức đầu người ở TC nói chung có khá so với 30 năm trước ($12,000/ đầu người, 2022), nhưng nó vẫn còn rất thấp so với các nước phát triển, trong khi đó nhu cầu của mỗi người dân nhiều hơn theo tiến bộ kinh tế, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng. Mãi lực dân chúng nay thấp xuống vì kinh tế khó khăn. Một mặt chánh quyền luôn hạ giá đồng yuan để tăng xuất cảng.Tình hình kinh tế xấu đi, dân không có niềm tin ở chánh sách đường lối của chánh quyền, như biện pháp zero- covid có quá nhiều tai hại cho mỗi người. Người dân bây giờ phải tự lo, tự liệu, tự hạn chế tiêu thụ, nhứt là mua nhà cửa quá lớn lao, thường chiếm tới 70% thu nhập gia đình.

Tóm lại, từ yếu tố kinh tế khách quan có rất nhiều nguyên nhân tác động tạm thời cũng như về lâu dài cho cuộc khủng hoảng hiện nay.

2. Từ bản chất độc tài XHCN

Từ nguyên tắc “công hữu”,

tức là đất đai, tài nguyên thiên nhiên đều thuộc quyền sở hữu nhà nước. Chính nguyên tắc nầy cho phép chánh quyền từ trung ương tới địa phương, quyền tuyệt đối phân chia, thu hồi đất đai tại những khu vực rất có giá và giao cho tư sản đỏ để cấu kết với cán bộ có quyền rồi xây nhà bán cho dân. Thực tế, chúng đã xây cất quá nhiều vì lòng tham hơn vì cung cầu, nên không cần quan tâm đến số cầu và hệ quả đầu tư.

Từ chế độ độc tài,

người dân không có quyền trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào sự phân bổ và quản lý tài chánh công, gồm mọi nguồn: thu thuế, viện trợ, bán tài sản, tiền lời quốc doanh, công trái. Tích sản càng ngày càng lớn, dân đâu có biết và không có quyền biết. Nhà nước cứ chia cho các cơ quan từ trung ương tới địạ phương. Đầu tư và lãnh vực nào có lợi nhứt cho sự giàu có đảng viên là cứ hoạch định và thực hiện. Địa ốc và hạ tầng cơ sở là lãnh vực ngon nhứt.  Kế đó là thành lập nhiều ngân hàng công cũng như hợp doanh, từ đó bày ra nhiều chương trình kinh doanh khác. Nợ nần tăng nhanh, không cần biết. Khi bị khó khăn, nhiều công trình dang dở, nợ xấu tăng, rồi khai phá sản. Tiền nhà nước và tiền dân bị mất. Đâu có đảng viên nào thua lỗ cả, họ còn chuyển tiền ra ngoại quốc nhiều hơn, khi kinh tế trong nước có khó khăn.

Từ bộ máy công quyền.

Trong chế độ XHCN bộ máy công quyền là công cụ của chế độ. Ở đây chỉ nói riêng mặt nhân sự của bộ máy đó là một sai trái và tệ hại cho mọi thứ tài sản quốc gia. Cách tuyển dụng, đào luyện và bổ nhiệm viên chức cán bộ trung ương tới địa phương theo một chiều cùng một cách, chỉ có đảng viên leo lần lên chức cao, bằng lo lót ngay trong nội bộ. Cho nên đảng viên cấu kết là chuyện dễ dàng, và rất tự nhiên, mục đích không phải phục vụ mà là để tham nhũng. Một phần tiền lớn tham nhũng chuyển lậu ra ngoại quốc, số tiền nầy không đem lại lợi ích kinh tế cho TC. TC là nước rửa tiền bất hợp pháp lớn nhứt.

3. Từ sự tranh chấp quốc tế  

Nguyên nhân thứ ba này làm cho TC khó khăn hơn nhiều. TC chỉ có thể áp dụng chế độ độc tài trong xứ mình, chớ đâu có thể xử dụng nhiều chiêu trò ma giáo đó với các nước. Hơn nữa, có nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, không có nghĩa TC ngày nay đương nhiên là siêu cường thứ hai trên thế giới về mọi lãnh vực. Để bảo vệ quyền lợi trước hết cho chính mình và sau đó cho cả khối dân chủ tự do. Sau khi TCB công khai chống Hoa kỳ và Tây phương thì TC nhận sự phản ứng khá mạnh. Những đương đầu lại TC mà chúng ta đã biết trong bốn năm qua trên các mặt trận mậu dịch, đầu tư, kỹ thuật, quân sự, văn hóa, ngoại giao. Trừ sự đụng độ quân sự, các mặt trận kia có tác dụng, dù chưa đủ mạnh, nhưng cũng đã gây khó khăn và cảnh báo cho TC .

Bây giờ kiểm điểm sơ qua kết quả những phản công của Hoa kỳ và đồng minh có tác dụng gây thêm suy yếu cho TC trong vài năm gần đây.

Cán mậu dịch chưa cải thiện bao nhiêu, nhưng cụ thể xuất cảng TC giảm sụt. Đặc biệt các chuỗi cung ứng công nghệ cao và nguyên liệu dược, Hoa kỳ và đồng minh dần dần chủ động

Các công ty Hoa kỳ, Nhựt.. đã và sẽ rút một phần về cố quốc hay chuyển sang các quốc gia Đông nam Á.

Hoa kỳ và gần đây Cộng đồng Âu châu phát hiện và cấm công ty Mỹ làm ăn với một số khá lớn công ty TC vì lý do an ninh.

Hoa kỳ kết hợp được nhiều đồng minh mạnh hơn bao giờ hết, trong mục tiêu và chiến lược kinh tế, ngoại giao và an ninh nhằm bao vây và đánh trả TC trên khắp thế giới nhứt là ở Á châu Thái bình dương.

Về phương diện tâm lý chiến, ngày nay chánh quyền, dân chúng và truyền thông Hoa kỳ và đồng minh coi TC là thù địch, là mối đe dọa lớn cho dân chủ tự do và nhân quyền trên thế giới.

Dĩ nhiên, TC là một cường quốc, nó có nhiều chiêu trò để vừa thủ vừa tấn công lại Tây phương.

Chiến tranh lạnh có chiều hướng căng thẳng hơn, nhứt là qua một số biến cố mới trên quốc tế như đã trình bày ở phần trên. Cả hai bên đều có thiệt hại. Sự tranh chấp quốc tế là một trong những nguyên nhân, và một yếu tố, làm kinh tế TC bị khủng hoảng hiện nay. Vì kinh tế đối ngoại của TC hết sức quan trọng, chiếm 40% GDP. Mặt khác nhờ kinh tế đối ngoại mạnh mà TC có những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhanh chóng, có tầm cở quốc tế, từ đó phát triển quân sự, một điều rất cần thiết để thực hiện “Giấc mộng Trung hoa”.

III. Những Hệ lụy nghiêm trọng từ Khủng hoảng kinh tế TC

Cuộc khủng hoảng kinh tế nào cũng có hậu quả xấu cho kinh tế, chánh trị và xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở TC chỉ mới xảy ra, nên có thể chưa thấy hết được mọi hệ lụy của nó. Nhưng với mô hình kinh tế khá đặc biệt, với chế độ chuyên chính, và trong khung cảnh thế giới đầy bất ổn hiện nay, chúng ta có thể nhận ra được phần nào các hệ lụy nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng nầy. Có hai điểm xin tóm tắt ở phần này: Các Hệ lụy chánh yếu và Vài nhận định.

1. Những Hệ lụy nghiêm trọng

Cho chính TC:   Theo tin tức từ ngoại quốc, thì cuộc khủng khủng hoảng có hệ lụy khá nghiêm trọng cho TC. Về đối nội, sự mất mát cả ngàn tỷ mỹ kim từ sự sụp đổ địa ốc và ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế quốc nội, vì địa ốc chiếm hơn 25% GDP. Nhứt là ngành ngân hàng, sự mất mát xáo trộn ngân hàng ảnh hưởng ngay tới mọi lãnh vực, từ sản xuất đến tiêu thụ trong nước cũng như ngoài nước.

Cuộc khủng hoảng này làm cho những kế hoạch lớn của TC như Belt & Road, BRICS, Kế hoạch 2025, kế hoạch 2035 gặp trở ngại nhiều hơn trong tương lai.

Về mặt đối ngoại, sự khủng hoảng cho thế giới, nhứt là các nước đang phát triển, hiểu biết cụ thể mô hình kinh tế TC không phải ưu việt, cần phải suy nghĩ . Những điều TCB nói rất nhiều lần TC là một mẫu mực cho các nước đang phát triển, giờ đây phải xem lại. Hơn thế nữa, dân chúng tại nhiều quốc gia, ngày nay xem TC là đối lực nguy hiểm, không còn là bạn tốt, nếu điều này lâu dài, sẽ là một mất mát lớn nhứt cho dân tộc Trung hoa. Về phương diện cạnh tranh kinh tế, TC đang gặp các khó khăn càng ngày càng lớn từ tác động bên ngoài. Và vì sự đầu tư và hợp tác TC với các công ty kỹ thuật cao nước ngoài nay bị bể hay bị thu hẹp, có phần nào ảnh hưởng không tốt cho nền kỹ thuật TC.

Cho Hoa kỳ :   Dù khủng hoảng kinh tế của TC hiện nay chưa sâu đậm, chưa tỏa rộng mạnh trên toàn cầu, nhưng vì TC là cường quốc số hai về kinh tế, lại là đối thủ vừa là đối tác lớn với Hoa kỳ, trên cả ba mặt : kinh tế, giá trị học thuyết chánh trị và bang giao quốc tế. Cho nên Hoa kỳ vừa vui vừa lo. Vui là đối thủ bị trúng đòn phần nào, nghĩa là sự phản công của Hoa kỳ và đồng minh là đúng.  Dù tương lai chưa biết ai thắng ai. Nếu không đi tới một thỏa thuận cho hai bên, thì cả Hoa kỳ và TC đều có những thiệt hại. Và mặt khác, khi kinh tế TC suy giảm thì kinh tế thế giới yếu đi, và tác dụng ngược cho kinh tế Hoa kỳ và các nước có thể đi tới suy thoái khác. Khi TC có khó khăn lớn trong nước thì nó sẽ gia tăng gây tác động quậy phá an ninh chánh trị quốc tế nhiều hơn.  Trật tự thế giới đang có khó khăn sẽ có biến động nhiều hơn nữa .

Cho Việt Nam.     Những tiêu cực và khó khăn của TC hiện nay là vấn nạn cho VN trong tương lai không xa. Vì VN rất giống TC từ kinh tế đến chánh trị và văn hóa. Nền kinh tế VN vốn không bền vững, yếu kém và bấp bênh hơn TC nhiều. Hướng đi và cách thức giống như TC trong ba mươi năm qua nằm dưới sự chỉ đạo và kèm kẹp mọi thứ mọi mặt kinh tế tài chánh ngoại giao, an ninh, làm cho CSVN rất khó thoát khỏi bàn tay độc ác của TC. CSVN cần suy nghĩ nhiều hơn về sự thoát ra phần nào sự lệ thuộc TC. Mấy năm gần đây, CSVN có nghiêng phần nào qua Hoa kỳ tìm chút cân bằng và gở chút thế kẹt với TC. Nay, sự khủng hoảng kinh tế TC có hệ lụy lớn đến VN về mọi mặt ngoại thương, công ty Tàu tràn qua VN nhiều hơn, VN kẹt nợ nhiều hơn, nhứt là an ninh ở biển đông VN bị Tàu siết chặt và bị rắc rối hơn.

CSVN hơn ai hết hiểu rõ các khuyết điểm của mô hình kinh tế TC mà VN đi theo như bóng với hình. Nhứt là các mưu tính, các tệ hại mà viên chức cán bộ chỉ vì sự sống còn của đảng và sự giàu có của đảng viên. Sự suy sụp kinh tế TC có thể làm cho đảng viên CSVN tham nhũng nhiều hơn để nhanh chóng gởi tiền ra nước ngoài.

Đối với dân chúng VN, thì đa số quá nghèo, nếu một cuộc khủng hoảng như TC xảy ra thì họ sẽ có khó khăn thêm về cuộc sống, giá cả gia tăng, thất nghiệp nhiều hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh các khó khăn , VN có một hy vọng là nhờ bên Tàu có khó khăn , và sự tranh chấp quốc tế, VN sẽ có cơ hội đón nhận đầu tư ngoại quốc nhiều hơn.

ChoThế giới.   Như chúng ta biết trong mấy thập niên qua, nhứt là trong thời kỳ toàn cầu hóa phát triển cao độ, TC đóng góp nhiều cho kinh tế thế giới gia tăng và ổn định, trung bình cũng 4-4.2%/năm. Nay TC bị suy yếu kinh tế nó tác dụng mạnh lên đầu tư, xuất cảng và tiêu thụ của hầu hết mọi quốc gia. Đối với một số quốc gia đang phát triển trong nhiều thập niên, cũng có nhiều cái lợi là tiêu thụ nhiều loại hàng hóa giá rẽ, và thực hiện được nhiều công trình lớn do TC bỏ tiền cho vay hoặc đầu tư trực tiếp, tạo ra nhiều việc làm ở những nơi đó. Dĩ nhiên là bên cạnh đó, các nước đang phát triển theo TC phải chịu một số thiệt hại khác như chủ quyền quốc gia, bị TC khai thác tài nguyên cạn kiệt, và bị kẹt những món nợ to lớn không cách nào trả nỗi, và tham nhũng mà TC “xuất cảng”làm ung thối xã hội.

 Nay kinh tế TC bị khủng hoảng mức độ phát triển trên thế giới năm nay và năm tới, theo ước tính của các chuyên viên, chỉ còn khoảng 2.5%- 2.7%. Mà khi thế giới có suy thoái kinh tế thì loạn lạc, tệ trạng xã hội, suy thoái đạo đức chánh trị, có nhiều cơ hội và điều kiện nẩy nở thêm.

2. Vài suy nghĩ và nhận xét

Tình trạng khủng khoảng kinh tế TC hiện nay có thể cho chúng ta một vài suy nghĩ và từ đó có thể rút ra một số bài học, có thể là bài học cũ nhưng với một số dữ kiện và hoàn cảnh mới, hầu cố gắng xây dựng một cộng đồng thế giới an bình hơn. Sau đây là vài suy nghĩ trong hiểu biết hạn chế, tôi xin có mấy điểm sau đây:

Về Mô hình kinh tế TC  . Có tên gọi “Kinh tế XHCN Thị trường tự do” (Socialist Free Market Economy hay Socialist Market Economy), hình thành từ 1978, là sự kết hợp hai nền kinh tế tự do và XHCN. Tự nó đã có nhiều mâu thuẩn, vì nửa tự do nửa thì hoạch định. Nó là một mô hình hoàn toàn mới. Nhưng TC đã thành công trong thời gian khá dài. Cho nên có nhiều thắc mắc, có một số nhà nghiên cứu có nhận định là phát triển kinh tế vẫn có kết quả tốt đâu cần tới môi trường Dân chủ.

Mặt khác TCB luôn hô hào ca ngợi mô hình kinh tế mới của TC là tốt nhứt. Kinh tế phát triển nhanh, bền vững, thực tế và công bằng.

Bây giờ, qua khủng hoảng kinh tế nầy là nhiều người xem xét lại, suy nghĩ lại mô hình kinh tế TC. Nó không phải là tốt mà nó thành công trong thời gian nào đó trên một số lãnh vực nào đó. Các thành phần kinh tế tư doanh chỉ có được tự do ở những hoạt động nhỏ và cấp thấp, cấp trên cao, và phần quan trọng của nền kinh tế, thì đảng và nhà nước độc quyền nắm hết. Các thành phần và tác nhân kinh tế rời rạc, thiếu kết nối chặc chẽ, cho nên khi bị bể dễ bị đỗ nát hay ít nhứt hỗ trợ nhau kém hiệu quả. Mặt khác mô hình kinh tế đó bị phí phạm mất mát quá nhiều, phần lớn do sự cố ý của cán bộ viên chức và sự bất lực của người dân.

 Về Chế độ độc tài và phát triển quốc gia. Chế độ độc tài không phải mới mẻ, nó có từ lâu, tại nhiều nước. Nhưng các “chế độ độc tài kiểu cũ” thì không thành công về kinh tế và tạo nhiều bất công xã hội. Nhưng khi TC vẫn duy trì một chế độ độc tài toàn trị mà lại thành công về kinh tế khá tốt, dù chưa biết đường dài ra sao, thì có rất nhiều nhà ngiên cứu ngạc nhiên, trong đó người cho rằng: “kinh tế phát triển tốt đâu cần phải có dân chủ”. Điều nầy đi ngược lại với các lý thuyết của những nhà kinh tế khá nổi tiếng khoảng 50 năm trước là “tự do dân chủ kinh tế có tác dụng hỗ tương và thuận chiều với tự do dân chủ chánh trị”. Chẳng hạn qua nhận định: “ Cách tổng quát Dân chủ tạo ra cơ hội tốt hơn cho phát triển”(United nation, Chronicle, Dân chủ và Phát triển), ở bài khác  “Dân chủ đem tới sự phát triển lâu dài và bền vững”(North 1093).

Về Niềm tin của dân chúng và ổn định kinh tế. Trên thế giới đã có rất nhiều nước bị khủng hoảng kinh tế, có khi là đơn độc, có khi là dây chuyền trên thế giới, có khi do chính mình gây ra, có khi do từ bên ngoài tác động. Nhưng dù mức độ khủng hoảng cở nào , dù do nguyên nhân nào, dù có phục hồi được bình thường hay không, thì niềm tin của dân chúng với chánh sách kinh tế quốc gia, với chế độ cụ thể, luôn là yếu tố cần thiết quan trọng cho sự phát triển bền vững, trong mọi giai đoạn khởi dầu sơ khai , hay lúc lúc mở rộng thật tốt đệp và nhứt là lúc có khó khăn. Niềm tin đó, một là của quần chúng với chánh trong nước, và một thứ niềm tin rộng hơn là của dân chúng một nước đối với chánh sách một nước khác.

Sự suy thoái kinh tế cách rõ rệt hiện nay của TC là một xác nhận rằng chế độ độc tài độc đảng nhận gặp phải hai sự mất niềm tin. Một là từ dân chúng trong nước. Hai là từ người tiêu thụ và nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy mà khó khăn nhiều hơn lên.

Về trật tự thế giới mới (New World Order).  Như nhiều người nghĩ sự đương đầu Mỹ – Trung hiện nay, có thể dẫn tới một sự thay đổi trật tự thế giới hiện nay do Hoa kỳ là “độc bá quyền”. TC và đồng minh cho rằng mô hình hiện nay có nhiều bất công và không hữu hiệu cần phải thay thế bằng mô hình mới tốt hơn hợp lý hơn. Trong diễn văn chấp nhận nhiệm kỳ II (2017), TCB nói “Mô hình TC đem lại một hệ thống điều hành xã hội tốt hơn cho các nước muốn tăng tốc độ phát triển mà vẫn được độc lập”, “Bốn mươi năm thực thi đã đạt thành công hoàn toàn TC muốn chia sẻ kinh nghiệm về phát triển  cho đa số các nước đang mở mang hầu canh tân xứ sở”(Council on Foreign Relations, 3/2023).

Nhưng công việc thay đổi một Trật tự thế giới không phải dễ. Muốn lên “độc bá”  “lưỡng bá” thì quốc gia đó phải có ưu điểm trội yếu ít nhứt về bốn mặt: sức mạnh kinh tế, giá trị chánh trị, giá trị văn hóa văn minh, và sức mạnh quân sự. Hiện nay thì TC chỉ có sức mạnh về kinh tế và quân sự. Mà nay kinh tế bị lung lay. TC vẫn còn muốn hướng tới thay thế hay cân bằng với Hoa kỳ thì phải một là tích trữ thêm sức mạnh, hai là kết hợp thêm đồng minh cách vững chắc và đàng hoàng hơn, mà tới nay chỉ là một số nước độc tài hay nước chạy theo độc tài vì quyền lợi cá nhân lãnh tụ .

Chính vì vậy chưa biết Trật tự thế giới sẽ biến đổi thế nào, nhưng thực tế có nhiều xáo trộn hỗn loạn trong khu vực hay trong các tổ chức thế giới.  Trong tương lai gần, thế giới chắc sẽ còn nhiều tranh giành, những đụng độ trên nhiều lãnh vực, có khi đầy máu lửa như ở Ukraine hơn năm qua, và ở Israel trong gần đây.

Một thế giới hòa bình, không hận thù, hòa hợp và tiến bộ luôn là ước mơ của mọi người mà đường đi không trọn vẹn.

Nguyễn Bá Lộc

(Email: locba9999@yahoo.com)

Cali 15/10/2023

Views: 40