Vài Nét Về Khoá 6 Đốc Sự Quốc Gia Hành Chánh

Nguyễn Đắc Điều 

Hàng đứng: Lê văn Thêm, Thái hà Chung, Nguyễn đắc Điều, Trần Ngọc Bình, Hà Ngọc Nghinh, Trần thanh Sử. Hàng ngồi: Nguyễn Vịnh, Nguyễn Ngọc Vỵ, Nguyễn khai Sơn, Trương minh Nhuệ, Trần Nhật Ưng. (Quân trường Đồng Đế-Nha Trang: hình chụp khi thi hành 15 ngày phạt trọng cấm lúc về Học viện nhận bằng Tốt nghiệp “ra trình diện quân trường trễ vì không có máy bay”).

1/-Nhập học và tốt nghiệp:

Khóa 6 nhập học vào tháng 2 năm 1959 gồm có 51 sinh viên trúng tuyển so với 100 sinh viên dự tuyển. Đây là cuộc thi concours d’examen nên có lẽ không đủ số sinh viên có khả năng hội đủ điều kiện để trúng tuyển.

Sinh viên đậu thủ khoa nhập học là Nguyễn mạnh Huyên thi tại trung tâm Huế. Thời tôi học, Học viện tổ chức tuyển sinh tại 2 trung tâm, một tại Sài Gòn và một tại thị xã Huế. Tôi không biết việc tổ chức này khởi đầu và kết thúc vào năm nào. Sau khi thi năm thứ nhất có 17 sinh viên phải xuống học khóa 7, và có 3 sinh viên từ khóa 5 xuống học khóa 6 là Nguyễn văn Tiên, Trần thanh Sử và Nguyễn hữu Các. Tháng 1 năm 1962 có 36 sinh viên tốt nghiệp gồm 21 ban Hành Chánh và 15 ban Kinh Tài, trong số đó có 3 sinh viên gốc công chức, anh Nguyễn hữu Các không tốt nghiệp.

-Ngoài anh Nguyễn Ngọc Châu, sinh viên công chức, các sinh viên tốt nghiệp ban Hành Chánh xếp theo thứ tự như sau: Triệu Huỳnh Võ (thủ khoa), Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn minh Quân, Nguyễn đắc Điều, Phạm Đức Nhuận, Lê minh Quang, Nguyễn văn Tiên, Trương minh Nhuệ, Nguyễn văn Đức, Nguyễn văn Quí, Nguyễn trọng Can, Đoàn Nghĩa, Ngô Đức Lưu, Nguyễn thành Long, Lê văn Thêm, Nguyễn thành Nhơn, Nguyễn văn Nho, Nguyễn công Khanh, Trần thanh Sử, Nguyễn khai Sơn.

Hàng 3: Quang, Điều, Sử, Trần Huỳnh Thanh, Nho (đeo kính đen), Nguyễn công Khanh (áo ca rô).  Hàng 2: Các, Trực, Quí, Triệu Huỳnh Võ, Đức, Nguyễn khai Sơn (đeo kính trắng). Hàng đầu: Thêm, Quân, Ngô Đức Lưu (đeo tang trước ngực), Đoàn Nghĩa, giáo sư Nguyễn quang Quýnh, Tiêu Ngọc Ninh, Lâm văn Mẫn, Trương minh Nhuệ. (Hình chụp trước thềm Học viện QGHC 4 Alexandre de Rhodes)

-Ban Kinh Tài ngoài hai anh sinh viên công chức Trương quang Sáng (thủ khoa) và Nguyễn văn Tri, các sinh viên tốt nghiệp theo thứ hạng : Hoàng Ngọc Diệp, Nguyễn Ngọc Vỵ, Bùi Xuân Thích, Nguyễn như Ky, Thái hà Chung, Hà Ngọc Nghinh, Trần Nhật Ưng, Nguyễn văn Thâu, Trần Ngọc Bình, Huỳnh văn Báu, Nguyễn Vịnh, chị Thái thị Minh Nghiêm và Trần công Toàn.

2/-Bổ nhiệm:

Sau khi tốt nghiệp ngoài chị Thái thị Minh Nghiêm được bổ nhiệm riêng, và 17 sinh viên được bổ nhiệm phục vụ tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, số còn lại được gửi ra Đồng Đế (Nha Trang) để thụ huấn quân sự.

Trong lúc phải ôm súng gác đêm hay đi di hành hàng 50,60 cây số khi thì lội suối băng rừng, khi thì đi trên đường tráng nhựa của quốc lộ 1 dưới nắng gay gắt của mùa hè Nha Trang làm lột da chân trong giầy botte de saut, hay đi giây tử thần, hay thực tập những bài học tấn công bắn bằng đạn thật thì không sao tránh khỏi những ghen tỵ với các bạn được bổ nhiệm làm việc trong văn phòng tại Phủ Đặc Uỷ; nhưng sau này trong một bài viết anh Tiêu Ngọc Ninh cho biết các anh được chọn sang Phủ Đặc Uỷ do một tờ trình của Sở Nghiên cứu Chính trị của bác sĩ Trần kim Tuyến thì mới ngộ ra các bạn được tuyển chọn là xứng đáng. (Tờ trình có nội dung trình bày sự tuyển chọn và thủ tục điều tra an ninh kỹ lưỡng về quá trình hoạt động của các đương sự và nó đã được chính Cố vấn Ngô đình Nhu đệ trình Tổng thống với bút phê “ Kính bẩm anh: đã duyệt xong và kính đề nghị cho bổ nhiệm”. Cùng thời gian này, tôi chợt nhớ khi trình diện để nhận nhiệm sở mới, nhóm Phó Đốc sự khóa 6 chúng tôi được vị Đặc Uỷ trưởng đầu tiên là Đại tá Nguyễn văn Y tiếp kiến và thân mật cho biết: “Các bạn là những viên ngọc quí được Thượng Cấp tuyển chọn về đây phục vụ… [Trích bài viết “Những chuyện ít ai biết” của tác giả Tiêu Ngọc Ninh trong Đặc san Nửa Thế Kỷ Hội Ngộ].)

Nghị Định khóa 6 QGHC tốt nghiệp Đồng Đế

18 sinh viên được theo học khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế-Nha Trang có biệt danh “Lò luyện thép” hay “Trường Đồng Đế đánh giầy cả đế” dưới quyền chỉ huy của Đại tá Đỗ Cao Trí.  Sau khóa học chỉ có 13 người tốt nghiệp Chuẩn úy xếp theo thứ tự : Nguyễn Ngọc Vỵ (thủ khoa), Thái hà Chung, Lê văn Thêm, Nguyễn Vịnh, Nguyễn đắc Điều, Nguyễn công Khanh, Nguyễn văn Tiên, Nguyễn khai Sơn, Trần thanh Sử, Hà Ngọc Nghinh, Trương minh Nhuệ, Nguyễn văn Nho vàTrần Nhật Ưng. Hai anh Ngô Đức Lưu và Nguyễn trọng Can không đủ sức khỏe: anh Lưu được trả về bộ Nội Vụ từ đầu khóa học nhưng anh Can bị quân trường giữ lại cho đến hết khóa. Các anh Trần Ngọc Bình, Trần công Toàn và Phạm Đức Nhuận không tốt nghiệp khóa quân sự Đồng Đế.

Sau khi tốt nghiệp khóa Đồng Đế vào tháng 12 năm 1962, các sinh viên ban Kinh Tài được bổ nhiệm làm Trưởng ty Thanh Niên thuộc Tổng Nha Thanh Niên gồm có: Nguyễn Ngọc Vỵ (Bình Định), Trần Nhật Ưng (Pleiku), Thái hà Chung (Đà Lạt), Nguyễn Vịnh (Bình Thuận), Hà Ngọc Nghinh (?).

Hàng đứng: Nguyễn minh Quân, Lê văn Thêm, Nguyễn văn Đức, Tiêu Ngọc Ninh, Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn văn Quí (Dân biểu), Điều, Lê bỉnh Trực. Hàng ngồi: Nguyễn văn Nho, Đoàn Nghĩa, Nguyễn thành Long, Trần thanh Sử, Lê minh Quang, Lâm văn Mẫn. (Đi thăm Ký Nhi Viện- Khánh Hội).

Riêng sinh viên ban Hành Chánh được bổ nhiệm tại bộ Nội Vụ như sau: Nguyễn đắc Điều (Quảng Đức), Lê văn Thêm (Chương Thiện), Nguyễn văn Tiên (Phú Bổn), Trần thanh Sử (Long Khánh), Trương minh Nhuệ (Gia Định), Nguyễn công Khanh (Kiên Giang), Nguyễn khai Sơn và Phạm đức Nhuận (Phước Long), Nguyễn trọng Can (Phước Tuy), Nguyễn văn Nho (An Xuyên), Trần công Toàn (?); riêng Trần Ngọc Bình bị chậm bổ nhiệm một năm.

3/-Lễ tốt nghiệp:

Theo thông lệ những khoá đàn anh trước thì Lễ tốt nghiệp được ông Viện trưởng dẫn toàn thể sinh viên mặc complet trắng vào trình diện Tổng thống Ngô đình Diệm tại dinh Độc Lập và đồng thời nghe Tổng thống huấn dụ; nhưng kỳ này nhân dịp làm Lễ Khánh thành trụ sở mới của Học viện nên Lễ tốt nghiệp được tổ chức chung cho cả 3 khoá 5,6 ,7 và được diễn ra tại Đại giảng đường toạ lạc tại số 10 đường Trần quốc Toản, dưới quyền chủ toạ của Tổng thống Ngô đình Diệm, ông Cố vấn Ngô đình Nhu, bác sĩ Trần kim Tuyến cùng một số Bộ trưởng. Tất cả mọi sinh viên tốt nghiệp đều mặc complet mầu trắng. Riêng chúng tôi, các sinh viên đang thụ huấn quân sự tại trường Đồng Đế-Nha Trang thì mặc đồ đại lễ cũng mầu trắng. Các anh thủ khoa ban Hành Chánh khóa 5 Tô tiếng Nghĩa, khóa 6 Triệu Huỳnh Võ, khóa 7 Phan công Tâm được đích thân Tổng thống phát văn bằng tốt nghiệp. Đặc biệt nữa là các sinh viên thụ huấn quân sự tại Đồng Đế-Nha Trang lại được Tổng thống Ngô đình Diệm chủ toạ Lễ tốt nghiệp Chuẩn Uý khóa Ấp chiến lược: như vậy chúng tôi vinh dự được Tổng thống chủ toạ lễ tốt nghiệp cả Văn lẫn Võ. Sinh viên sỹ quan thủ khoa Nguyễn ngọc Vỵ được Tổng Thống Ngô đình Diệm trao cung tên để bắn đi bốn phương trời.

4/-Nhân vật nổi trội:

-Về ban Hành Chánh có:

*anh Triệu Huỳnh Võ từng giữ nhiều chức vụ Phụ tá Bộ Trưởng và Phụ tá Tổng trưởng;

*anh Lê văn Thêm giữ nhiều chức vụ Phó Tỉnh trưởng HC tại miền Tây, sau anh đắc cử do Hạ nghị viện bầu làm Giám sát viên của Viện Giám Sát.

*anh Phạm Đức Nhuận đã đỗ Thủ khoa năm thứ nhất Luật khoa và có bài viết đăng trong Nguyệt san Quê Hương là tập san chỉ đăng bài của các giáo sư Đại học Luật khoa.

*anh Nguyễn văn Quí đã đắc cử Dân biểu nhiều nhiệm kỳ tại đơn vị Hậu Nghĩa.

*anh Trần thanh Sử nổi tiếng là đẹp trai “đàn giỏi hát hay” nên có rất nhiều bóng hồng . Khi nghe được tin anh Sử gặp rắc rối về tình sử trong khi đi tập sự tại tỉnh Phước Tuy, nghiêm trọng đến độ Tỉnh trưởng phải viết báo cáo mật về Học viện, chị Thái thị Minh Nghiêm đã cười nói: “ Trần thanh Sử bị rắc rối là phải, sinh như nghệ, tử ư nghệ mà. [Trích bài viết “Tưởng niệm Đoàn Nghĩa” của tác giả Trần huỳnh Châu trong Đặc san Mùa Thu Nhớ Bạn.]

*anh Nguyễn thành Nhơn, sau khi tốt nghiệp anh làm một thời gian ngắn tại Phủ Đặc Uỷ và tỉnh Chương Thiện, rồi thuyên chuyển phục vụ tại tỉnh Biên Hoà từ Trưởng ty Nội an, Hành chánh, Chánh văn phòng và Phó Tỉnh trưởng cho tới ngày 30 tháng 4-1975. Đi tù Cải tạo từ Nam ra Bắc rồi định cư tại San Jose cùng vợ và 4 con. Anh là một mẫu người công chức gương mẫu, trung thành với lý tưởng quốc gia trước sau như một. Anh đã xuất bản 2 tuyển tập  “Một thời” và “Thao thức” tập hợp những bài viết đã đăng trên báo địa phương và những bài phát biểu trong các buổi biểu tình chống Việt cộng và bè lũ tay sai.

Điều, Nguyễn hữu Các (không tốt nghiệp), Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn minh Quân, Lê bỉnh Trực(Bàng thính viên), Trần thanh Sử, Đoàn Nghĩa (mất tích khi vượt biên), Tiêu Ngọc Ninh, Nguyễn văn Nho, Nguyễn thành Nhơn. (Đi thăm hãng Shell- Nhà Bè)

-Về ban Kinh Tài có:

*anh Nguyễn Ngọc Vỵ là một trong 5 Quận Trưởng dân sự tại tỉnh Bình Định. (Trần dược Vũ, khóa 3, Nguyễn Ngọc Vỵ, khóa 6, Trần Hồng, Trương văn Tuyên và Phạm gia Định cùng khóa 8).

*anh Thái hà Chung làm Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao. (Hồi đó có 3 Phát ngôn viên: Đại tá Lâm đại diện cho bộ Quốc Phòng, Bùi bảo Trúc đại diện bộ Dân Vận, Thái hà Chung đại diện bộ Ngoại Giao tổ chức họp báo tại Trung tâm Báo Chí Quốc gia trên đường Tự Do để giải thích đường lối và chính sách của Chính Phủ cho ký giả trong và ngoài nước).

*anh Nguyễn văn Tri là sinh viên cao tuổi nhất của khoá. Anh có người em ruột là anh Nguyễn văn Nhi tốt nghiệp khoá 4 Đốc sự.

-Giữ chức Phó Tỉnh/Thị Trưởng HC:

Trần Huỳnh Thanh (An Xuyên, Darlac, Phong Dinh, Sa Đéc)

Nguyễn văn Tiên (Phú Bổn, Bình Thuận, Bình Dương)

Trương minh Nhuệ (Long Khánh)

Nguyễn trọng Can (Bình Long, Đà Lạt)

Lê văn Thêm (Chương Thiện, Kiên Giang, Định Tường)

Nguyễn thành Nhơn (Biên Hoà).

Trần thanh Sử (Quảng Đức, Bình Tuy)

Nguyễn khai Sơn (Phước Long)

Nguyễn Ngọc Vỵ (Quảng Đức, Cam Ranh, Darlac).

Bùi Xuân Thích (Bình Định, Quy Nhơn)

Nguyễn Vịnh (Chương Thiện, Phong Dinh).

Hàng đứng: Can, Nho, Khanh, Điều, Quang, Lâm văn Ty (nhân viên HV/QGHC),Nghĩa, Mẫn, Nguyễn Ngọc Châu, Quân, Các, (thân hữu),Thiện (y tá HV/QGHC) cúi đầu ở giữa: Bùi Xuân Thích (ban KT). Hàng ngồi: Quí, Thanh, Nhơn, Trực, Thêm, Nguyễn văn Đức. (Đi thăm Khu Trù mật Vị Thanh-Hoả Lựu)

5/-Những đồng môn quá vãng:

-Ngô Đức Lưu 35 tuổi (7-4-1972, tại Sài Gòn khi đang làm Trưởng ty Tài Chánh-Kiến Phong)

-Đoàn Nghĩa (1978) và Hà Ngọc Nghinh (1979): trên đường vượt biên.

-Thái thị Minh Nghiêm (1988, tại Việt Nam).

-Nguyễn văn Tiên (30-10-2009, tại Canada)

-Lê minh Quang (2005, tại Little Sài Gòn, Nam Cali)

-Trần Huỳnh Thanh (2011, tại Sacramento)

-Nguyễn như Ky (7-2010, tại Texas).

-Thái hà Chung (10-3-2014, tại Little Sài Gòn, Nam Cali).

-Huỳnh văn Báu (2014, tại Canada)

-Trương minh Nhuệ (17-12-2014, tại Đức quốc).

-Nguyễn văn Thâu (? tại Sài Gòn).

-Tiêu ngọc Ninh (6-12-2017, tại Oxnard, Nam Cali).

-Bùi Xuân Thích (31-1-2022, tại Boston).

-Trần thanh Sử (2022, tại Pháp quốc).

-Nguyễn thành Long (18-4-2023, tại Michigan).

-Nguyễn thành Nhơn 85 tuổi (28-4-2023, tại San Jose).

-Nguyễn Văn Tri mất ngày mùng 6 tháng 5 năm 2023 hưởng thọ 96 tuổi tại Sacramento, Bắc Cali

Tính từ người quá vãng đầu tiên 35 tuổi năm 1972 Ngô Đức Lưu đến người quá vãng mới đây 85 tuổi năm 2023 Nguyễn thành Nhơn thì khoảng cách vừa đúng nửa thế kỷ cho cả tuổi thọ lẫn thời gian. Đúng theo ý thơ của Khoa Nghi: “Đứa đã ra đi về cõi trước/ Đứa còn chậm bước xếp hàng sau”. Mà hàng sau của khóa 6 Đốc sự bây giờ ngắn lắm rồi. (Tỷ lệ 18/36).

6/-Trụ sở và Ban giảng huấn:

-khóa 6 học từ ngày khai giảng tới ngày thi mãn khóa tại số 4 đường Alexandre de Rhodes. Khóa 6 là khóa Đốc sự cuối cùng thi tốt nghiệp tại địa chỉ này; và cũng là khóa cuối cùng nhập học vào đầu năm. Các khóa tiếp theo nhập học vào tháng 9 hàng năm.

-ban Giảng huấn gồm các giáo sư cơ hữu của Học viện và các giáo sư thỉnh giảng từ Đại học Luật khoa. Sau đây là danh sách các giáo sư xếp theo vùng miền:

* Giáo sư sinh trưởng tại miền Nam và miền Trung:  Tôn thất Trạch, Cao hữu Đồng, Nguyễn Xuân Khương, Trần ngọc Liên, Trương ngọc Giàu, Trần văn Phò, Trần văn Binh, hai Đốc phủ sứ  có bằng Cử nhân Luật: Lê văn An và Bùi quang Ân, Phan tấn Chức, Châu tiến Khương và Nguyễn tấn Thành (giáo sư đại học Luật khoa).

*Giáo sư sinh trưởng miền Bắc: Vũ quốc Thông, Nghiêm Đằng, Trần văn Đỉnh, Trần văn Kiện, Nguyễn quang Quýnh, Nguyễn mạnh Tư, Vũ Uyển Văn, Lê đình Chân, Nguyễn Lê Giang, Nguyễn cao Hách và Nguyễn Độ (giáo sư đại học Luật khoa).

{Sở dĩ tôi ghi rõ thành phần giáo sư theo vùng miền vì tôi có đọc một bài mới đây nhận xét trước năm 1963 từ Viện trưởng tới lao công tài xế đều là người miền Bắc}.

7/- Lời đồn đoán và Thực tế

2 khóa sinh Nguyễn Đắc Điều và Nguyễn Ngọc Vỵ trình diện Quân trường Đồng Đế-Nha Trang

18 sinh viên tốt nghiệp khóa 6 ĐS được bổ nhiệm đãi lệnh tại Tổng nha Công vụ chờ đi thụ huấn quân sự, không có công việc gì làm chỉ đến tụ tập nghe ngóng tin tức, nên có một bạn tỏ ra “am hiểu tình hình” đưa ra lý do tại sao chúng tôi phải đi học quân sự:”Trong bảng đúc kết kế hoạch Kinh tế Hậu Chiến của phái đoàn Stanley-Vũ quốc Thúc có đưa ra giải pháp dân sự hóa nền hành chánh địa phương bằng cách thay thế các Quận trưởng quân đội bằng các Đốc sự, nhưng các Đốc sự này phải tham dự một khóa huấn luyện quân sự tại một quân trường như Đà Lạt hay Thủ Đức”. Sở dĩ có ý kiến này vì nếu đưa các Quận trưởng đi học hành chánh thì mất nhiều thời gian hơn là đưa các Đốc sự học quân sự. Khi học tại Học viện cứ mỗi năm, vào dịp hè, các nam sinh viên phải theo học lớp quân sự lúc thì tại vườn cao su Phú Thọ, lúc thì tại xa lộ Biên Hoà, lúc thì tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung của chương trình huấn luyện cấp Trung đội trưởng.
Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ làm tờ trình lên Tổng thống Ngô đình Diệm đề nghị chúng tôi theo học khóa 12 Thủ Đức cùng với các sinh viên bị động viên. Tổng thống bút phê trên tờ trình “Gửi tham dự khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế-Nha Trang”. Thế là 18 chúng tôi ra trình diện trường Hạ sĩ quan Đồng Đế-Nha Trang để theo học khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch cùng với hơn 400 khóa sinh hạ sĩ quan được tuyển chọn học khóa này. Lúc tới quân trường chúng tôi mới được sĩ quan cán bộ cho biết, Tổng thống Ngô đình Diệm có ra kinh lý quân trường Đồng Đế vào hè năm 1961; và Chỉ huy trưởng quân trường đã dẫn Tổng thống quan sát các lớp học “Trung đội vượt sông”, “Trung đội tấn công tác xạ với đạn thật không phải đạn mã tử (đạn giả)”, “Kỹ thuật tuột núi”; và khi đoàn xe của Tổng thống di chuyển trên đường thì bắt gặp một trung đội vượt cầu khỉ (cấu tạo bởi 3 sợi dây) đi từ đồi này sang đồi kia. Tổng thống ấn tượng nhất khi chứng kiến cảnh các khóa sinh đi dây tử thần. Khi đó chúng tôi mới biết mục đích của Tổng thống gửi chúng tôi ra Đồng Đế để học tập kinh nghiệm thực hành tác chiến chứ không phải học lý thuyết chỉ huy như tại quân trường Thủ Đức. Tổng thống Ngô đình Diệm đã đến chủ tọa và đặt tên cho khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch là “Ấp chiến lược” cùng tên với khóa 16 tốt nghiệp tại trường Võ bị Đà Lạt và khóa 12 tại trường Võ khoa Thủ Đức mãn khóa cùng năm.

Tượng chiến sĩ VNCH trong tư thế thao diễn nghỉ trên đỉnh núi Hòn Khô do khóa 3 Chuẩn úy Hiện dịch xây dựng theo sáng kiến của Tiểu đoàn phó sinh viên sĩ quan gốc QGHC Thái hà Chung(khóa 6 ĐS). Sau năm 1975, người dân vùng Đồng Đế có loan truyền mấy vần thơ sau : “Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ/ Em nằm xõa tóc đợi chờ ai?”. Hay: “Em nằm đấy, ngàn năm còn xõa tóc/ Ta muôn đời, thao diễn giữa trời mây/ Nghe nhung nhớ, rụng rời trên sườn núi/ Đá núi buồn, trăn trở với cỏ cây”. Rất tiếc tượng người lính VNCH trong tư thế thao diễn nghỉ nay đã bị đập phá, không còn dấu tích gì nữa.

Thế nhưng, sau khi tốt nghiệp khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch Đồng Đế, đa số 13 Đốc sự được bổ nhiệm phục vụ tại các tỉnh thuộc loại “rừng thiêng, nước độc”, và chúng tôi cũng không thắc mắc gì về lời đồn đoán dân sự hóa trong kế hoạch” Kinh tế Hậu chiến Stanley-Vũ quốc Thúc”.
Khi Trung tướng Đỗ cao Trí làm Tư lệnh Quân đoàn II kiêm Đại biểu Chính phủ Vùng 2 Chiến thuật đã ra chỉ thị “ Những Đốc sự nào đã tham dự các khóa 3, 3 phụ và 4 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế khi giữ chức vụ Phó Quận trưởng được và phải mang cấp bậc Trung úy”. Chỉ có 3 khóa ĐS 6,7 và 8 tham dự các khóa huấn luyện quân sự này trước năm 1963 (Quân trường Đồng Đế tổ chức được có 4 khóa đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch).
Cũng trong thời gian Trung tướng Đỗ cao Trí giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II, bộ Nội Vụ có bổ nhiệm 5 ĐS giữ chức vụ Quận trưởng thay thế cho các Quận trưởng quân đội và được mang cấp bậc Trung úy tại tỉnh Bình Định, đó là: anh Trần dược Vũ (khóa 3), Quận trưởng An Túc, anh Nguyễn Ngọc Vỵ (khóa 6), Quận trưởng Bình Khê, anh Trương văn Tuyên (khóa 8), Quận trưởng Hoài Ân, anh Phạm gia Định (khóa 8), Quận trưởng An Nhơn, và anh Trần Hồng (khóa 8) thay thế anh Nguyễn Ngọc Vỵ trong cương vị Quận trưởng Bình Khê. (Anh Trương văn Tuyên đã được đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận trong trận chiến thắng đẩy lui cộng quân đánh trụ sở quận Hoài Ân).
Có phải việc bổ nhiệm các ĐS giữ chức vụ Quận trưởng tại tỉnh Bình Định là sự thử nghiệm thi hành khuyến cáo dân sự hóa nền hành chánh địa phương chăng? Nếu vậy, cũng chỉ là một sự thử nghiệm muộn màng và đoản kỳ có tính cách “cục bộ tượng trưng” cho nên cũng không có ảnh hưởng dây chuyền trong tổng thể nền hành chánh địa phương của Việt Nam Cộng hòa.
Dù các Quận trưởng dân sự này làm việc rất thành công và được bộ Nội Vụ tưởng thưởng cho thuyên chuyển nắm giữ chức vụ cao hơn trong ngành hành chánh như anh Trần dược Vũ làm Phó Thị trưởng thị xã Cam Ranh, anh Nguyễn Ngọc Vỵ làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đức và anh Phạm gia Định làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Kontum nhưng kế hoạch “dân sự hóa Quận trưởng” cũng dần dần chấm dứt. Tất cả các Quận trưởng vẫn do các quân nhân đảm nhiệm như cũ dù tại các Thị xã rất an ninh.
Báo chí thời đó đã gọi nền hành chánh công quyền của nền đệ Nhị Cộng hòa là quân đội trị dưới sự chỉ huy của “đảng kaki”.

8/-Hội ngộ:

Khóa 6 ĐS đã liên kết với khóa 7 và 8 để tổ chức 2 buổi hội ngộ:

-Hội Ngộ 40 năm khóa 6 & 7 ĐS vào ngày 4 và 5 tháng 9 năm 1999 tại Little Sài Gòn.

Bích chương 40 năm Hội ngộ “Trai khôn tìm vợ chợ đông/ Gái khôn kiếm chồng Quốc Gia Hành Chánh”. Trong ngày cuối của buổi Hội ngộ, MC Thái hà Chung đã nói: “Xin cám ơn, lẽ ra nói cám ơn chúng mày nhưng vì có vợ chúng mày nên phải nói cám ơn các anh các chị đã cho nhau một ngày để nhớ”.

-Nửa Thế kỷ Hội ngộ khóa 6 & 7 & 8 tại Little Sài Gòn vào các ngày 25, 26, 27 tháng 9 năm 2009. Nguyễn ngọc Vỵ kết thúc một bài viết bằng nhận xét: “Những ai tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành Chánh là những người suy nghĩ như một ông Hoàng, nhưng phục vụ lại là một đầy tớ”.

Trong hình: Nguyễn thành Nhơn, Nguyễn văn Tri (KT), Triệu Huỳnh Võ, Nguyễn huy Lãng, Nguyễn đắc Điều, Nguyễn văn Nho, Nguyễn văn Phước (KT)

-Đặc san Mùa Thu nhớ bạn xuất bản năm 2010 phối hợp với các khóa Đốc sự 5,6,7 và 8. Đặc san gồm có 33 bài dầy401 trang.

Trước đây Học viện QGHC là nơi đào tạo cán bộ cao cấp cho quốc gia. Khi ngồi trên ghế nhà trường, người sinh viên chỉ học và học với một lý tưởng là bảo vệ tổ quốc và chống cộng. Từ Viện trưởng sáng lập Học viện là Giáo sư Trần Cửu Chấn, tới Giáo sư Vũ quốc Thông, đều là khoa bảng, không đảng phái nên nhờ đó sinh viên từ khi vô tới khi ra trường không bị móc nối vô đảng phái nào. Nhưng đến thời Giáo sư Nguyễn Văn Bông làm Viện trưởng thì tình trạng “trung lập giữa các đảng phái” không còn nữa. Nhiều sinh viên được kết nạp vô đảng của Giáo sư Bông là Phong trào Quốc gia Cấp tiến. Các đảng phái khác thấy thế cũng mở chiến dịch kết nạp trong Học viện. Thành ra không khí Học viện đang bị đảng phái hóa và địa phương hóa. Rất may là 3 khóa 6,7 và 8 của chúng tôi không rơi vào  trường hợp này vì đến khi chúng tôi tốt nghiệp, vẫn còn Giáo sư Vũ Quốc Thông làm Viện trưởng.
[Trích bài viết “Bốn mươi năm” của tác giả Đỗ tiến Đức trong Đặc san Mùa Thu Nhớ Bạn].

9/-Thay cho lời kết:

Khởi đi cho bài viết là nghe được tin buồn 2 đồng song Nguyễn thành Long và Nguyễn thành Nhơn ra đi vào tháng 4 năm 2023, nên tôi tìm những hình ảnh thời sinh viên ra coi lại thì ngộ ra đời sống thật vô thường : “Sắc bất thị không, không bất thị sắc/ Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ngẫm ra đôi khi những học vị, chức tước như là một đám mây che nắng cho ta, hưởng được bóng mát; nhưng đôi khi đám mây đó lại trở thành mưa to gió lớn hay những trận bão cuồng phong lôi cuốn tất cả vợ con và tài sản mà chúng ta trong bao năm mới tạo dựng ra được. Đang loay hoay không biết kết thúc bài viết ra sao, thì ngày mùng 3 tháng 5 năm 2023, tôi nhận được thư của chị Nguyễn thị Ngoan, hiền thê của anh Nguyễn thành Nhơn, chuyển lá thư không ghi ngày của anh Nhơn viết cho tôi nhưng chưa gửi. Nguyên văn lá thư:

Thư Nguyễn thành Nhơn gửi trước khi quá vãng

Điều thân,

Đọc bài DUYÊN TU, cảm thấy thương bạn. Bao nhiêu công phu, kỳ vọng rốt lại hoàn không !. Đó là không phải nói chuyện bây giờ. Ngay cả ngày xưa ấy, e rằng địa phương cũng không đáp ứng lòng mong mỏi cải tiến công vụ của bạn được bao nhiêu. Nhưng bạn cũng đừng trách họ, bởi vì các anh, em cán bộ xã, ấp hồi ấy tất bật trăm công, ngàn việc. Nào là việc làng, việc ấp, nào lo an ninh bản thân, lại còn bươn chải lo sinh kế vì đồng lương đâu có bao nhiêu. Cho nên, “việc làm” đã hết hơi, hết sức làm sao nghĩ đến “việc TU” (nghiệp). Việc đời là như thế, xin bạn chớ buồn. Bằng như vẫn thấy lòng buồn man mác thì cứ gọi TOÀN KHÔNG Đỗ Đăng Tiến gửi cho bài VÔ THƯỜNG đọc chơi là hết chuyện.

Chúc Anh chị và bửu quyến MÙA GIÁNG SINH AN BÌNH.

Thân,

Nhơn”.

Xin mượn lời thư của đồng môn Nguyễn thành Nhơn làm lời kết cho bài viết.

Nguyễn Đắc Điều 

(San Diego, California 5-5-2023)

 

Lời BBT website HCMĐ:

Rất khó và rất hiếm tìm thấy và đọc được những bài viết như bài “Vài Nét về Khóa 6 Đốc Sự QGHC” của anh Nguyễn đắc Điều.

Khó, vì người viết phải có một trí nhớ vượt bậc để có thể nhớ lại được đầy đủ tên tuổi , những chuyện về tốt nghiệp,  nhiệm sở, hay trải nghiệm thăng trầm và những mất mát của những người bạn đồng khóa.

Hiếm, vì người viết còn kèm theo bài viết những tấm hình xưa cũ không thể dễ dàng tìm lại được – với chính xác danh tính của người trong hình và còn nêu rõ tấm hình chụp vào dịp nào.

BBT WEBSITE HCMĐ rất cảm ơn anh Nguyễn Đắc Điều đã cho phép đăng tải bài viết  của anh trên Trang Nhà HCMĐ.

Hy vọng rằng bài viết của anh Nguyễn Đắc  Điều sẽ được tiếp nối bằng những bài viết của quý niên trưởng khác  về nhiều khóa ĐS, CH  hay TS của Học Viện QGHC.

Mong lắm thay!

 

(*) Ghi chú thêm:

Đoạn 7 – “Lời đồn đoán và Thực tế” và hình ảnh trong đoạn này được tác giả Nguyễn đắc Điều bổ túc ngày 27/5/2023

 

 

 

Visits: 1070

Nỗi Đau Của Trí Thức Miền Nam Qua Biến Cố 1975: Trường Hợp Gs Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân

Nguyễn Bá Lộc

Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân

Trong tháng trước, tôi có nhận từ người bạn, bài báo với chủ đề “Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL 2020” đăng trên Tập san Người Đô Thị  https://uploads.nguoidothi.net.vn  ngày 18-2-2021, tờ báo nầy phát hành ở VN.Trong Tập san nầy có một bài nói về Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân, có cái tựa “Từ Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu long: Tiếc nuối một con người”. Ở một đoạn khác có câu” GS Nguyễn Duy Xuân có thiện tâm ở lại phục vụ đất nước trong hòa bình”. Và ở một đoạn khác của bài báo đó, có nhận định “ Nếu những người như GS Nguyễn Duy Xuân không bị đối xử quá nghiệt ngã, nếu tài năng của họ được dùng đúng chỗ, đúng tầm sau 1975, liệu ĐBSCL ngày nay có phải đứng trước những thử thách sống còn như trong Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL nói ở trên nhắc tới”.

Các ý trong bài báo nói trên về GS Nguyễn Duy Xuân làm tôi suy nghĩ. Từ một góc độ nào đó, từ một cảm tính nào đó,  tác giả hay bất cứ một người nào đó có thể nói sự “nuối tiếc”, tôi không ý kiến hôm nay. Có một điều nếu không nói ra thì thực là đáng trách. Đó là những nhận xét sai lệch về lập trường quốc gia chơn chánh, về tinh thần phục vụ và hy sinh cao cả chấp nhận hiểm nguy của GS Xuân, cuối cùng ông phải bị nhận cái chết thảm thương trong trại tù CS.

Thứ nữa, GS Nguyễn Duy Xuân là người thầy được các cựu sinh Quốc gia Hành chánh kính trọng, trong đó có tôi. Sau khi ra trường, tôi có nhiều dịp hầu chuyện, học hỏi và hiểu thầy Xuân, nhứt là những ngày cận kề biến cố 1975. Bởi vậy, sau nhiều suy nghĩ, tôi cảm thấy có bổn phận giải bày ở đây một số điều, mà báo ở trên, nhận xét sai GS Xuân về đạo đức chánh trị , cái trách nhiệm của một sĩ phu, và cái chánh nghĩa của đại đa số trí thức miền Nam.

Như vậy câu chuyện được tóm tắt qua hai phần:

  • Về trường hợp GS Nguyễn duy Xuân và
  • Về nỗi đau của trí thức miền Nam, qua biến cố 1975

Thứ nhứt: Trường hợp GS Nguyễn Duy Xuân  

Có mấy điểm xin nêu ra đây (Tôi mạn phép khi kể về câu chuyện GS Nguyễn Duy Xuân, tôi xin nói chút về tôi trong những cơ hội hay tương  quan gữa tôi và thầy, như một xác nhận qua những gì tôi nói là có thật):

GS Xuân là một trí thức chơn chánh và có đạo đức  

Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng như các nhà trí thức có học vị Tiến sĩ miền Nam lúc bấy giờ đã phải khổ công rất lớn trên con đường theo đuổi học vị nầy. Ông tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế ở Pháp, Cao học Kinh tế ở Anh và Tiến sĩ Kinh tế ở Mỹ qua ba giai đoạn không liên tục. Giáo sư tiếp thu được kiến thức rất tốt của đại học tại ba quốc gia hàng đầu về học vấn đại học. Ngoài ra ông đã kết hợp được kinh nghiệm thực tế qua nhiều chức vụ quan trọng, trong các giai đoạn giữa ba chương trình học đại học. Yếu tố đó cộng với đạo đức cá nhân đưa ông đến sự trọng dụng và mến phục. Dù ông ít nói, nhưng lúc nào gặp ông thường đề cập tới trách nhiệm. Ông có cuộc sống khá thanh đạm.

Sự hợp nhứt tri hành của GS thấy được qua các chức vụ và địa vị của ông trong Bộ máy Công quyền hay Giáo sư đại học của giai đoạn đầu xây dựng miền Nam. Ông là một trong rất ít GS ở Học Viện QGHC, lúc đó còn rất ít Tiến sĩ từ Mỹ về. Khóa tôi được ông dạy khi mới về nước. Ngoài ra, sau nầy, cá nhân tôi có một số dịp gặp ông nhiều hơn khi tôi làm Luận văn Cao học mà đề tài là “Tín dụng và Phát triển Kinh tế”, tôi cần tham khảo nội dung luận án Tiến sĩ của GS có chủ đề gần gần như vậy, và được học hỏi kinh nghiệm khi ông làm Tổng giám đốc Quốc gia Nông Tín Cuộc.

GS Xuân có tầm nhìn chiến lược 

Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế, ngoài việc dạy học, GS Xuân còn giữ một số chức vụ quan trọng. Lần lược, Tổng trưởng Kinh tế (1965?), Phụ tá Đặc biệt Thổng Thống (1968) , Viện Trưởng Viện Đại học Cần Thơ (1971) và Tổng trưởng Giáo dục (1975).

Dù ở vị trí và vai trò nào GS luôn tỏ ra có tầm nhìn chiến lược và coi trọng trách nhiệm của một kẽ sĩ dấn thân. Xin kể ra đây một vài trường hợp mà tôi biết .

Khi là Bộ trưởng Kinh tế (khoảng 1965), ông rất chú trọng sự phát triển kinh tế nông nghiệp là nền tảng cho kinh tế tự túc tự cường. Năm 1965, Ông thành lập Nha Thanh Tra Kinh Tế Miền Tây (Đồng bằng sông Cửu long),  trước đó chỉ có Nha Thanh Tra Kinh Tế Miền Trung (Vùng I), và Nha Kinh Tế Cao Nguyên Trung Phần (Vùng II). Tới 1974 các Nha nầy được đổi tên thành Nha Phối Hợp Kinh Tế Địa Phương (cấp vùng). Tôi phụ trách Nha Kinh Tế nầy từ 1968 đến 1975. Cũng như khi làm Tổng Giám đốc Quốc gia Nông tín cuộc trước đó, (khoảng 1958), ông mở rộng các Ty Nông tín cuộc khắp miền Nam.

Về phương diện kinh tế, GS Xuân là người đứng ra thành lập Hội kinh tế VN đầu tiên, gồm một số Tiến sĩ, một số chuyên gia, chuyên viên kinh tế, và Hội ra mắt vào khoảng 1970 .

Khi GS làm Viện trưởng Viện Đại học Cần thơ (vào khoảng 1972), tôi có dịp gặp GS nhiều hơn, học hỏi ở GS nhiều hơn, vì lúc đó tôi còn đang phụ trách Nha Thanh tra kinh tế/ Nha Phối hợp kinh tế Vùng IV. Và đồng thời tôi là Giảng viên ở Phân khoa Luật và Xã hội học thuộc Đại học Cần Thơ.Trong quảng thời gian nầy, với vai trò Viện trưởng, GS lại có dịp đẩy mạnh quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp qua một số chủ trương như: Cho nhiều kỹ sư nông nghiệp đi học thêm hay tu nghiệp. Đại học Cần thơ nhận được nhiều viện trợ hơn để phát triển tốt hơn, nhứt là từ chánh phủ Nhựt. GS thành lập chương trình đào tạo Giáo sư cơ hữu cho Đại học Cần Thơ mà hai ngành chánh là Nông nghiệp và kinh tế. Đây là chương trình phối hợp qua hai bên, của hai Đại học Cần Thơ, và một Đại học ngoại quốc, Hoa kỳ, Nhựt, và Anh.  (Tôi được cho tham gia vào chương trình nầy và vì vậy phải gặp thầy nhiều hơn). Chương trình bị chết năm 1975.

Cũng trong quan niệm, giúp nông dân có hiểu biết hơn, lợi tức họ tăng hơn thì cách tốt nhứt để con cái họ có học vấn cao hơn, và do đó ý thức chánh trị sẽ khá hơn, đúng hơn. Năm 1973, ông cho thêm vào chương trình Đại học Sư phạm, môn phụ “Thương mại hóa nông sản”.

ĐBSCL trước kia là hy vọng là căn bản cho kinh tế miền Nam, ngày nay bị suy tàn và có quá nhiều trở ngại vì vậy trong Báo cáo thường niên năm 2020, họ có cảm nghĩ phải chi còn GS Xuân hay đúng ra còn áp dụng kế hoạch của GS Xuân thì vùng nầy đâu có bị hủy hoại như ngày nay.  Thực sự, sự suy sụp của ĐBSCL, chánh yếu là do sự áp đảo của Trung cộng xây nhiều đập thủy điện ở thượng nguồn, mà VN không dám chống lại. Mặc khác, dù GS Xuân còn sống và được làm việc lại, ông cũng không đóng góp gì được trong chế độ nầy.  Đó là một kinh nghiệm, một nhận xét của một số nhà trí thức trong nước và từ nước ngoài về sau 1975.

GS Xuân có lập trường Quốc gia Dân tộc và chấp nhận hiểm nguy.

Đây là điểm chánh mà thấy cần nói ra. Vì chỉ đọc qua bài báo trong Tập san Người Đô Thị nói trên, hay bài báo nào ở VN, thì sẽ có nhiều người hoang mang, hay hơn nữa, có thể trách ông về lập trường chánh trị lúc thời thế đổi thay.

Nhưng những ngày trong tháng tư/75, tôi thường gặp GS hơn, nên biết khá rõ ràng GS vẫn giữ lập trường trước sau như một: không bao giờ theo CS, kể cả nghiên qua thành phần thứ ba, như một số ít trí thức lúc đó đã làm. Tôi có thể kể, mà tưởng như mới ngày nào.

Một lần tôi đến văn phòng ông ở Đại học Cần Thơ, vừa vào tôi chợt thấy đôi mắt ông rất đỏ dường như có ngấn lệ. GS nói ông vừa về từ văn phòng Tư lịnh Nguyễn Khoa Nam, và nói tình thế lâm nguy. (GS Xuân được Tư lịnh NKN tham vấn một số vấn đề trong những ngày tháng đen tối đó).

Rồi mấy ngày sau, tôi nghe tin GS nhận chức Bộ trưởng Giáo dục của Nội các Nguyễn Bá Cẩn (vào khoảng 10 tháng tư/1975). Tôi gọi điện thoại cho ông. Tôi hỏi GS liệu tình hình quá bi đát GS nghĩ sao ở trong Chánh phủ quá muộn màng như vậy. GS trả lời “hiện giờ thuyền sắp chìm, không thể nói nên hay không nên, mà giờ mọi người phải cùng nhau tát nước để cứu thuyền khỏi chìm”. GS Xuân tham gia nội các Nguyễn Bá Cẩn trong tinh thần và trách nhiệm của một sĩ phu, trong tình thế cực kỳ nguy hiểm.

Nội các Nguyễn Bá Cẩn chưa làm được gì , thì TT Nguyễn văn Thiệu từ nhiệm, Phó Tổng Thống Trần văn Hương  lên thay. Rồi Quốc Hội biểu quyết cho Tướng Dương văn Minh lên làm Tổng Thổng để đầu hàng ba ngày sau đó.

Khi lên TT, Tướng Dương văn Minh, thành lập ngay Nội các mà GS Vũ văn Mẫu là Thủ tướng, và vỏn vẹn trong ba ngày, Nội các nầy chỉ mới có được ba bốn Tổng trưởng. Cho nên chưa có sự bàn giao, Nội các Nguyễn Bá Cẩn vẫn ở tư thế xử lý, chờ trao quyền cho Nội các mới. GS vẫn ở trong Nội các NBC chờ bàn giao, GS Xuân không phải ở trong “Nội các Dương văn Minh” như bài báo viết sai, thực sự là Nội Các Vũ văn Mẫu.  Cái sai nầy có ý nghĩa trong trường hợp GS Xuân, tai hại danh dự GS vì sai lập trường chánh trị của ông

 Ông không phải thành viên của “nội các Dương văn Minh”, ai cũng hiểu Nội các đó là nội các của thành phần thứ ba , hay một Nội các lót đường, một nội các tay sai của CS.  Còn Nội các Nguyễn Bá Cẩn được kết hợp nhiều đoàn thể và lực lượng quốc gia chống cộng. Lập trường GS Xuân là trong lập trường chung đó.

Trong mấy ngày cuối tháng tư, tôi có lên Sài gòn, đến Bộ Giáo dục không gặp GS, tôi gặp anh Huỳnh kim Thoại (Cao học khóa I), anh vừa  được GS Xuân bổ nhiệm Phó Tổng Thư ký, anh cho tôi biết vợ con GS đã rời VN, GS ở lại, dù lúc đó việc ra đi dễ dàng với  ông. AnhThoại  còn cho biết, GS nhờ anh mua cho ông một món thuốc độc cực mạnh, và một con dao nhỏ luôn bỏ theo mình. Điều nầy chứng tỏ GS Xuân thấy được những giờ  phút cục kỳ nguy hiểm, ông phải tự hủy đời mình khi cần. Một điều rõ hơn nữa là GS chắc chắn không thay đổi lập trường để theo thành phần thứ ba, hay chạy theo CS vào giờ chót vì lý do nào đó.

 Sự cương quyết của GS không phải như lời suy diễn của bài báo Thanh niên 28-4-2015, có tựa

 “Giữ huyết mạch cho Hòn ngọc Viễn đông, vị Tổng trưởng quyết không rời quê hương”, khi nói về Tổng trưởng Nguyễn Duy Xuân.

Tôi có nghe trong mấy ngày đầu chiếm Viện Đại học Cần Thơ, nhóm sinh viên CS ở đây đòi đưa GS về Cần Thơ để “hỏi tội”, bọn nó muốn “trả thù”,  vì vài năm trước đó, có một số sinh viên CS ở Đại học Cần thơ bị Cảnh sát vùng IV bắt giam.

GS Xuân cũng như rất nhiều trí thức khác và đa số học trò của ông tại Học viện QGHC bị CS giam giữ lâu dài và trải qua nhiều trại tù. Trong cái sống nghiệt ngã, GS bị bịnh nặng và qua đời tại trại tù Nam Hà, năm 1986, thọ 61 tuổi. Dù dưới góc nhìn nào, đó là một trong rất nhiều thảm họa của trí thức VN qua lịch sử nhiều đắng cay. Và hôm nay, tôi lại xin cầu nguyện hương hồn thầy được bình yên ở cõi vĩnh hằng.

Thứ hai: Vài suy nghĩ về “nỗi đau” của trí thức miền Nam

Qua câu chuyện thảm thương của GS Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân. Một trí thức nhiều khả năng , giàu lòng hy sinh , rất đạo đức, nhưng cuộc đời ông bị kết thúc cách thảm thương, chỉ vì lòng yêu nước, vì theo đuổi trách nhiệm cũa kẽ sĩ. Sự đối xử của chủ thuyết chánh trị CS không căn cứ trên đạo đức thông thường và lòng yêu nước chân chánh.

Về tình trạng đau thương và hỗn tạp của trí thức miền Nam qua biến cố 1975

Theo truyền thống văn hóa VN thì trí thức có vai trò quan trọng bực nhứt trong xã hội, có khả năng và hiểu biết hơn thường dân và có bổn phận hướng dẫn giáo dục quần chúng.

Nhưng trong chế độ CS, một loại “trí thức mới” không phải như vậy.

Trước khi CS chiếm miền Nam, tầng lớp trí thức cấp cao cũng như những chuẩn trí thức (sinh viên), có thể tạm chia làm ba thành phần: thành phần chống cộng, thành phần thân cộng, và thành phần không có hay không muốn tỏ ra lập trường và ý thức chánh trị rõ ràng.

Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến thành phần “trí thức thân cộng”, dù không nhiều nhưng có thể là một điển hình của sự đối đầu ý thức hệ, hay tâm lý chánh trị “thời hậu thực dân” ở VN.

Dù những người trí thức nầy tự mình không hiểu CS hay bị CS dụ dỗ hoặc lý do nào khác mà  hoạt động của họ trở thành có lợi cho CS, nhứt là trong những tháng ngày của 1975. Hầu hết họ không phải là CS chánh cống, họ là “công cụ” của CS. Họ ở rải rác trong nhiều  nơi kể cả khu vực tư. Và sau thời gian sống với CS, họ không thể hội nhập được, không có cơ hội làm được việc gì đáng kể, họ tự nhận sự thất vọng, và tan biến, và để lại một số bài học đớn đau .

 Tôi xin ghi nhận ra đây một số trường hợp có thể được xếp loại dưới nhiều hình thái:

Loại hình thái được CS kết nạp, huấn luyện trước 1975, và cho vai trò quan trọng như  GS Nguyễn văn Kiết (GS Văn Khoa), và Hồ Hữu Nhựt (sinh viên Đại học sư phạm), cả hai vào cục R.  Sau tháng tư/ 1975 được đưa về Saigon làm Bộ trưởng và Thứ trưởng Giáo dục của Mặt trận GPMN. Qua năm 1976, VN thống nhứt, Mặt trận và các viên chức đó biến mất luôn.

Loại hình thái có tham vọng chánh trị chạy theo CS với hy vọng là nhập vào thành phần thứ ba, theo Hiệp định Paris. Mặt dù có nhiều người họ đang ở trong nhiều bộ phận chánh quyền quốc gia. Có thể kể  các Dân biểu Lý quí Chung, Hồ ngọc Nhuận, Dương văn Ba, GS Đại học Trần kim Thạch, Lý chánh Trung, Luật sư Nguyễn Phước Đại, LS Trần ngọc Liễng… Sau 1975 các người nầy được cho “đóng góp” làm kiểng, như chức dân biểu Quốc hội, hay chức vụ tào lao nào đó.

 Kết cuộc, họ trải qua những ngày tháng phất phơ, thất vọng, thất chí, bất mãn và tàn phai .

Loại hình thái “trở cờ” hay “tự diễn biến” với những lý do riêng: như Tiến sĩ Nguyễn văn Hảo, nguyên Phó Thủ Tướng VNCH, ở lại và viết Kế hoạch phát triển kinh tế với tựa “Vận Hội Mới” dâng cho CS và không đựơc đoái hoài. Tới 1982(?) Tiến sĩ Hảo trong lần gặp một số anh em trong khối kinh tế tài chánh của Chánh quyền cũ, ông nói “giã từ VN” và ra ngoại quốc.  Người thứ nhì tôi có gặp lại khoảng 1982 là cựu Tổng trưởng Thương mại và Tiếp tế VNCH, ông Nguyễn Văn Diệp, ông là xếp của tôi. Ông cũng đi trình diện cải tạo, nhưng chỉ sau 3 tháng ở Long Thành, và được cho về. Có thể vì ông Nguyễn văn Diệp thuộc thành phần “thân cộng” hay ít nhứt không phải loại “trí thức phản động”. Nhưng CS chỉ cho làm công tác nghiên cứu phát triển kinh tế. Tôi có thăm ông hồi 1982, vợ con ông ở Pháp và sau đó ông chết âm thầm tại VN.

Một trí thức lớn nữa là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, nguyên Phó Thủ Tướng VNCH, dường như được CS cho đóng góp sau 1975, với chức Cố vấn ngoại thương, và sau đó được cho mở  Văn phòng Tư vấn kinh tế .

Loại hình thái có công nhiều với “Cách mạng” trong nhiều hoạt động sinh viên trước 1975. Có thể kể một vài người như Huỳnh Tấn Mẫm, Hoàng phủ ngọc Tường, Nguyễn Hữu Thái, Dương văn Đầy… CS cho họ một số nhiệm vụ sau 1975. Nhưng không được trọng dụng và có sự va chạm với trí thức XHCN  miền Bắc, một số lớn sau nầy bất mãn và rút lui.

Loại hình thái đặc biệt: Một số trí thức hải ngoại không phải CS nhưng không hiểu CS, qua lời kêu gọi của Chánh quyền CS, họ  “về nước đóng góp xây dựng quê hương” từ một số nước Pháp, Anh , Nhựt , Úc, Hoa kỳ… CS tuyên truyền rất nhiều về kế hoạch nầy. Có một số trí thức  phần khởi trở về,  và sau độ 5 năm, tuyệt đa số lại rời VN trong hối hận.

Và còn nhiều nữa những “trí thức lầm lẫn” đó lần lượt rời quê hương hay sống âm thầm trong sự đổi đời, mà chính họ hay chế độ mới nầy cho rằng không thích hợp. Trí thức XHCN, dù thế nào cũng tốt hơn đối với đảng, mà trung với đảng là yêu cầu tuyệt đối.

Về chánh sách và biện pháp của CS đối với trí thức miền Nam

Nói chung, CS không ưa và có phần lo sợ trí thức chân chánh, mặc dù cần phải có trí thức để phát triển. Chính Lê Nin đã “dạy” cho các đàn em khi nắm được chánh quyền thì nên sử dụng lại trí thức của chánh quyền cũ. Trí thức đó là công cụ cho phát triển. Mặt khác, CS luôn cảnh giác và sợ trí thức thông thường, vì trí thức hiểu biết cao và đúng, còn CS thì dốt và độc tài , nhiều sai trái, nhiều khác biệt với đa số người dân. Cho nên CS chỉ đào tạo, nâng đỡ, sử dụng trí thức XHCN.

Trong nguyên tắc đó, những trí thức cũ của miền Nam không có thế đứng nào cả , kể cả những người có dính dáng hay có cảm tình ủng hộ CS lúc đầu từ nhiều nguồn khác nhau.

Nguyên tắc chung, CS có ba nguyên tắc căn bản về trí thức:

Trí thức cần cho xây dựng phát triển sau khi nắm quyền, nhưng chỉ là một công cụ (Lê Nin). Trí thức không giá trị gì mà còn cản trở cuộc “Cách mạng vô sản”(Mao trạch Đông).

Cần cảnh giác với trí thức, nhứt là “trí thức tiểu tư sản”, vì họ gần quần chúng và có ảnh hưởng đến quần chúng về nhiều mặt.

Cần phân biệt “trí thức XHCN” và trí thức chung chung, tính “hồng“ phải được đặt cao hơn khả năng “chuyên môn”.

Một số chương trình hay biện pháp của CS đối với trí thức Miền nam

Trấn an và hứa hẹn với trí thức miền Nam qua “chánh sách khoan hồng và cải tạo”. Đầu tiên, khi mới chiếm miền Nam, CS liền trấn an trí thức trong mọi ngành. Chánh quyền mới nói sẽ dùng lại các viên chức cũ, trừ những người “có tội” với nhân dân là phải được “cải tạo” thành “con người mới XHCN”, biến cải thành con người mới khác với con người cũ, xây dựng cho họ   có tình cảm đúng là “yêu nước là phải yêu XHCN”. Khoan hồng có nghĩa là không giết .

Đề phòng và trấn áp trí thức. Song song với chương trình trên, CS thực hiện biện pháp trấn át và theo dõi trí thức, nhứt là trong các đảng phái chánh trị chống cộng, trong các tôn giáo. Vụ nổi dậy của nhà thờ Vinh Sơn, làm CS càng siết chặt hơn. Một số trí thức “bị bắt nguội”. Một số trí thức hoạt động sau 1975, bị CS bắt và bị kết án rất nặng, tôi có biết trong số đó có GS Đoàn viết Hoạt, GS  GS cựu Viện trưởng QGHC  Vũ quốc Thông, GS Đào quang Huy (Học Viện QGHC),…

Chiêu dụ trí thức trong nước và hải ngoại. Vì gần như tất cả trí thức miền Nam, trí thức cao cũng như những người tốt nghiệp đại học, đều lần lượt  vượt biên trốn khỏi quê hương. Có lúc CS chơi “chiêu dụ dỗ”, một số trí thức có tài năng , vượt biên bị bắt và được thả ngay (vào khoản 1980). Trong số có những người tôi có dịp gặp sau 1982, và họ cũng đi qua Pháp cách chánh thức như: Tiến sĩ Trần an Nhàn, Kỹ sư Dương kích Nhưỡng, GS Nguyễn văn Tương.

Chánh sách “Hòa hợp hòa giải Dân tộc, HGHH”. vào khoảng những năm thập niên 1980, tình hình quốc tế có biến đổi . Trong nước kinh tế bị kiệt quệ, CS thay đổi chách sách kinh tế, cần sự hỗ trợ từ ngoài. CSVN đưa ra chiêu bài “Hòa hợp Hòa giải Dân tộc”, kêu gọi mọi người quên đi hận thù, đoàn kết mọi người Việt trong và ngoài nước .

HGHH trên nguyên tắc, có hai bước và hai cách thực thi. “Hòa giải”, trước hết là giải tỏa các mâu thuẩn lớn, sự khác biệt lớn giữa hai bên, thứ nhì là cả hai bên phải phải tự loại bỏ sự khác biệt lớn, để cuối  cùng hai bên có thể chấp nhận được trong tinh thần đặt quyền lợi đất nước trên hết. Thứ nhì, sự thỏa hiệp phải không có sự cưỡng bách. Nhưng trên thực tế, CS vẫn đi con đường cố hữu, cũng cố quyền lực, độc tài toàn trị, bằng bạo lực , bằng gian trá, lừa dối, ngăn cách người dân, bằng cưỡng đoạt tài sản quốc dân.  Thực tế, gần như ai cũng biết,  cách cai trị và hành xử với dân của CS, từ 1975 cho tới nay, cơ bản không thay đổi . CS chỉ muốn “hòa giải” theo cách của họ.

Bước thứ hai là “hòa hợp” cũng không khả thi, vì không qua bước thứ nhứt “hòa giải” được thì làm sao đến “hòa hợp”. Chánh sách HGHH cho quyền lợi dân tộc, chỉ có trong tuyên truyền, hay chỉ thực hiện được từ một số ít người vì quyền lợi cá nhân.

Mặt khác, nếu nghĩ con đường Hòa giải Hòa hợp từ yếu tố quốc tế của chiến tranh VN, thì rất phức tạp và gần như xa vời. Vì căn nguyên và sự giải quyết chiến tranh VN, tự nó là sự pha trộn một loại chiến tranh quốc nội cộng với chiến tranh quốc tế.

Kế hoạch HGHH của CS đã thất bại.

Hơn bất cứ dân tộc nào khác, người Việt bất cứ thuộc thành phần nào, đều mong ước có một ngày Hòa giải Hòa hợp thực sự trong một tình huống khác, với điều kiện khác, cách thức khác hiện nay.

Trong nhiều giới hạn của cá nhân, tôi đã góp một số ý kiến, đúng hơn là một cảm nghĩ  của một vấn đề. Mà sự suy nghĩ của tôi chánh yếu là xuất phát từ cái “đạo nghĩa”. Thêm một chút là quần chúng bao giờ, và trong hoàn cảnh nào, cũng mong chờ và tin tưởng ở những trí thức chân chính.

Cali,  22 tháng tư /2023

Nguyễn Bá Lộc

Visits: 137

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? (Phần 3)

Cao Tuấn

PHẦN THỨ 3: Ý KIẾN VỀ MỘT GIẢI PHÁP HOÀ BÌNH TRƯỜNG CỬU CHO UKRAINE

Ngưng chiến không nhất thiết dẫn đến một giải pháp hoà bình trường cửu cho Ukraine. Một giải pháp kết thúc chiến tranh Nga-Ukraine, bảo đảm hoà bình lâu dài cho Ukraine chỉ có thể trở thành sự thật nếu cả ba nước Mỹ, Nga và Ukraine đều muốn giải quyết mâu thuẫn bằng thương thuyết và tương nhượng. Quan trọng nhất là Mỹ và Nga nhưng Mỹ, ở thế mạnh hơn, phải đi bước đầu tiên trên con đường có tên là “chung sống hoà bình” ở lục địa Âu Châu.

“Chung Sống Hoà Bình ở Âu Châu” phải xem là một Sách Lược của nước Mỹ để đối phó với “Trung Quốc Mộng” của Tập Cận Bình

Để đi bước đầu tiên này, trước hết Mỹ phải tự thuyết phục một số điểm căn bản:

1. Muốn làm Nga kiệt quệ phải rút quân khỏi Ukraine Mỹ sẽ phải trả giá rất đắt về thời gian, tiền bạc cũng như những khó khăn ngay trong nội bộ nước Mỹ mà kết quả cũng không có gì chắc chắn.

Không có gì chắc chắn Putin sẽ bị lật đổ ngay cả cuộc phiêu lưu ở Ukraine của Putin thất bại.

Ngay cả Putin bị lật đổ cũng không có gì chắc chắn nước Nga sẽ không có một Putin khác – vẫn “dân tộc chủ nghĩa quá khích” chưa kể còn có thể cộng thêm “phục thù chủ nghĩa” cũng quá khích không kém.

Hoặc sẽ có một nước Nga tan vỡ làm rối loạn cả Âu Châu và kho vũ khí nguyên tử của Nga lại lọt vào tay Tàu, Iran hay Bắc Hàn? Hoặc kho vũ khí nguyên tử ấy bị chia 5, sẻ 7 và một phần lại rơi vào tay các nhóm khủng bố quốc tế tử thù của Mỹ ?

2. Nếu bị dồn đến thế cùng quẫn trong cuộc chiến Ukraine, không còn gì để mất, Nga có thể dùng đến vũ khí hạt nhân. Hoặc Nga  đành phải… “bán mình” cho Tàu. Cả 2 trường hợp đều là tai hoạ lớn lao đối với Mỹ.

3. Mỹ nên bắt tay giải hoà với Nga ở Âu Châu để có thể tập trung sức mạnh và tâm trí để đối phó với Tàu ở Á Châu. Đụng độ với Nga ở Âu Châu là chuyện thứ yếu, dàn xếp được. Đụng độ với Tàu ở Á Châu là chuyện trọng yếu, cấp bách và “bất khả thoái lui” nếu Mỹ muốn bảo vệ vị thế đệ nhất siêu cường.

4. Tiến trình hoà giải Mỹ-Nga nên bắt đầu càng sớm càng tốt. Cuộc chiến Ukraine càng đẫm máu, càng khó giải hoà. Đã leo thang tới việc  xử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật thì càng khó xuống thang. Càng gần cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Mỹ sắp tới, đương kim Tổng Thống Biden càng thiếu tự do hành động, càng bị nhiều áp lực. Nga càng “lậm” với Tàu bao nhiêu càng khó gỡ  bấy nhiêu. “Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ” !

5. Mỹ sẽ phải làm một số nhượng bộ với Nga – đối thủ của Mỹ và đối thủ  của đồng minh của Mỹ –  nhưng là “nhượng bộ có nguyên tắc”. Chẳng hạn không làm suy yếu NATO, không làm các nước Đồng Minh của Mỹ bất mãn hay mất tinh thần, không vi phạm đạo lý, luật pháp quốc tế, không bán rẻ, không phản bội Ukraine (như Mỹ đã làm với Việt Nam Cộng Hoà, với chính quyền Afghanistan !)

6. Mỹ không cần và không nên trình bầy trước công luận “nước cờ mới” có mục đích “trói tay” Tàu ở Á Châu mà chỉ cần và chỉ nên nhấn mạnh sáng kiến chiến lược này là cần thiết cho “hoà bình, ổn định, thịnh vượng của Ukraine, của Âu Châu và của toàn thế giới”

7. Sẽ có ít nhất 3 hiệp định hoà bình. Một giữa Nga và Ukraine. Một giữa Nga và NATO. Một giữa NATO + EU và Ukraine.  Hội nghị hoà bình có thể diễn ra chính thức ở một quốc gia trung lập “tương đối” nhưng có trọng lượng như Ấn Độ chẳng hạn.   Tuy nhiên, những nét chính của nội dung nên được thảo luận trước và riêng tư giữa đặc sứ của Biden với Putin tương tự như Henry Kissinger, đặc sứ của Nixon,  đã làm trong sứ mạng bí mật tại Bắc Kinh năm 1971. Biden có thể bay đến Moscow họp thượng đỉnh với Putin, theo lời mời của Putin như trường hợp Nixon gặp Mao năm 1972. Hoặc Biden gặp Putin ở một nước trung lập. Lý do công khai là để tránh một cuộc chiến tranh nguyên tử làm nổ tung trái đất ! Mà có thể cũng đúng là như thế.

8. Kế tiếp là các buổi họp riêng của Mỹ với Ukraine, Mỹ với các nước NATO Âu Châu quan trọng nhất như Anh, Pháp, Đức và những quốc gia đã và đang giúp đỡ nhiều nhất cho Ukraine chống Nga  như Ba Lan, Tiệp Khắc, các nước vùng Baltic…Các buổi họp này nhằm “đả thông tư tưởng, tìm sự đồng thuận nếu có thể” đồng thời chứng tỏ Mỹ tôn trọng đồng minh.

9. Mỹ có quyền có lập trường không hoàn toàn đồng nhất với các đồng minh Âu Châu trong việc hoà giải với Nga. Các nước Âu Châu nếu quá lo ngại về Nga thì phải tự làm mạnh hơn về quân sự quốc phòng của mình thay vì trông cậy quá nhiều vào “dù che” của Mỹ. Nếu Mỹ có “nghĩa vụ” sát cánh với các đồng minh Âu Châu để đối phó với Nga thì các đồng minh Âu Châu cũng có “nghĩa vụ” sát cánh với Mỹ để đối phó với Tàu ở Á Châu , bảo vệ các giá trị Dân Chủ, Tự Do và vị thế của khối  Tây Phương nói chung thay vì tính chuyện xé lẻ để làm ăn với Tàu.

10. Hiệp định hoà bình cho Ukraine nói riêng và cho Âu Châu nói chung chỉ “có lý” (make senses) và sẽ được tôn trọng nếu Nga, Ukraine, Mỹ , dù phải tương nhượng nhau,  đều cảm thấy “được” nhiều hơn “mất”, hoặc không có lựa chọn nào tốt hơn, hoặc ít nhất cũng thấy hoà giải có lợi về lâu dài hơn là tiếp tục cuộc xung đột.

11. Sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Bình, Mỹ nên có chính sách giúp Nga và Ukraine đẩy nhanh tiến trình hoà giải, bình thường hoá các quan hệ song phương để Ukraine trở thành “cầu nối” thân hữu giữa các nước Âu Châu và Nga, một biểu tượng của sống chung hoà bình thay vì là một lò lửa chiến tranh hay một vùng tranh chấp liên miên không dứt. Sự hoà giải giữa Ukraine và Nga cũng giúp sự hoà hợp và ổn định ngay trong xã hội Ukraine, đặc biệt giữa miền Đông Ukraine ít nhiều chịu ảnh hưởng Nga do các yếu tố địa lý, lịch sử, chủng tộc, ngôn ngữ, kinh tế, khuynh hướng chính trị  và miền Tây Ukraine thiên về các nước Dân Chủ Âu Châu cũng vì những lý do tương tự. Ukraine cần có một chính sách đối nội và đối ngoại thật khôn ngoan để có thể tồn tại, phát triển trong hoà bình, độc lập.

12. Mỹ không nên kỳ vọng Nga lập tức thay đổi chính sách 180 độ , từ “thân Tàu” chuyển sang “thân Mỹ”. Hoà giải Mỹ-Nga có nghĩa Nga-Mỹ không còn coi nhau là kẻ thù, Nga sẽ đứng trung lập đối với cuộc tranh chấp Mỹ-Tàu. Chỉ như thế đã là một thắng lợi lớn của Mỹ. Thay vì MỘT chống HAI, chỉ còn MỘT chống MỘT. Mỹ không còn phải “lưỡng đầu thọ địch”, ở cả 2 mặt trận Châu Âu và Châu Á. 80 tỉ đô la/ một năm, một tổn phí cực lớn mà Mỹ đang “phí phạm” trong cuộc chiến Ukraine, có thể được  xử dụng một cách hữu ích trong việc giúp Đài Loan gia tăng khả năng phòng thủ cũng như củng cố thế trận của Mỹ ở trong toàn miền Đông Á.

13. Mỹ có thể kỳ vọng rằng nếu Nga cảm thấy được Mỹ và các đồng minh Âu Châu không những đã hết thù nghịch mà còn đối xử “tốt” (chẳng hạn như sốt sắng đầu tư giúp Nga phát triển vùng Tây Bá Lợi Á tiếp giáp với Tàu ) thì Nga có thể nghiêng dần về phía Mỹ. Vì  sẽ sớm đến lúc Nga hiểu đầy đủ rằng Mỹ cách Nga đại dương mênh mông, thù oán cũ đều có thể bỏ qua, nhưng Tàu sát bên, chung biên giới rất dài mà Tàu đang lúc hùng mạnh và đang chuẩn bị cướp thời cơ, toan  tính giải quyết nợ nần, ân oán địa lý, lịch sử của “một trăm năm quốc nhục”.  Toan tính “thu hồi” Đài Loan, Việt Nam, Cao Ly, Mông Cổ, vốn là các “vùng đất cũ của …Thiên Triều”.  Tiến từ “trị quốc” đến “bình thiên hạ”.  Dựng Pax Sinica (“thế giới hoà bình kiểu Tàu”) thay thế Pax Americana (“thế giới hoà bình kiểu Mỹ”).  Nga không những sẽ phải trả lại mấy triệu cây số vuông lãnh thổ đã lấy của Tàu trong các thế kỷ trước, từ Ngoại Mông đến bắc Mãn Châu, phải từ bỏ các địa điểm chiến lược, các bán đảo và hải đảo trên Thái Bình Dương mà có thể còn mất thêm cả vùng Tây Bá Lợi Á  rất nhiều tài nguyên mà Nga không đủ sức bảo vệ. Tóm tắt, nếu “Trung Quốc Mộng” của Tập Cận Bình trở thành sự thực, Mỹ sẽ mất quy chế siêu cường nhưng Nga thì …mất nước !

14. Nếu Nga nghiêng về Mỹ hay Mỹ-Nga chính thức lập liên minh,          MỘT chống HAI trở thành HAI chống MỘT,  Tàu lập tức phải lo thêm mặt Bắc.

Lo vũ khí hạch tâm của Nga bao trùm cả nước Tàu mà không cần đến hỏa tiễn liên lục địa. Lo hoả tiễn hạch tâm tầm trung của Nga đủ sức “vươn tới” Cáp Nhĩ Tân, Trường Xuân, Thẩm Dương, Đại Liên, Bắc Kinh, Thái Nguyên, Thiên Tân, Thượng Hải, Vũ Hán, Thành Đô, Trùng Khánh…

Lo hàng triệu quân Nga hờm sẵn biên giới.

Đến lượt chính Tàu rơi vào cảnh “lưỡng đầu thọ địch”, không còn là Mỹ.

Tàu sẽ phải đổi thế trận. Phải phân chia lực lượng đối phó.

Mặt Bắc phải đối phó với sức mạnh của Nga.

Mặt Đông phải đối phó lực lượng của Mỹ  – đang túc trực gần eo biển Đài Loan, tại Nhật Bản, Nam Hàn và quần đảo Phi Luật Tân – được tăng cường sau khi Mỹ và NATO không còn phải vướng vào cuộc chiến tiêu hao với Nga ở Âu Châu.

Đài Loan, Biển Đông, Đông Bắc Á, Đông Nam Á sẽ được bảo vệ tốt hơn. Toàn vùng Đông Á có thể kịp thời chuyển NGUY thành AN.

Một thế thăng bằng chiến lược mới rất có lợi cho Mỹ và đặt nước Tàu  của Tập Cận Bình vào thế phải chịu bó tay. Nước Tàu của Tập Cận Bình phải chịu bó tay cũng đồng nghĩa với hòa bình, ổn định ở Á Châu và trên toàn thế giới.

Gợi ý một số điều khoản chính của các Hiệp Định Hoà Bình 2023 tại Âu Châu

Trở lại câu hỏi chính “Chiến tranh Nga- Ukraine sẽ kết thúc thế nào?”

Không ai biết chắc được tương lai nên chỉ có thể trả lời rằng nên có một giải pháp hoà bình ở Ukraine nói riêng và ở Âu Châu nói chung, một giải pháp mà ngay cả Tàu muốn phản đối cũng không có lý do để phản đối.

Như đã nói ở trên, giải pháp hoà bình đề nghị gồm các điều khoản của ít nhất 3 hiệp định. Một hiệp định giữa NATO và Nga. Một hiệp định giữa Ukraine và Nga. Một Hiệp Định giữa NATO+EU và Ukraine. Cả 3 hiệp định, họp thành toàn thể một giải pháp hoà bình,  cần được ký cùng lúc, song song mới đầy đủ ý nghĩa. (Không có gì ngăn cản Mỹ và các đồng minh Âu Châu của Mỹ ký các thoả ước riêng song phương khác với Nga hay với nhau miễn là không đi ngược với các điều khoản của 3 hiệp định trên.)

Căn cứ trên những điểm đã phân tích, hiệp định hoà bình giữa NATO và Nga nên gồm những điều khoản sau đây:

  1. Hai bên bầy tỏ ý chí “sống chung hoà bình”, giải quyết mâu thuẫn, khác biệt bằng đối thoại, thương thuyết, tương nhượng, tránh va chạm, tránh khiêu khích, tránh chiến tranh bằng mọi cách. Hai bên cũng cam kết tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp vào nội bộ của nhau.
  1. NATO xác nhận sau khi Phần Lan, Thuỵ Điển hoàn tất thủ tục gia nhập NATO sẽ không nhận thêm bất cứ thành viên mới nào khác.
  1. Hai bên cam kết thâu hồi hay chấm dứt tất cả các biện pháp thù nghịch, bất thân thiện đối với nhau kể cả các chế tài, cấm vận, trừng phạt, trả đũa cũ hay mới ; cam kết bình thường hoá quan hệ về mọi mặt chính trị ngoại giao, kinh tế tài chánh, văn hoá xã hội ; cam kết thay thế kỷ nguyên đối đầu bằng kỷ nguyên hợp tác cho sự nghiệp hoà bình, thịnh vượng, thân hữu, cởi mở cho tất cả các quốc gia Âu Châu và cho toàn thế giới.
  • Hiệp định hoà bình giữa Nga và Ukraine nên có những điều khoản sau đây :
  1. Ngưng bắn tại chỗ trước khi thương thuyết bắt đầu. Nga thực hiện việc rút quân nhanh chóng ngay sau khi Hiệp Định được ký kết. Hai bên cũng nhanh chóng xúc tiến việc trao trả tù binh chiến tranh.
  1. Ukraine cam kết theo đuổi chính sách trung lập thực sự, không gia nhập bất cứ một liên minh quân sự nào kể cả NATO.  Thuỵ sĩ và Áo là 2 mẫu mực trung lập mà Ukraine sẽ rút kinh nghiệm để áp dụng cho mình một cách thích nghi. Nga cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập và chính sách trung lập của Ukraine. Hai bên cũng cam kết không can thiệp vào nội bộ của nhau.
  1. Nga và Ukraine đồng ý cùng tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý mới tại vùng Crimea với sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để người dân địa phương này quyết định Crimea là một nước độc lập, hoặc Crimea thuộc về Nga hoặc Crimea thuộc về Ukraine. Nga và Ukraine cam kết tôn trọng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý tự do và công bằng này.
  1. Vùng Donbas gồm 2 tỉnh Luhansk và Donetsk và phụ cận, nơi có dân số gốc Ukraine và gốc Nga suýt soát nhau, vẫn thuộc về Ukraine tuy nhiên Ukraine cam kết Donbas sẽ được hưởng  qui chế tự trị rộng rãi như trường hợp tỉnh Quebec của Canada, cam kết bảo đảm tự do, bình đẳng cho mọi cư dân, nghiêm cấm mọi đối xử kỳ thị vì khuynh hướng chính tri, tiếng nói, sắc tộc, cam kết thi hành chính sách hoà hợp, hoà giải trong xã hội tại Donbas và trên toàn cõi Ukraine.
  1. Ukraine và Nga đồng ý tái lập ngoại giao, bình thường hoá mọi quan hệ, hợp tác thân hữu để cùng tiến bộ trên căn bản “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Ukraine hoan nghênh mọi nỗ lực của Nga đóng góp vô điều kiện vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, đặc biệt tại vùng Donbas nhưng không chỉ giới hạn tại vùng Donbas.
  • Hiệp Định Tái Thiết và Phát Triển giữa NATO, EU và Ukraine đúng như danh xưng có mục đích vừa khuyến khích Ukraine chấp nhận giảng hoà với Nga, vừa bù đắp những tàn phá, thiệt hại xương máu mà Ukraine phải gánh chịu khi can đảm “đứng mũi chịu sào” đương đầu với Nga, vừa giúp củng cố Ukraine thành một quốc gia “tiền phương” mạnh cả về quân sự và kinh tế, đủ sức tự bảo vệ đối với bất cứ thách thức nào trong tương lai. Hiệp Định này nên gồm các điều khoản như sau:
  1. Ukraine đặc cách được mời gia nhập EU với tư cách thành viên.
  1. Các quốc gia thành viên EU, NATO cam kết đóng góp 100 tỉ Euros vào quỹ tái thiết Ukraine.  Mỹ với tư cách là một thành viên trụ cột của NATO cam kết đóng 50% số này.  Ngân khoản viện trợ sẽ được trao cho Ukraine trong vòng 5 năm, mỗi năm 20 tỉ Euros. Ngoài ra mỗi nước thành viên cũng cam kết dành cho Ukraine mọi sự ưu đãi trong tương lai, khi có thể.
  1. Mặc dù theo chính sách trung lập, luôn luôn mong muốn hoà bình, Ukraine sẽ xây dựng một nền tảng quân sự quốc phòng đủ mạnh để tự bảo vệ và dành quyền nhận sự trợ giúp từ bất cứ ai, kể cả NATO cho mục đích này.
Được gì, mất gì?

Nói chung hoà bình tốt hơn chiến tranh. Tốt cho Châu Âu. Tốt cho Châu Á. Tốt cho cả thế giới. Tốt cả cho nhân dân Tàu ở cả 2 bên bờ eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, không chắc tốt cho Đảng Cộng Sản Tàu vốn theo chủ trương của Mao: “thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”.

Đối với cuộc chiến tranh Nga-Ukraine còn đang tiếp diễn, bài tiểu luận này đã phân tích chính trị của “thế chân vạc” và đã kết luận “chung sống hoà bình ở Âu Châu” là giải pháp tốt nhất cho Mỹ và Nga vì “cái được” vượt xa “cái mất” hoặc vượt xa “cái sẽ mất”.

Riêng với Ukraine, nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo, đang chịu bao nhiêu tang tóc và đổ nát khó có thể nói giải pháp hoà bình như phác hoạ là công bằng và xứng đáng với sự chiến đấu anh dũng của quân dân Ukraine. Đấy là chưa kể đến triển vọng Ukraine còn phải chịu mất vùng Crimea một cách vĩnh viễn sau khi người dân ở đây, đại đa số gốc Nga, trong cuộc trưng cầu dân ý tương lai dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, vẫn tỏ ý muốn Crimea thuộc về Nga.

Tuy nhiên, người Ukraine, một lần nữa, cũng cần can đảm và sáng suốt nhận định thời cuộc một cách thực tế, tự đặt những câu hỏi và tự trả lời, chẳng hạn như:  Cần bao nhiêu năm nữa để Ukraine đánh bại Nga nếu không có sự trợ giúp của Mỹ vì Mỹ đã quyết định “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” hoặc vì chính trị nội bộ của nước Mỹ đã làm gió đổi chiều ? Và Ukraine sẽ đơn độc tiếp tục cuộc chiến với giá “núi xương, sông máu” nào ? Crimea là tiêu sản hay tích sản của Ukraine nếu người dân Crimea vì các lý do lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn hoá, kinh tế thực sự muốn Crimea ly khai Ukraine để trở về với  Nga như chuyện cũ 300 năm ? Ukraine nên “giữ người ở hay giữ người đi?” Và sau cùng: trong hoàn cảnh của Ukraine, ở thời điểm lịch sử đặc biệt khó khăn này, phải chăng giải pháp hoà bình “đỡ xấu nhất” đành phải coi là tốt nhất ?

Cao Tuấn

(tháng 4/2023)

Visits: 174

Tìm Hiểu Tân Chủ Nghĩa Thực Dụng Mỹ

Lê Văn Bỉnh

Tôi tin chắc rằng dân chủ là một giá trị, không những là một giá trị về đạo đức, mà còn là một giá trị về nhận thức trong mọi lãnh vực.  Dân chủ là một đòi hỏi cho các tra vấn thực nghiệm trong bất kỳ lãnh vực nào..

(I hold that democracy to be a value, not just an ethical value, but a cognitive value in every area. Democracy is a requirement for experimental inquiry in any area.

Hilary Putnam (The American Philosopher, Giovanna Borradori, NXB The University of Chicago Press, 1994, tr. 64

Từ lúc ra đời (1907) đến nay, chủ nghĩa thực dụng Mỹ (CNTD) đã đồng hành với quốc gia trẻ trung này trên một thế kỷ. Ba triết gia tiên phong chính của phong trào gồm Charles Sanders Peirse (1839 -1914), Williams James (1842 – 1910) và John Dewey (1859 – 1952) đã luận bàn về hầu hết các phạm trù triết học: ý nghĩa, chân lý, giá trị, tra vấn, tri thức , hành động vv. Nói chung, đối với các triết gia thực dụng này, không có “chân lý” tuyệt đối và vĩnh cửu mà người ta có thể dựa vào đó để hướng dẫn cách hành xử của mình. Họ cho rằng các lý thuyết và nguyên tắc chỉ là những hiểu biết có điều kiện (contingent understandings), có thể điều chỉnh hay thay đổi khi có những thông tin mới hoặc trải nghiệm mới; và họ cũng cho rằng người ta không có nơi nào tuyệt đối cụ thể để tựa vào, hay để làm kim chỉ nam hướng dẫn. Họ muốn vận dụng những phương pháp khoa học nhằm nghiên cứu triết học, hầu đưa triết học đạt được sự hữu dụng đích thực của nó, nghĩa là giúp giải quyết được những vấn đề thực tế liên quan đến cuộc sống hằng ngày của con người. Nguyên lý căn bản này đáp ứng được tinh thần canh tân của người Thanh giáo (Puritans) cũng như “tinh thần quốc gia” của miền đất mới muốn thoát khỏi ảnh hưởng châu Âu, trong đó có ý chi của giới trí thức mong muốn đưa ra một điều gì mới mẻ, độc lập về học thuật văn chương, về sự hiện đại hóa kỹ nghệ để bắt kịp đà tiến nhanh của quốc gia tân lập. Nhờ đó mà CNTD đã được đón tiếp nồng hậu và phát triển trong hơn một thời gian khá dàị. Sau Thế Chiến Thứ Hai, ảnh hưởng của CNTD lần lần bị mờ nhạt đi tại Hoa Kỳ. Dưới đây là một số nguyên do chính.

SỰ SUY THOÁI CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG CỔ ĐIỂN

Trước hết, ngay từ khi mới ra đời, CNTD đã không được giới thiệu một cách hệ thống và rõ ràng, thậm chí ý tưởng về một số phạm trù còn mâu thuẩn nhau. Chỉ vài năm sau khi James tuyên bố Peirse là người đã khai sáng CNTD và đưa ra một số bài diễn thuyết, thì Addison Webster Moore, một giáo sư của University of Chicago đã cho in quyển Pragmatism and Its Critics (NXB The University of Chicago Press, 1910) nêu lên những điểm không rõ ràng và những hạn chế của CNTD. Chẳng hạn, Moore cho rằng CNTD bị phản đối vì (1) sự mơ hồ khó hiểu khi dùng từ “mục tiêu thực tiễn” (“practical purpose”); (2) tính chủ quan cần thiết và tính tương đối của tình thế (the necessary subjectivity and relativity of the position); việc thiếu nguyên tắc nhờ đó trải nghiệm có thể được liên kết lại (the lack of any principle by means of which experience can be united) vv. Như James từng nói “Chân lý … tồn tại phần lớn nhờ hệ thống tín dụng. Những tư duy và niềm tin của chúng ta vượt qua được với điều kiện là không gặp phải thử thách, giống y như những tờ giấy bạc vượt qua được khi không ai từ chối chúng.” (Pragmatism and Other Things, NXB: Penguin Classics, 2000, tr. 91).Vậy CNTD có thể nào giữ mãi được hào quang như James đã từng hãnh diện viết cho em mình hay không? Câu trả lời sẽ là phủ định.
Như chúng ta đã biết, trong 3 nhà tiền phong trên của CNTD, Dewey là người nổi bật nhất, không những được xem như một nhà giáo, một trí thức, mà còn là “một chính trị gia chân chính” (a stateman — để phân biệt với “một “chính trị gia chuyên nghiệp”, a politician) mặc dù ông không được bầu cử hay bổ nhiệm vào một chức vụ công quyền nào. Nhờ hiểu biết rộng rãi, uy tín cao, thường đi đây đi đó, sống lâu mà vẫn sáng suốt, ông được mời gọi cũng như tư nguyện tham gia hoạt động rất tích cực trong nhiều lãnh vực khác nhau. Theo thiển ý, chính trong lãnh vực chính trị, tư tưởng và chủ trương của ông đã khiến cho CNTD bị ảnh hưởng bất lợi không ít. Thực vậy, CNTD hứa hẹn sẽ mang lại hòa bình cho nhân loại, nhưng đã không ngăn cản được Hoa Kỳ tham chiến Thế Chiến Thứ Nhất cũng như Thế Chiến Thứ Hai; đã vậy mà các nhà thực dụng lại còn quảng bá tinh thần yêu nước và khuyến khích mọi công dân tham gia tích cực vào hai cuộc chiến này. Thêm vào đó, trong hơn mươi năm đầu thế kỷ 20 cùng với sự phát triển nhanh chóng của nhiều thành phố công nghiệp trên thế giới là sự đòi hỏi những cải cách xã hội, thay nền kinh tế cạnh tranh (competitive economy) bằng kinh tế xã hội (social economy). Tại Hoa Kỳ, phong trào cấp tiến (progressive movement) đòi hỏi một sự cải cách tận gốc rễ, yêu cầu một chính quyền có ý thức xã hội (socially concious governement), chủ trương chính quyền phải bảo vệ “tự do”, hiểu theo ý nghĩa mới. Dewey gọi tự do mới này là “quyền tự do hữu hiệu” (effective freedom), nghĩa là chính quyền không những không được tiêu cực trong việc bảo vệ quyền tự do của con người như trước đây, mà còn cần phải tích cực, phải làm những thứ gì đó đặc biệt, chẳng hạn nên chia xẻ quyền lực cách biệt lớn lao (immense inequality of power) đương thời ở thời Hoa Kỳ; hay nên hợp tác dân chủ trong việc quyết định những lý tưởng và mục tiêu, cũng như tạo ra các định chế công nghiệp và xã hội của quốc gia, như lời đề nghị của một số người ngưỡng mộ ông. Trong cuộc tranh cử Tổng Thống năm 1924, Dewey cũng đã tích cực vận động và ủng hộ ứng cử viên của Progressive Party, một chính đảng tân lập chủ trương đánh thuế cao vào của cải, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, công hữu hóa ngành hỏa xa, miễn thuế nông nghiệp, chấm dứt lao động trẻ con vv. mà ông gọi là “những thay đổi tích cực và xây dựng lại một trật tự kinh tế”, nhưng người này chỉ thắng phiếu ở tiểu bang sinh trưởng của mình mà thôị (Give Me Liberty! An America History, 2nd ed., TG Eric Foner, NXB W.W. Norton, 2009, tr. 662, 691, 734).
Dewey, theo Alan Ryan cho biết, đã lên tiếng chỉ trích những biện pháp mà Tổng Thống Roosevelt dùng để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1930 dưới ngọn cờ chủ nghĩa tự do (liberalism). Như chúng ta đã biết, Tổng Thống Roosevelt đã đưa ra khá nhiều biện pháp can thiệp rất mạnh mẽ và táo bạo vào các lãnh vực kinh tế (chẳng hạn nhiều luật lệ, qui định nhằm hạn chế quyền tự do kinh doanh, nghiệp đoàn), nhiều biện pháp hành chánh (chẳng hạn cơ quan mới mọc lên như nấm, lắm khi quyền hạn trùng lắp), cải tổ tư pháp (chẳng hạn trong nhiệm kỳ đầu đã lên tiếng đe dọa, rồi sang đầu nhiệm kỳ thứ hai đã thật sự đưa ra dự luật nhằm tăng thêm số thẩm phán tại Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, nhưng bị bác). Tuy ông còn được tín nhiệm thêm hai nhiệm kỳ nữa — ông mất vài tháng sau vào đầu nhiệm kỳ thứ tư—nhưng dư luận trong nước đã tỏ ra lo ngại đối với quyền tự do kinh doanh, với guồng máy chính quyền cồng kềnh và nhất là đối nền dân chủ truyền thống. Trong khi đảng Cộng Hòa chống đối và ngay cả nhiều đảng viên “bảo thủ” của đảng Dân Chủ cũng phải e dè, thì Dewey cho là tất cả biện pháp này còn quá thiếu cho một nghị trình cải tổ dân chủ xã hội đầy đủ. Dewey còn đứng ra thành lập ra tổ chức có tên là The League for Independent Political Action (LIPA) vào tháng 12/1928, chỉ mười tháng trước khi cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế xảy ra, với ý định tiến đến một chính đảng thứ ba, vì theo ông cả 2 đảng Cộng Hòa và Dân Chủ ăn nên làm ra và trở nên giàu có đều nhờ vào giới sản xuất với cái giá mà giới tiêu thụ và lao động phải trả. Tuy ông không chấp nhận một đảng xã hội hay cộng sản (Social or Communist Party) vì cho rằng chúng do Moscow điều khiển, nhưng theo ông, Hoa Kỳ là một quốc gia mà giai cấp trung lưu là chủ yếu cho nên phong trào cải tổ phải dựa vào giai cấp trung lưu cực đoan này (the radical middle class) và phải thực hiện ngay. (John Dewey and the High Tide of American Liberalism, NXB W.W. Norton. 1995, tr. 284 – 303).
Bên cạnh những bất đồng chính kiến nói trên, theo John P. Diggins, CNTD còn bị phê phán là “thiếu ‘một cảm nhận có kịch tính về cuộc sống’, đánh giá thấp quá khứ là cản trở cho sự tiến bộ, đòi hỏi các tư tưởng gia phải điều chỉnh với các tình huống, hơn là làm cho các tình huống phù hợp với nhu cầu và ước muốn của con người, và qua việc khuyên các nhà trí thức nên học hỏi các bí mật tự nhiên đã làm cho quyền lực trở thành đối tượng duy nhất của tri thức”. Lewis Mumford, trong ban biên tập của tờ New Republic, cơ quan ngôn luận của đảng Dân Chủ, còn “muốn Hoa Kỳ từ bỏ chủ nghĩa thực dụng, và xem lại di sản trí thức của riêng mình” (The Promise of Pragmatism, NXB The University of Chicago Press, tr. 366 – 368). Cũng theo Diggins, một biến cố khá quan trọng khác xảy ra trong lãnh vực hàn lâm đã ảnh hưởng không ít đến CNTD. Đó là vào năm 1936, Robert Hutchins, Viện Trưởng (President) trẻ trung và năng động của University of Chicago đã kêu gọi sửa đổi học trình ban Ban Cử Nhân bằng cách sử dụng những quyển sách kinh điển nổi tiếng Tây Phương và dạy theo tinh thần đối thoại của Socrate, và như thế có thể sẽ là sự trở lại của siêu hình học mà CNTD đã lâu nay công kích. Là một triết gia chính trị, Dewey tuy tin tưởng vào cộng đồng, thấy được sự thăng hoa của Hoa Kỳ, một quốc gia của những sự thật hiển nhiên và các quyền tự do cá nhân tư nhiên dưới thời tổng thống Jefferson, nhưng ông không tin rằng Hoa Kỳ cần một nền tảng triết lý chung (a common philosophical foundation). Ông đáp ứng lại bằng cách viết rằng khi người này chọn Socrate và Saint Thomas như là những nhà truyền bá có khả năng về những chân lý hàng đầu (as competent promulgators of first truths), thì cũng có kẻ khác lại thích Hegel, Marx hay Mussolini, và cho rằng Viện Trưởng Hutchins đã xâm phạm vào vấn đề: ai là người có quyền quyết định về sự thật rõ ràng nào tạo lập ra hệ cấp thứ bậc đó (sđd., tr. 392).
Từ những biến cố lớn nhỏ kể trên, người Mỹ bớt lần hào hứng với CNTD. Những nhà thực dụng khi bày tỏ những quan tâm của mình về phương diện chính trị đều là những người theo chủ nghĩa tự do về chính trị (political liberalism); nhưng như chúng ta thừa biết, khi tham gia vào các tranh cãi chính trị, thì uy tín trước đó của họ cũng thay đổi và triết thuyết mà họ đang theo cũng chịu ảnh hưởng, có thể tích cực hay tiêu cực tùy theo kết quả mang lại qua các cuộc tranh cãi đó. Chính quyền Roosevelt, trong đó có không ít những người theo CNTD, đã đưa ra nhiều biện pháp chống khủng hoảng kinh tế tuy mang lại một ít hiệu quả ban đầu, nhưng đồng thời cho thấy quá nhiều dấu hiệu đe dọa nền kinh tế tư bản và thể chế chính trị dân chủ Hoa Kỳ. Nếu không xảy ra chiến tranh đưa đến toàn dụng nhân công và guồng máy kinh tế, thì liệu những biện pháp can thiệp mà thủa đó người ta xem là rất tả khuynh liệu có đem hiệu quả lâu dài không. Lúc đó, không có những lời giải thích có hệ thống và rõ ràng đối với đủ loại biện pháp từ phía chính quyền. Thiết tưởng cần lưu ý là lý thuyết kinh tế John M. Keynes mới ra đời (1936), chưa được đem ra áp dụng trên nước nào cả, cho nên những biện pháp can thiệp có tính cách manh múng của chính quyền Roosevelt được xem là thiếu căn bản lý thuyết.

Theo Morris Dickstein, phản ứng chống lại chủ nghĩa cấp tiến (progressivism) sau 1920 biến thành phản ứng chống lại CNTD từ những người bảo thủ vốn xem Hoa Kỳ là một quốc gia ngoại lệ và thành công. Sau Thế Chiến Hai, phản ứng chống đối lại này lại càng thêm rõ nét hơn. Thêm vào đó, nhiều học thuyết mới mẻ ra đời từ châu Âu như thuyết hiện sinh, thuyết thần học về khủng hoảng (crisis theology), phân tích tâm lý, học thuyết hiện đại (modernism) tỏ ra hấp dẫn hơn đã lôi cuốn không ít giới trí thức Mỹ. Mặt khác nỗi lo sợ sự bành trướng và đe dọa của Liên Xô đã khiến quần chúng Mỹ hăng hái tìm hiểu chủ nghĩa cộng sản/xã hội, đồng thời chiến tranh lạnh bắt đầu bổ vây thế giới, khiến quần chúng Mỹ quan tâm đi tìm cội nguồn của sự sợ hãi đó. Một số di sản trí thức như CNTD, và một số “-ism” khác như định chế học (institutionism), thái độ học (behaviorism), chủ nghĩa duy lý thực tiển về luật pháp (legal realism), chủ thuyết quyết định về kinh tế (economics determinism) mà các trường đại học Mỹ hãnh diện giảng dạy lâu nay bắt đầu bị lấn lướt. Một số quan điểm mà Dewey được xem như “vua”, nay đã phải nhường chỗ cho Kierkegaard, một triết gia hiện sinh. (The Revival of Pragmatism: New Essays on Social Thought, Law, and Culture. NXB Duke University Press 1999, tr. 9)

Trong nhiều năm kế tiếp, đặc biệt từ sau Thế Chiến Hai, mặc dù về phương diện chính trị, hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa thay phiên nhau nắm quyền — ở các cấp liên bang, tiểu bang và địa phương — nhưng chủ nghĩa tự do (liberalism) vẫn không phát triển nỗi như mong ước của nhiều người, nhất là những người khuynh tả, thậm chí đôi lúc người ta không gọi đúng tên của nó, mà lại tránh né gọi là chủ nghĩa cấp tiến/tiến bộ (progressivism), như chúng ta có thể thấy ở tựa đề một số bìa sách cũng như bên trong hay bài nghiên cứu trên báo chí do các đảng viên đảng Dân Chủ viết. Đến khi Russell Kirk cho ra đời quyển The Conservative Mind (1953), trong đó thu thập những diễn ngôn chính trị, truyền thống và văn thơ lần lần gây được niềm tin căn bản cho những người bảo thủ, cũng như sự ra đời của tờ báo National Review làm chỗ dựa cho đảng viên Cộng Hòa, tạo thành một phong trào thu hút một đại bộ phận người Mỹ, thì ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do (liberalism) bị suy giảm rất nhiều, kéo xuống theo mức hấp dẫn của triết thuyết thực dụng của ba nhà thực dụng tiền phong nói trên– thường gọi là chủ nghĩa thực dụng cũ, cổ điển hay truyền thống (old, classic or traditional pragmatism).

TÂN CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG

Ngày nay các học giả Hoa Kỳ và thế giới đều công nhận Richard Rorty là người có công lớn nhất trong việc tái sinh chủ nghĩa thực dụng, và Hilary Putnam là người đóng góp không ít vào việc hoàn thiện và phát triển nó. CNTD được tái sinh này được gọi bằng nhiều tên khác nhau: CNTD tân tiến (modern pragmatism), CNTD hiện đại (contemporary pragmatism), CNTD mới (neo/new pragmatism). Trong bài này, người viết gọi đó là tân chủ nghĩa thực dụng (Tân CNTD) để dịch cái tên New Pragmatism. Nói một cách tổng quát, Rorty và Putnam đến từ những lãnh vực nghiên cứu khác nhau, tính tình cũng khác nhau. Tuy họ chia xẻ một số quan điểm của các nhà tiền phong của CNTD cổ điển, nhưng cách nhìn của họ không giống nhau, Vì vậy, tìm hiểu Tân CNTD không phải là điều dễ dàng. Dưới đây, người viết sẽ căn cứ trên vài ba tác phẩm của Rorty và Putnam, cũng như dựa vào một số các nguồn khác viết về họ (nghiên cứu, trích dẫn, phỏng vấn, tranh luận vv.) nhằm khiêm tốn giới thiệu ngắn về Tân CNTD.
Như chúng ta thừa biết CNTD ra đời phải cạnh tranh với chủ nghĩa hiện thực (realism) và chủ nghĩa lý tưởng (idealism) để chứng tỏ sự vượt trội của mình trong nhiều lãnh vực mà quan trọng hơn cả là trong các lãnh vực siêu hình, tri thức luận và lý thuyết về giá trị. Rorty và Putnam góp phần quan trọng trong việc hồi sinh CNTD cổ điển, nhưng sự đóng góp của họ cho phong trào này khá khác nhau, và giữa họ đã có những tranh luận dai dẳng tuy không gay gắt. Theo Alan Malachowski, tác giả của nhiều tác phẩm về Tân CNTD, thì Rorty không quan tâm nhiều đến lý thuyết CNTD cổ điển mà chỉ muốn hiện đại hóa một số phạm trù, như muốn bớt đi sự lệ thuộc của CNTD vào thực nghiệm, cũng như muốn nó từ bỏ sự sùng bái phương pháp khoa học. Trong khi đó, Putnam –chưa tự nhận mình là người theo CNTD– lại nghiên cứu kỹ lưỡng một số tác phẩm của ba tác giả thực dụng cổ điển này, tìm ra một số khuyết điểm, so sánh với quan điểm của các tác giả đương thời, rồi sửa sai và bổ sung cho hoàn thiện hơn. (The Cambridge Companion to Pragmatism, NXB Cambridge University Press, 2013, tr. 5 – 6). Thậm chí, trong một tác phẩm khác, Malachowski còn cho rằng Putnam chỉ làm công việc “chuẩn bị” mà chưa viết được gì nhiều về CNTD, tuy nhiên ông nhìn nhận rằng chính uy tín lớn lao của Putnam trong lãnh vực triết học nói chung đã lôi cuốn được nhiều người theo phong trào hồi sinh CNTD.

Richard Rorty (1931 – 2007)

Rorty theo chương trình cao học tại Universiy of Chicago khi trường này vẫn còn chịu một chút ảnh hưởng của CNTD cổ điển, trình luận văn (thesis) về siêu hình học. Sau đó, ông tiếp tục chương trình tiến sĩ tại Yale University (1952 – 1956) với các giáo sư có hiểu biết rộng rãi về CNTD cổ điển này. Luận án (dissertation) ra trường, The Concept of Potentiality, viết về lịch sử của khái niệm. Trong thời gian sinh viên của ông, triết học phân tích (analytical philosophy) khá thịnh hành. Theo triết thuyết này, tiến trình phân tích là trọng tâm cốt lõi – xin nhấn mạnh, vì chủ thuyết nào lại không ít nhiều sử dụng nó– của phưong pháp triết học; ngôn từ thường ngày chỉ là bề ngoài, và trong tiến trình phân tích người ta có thể khám phá ra được cấu trúc lý luận giúp giải quyết những vấn đề triết học. Rorty tỏ ra rất thành thạo và thành công trong việc sử dụng phương pháp phân tích này; nhưng về sau ông quay lại chống đối trước sự phát triển mạnh mẽ của nó. Sau đó, năm 1982 ông rời ghế giảng dạy triết học ở Princeton University vì cảm thấy không yên tâm làm một triết gia chuyên nghiệp (professional philosopher) để nhận một nghề mới liên ngành, giáo sư về nhân bản học (professor of humanities) tại University of Virginia trong gần hai thập niên. Đến năm 1998, ông lại chuyển qua Stanford University bên miền Tây với chức vụ mới, giáo sư văn chương so chiếu (comparative literature).
Qua tiểu sử ngắn về khả năng nghề nghiệp đa dạng trên, chúng ta thấy các công trình nghiên cứu đồ sộ của ông sẽ đề cập đến nhiều lãnh vực, nhưng quan trọng nhất và trước tiên là quyển Philosophy and the Mirror of Nature, NXB Princeton University Press, 2009. Trong lời giới thiệu ấn bản kỷ niệm 30 năm ngày ra đời của tác phẩm này, Michael William cho rằng nó đã tạo ra những cơn sóng chấn động đến những triết gia chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến sự hồi sinh của CNTD Mỹ. Đó là một công trình bao trùm lãnh vực rộng lớn và đầy tham vọng, bao gồm nhiều phạm trù, như tri thức học, triết lý về trí não, triết lý về ngôn ngữ, và nhiều thứ khác nữa. Theo Rorty, “Triết học là nền tảng đối với những phần còn lại của văn hóa vì văn hóa là tập hợp những đòi hỏi của tri thức, và triết học phán quyết những đòi hỏi này. Nó làm được thế bởi vì nó hiểu được nền tảng của tri thức, … của “tiến trình động não” (mental process), hay “hành động đại diện” (activity of representation) nhờ đó mà tri thức hình thành được ….Triết học càng thêm “khoa học” và nghiêm khắc hơn, thì phần còn lại của văn hóa lại càng trở nên ít được như thế hơn, và các sự phô trương truyền thông dường như trở nên phi lý hơn. Triết học nói chung bị từ chối bởi những kẻ muốn có một ý thức hê …” Trong bối cảnh đó, Rorty tìm ra được 3 triết gia mà ông cho là quan trong nhất của thế kỷ. Đó là Wittgensten, Heidegger và Dewey; nhưng ông nhận xét rằng hai người trước chỉ quan tâm đến cá nhân con người, còn Dewey mới là người đề cập đến xã hội. Rorty cho rằng trong một xã hội lý tưởng, văn hoá không còn bị chế ngự bởi nhận thức khách quan lý tưởng (ideal objective cognation), mà là bởi sự nâng cao về mỹ học (aesthetic enhancement). Theo ông, trong nền văn hóa đó, các ngành nghệ thuật và khoa học sẽ là “những bông hoa đời mọc nở tự nhiên” (unforced flowers of life). Rorty mong muốn người ta rút lại những lời phê phán mà họ đã dành cho Dewey, tức kết tội ông theo chủ nghĩa tương đối ‘relativism’ và chủ nghĩa phi lý ‘irrationalism’. (sđd, tr. 5 –13). Trong quyển sách nhằm mục tiêu tranh luận về triết học phân tích này, Rorty viết với kỷ thuật của một triết gia phân tích; nhưng sau đó, ông viết với lý luận hậu-triết học phân tích (post analytic philosophy), không còn xem những giả định là cần thiết vì những giả dịnh đặt trên nền tảng tiên nghiệm, mà dựa trên những mối quan tâm nhân bản khác.
Theo Rorty, khoa học cung ứng cho con người hiểu biết thực nghiệm, nhưng không thể cho biết những gì xảy ra đối với căn bản của sự hiểu biết đó. Ông lần lượt phủ nhận học thuyết đại diện (representationism — ND: Nói chung, đó là một học thuyết cho rằng trí óc, đôi khi bộ não, hành xử đại diện cho sự vật mà chúng ta hình dung ra, hay suy nghĩ về) của Descartes, Lockes, Kant mà ông cho là nó chỉ đưa chúng ta tới sự tìm hiểu các mức độ khác nhau mà thôi. Rorty cho rằng nếu không phân biệt được “cái có sẵn” và “cái được thêm vào” …. thì chúng ta sẽ không biết cái gì được xem như là “sự tái dựng hợp lý” (rational reconstruction) của tri thức, và chúng ta sẽ không biết mục tiêu và phương pháp của môn tri thức học là gì. Về khía cạnh này, Rorty cho rằng thế giới hiện hữu một cách độc lập với con người, mà ảnh hưởng của những nguyên nhân của nó thì không bao gồm trong các trạng thái tinh thần của con người, và không cần phải được đại diện chi cả. Do đó, thay vì đi tìm hiểu mối liên kết giữa trí não và thế giới, chúng ta nên dùng ngôn ngữ thích hợp.
Luận về vaì trò của ngôn ngữ, Rorty chỉ cho thấy rằng: “Hình ảnh trong triết lý cổ và trung cổ liên quan đến “những đồ vật” (things), của triết lý suốt các thế kỷ 16-18 là “những ý tưởng” (ideas) và của triết lý đương thời là “các từ vựng” (words); nhưng đừng vì thứ tự thời gian đó mà cho rằng triết thuyết này là sơ đẳng hay triết thuyết kia là nền tảng. Đó không vì lý do Arsitotle nghĩ rằng người ta có thể giải thích “ý tưởng” hay “từ vựng” bằng thuật ngữ “đồ vật”, mà là vì Aristotle không có một triết thuyết về tri thức …. Rorty tin rằng nếu chúng giải thích được phương cách mà ngôn ngữ hành xử (work) thì điều đó cũng giúp chúng ta hiểu được phương cách mà ngôn ngữ gắn chặt với nhân loại, và do đó cũng hiểu được bằng phương cách nào mà chân lý và tri thức đã có thể có được. (sđd. tr 257 – 273)


Trong bài nói chuyện tại trường đại học UC Berkely năm 1980, bàn về vai trò của phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu, Rorty giải thích rằng khi thành công, Galileo nói quyển Sách Thiên Nhiên (the Book of Nature) đã được viết bằng từ vựng toán học, thì ông ta muốn nói rằng từ vựng toán học không tình cờ mang lại kết quả, mà nó mang lại kết quả chỉ vì mọi thứ vốn đã sẵn bày rồi, nay từ vựng toán học mang lại kết quả bởi vì nó thích hợp với vũ trụ giống như cái chìa khóa vừa khít với ống khoá vậy. Theo Rorty, từ đó các triết gia cứ cố gắng, và thất bại, khi cảm nhận rằng phương pháp mang lại kết quả bởi vì mọi thứ vốn được bày sẵn rồi. Và cũng từ đó, trong phương pháp nghiên cứu, các thuật ngữ “khách quan”, “nghiêm khắc”, “phương pháp” được đưa ra làm ranh giới biệt lập giữa khoa học và không-khoa học. Chẳng mấy ai dám đưa ra ý kiến là khoa học chẳng có gì bí mật cho sự thành công cả; lại càng chẳng có mấy ai giải thich được vì sao từ vựng về dân chủ tự do (vocabulary of liberal democracy) lại mang đến kết quả tốt đẹp như ngày nay. Rorty xác nhận mình tin rằng các ý tưởng truyền thống như khái niệm tuyệt đối (khách quan) về hiện thực, phương pháp khoa học thì hoặc không rõ ràng, hoặc không hữu dụng; và ông khuyên mọi người nghiên cứu khoa học xã hội nên theo phương pháp của Dewey vốn nhấn mạnh đến phương cách trần thuật (narrative) và từ vựng, hơn là tính khách quan của luật pháp và lý thuyết. …Theo Rorty, có hai đòi hỏi phân biệt đối với từ vựng dùng nghiên cứu trong các khoa học xã hội: (1) Nó phải bao gồm những mô tả các tình huống giúp làm dễ dàng cho việc tiên đoán và kiểm soát, và (2) Nó phải bao gồm những mô tả giúp người nghiên cứu quyết định phải làm gì…. Đối nhu cầu cần bỏ đi các khái niêm truyền thống, như tính hợp lý, tính khách quan, phưong pháp, chân lý, Rorty cho rằng quan điểm của Nietzsche và quan điểm của CNTD không có gì khác nhau. Khi Nietzsche cho rằng đối tượng của các triết gia là phải sản sinh ra sự thật thông qua quyền lực, và họ không thể hành xử quyền lực trừ phi phải thông qua sự thật, và rằng điều sai lầm của triết học thay vì dùng logic và lý luận như những phương tiện để đem lại cứu cánh ích dụng cho thế giới, thì người ta lại nghĩ rằng những phương tiện này sẽ đưa ra một tiêu chuẩn chân lý về hiện thực, thì theo Rorty, James đã cho rằng “các ý tưởng trở thành sự thực chỉ khi chúng giúp chúng ta nhận thức ra mối liên hệ thỏa đáng với trải nghiệm”, và Dewey cũng viết là “tính hợp lý là sự đạt được hài hòa khả dĩ giữa các ước muốn khác nhau.” (Consequences of Pragmatism, NXB University of Minnesota Press, 1982 tr. 191 – 195)
Trong phần giới thiệu tuyển tập Pragmatism as Anti-Authoritarianism (HĐ Eduardo Mendieta, NXB Harvard University Press, 2021), Robert Brandom viết rằng tác phẩm gồm 10 bài nói chuyện quan trọng này của Rorty nhằm mục tiêu giúp chúng ta, về phương diện lý thuyết cũng như về thực hành, thoát khỏi phải chịu đựng các quyền lực phi nhân. Rorty muốn CNTD đem lại những thay đổi lớn lao, tạo nên một cuộc “Sáng Thế” thứ hai (a second Enlightenment), không còn xem quyền lực và trách nhiệm là phải phụ thuộc và vâng lời, như truyền thống, nghĩa là CNTD chống lại toàn trị, như tựa đề của quyển sách đã nêu ra. Về phần mình, Rorty chủ trương rằng các xã hội vốn ngờ vực các giá trị Tây phương nay nên theo Tây phương bằng cách bỏ chế độ nô lệ, thực hành sự khoan dung tôn giáo, khuyến khích nền giáo dục cho phụ nữ, khoan dung hôn nhân đồng tính, cho phép hôn nhân giữa các chủng tộc, phủ nhận chiến tranh một cách có ý thức v.v. Ông khuyến khích chúng ta làm điều này với tư cách là thành viên tinh thần của cộng đồng thế giới. Điểm quan trọng ở đây là ông cho rằng chúng ta nên từ bỏ chủ nghĩ duy lý thời kỳ Sáng Thế này (Enlightenment rationalism) vì từ bỏ nó thì mới có thể dễ chấp nhận những giá trị khác (không Tây phương); vả chăng đây là lãnh vực của các triết gia chuyên nghiệp! Rorty chủ trương chúng ta nên theo chủ nghĩa tự do thời Sáng Thế (Enlightenment liberalism) — mà theo người viết ông muốn chúng ta hiểu theo cả hai nghĩa: nghĩa tiêu cực (tức tôn trọng tự do cá nhân, không can thiệp vào đời sống. sinh hoạt riêng tư vv.) lẫn nghĩa tích cực (ngoài nghĩa tiêu cực ra, còn có thể/nên can thiệp để tạo công bằng xã hội. (sđd tr.157 – 158)
Rorty, khi kêu gọi cải tổ xã hội nhằm tạo dựng công bằng xã hội cho Hoa Kỳ, đã nhắn với các học giả cánh tả là không cần phải nghiên cứu văn hóa nữa vì nghiên cứu văn hóa đã được học gỉả Mác xít làm nhiều rồi, mà nên nổ lực nghiên cứu chính trị để huy động niềm hãnh diện của người Mỹ về sự thành công của Hoa Kỳ, để tôn vinh giá trị nền dân chủ Mỹ, xem nước Mỹ là một ngoại lệ, cũng như đánh giá cao niềm tin và truyền thống của người Mỹ, mà tất cả được ông gọi chung là “tôn giáo dân sự” (civil religious — chữ do Jean J. Rousseau đặt ra để phân biệt với nhà thờ và các định chế tôn giáo khác). Theo ông, cánh tả vẫn còn tiếp tục nghĩ dến những sắc tộc và thiểu số bị áp bức, nước Mỹ không nên là một cái nồi nấu tan chảy mọi thứ (a melting pot). Ông cho rằng, “Cánh tả này muốn duy trì cái điều khác, hơn là không thèm để ý tới nó (This Left wants to preserve otherness, rather than ignore it). Đối với ông, người Mỹ phải mô tả xứ sở mình dưới hình thái mà mình hy vọng nó sẽ trở thành, cũng như theo cách mà mình biết hiên nay nó đang như thế nào. Nói tóm lại, người Mỹ phải sống với và tranh đấu cho một nước Mỹ mà mình mơ ước. (Achieving Our Country: Leftist Thought in Twentieth-Century America, TG Richard Rorty, NXB Harvard University Press, 1998, tr. 3 –18 và tr. 100 –107). Đây là một lời khuyên tốt của Rorty, không những đúng cho người Mỹ, mà còn cho công dân của mọi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nghĩ Rorty không hoàn toàn đúng ông khi chủ trương rằng nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu chính trị là hai lãnh vực nên tách rời nhau; thực tế cho thấy, ngay cả trong những nước đang phát triển, sự áp đặt một “ý thức hệ chính trị” ngoại nhập lên một nền văn hóa truyền thống thường đã đưa đến xung đột đẫm máu, hay tan vỡ khó hàn gắn, hay phải lâu lắm mới hàn gắn lại được, trước khi xã hội đó chập chững bước tới theo ngọn cờ mới.

Hilary Putnam (1926 – 2016)

Putnam theo học chương trình cử nhân tại University of Pennsylvania. Sau đó học một năm tại Harvard Univerity, rồi chuyển qua University of California (Berkely) và tốt nghiệp PhD với luận án tiến sĩ về xác suất. Từ 1965, ông dạy tại đại học Harvard và nhiều nơi trên thế giới với nhiều môn khác nhau. Các công trình nghiên cứu đầu tiên được ấn hành liên quan đến triết lý về khoa học, về siêu hình học và về toán; không có báo hiệu nào quan trọng cho biết ông sẽ chuyển sang triết học thực dụng. Từ 1980 trở đi, ông viết nhiều trong lãnh vực CNTD nhằm bổ sung quan điểm của ba triết gia tiền phong của phong trào này, Pierce, Dewey trước rồi mới tới James.
Theo Cheryl Misak, thì ngay từ năm 1976, trong bài diễn văn khai mạc với tư cách Chủ Tịch Hiệp Hội Triết Học Mỹ (American Philosophical Association), Putnam đã phân tích rõ ràng sự khác biệt giữa thuyết hiện thực siêu hình (metaphysical realism) mà ông bác bỏ và thuyết hiện thực nội tâm (internal realism) mà ông xem là đáng được nghiên cứu thêm. Thuyết trước là một loại triết thuyết thực dụng của Pierce, theo đó sự thật là điều vô cùng hợp lý đáng tin theo. Ông nói rằng tính duy lý là khả năng quyết định các vấn đề liên hệ và các câu trả lời được báo trước, và từ đó “lý thuyết về sự thật đưa ra tiền-gỉả-định (ND: tức đưa ra trước những điều gì đó mà mình coi là đúng) về thuyết duy lý), mà lý thuyết này đến lượt nó lại đưa ra tiền-giả-định về lý thuyết điều thiện” (theory of truth presupposes theory of rationality which in turn presupposes our theory of the good”. Quan điểm này nở rộ trong các công trình nghiên cứu của Putnam trong thập niên 1980, nhưng ông vẫn luôn cẩn trọng tránh chỉ rõ vị thế của mình đối với Pierce; ông chỉ muốn cung ứng phưong cách xác nhận thận trọng (gentle verificationism) nhằm cho phép chúng ta đưa ra mọi loại tra vấn khác hơn là chỉ tra vấn khoa học. Theo Putnam, cách xác nhận theo ý nghĩa này và cách xác nhận theo ý nghĩa tích cực cho thấy rõ ràng sự khác biệt giữa thái độ rộng lượng và cởi mở mà William James gọi là chủ nghĩa thực dụng và tính sùng bái khoa học.
Trong quyển Realism with a Human Face (HĐ James Conant, NXB Harvard University Press, 1990) gom góp một số bài nói chuyện quan trọng của mình, trong đó có bài viết chung với vợ (Ruth Anna), Putnam phê phán Peirce, James và Dewey còn mang nhiều tư cách khác ngoài tư cách nhà thực dụng (pragmatist), chẳng hạn Pierce còn là người được xem theo chủ nghĩa tương đối (relativism), William còn theo chủ nghĩa thực nghiệm cực đoan (radical empiricism), Dewey còn là người theo thuyết tiến hóa (evolutionism). Cách nhìn thuần khiết này không được một số người chấp nhận, viện lý do rằng muốn đạt tới sự thật, thì có những vấn đề cần phải được thử nghiệm hay thực nghiệm bằng những phương cách khác nhau –vả chăng đó cũng là tính đa dạng của CNTD như James đã từng viết, và nhất là CNTD cũng đã được Dewey gọi là chủ nghĩa công cụ (instrumentism) so với các chủ nghĩa khác. Dưới đây là một vài nhận định của đôi vợ chồng này về Peirce, James và Dewy.
Trong bài viết chung về James (tr. 217 -228), ông bà Putnam nhận xét rằng cả ba triết gia thực dụng dường như không rõ ràng về tri thức luận (epistemology). Peirce tuy chỉ rõ được sự khác biệt giữa phát minh lý thuyết khoa học giải thích (explanatory scientific theory mà ông gọi là “abduction”) và nhiều loại diễn giải qui nạp sơ đẳng khác, cũng như chủ trương rằng niềm tin cần phải được xem xét lại (mà ông gọi là fallibilism) và nhấn mạnh rằng các lý thuyết khoa học phải được trắc nghiệm, nhưng lại cho rằng các nhà khoa học cần có những trực giác tốt (good intuitons) như trực giác đề ra lý thuyết, trực giác đề ra thứ tự cần làm theo để trắc nghiệm những lý thuyết xuất hiện trong đầu. Quan sát này được James và Dewey tiếp nhận và triển khai bằng cách minh thị xác nhận rằng ý tưởng về phương pháp luận tiến triển trong khi tra vấn. Theo hai tác giả Putnam, thì ngày nay có nhiều học giả đề ra những phương cách mới; trong đó một học giả có tên là W.V.O. Quine đưa ra ý kiến là tiến trình tra vấn gồm những trao đổi (trade-offs) giữa điều giản dị, sự duy trì học thuyết cũ và sự tiên đoán được chọn sau cùng (James cũng nghĩ thế) ; tuy nhiên Quine tỏ ý nghi ngờ về việc làm cho những trao đổi này có thể được rút giảm lại thành những qui luật chính xác.
Phê bình James như là một triết gia tinh thần (a moral philosopher), hai tác giả này cho biết James phủ nhận tri thức luận truyền thống về dữ kiện cảm nhận (traditional sense-datum epistemology) và tự hỏi làm sao chúng ta có thể đi đến hiểu biết về thế giới chung này khi mà chúng ta có một con số rất lớn những thế giới riêng tư (private worlds), gồm thế giới các dữ kiện cảm nhận của anh, của tôi, của người này, của kẻ nọ vv. nghĩa là của vô số người. Họ cũng lý luận rằng ngay cả trong tri thức luận thuần khiết và siêu hình học, thì mối quan tâm về con người như là những thành viên tương thuộc của một cộng đồng đã hướng dẫn James trong mọi lãnh vực nghiên cứu. Họ cũng chỉ cho thấy James phân biệt hai thế giới. Một là thế giới chỉ có một người biết cảm nhận (sentient being) mà James gọi là “niềm cô đơn tinh thần” (moral solitude), ở đó không có niềm tin nào đựợc xem là thật cả vì sự thật được giả định trước là cái gì đó ở bên ngoài người nghĩ. Và thế giới kia là thế giới có nhiều “niềm cô đơn tinh thần” nhưng chẳng ai quan tâm tới ai cả, vì sự thật giả định trước là một công đồng. Theo hai tác giả, chỉ yếu tố cộng đồng thôi thì chưa đủ. Họ cho rằng theo nhiều nhà thực dụng uy tín khác, thì “chân lý” của giáo phái Khomeini không xứng đáng được gọi là chân lý bởi vì nó không đáp ứng cho điều gì khác ngoại trừ ý chí của người lãnh đạo. Theo hai tác giả, một cộng đồng đặt thử thách các niềm tin trước trắc nghiệm là đòi hỏi tối thiểu cho sự hiên hữu của chân lý. Cái nhìn quan trọng này về mối liên hệ sâu sắc giữa chân lý, thực tế và cộng đồng đã giúp James đưa ra khái niệm “tôn giáo trung quan” (melioristic region –ND: meliorism là chữ được đặt ra để chỉ thái độ giữa bi quan và lạc quan, chủ trương con người có khả năng làm cho thế giới tốt đẹp hơn)
Cũng trong quyển sách này, Putnam bác bỏ ý kiến của James khi James cho rằng đến nay người ta vẫn chưa biết được lúc nào chúng ta đang “ảo tưởng” và lúc nào chúng ta không ảo tưởng. (ND: hallucination, một tâm bệnh mà người mắc phải cho biết mình đôi khi thấy hay nghe một thứ gì đó hoàn toàn không có trên thực tế). Theo Putnam, đó là vì James không thấy được phương cách mà nhiều người vốn chỉ quen thuộc với những đồ vật/sự vật riêng tư của mình, lại có thể tiến đến được sự hiểu biết và thậm chí tư tưởng của nhau qua tiến trình giải thích.
Qua một bài viết có tựa đề A Reconsideration of Deweyan Democracy (được in trong Pragmatism in Law & Society, HĐ Michael Brint & William Weaver, NXB Westview Press, 1991, Ch. 12 tr. 217 – 240), Putnam với nhãn quan của nhà thực dụng, đã khảo sát tư tưởng chính trị và xã hội của Deweỵ và những người theo Dewey. Trước hết ông tóm tắt quan điểm của nhà thực dụng tiền phong này như sau: Dân chủ không những là một dạng thức trong nhiều dạng thức khác của đời sống xã hội, mà còn là điều kiện tiên quyết trong việc áp dụng trí thông minh để giải quyết các vấn đề xã hội. Sau đó ông luận về trí thông minh và việc giải quyết vấn đề. Theo ông, Dewey cho rằng trí thông minh (tương phản với lý lẻ, một khái niệm trong triết học truyền thống) không phải là khả năng siêu phàm (transcendental faculty); mà chỉ đơn giản là khả năng họach định cuộc nghiên cứu, biết được các sự kiện liên quan, làm các thử nghiệm và hưởng dụng việc hoạch định, các sự kiện và các thử nghiệm đó. Khái niệm này được coi như khá mơ hồ; nhưng quả thực có khả năng quyết định được ai thông minh ít hoặc nhiều trong việc dẫn dắt cuộc nghiên cứu. Putnam cũng tuyên bố rằng đóng góp lớn nhất của Dewey là khi xác quyết rằng chúng ta không có và cũng không cần một “lý thuyết về mọi thứ” (theory of everything), đồng thời nhấn mạnh rằng điều cần thiết là hiểu biết sâu sắc (insight) về phương cách mà con người giải quyết các tình huống. Putnam cho rằng Dewey đã từng đưa ra ý kiến như thế, nhưng một số nhà nghiên cứu đương thời (thập niên 1980) đã không nhận ra, hay hiểu không đúng. Tuy nhiên, Putnam cũng phê phán rằng Dewey ít nhạy cảm (sensitive) hơn James đối với giới hạn của trí thông minh, chỉ vì Dewey bị chi phối bởi nguyên lý nhị nguyên về những điều tốt của con người (dualistic conception of human goods). Theo đó, Dewey cho rằng chỉ có hai loại lãnh vực cho đời sống con người: lãnh vực thẩm mỹ (aesthetic dimension) và lãnh vực xã hội (social dimension). Dewey cho rằng lãnh vực xã hội là sự phấn đấu cho một thế giới đẹp đẽ hơn, một xã hội tốt lành hơn, và giải phóng được tiềm năng con người; còn tất cả “trải nghiệm đột hảo” (ND: consummatory experience, tức trải nghiệm có hậu quả tốt nhờ vào tình cờ hay hứng khởi, không qua tiến trình thử nghiệm khoa học như CNTN chủ trương) đều thuộc lãnh vực thẩm mỹ. Dewey chủ trương rằng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, chúng ta cần có trí thông minh để thực hiện, không nhất thiết phải là trí thông mình của các chuyên gia, bởi lẽ họ là giới được ưu đãi sẽ không vì đại chúng, mà là trí thông minh của mọi con người. Trí thông minh này có được là nhờ giáo dục.
Về chủ trương giáo dục, Putnam nhắc nhở rằng đối với hiện trạng, Dewey không còn là một người tự biện (apologist), mà trở thành một kẻ cực đoan. Để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, nếu Marx chủ trương “cách mạng”, thì Dewey chủ trương phải gấp rút thay đổi “giáo dục”. Ông nhiều lần nhấn mạnh phải xem “giáo dục” là nhu cầu khẩn thiết, phải có một nền giáo dục nhằm đào tạo con người, nam cũng như nữ, biết cách học hỏi và tư duy có phê phán. Theo Dewey, nền giáo dục và nền dân chủ phải tiến hành từ dưới đi lên. Theo Putnam, Dewey đã từng viết rằng an lạc xã hội chỉ có thể tăng tiến nhờ phương cách chiêu mộ và qui tụ sự quan tâm tích cực và năng lực sinh động của những người sẽ được hưởng lợi và những người được cải thiện. Về phần mình, Putnam nghĩ rằng sự cam kết nghiêm túc với dân chủ được đo lường và đánh giá qua sự cam kết nghiêm túc với giáo dục, và ông tiết lộ rằng ông cảm thấy xấu hổ về nền dân chủ (Hoa Kỳ) vào cuối thế kỷ 20. Chúng ta hẳn không quên rằng Putnam và Rorty đều trưởng thành trong gia đình tả khuynh, và đã từng hoạt động rất tích cực trong phong trào sinh viên Mỹ chống Chiến Tranh Việt Nam, và đã thay đổi quan điểm chính trị ít nhiều về sau này. Cả hai đều đã qua đời. RIP
Đối với vai trò của dân chủ, Putnam trong một cuộc phỏng vấn cho biết là ông tin chắc rằng ngoài giá trị về phương diện đạo đức –tức thuộc về lãnh vực chính trị– dân chủ còn có giá trị về phương diện nghiên cứu, như lời đã dẫn dưới tiêu đề của bài viết này. Ông còn nhấn mạnh rằng phủ nhận dân chủ là phủ nhận rằng ý kiến cần phải qua thực nghìệm, và bấy lâu nay, chúng ta đã đủ kinh nghiệm hiểu biết là điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta nói rằng chúng ta không cần qua thực nghiệm hay thử nghiệm.

KẾT LUẬN

Trên đây, Tân CNTD được giới thiệu chỉ qua hai học giả Rorty và Putnam, cùng với một số rất ít quan điểm của họ trong một số lãnh vực hạn chế mà thôi. Cũng như đối với CNTD cổ điển, chúng ta biết ngoài họ ra, còn có nhiều nhà tân thực dụng khác nữa. Nói chung, CNTD, cổ và tân, còn đang ở tiến trình nghiên cứu, sửa sai và bổ sung để hoàn chỉnh hầu đáp ứng nhu cầu tri thức của nhân loại, cũng như áp dụng để phục vụ con người, nhất con người với tư cách là thành viên trong cộng đồng và xã hội rông lớn hơn, như ước muốn của những người tạo lập và tái sinh nó.
Người viết vốn không được đào tạo trong lãnh vực triết học, cũng như chính trị học, do đó bài viết này cũng như bài viết trước đây (“Tìm Hiểu Chủ Nghĩa Thực Dụng của Hoa Kỳ”) chỉ là những giới thiệu ngắn ngủi rời rạc, trong khi CNTD lại bao trùm quá nhiều phạm trù rộng lớn, chưa có quyển sách nào tóm lược đầy đủ. Tuy nhiên, người viết vẫn có một hy vọng. Đó là từ những gợi ý này, chúng ta có thể sẽ thấy xuất hiện nhiều nghiên cứu khác, đăc biệt là những nghiên cứu chi tiết nhằm vận dụng một cách chọn lọc CNTD vào hoàn cảnh Việt Nam trong nhiều lãnh vực, đặc biệt trong các lãnh vực chính trị, ngoại giao và giáo dục, để đề xuất những cải tổ hiện trạng một cách thích hợp nhằm giúp cho quốc gia được ổn định và cường thịnh hơn, cũng như cho xã hội được an lạc và nhân bản lâu dài hơn.

Lê Văn Bỉnh

(Virginia, tháng 1/ 2023)

Sách Đề Nghị Đọc Thêm về Tân Chủ Nghĩa Thực Dụng
Evidence and Inquiry: A Pragmatist Reconstruction of Epistemology (TG Susan Haack, NXB Prometheus Books, second expanded edition, 2009)
Pragmatism: A Contemporary Reader (HĐ Russel B. Goodman, NXB Routledge, 1995)
Reading Rorty: Critical Responses to Philosophy and the Mirror of Nature (HĐ Alan R. Malachowski, NXB Basil Blackwell, 1990)
Pragmatism and Social Hope: Deepening Democracy in Global Contexts (TG Judith M. Green, NXB Columbia University Press, 2009)
The Cambridge Companion to Pragmatism (HĐ Alan Malachowski, NXB Cambridge University Press, 2013)

Visits: 58

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? ( Phần 1 và 2)

Cao Tuấn

PHẦN THỨ NHẤT: CÁC KỊCH BẢN

Cuộc chiến của người Ukraine chống Nga xâm lăng là cuộc chiến tranh vệ quốc có chính nghĩa rất khó phủ nhận.  Ngay cả đối với những người muốn bênh vực hay ủng hộ nước Nga của ông Tổng Thống Vladimir  Putin.

Chính nghĩa tất thắng?

  • Đúng vậy,  theo quan điểm đạo lý.
  • Không hẳn, nếu nhìn vào lịch sử các cuộc chiến tranh hoặc vào “chính trị thực tế”.

Cuộc chiến tranh Phần Lan chống một triệu quân Liên Xô xâm lăng 1939-1940 là một thí dụ gần gũi nhất.  Chính nghĩa của Phần Lan đầy đủ, minh bạch – một nước nhỏ hiền hoà bị một nước lớn vô cớ xâm lược.  Quân đội Phần Lan ngày ấy, không kém gì quân đội Ukraine bây giờ,  khôn ngoan và anh dũng – đánh bại quân Liên Xô nhiều lần trước sự thán phục của cả thế giới.  Tuy nhiên cuối cùng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, Phần Lan phải chịu thất trận và chịu mất một phần lãnh thổ cho Liên Xô.

Chính nghĩa, như thế, dù có tầm quan trọng chiến lược, chỉ là một yếu tố – cần nhưng chưa đủ – để thắng một cuộc chiến tranh.

Để trả lời câu hỏi chủ yếu “chiến tranh Nga-Ukraine sẽ kết thúc thế nào? “ thử xem xét một số kịch bản khác nhau và bàn về mức độ khả hữu của mỗi kịch bản.

Kịch bản 1 : Chiến tranh kết thúc với Nga toàn thắng, đè bẹp Ukraine trên chiến trường, chính quyền Ukraine đầu hàng và bị thay thế bởi một chính quyền bù nhìn thân Nga.

Bước qua năm thứ hai của cuộc chiến, kịch bản này có mức độ khả hữu rất thấp.  Lý do:

– Ukraine có lãnh đạo chính trị xuất sắc, nổi bật là Tổng Thống Zelensky tài năng, khôn ngoan và rất phong cách.  Trước công luận thế giới, chính nghĩa của Ukraine “chống Nga xâm lược” áp đảo hẳn tuyên truyền của Nga về “chiến dịch quân sự đặc biệt chống Mỹ và các nước NATO đang xử dụng Ukraine để bao vây, chèn ép, phá hoại nước Nga trong sách lược làm tan rã nước Nga – như đã làm tan rã Liên Xô trước đây”.

– Dân Ukraine rất đoàn kết chống xâm lược.  Xâm lược càng tàn bạo, căm thù càng cao, quyết tâm càng mạnh.

– Quân đội Ukraine quả cảm, càng đánh càng tinh nhuệ.

– Ukraine được các nước trong khối NATO chi viện rất nhiều về đủ mọi mặt . Đặc biệt là Mỹ đã cung cấp trên dưới 80 tỉ đô la quân viện và kinh viện chỉ trong năm đầu tiên của cuộc chiến – một con số phá kỷ lục.  Kế đó là Anh, Ba Lan, Canada, Hoà Lan, Na Uy, Đan Mạch, các nước vùng Baltic …cũng giúp tận tình.

– Mạnh như Liên Xô, như Mỹ mà không khuất phục được nước Afghanistan 40 triệu dân thì Nga, dù có leo thang tổng tấn công tràn ngập Ukraine (có kích thước tương đương Afghanistan), dù chiếm được các thành phố kể cả thủ đô Kiev, sẽ không bình định nổi Ukraine, sẽ bị sa lầy với chiến tranh du kích của người Ukraine.

Kịch bản 2 :  Putin, tác nhân chủ yếu – hoạch định, phát động, điều khiển cuộc chiến tranh – bị ám sát hay bị lật đổ, chiến tranh Nga-Ukraine kết thúc.

Kịch bản này cũng có mức độ khả hữu không đáng kể.

Ám sát hay lật đổ Putin cũng khó như ám sát hay lật đổ Tập Cận Bình hay Kim Jong Un.

Putin, Tập, Kim đều là nhưng lãnh tụ độc tài cai trị bằng bàn tay sắt cùng lúc ban phát quyền lợi hậu hĩ cho các thuộc hạ trung thành được tuyển chọn kỹ, nắm vững tình hình nội bộ, không để lộ sơ hở.

Riêng Putin  – xuất thân tình báo cao cấp KGB, thâm hiểm, mưu mẹo, phất cờ dân tộc chủ nghĩa, khai thác mặc cảm tự tôn, tự ti, các ẩn ức của dân Nga – đã làm độc tài, độc tôn gần 1/4 thế kỷ sau khi  diệt trừ hết mọi đối thủ.  Triển vọng Putin đột nhiên biến mất trên chính trường nước Nga là ảo vọng.

Mặt khác, Putin có thể đang là một hình ảnh xấu xí trên thế giới nhưng có thể rất khác ở bên trong nước Nga, ngược hẳn lại với trường hợp của Gorbachev – được ca tụng ở các nước Tây Phương như một vĩ nhân, lại bị ghét bỏ ở Nga.  Gorbachev bị dân Nga, công bằng hay không, quy trách nhiệm đã làm đế quốc Liên Xô tan vỡ, quy trách nhiệm đã làm cho nước Nga tang thương, lụn bại cả chục năm sau đó – một nước Nga dưới sự lãnh đạo của… Boris Yeltsin!  Thay vì tặng huy chương “quán quân dân chủ” hay  “quán quân hoà bình” cho Gorbachev thì dân Nga gắn mề đay cho Putin vì “đã vực dậy nước Nga của họ từ đống tro tàn”.  Thực tế này, sai đúng đến đâu, vẫn là một thực tế phải ghi nhận.

Kịch bản 3 :  Cuộc chiến kết thúc với Ukraine đại thắng trên chiến trường, lấy lại toàn bộ lãnh thổ bị xâm chiếm kể cả Crimea, Nga đại bại phải bồi thường thiệt hại như Ukraine đòi hỏi.

Kịch bản này cũng có mức khả hữu thấp.  Nga sẽ không đại bại.  Ukraine sẽ không đại thắng.  Và không có bồi thường chiến tranh.

Lý do:

– Nga có lợi thế và tận dụng lợi thế của một cường quốc sở hữu vũ khí nguyên tử vĩ đại, lợi hại bằng hoặc hơn Mỹ.  Đánh nhau với bất cứ nước nào, với lợi thế này, chung cục thì Nga hoặc thắng, hoặc hoà chứ rất khó bại, trừ khi tự ý buông tay, ngửa cổ cho địch thủ chặt đầu mình.

Điều này, vào ngày 22/02/2023 vừa qua tại thủ đô của đồng minh Ba Lan, ngay sau chuyến viếng thăm Ukraine bất ngờ, đã được Tổng Thống Mỹ Biden xác nhận một cách gián tiếp nhưng lại rõ ràng đến mức không giải thích khác được.  Lời phát biểu của Biden ngày này, nơi này, được báo chí thế giới đồng loạt đăng tải, nghe qua có vẻ đanh thép nhưng thực ra  lại rất…”khiêm tốn” nếu không nói là “yếu xìu”  : “Ukraine will never be a victory for Russia — never.” ( Ukraine sẽ không bao giờ là một chiến thắng đối với Nga. Không bao giờ.” )

Nếu nhớ lại thông điệp của Mỹ gửi cho Nhật vào cuối thế chiến thứ hai : “Đầu hàng vô điều kiện hoặc bị tiêu diệt!”, người ta phải tự hỏi tại sao Biden không tuyên bố, ít nhất, một lời minh bạch chẳng hạn như : “Nga chắc chắn sẽ bị đánh bại hoàn toàn ở Ukraine. Không thể khác được!“  Tại sao không nói?!

Phải chăng, “vừa đánh, vừa run” hay “vừa đánh, vừa hồi hộp”?  Phải chăng đánh mà không dám thắng?   Phải chăng “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng cố thây?”

     – Mỹ và Nga có quyền lợi “địa chính trị” trái ngược nhau ở Âu Châu nói chung và Ukraine nói riêng.  Cuộc chiến Nga-Ukraine cũng là cuộc chiến Nga-Nato, cốt lõi là cuộc chiến Nga-Mỹ bất kể 2 nước có trực tiếp giao chiến hay không.  Nga leo thang tấn công Ukraine đến đâu, Mỹ leo thang yểm trợ Ukraine ứng phó đến đó nhưng lại cẩn thận…trói tay Ukraine để yên tâm không làm Nga tức giận, mất mặt hay thất vọng đến mức phát khùng mà ấn nút phóng bom nguyên tử.

Nga biết thế, càng làm già, càng dậm doạ, càng mặc sức leo thang, mặc sức đánh Ukraine túi bụi.  Nga tự tung, tự tác trên khắp lãnh thổ Ukraine – nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ kia, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi.  Tự do mang xe tăng uy hiếp Kiev.  Tự do bố trí  hàng ngàn hoả tiễn có tầm bắn vài trăm cây số hay hàng ngàn cây số, đặt sâu trong lãnh thổ Nga để ngày đêm bắn phá các mục tiêu ở khắp Ukraine.  Tự do mang phi cơ bỏ bom bất cứ nơi nào…Và …tự do dùng vũ khí nguyên tử chiến thuật để tiêu diệt các sư đoàn của Ukraine, một quốc gia chưa chính thức là thành viên NATO – trong trường hợp Ukraine phản công quá mạnh và Nga bị nguy ngập trên chiến trường.

Cung cấp viện trợ khổng lồ cho Ukraine nhưng Mỹ từ chối cung cấp cho Ukraine đủ số lượng xe tăng có phẩm chất tốt, phi cơ tầm xa, pháo binh tầm xa, hoả tiễn tầm xa mà Zelensky khẩn thiết yêu cầu… Thực tế có nghĩa là Ukraine bị “cấm” trả đũa tương xứng, bị  “cấm” đánh qua biên giới,  bị “cấm” tiến quân vào Moscova, bị “cấm” bắn phá các căn cứ hoả tiễn, phi trường nằm trong đất Nga nơi xuất phát các cuộc tấn công có tính cách khủng bố của Nga, bị “cấm” đụng đến Belarus, một quốc gia “khách hàng” đang tự nguyện làm “bệ phóng” cho Nga.  Bị “cấm” rất nhiều thứ… Những giới hạn hay cấm đoán này cũng có nghĩa là Ukraine, chỉ tự chủ về chiến thuật, hoàn toàn lệ thuộc Mỹ về chiến lược.  Mà chiến lược của Mỹ phải phục vụ an ninh nước Mỹ trước hết !

Ukraine hôm nay chẳng khác Việt Nam Cộng Hoà năm xưa bị Mỹ “cấm” tiến binh ra Bắc trong khi phe Cộng Sản cứ tuỳ nghi hàng hàng lớp lớp  đổ quân vào Nam.  Chiến đấu tự vệ mà bị trói tay một cách bất công như thế thì chỉ có thua hay hoà, chứ làm sao thắng cả cuộc chiến tranh đến mức bắt buộc kẻ xâm lược phải bồi thường thiệt hại !?

Kịch bản 4 :  Cuộc chiến kết thúc bằng thoả ước đình chiến như (trường hợp chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) ) hoặc hiệp định hoà bình như trường hợp chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954).  Cuộc chiến kết thúc khi mà cả Nga và Mỹ đều ý thức rằng tiếp tục chiến tranh là vô ích và chỉ có lợi cho…Tầu.

Kịch bản này có mức độ khả hữu cao nhất.  Tuy nhiên nó sẽ trải qua một quá trình hình thành tiệm tiến  – đồng nghĩa chiến tranh có thể còn kéo dài thêm một vài năm với những diễn biến,  nguy hiểm đáng sợ.   Xin lý giải như sau:

  1. Tranh chấp giữa 2 cường quốc nguyên tử cuối cùng chỉ có 2 cách giải quyết : dàn xếp tương nhượng hoặc hoặc chiến tranh nguyên tử đồng nghĩa với tự sát tập thể.  Không muốn chết thì phải hoà.
  1. Qua năm thứ hai, cuộc chiến khốc liệt, đẫm máu hơn nhưng ngang ngửa, dằng co. Nga không đè bẹp được Ukraine có Mỹ và đồng minh Âu Châu chống lưng.  Ukraine cũng không trục xuất được Nga ra khỏi lãnh thổ.

Ukraine chịu thiệt hại nhiều nhất. Viện trợ của các nước NATO gồm cả Mỹ dù lớn lao vẫn chỉ bù đắp được một phần rất nhỏ những tàn phá khủng khiếp, những đảo lộn đời sống kinh tế xã hội, những tổn thất nhân mạng.  Kế đến là Nga, cuộc phiêu lưu đắt giá với hàng trăm ngàn thương vong trên chiến trường, cơ man khí tài quân sự bị  phá huỷ, với  trừng phạt, cấm vận làm cho điêu đứng.  Mỹ và các đồng minh ngoài tổn phí viện trợ hàng trăm tỉ đô la cũng phải chịu hệ luỵ của cuộc chiến tranh – lạm phát, người tị nạn, kinh tế đình trệ, dân bất mãn, mất kiên nhẫn bỏ phiếu những kẻ chủ hoà…

Thế mà, chưa bên nào thực sự muốn ngưng chiến.  Cả Nga, Ukraine, Mỹ, các nước NATO Âu Châu đều… chưa sẵn sàng.  Bởi vì còn  sức, bởi vì còn hăng, còn nuôi hy vọng đạt mục tiêu bắt đối phương phải chấp nhận đòi hỏi của mình, bởi vì còn muốn dậy cho đối thủ một bài học, còn muốn nhận thêm…sự kính nể.

  1. Nếu Nga và Mỹ cùng thực sự muốn hoà vào lúc này thì không nước nào ngăn cản được.  Cuộc chiến sẽ giảm cường độ.  Không có Mỹ, NATO sẽ như rắn mất đầu.  Không có viện trợ Mỹ, Ukraine nếu muốn tiếp tục chiến tranh sẽ phải chuyển qua đánh du kích trường kỳ vô hạn định.
  1. Chiến tranh Nga-Ukraine dù do Nga khởi xướng vẫn phải nhìn như là một phần của ván cờ chiến lược toàn cầu – không phải tay đôi mà tay ba: Mỹ, Tầu, Nga.  Ba chiến lược gia quan trọng nhất thế giới hiện nay tất nhiên là Joe Biden, Tập Cận Bình, Vladimir Putin.  Kết quả của ván cờ có thể là một trật tự thế giới mới khác hẳn với trật tự thế giới hiện nay.
  1. Sáng kiến hoà bình 12 điểm công bố mới đây của Tầu là tuyên truyền, hoả mù, không có thực tâm.  Sách lược CĂN BẢN của Tầu là “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” kết hợp với  “toạ sơn quan hổ đấu” – đợi cọp chết, cọp bị thương thì xuống núi ra tay làm nốt phần còn lại rồi lột lấy da.  Áp dụng trong thực tế Tầu sẽ tiến, thoái, gia, giảm thích nghi miễn là lật đổ được Mỹ để làm bá chủ hay làm Thế Giới Đệ Nhất Siêu Cường.
  1. Putin, Biden phải biết hay đoán biết Tập nghĩ gì, tính gì, làm gì.  Tuy nhiên, mũi tên đã bắn đi, mũi tên đã bắn lại, mỗi bên đều có chiến lược riêng của mình… Khởi động chiến tranh thì dễ, kết thúc thì khó.

Thời gian đều có thể là kẻ thù của các bên lâm chiến – bộc lộ những điểm yếu.  Thời gian có thể không đứng phía Nga.  Không đứng về phía Mỹ.  Không đứng về phía Ukraine.

  1. Chiến lược của Mỹ là làm cho Nga kiệt quệ phải bỏ cuộc nhưng tới nay Nga chưa kiệt quệ.  Một, hai năm nữa có lẽ chưa thành vấn đề.  Độc tài, độc quyền và nắm vững tình hình nội bộ, Putin có khả năng huy động nhân lực, tài nguyên dễ dàng hơn hơn Biden rất nhiều.

Putin đã ném vào chiến trường 5, 6 trăm ngàn quân, đã “nướng” cả 5, 7 chục ngàn hay cả trăm ngàn quân nhưng vẫn còn dưới tay khoảng 15 hay 20 triệu thanh niên Nga trong tuổi nghĩa vụ quân sự để tuỳ nghi xử dụng trong tổng số 144 triệu dân.

Kẻ “bần cùng cố thây” thực ra là Bắc Hàn của Kim Jong Un chứ không phải Nga .  Xung đột Nga với Mỹ chỉ nên ví von “chén sành đụng chén kiểu” là cùng.  Bị trừng phạt, cấm vận, phong toả, tẩy chay, kinh tế của Nga có gặp khó khăn nhưng không sụp đổ hay chưa sụp đổ.  Dự trữ ngoại tệ trị giá mấy trăm tỉ đô la vẫn còn đó. Kết quả của chuẩn bị và quản trị khá tốt từ nhiều năm trước. Đồng tiền “Rúp” của Nga vẫn tương đối ổn định cũng là một chỉ dấu phản ảnh thực trạng sức chịu đựng của Nga.  Chủ yếu là nhờ bán vũ khí, khoáng sản, nhất là dầu hoả và hơi đốt.  Âu Châu cấm vận thì Nga bán cho Á Châu, Phi Châu.  Tiền vẫn vào như nước.  Lợi tức thâu được không kém gì thời kỳ trước chiến tranh.

Nga cũng không hoàn toàn cô độc dù bị 141 quốc gia tại Liên Hiệp Quốc mới bỏ phiếu lên án trắng trợn xâm lược Ukraine.  Nga vẫn có 38 nước ủng hộ gồm 6 nước công khai bỏ phiếu và 32 nước “bán công khai” bỏ phiếu…vắng mặt.  Trong số này đáng lưu ý là Tầu, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Iran, South Africa, Việt Nam, Bắc Hàn, Belarus, Syria, Cuba, Nicaragua, Mongolia, Algeria.  Đáng lưu ý nhất, dĩ nhiên là nước Tầu của Tập Cận Bình –  siêu cường số 2 và cơ xưởng sản xuất của thế giới.

Hiện thời thế trận của Nga trông còn vững.  Tuy nhiên nếu chiến  tranh mở rộng, kéo dài, hết tiền, hết đạn, hết gạo, yếu sức, hụt hơi thì sẽ phải nghĩ đến việc cầu cứu Tầu.  Tầu tất nhiên không để Mỹ thắng Nga một cách dễ dàng.  Tầu tất nhiên cũng không cứu Nga vô điều kiện.

Từ tuyên bố miệng “đối tác vô giới hạn” đến hiệp ước đồng minh chính thức của hai nước  Tầu – Nga sẽ có tác dụng chia đôi thế giới như thời kỳ chiến tranh lạnh hay thời gian ngay trước thế chiến 1 và thế chiến 2.   Một bên Dân Chủ Tư Bản.  Một bên Độc Tài Cộng Sản hay Độc Tài cựu Cộng Sản.

Nhưng trước hết giữa Tầu – Nga không thể có hợp tác bình đẳng.  Làm sao có bình đẳng  giữa một quốc gia có dân số gấp mười và qui mô kinh tế cũng gấp 10 quốc gia kia? Lại chung biên giới?  Cùng có óc đế quốc tham lam ?  Ân oán lịch sử chồng chất còn chưa giải quyết?

Cái nguy cơ của Nga là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”.  Chưa chiếm được Ukraine có thể đã mất Ngoại Mông, Siberia, Vladivostok.  Nga sẽ phải chịu lệ thuộc Tầu, phải chịu phận đàn em, phải làm con nợ, phải gán nợ, mất đất, mất nhà, phải chìa tay ăn xin, phải chịu cảnh thay bậc đổi ngôi – rất trớ trêu :  “Trời làm một sự lăng nhăng, ông biến ra thằng, thằng biến ra ông !”

Nga có muốn thế không?  Có muốn ký hiệp ước ràng buộc làm “đồng minh vô giới hạn” với  Tầu như Ý với Đức làm thành phe Trục trong thế chiến 2 ?

Mỹ có muốn Nga như thế không?  Mỹ có muốn Nga “gán” vài ngàn hoả tiễn liên lục địa có gắn đầu đạn hạt nhân cho Tầu để nhận lại gạo, mì, thịt, cá, đường, sữa, thuốc men, quần áo lạnh, đạn pháo binh, súng AK, đại liên, xe tăng, phi cơ… những thứ mà Nga đã cạn kiệt đúng vào lúc ngân khố đã trống rỗng ?

  1. Tổng Sản Lượng GDP của Nga bằng 7% của Mỹ không có nghĩa trong chiến tranh Mỹ mạnh hơn Nga 14 lần (và mạnh hơn… Afghanistan (Taliban) hay Bắc Hàn (Kim Jong Un) mấy trăm lần).  Chiến tranh là một nghệ thuật. GDP cũng là một yếu tố quan trọng phải tính đến trong nghệ thuật chiến tranh nhưng không phải là yếu tố quan trọng nhất.

Điều đáng quan tâm hơn ở đây là chính trị nội bộ của nước Mỹ. Một nước Mỹ dân chủ bất toàn.  Mỹ là Siêu Cường nhưng không có khả năng thích hợp cho những cuộc chiến lâu dài.

Hệ thống lưỡng đảng và cung cách tranh cử để nắm quyền với bất cứ giá nào làm nước Mỹ phân hoá quá đáng.  Như căn bệnh trầm kha, càng ngày càng nặng hơn. Đối lập mà như thù địch, trên chính trường và trong xã hội.  Kẻ làm, người phá.  Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.  Rất khó tập trung và vận dụng sức mạnh.  Rất khó có một chính sách dài hạn trước sau như một.  Rất bất công đặt đồng minh chiến tranh như Ukraine trong tình trạng thường trực bất an.

Hiện thời, chưa có dấu hiệu chính quyền Mỹ của Tổng Thống Biden sẽ bỏ rơi Ukraine như chính Biden đã đôi lần bỏ rơi các đồng minh khác của nước Mỹ trong cuộc đời làm chính trị của mình.  Tuy vậy, đang ở tuổi 80, giữa nhiệm kỳ Tổng Thống 4 năm, với mức độ ủng hộ quanh quẩn 40% của dân Mỹ, Biden không được coi là  một Tổng Thống mạnh mặc dù ứng phó khá tốt với cuộc chiến ở Ukraine – cho đến nay.

Dân Mỹ, nói chung, dù đã ngán ngẫm cả Joe Biden và cựu tổng thống Donald Trump , 76 tuổi  thuộc đảng Cộng Hoà, vẫn rất có thể, 20 tháng nữa, lại phải chọn 1 trong 2 ông già “gần đất xa trời” này trong ngày tổng tuyển cử 5/11/2024  để giao phó sinh mệnh của nước Mỹ (và sinh mệnh của các nước quá lệ thuộc Mỹ và quá tin Mỹ).

Biden và Trump là… “kỳ phùng địch thủ” nên đều có cơ may được tái cử làm Tổng Thống, theo các thăm dò mới nhất – trong bối cảnh 2 đảng Dân Chủ, Cộng Hoà tiếp tục ngang ngửa. Một tin tức đáng lưu ý là  Trump, bắt đầu vận động tranh cử, vừa cho nổ trái bom: “bảo đảm” sẽ giải quyết chiến tranh Nga-Ukraine trong vòng 24 tiếng đồng hồ!

Một hứa hẹn hấp dẫn với cử tri người Mỹ chán chuyện chiến tranh – xa xôi, tốn phí, thích… “America first” và chưa quên “mối thân tình rất đặc biệt và có phần bí hiểm” giữa Trump và Putin.

Riêng người Ukraine tất nhiên phải  tự hỏi : Còn tin tưởng được nước Mỹ đến đâu ? Liệu Ukraine có bị tặng không hay bị bán rẻ cho Nga ? Ukraine sẽ phải chuẩn bị thế nào từ bây giờ hay cứ để “nước đến chân mới nhẩy” ?

* Tóm tắt, sẽ đến lúc các bên lâm chiến ngộ ra rằng nên ngưng chiến vì đánh đến thời điểm này là vừa đủ, cố nữa cũng không hơn gì hoặc lợi bất cập hại.  Ngưng chiến để thương thuyết. Thương thuyết đồng nghĩa với tương nhượng.  Đồng nghĩa với cho hoà bình một cơ may.

PHẦN THỨ HAI: CUỘC CHIẾN TẠI UKRAINE NHÌN TRONG CHÍNH TRỊ CỦA “THẾ CHÂN VẠC”

Như đã nói ở PHẦN THỨ NHẤT, để hiểu đầy đủ chiến tranh Nga-Ukraine, cần phải đặt nó trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược của 3 đại cường quốc là Mỹ, Tàu, Nga. Vậy, cái bối cảnh ấy gồm những điểm đáng lưu ý nào ?

“Siêu” nhưng không “siêu”

Mỹ, Tàu, Nga là 3 cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, vượt xa các nước khác. Mỹ là siêu cường. Tàu là siêu cường. Hai nước mạnh gần như toàn diện. Nga không phải là siêu cường nhưng Nga “siêu” về kho vũ khí nguyên tử lợi hại ; “siêu” về sản xuất và xuất cảng các loại vũ khí chiến tranh ; “siêu” về kỹ thuật thám hiểm không gian ; “siêu” về lãnh thổ rộng gần gấp đôi toàn thể Châu Âu ; “siêu” về năng lượng dầu hỏa và khí đốt ; “siêu” về tài nguyên thiên nhiên – vàng, bạc, sắt, đồng, chì, kẽm, uranium, than đá, đất, nước ; “siêu” vì là đang là quốc gia Châu Âu “hung hăng” nhất trên lục địa này ; “siêu” về hào quang là hậu thân của Liên Xô – có đạo lục quân mạnh nhất trong thế chiến 2, đã đánh bại đế quốc Nhật và nhất là đánh bại Đức Quốc Xã ; “siêu” về vị thế là một trong 5 thành viên thường trực có quyền phủ quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Mặt khác, Nga chỉ có 144 triệu dân so với 335 triệu của Mỹ, 1.420 triệu của Tàu. Tổng sản lượng GDP chỉ bằng 7% của Mỹ và 10% của Tàu tính theo hối suất chính thức (cao hơn một chút nếu tính theo mãi lực). Kinh tế của Nga trì trệ vì năng suất yếu, dân số giảm sút mỗi năm, sinh suất thấp hơn tử suất. Mức sống vào loại thấp nhất ở Châu Âu. Với những giới hạn này, Nga không có (vì không thể có) tham vọng làm bá chủ hay đệ nhất siêu cường như Mỹ hay Tàu mà Nga còn khó tiếp tục đứng độc lập trong thế chân vạc như hiện tại.

“Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” không phải là độc quyền chiến lược của Tập Cận Bình

Trong tương lai, Nga có thể “phải” chọn ký hiệp ước chính thức làm đồng minh chiến lược của Tàu giúp Tàu lật đổ Mỹ và lên ngôi đệ nhất siêu cường với “rất nhiều quyền lợi” và “tột đỉnh vinh quang”.

Nếu Mỹ chấp nhận thỏa mãn một số đòi hỏi tối thiểu của Nga, Nga cũng có thể chọn làm đồng minh chiến lược của Mỹ giúp Mỹ chặn không cho Tàu vươn lên nữa, đồng nghĩa giúp Mỹ duy trì nguyên trạng “Pax Americana”. “Trong chính trị quốc tế không có bạn muôn đời, không có kể thù muôn kiếp mà chỉ có quyền lợi của quốc gia” và quyền lợi của… lãnh tụ !

Nếu Nga ký hiệp ước đồng minh quân sự dứt khoát đứng hẳn về một bên, Tàu hay Mỹ, thế giới sẽ không còn “chân vạc”, chỉ có “lưỡng cực”. Thế “lưỡng cực” có thể dẫn đến “nhất cực” nếu liên minh Tàu-Nga thắng Mỹ hoặc liên minh Mỹ-Nga buộc Tàu phải chịu bó tay. 

Lẽ tất nhiên, Nga sẽ cố duy trì “thế chân vạc” – cho đến khi không thể duy trì được nữa – để có “triều đình riêng một góc trời” và để khỏi rơi vào tình cảnh khốn quẫn “chồn, thỏ hết, chó săn chết” hay “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”.

“Diện” và “Điểm”

Mặc dù bị Tàu thách thức và cạnh tranh rất mạnh, Mỹ vẫn còn là đệ nhất siêu cường của thế giới. Cả Châu Âu và Châu Á đều cực kỳ quan trọng cho vị thế này của Mỹ. “Mất” Châu nào trước cũng làm Mỹ suy sụp. Suy sụp rất nhanh vì “mất” Châu này sẽ nhất thiết làm “mất” luôn cả Châu kia. 

Tại Châu Âu, đối thủ chính của Nga là Mỹ và đối thủ chính của Mỹ là Nga. Tuy nhiên Nga tự biết không đủ sức nên chiến lược của Nga không nhằm “hất” Mỹ khỏi Châu Âu. Nga chỉ đang tranh một chỗ đứng mà Nga nghĩ mình “xứng đáng” tại lục địa này. Sự khuấy động có phần hung hãn của Nga ở Châu Âu cũng không nhằm phục hồi Đế quốc cộng sản Xô Viết, một mục tiêu đã lỗi thời và vượt quá tầm tay, mà là những động thái của sách lược lấy “công” làm “thủ” trong tình cảnh “bất tiến, tắc thoái” của Nga – sau khi Liên Xô tan vỡ. Nước Nga hay Liên bang Nga, một mảnh vỡ lớn còn lại của Liên Xô, nếu không thật cứng cả đối nội và đối ngoại cũng sẽ vỡ thêm lần nữa thành những mảnh nhỏ hơn. Đó là nguy cơ có thật đối với Nga dù nhìn khách quan hay nhìn theo quan điểm của Putin. Tuy nhiên, cứng quá sẽ gặp phản ứng. Như “gieo gió thì gặt bão” – như nước Nga đang gặp “bão” ở Ukraine. Như chỗ đứng “xứng đáng” mà Nga muốn áp đặt tại Châu Âu đã và đang bị những đối thủ của Nga chống lại.

Tại Châu Á, đối thủ chính của Mỹ là Tàu và đối thủ chính của Tàu là Mỹ. Khác với Nga, Tàu có tham vọng vĩ đại hơn rất nhiều. Tàu ở thế công không phải thế thủ. Mặc dù bề ngoài mục tiêu của Tàu có vẻ khiêm tốn và chính đáng : “thâu hồi Đài Loan để giải quyết chuyện tranh chấp nội bộ nước Tàu, chấm dứt nội chiến, thống nhất tổ quốc”. Tuy nhiên ai cũng thấy kết quả sẽ không dừng ở đấy. Một khi Đài Loan và Hoa lục hợp nhất thành một khối, thế trận ở Châu Á hoàn toàn đảo lộn. Vô cùng lợi cho Tàu. Vô cùng hại cho Mỹ.

Sự quan trọng của Đài Loan không chỉ là một hải đảo 36 ngàn cây số vuông, 24 triệu dân, thịnh vượng, tiên tiến mà còn ở vị trí chiến lược nằm án ngữ hải đạo huyết mạch nối liền Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Vị trí chiến lược này của Đài Loan có giá trị được nhân lên gấp nhiều lần sau khi Tàu đã hoàn tất việc độc chiếm và quân sự hóa gần như toàn bộ Biển Đông bất chấp sự phản đối vô vọng của Mỹ, đồng minh của Mỹ và hầu hết các nước trên thế giới.

Đài Loan giống như một hàng không mẫu hạm khổng lồ, không bao giờ chìm, lợi hại gấp mấy chục lần tất cả các hàng không mẫu hạm của Mỹ gộp lại. 

“Mất” Đài Loan, sẽ đặt Nhật và Nam Hàn – đồng minh quan trọng nhất của Mỹ tại Châu Á, nơi Mỹ có căn cứ quân sự – trong tình trạng bị uy hiếp nghiêm trọng.

Con đường giao thương tiếp tế sinh tử trên biển cho 2 nước này có thể bị Tàu phong tỏa bất cứ lúc nào, cắt đứt dễ dàng như trở bàn tay. Thiếu dầu, thiếu khí đốt, thiếu phân bón, thiếu thực phẩm, thiếu gạo, thiếu nguyên liệu… gần 180 triệu người Nhật, người Hàn lúc ấy sẽ phải chọn giữa chết rét, chết đói và kéo cờ trắng. 

Mất Đài Loan là Mỹ mất Đông Bắc Á. Sự hiện diện vốn đã yếu ớt của Mỹ ở Đông Nam Á cũng cáo chung rất sớm.

Lấy Đài Loan như vậy, đối với Tàu, không phải chỉ để thống nhất tổ quốc như tuyên truyền và kích động người dân mà chủ yếu là nhằm trục xuất Mỹ ra khỏi Châu Á rồi thừa thắng xông lên thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế giới.

Nói một cách khác, trên toàn thế giới, Tàu là địch thủ chính của Mỹ, không phải Nga. Thách đố lớn nhất của Mỹ nằm ở Châu Á, không phải Châu Âu. Đối với Mỹ, trận đấu Đài Loan ở Châu Á phải coi là “điểm”, chiến trường Ukraine ở Châu Âu chỉ nên coi là “diện”.

Địa Lợi là then chốt

Đương đầu với Tàu trên toàn cầu, Mỹ, nói chung, có một số lợi thế – nhiều đồng minh, nhiều căn cứ, nhiều hàng không mẫu hạm (tầu sân bay), nhiều bom nguyên tử và TẠM THỜI có thể in tiền đô la xài khắp thế giới, v.v. – nên vẫn được coi là siêu cường số 1, nhưng riêng ở Đông Á (gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á) thì Mỹ lại ở thế yếu vì không thể tập trung đủ lực lượng quân sự để đối phó với một địch thủ rất mạnh và có chiến lược tận dụng yếu tố ĐỊA LỢI, tức là “gần nhà” với khả năng huy động nhân, vật lực gần như vô giới hạn. Đài Loan là đấu trường tại một vùng địa lợi do Tàu chủ động chọn lựa vì tầm quan trọng chiến lược để, nếu thắng, sẽ mở ra một cuộc diện hoàn toàn mới có lợi cho Tàu. Nếu thắng, Tàu sẽ ở trong “thế chẻ tre” như Nhật sau trận Pearl Harbour, như Liên Xô sau Stalingrad.

Mỹ có thừa đầu đạn hạt nhân, thừa bom nguyên tử để tiêu diệt toàn bộ nước Tàu 19 lần. Tàu chỉ có đủ hạt nhân, nguyên tử đủ để tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ một lần. Nhưng 19 lần hay một lần, trong trường hợp này, khác nhau thế nào ? Ưu thế mà không hẳn là ưu thế.

Đồng minh trong “bộ tứ Kim Cương” (QUAD) của Mỹ chỉ có Nhật và Úc là “đáng tin cậy” còn Ấn Độ thì “khả nghi”. Đáng tiếc, Nhật, Úc đều không phải là cường quốc quân sự. Nhật ngày nay không phải Nhật trong thế chiến thứ hai, cả về tinh thần lẫn sự chuẩn bị chiến tranh. Ấn Độ có vũ khí nguyên tử tạm đủ cho mục đích “gián chỉ” nhưng trong chiến tranh quy ước Ấn Độ ở dưới thấp, Tàu ở trên cao (Tây Tạng) nên Ấn Độ sợ chiến tranh với Tàu hơn là Tàu sợ chiến tranh với Ấn Độ. Đại quân của Ấn Độ vừa không có kinh nghiệm vừa không có khả năng “vạn lý trường chinh” vượt Hy Mã Lạp Sơn tiến vào sâu vào đất Tàu. Thêm nữa, người Ấn, theo đạo Bà La Môn, tin vào nhân quả, luân hồi không thích đánh nhau, chưa kể Tàu đã chuẩn bị sẵn cho Pakistan ngáng chân Ấn Độ. Khi “hữu sự”, nhiều phần là Ấn Độ giữ thái độ “vô can”.

Khối AUKUS (Australia-UK-US) phảng phất lá bài chủng tộc Anglo-Saxon nhưng New Zealand, Canada lại chọn đứng ngoài. AUKUS vừa trùng hợp với các tổ chức đồng minh khác của Mỹ vừa gây thêm chia rẽ nội bộ các nước đồng minh nên sẽ không có nhiều tác dụng. Trường hợp Pháp mới đây phản đối Úc hủy bỏ hợp đồng chế tạo 12 tầu ngầm của Pháp để mua tầu ngầm nguyên tử do Anh, Mỹ phối hợp cung cấp là một thí dụ.

Các nước Anh, Pháp, Đức nói riêng, các nước NATO Châu Âu nói chung cũng không có trọng lượng đáng kể ở vùng Đông Á. Chỉ đoàn kết miệng với Mỹ trong việc đối phó với sự bành trướng của Tàu. Khác Mỹ, vì lý do lịch sử, địa lý, tương quan lực lượng và cả thành kiến, các nước này cảm thấy mối nguy Nga gần gũi và hiển nhiên hơn mối nguy Tàu, chưa kể bị Tàu dùng tiền hay các lợi ích kinh tế để mua chuộc và phân hóa. Chiến thuật “đi đêm” hay “đối tác song phương” với từng nước Châu Âu xem ra khá hiệu quả với Tàu.

Kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, chiến tranh Afghanistan… cho thấy Mỹ, trên lý thuyết, có khá nhiều đồng minh nhưng thực tế là Mỹ luôn luôn phải đảm đương 90% hay 95% gánh nặng của các cuộc chiến tranh mà Mỹ dẫn đầu.

Nếu xung đột quân sự Mỹ – Tàu bùng nổ lần này, Mỹ cũng chỉ có thể trông cậy vào… Mỹ, khó có thể trông cậy vào các ông “thợ vịn” đồng minh – bất kể Âu hay Á.

Như vậy vấn đề là Mỹ còn đủ mạnh hay không ? Nhất là một nửa nước Mỹ lại cầu mong nửa kia bị thua kẻ thù của nước Mỹ cho… bõ ghét hoặc cho “phe ta” thừa dịp “mượn gió bẻ măng” lên nắm chính quyền.

Ai “thượng phong” và ai “hạ phong” ?

Nếu chiến tranh quy ước xẩy ra ở Đông Á, hỏa lực của Tàu, sau nhiều năm “canh tân”, “hiện đại hóa”, “thao quang dưỡng hối”, có thể không kém gì Mỹ hoặc giả sử còn kém hơn Mỹ một chút về phẩm chất nhưng lại hơn hẳn Mỹ về số lượng trong đấu trường Đông Á.

Mỹ, từ lâu, được xem là có ưu thế về Hải quân và Không quân nhưng Lục quân không địch lại bộ binh đông như kiến của Tàu. Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ và 15 nước đồng minh như Anh, Pháp, Canada, Turkey, Netherland, Australia, Thái Lan, Phi Luật Tân, Bỉ, Hy Lạp… đã kinh nghiệm xương máu về chiến thuật “biển người” của Tàu. Sau 3 năm chinh chiến, chính Mỹ đã chủ động đề nghị ngưng bắn để thương thuyết chứ không phải nước Tàu “khố rách áo ôm” của những ngày xa xưa ấy. 

Tàu mất một triệu quân chẳng hề hấn gì, Mỹ mất 100 ngàn quân thì Tổng thống Mỹ bay chức. Trong chiến tranh, Dân chủ thất thế trước Độc tài ở điểm chiến lược này.

Nếu bây giờ chiến tranh Mỹ-Tàu bùng nổ và mở rộng thì ngay cả (giả sử) các nước Đông Nam Á đều chọn đứng về phía Mỹ, Mỹ cũng chỉ có thể miễn cưỡng bảo vệ được các quốc gia hải đảo như Phi Luật Tân, Nam Dương, Brunei nhưng chỉ có thể chống mắt đứng nhìn quân Tàu tràn ngập 7 nước Đông Nam Á còn lại là Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Lào, Cao Miên. Các nước này đều quá yếu so với Tàu về mọi phương diện và là một cái gánh quá nặng cho Mỹ cưu mang. Đông Nam Á, nơi cư trú của hơn 40 triệu “Hoa kiều hải ngoại” đang kiểm soát 80% kinh tế toàn vùng, đúng là sân sau của Tàu trong khi cách xa Mỹ nửa vòng trái đất. Tàu có thể đưa 3 triệu quân đến chiến trường trong vòng một tháng, Mỹ cần 2 năm. Nước xa không cứu được lửa gần !

10 năm, 15 năm trước đụng độ Hải quân, Không quân với Tàu chắc chắn Mỹ thắng, bây giờ thì không chắc chắn nữa, nhất là đụng độ trong vùng tranh chấp Đài Loan nơi Mỹ đã mất hết các căn cứ quân sự lân cận trong vùng như Cam Ranh, Long Bình, Pattaya, Utapao, Clark, Subic Bay… sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Lực lượng đồn trú của Mỹ tại Nhật và Nam Hàn không đủ để đối phó với thế trận của Tàu ngoài ra chính những căn cứ này cũng có thể bị uy hiếp vì nằm trong tầm tác xạ hỏa tiễn tầm trung của Tàu. 

 Tàu đã quân sự hóa Biển Đông với một tốc độ chóng mặt, công khai, chẳng còn thấy cần cải chính khi bị tố cáo – lấp biển làm thêm đảo nhân tạo, xây phi trường cho chiến đấu cơ, lập vùng nhận dạng phòng không, thiết lập các dàn hỏa tiễn, đối hạm, phòng không, các căn cứ hải quân, căn cứ tầu ngầm, cơ sở quân sự, hành chánh đủ loại, tuần tiễu, tuần tra đêm ngày, trên trời dưới nước… phối hợp các căn cứ này với các căn cứ ở đảo Hải Nam, các căn cứ trên đất liền dọc duyên hải Trung Hoa suốt từ Mãn Châu xuống Quảng Đông làm thành một hệ thống quân sự chặt chẽ, chằng chịt, liên hoàn. Một thế trận lợi hại cho cuộc thư hùng quyết định ai sẽ là đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế giới đã được Đảng cộng sản Tàu chuẩn bị cẩn thận trong mấy chục năm, từ thuở “ẩn mình chờ thời” cho đến khi “đối thủ biết được ý định thực của ta thì đã muộn”.

Mang lực lượng từ xa đến, đối với Mỹ, có rất nhiều vấn đề. Chẳng hạn vì thiếu căn cứ, Mỹ phải trông cậy chủ yếu vào hơn chục hàng không mẫu hạm. Nhưng dù tối tân đến đâu các Tàu sân bay này cũng có kích thước quá lớn và di chuyển quá chậm nên dễ làm mục tiêu cho các loại tên lửa đạn đạo, hỏa tiễn di chuyển bằng vận tốc âm thanh, hướng dẫn bằng radar hay vệ tinh và gắn khối chất nổ khổng lồ. Chẳng hạn như các loại hỏa tiễn Đông Phong DF-21, DF-26 của Tàu có tầm bắn xa hàng ngàn cây số đã được trình diễn trong cuộc diễn binh vĩ đại ở Bắc Kinh năm 2015. Câu hỏi quan trọng là : Tàu đã sản xuất được bao nhiêu hỏa tiễn như thế ? Và độ chính xác thế nào ? Nếu Mỹ không biết hay chưa biết thì Mỹ có định mang các hàng không mẫu hạm trị giá từ 10 đến 20 tỉ đô la đến eo biển Đài Loan để thử sức với những hỏa tiễn của Tàu chỉ có giá một vài triệu hay không ?

Nếu không, làm sao bảo vệ Đài Loan và các đồng minh trong vùng ? 

Lực lượng hỏa tiễn đối không và đối hạm cùng các dàn cao xạ dầy đặc của Tàu đợi B52 của Mỹ xuất hiện còn được phối hợp với 2, 3 ngàn phi cơ xung kích sẵn sàng cất cánh từ các phi trường gần biển kể cả những phi trường tân lập trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông và phối hợp cả với những đội tầu ngầm quanh quẩn trong vùng…

Sự bố trí quân sự của Tàu tại Biển Đông và miền duyên hải Trung Hoa nói chung chuẩn bị cho cả 2 trường hợp. 

Trường hợp 1 (tối hảo) không cần bắn một phát súng : Mỹ thấy thế trận quân sự của Tàu bầy ra Mỹ không phá nổi, đành phải rút lực lượng, có ký giấy hay không. “Bất chiến tự nhiên thành” của Tôn Tử !

Trường hợp 2 : Chiến tranh bùng nổ, Tàu thắng, Mỹ triệt thoái quân sự khỏi Châu Á, có ký giấy hay không. 

Dĩ nhiên đối với Tàu Trường hợp 1 tốt hơn hẳn, không sứt mẻ, lại không bị rủi ro chiến tranh nguyên tử và có thể nó chính là phương án mà Tàu đang thực hiện “chậm rãi nhưng chắc chắn” để “bức hàng” cả Đài Loan và Mỹ.

Mỹ tất nhiên cũng rất muốn “bất chiến tự nhiên thành” giống như Tàu – “Win Without Fighting” hay “ta không cần đánh mà người chịu khuất” – nhưng Mỹ bị giới hạn và bất lợi rất nhiều mặt nên ngay cả một thế trận “trung bình”, “coi được” mà các chiến lược gia của Mỹ đang cố gắng sắp xếp một cách lúng túng như “QUAD”, như “AUKUS”, như “Five eyes” để đối phó với thế trận của Tàu có thể cũng không hiện thực – trừ khi có một “sáng kiến chiến lược” với tầm cỡ… “Kissinger bí mật đi Tàu năm 1971” thì mới mong Tập Cận Bình phải chịu bó tay.

Cao Tuấn

(02/04/2023)

Mời xem tiếp PHẦN THỨ BA:

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? (Phần 3)

Visits: 168

Tĩnh Vật Xám Và Nỏ Thần

Thơ Lê Văn Bỉnh

  • Thân tặng những“Hoài Bão”

Thanh lặng thì thầm với bóng đen:

Đã khuya, sao chưa thấy lên đèn!

Người đâu – tạm vắng hay biền biệt?

Ngọn nến nhỏ ơi, tỏa sáng lên!

***

Gió giật vù vù mãnh liệt hơn,

Tuyết bay phủ trắng mấy canh trường.

Không gian thịnh nộ vòng hư ảo,

Trời đất cuồng si điệu oán hờn.

***

Người vẫn chìm sâu trong bóng đêm,

Tịnh như tĩnh vật xám – im lìm.

Tâm tư lắng đọng đời giông bão,

Đông lạnh nhiệt tình thuở thiếu niên?

***

Ẩn chứa những gì dưới tuyết băng?

Cỏ xanh một đám có còn chăng,

Hay là một mớ rêu vàng úa?

Di chỉ hằng mơ chiếc nỏ thần!

***

Lớp lớp thời gian trỉu nặng vai,

Buồng tim hoài niệm đã vun đầy.

Đường xa khấp khễnh hay nghiêng ngã,

Nỏ thật đâu rồi? Biết hỏi ai!

 

Lê Văn Bỉnh

 

Visits: 27

Tìm Hiểu Chủ Nghĩa Thực Dụng Mỹ

Lê Văn Bỉnh

Chân lý là vĩnh cửu và trường tồn, nhưng khó mà chắc chắn rằng khi nào bạn sẽ có được nó.

(Truth is eternal and enduring, but it is hard to be sure when you have it.  — Richard Rorty)  

Nhiều người trong chúng ta thường nói rằng người Mỹ — tiếng dùng chung cho cá nhân, chính trị gia, định chế, chính phủ –theo “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism).  Khi tỏ ý chê bai, thì phê phán này có nghĩa là người Mỹ không có một lý tưởng rõ ràng, hễ thấy điều gì có lợi cho mình thì làm, quên cả mục tiêu mà mình muốn theo đuổi từ ban đầu. Khi ngợi khen, thì phê phán này hàm ý là người Mỹ không câu nệ, không cứng nhắc tuân theo nguyên tắc, mà trái lại biết linh động theo tình thế, sẵn sàng thay đổi phương cách hành động cũng như đường lối hay chính sách.  Sử dụng cụm từ “chủ nghĩa thực dụng” với những hàm ý này thiết nghĩ không chính xác, nếu không nói là lạm dụng chữ nghĩa, bởi lẽ hành động theo cung cách đổi tới đổi lui thì không thể gọi là theo một “chủ nghĩa” nào cả!  Thiết nghĩ nói rằng người Mỹ “thực tế”, “thực tiễn” (practical) thì có lẽ đúng hơn.

Không phải chỉ có không ít người Việt chúng ta không hiểu về chủ nghĩa thực dụng, mà ngay cả nhiều người Mỹ có học cũng khá mơ hồ về nó. Thật vậy, đầu năm 2012, đài phát thanh National Public Radio ở thành phố New York (WNYC) tường thuật rằng 3 chữ pragmatic/pragmatism/pragmatist được cư dân mạng tìm kiếm nhiều nhất, cũng như đã được các phương tiện truyền thông đại chúng dùng nhiều nhất vào năm 2011 sau khi Tổng Thống Obama tuyên bố rằng ông và lịch trình hành động của ông từ khi vận động tranh cử đến lúc bấy giờ vẫn nhất quán, nghĩa là “pragmatic” và “pragmatist.”  (Pragmatism and American Experience: An Introduction, TG Joan Richardson, NXB Cambridge, 2014, tr.1-2)

Chủ nghĩa thực dụng thực ra đã được người Mỹ và thế giới công nhận là một trào lưu triết học, ra đời trên đất Mỹ từ hơn một trăm năm nay.  Nó càng ngày càng phổ cập trong đời sống cũng như trong các lãnh vực giáo dục, pháp luật, chính trị, ngoại giao vv. Hoa Kỳ.  Nhiều nhà triết học nổi tiếng thế giới đã nghiên cứu phong trào triết học mới này một cách nghiêm túc, coi đó là một sản phẩm trí tuệ của nước Mỹ đóng góp vào kho tàng triết học thế giới.

 Trước khi giới thiệu nội dung của chủ nghĩa thực dụng, thiết nghĩ nên đề cập sơ lược về triết học để từ đó chúng ta có thể nhận ra những khám phá “mới” của phong trào triết học này.

Sơ Lược Về Triết Học

Triết học là gì? Thật ra chưa có một định nghĩa nào về triết học được đưa ra mà không gây tranh cải. Xuất xứ từ tiếng Hy Lạp (philosophia), triết học có nghĩa là “lòng yêu thương tri thức hay sự khôn ngoan” (love of knowledge or wisdom), mà mục tiêu là nhằm nghiên cứu để tìm hiểu các phạm trù đặc trưng tổng quát và trừu tượng nhất của thế giới (sự sống, chết, linh hồn, thần linh, thượng đế, vv.) và các phạm trù giúp cho con người suy nghĩ (trí óc, vật chất, chân lý, vv.) Theo nhiều nghiên cứu, thì triết học Đông phương, đặc biệt Trung Hoa và Ấn Độ, có trước triết học Tây phương rất lâu, nhưng chủ yếu nghiêng về tôn giáo, tức thuộc loại phạm trù trước, hơn là loại phạm trù sau. Triết học xuất phát từ tính tò mò, hiếu kỳ cũng như lòng ao ước của con người muốn biết và hiểu. Cách đây vài trăm năm vì chưa có điều kiện giao lưu thường xuyên, cho nên triết Tây tiếp tục phát triển một các độc lập.  Nhưng dù triết Đông hay triết Tây, triết học nói chung đều mang ít nhiều tính cách tra vấn (inquiry); nhưng khi tra vấn, triết Tây thường theo một diễn trình khá qui ước, gồm các giai đoạn như phân tích, phê bình, giải thích và tổng quát hóa để có thể giúp tiên liệu những tình huống tương lai. Trong điều kiện này, nghiên cứu triết học đòi hỏi ít nhiều thông minh, hay ít nhất người nghiên cứu không thể thiếu những kiến thức căn bản nào đó.  Trước năm 1975, tại Miền Nam Việt Nam, học sinh năm cuối cùng của chương trình trung học phải học và thi trong kỳ thi tốt nghiệp Tú Tài II hai môn luận lý học và đạo đức học; riêng học sinh ban văn chương còn phải thêm môn tâm lý học.  Các kiến thức nhập môn này không những giúp họ tư duy và hiểu biết một tổng quát thế giới trừu tượng vừa nói, mà còn hướng dẫn và thúc đẩy họ tra vấn về nhiều phạm trù mà sau này khi ra đời họ sẽ có thể thực sự đối phó.

Triết học như nói trên nhằm tra vấn những phạm trù mà người nghiên cứu quan tâm. Nhưng trên đời này, có biết bao vấn đề đáng quan tâm! Theo truyền thống, triết học chia ra 5 ngành chính:

–          Siêu hình học (metaphysics) nghiên cứu về bản chất căn bản của hiện thực và hiện hữu. Chia ra hai chi nhánh: hiện thể học (ontology, nghiên cứu hiện thể — tức “being”) và vũ trụ học (cosmology, nghiên cứu về nguồn gốc vũ trụ qua tôn giáo, truyền thuyết và khoa học);

–          Tri thức học (epistemology) nghiên cứu về bản chất, căn bản và sự phát triển của tri thức (knowledge), để có thể giúp con người khám phá ra chân lý/điều đúng/ điều thực (truth –trong bài này trong hầu hết trường hợp, các từ chân lý/đúng/thực có thể dùng thay cho nhau với ý nhĩa tương tự) tìm kiếm mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin;

–          Luận lý học (logic) nghiên cứu về những nguyên tắc và phương pháp lý luận, có thể giúp người ta phân biệt giữa chính biện và ngụy biện;

–          Đạo đức học (ethics) nghiên cứu về cách cư xử, bản tính và những hệ thống giá trị của con người;

–          Thẩm mỹ học (aesthetics) nghiên cứu về sự sáng tạo và những nguyên tắc nghệ thuật và cái đẹp; cũng như tư tưởng, cảm nhận và thái độ khi thấy, nghe, đọc về những điều đẹp đẽ.

Ngày nay người ta còn kể thêm triết học về ngôn ngữ (philosophy of language), xem nó là quan trọng với lý do là mọi tranh cải triết lý đều từ ngôn ngữ mà ra. Câu hỏi chủ yếu “Ngôn ngữ là gì?” Ngoài ra, mỗi ngành học như khoa học, tôn giáo, pháp luật đều có triết lý “riêng” của mình, mà chỗ dựa chính vẫn là các ngành triết học kể trên.

Có thể nói mỗi người trong chúng ta hằng ngày đều phải đương đầu với những câu hỏi hoặc lớn hoặc nhỏ mang ít nhiều tính cách triết học: Vũ trụ từ đâu sinh ra? Tôi là ai? Cuộc đời này đáng sống hay không?  Sau khi chết linh hồn đi về đâu? Tuân thượng lệnh để giết người mà tôi biết rằng làm như vậy là sai, tôi sẽ bị tội hay không? Bạn dựa vào đâu mà nói ông ta đúng hay sai? Chị dựa vào đâu mà khen bức tranh này đẹp hoặc xấu, quyển tiểu thuyết này hay hơặc dở? Ngay cả người chủ trương rằng tìm hiểu triết học chỉ lãng phí thì giờ, hãy cứ tự nhiên mà sống, thì người ấy cũng cho thấy cái triết lý sống của mình!

Từ đó có thể nói nghiên cứu triết học giúp làm sáng tỏ những điều người ta viết là đúng hay sai, đáng tin hay nên ngờ vực; cũng như giúp hiểu được lý do, hoàn cảnh của một giai đoạn lịch sử nào đó để có thể phê phán cho công bằng hơn, cư xử cho văn minh hơn vv.

Xã hội loài người được xây dựng trên những tư tưởng triết học. Những định chế như chính quyền, luật pháp, tôn giáo, học đường, hôn nhân, gia đình, tổ chức hành chánh, kinh tế, thương mại, vv. thường được thiết lập theo những tư tưởng triết học nhất quán.  Thiếu tính nhất quán này, hay nếu gây tạo những chuyển biến thô bạo vụng về thì dễ đưa đến đổ vỡ.  Đổ vỡ bởi vì người cầm quyền tin rằng những gì mình ra lệnh là tối quan trọng, là chân lý trong khi thuộc cấp và đại chúng lại suy nghĩ hoàn toàn trái ngược.

Chủ Nghĩa Thực Dụng

Một người Pháp, Alexis de Tocqueville (1805-1859), khi sang Hoa Kỳ nghiên cứu về chế độ ngục tù vào thế kỷ 18, tỏ ra rất hứng khởi về sinh hoạt chính trị và sinh hoạt dân chủ, văn hóa của quốc gia non trẻ này, đã viết ra một quyển sách dày, được dịch ít nhiều lần sang tiếng Anh với tựa đề “Democracy in America”, thường được nhiều chính khách Mỹ trích dẫn, đã thấy sự thiếu vắng đáng ngạc nhiên của triết học ở quốc gia đầy sinh động này.  Ông viết: “Tôi nghĩ rằng không có một quốc gia nào trên thế giới văn minh này lại ít để ý tới triết học như tại Hoa Kỳ. Người Mỹ không có trường phái triết học riêng cho mình, và họ không mấy để ý tới những trường phái mà theo đó châu Âu bị phân chia ra, những cái tên mà họ hiếm khi biết đến.”

Nếu Tocqueville còn sống thêm mươi năm nữa, có thể ông sẽ nghĩ khác. Thật vậy, từ đầu thập niên 1860 trở đi, sinh hoạt triết học của giới trí thức trẻ Hoa Kỳ đã chớm bắt đầu.  Phong trào triết học chủ nghĩa thực dụng không ngừng phát triển cho đến nay, lan dần vào nhiều lãnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục, pháp lý, vv. Nó không những được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trí thức Hoa Kỳ, mà còn được sự tiếp nhận ít dè dặt hơn, nếu không nói khả quan, của giới trí thức bên ngoài nguyên xứ của nó.

Trước khi đi vào chi tiết về chủ nghĩa thực dụng, xin đưa ra dưới đây một số định nghĩa qua các tự điển không chuyên môn, để xem người ta đưa ra những định nghĩa có tính cách đại chúng về trào lưu triết học mới này như thế nào.

–           Chủ nghĩa thực dụng là một hệ thống hay một khuynh hướng trong triết học, trắc nghiệm giá trị của tất cả khái niệm qua các kết quả thực tiễn. (Webster’s New World Dictionary of the American Language, NXB The World Publishing Company, 1968, tr. 1146).

–          Chủ nghĩa thực dụng là một chủ thuyết cho rằng ý nghĩ và tư tưởng chỉ có giá trị khi mang lại hệ quả, và rằng kết quả là trắc nghiệm duy nhất về giá trị hay đúng của một niềm tin của con người. (New Illustrated Webster’s Dictionary of the English Language, NXB PMC Publishing Company, Inc., 1992, tr. 761)

–          Chủ nghĩa thực dụng: một triết lý, lý giải chủ yếu bởi C.S. Pierce và Williams James, lượng giá các xác quyết đơn thuần bằng những hệ quả thực tiễn, và liên hệ đến những lợi ích của con người. (The Oxford Encyclopedia English Dictionary, NXB OUP, 1996, tr. 1137)

–          Chủ nghĩa thực dụng: 1. (Triết học): một phong trào gồm những lý thuyết đa dạng nhưng kết hợp với nhau, khởi đầu được khai triển bởi Charles S. Pierce và William James và được phân biệt qua chủ thuyết cho rằng ý nghĩa của một tư tưởng hay của một tiền đề (proposition) nằm ở những hậu quả thực tiễn có thể quan sát được; 2.  một phương pháp thực tiển, thực sự  để tiếp cận và đánh giá các tình huống và giải quyết các vấn đề (The American Heritage Dictionary of the English Language, NXB Houghton Mifflin Co., 2000, tr. 1378)

–          Chủ nghĩa thực dụng nghĩ về phương cách giải quyết các vấn đề theo phương cách thực nghiệm và cảm tính hơn là bằng những ý tưởng và lý thuyết cố định (Oxford Advanced America Dictionary, NXB OUP, 2011, tr. 1146)

Từ những định nghĩa tổng quát quát này, liệu người ta có thể đưa ra kết luận rằng theo CNTD, một chủ thuyết (doctrine), hay một ý nghĩ, một tư tưởng được xem là đúng và có ý nghĩa chỉ khi nào nó đưa đến một hệ quả hữu ích cho con người; còn nếu nó không đem lại kết quả như mong muốn, thì nó chỉ là những thứ vô bổ? Đây quả một câu hỏi quan trọng đáng được nghiên cứu cẩn thận trước khi có câu trả lời. Ngoài ra, CNTD còn được xem như một phương cách (method) đem lại giải pháp cho các tình huống. Tính cách thực tiễn của hai yếu tố này –hay có thể thêm những yếu tố khác nữa — giúp ích gì cho cuộc sống?

***

Trước khi giới thiệu CNTD và những người phát minh ra nó, thiết nghĩ nên đưa ra ý kiến dè dặt rằng CNTD chỉ là “một cái tên mới cho những cách suy nghĩ cũ” (a new name for old ways of thinking) như William James đã đề nghị.  Theo CNTD, một ý tưởng phải được phê phán qua cách thức hoạt động của nó, hơn là qua dáng vẻ bề ngoài hay qua tiếng nói phát ra.  Phương pháp của CNTD được xem là gần gũi với phương pháp khoa học; hay nói rõ hơn là nó toan tính đưa các phương pháp khoa học vào triết học.  Điều này khiến nhiều người xem CNTD là một triết học kỳ quái của người Mỹ!

Theo CNTD, người ta không thể phê phán rằng một ý tưởng là đúng hay sai chỉ bằng đơn thuần nhìn nó. Nó được xem là đúng với điều kiện là nó chứng tỏ hiệu quả khi liên hệ đến quá khứ và tương lai, và khi tổ chức các trải nghiệm hiện tại làm thỏa mãn chúng ta.  Một ý tưởng có thể đúng trong tình huống này, nhưng lại sai trong hoàn cảnh khác.  Chẳng hạn, về sự chuyển động của mặt trời và những hành tinh lân cận, tư tưởng của nhà thiên văn học Ptolemy (100 -170) được xem là đúng trong một thời gian dài hơn cả nghìn năm trước khi Copernicus (1473-1543) đưa ra quan điểm của mình.  Gần đây, dựa vào lý thuyết tương đối của Newton, các nhà thiên văn học hiện đại, quan sát thấy sự chuyển động giản dị hơn nhiều so với các tính toán của Copernicus.  Đối với những người theo CNTD, Ptolemy và Copernicus đều đúng cả, nghĩa là cả hai lý thuyết đều đúng cho tới khi chúng không còn hoạt động hiệu quả nữa.

Cũng cần nói thêm: CNTD chưa bao giờ long trọng tuyên bố rằng một ý tưởng của một người sẽ được coi là chân lý cho mọi người khi ý tưởng này giúp cho ông ta đạt được điều gì đó mà ông ta muốn.  Điều hoang tưởng kỳ vĩ này có thể làm cho ông ta quá tự tin và khiến ông ta ra tay chế ngự kẻ khác để nhằm đạt mục tiêu của mình. Chính điều hoang tưởng này đã gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc trên thế giới sau những cuộc bầu cử gay go, hay sau những chiến thắng bất ngờ, hay sau những vụ đảo chính đẩm máu. Lý do là những người chiến thắng xem sự thành công ban đầu của mình là đúng và sẽ mãi là chân lý.  Lời trích dẫn của Rorty dưới tựa đề của bài này hàm ý là đối với chủ nghĩa thực dụng, không có điều gì mãi mãi đúng.

Triết học, như đã nói, chia ra làm nhiều ngành. CNTD đề cập đến hầu hết những ngành triết học đó, một phần vì những người sáng lập được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau; phần khác họ muốn đưa ra những chủ thuyết khác đối kháng với các chủ thuyết của những trường phái cũ. Nói một cách tổng quát, CNTD là kết hợp của ít nhất 3 lý thuyết chính sau đây. Thứ nhất, lý thuyết về tư tưởng (theory of mind), theo đó niềm tin là những giả định, và ý tưởng là những kế hoạch hành động.  Thứ hai, lý thuyết về ý nghĩa (theory of meaning), theo đó các ý tưởng được làm sáng tỏ bằng cách cho thấy mối quan hệ của chúng với hành động. Thứ ba, lý thuyết về chân lý (theory of truth), theo đó những niềm tin là đúng chỉ khi chúng là những hướng dẫn đem lại kết quả trong các tiên liệu và hành động.  Yếu tố xuyên suốt trong ba chủ thuyết này là hành động, chứ không phải những suy xét có tính cách lý thuyết. (The Columbia History of Western Philosophy, hiệu đính bởi Richard H. Popkin, NXB: MJF Books, năm1999, tr. 592). Hành động (actions) có thể là những thí nghiệm (experiments), hay những trải nghiệm (expeiences, tức những điều mà tác nhân đã kinh qua, trải qua – Xin phân biệt experiences với experience (uncountable noun) mà chúng ta thường gọi là kinh nghiệm, tức những kỹ năng học hỏi được. CNTD cho rằng ý nghĩa và cái đúng của một ý tưởng được định đoạt bởi những hệ quả của ý tưởng đó qua thực hành và cư xử (in practice and conduct). Do đó, có thể tóm tắt như sau: Cốt lõi của CNTD là những niềm tin (beliefs) không thể tách rời khỏi những hành động (actions); mà cái đúng của những niềm tin thì phải được đánh giá qua hệ quả của các hành động (consequences) này.

Dưới đây, chúng ta sẽ sơ lược tìm hiểu về ba nhà triết học đầu tiên của CNTD đầu tiên của Hoa Kỳ

–          Charles Sanders Peirse

–          Williams James

–          John Dewey

Charles Sanders Peirce (1839 – 1914)

Vào Harvard University năm 16 tuổi, Peirce (phát âm như purse) học ngành khoa học thực nghiệm dưới sự hướng dẫn của người cha, một giáo sư toán và thiên văn học nổi tiếng của trường thời đó. Sinh hoạt thường xuyên ngoại khóa với nhóm nghiên cứu triết học, gọi là The Metaphysical Club, trong đó có vài ba hội viên đang là khoa học gia, luận bàn về những vấn đề siêu hình và bản chất của niềm tin. Tốt nghiệp 4 năm sau với bằng hóa học và làm việc 30 năm liền cho United States Coastal and Geodesic Survey. Thỉnh thoảng Peirce trở lại Harvard để diễn thuyết về luận lý học và lịch sử của khoa học. Năm 1891, ông bỏ cơ quan này để dùng toàn thời gian nghiên cứu luận lý học và triết học, và dự định viết thành sách những gì đã nghiên cứu và suy nghiệm.  Túng thiếu tài chính, ông đành viết báo để sống qua ngày. Trông già nua hơn, lập dị (eccentric) hơn, dễ nóng giận, chỉ thích sống ẩn dật một mình, không muốn quan hệ với ai cả. Thường được William James (sẽ đề cập sau) giúp đỡ tài chánh, giới thiệu việc làm. Khi chết, ông chưa ra mắt được một quyển sách nào.  Tuy nhiên khi còn sống ông đã viết hằng trăm bài thuyết trình và bài phê bình triết học. Các bản thảo chưa in được Philosphical Department của Harvard mua lại và in thành nhiều quyển với tên của ông.

Peirce giải thích sự ra đời của CNTD như sau: “Chữ chủ nghĩa thực dụng được phát minh ra để diễn tả một nguyên tắc lý luận nhát định liên can đến cả hệ thống triết học như đã loan báo từ đầu.  Nguyên tắc này nhằm cung cấp một phương pháp phân tích các ý niệm (concepts).  Ý niệm là một điều gì đó ở dạng thông thường, hay được tạo ra, là phần hợp lý của nội dung một từ …”

Pierce tiết lộ rằng cuộc sống ở phòng thí nghiệm không ngăn cản được mối quan tâm của ông về phương cách tư duy của con người, và ông tìm đọc triết lý siêu hình.  Ông không thoả mãn vì những lý luận rời rạc mà ông đã gặp phải.  Do đó ông muốn đưa ra một lý thuyết rằng ý niệm gắn chặt với cách xử sự trong cuộc sống. Theo ông, rõ ràng là mọi điều mang lại từ thực nghiệm đều ảnh hưởng trực tiếp đến cách xử sự đó; cho nên “nếu người ta có thể định nghĩa chính xác tất cả những hiện tượng thực nghiệm có thể nhận thức được mà sự xác nhận hay phủ nhận có thể ám chỉ, thì người ta sẽ có một định nghĩa đầy đủ về ý niêm.” Và ông chỉ muốn nhấn mạnh nội dung này cho lý thuyết về ý niệm mà ông đặt tên là pragmatism, dựa trên thuật ngữ pragmtisch của Kant mà ông coi là diễn tả được mối liên hệ với mục đích nhân bản.  Ông không muốn gì hơn. Do đó, ông tỏ ra không hài lòng khi biết James sử dụng thuật ngữ pragmatism của mình để chỉ “chủ nghĩa thực nghiêm cực đoan” (“radical impiricism”) của ông ta, cũng như những người khác và báo chí đã diễn giải thuật ngữ này khác với chủ trương của mình, ông tuyên bố hôn giả biệt đứa con tinh thần này, và khai sinh lại cho nó với cái tên mới pragmaticism, mà ông thấy kỳ quặc nhưng không sợ bị bắt cóc.  (Charles S. Pierce: Selected Writings:Values in a Universe of Chance,  HĐ Philip P. Wieser, NXB Dover Publications, 1958, tr180-202) Tuy nhiên ngày nay, pragmatism được phổ biến rộng rãi để chỉ trào lưu triết học do Pierse khai sáng, trong khi đó pragmaticism chỉ được sử dụng hạn chế trong ngành ngôn ngữ học (thí dụ trong quyển “Pragmaticism: Theory and Application” của Ellyn Lucas Arwood).

Pierse còn đặc biệt quan tâm đến sự khác biệt giữa niềm tin và sự hoài nghi. Đối với ông “sự hoài nghi trên lý thuyết” (paper doubt) của Descartes không ích lợi gì; trái lại sự hoài nghi thực sự (real doubt) được củng cố sau nhiều trải nghiệm sẽ làm cho chúng ta hoãn lại những niềm tin, tức những gì mà thoạt đầu chúng ta tin là chân lý/đúng/thực. Theo Peirce, những tiền đề trong triết học (proposition) –tương đương với những định đề (theorem) trong toán học– xuất phát từ một vài nghĩ suy sắp đặt thông minh (intellectual disposition) chưa đáng được gọi là niềm tin (belief); mà niềm tin là do một sự biểu thị về thói quen ứng phó trong hành động (a behavioral habit manifest in action).  Do đó, khi “sự hoài nghi thực sự” được đặt ra, thì thái độ thường có của con người sẽ bị đổ vỡ. Mặt khác, sự hoài nghi của Descartes có thể không làm cho chúng ta thay đổi cách thức hành động. Theo Peirce, tri thức, mà ông định nghĩa như là giải pháp cho những thói quen bị đổ vỡ vì sự xét lại niềm tin, mới chính là một “tiến trình phản ứng tự nhiên” (homeostatic process, như trong trường hợp cơ thể chúng ta rùng mình khi gặp lạnh, hắt hơi khi bị chói nắng). Đối với Peirce, tri thức là phương tiện dùng để ổn định cách ứng phó theo thói quen đối với sự hoài nghi. (Philosophy: 100 Essential Thinkers, Philip Stokes, NXB Arturus, 2016, tr. 126).

Trong bài nói chuyện đầu tiên với tựa đề “How to Make Our Ideas Clear”, Peirce viết: “Cốt lõi của niềm tin là sự hình thành thói quen, và những niềm tin khác nhau được phân biệt bằng các phương cách hành động mà những niềm tin đó gợi ra.  Nếu các niềm tin không khác biệt nhau trong phạm vi này, nếu chúng không hạ giảm bớt sự hoài nghi đó bằng cách sản sinh cùng qui luật hành động, thì những sự khác biệt đơn thuần về phương diện ý thức của chúng có thể khiến chúng thành những niềm tin khác nhau.” (Pragmatism: A Reader do Louis Menand hiệu đính, do A Vintage Orginal xuất bản năm 1997, tr.33)

Peirce còn cho rằng tính duy lý (rationality), theo một phương cách nào đó, không bao gồm cảm nhận, mà bao gồm hành động. Nhận định này khác với James, người cùng trường phái, vì James cho rằng tính duy lý gồm cảm nhận (feeling) và ảnh hưởng (affectivity).  Tuy nhiên quan điểm của cả hai đều tỏ ra khác hẳn với hai trường phái cổ điển. Theo chủ nghĩa duy lý (rationalism, với các triết gia nổi tiếng là Descartes, Spinoza và Leibniz), lý lẽ nói chung, và trực giác nói riêng, giúp con người biết được thực tế. Còn theo chủ nghĩa duy/thực nghiệm (empiricism, chủ yếu với Locke, Berkeley và Hume), tri thức của con người, trừ tri thức về những nguyên lý toán học, và một vài chân lý lôgic, đều là do trải nghiệm mà ra.

Về đạo đức học, một phạm trù mà ông tham gia bàn luận tương đối trễ, Peirce chỉ trích là trong triết học truyền thống, “khuynh hướng của các triết gia là luôn luôn xác quyết rất tuyệt đối”; và tuy không tranh luận rằng James và Dewey là những người theo thuyết tương đối (relativists), nhưng ông e ngại rằng triết lý của hai người này cực kỳ linh động và công trình nghiên cứu của họ có thể dẫn dắt người ta đi theo một đường hướng khác. Cùng chính vì lý do này, mà ông thay đổi chủ thuyết của mình, từ “pragmatism” thành “pragmaticism” như đã đề cập. Theo Peirce, đạo đức học có nhiệm vụ hình thành mục tiêu cuối cùng cho cách ứng xử của con người (the summum bonum), một cứu cánh mà theo ông, có tính cách năng động, chứ không có tính cách tĩnh. Ngoài ra, Peirce còn lý luận rằng đạo đức học không phải là sự nghiên cứu những gì có tính cách lý tưởng, mà là “sự nghiên cứu những cứu cánh của hành động mà chúng ta chuẩn bị kỹ lưỡng để theo.” Trong ý hướng ấy, Peirce thích nghi đạo đức học của ông với lý tưởng thẩm mỹ về tính hữu lý (aesthetic ideal of reasonableness). Ông tranh cải rằng cách cư xử của con người nên nhắm mục tiêu đóng góp vào sự phát triển những điều hữu lý cụ thể này, chẳng hạn trong tư duy chính trị tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể chỉ danh phong trào dân quyền (civil rights) là giá trị cụ thể rút ra từ lý tưởng chung đã được ấn định trong Hiến Pháp (Peirce: Ethics and the Conduct of Life, TG Douglas R. Anderson, trong quyển Classical American Pragmatism: Its Contemporary do S.B. Rosenthal, C.R. Hausman và D.R. Anderson hiệu đính, tr. 137-145).

Theo Louis Menand trong quyển “The Metaphysical Club: A Story of Ideas in Ameica”, tr. 161, thì khi còn là sinh viên, Peirce thích dùng tam đoạn luận (syllogism) để để chia xẻ quan điểm với cha mình trong vấn đề này:

            Tất cả con người đều bình đẳng về các quyền chính trị;

            Người da đen là con người;

            (Vì vậy) Người da đen bình đẳng về các quyền chính trị như người da trắng.

 Quan điểm dân quyền này được coi là rất quan trọng, đến nỗi nhiều người cho rằng nếu CNTD ra đời sớm và được phổ biến rộng rãi, thì cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn với 600.000 người chết, và những kết quả tiêu cực vẫn còn tồn tại đến ngày nay, có thể đã không xảy ra trên đất nước Hoa Kỳ. Quan điểm này thật sự cũng không hẳn đúng. Bởi lẽ CNTD đã ra đời trên 100 năm nay rồi, mà nạn kỳ thị chủng tộc trên đất Mỹ đâu có biến mất, cứ tái đi tái lại; cũng như gần đây xảy ra những tranh chấp gay gắt thậm chí chết người về việc gỡ bỏ các tượng đài kỷ niệm do cánh Miền Nam dựng lên sau cuộc Nội Chiến Nam Bắc. Hình như con người khắp mọi nơi trên thế giới đã “quen” yêu chủ nghĩa nhất nguyên của mình rồi! Bỏ nó đi, thì cảm thấy mình mất đi bản sắc!

William James (1842-1910)

Thủa nhỏ James được gia đình cho sang học ở nhiều nước châu Âu. Muốn trở thành một họa sĩ, nhưng nhận thấy không thích hợp, James về Mỹ vào học Harvard, bạn với Pierce, và trở thành người giúp đỡ hào phóng sau này khi Pierce gặp khó khăn về sinh kế.  Tốt nghiệp y khoa, dạy cơ thể học và sinh lý học tại Harvard, rồi chuyển thành giáo sư tâm lý học và triết học cho đến những năm cuối đời.  Bộ sách 2 quyển The Principles of Psychology (xuất bản năm 1890) giúp ông nổi tiếng thời đó và nay trở thành kinh điển.  Trong những công trình xuất bản sau đó, gồm The Will to Believe and Other Essays in Popular Philosophy (1897), The Varieties of Religious Experience (1902), Pragmatism: A New Name for Some Old Ways of Thinking (1907), The Meaning of Truth: A Sequel to Pragmatism (1909), A Pluralistic Universe (1909) và Essays in Radical Empiricism (1912, sau khi ông mất), James tìm cách nâng các lãnh vực tinh thần, triết học, tôn giáo, xã hội thành những chủ nghĩa lý tưởng (idealisms). Theo nhiều nhà phê bình, lối viết của James không rõ ràng, bay bướm bằng lối viết của em ông, tức nhà văn thiên tài Henry James, và ông cũng không đi sâu và xa trong lý luận để đẩy mạnh quan điểm của mình; tuy nhiên họ đều đồng ý chính ông mới là người có công lớn phổ biến CNTD tại Hoa Kỳ thời đó. Sử dụng những từ ngữ quen thuộc dễ hiểu, như giá trị bằng tiền mặt (cash-value), “kết quả” (results), “lợi nhuận” (profits) và đi thẳng vào vấn đề, ông dễ thu hút nhiều nguồn độc giả.

Trong quyển The Principles, James cho rằng trải nghiệm — chứ không phải lý thuyết, tức những điều trừu tượng và triết học truyền thống — mới là chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết một cách thực tiển về mình cũng như về thế giới.   Ông không đồng ý với chủ nghĩa nhị nguyên truyền thống về vật chất và tinh thần, nhưng đồng thời cũng không cho rằng tinh thần bị giảm xuống chỉ còn là vật chất. Theo ông, trí não phải được xem như là công cụ thực hiện các mục tiêu; siêu hình học hay thần học mới chứng tỏ sự hiện hữu của linh hồn. Ông phân biệt “tôi” (I, chủ từ) và “cái tôi” (Me, túc từ). “Tôi” thì lúc nào cũng ý thức (concious); còn “cái tôi” là cái được ý thức về.  Ông phân biệt cái tôi vật chất, cái tôi xã hội và cái tôi tinh thần; chúng là đối thủ, cạnh tranh nhau, và hầu hết chúng ta bị thúc đẩy như là một khán giả lý tưởng trong việc phán xét các tương tác của chúng.

 Trong quyển Pragmatism, James cho rằng những người theo chủ nghĩa thực nghiệm (empiricists) là những kẻ bi quan, không tôn giáo, ngờ vực và đa nguyên; còn những người theo chủ nghĩa duy lý (rationalists) là những người lý tưởng, lạc quan; và những người theo chủ nghĩa nhất nguyên (monists) là những kẻ giáo điều. Cả ba, theo ông, không làm thỏa mãn nhu cầu triết học đối với các sự kiện, khoa học và tôn giáo của một con người bình thường; mà chính CNTD mới có thể làm thỏa mãn các nhu cầu này bằng cách đưa ra một phương pháp hấp dẫn mọi khuynh hướng, không phủ nhận tôn giáo lẫn các sự kiện, và chấp nhận tính chủ quan như là một yếu tố quan trọng trong triết học. Khác với Peirce, người cho rằng CNTD chỉ liên quan tới ý nghĩa mà thôi, James chủ xướng rằng CNTN là một lý thuyết về cả ý nghĩa và chân lý (a theory of both meaning and truth).  Đối với James, ý nghĩa của những ý tưởng, những niềm tin và những lý thuyết được nhận thức ra bằng cách hỏi rằng chúng thay đổi gì trong đời sống chúng ta. Và chúng là chân lý nếu sống theo chúng sẽ đưa đến những mối quan hệ thỏa đáng với những phần khác của trải nghiệm của chúng ta (satisfactory relations with other parts of our experience).  Nói vắn tắt, giá trị cụ thể (cash-value, giá trị bằng tiền mặt) của chân lý là gì? Câu trả lời: Những ý tưởng đúng là những ý tưởng mà chúng ta có thể đồng hóa, chuẩn nhận, trưng ra bằng cớ và chứng thực (assimilate, validate, corroborate and verify); còn những ý tưởng sai là những ý tưởng thì chúng ta không thể làm như thế được. (Fifty Major Philosophers: A Reference Guide, do Diané Collinson viết, Routlege xb năm 1987, tr. 117-118).  Thực ra, phạm trù chân lý/ đúng thực này đã được James định nghĩa với 15 cách: (1) Những ý nghĩ giúp chúng ta tham dự vào mối quan hệ thỏa đáng với những phần khác của trải nghiệm. (2) Những ý nghĩa dung hòa những chân lý cũ và những trải nghiệm mới. (3) Một cái tên dùng chung cho tất cả mọi thứ giá trị sử dụng nhất định về trải nghiệm.  (A name for all sorts of definite working values in experience), (4) Bất kỳ một ý nghĩ nào có giá trị trong đời sống cụ thể, …. (14) Một phương tiện trong tiến trình suy nghĩ của chúng ta. (15) Một hiện thực đang tăng trưởng.  (Puritans and Pragmatists: Eight Eminent American Thinkers, TG Paul K. Conkin, NXB Indiana University Press, 1976, tr 328).  Những định nghĩa không giống nhau này có thể khiến người đọc bối rối.  Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu phần nào nguyên nhân: quyển Pragmatism là tác phẩm gom góp từ 8 bài nói chuyện tại Lowel Institute (Boston) vào tháng 11 và 12 năm 1906, và tại Columbia University (New York) vào tháng 1 và tháng 2 năm 1907.

James giúp người đọc nhận ra cái cụ thể, tính hữu dụng cũng như tính tiên đoán của CNTD.  Thật vậy, trong khi trường phái học giả thần học thời trung cổ (scholasticism) tra vấn: “Cái này thật ra là gì?” để rồi rơi vào vòng lý sự, lẩn quẩn đi tìm lại tiền đề (quiddities); hay chủ nghĩa Darwin mạnh dạn hỏi: “Nguồn gốc của cái này là chi đây?” để rồi phải tiếp tục tìm kiếm câu trả lời trong khối tinh vân hổn độn (nebulas), thì CNTN đi thẳng vào “đời thường” rất thực tế: “Cái này đem lại những hậu quả gì?” Câu hỏi này nghe ra rất trần tục, nghe không có gì triết học, nhưng khiến người ta suy nghĩ để hành động và nghĩ đến tương lai.

Ngày nay hầu hết nhân loại sống trong xã hội đa nguyên, khiến nhiều người trong chúng ta không thấy chủ nghĩa đa nguyên là điều mới lạ.  Nhưng không phải chủ nghĩa đa nguyên thời nào cũng thấy được và ở đâu cũng có được.  Vào thế kỷ 16-17, chủ nghĩa nhất nguyên đã đưa châu Âu văn minh đến những cuộc chiến tranh tôn giáo đẩm máu.  Sau những chém giết đó, chủ nghĩa tự do (liberalism—người viết không dịch là cấp tiến như nhiều cơ quan truyền thông tiếng Việt, vì liberalism có gốc Latin liber: tự do, như freedom) mới nảy sinh, và người ta mới thấy một sự dung hòa, dung hợp, độ lượng là cần thiết để có hòa bình lâu dài. James kêu gọi mọi người đón tiếp chủ nghĩa đa nguyên nồng nhiệt và tích cực. Theo James, nhiều người trong chúng ta quá thờ ơ hay quá dễ dàng không nhận ra được là nhiều người có cuộc sống không giống cuộc sống chúng ta.  Khi làm như thế, thì chúng ta không nhận ra được những khác biệt chính đáng.

John Dewey (1859 – 1952)

Sau khi tốt nghiệp University of Vermont (khoa học trong những năm đầu; triết, luật, sử trong năm cuối), Dewey theo chương trình Cao Học đầu tiên được mở năm 1881 tại John Hopkins University, nơi Charles Peirce đang giảng dạy– nhưng không học với Peirce.  Lúc đó, ông chịu ảnh hưởng của triết học Hegel. Từ 1884 đến 1894, Dewey dạy ở University of Michigan. Năm 1894 chuyển sang University of Chicago làm khoa trưởng phân khoa triết, tâm lý và giáo dục; hai năm sau mở Laboratory of Education, một nơi thực nghiệm về giáo dục cấp tiến rất nổi danh. Đến 1904 chuyển sang dạy ở Columbia University cho tới khi về hưu năm 1930. Dewey xuất bản hơn 30 quyển sách, đi thuyết trình nhiều nơi trên thế giới cho nhiều loại thính giả khác nhau.  Dewey viết về nhiều lãnh vực trong triết học: tri thức học, siêu hình học, luận lý học, triết lý về trí tuệ, triết lý về khoa học, triết lý về chính trị, thẩm mỹ học và triết lý về tôn giáo.

Chịu ảnh hưởng khá mạnh của thuyết tiến hóa do Charles Darwin chủ xướng, Dewey nghĩ rằng tư tưởng và trí tuệ là những công cụ được phát triển trong quá trình tiến hóa cho phép con người chỉnh đốn lại môi trường sống của mình. Theo Dewey, những niềm tin (Peirce gọi đó là những thói quen) đủ mạnh mẽ và ổn định để chúng ta tin cậy, nhưng chúng ta luôn phải mở rộng đầu óc sẵn sàng xét lại, đặc biệt là vì chúng phải tự thích nghi với những đổi thay của môi trường. Ông viết: “những ý niệm, những lý thuyết, những hệ thống tư tưởng, vv.  là những công cụ (tools). Giống như trong trường hợp tất cả các công cụ, giá trị của chúng không nhờ vào chính chúng, nhưng nhờ ở khả năng làm việc của chúng mà người ta nhìn thấy được qua các hiệu quả khi sử dụng chúng” (Dewey, The Middle Work: 12, 163). Ông cho rằng đối với chủ nghĩa thực dụng, mà sau đó ông đặt lại tên là chủ nghĩa công cụ (instrumentalism), tất cả các ý tưởng đều là công cụ.  Do đó, những ý tưởng thật sự là những ý tưởng đem lại hiệu quả tốt nhất nhằm đạt những mục tiêu của con người (real ideas are those work best for attaining human goals).

Ông viết: “Triết học tự hồi phục khi nó không còn là công cụ dùng để đối phó với những vấn đề của các triết gia, và trở thành một phương pháp (method, in đậm do người dịch), được trao dồi bởi các triết gia để đối phó với những vấn đề của nhân loại.”  Ông thúc bách triết học nên trở thành công cụ dùng để đối phó với những vấn đề đặc biệt của nhân loại, hơn là với những vấn đề xa vời của các triết gia.  Ông chủ trương dùng phương pháp khoa học để chỉnh đốn lại giáo dục, luân lý, chính trị và xã hội. Dewey cho rằng Peirce là một nhà lý luận (logician); còn James là nhà nhân bản (humanist).  Về phần mình, Dewey nhấn mạnh tính cách xã hội của tri thức (the social character of knowledge).  Nhưng Peirce lại thấy rằng khảo hướng theo tự nhiên học của Dewey đối với luận lý học là quá tâm lý.

Cũng như James, Dewey nghĩ rằng con người làm ra chân lý. Chân lý không phải là thứ được làm sẵn hay chế sẵn. Ông viết: “Người theo CNTD nói rằng vì mỗi tiền đề là một giả định về một tra vấn còn đang tiến hành (nói gọn, một đề xuất), nên chân lý của nó là một vấn đề nghề nghiệp, một vấn đề lịch sử: nghĩa là nó trở nên thực, hoặc được làm cho thực (hoặc sai).”  (The pragmatist says that since every proposition is a hypothesis referring to an inquiry still to be undertaken (a proposal for short) its truth is a matter of its career, of its history: that it becomes or is made true (or false).

Trong khi Peirce cho rằng chân lý ở tình trạng tĩnh, nghĩa là một niềm tin hoặc vượt qua hoặc không vượt qua nổi những khắc nghiệt của tra vấn, thì Dewey –cũng như James—cho rằng chân lý và tri thức không phải là những hiện tượng tĩnh, nghĩa là không ở trong trường hợp mà những niềm tin của chúng ta hoặc phản ảnh thực tế (và do đó là đúng) hoặc không phản ảnh thực tế (và do đó là sai).

Về phương diện dân chủ, nếu học giả Pháp Tocqueville nhiệt tình ca ngợi sinh hoạt dân chủ tại Hoa Kỳ và than phiền Hoa Kỳ thiếu một nền triết học nói chung cho mình, thì Dewey mới là người chết sống với dân chủ và triết lý hóa dân chủ.  Ngoài việc cổ vũ dân chủ trên lý thuyết, Dewey còn giúp thành lập hai hiệp hội: The American Civil Liberties và The National Assosiation for the Advancement of Colored People; và năm 1937, lúc đó đã 78 tuổi, Dewey còn dẫn đầu một ủy ban sang Mexico điều tra về cái chết của Leon Trotsky được cho là bị người của Joseph Stalin ám sát. Những hoạt động tích cực này đã khiến ông được tặng cho danh hiệu “triết gia của dân chủ” của Hoa Kỳ.

Triết lý dân chủ của Dewey được xem là gạch nối giữa chủ nghĩa cá nhân (individualism) của Locke –đã được các chính trị gia Mỹ đưa vào Hiến Pháp cùng những văn bản quan trọng chính trị khác—và chủ nghĩa thực nghiệm (empiricism).  Về phương diện tái thiết chính trị xã hội, ông đưa ra một quan điểm rất thực nghiệm.  Theo ông, chúng ta sẽ chưa thoát khỏi thời kỳ siêu hình học về triết lý chính trị, nếu chúng ta vẫn tiếp tục ném vào đầu nhau những khái niệm trừu tượng mà khi dứt cuộc chiến, thì đâu vẫn vào đấy, không đạt được điều gì dứt khoát cả. Trái lại, chúng ta cần phải đối phó với mỗi vấn đề chính trị xã hội bằng một giả thuyết đặc biệt, chứ không phải bằng một lý thuyết phổ quát; tất cả các lý thuyết đều rộng trãi, còn đời sống tiến bộ tốt đẹp phải trông cậy vào những thử nghiệm nhận ra cái đúng cái sai. (Goethe có cùng quan điểm về vấn đề này khi viết “Tất cả lý thuyết đều màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.”)

Dewey viết: “Trong các khái niệm tiền-thực nghiệm, tôi chẳng thấy trường hợp nào mà kết quả cuối cùng lại là một cái gì đó giống như chiến thắng cho ý niệm này hay cho khái niệm kia. Tất cả chúng đều biến mất đi vì chúng càng trở nên không còn liên hệ gì đối với tình thế mới được khám phá; và với mối bất liên hệ được bắt gặp này, chúng trở thành vô nghĩa và không đáng được quan tâm.” (New Republic, Feb 3, 1917, trích lại từ The Story of Philosophy do Will Durant viết, Pocket Books xb năm 2006, tr. 689)

Về sự đánh giá con người, ông đưa ra tiêu chuẩn khá đặc biệt: “Người xấu là người bắt đầu xuống dốc, trở thành ít tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta tốt thế nào đi nữa. Người tốt là người đang tiến tới tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta chẳng đáng giá gì về tinh thần.” (Reconstruction in Philosophy, trích lại trong sách trên, tr. 685). Quan điểm này của ông rất nhân bản, không khác gì quan điểm trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo, nhưng liệu có ai áp dụng vào lãnh vực chính trị, cũng như tại tòa án chăng? Ông còn thêm rằng, tốt không có nghĩa là chỉ biết vâng lời và không hãm hại ai; tốt mà không có khả năng, thì là què quặt khập khiễng.  Theo ông, tất cả những đức tính trên đời không cứu nỗi chúng ta nếu chúng ta thiếu thông minh. Chúng ta phải tin vào tư duỵ, chứ đừng tin vào trực giác, bởi lẽ trực giác làm sao giúp nỗi chúng ta điều chỉnh với ngoại cảnh càng ngày càng đổi thay quanh ta.

Trong lãnh vực giáo dục, có thể nói ảnh hưởng của Dewey rất lớn lao. Là người đi dạy học lâu năm ở nhiều miền khác nhau trên đất nước Hoa Kỳ rộng lớn, nên tư tưởng của ông rất phóng khoáng và thực tiển.  Có thể nói không một nhà giáo hay một trường học cấp tiến nào ở Mỹ mà không chịu ảnh hưởng của ông.  Sau Thế Chiến Thứ Nhất, ông được mời giảng dạy về dân chủ, triết lý và tổ chức giáo dục ở Trung Hoa (1919-21), Nhật (1919), Thổ Nhĩ Kỳ (1926), Mexico (1926), Liên Xô (1928).  Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là quyển Democracy and Education xuất bản năm 1913, được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Ông tin tưởng rằng giáo dục của con người cứ tiếp tục nhờ sự tham gia của từng cá nhân vào sự ý thức tranh đua trong xã hội.  Tiến trình này bắt đầu một cách vô thức từ khi sinh ra, và tiếp tục hình thành năng lực của cá nhân đó, thấm vào ý thức, hình thành thói quen, tôi luyện tư tưởng, và gợi lên trong anh ta những cảm nghĩ và xúc động… Ông cũng tin tưởng rằng giáo dục thực sự chỉ đến nhờ sự kích thích năng lực trẻ do những của tình huống xã hội trong đó đứa trẻ tìm thấy chính mình. Theo ông, tiến trình giáo dục có 2 lãnh vực: tâm lý và xã hội, không lãnh vực nào là phụ hay bị bỏ rơi mà không đưa đến tệ hại, cũng không phải là sự dung hòa cả hai. Dewey cho rằng giáo dực trẻ con phải bắt đầu từ hiểu biết tâm lý về khả năng, hứng thú và thói quen của đứa trẻ. Những thứ này phải tiếp tục được giảng giải theo hình huống phát triển mới của xã hội. Nói cách khác, cái học chỉ dừng lại khi người ta chết.

Với quan niệm giáo dục là một tiến trình sinh sống (a process of living) chứ không phải là một sự chuẩn bị cho cuộc sống trong tương lai, Dewey chủ trương học đường phải tượng trưng cho cuộc sống –một cuộc sống thực sự và sinh động cho đứa trẻ như thể cuộc sống mà nó có tại nhà, tại khu láng giềng hay tại sân chơi. Như một định chế, học đường nên giản lược hóa đời sống xã hội hiện hữu; nên thu nhỏ nó xuống còn là hình thức phôi thai, vì cuộc sống hiện hữu quá phức tạp đối với em. Ông cho rằng như cuộc sống giản lược hóa, học đường sẽ lớn dần thành cuộc sống gia đình, nó đảm trách và tiếp tục các hoạt động khiến em quen với đời sống gia đình. Nói khác đi, công việc của học đường là phát triển và làm sâu xa thêm cái ý thức của đứa trẻ về mái ấm gia đình. Ông cho rằng nền giáo dục hiện thời thất bại chỉ vì nó lãng quên cái nguyên tắc căn bản của học đường là một hình thức của đời sống cộng đồng.

Về những môn học dạy ở học đường, Dewey tin rằng cách duy nhất khiến cho đứa trẻ ý thức được cái di sản xã hội của nó là làm cho nó có khả năng thực hiện được những hoạt động căn bản tạo ra cái văn minh như ngày nay. Ông chủ trương đưa khoa học vào học đường, nhưng không cần những thông tin chi tiết rườm rà, mà là chỉ cho đứa trẻ thấy những yếu tố đã sẵn trong kinh nghiệm trước đây, và cung cấp cho đứa trẻ các công cụ nhờ đó mà kinh nghiệm có thể điều chỉnh lại dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Nếu giáo dục là cuộc đời, thì trọn cuộc đời, ngay từ lúc ban đầu, đã bao gồm các lãnh vực khoa học, nghệ thuật, văn hóa và thông đạt. Tiến bộ không nằm trong việc tiếp tục nghiên cứu, mà nằm trong việc phát triển những thái độ mới và những quan tâm mới đối với kinh nghiệm. Dewey tin rằng đặt ra bất kỳ cứu cánh nào bên ngoài gaío dục, như đưa ra mục tiêu và tiêu chuẩn, là tước đoạt đi nhiều cái ý nghĩa của quá trình giáo dục, và có khuynh hướng làm cho chúng ta trông cậy vào những kích thích tố sai lầm và từ ngoài để đối phó với đứa trẻ. (Dewey on Education: Selections, do Matin S. Dworkin xb năm 1959, tr.19 – 27)

Một Vài Áp Dụng 

Một số trích dẫn cũng như luận bàn trên đây cho thấy 3 triết gia tiền phong của CNTD Mỹ “triết lý” về hầu hết các phạm trù triết học: Ý Nghĩa, Chân Lý, Giá Trị, Tra Vấn, Tri Thức và Hành Động. Riêng biệt và ngắn gọn dưới đây, chúng ta thử đưa ra vài phân tích về phạm trù “Chân Lý” (một trong 3 lý tưởng Chân-Thiện-Mỹ mà các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam xem là 3 tiêu chuẩn cho một tác phẩm hay) để xem sự ứng dụng linh hoạt của nó vào cuộc sống thực tiễn của người Mỹ. Theo Lowell Kleimen & Stephen Lewis, trong quyển Philosophy: An Introduction through Literarture (NXB Paragon House, 1992, tr. 91-96), một điều gì đó được gọi là chân lý nếu nó hội đủ ít nhất cả 3 yếu tố sau đây: độc lập đối với niềm tin (independent of belief, tức không phải do chúng ta tin, muốn, cần); bất biến (immutable, tức không phai nhạt, thay đổi qua thời gian); và được công chúng nhìn nhận (public, tức đúng cho tất cả mọi người). Từ đó, theo lý thuyết tương hợp về chân lý (the correspondence theory of truth):  Một điều nào đó là chân lý nếu và chỉ nếu nó tương hợp với các sự kiện. (Something is true if and only if it corresponds to the facts).  Còn lý thuyết nhất quán về chân lý (the coherence theory of truth) lại định nghĩa: Một điều nào đó là chân lý nếu và chỉ nếu nó nhất quán (Something is true if and only if it coherents). Trong rất nhiều trường hợp, cả hai lý thuyết này đều không giúp chúng ta tìm ra được chân lý. Trong khi đó, lý thuyết thực dụng về chân lý (the pragmatic theory of truth) tỏ ra hữu hiệu hơn vì nó không đòi hỏi những điều kiện quá khắt khe.  Thực vậy, theo lý thuyết này,

            Một điều nào đó là chân lý nếu và chỉ nếu nó là một phần “diễn đạt cho giải thích tốt nhất.” (Something is true if and only if it is part of an “inference to the best explanation.”)

            Nhưng chân lý mà CNTD giúp khám phá có ích dụng gì cho cuộc sống? Theo James, ý nghĩ và khái niệm được đánh giá qua những hậu quả cụ thể mà chùng mang lại.  Nếu bạn nói một điều gì đó là chân lý, thì bạn hãy chuẩn bị chứng minh cái chân lý đó để mọi người có thể trải nghiệm qua các giác quan của mình.  Bằng không thì chỉ là “nói trăm voi không bằng một bát nước xáo”, tựa hồ như Hegel đã lý luận cực kỳ khúc chiết, nào tiền đề, phản đề, tổng đề mọi thứ trong lịch sử, nhưng theo Kierkergaard, Hegel đã không giúp ích gì cho cuộc sống hằng ngày!

            CNTD cho rằng niềm tin không thể tách rời hành động. Do đó, chân lý/cái đúng của niềm tin phải được đánh giá qua các hệ quả do những hành động đó mang lại.  Hành động nói ở đây có thể là những trải nghiệm (experiences; xin phân biệt với với experience, uncountable noun, tức kinh nghiệm).  hay những thực nghiệm/thí nghiệm (experiments).  Chúng ta nên nhớ rằng C.S. Pierce và William James vốn được đào tạo thành những khoa học gia trước khi trở thành triết gia.  Ngay cả John Dewey xem như được đào tạo chuyên ngành về triết học và bị ảnh hưởng Hegel khá nhiều; nhưng cũng đã có 3 năm đầu tiên học khoa hoc.  Sau này, ông tiêt lộ là chính quyển sách giáo khoa của T.H. Huxley với tựa đề Lessons in Elementary Physiology chỉ cho thấy mối liên hệ giữa con người và tạo hóa đã thôi thúc ông nghiên cứu suốt đời với kỳ vọng đưa ra một lý thuyết chứng minh rằng khoa học và những thử nghiệm có thể dùng để giải quyết các vấn đề văn hóa và xã hội.

            Hoa Kỳ là một quốc gia còn trẻ trung về phương diện lịch sử.  Những thành phần dân chúng đầu tiên đến từ nhiều quốc gia khác nhau của châu Âu, rồi sau này từ khắp nơi trên thế giới, mang theo những giá trị khác nhau, thậm chí xung đột lẫn nhau.  Ban đầu nó là một quốc gia nông nghiệp, những giá trị, ý chí, triết lý, tôn giáo, kiến thức vv. từ cựu lục địa đã giúp cho cá nhân tiến dần đến tình trạng “an cư lạc nghiệp”; cho quốc gia kiến tạo ra một thể cế chính trị thế quyền và dân chủ.  Nhưng khi đất đai mở rộng hơn, dân số đông đúc hơn, kinh tế càng kỹ nghệ hóa, xã hội trở nên đô thị hóa hơn, thì những xung đột quyền lợi trở nên mạnh mẽ và gay gắt hơn, những người khai sáng CNTD muốn giải quyết những xung đột đó để giúp cho mọi người được sống một đời sống phong phú hơn bằng cách không đưa ra những lời hướng dẫn về vật chất hay tinh thần, mà là những lời hướng dẫn dựa trên những tư duy rõ ràng về hệ quả của những hành động của mình.  Triết thuyết mới này tuy thỏa mãn “tinh thần dân tộc” và có vẻ thực tiển, nhưng không phải ai ai cũng vồ vập chụp lấy.  Những trắc nghiệm đầu tiên cho thấy nó cần được tiếp cận một cách cẩn thận.  Thật vậy, những “nguyên tắc”, hay những “định nghĩa” do những người sáng lập đưa ra ngay từ lúc ban đầu đã không được rõ ràng, thậm chí còn mâu thuẩn. Tuy nhiên, càng về sau này, nhất là trong lĩnh vực chính trị, khi mà ý thức hệ không thể là gỉải pháp, thì “tinh thần thực dụng” được đem ra giải thích, cân nhắc và dung hòa để cho thấy cái “tuyệt đối” là không thích hợp.

            Chúng ta thử lấy một thí dụ về ý thức hệ chính trị.  Người ta hay nói tại Hoa Kỳ, có sự xung đột gay gắt giữa “chủ nghĩa tự do” (liberalism—xin tạm dịch như thế này, vì liber gốc chữ Latin có nghĩa là liberty hay freedom; đa số truyền thông tiếng Việt dịch liberalism là chủ nghĩa cấp tiến) thường được gắn liền với đảng Dân Chủ, và “chủ nghĩa bảo thủ” (conservatism) thường được gắn liền với đảng Cộng Hòa.  Nói một cách rất tổng quát, cả hai đều tôn trọng tự do cá nhân (trong khi đó chủ nghĩa công sản thì không).   Nhưng khác nhau ở nhiều điểm mà hai điểm căn bản là (1) chủ nghĩa tự do hoàn toàn tin tưởng vào khả năng con người, rằng con người có thể đưa ra những giải pháp làm thay đổi tận gốc rễ cơ cấu xã hội; trong khi đó chủ nghĩa bảo thủ nghi ngờ rằng con người có thể phạm phải sai lầm, do đó chủ trưong rằng nếu cần thay đổi thì phải từ từ, hay tăng thêm từng giai đoạn –incrementalism).  (2) chủ nghĩa tự do chủ trương chính quyền cần mạnh dạn can thiệp vào đời sống để tạo để tạo công bằng xã hội; trong khi chủ nghĩa bảo thủ chủ trương chính quyền càng ít can thiệp càng tốt.  Chính chủ trương mới về vai trò của chính quyền này đã biến “chủ nghĩa tự do cổ điền” (classical liberalism) thành thành “tân chủ nghĩa tự do” (neo-liberalism).  Phong trào chủ nghĩa thực dụng ra đời trong hoàn cảnh “tân chủ nghĩa tự do” đang phát triển mạnh mẽ.

Kết hợp khuynh hướng mới này với những nguyên tắc và triết lý của CNTD, Charles W. Anderson đưa ra một khái niệm mới.  Đó là “chủ nghĩa tự do thực dụng” (pragmatic liberalism), mà theo ông, “Chủ nghĩa thực dụng cần chủ nghĩa tự do nếu nó muốn trở nên quan trọng trong lãnh vực tinh tần và chính tri.  Mặt khác, chủ nghĩa tự do sẽ trống rỗng khi không có phương pháp thực dụng.  Những nguyên tắc trừu tượng đòi hỏi một sự giải thích.  Những giá trị vĩ đại về tự do, công bằng, công lý, và hiệu năng xã hội có thể là bằng chứng hiển nhiên theo ý nghĩa nào dó, nhưng khi đem áp dụng vào các trường hợp khác nhau, chúng có ý nghĩa gì thì không rõ.  Thực vậy, không phải do đặt trên nền tảng nào hay theo trình tự triết lý gì, mà chính là sự áp dụng những nguyên tắc căn bản này phát sinh ra những tranh cải quan trọng về ngành chính trị học tự do (liberal politics).  (Pragmatic Liberalism, NXB The University of Chicago Press, 1990, tr.4-5).

Đối với mối quan hệ giữa bảo thủ và chủ nghĩa thực dụng, cững đã có một nghiên cứu của Seth Vannatta qua tác phẩm Conservatism and Pragmatism, NXB Palgrave, 2014).  Tác giả nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa bảo thủ Anh quốc và chủ nghĩa thực dụng cổ điển Hoa Kỳ để minh họa những qui chuẩn phương pháp luận (methological norms) cho biết những tra vấn về các lãnh vực đạo đức, chính trị, luật và lịch sử.  Những nhà bảo thủ vốn có tính nghi ngờ khởi sự tra vấn không dùng những nguyên tắc tiên nghiệm (a priori principles) mà nhờ những yếu tố tiếp cận được như truyền thống, phong tục tập quán hay các trải nghiệm văn hóa, không khác chi chủ nghĩa thực dụng tra vấn qua các trải nghiệm của mình.  Nhờ vậy mà cả hai tránh được điều sai sót phổ cập của các nguyên tắc tiên nghiệm. Các nguyên tắc chính của chủ nghĩa bảo thủ Hoa Kỳ cũng không khác nhiều với các nguyên tắc của chủ nghĩa bảo thủ Anh quốc. Như vậy, liệu những nhà bảo thủ Hoa Kỳ có thể trông cậy vào phương pháp của chủ nghĩa thực dụng để tìm ra một giải pháp nào đó hay không. Chủ nghĩa thực dụng không cho phép chúng ta kết luận như vậy, vì hệ quả của một giải pháp cần phải được minh chứng qua những trải nghiệm trong những tình huống khác nha. Chúng ta hy vọng trong tương lai gần, tại Hoa Kỳ sẽ có những nghiên cứu mới về mối tương quan giữa hai chủ nghĩa bảo th và CNTD.

Nhưng cần lưu ý là khi chúng ta “liên kết” hai ý thức hệ chính trị trên với CNTD, thì có phải chăng chúng ta đã làm một điều khá nghịch lý: một bên là những niềm tin là phải theo đuổi bằng mọi giá với ý thức hệ, và bên kia những niềm tin là phải hành động để đạt đưọc kết quả mong muốn.  Theo nhận xét của Giáo Sư B. Guy Peters, thì hầu như trong lịch sử Hoa Kỳ những thập niên gần đây, hai chính đảng lớn — hay nói dung hơn là từ Ronald Reagan, sang Geroge H.W. Bush, đến Bìll Clinton, rồi George W. Bush có đều có khuynh hướng trung dung và không ý thức hệ (centrist and nonideologits).  Chỉ khi sang Barack Obama, thì sự dung hòa lâu dài đó mới bắt đầu chuyển dạng với sự thú nhận của vị tổng thống da mầu này rằng mình theo chủ nghĩa thực dụng. (American Public Policy: Promise and Performance, NXB: Sage CQ Press, 9th ed, 2013, tr 17-19)

  ***

Trên đây là một số tư tưởng của 3 triết gia tiền phong của chủ nghĩa thực dụng Mỹ.  Peirce được coi là người đặt viên đá đầu tiên qua bài nói chuyện có tựa đề “How to Make Our Ideas Clear? (1878), là người khởi xướng lý thuyết về chân lý.  James là người phát hiện ra Peirce, tạo nền móng và bắt đầu quãng bá CNTD qua tác phẩm Pragmatism (1907), cũng như những bài nói chuyện về phương pháp trải nghệm.  Nhưng chính Dewey mới là người làm cho CNTD nổi tiếng bằng cách hệ thống hóa, kêu gọi đa nguyên về viễn kiến nhân bản khi đưa nó vào thực tiển qua những tác phẩm của mình, đặc biệt qua quyển Democracy and Education (1913), cũng như qua công tác giảng dạy tại nhiều nơi, trong và ngoài nước Mỹ. Như một đứa trẻ tập đi, CNTD đã ban đầu đã dựa vào triết học của cựu lục địa, để rồi lần lần tự tách ra và phát triển.  Tính từ khi bài nói chuyện của Peirce ra đời, đến khi Dewey mất, CNTD đã trải qua 74 năm (1878 – 1952). Họ là những triết gia thuộc CNTD cổ điển (classical pragmatism).

Với nhau, họ cũng có những bất đồng và tranh luận tuy không gay gắt.  Với bên ngoài, họ bị công kích không ít, nhất là từ các học giả Ki Tô giáo.  Nhưng CNTD đã lần lần được một số học giả châu Âu, Bắc Mỹ, châu Mỹ Latin niềm nở tiếp nhận.  Chính tại Hoa Kỳ, CNTD cũng bị khựng lại, không phát triển nổi trong một thời gian mặc dù quan điểm về giáo dục của Dewey vẫn còn ảnh hưởng. Mãi đến thập kỷ 1980, CNTD mới hồi sinh nhờ các triết gia tân chủ nghĩa thực dụng, trong đó nổi tiếng nhất là Richard Rorty và Hilary Putman. Nếu có dịp, người viết này sẽ xin trình bày tiếp về tân chủ nghĩa thực dụng (neo-pragmatism) và một vài áp dụng của nó.

Lê Văn Bỉnh

(Virginia, 11/2017 & 11/2022)

Tài Liệu Đề Nghị Đọc Thêm Để Tìm Hiểu Sự Áp Dụng của Chủ Nghĩa Thực Dụng

1.      How American Politics Works: Philosophy, Pragmatism, Personality and Profits (TG Richard J. Gelm, NXB Cambridge

Scholars, 2010)

2.      Pragmatism in Law & Society (HĐ Michael Brint & William Weaver, NXB Westview Press, 1991)

3.      Pragmatism Applied: Williams James and the Challenges of Contemporay Life (HĐ Clifford S. Stagoll & Michael P. Levine, NXB Suny Press, 2019)

4.      Pragmatism as Humanism: The Philosophy of Willaims James (TG Patrick Kiaran Dooley, NXB Little, Adams & Co, 1974)

5.      Pragmatism versus Marxism: An Appraisal of John Dewey‘s Philosophy (TG George Novack, NXB Pathfinder Press, 1975)

6.      Environmental Pragmatism (HĐ Andrew Light and Eric Katz, NXB Routledge, 1996)

7.      Hope, Change, Pragmatism: Analyzing Obama‘s Grand Strategy (TG Jacob Shively, NXB Palgrave Macmillan, 2016)

 

Visits: 69

Đôi Nẻo Có Không

Thơ Phùng Minh Tiến

Hữu dã hồi
Vô dã hồi
Mạc tại giang biên lãnh phong xuy
( Kệ cổ của Phật giáo )

Có cũng về ,
Không cũng về .
Sao còn đứng đợi bến sông mơ.
Bốn phương gió nổi mùa hư ảo
Ngoảnh lại hoa xuân rụng não nề …

Có cũng về,
Không cũng về.
Về đâu, non nước về đâu nhỉ,
Chảy xiết cuồng lưu, vọng khứ hề.

Có cũng về,
Không cũng về.
Sáu bảy mươi năm làm khách lạ,
Một chiều tuyết phủ với sương che.

Có cũng về,
Không cũng về.
Thanh xuân giờ đã xa biền biệt,
Dừng lại bên sông, lạnh bốn bề.

Phùng Minh Tiến

Visits: 74