Phạm Thành Châu và Tập Truyện Ngắn “Vô Tình”

Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22 )

Xuất bản tháng 10 năm 2021, đây là tập sách thứ bảy của nhà văn Phạm Thành Châu (PTC) tự xuất bản. Và theo lời tác giả, “Vô Tình” cũng sẽ là tập truyện “sau cùng” của anh.

Anh PTC có lẽ cũng có lý do để “hù dọa” tôi như vậy và tôi nghĩ lý do thật lòng và đơn giản nhất là: PTC …mệt rồi. Bọn chúng tôi vừa ăn sinh nhật thứ 79 của anh vào dịp anh Nguyễn Cửu Viên, một đồng môn QGHC từ Seattle ghé thăm Miền Đông; và khi lớn tuổi, anh trở nên khó khăn với các tác phẩm văn chương của anh.

Anh nói với tôi là “tôi phải đọc đi đọc lại, sửa tới sửa lui từng câu văn, cách dùng chữ, sắp xếp ý tưởng cho từng chuyện tôi viết. Nhiều chuyện không ưng ý thì bỏ sọt rác. Đọc và sửa đến nổi thuộc lòng những gì mình viết trong từng chuyện một…”

Vậy mới biết, viết và được mang danh vị “Nhà Văn” không phải là chuyện dễ hay là chuyện giỡn chơi. Vậy mà PTC thẳng tay từ chối danh hiệu Nhà Văn  của anh. Ở trang bìa sau của tập sách Vô Tình, PTC viết: “Người xưa có câu “ Văn dĩ tải đạo, Thi dĩ ngôn chí” (Văn chương phải nói lên cái đạo lý. Thi ca nói lên cái chí của mình), ông không có “tiêu chuẩn” nào để được gọi là nhà văn. Ông kể những chuyện tầm phào, chỉ đáng đem vào giường đọc cho dễ ngủ. ”

Tôi không nghĩ vậy.

Truyện PTC viết không phải là “chuyện tầm phào” mà là những mảnh tâm tình rất thật của nhiều cảnh đời được ghi lại qua ngòi bút đặc thù, chỉ riêng một mình, của Nhà Văn PTC. Cũng giống như những ca sĩ thành danh, nghe tiếng hát của họ là thính giả biết ngay người hát là ai  thì PTC cũng vậy. Đọc truyện PTC viết thì biết ngay là văn của PTC.

PTC thích kể hay thuật chuyện. Và anh là người kể chuyện có duyên và lôi cuốn. Vì anh kết cấu truyện ngắn như một chuyện kể  nên truyện anh viết không cầu kỳ, hay phô bày những trau chuốt, sắp xếp hay kết cấu của văn chương chữ nghĩa và do vậy,  tạo được sự gần gũi, thân-tình-không-màu-mè giữa tác giả và người đọc.

Tôi thích đọc chuyện PTC là ở  tính thuần hậu, chơn chất, thủy chung của những nhân vật trong truyện PTC viết hay kể. Những đức tính đó thật khó tìm thấy trong cõi đời văn minh vật chất và những tiến bộ kỹ thuật thay đổi đến chóng mặt bây giờ. Khó tìm thấy ở chỗ tình cảm của những nhân vật trong chuyện PTC  thường trải dài qua nhiều năm tháng mà vẫn bất biến,  trước sau như một. Cái kiểu yêu ai, thích gì thì mang theo  yêu, thích đó trọn một đời. Thêm nữa, giống trong chuyện cổ tích hay chuyện đời xưa, chuyện PTC thường có kết cục “gặp lành” cho những người “ở hiền.” Tôi có thể ghi lại ở đây tên hàng chục truyện ngắn PTC, để chứng minh, mỗi truyện là những nhân vật khác nhau, những dòng đời nhiều biến động, nhưng tình cảm thì vẫn vậy, trước sau như một, không hề lay chuyển. (Nếu chỉ riêng trong “Vô Tình” không thôi thì mời độc giả theo chân những nhân vật nam có, nữ có,“hiền lành”, “trước sau như một” trong các truyện: Ngôi Nhà Ngày Xưa,  Đôi Giày Gót Thấp, Thôi Miên Thuật và Mối Tình Của Tôi, Hoa Trang, Người Mất Trí.)

Cái hay của truyện PTC còn nằm ở điểm này: Truyện PTC kể có nhiều truyện có vẻ khó tin, không thực, như tôi đã nói, giống truyện cổ- tích- đời- xưa; vậy mà đọc xong thì thấy có cái gì đó gần gủi tận sâu trong tâm tình người đọc, rất thực. Gấp cuốn sách lại những dòng đời trong nhiều truyện kể của PTC chạm đến đáy tim nhiều người đọc ngay bây-giờ, lúc-này-ở-đây.  Tôi nghĩ, đó là tấm lòng nhân hậu, tử tế, yêu thương vô điều kiện lẫn khuất đâu đó trong mỗi người chúng ta mà nhiều khi thường bị che mờ bởi những u mê của cái tâm thức mãi lo chạy đuổi theo những hỷ nộ ái ố của đời sống. Có phải chăng mỗi người chúng ta vẫn thường mong tìm những an-ủi-ấm-lòng, những yêu-thương-tự-tâm trong đời sống  hiện tại đầy dẫy những lạnh lùng, vô cảm; những mê mờ, rập khuôn; những phô trương trống rỗng, hay quá nhiều những tàn nhẫn, ác độc không còn tính người?

Một điểm nữa, nếu không nhắc đến khi viết về PTC thì chắc hẳn là một thiếu sót lớn: Còn nữa, còn hoài không bao giờ xa lìa trong truyện PTC là  những tình tự hay chuyện kể về quê hương Việt Nam  hình chữ S với nhiều hệ lụy, nhiều quá khứ khổ đau, nhiều buồn vui, nhiều dính líu tâm tình. Có lẽ do vậy mà PTC có rất nhiều độc giả trong số những người Việt Nam bỏ nước ra đi tìm tự do, mang theo quê hương Việt Nam trong trái tim mình, không dứt bỏ được. Đó là hàng triệu người Việt ly tán khắp nơi sau 30-4-1975, hàng triệu mảnh đời khác nhau, hàng triệu trái tim Việt Nam lưu vong đang tìm cách vượt trên lối sống văn minh kỹ thuật  tiến bộ đến chóng mặt ở xứ người để sống cái tâm tình thuần hậu, chơn chất, thủy chung, tử tế, đơn giản của người Việt mình.

Quê hương với những tình tự quá khứ  quen thuộc  hiện hữu trong nhiều tập truyện PTC và trong Vô Tình cũng vậy. Nhưng có nhiều khi chúng ta ngỡ ngàng khổ tâm giống PTC trong truyện  Ông Lão và Cô Gái Điếm (Vô Tình, trang 57-72) nhìn thấy những thay đổi lạnh lùng,  những thay đổi thật vậy sao (?) ngay chính trên mảnh đất quê hương yêu dấu giờ đã xa.

PTC chạy tới chạy lui chạy qua chạy lại chạy hoài giữa chuyện ở xứ người và chuyện ở Việt Nam ngày xưa, bây giờ. Mà không phải chúng ta cũng vậy sao? Chạy tới chạy lui chạy qua chạy lại chạy hoài giữa chuyện ở xứ người và chuyện ở Việt Nam ngày- xưa-bây-giờ.

Mười bảy truyện ngắn PTC trong hơn 200 trang giấy của tập truyện Vô Tình mãi vẫn là  tâm tình của người Việt tử tế PTC, cũng giống như tâm tình của tôi và của bạn, những người Việt xa xứ,  cộng thêm chút khôi hài, cười cho “dzui”, có gì đâu mà ra vẻ đạo mạo, nghiêm trang.

Độc Giả Vô Tình.

Phần viết dưới đây là phần …ngoài lề, của tôi, người phụ trách ấn loát tập sách Vô Tình. Ngoài lề nhưng tôi nghĩ là cần nên viết và chia sẻ.

Những gì tôi viết ở đây sẽ chỉ liên quan đến những tác phẩm của PTC mà nhà in của tôi phụ trách việc trình bày và ấn loát. Nhưng thực ra nói riêng về việc ấn loát và  phát hành những tập truyện của PTC cũng là nói chung về tình trạng ấn loát và phát hành của sách vở người Việt nước ngoài.

Nhà văn PTC giao phó cho “nhà in” của tôi việc trình bày và ấn loát tất cả 7 tập sách trong hình dưới đây:

Việc tự lo ấn hành 7 tập sách không phải là việc đơn giản và dễ dàng.

Trước hết phải kể đến công trình sáng tạo tim óc của tác giả trong nhiều năm trời để hình thành một tác phẩm văn chương.  Nhiều người ví, đối với nhà văn, mỗi cuốn sách là một đứa con tinh thần thì cũng không có gì gọi là thậm xưng.

Kế đến là lo việc trình bày và ấn loát. Dĩ nhiên là tốn tiền.

Chặng chót, có sách trong tay, tác giả tự lo phát hành đến tay người đọc, “bán” sách, thâu lại “tiền vốn” còn có tiền dành cho việc xuất bản cuốn kế tiếp.

Đứng trên mặt “kinh doanh” không thôi, thì việc tự xuất bản một cuốn sách, nói nôm na,  là việc “bỏ ra bạc ngàn, thâu vào bạc cắc”. Muốn “huề vốn” thì phải bán được số nhiều.

Thoạt kỳ thủy, có nghĩa là cách đây hai ba chục năm, nhà văn PTC mỗi lần in sách là in 1000 ấn bản. Các tựa sách như “Nhớ Huế”, “Bức Họa Khỏa Thân” “ Lý Lẽ Của Trái Tim” rất được độc giả yêu thích, đặt mua và đã được tái bản một, hai lần.

Nhưng những năm gần đây, từ 2016,  tôi nhận ra nhiệt tình viết và xuất bản sách của PTC càng lúc càng …đi xuống. Mà đi xuống một cách trầm trọng.  Như khi đặt in tập truyện mới nhất này, “Vô Tình”, tác giả chỉ muốn in …50 cuốn. Tôi hỏi PTC tại sao số lượng in giảm đến độ gần như 95% so với trước đây, thì được nghe tác giả trả lời :

– “Có ai đặt mua sách đâu nữa mà in nhiều? In bây giờ chỉ để …biếu!”

Ô hay, độc giả mua sách PTC…biến đâu mất rồi? Không lẽ độc giả giờ cũng …”vô tình” như tựa tập sách mới của PTC sao?

Tôi nghĩ, có nhiều lý do, nhưng nguyên nhân chính yếu nhất là số người đọc sách báo tiếng Việt (ở nước ngoài) càng ngày càng suy giảm trầm trọng (tuổi đã già, mắt kém); cộng thêm sự phát triển và phổ cập của các phương tiện truyền thông mới như đọc truyện, sách không tốn tiền trên Internet, xem YouTube hay Facebook v..v…thì cán cân nghiêng hẳn về những phương tiện “kỹ thuật mới” này. Thời đại văn minh, không còn thì giờ để tìm mua, đọc một cuốn sách, một tờ báo, nhưng quá nhiều thì giờ dành để email, lướt mạng, đưa hình ảnh lên FaceBook, hay xem YouTube! Do vậy, ngày nay ở nước ngoài, “đốt đuốc” cũng rất khó tìm được người mua sách báo tiếng Việt để đọc.

Khi tôi viết những dòng nhận xét ở trên về tình trạng xuất bản sách tiếng Việt của PTC, tôi vẫn không muốn tin là không còn độc giả (mua và đọc) sách báo tiếng Việt. Tôi không tin là những người yêu sách, báo thích đọc sách, báo tiếng Việt “biến mất” một cách không kèn không trống như vậy.Tôi càng không tin là người Việt mình sẵn sàng bỏ ra $15 để ăn 1 tô phở, nhưng tiếc $15 mua một cuốn sách, một tờ báo hay để đọc.

Tôi thực sự muốn chứng minh với PTC rằng có nhiều khi gióng lên một tiếng chuông thì người đọc kinh đang buồn ngủ mới giật mình tỉnh thức để tâm theo lời kinh, tiếng kệ. Rằng có nhiều khi độc giả của PTC không phải không muốn mua sách đọc, mà do chính PTC không ơi hỡi, không báo tin, không …quảng cáo, “tiếp thị” thì ai biết mà mua sách?

Vậy thì tôi xin mạn phép thưa với “độc giả” đã theo đọc tới những dòng chữ này hãy tìm mua và đọc những tác phẩm văn chương của nhà văn PTC, và cũng như  nhiều tác giả khác, như một phản chứng để nói với PTC (và nhiều tác giả khác) là: Chúng tôi những người yêu đọc sách tiếng Việt vẫn còn đây!

Được như vậy, nhịp cầu tương tác giữa tác giả và độc giả sẽ mãi được nối lại,  và tập truyện Vô Tình nhất định sẽ không là tập truyện cuối cùng như PTC “tuyên bố” với riêng tôi.

Nguyễn Quang Dũng (Focus Digital Publishing)

Virginia, tháng 12/2021

(Đính kèm dưới đây là Phiếu mua sách PTC)

Visits: 36

Lễ Thăng Cấp Đại Tá Y Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ Mai Quang Vinh

Hậu duệ CSV QGHC MĐ, Mai Quang Vinh, Thứ Nam anh chị Mai Văn Giỏi (Đốc Sự Khóa 11) trong Lễ Thăng Cấp Đại Tá Y Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ

Được biết ngày thứ Ba 1/6/2021, gia đình Chị Mai Văn Giỏi đã tham dự lễ thăng cấp Đại Tá  Y Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ cho con trai Mai Quang Vinh tại Walter  Reed  National Medical Center Bethesda, Maryland.

Đại Tá Mai Quang Vinh

Đại tá Mai Quang Vinh, sinh năm 1975, trong gia đình có 2 chị em, là thứ nam của anh chị Mai Văn Giỏi, theo gia đình  định cư tại bang Virginia năm 1990. Sau khi tốt nghiệp cử nhân sinh học tại  Virginia Commonwealth University, Mai Vinh tiếp tục học tại đại học Kansas City University of Medical và tốt nghiệp Doctor of Osteopathic Medicine (D. O.) degree. Tình nguyện vào hải quân năm 1998. Mai Vinh lần lượt tham gia nhiều công tác từ AFRICOM ở Djibouti đến JPAC POW/MIA ở Việt Nam. Đến năm 2021, Mai Vinh được thăng cấp đại tá và sẽ được chuyển đến công tác tại Guam với tư cách Senior Medical Officer.

Đại tá Mai Vinh, sĩ quan y sĩ  gốc Việt được thăng cấp đại tá khi vừa  tròn 46 tuổi, với tương lai đầy hy vọng, ông sẽ trở thành một vị tướng gốc Việt, vừa mang lại sự hãnh diện cho gia đình, vừa là niềm hãnh diện của hậu duệ một cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, nói riêng.

Một lần nữa, Hội xin chung vui với chị Mai Văn Giỏi và gia đình, chúc Đại Tá Mai Vinh ngày càng thăng tiến trong đời binh nghiệp.

Gia đình chị Mai Văn Giỏi trong ngày Lễ thăng cấp Đại Tá Mai Quang Vinh (trong hình: Chị Mai Văn Giỏi, người thứ ba, từ trái sang)

Hổ Phụ Sinh Hổ Tử

Anh Mai Văn Giỏi (ĐS 11) trong Ngày Khai Thuế Miễn Phí 16/5/2007

Nói đến sự thành công của Đại Tá Mai Vinh cũng là nói đến câu “ Hổ phụ sinh hổ tử”, để nhắc đến thân phụ của Đại Tá “Anh Mai Văn Giỏi, cựu sinh viên QGHC Ban Đốc Sự, Khóa 11“, từng  là người tử tù trong trại cải tạo CS, đã qua đời năm 2007 tại Virginia, đã khơi lại nhiều kỷ niệm của anh với anh em Hành Chánh Miền Đông, trong  thời gian sinh hoạt từ  Tổng Hội (1999-2000) đến Hội CSV QGHC Miền Đông (1999-2007).

Anh Lê Văn Quan trong ngày tiễn biệt anh đã nói: Chúng tôi vẫn không khỏi ngậm ngùi tiếc rằng anh Giỏi đã ra đi quá sớm.

Quá sớm vì anh chưa vượt quá tuổi cổ lai hi, nhất là ngày nay, thất thập không còn là tuổi cổ lai hi nữa.

Quá sớm vì sau gần suốt cuộc đời với nhiều gian truân và tận tụy, tận tụy với gia đình, tận tụy với bạn bè, anh Giỏi lại vội vã ra đi vào thời điểm anh đang có đầy đủ điều kiện an hưởng thanh nhàn.

Quá sớm vì chúng tôi nghĩ rằng, cuộc đời vẫn chưa bù đắp đủ cho anh về những tận cùng khổ đau về cả thể xác lẫn tinh thần qua những trận đòn trừng phạt đầy thù hận, không thương tiếc của trại tù mà anh đã hứng chịu sau lần vượt ngục thật can trường, nhưng không thành công.

Quá sớm vì chúng tôi tiếc anh, một người bạn thật nhân hậu của chúng tôi. Trong suốt cuộc đời, anh luôn đem lòng vị tha đối xử với mọi người, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tình huống; ngay cả trong trại tù CS, nơi mà bệnh tật và đói khát luôn luôn hành hạ và đe dọa tính mạng  tù nhân từng giờ từng phút; nơi mà vì bản năng sinh tồn, lòng ích kỷ của con người được phát triển cao đô.Trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, anh vẫn giữ được bản  tánh nhân hậu của mình, vẫn sẵn lòng làm bất cứ điều gì có thể làm được để giúp đỡ bạn đồng tù Do bản tánh nhân hậu đó, anh đã cứu được mạng sống của hai bạn tù ở trại Z 30 D Long Khánh.

Một người bạn tù khác cùng trại, cũng đã từng nhận được nhiều  giúp đỡ về cả vật chất lẫn tinh thần của anh Giỏi, đã xem anh như là ân nhân của đời mình, cũng đã mỏi mắt tìm kiếm ân nhân từ khi được định cư ở Mỹ năm 1994. Mãi đến tuần qua, qua một người bạn cùng khóa với chúng tôi, anh Nguyễn văn Cường ở Oklahoma, lần đầu tiên, người bạn tù đó tiếp xúc được với tôi, và qua tôị, anh ấy đã rất vui mừng điện thoại đến nhà ân nhân …nhiều lần, Không có ai trả lời  vì lúc đó anh Giỏi sắp ra đi.

 Lòng biết ơn và ao ước gặp lại ân nhân của mình sau hơn mười năm tìm kiếm vẫn không đạt được và mãi mãi không đạt được. Chúng tôi oán trách Định Mệnh đã không dành cho anh Giỏi một an ủi cuối cùng, oán trách Định Mệnh vẫn tiếp tục khe khắt với anh cho đến phút cưối đời. Người bạn tù đó là anh Nguyễn thanh Mậu ở Colorado, đã nhờ tôi thắp một nén hương trưóc linh vị anh Giỏi để bày tỏ lòng biết ơn và cũng để tiễn biệt ân nhân mình”.

Giờ đây Định Mệnh đã bù đắp phần nào cho anh qua sự thành cômg tốt đẹp của con trai anh, Đại Tá  Mai Vinh. Tin rằng hương linh anh đang mĩm cười nơi cõi Vĩnh Hằng.

Trong sinh hoạt của Hội Cựu Sinh Viên QGHC Miền Đông, anh là Thủ Quỹ của Hội luôn phân minh với mọi chi tiêu của Hội và đều được anh em thương mến. Kèm theo đây là  một đoạn video ghi lại hình ảnh sống động của anh trong các sinh hoạt của Hội như một lời trân trọng cám ơn ANH:

Visits: 261

Tưởng Niệm Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông – 50 Năm Nhìn Lại (1971 – 2021)

Hội CSV QGHC Miền Đông Hoa Kỳ

Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông (2/4/1929 -10/11/1971)

Nhìn lại  một giai đoạn lịch sử, năm 1963 Giáo sư Nguyễn Văn Bông chấp nhận lời mời của chính phủ về nước, giáo sư dạy môn luật hiến pháp và khoa học chính trị tại Đại học Luật Khoa Sài Gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh qua các giai đoạn sau:

  • 1964-1971: Giáo Sư Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
  • 1966-1971: Phó Khoa Trưởng trường Đại Học Luật Khoa, Saigon
  • 1968-1971: Sáng lập viên kiêm Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Chủ Nhiệm báo Cấp Tiến, Nguyệt San Cấp Tiến.
  • Ngày 25 tháng 11 năm 1968: Một quả bom phát nổ cạnh phòng làm việc của giáo sư tại tầng hai Học viện Quốc Gia Hành chánh.  Giáo sư  thoát nạn.
  • Ngày 09/11/1971: Giáo sư chấp nhận chức vụ Thủ Tướng dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
  • Ngày 10/11/1971: Giáo sư bị ám sát tại ngã tư đường Cao Thắng – Phan Thanh Giản. Giáo Sư vĩnh viễn ra đi lúc 42 tuổi.

Tư Tưởng của Giáo sư Nguyễn Văn Bông: Tri Hành

Tưởng niệm Giáo sư Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, chúng tôi xin nhìn lại những hoạt động của Giáo Sư trong tư tưởng của một người Thầy, một chính trị gia, một nhà hoạt động chính trị trong các vấn đề xây dựng và phát triển Miền Nam Việt Nam.

Giáo sư đã nói ra rất rõ ràng:

1) Lý tưởng dân chủ pháp trị:

Lý tưởng này được Giáo sư đưa ra từ năm 1963  – vào ngày 1/8/1963 khai giảng niên khóa 1963-1964  của trường Đại Học Luật Khoa. Giáo sư đã đăng đàn giảng thuyết với đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ. Đề tài cấm kỵ trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Giáo sư đã can đảm nói lên tiếng nói chính trị đối lập trong sinh hoạt chính trị đương thời nên đã gây được nhiều tiếng vang trên chính trường nhứt là kêu gọi  thực thi một chế độ dân chủ với sự cho phép hình thành các lực lượng đối lập chính trị, hoạt động tự do và công khai.

2) Thành Lập Đảng Chính Trị Đối Lập:

Cuối năm 1968, khi qui chế chánh đảng vừa được ban hành, Giáo sư cùng với Giáo sư  Nguyễn Ngọc Huy đứng ra vận động thành lập một tổ chức chánh trị lấy tên là  Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.  Giáo sư là chủ nhiệm tờ báo Cấp Tiến, Nguyệt San Cấp Tiến – cơ quan ngôn luận của Phong trào và chính GS Bông, trong các bài viết đăng trên mục lập trưòng hay quan điểm, luôn kêu gọi dân sự hóa guồng máy công quyền. Phong Trào là một một lực lượng chính trị – dân biểu Khối Cấp Tiến – trong Quốc Hội . Phong trào đã lôi cuốn một số đông các cựu sinh viên Học Viện QGHC trong đó có các dân biểu như Trương vi Trí, Nguyễn văn Quí, Nguyễn văn Tiết.

3) Tham Gia vào Cải Cách Hành Chánh

Vào khoảng năm 1969-1970, chính quyền đương thời muốn thực hiện một sự cải cách hành chánh rộng lớn trong guồng máy hành chánh từ trung ương xuống địa phương, nên  Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã mời GS Bông – GS Bông đồng ý giữ chức Đồng Chủ Tịch với Tổng Thống Thiệu trong Hội Đồng Cải Cách Hành Chánh Trung Ương.

4) Tham Chính:

GS Nguyễn Văn Bông (phía trước), GS Nguyễn Văn Tương, (bên phải) và GS Tạ Văn Tài đến trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường Luật. Ảnh: Internet – chưa rõ nguồn.

Giáo sư Nguyễn Văn Bông đã đem tâm huyết thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến để đem lý tưởng của mình ra “Tri Hành” mong đưa dân tộc Việt qua khúc quanh lịch sử để cùng sống còn với chế độ Cộng sản Bắc Việt độc tài đảng trị. Trong đầu tuần tháng 10 năm 1971, tin Giáo sư được mời ra tham chính thành lập nội các với vai trò “Thủ Tướng” thì đảng Cộng sản đã hay tin và ra tay trước triệt hạ. Chúng biết uy tín của Giáo sư – một nhà lãnh đạo chính trị tại miền Nam – có nhiều triển vọng sẽ đối đầu bất lợi  trên chính trường quốc nội và quốc tế  trong tương lai.

Mất GS Bông, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và trường Luật mất đi một vị giáo sư ưu tú, một người thầy tận tụy, một ân sư của lớp sinh viên trong giai đoạn này. Phong Trào QGCT cũng mất đi một lãnh tụ quan trọng, thu phục cảm tình quần chúng,  được giới  thanh thiếu niên cùng giới trí thức trẻ tâm phục. Miền Nam mất đi một chính khách có uy tín trên chính trường quốc nội và quốc tế để xây dựng một Miền Nam Độc Lập – Tự Do – Tiến Bộ.

5) Phát Triển Học Viện QGHC:

Trong thời gian này (1963-1971), Học Viện  Quốc Gia Hành Chánh đã được nhiều uy tín với các đại học bạn, hơn nữa Học Viện đang tiến  ngang tầm với các nước tiên tiến. Học Viện đã đào tạo hàng ngàn cán bộ hành chánh ưu tú hỗ trợ cho việc xây dựng, kiến thiết  nền hành chánh quốc gia qua các điểm chính sau:

  • Lập Ban Cao Học: Học viện đã phát triển không ngừng, ngoài Ban Tham Sư, Ban Đốc Sự, GS cho mở thêm Ban Cao Học với thêm nhiều ngành như ngoại giao và thẩm tra kế toán, để đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh dấn thân có trình độ hiểu biết về tình hình chánh trị ở trong nước cũng như trên thế giới.
  • Thể lệ chọn nhiệm sở cho các sinh viên tốt nghiệp: Để công bình và khuyến khích các sinh viên chuyên tâm học hành, thể lệ mới ấn định các sinh viên  được chọn nhiệm sở theo thứ tự kỳ thi tốt nghiệp .
  • Tăng cường chương trình đào tạo giáo sư cho Học Viện: Tạo ra thể lệ sinh viên thủ khoa các khóa Đốc Sự và Cao Học được học bổng du học tại các đại học Mỹ để lấy bằng tiến sĩ . Nhờ thể lệ nầy, số giáo sư trẻ của Học Viện được tăng cường rất đáng kể.
  • Tham gia các sinh hoạt của các CSV: điển hình là hình chụp buổi đá banh giao hữu trong giải chung kết sinh viên Liên khóa Sàigòn 1963-1964.

GS Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông và Đội Tuyển Túc Cầu Quốc Gia Hành Chánh

Thay Lời Kết:

Sau cùng, trong cái nhìn của người cựu sinh viên QGHC, một cán bộ Quốc gia, một công dân của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi  chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc Giáo sư Nguyễn Văn Bông qua bốn câu thơ trích từ bài thơ Chiến Sĩ Vô Danh của Giáo sư Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy, người đồng chí của cố  GS Nguyễn Văn Bông:

Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc,
Cưỡi hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.”

Một lần nữa, năm nay, ngày 10 tháng 11 là lần giỗ thứ 50, Hội CSV QGHC  Miền Đông xin được ghi lại những hình ảnh trong các sinh hoạt của Hội để “Tưởng Niệm Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông – 50 Năm Nhìn Lại “.

Xin mời xem video:

Hội CSV QGHC Miền Đông Hoa Kỳ

Visits: 59

Gió Lay Ngõ Cụt

Thơ  Trần Văn Lương

Dạo:
Tro người chở đến liền tay,
Bơ vơ ngõ cụt gió lay bóng sầu.

Gió Lay Ngõ Cụt

Chiều khập khiễng, vạt nắng tàn ngoe nguẩy,

Gió cô hồn phe phẩy ghé qua sân,

Thêm một ngày sắp lặng lẽ dời chân,

Người chống nạng tần ngần nhìn ra ngõ.

Dãy nhà xưa còn đó,

Kẻ gặp may đà sớm bỏ ra đi,

Nhưng phần đông xui xẻo phải ở lì,

Gượng sống sót từ khi miền Nam mất.

Mắt đục ngầu u uất,

Lệ cạn vắt từ lâu,

Màu tang tóc bể dâu,

Phủ mái đầu bạc trắng.

Chư thiên dường đi vắng,

Nỗi buồn này biết cắng đắng cùng ai.

Đâu Thiên đường, đâu tiên cảnh Bồng lai,

Kinh học lóm đọc hoài không linh nghiệm.

Niềm vui dần khan hiếm,

Có còn chăng ít kỷ niệm tàn phai,

Nỗi bi thương theo năm tháng kéo dài,

Chút hoài bão biết tìm ai ký thác.

Bạn bè cũ đã mười phần tản mác,

Đứa vào tù, đứa lưu lạc phương xa,

Đứa vùi thây biển cả hoặc rừng già,

Đứa tàn tật chốn quê nhà lây lất.

Ngày hai bữa vì miếng ăn tất bật,

Người quen xưa, biết ai mất ai còn,

Hận giặc thù đang tàn phá nước non,

Thề quyết giữ tấm lòng son bất biến.

Chân ngần ngại chẳng dám lần ra biển,

Sợ gặp oan hồn xuất hiện khóc than,

Sợ thấy mình phải tan nát ruột gan

Nhìn xác cá chết tràn lên bãi cát.

Tự an ủi, dù trong lòng chua chát,

Vận nước đà đến lúc mạt, biết sao!

Chỉ âm thầm khẩn nguyện với Trời cao,

Cho hạnh phúc năm nào mau trở lại.

                       *****

Nhưng đau đớn, cơn dịch Tàu ác hại,

Tưởng tạm nguôi nay bỗng lại hồi sinh.

Dân bao năm khốn khổ với Ba Đình,

Nay lại phải bỏ mình vì Vũ Hán.

Đang chết dở vì chập chồng kiếp nạn,

Nay còn thêm bị cấm cản ra đường!

Lũ bạo quyền lợi dụng chuyện tai ương,

Để vét sạch túi thường dân vô tội.

Người trong xóm thương nhau bèn lặn lội,

Ghé vai cùng gánh chịu mọi khó khăn,

San sẻ từng ngụm nước đến miếng ăn,

Dù khốn đốn muôn phần vì lũ giặc.

Được phát động bởi bọn Tàu gian ác,

Dịch lan tràn, người mắc bệnh lây nhau,

Đến nhà thương, chẳng chết trước thì sau,

Xác đốt vội, tro giao về trước cửa.

Lò hỏa táng không phút nào ngơi lửa,

Các hũ tro từng bữa chở về đây,

Có đôi khi mòn mỏi đợi mấy ngày,

Nhà chết hết, chẳng còn ai ra nhặt.

Mấy tuần qua thắc mắc,

Sao bỗng dưng vắng mặt bạn bè thân,

Sao người quen trong xóm bỗng thưa dần,

Nay mới biết được số phần của họ.

Thầm nghĩ nếu mai kia mình nằm đó,

Biến thành tro trong hũ nhỏ trước nhà,

Sẽ hỏi lòng, trong trăn trở xót xa,

Là tai họa hay là cơ thoát khổ?

                     ****

Trăng nhếch nhác, bóng đêm mờ loang lổ,

Người rùng mình, chiếc nạng gỗ rời tay,

Chân run run, thoáng xây xẩm mặt mày,

Con gió tối lạnh lùng lay ngõ cụt.

Trần Văn Lương
Cali, 9/2021

Visits: 15

Về sự khác biệt của 2 cuộc chiến tranh Việt Nam và Afghanistan (A Phú Hãn)

Cao Tuấn

Đoạn kết của chiến tranh A Phú Hãn tháng 8/ 2021 giống như đoạn kết của chiến tranh Việt Nam tháng 4/ 1975. Người Mỹ tháo chạy trong hỗn loạn, không xứng đáng là đệ nhất siêu cường. Cùng lúc, chính quyền Kabul giống như  chính quyền VNCH, được Mỹ ủng hộ trên dưới 20 năm, sụp đổ tan hoang.

Tuy nhiên nhìn kỹ hơn thì cuộc chiến tranh Việt Nam và chiến tranh A Phú Hãn khác nhau về nhiều mặt.

Một: 

Chiến tranh Việt Nam là sự đụng độ giữa Mỹ và cả khối Cộng Sản, lúc đầu chính yếu là Cộng Sản Tầu, Cộng Sản Việt nhưng sau gồm cả Liên Xô, Bắc Hàn, Cu Ba, các nước Cộng Sản Đông Âu. Mỹ kéo được một số đồng minh Á Châu tham chiến như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân nhưng các đồng minh mạnh nhất của Mỹ ở trong Nato lại chọn đứng ngoài. Dù sao, chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc xung đột dữ dội nhất, nóng nhất , dai dẳng nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh giữa 2 phe Cộng Sản và Tư Bản, một thứ thế chiến thu gọn trên chiến trường Đông Dương.

Mỹ ở thế “thắng rất khó” mà “thua thì hiểu được” vì khối Cộng Sản lúc đó rất mạnh và dốc toàn lực dù bề ngoài là chỉ có Cộng Sản Việt Nam đánh nhau với Mỹ. Nhờ sự chống lưng vô giới hạn của Trung Cộng, Bắc Việt không cần chia quân lo phòng thủ vì biết trước Mỹ, sau kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh Triều Tiên, không muốn hoặc không dám đụng độ trực tiếp với một biển quân Tầu thêm lần nữa, nên chắc chắn sẽ không vượt sông Bến Hải  tiến binh ra Bắc. Trong khi đó thì Bắc Việt cứ tự do hàng hàng lớp lớp theo hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đổ quân vào Nam.

Bắc Việt cũng  không cần làm kinh tế sản xuất vì lương thực, súng đạn đã được đàn anh cung cấp đủ. Không còn là một quốc gia bình thường, phe Cộng Sản đã biến Bắc Việt thành một trại lính – chỉ ăn, ngủ, huấn luyện ngắn ngủi rồi lên đường “chống Mỹ, cứu nước”, “sinh Bắc, tử Nam” nghĩa là đánh cho tới chết, đánh đến người Việt Nam cuối cùng. (Ngay cả người Việt chết hết, Mỹ vẫn còn đối phó với một tỉ người Tầu thù nghịch…)

Chiến tranh A Phú Hãn ngược lại. Tương quan lực lượng hoàn toàn chênh lệch. Lợi cho Mỹ và bất lợi cho Taliban. Trước sau chỉ đơn độc Taliban đối đầu với Mỹ và các lực lượng đồng minh của Mỹ gồm cả quân đội của chính quyền Kabul do Mỹ dựng lên cộng với quân đội trong khối NATO như của Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Spain, Portugal, Norway, Canada …Thế mà cuộc chiến 20 năm kết thúc với Taliban toàn thắng mặc dù sự giúp đỡ từ bên ngoài mà Taliban nhận được rất không đáng kể. Đó là một điều rất đáng ngạc nhiên: Tại sao người khổng lồ và “bè đảng” lại thua một chú bé con một cách thảm thương như vậy!? Không những Mỹ là cọp giấy- như Mao Trạch Đông từng nói – mà cả NATO cũng là cọp giấy luôn, ít nhất trong trường hợp này.

Hai: 

Mỹ tốn phí khoảng 1,000  đến 2,000 tỉ đô la cho chiến tranh A Phú Hãn, tuỳ theo cách tính. Có thể là ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn chi phí của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tính theo thời giá hiện hành. Mặt khác, cường độ và qui mô của chiến tranh A Phú Hãn lại chỉ bằng 1/10 hay 1/20 chiến tranh Việt Nam.

Trong chiến tranh Việt Nam ước lượng Mỹ chết 58 ngàn, phe Quốc Gia VN chết trận 250 ngàn, phe Cộng Sản VN chết 1 triệu. Số bị thương gấp mấy lần số chết. Thường dân chết vì bom đạn cũng thêm cả triệu. Trong chiến tranh A Phu Hãn, Mỹ chết khoảng tổng cộng 6 ngàn (cả quân sự, dân sự); quân đội và cảnh sát của chính quyền Kabul chết khoảng 70 ngàn; Taliban chết 60 ngàn; thường dân chết vì bom đạn cũng khoảng 70 ngàn. Tại cao điểm của chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ hiện diện là hơn nửa triệu so với 100 ngàn tại cao điểm chiến tranh A Phú Hãn. Toàn bộ chiến tranh Việt Nam lấy đi ít nhất 3 triệu sinh mạng so với hơn 200 ngàn chết trong toàn bộ chiến tranh A Phú Hãn.

Chiến tranh A Phú Hãn căn bản là đánh du kích và phản du kích không có những trận đại chiến “long trời, lở đất” cấp sư đoàn như ở Việt Nam. Các  trận đánh Tết Mậu Thân, Lam Sơn 719, Bình Long, Kontum, Quảng Trị, Ban Mê Thuật, Long Khánh…đều đáng ghi vào quân sử thế giới.

Có thắng, có bại nhưng thực tế đã chứng tỏ quân đội của phe quốc gia Việt Nam thiện chiến và rất anh dũng dù sự lãnh đạo chính trị ở tầm mức quốc gia thì kém cỏi. Con số tử sĩ 250 ngàn cũng chứng tỏ chính đạo quân 1 triệu người này – trải qua hàng ngàn trận chiến lớn, nhỏ – mới là chủ lực ngày đêm bảo vệ cái thực thể Việt Nam Cộng Hoà suốt 20 năm chứ không phải quân viễn chinh của nước Mỹ, trông cậy quá nhiều vào hoả lực áp đảo và thường “vồ hụt” địch quân.

Đạo quân người Việt này đã bị “bức tử” một cách vội vã, hết sức thiếu công bằng trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Giữa lúc đối phương mang toàn lực tấn công, viện trợ không được gia tăng mà còn bị cắt tàn nhẫn – đột ngột và toàn diện – cho nên không sụp đổ mới là chuyện lạ.

Nếu Liên Xô, Trung Cộng cũng cúp lương thực, cúp xăng dầu, cúp đạn, cúp pháo, cúp tăng…đối với Bắc Việt y chang như Mỹ đã làm đối với đồng minh Nam Việt thì chắc chắn không bao giờ có biến cố lịch sử tháng 4/1975!

Chiến tranh Việt Nam cũng làm đảo điên nước Mỹ trong nhiều năm. Phong trào chống chiến tranh lan tràn khắp nước Mỹ và khắp thế giới. Hội thảo, biểu tình liên tục. Trốn lính, bắt lính. Vừa đánh, vừa đàm. Leo thang, xuống thang. Nước Mỹ mất ăn, mất ngủ vì số thương vong quá cao được công bố mỗi ngày. Ngược lại, chẳng mấy ai lưu tâm đến chiến tranh A Phú Hãn, ngoại trừ   biến cố trùm khủng bố Bin Laden bị giết hoặc khi các chính trị gia Mỹ nêu vấn đề “rút hay không rút” vào lúc tranh cử.

Nói một cách khác, chiến tranh Việt Nam “sôi nổi, lôi cuốn” bao nhiêu thì chiến tranh A Phú Hãn lại “bình thường, tẻ nhạt” bấy nhiêu – tất nhiên là đối với công luận quốc tế, công luận Mỹ chứ không phải đối với hàng chục triệu dân A Phú Hãn phải hứng chịu tai hoạ chiến tranh mỗi ngày, không phải đối với mấy triệu người A Phú  Hãn sống vất vưởng ở các trại tị nạn ở các vùng biên giới.

Ba:

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ 1954, nếu Mỹ phủi tay, quay lưng luôn thì Miền Nam Việt Nam chắc chắn sẽ mất vào tay Cộng sản rất sớm, cùng lúc với Lào và Cao Miên. Kế tiếp là các nước Đông Nam Á, nghèo nàn, bất ổn và đã nhen nhúm hoạt động cộng sản “Mao Ít” như Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Phi Luật Tân… cũng sẽ lần lượt rơi rụng đúng như các quân cờ Domino.

Mỹ can thiệp vào chuyện Việt Nam và lập Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á (SEATO) để ngăn chặn phong trào cộng sản quốc tế đang bành trướng mạnh, vì thế, là chuyện phải làm, là chuyện chẳng đặng đừng. Hành động ngăn chặn, “be bờ” của Mỹ tại Việt Nam (1954-1975 ) có tích cách phòng thủ chứ không phải có mục đích tấn công, không khác gì Mỹ đã hành động tại Tây Âu và thiết lập NATO sau khi các nước Đông Âu lần lượt bị cộng sản hoá trong tay của Stalin. Mỹ không xâm lăng Việt Nam như Cộng Sản vu cáo. Nỗ lực của Mỹ là giữ cho miền Nam Việt Nam và Đông Nam Á không bị cộng sản tràn ngập.

Cuối cùng, khác với trường hợp Nam Hàn, Việt Nam Cộng Hoà đã bị hy sinh nhưng phần lớn các nước Đông Nam Á khác đã được cứu rỗi. “Chiến tranh Việt Nam của nước Mỹ” đã trực tiếp và gián tiếp giúp Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Phi Luật Tân có đủ thì giờ củng cố, phát triển tương đối vững mạnh để thoát khỏi mối nguy “bị cộng sản hoá cách này hay cách khác”. Đông Nam Á có ngày nay là nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm ấy. Đó chính là nhận xét của thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu.

Chiến tranh Việt Nam cũng mang đến một kết quả khá lạ lùng: Mỹ “xuống nước” bắt tay với Trung Cộng để cùng chống Liên Xô và Liên Xô đã sụp đổ chỉ 15 năm sau khi được coi là thắng Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Sáng kiến của Kissinger/ Nixon có thể là thảm hoạ cho nước Mỹ tính về lâu dài nhưng ít nhất, Mỹ cũng được coi là bá chủ thế giới hay “siêu cường duy nhất” trong 2 thập niên kế tiếp cho đến khi nước Tầu Cộng Sản của Tập Cận Bình ra mặt thách thức Mỹ.

Trong khi chiến tranh Việt Nam đối với nước Mỹ, như vậy, là sự cần thiết. Cuộc chiến 20 năm tại A Phú Hãn, đối với nước Mỹ, trái lại, là một sự phí phạm vô ích, một sự sai lầm gần như hoàn toàn.

Ngoài trừ việc săn đuổi và giết Bin Laden, hành động của Mỹ ở A Phú Hãn, về mọi phương diện, khó có thể biện minh.

Mỹ có quyền trừng phạt Taliban đã giúp đỡ và dung dưỡng Bin Laden và Al Qaeda tấn công nước Mỹ trong vụ 9/11 giết gần 3 ngàn người nhưng chiếm đóng A Phú Hãn và  ngang dọc tự tung, tự tác là một sự xâm lăng. Dù nhân danh sứ mệnh “giải phóng” hay “khai hoá” xã hội A Phú Hãn. Dù có giúp thiết lập một chính quyền thân Mỹ và “tự do, dân chủ” theo kiểu Tây Phương. Dù có giúp cải thiện đời sống vật chất và cả tinh thần của một thiểu số khá lớn người bản xứ sống trong các thành phố. Dù có cổ võ chuyện giải phóng phụ nữ và nam nữ bình quyền…

“Khai hoá” trong trường hợp này là một sự “áp đặt văn hoá” bằng võ lực vừa có tính cách tự tôn, ngạo mạn vừa làm dấy lên sự ngờ vực “khai hoá” chỉ là chiêu bài không khác chiêu bài của nước Anh khi mang hạm đội đến “khai hoá” Ấn Độ, của Hoà Lan “khai hoá” Indonesia, của Pháp khai hoá “Việt Nam”, của Tây Ban Nha “khai hoá” Phi Luật Tân trong các thế kỷ trước.

Chính Pakistan đã chứa chấp Bin Laden, tại sao Mỹ không đánh, chiếm Pakistan và lập chính quyền “tự do, dân chủ” thân Tây Phương? Còn bao nhiêu nước Hồi Giáo khắc nghiệt, vi phạm nhân quyền liên tục như Iran, Saudi Arabia… tại sao Mỹ và Nato làm ngơ? Hàng chục nước Phi Châu độc tài, áp bức, lạc hậu, nghèo đói…tại sao Mỹ và Nato không mang binh lực đến giải phóng, khai hoá? Tại sao lại chọn A Phú Hãn?

Người ta có quyền suy luận Mỹ dám mang lực lượng đến lật đổ chính quyền Taliban năm 2001 và dựng lên một nước A Phú Hãn mới vì lúc ấy chính quyền của tổng thống Bush (con) tự tin nước Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, muốn làm gì thì làm, không ai có thể ngăn cản. Chẳng hạn, nước Nga vẫn chưa đứng vững trên đống tro tàn của đế quốc Liên Xô. Nước Tầu với qui mô kinh tế  GDP nhỏ bằng 1/4 hay 1/5 của Mỹ còn đang rất nhũn nhặn với Mỹ theo lời căn dặn “dấu mình, chờ thời” của Đặng Tiểu Bình. Các nước Nato thì sẵn lòng sắp hàng theo gậy chỉ huy của Mỹ. Hơn thế nữa, chính quyền Taliban đơn độc không có đồng minh. Nước A Phú Hãn, nghèo nàn, lạc hậu “dường như” là một mục tiêu dễ dàng…

Người ta cũng có quyền suy luận Bin Laden, Al Qaeda, Taliban chỉ là cái cớ, tiềm năng quặng mỏ phong phú và nhất là vị trí chiến lược của A Phú Hãn ở Trung Á án ngữ con đường nối Âu, Á và Trung Đông, lại nằm sát Nga, Tầu, Ấn Độ, Iran, Pakistan mới là lý do thực sự Mỹ đến A Phu Hãn và muốn ở lại đây. “Lý tưởng” là một nước A Phú Hãn “tân tiến” khác hẳn các nước Hồi Giáo khác – thân Mỹ, có hiệp ước an ninh với Mỹ, chấp nhận sự hiện diện quân sự thường trực của Mỹ, cho Mỹ bố trí hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân trên những vùng cao nguyên chót vót có khả năng khống chế toàn vùng… Mỹ sẽ giữ được ngôi vị bá chủ lâu dài trên toàn thế giới…

Tuy nhiên, tất cả đã là “lâu đài xây trên cát”.

Nhân danh việc tìm công lý cho gần 3 ngàn người chết oan trong vụ khủng bố 9/11 nước Mỹ đã ném mình vào một cuộc chiến tranh sai lầm và không cần thiết khiến có thêm hơn 200 ngàn người nữa chết oan, chưa kể  2000 tỉ đô la ném xuống sông, xuống biển trong khi số tiền khổng lồ này đáng lẽ có thể dùng để tăng cường nước Mỹ về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc thư hùng không tránh được với nước Tầu cộng sản.

“America first” cũng được đi, nhưng đến bao giờ thì các chính trị gia và cả các chiến lược gia của nước Mỹ mới hết chủ quan, mới hết “ngây thơ vô… số tội”?!

Cao Tuấn

(24/ 8/2021)

Visits: 13

Mưu Sinh Ở Mỹ và Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Đây là chuyện kể của mấy ông bà già người Việt ở Mỹ. Già rồi, hưu trí, không biết làm gì, ngồi nhớ chuyện xưa. Tôi nhớ rất nhiều chuyện xưa, nếu kể ra đây, biết bao giờ cho hết! Chỉ một chuyện kể sau đây thôi, cũng khiến bạn, đọc mệt nghỉ. Đó là chuyện cách nay khoảng ba mươi năm, từ ngày đầu đến xứ Mỹ, tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng cho đến hôm nay, tuổi đã trên tám mươi, sắp lên đường vào cõi hư vô. Bôn ba một kiếp ngưòi, để rồi gia tài đem theo với mình cũng chỉ là cỗ quan tài!

Đúng ra, đây là những “Kỷ niệm” mà đa số những người lớn tuổi đến Mỹ đã trải qua. Với thế hệ trẻ, về sau, khi đọc bài nầy, chúng sẽ không ngờ ông bà, cha mẹ chúng đã phải mưu sinh với quá nhiều khổ cực, vất vả nơi xứ người.

            Mấy ông, bà HO, khi đến Mỹ, tuổi đã trên năm mươi, lo kiếm tiền mà nuôi con, lo chuyện ăn, ở, thời gian, tâm trí đâu mà học với hành như bọn trẻ! Phần khác, sức lực đã cạn kiệt vì cả chục năm trong nhà tù Cộng sản, mang trong người nhiều thứ bịnh, nên chỉ có thể làm được những việc lao động nhẹ với đồng lương ít ỏi.

Năm 1991, gia đình chúng tôi qua Mỹ theo chương trình HO. Người bạn đồng môn (Quốc Gia Hành Chánh) vừa là bạn tù, là Ngô Đình Hoa, vượt biên qua trước, bảo trợ gia đình tôi về ở tạm dưới basement trong nhà anh ta. Ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, đa số các nhà đều có tầng hầm, gọi là basement. Người Mỹ xây nhà có cái basement nầy (ông bạn tôi đã mua lại) là để chứa máy giặt, máy sấy, máy nước nóng, máy điều hòa nhiệt độ (AC). Người Mỹ không nghĩ rằng sẽ có những người Việt tị nạn như gia đình chúng tôi sẽ vào ở trong đó. Thế nên họ đã bắt ống nước, ống hơi dẫn nhiệt, ống nước thải, dây điện… chạy lung tung trên trần basement, chẳng khác gì mấy cái xưởng máy trong phim trinh thám mà James Bond thường mò vô để truy tìm bọn tội phạm quốc tế.

Khi chúng tôi đến Mỹ thì ông bạn kêu thợ đến ngăn ra một phòng ở basement cho gia đình tôi trú ngụ. Anh thợ nầy, cũng người Việt, loại tay ngang, làm rất nhanh nhưng cũng rất ẩu tả. Anh ta chỉ làm bốn bức vách cách nhiệt với cửa ra vào là thành một cái phòng! Đến mùa đông, (thường lạnh dưới 0 độ C) hơi lạnh từ các kẻ hở của vách cách nhiệt, bốc ra như sương khói, thấy rõ như hơi lạnh trong ngăn đá của tủ lạnh vậy. Lạnh đến độ đắp mấy cái mền cũng lạnh, đắp không kỹ, hơi lạnh từ chỗ hở luồn vào như cái lưỡi của con ma le, liếm cái lưng, cái bụng, nên người cứ  run lên, vợ con cũng run cầm cập, ngủ không được. Vợ chồng tôi phải ôm thằng con hai tuổi vào lòng để truyền hơi ấm cho nó. Lúc mới đến Mỹ, chưa quen giờ giấc nên cứ đến một, hai giờ trưa (ở Việt Nam là khuya) là tôi buồn ngủ ríu mắt, nhưng tối lại, hai mắt cứ mở thao láo, nằm để thấm thía cái lạnh lẻo nơi xứ người.                                                 

Bạn sẽ hỏi “Sao không mua một cái máy sưởi điện về mà sưởi?” Có máy sưởi đấy chứ! Chủ nhà cũng có để sẵn một cái heater nhưng nhỏ chút xíu, mỗi cạnh chưa đến gang tay, để sát tay vào thì thấy ấm, nhưng dùng cho cả cái phòng thì chẳng hiệu quả gì. Thời đó chưa có cái heater to như cái nón như bây giờ. Mới đến Mỹ, như mán xuống phố, có biết mô tê gì! Tôi cứ nghĩ trên lầu, chắc ai cũng lạnh như mình, nhưng họ “quen rồi” mình than lạnh thì lòi cái “nhà quê” ra. Trước đó, đọc báo, tôi thấy ở Iceland, mùa đông, lạnh dưới 0 độ C mà người ta cho em bé ngủ ngoài trời, cho trẻ có sức đề kháng tốt, nên tôi nghĩ, ở Mỹ cũng vậy. “Lạnh cỡ nầy đối với người đã từng ở Mỹ, có lẽ là bình thường!”. Bấy giờ tôi chưa biết cái máy điều hòa nhiệt độ (AC) là gì cả! Mà cái máy nầy cứ chạy ầm ầm dưới basement, ngay cạnh phòng chúng tôi, chỉ thổi hơi nóng lên tầng trên, nên cái basement vẫn là cái tủ đá lạnh ngắt.

            Ở basement có thêm cái khổ nữa là nghe tiếng nước chảy trong các ống thoát nước. Tầng trên làm gì, dưới nầy biết hết. Nghe nước chảy ro ro mãi thì cầu cho trên đó tắm mau xong. Nước chảy cái ào rồi róc rách qua các ống bự trên trần basement lại tưởng tượng đến chất thải của con người đang vui vẻ jogging (chạy thể thao) vòng vèo trên đầu mình.

            Chắc bạn lại hỏi “Sao không “mu” (move) chỗ khác? Ăn eo phe (welfare, trợ cấp), có tiền chính phủ cho, tìm cái apartment mà thuê?” Thì tôi cũng nghĩ như bạn vậy. Nhưng hết trợ cấp thì tiền đâu mà trả tiền thuê nhà? Nhưng mùa hè, ở basement lại mát vì nó nằm dưới mặt đất. Hơn nữa, mình từ xứ cộng sản, đã từng ở tù khổ sai, ra tù vẫn đói rách, được vậy là tốt rồi. Tạm trú nhà bạn thì tiền trả tượng trưng thôi, dành giụm chút đỉnh, “rủi có gì!”, nơi xứ người còn xoay xở được. Đó là lo xa. Ngay chính tôi, khi còn ở Việt Nam, đi tù về mà lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một cái xách nhỏ, đựng áo quần, mùng mền, thuốc men. Hễ nghe công an Việt Cộng gõ cửa là cầm luôn cái xách trong tay ra mở cửa. Có đi tù tiếp cũng đã chuẩn bị sẵn rồi. Thế nên, ông HO nào qua Mỹ, tìm được đồng nào, lận lưng đồng đó, xin đừng cười là keo kiệt.

            Trợ cấp của chính phủ chỉ đủ lây lất trong thời gian đầu, nên phải lo mà tìm việc sớm nếu không muốn cả nhà lâm nguy. Thế nên, khi đến Mỹ, không lâu, chúng tôi phải tìm việc làm. Nhưng muốn đi làm phải có chiếc xe là phương tiện đi lại. Nhờ vợ chồng Ngô Đình Hoa và các con của bạn đưa, đón mãi cũng bất tiện. Nhân tiện đây, xin cám ơn vợ chồng bạn Ngô Đình Hoa và các cháu đã vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong những ngày khó khăn khi mới đến xứ lạ còn ngơ ngáo. Một ông bạn cùng tù, Đinh Văn Kỷ, qua trước, xin đâu đó một chiếc xe cũ. Đi inspection (xét xe) không passed vì cái dè xe cọ vào bánh xe. Tôi đục cái dè cho hở xa bánh xe. Thật may! passed! Xong thủ tục cho chiếc xe, tôi lái đi làm. Không hiểu sao, đang ngon trớn, đến đèn đỏ, tôi đạp thắng, xe cứ chạy tuột, không chịu ngừng! May quá. Đường vắng! Tôi bỏ xe bên đường, đi tìm điện thoại công cộng (lúc đó chưa có handphone), nhờ cậu con của Ngô Đình Hoa đến chở về, xe thì câu đi sửa.

Ngày trước, tôi lái công xa đi làm nên qua Mỹ, tôi chỉ tập lái cho quen rồi đi thi lấy bằng lái không khó khăn lắm. Lúc thi lái (có ông Mỹ, giám khảo ngồi bên cạnh), tôi để ý và nhớ những con đường nào đã lái đi qua. Sau nầy, tôi giúp rất nhiều đồng hương đi thi lấy bằng lái, bằng cách tôi hướng dẫn họ lái xe (thi thử) qua những con đường mà giám khảo thường bảo thí sinh lái vào. Chỉ chạy vài lần là họ thuộc lòng, (còn nhớ cả những bảng stop), không còn lo lắng, bối rối khi có giám khảo ngồi bên cạnh. Đồng hương HO. mới qua, tiền đâu mà đóng học phí lái xe, cũng chưa có tiền mua xe. Xe cũ, dơ dáy, giám khảo không chịu ngồi vào. Tôi phải đem xe tôi cho họ tập lái. Trước hết, tôi đưa họ vào công viên, lúc vắng người, cho tập lái lòng vòng, đến khi vững tay mới cho ra đường phố. (Rồi mượn xe mới cho họ đi thi). Đường sá ở Mỹ tấp nập mà người tập lái thì ngơ ngáo, lóng ngóng. Khi tôi nhắc chừng, họ càng quýnh quáng! Cũng may, người Mỹ thấy cách lái xe đó là họ biết liền nên thường tránh đường cho xe qua. Lúc đó tôi không biết rằng. Người không có tên trong hợp đồng bảo hiểm xe mà gây tai nạn thì hãng không chịu bồi thường. Bây giờ nhớ lại mà lạnh người. Tính ra lúc đó tôi đã giúp vài ba chục gia đình, vợ chồng, con cái, khỏi tốn tiền học lái xe.

Khi đã có xe rồi, tôi tìm việc làm.Việc gì cũng làm, miễn có tiền là được. Chủ trả bao nhiêu cũng tốt vì tôi có biết mô tê gì mà so sánh hơn thua! Công việc đầu tiên của tôi là làm vệ sinh các cao ốc, nhưng bị người chủ thầu đồng hương bóc lột dữ quá. Tên chủ nầy, miệng dẻo quẹo, lúc nào cũng nói nhân đạo “Tội nghiệp đồng hương! Để tôi cho mấy anh lãnh tiền mặt, chính phủ không biết. Nếu biết, họ cắt eo-phe (trợ cấp) còn bỏ tù nữa” Sau nầy tôi (cùng với mấy ông HO) mới biết là hắn dọa rồi bắt mỗi người tụi tôi làm gấp ba người khác (mà tiền công chỉ tính một người)

            Sau khi chia tay với tên chủ đồng hương ác ôn, tôi tìm được job khác là rửa chén dĩa, nồi niêu, làm vệ sinh, phụ việc vặt cho mụ làm bếp của một nhà hàng người Á Châu (không phải người Việt). Nhiệm vụ tôi là buổi chiều đến sớm hút bụi nhà hàng, làm vệ sinh mọi nơi. Mụ nhà bếp cũng đến sớm để chuẩn bị thức ăn, đồ nhậu. Tối, khách mới đến. Mụ bếp nầy, tiếng Anh, chỉ dùng động từ “Tu quơ” (tay) để sai tôi. Chúng tôi đến sớm, chẳng có ai, nên mụ bắt tôi đấm lưng, bóp chưn, bóp tay cho mụ. Mụ khoảng gần năm mươi, mập nu, mắt một mí, híp lại như mắt heo luộc, trên ngón tay không thấy đeo nhẫn cưới, chắc còn là “nàng trinh nữ tên Thi”. Đấm bóp cho mụ ta xong tôi mới được làm việc khác. Một lần tôi đến, cửa mở nhưng không thấy mụ ta. Tôi đi hút bụi xong thì lấy đồ nghề đi dọn vệ sinh. Khi vô phòng vệ sinh nữ, tôi vô tình mở cửa một ngăn, thấy mụ ta ngồi chóc ngóc trong đó (mà không gài cửa!) Tôi dội ngược. Vậy mà tối hôm đó, mặt mụ ta hầm hầm. Tôi thấy thế báo với bà chủ nhà hàng, nghỉ việc. Có làm, mụ nhà bếp sẽ gièm pha, chủ cũng së cho nghỉ thôi.

           Sau đó, tôi xin làm thu ngân (cashier) cho một cây xăng. Cây xăng nầy của một ông chủ Mỹ và một mụ phụ tá người Á châu (không phải người Việt) Mụ ta không phải vợ ông Mỹ, có lẽ hùn hạp bằng “vốn tự có”.

             Tôi nghe một anh chàng thợ sửa xe người Việt làm ở đó kể rằng. Có lần anh ta vô tình đẩy cửa văn phòng mụ  ta, thấy thằng thợ máy (người Trung Đông) đang bóp chưn cho mụ ta. Mỗi khi người chủ Mỹ kia đi vắng thì anh chàng thợ máy được gọi vào văn phòng để “bóp chưn bóp tay”, (Lại bóp chưn, bóp tay!) Mụ nầy đi chân vòng kiềng. Sách tướng có nói “Đàn bà đi chân vòng kiềng, mỗi ngày không có đàn ông, sẽ phát điên!”. Mụ phụ tá nầy đã làm một việc bất lương, là khi không có chủ ở đấy, hễ khách trả tiền sửa xe bằng tiền mặt thì mụ ta xé bỏ (phi tang) cái bản lưu (copy) sửa xe, tiền mặt thì bỏ túi, sau khi dúi cho thợ sửa xe một ít tiền và dặn đừng cho chủ biết. Thời đó (thập niên 1990), đa số xài tiền mặt, ít người dùng thẻ tín dụng (credit card) Ít lâu sau, cây xăng phá sản! Tôi làm cashier cho một cây xăng khác.

         Trong việc ngồi bán xăng, buổi tối, nhất là về khuya, cũng có vài chuyện vui. Có bà khách mỗi khi đền đổ xăng còn làm thêm việc truyền giáo. Bà ta nói nhiều lắm. Đại ý. Phải tin Chúa để khi chết không phải vào hỏa ngục mà còn được cứu rỗi, lên Thiên Đàng. Tôi ậm ừ cho qua chuyện, nhưng bà ta lại tưởng tôi xiêu lòng, nên có dịp là nói về cứu rỗi. Tôi đành phải nói với bà ta “Bản thân tôi, tôi còn không tin được mình, làm sao tôi tin được người khác?” Bà ta không giận, chỉ cười. Thêm một chuyện nữa. Có bà khách buổi tối, đến đổ xăng, cứ rủ tôi về nhà bà ta để làm điều gì đó (do something)? Tôi nói cám ơn. “Sorry!” Một bà khác, còn táo bạo hơn. Gần cây xăng, có một tiệm rượu, có vũ sexy, (nhiều bà cũng thích đến xem) có lẽ bà nầy uống rượu ở đó, say khước, đậu xe ngay trước cửa quầy, vào hỏi tôi “Mấy giờ mầy (you) về?” Tôi nói “Khoảng mười một giờ” “Tao chờ. Tao sẽ cùng về nhà với mầy” “Không được đâu! Nhà tôi đông người lắm!” “Thì mầy về nhà tao. Tao ra ngoài xe chờ mầy”. Rồi bà ta ra xe, nằm ngủ khò! Hết giờ làm. Tôi rón rén, ra xe, về. Ở Âu Mỹ, chuyện các bà gạ tình là bình thường, Nhưng có ông nào dám đụng đến người đàn bà say rượu nầy không? Tù mục xương đấy!

            Bấy giờ coi như tôi có việc làm, lương rất thấp, chỉ đủ chi tiêu các thứ. Vợ tôi thì đi may ăn công, theo sản phẩm. (Thời đó, may gia công chưa chuyển qua Trung Cộng) Ví dụ may cái túi áo giá mấy xu đó, ngày may được bao nhiêu túi áo cứ tính thành tiền mà lãnh, cố lắm, ngày được vài chục đô là tối đa. Thấy khó sống, vợ tôi đi bán “hotdog” (bán thức ăn và nước ngọt) trên một xe nhỏ (trailer) đặt dọc lề đường thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Cứ bán được trăm đô, chủ trả hai mươi đô. Cũng đỡ khổ, nhưng mùa đông, đã lạnh mà tuyết bay mù trời, chẳng có du khách nào ra đường. Cả ngày, bán tối đa được trăm đô, chủ chia cho hai mươi đô, bằng một giờ làm việc của một công nhân Mỹ hạng bét. Tóm lại gia đình tôi đủ sống qua ngày, nhưng chả lẽ ở mãi dưới cái basement của người bạn?

          Có người quen xúi mua nhà “Mầy mướn nhà cũng trả chừng đó, mua nhà trả hơn chút đỉnh, nhưng sau đó mầy sẽ có nhà, nếu mướn nhà, mầy hết mướn là ra tay không” Tôi nghe cũng có lý, nên có ý tìm nhà. Tôi xem báo hoặc xách xe lội xóm. Thấy giá nhà, tôi tính nhẩm. Với số lương lúc đó của cả hai vợ chồng, thì dù có dán băng keo bốn cái miệng lại (vợ chồng và hai con), nghĩa là không ăn uống, không tiêu xài gì hết, chúng tôi cũng không đủ trả góp tiền nhà hàng tháng. Tôi bàn với vợ, tôi sẽ làm thêm vài jobs nữa, vợ tôi đi học nghề hớt tóc. Thế là tôi làm ba jobs cả thảy, cũng chỉ một nghề thu tiền cho cây xăng. Buổi sáng, tôi dậy thật sớm, đến cây xăng thứ nhất làm việc, từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều, xong shift (buổi làm), tôi chạy qua cây xăng thứ hai, gần mười hai giờ khuya mới về. Thứ Bảy, Chủ Nhật, tôi “chơi” luôn cây xăng thứ ba. Tính ra tôi làm hơn chín chục tiếng mỗi tuần. Tôi chịu đựng trong mấy năm, khi vợ tôi học xong, ra nghề hớt tóc, uốn tóc, lương cũng khá. Sau hơn ba năm, chúng tôi để dành được một ít tiền. Tôi lại tìm nhà để mua. Có người bạn chỉ cho tôi một ngôi nhà trong xóm, gần chỗ chúng tôi đang ở. Anh ta bảo “Nhà nầy lúc đầu đòi hai trăm nghìn đô (thời giá năm 1992). Hai năm rồi, nghe nói bớt còn trăm sáu cũng không ai mua. Bây giờ có lẽ chủ hạ giá nữa. Anh đến xem” Tôi đến, thấy cái nhà đó giống cái chuồng gà công nghiệp bên Việt Nam, thấp tè, cũng không đến nổi. Nhưng sao giá thấp như thế mà không có ai mua? Tôi nghĩ nhà có ma, người ta sợ. Tôi gọi một ông bạn làm realtor (môi giới mua bán nhà). Ông bạn nầy đưa tôi vô nhà và bắt đầu chê nhà cũ, chỗ nầy phải sửa, cái kia phải thay, mục đích cho chủ nhà nghe. Realtor mà chê là phải đúng. Theo luật, người môi giới (realtor) bên mua không được tiếp xúc thẳng với chủ nhà mà phải liên lạc với môi giới bên bán. Anh ta xúi tôi vô gặp chủ nhà đòi bớt giá. Có lẽ mấy năm mà không bán được nhà, chủ nhà phát nản, nên sau một lúc kỳ kèo, chủ nhà chịu bán. Tính ra hơn ba năm chúng tôi mới ra khỏi cái basement của người bạn.

            Khi dọn vào, tôi mới biết lý do người ta chê. Nhà quá cũ, tuổi cũng trên nửa thế kỷ. Thiết kế hết sức kỳ cục! Cái máy điều hòa không khí (AC) đặt ngay giữa nhà, ba căn phòng nhỏ chút xíu vây quanh. Khi cái máy (AC) đó chạy thì giống như xe lửa qua cầu. Nghe ầm ầm, nhà rung rinh như động đất. Mà nó chạy cho còn quí. Mùa đông mở máy, con quái vật đó chỉ kêu lên chứ không “chạy” Nghĩa là hơi cũng có xịt ra nhưng không thấy hơi nóng đâu cả! Tôi gọi cho một người thợ quen. Anh ta đến “Có sửa cũng xài tạm, máy quá cũ!” Sửa xong, nó có nóng chút đỉnh, nhưng anh thợ vừa đi khỏi thì hơi nóng cũng theo anh ta đi đâu mất! Đành mua mỗi phòng một cái hít (heater) nhỏ xài tạm.

            Đến mùa hè, mở máy lạnh, cũng có xịt hơi nhưng chẳng lạnh gì cả! Tôi lại kêu thợ. Anh ta đến, bảo “Bôm gas!”. Bôm gas xong, nó cũng chỉ thổi hơi nóng chứ chẳng lạnh chút nào! Anh thợ bảo “Cái máy AC nầy có lẽ là sản phẩm đầu tiên của hãng sản xuất. Xưa quá! Rã rệu lắm rồi!Phải thay cái mới” Giá mà cái máy AC nầy biết nói, có lẽ nó sẽ chửi thề ghê lắm. “Tao già sáu bảy chục tuổi rồi mà còn bắt xịt hơi nóng rồi xịt hơi lạnh. Mầy hỏi ông già mầy có xịt nổi không mà bắt tao xịt?” Sau cái máy AC thì đến mấy cái vòi nước. Tắt nước rồi mà nước vẫn chảy, giống như mấy bà đi cắt mắt, nhắm mắt mà mắt vẫn mở vậy. Kêu thợ đến thay xong thì nước lại nghẹt, chỗ nào cũng nghẹt, nước không chịu thoát đi, nhất là cái phòng vệ sinh! Kêu thợ, anh ta đến “Nhà nầy cũ quá rồi. Mấy cái ống thoát nước bằng gang, bị rỉ sét nghẹt cứng rồi” “Bây giờ phải làm sao?” “Thì đục tường mà thay ống mới” Lại tốn thêm mớ tiền nữa! Nếu kể ra cho đủ các phiền toái, bực mình khi mua nhà cũ thì chẳng bao giờ hết. Mái nhà dột, thay mái xong thì đến mấy cánh cửa. Cửa nào cũng hở, mùa đông hơi lạnh theo các khe hở vào nhà, lại kêu thợ! Lại móc túi! Tiền có bao nhiêu cũng chỉ đủ trả mấy cái bills (giấy đòi tiền) điện, nước, rác, điện thoại, bảo hiểm xe, sửa nhà…

            Kể ra tụi tôi cũng liều mạng mua nhà, chứ lương hướng chẳng bao nhiêu. Nhưng tụi tôi cũng gặp may. Thứ nhất là vợ tôi làm nghề hớt tóc ngày càng đông khách rì quếch (request, khách đến chỉ yêu cầu một người thợ mà họ thích) nên tiền “típ” cũng khá.

         Chuyện mua nhà ở Mỹ của vợ chồng tôi cách đây hơn hai mươi năm, thuộc thế hệ thứ nhất của dân HO. Tuổi cao, sức khỏe suy nhược, chỉ làm được những việc nhẹ, lương hướng chẳng bao nhiêu. Mà mình không có cái nhà để cho con cái đi, về, cũng tủi thân chúng.

         Nhà tôi tuy nhỏ hẹp nhưng tấm lòng rộng mở, bạn bè rất hứng thú khi được vợ chồng tôi mời đến ngắm hoa và ăn uống, cười đùa, thân ái như anh em trong gia đình. Vợ tôi nấu ăn ngon, được các bạn khen thật tình. Anh em trong hội cựu SV Quốc Gia Hành Chánh. Bà con trong hội Quảng Đà, mỗi lần họp mặt khoảng trên hai mươi người. Nhà nhỏ nhưng vườn rộng. Mỗi năm, sau mùa đông lạnh giá, chúng tôi trồng hoa khắp nơi. Trước sân, quanh nhà, các loài hoa đua nhau khoe sắc. Các bạn vui thích ngắm hoa, chụp hình. Tôi có máy copy, sang hình, bỏ vào khung hình nhỏ, tặng các bạn làm kỷ niệm. Hàng xóm cũng đến ngắm hoa và chụp hình, nhất là các cô gái trẻ.

            Đến thế hệ thứ hai. Con của mấy ông bà HO học hành nên người, lương cao thì chuyện chúng mua nhà to, biệt thự, coi như chuyện nhỏ.

            Nhưng dù sao, mỗi khi vợ chồng chúng cùng các cháu về thăm ông bà, chắc chắn chúng vẫn cảm nhận được mùi mồ hôi vì lao động chân tay vất vả của cha mẹ còn phảng phất trong nhà. Chúng cũng như nghe được tiếng lịch kịch của cha mẹ dậy rất sớm đi làm. Rồi đến khuya, đang ngủ, chúng nghe tiếng mở cửa, tiếng đóng cửa của cha mẹ đi làm về. Công việc của cha mẹ chúng đâu có ngồi trước cái computer như chúng mà phải chịu đựng tuyết lạnh hay cái nóng nung người ngoài trời, kiếm mấy đồng một giờ về nuôi chúng ăn học, trả tiền nhà, tiền điện, nước.

            Có lẽ bạn sẽ hỏi “Vậy cái nhà chuồng gà của anh bây giờ ra sao? Sửa lại chưa? Bán, mua nhà khác chưa?” Xin thưa. Vợ chồng tôi vẫn ở nhà đó. Có điều lạ, sau đó, nhà vùng tôi ở đột nhiên lên giá. Ông bạn realtor hỏi tôi “Nhà ông bây giờ bán giá gấp đôi, vẫn có người mua ngay” Nhưng tôi trả lời “Để sau nầy con tôi bán

            Bụi hoa ngoài sân tôi cũng thương, những vết bẩn trên tường các con tôi làm bẩn, tôi cũng thương (và cứ để nguyên cho đến bây giờ). Vả lại, vợ chồng tôi đã lớn tuổi, chẳng muốn ganh đua, hơn thua ai. Ngu gì mua cái nhà cho bự, nhiều phòng, chỉ ngủ vài phòng, để rồi cày mà nuôi mấy tay tư bản, cho vay cắt cổ.

Phạm Thành Châu

Visits: 4

Nghi vấn lịch sử về quan hệ giữa Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh và “Lưỡng quốc Tướng quân” Nguyễn Sơn – Thầy trò hay đối thủ chính trị?

Cao Tuấn

Tướng Nguyễn Sơn và Quyển Sách “Hoàng Hà Nhớ Hồng Hà Thương” của Trần Kiếm Qua

PHẦN 1: VỀ MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN “KHÔNG GIỐNG AI”

Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh (1890-1969) và “Lưỡng Quốc Tướng Quân” Nguyễn Sơn (1908-1956) là hai nhân vật lịch sử quan trọng của một thời đại và họ có mối quan hệ đặc biệt với nhau. Tìm hiểu thực chất mối quan hệ này không nhằm mục đích phê phán mà là hàm ý muốn tiếp cận sự thực lịch sử, cái sự thực lịch sử rắc rối, phức tạp, không giống như những huyền thoại lưu truyền.

Hành trình đi tìm sự thực bắt đầu bằng sự phân tích, đãi lọc, lượng giá và tổng hợp những tài liệu bán chính thức và chính thức có nguồn gốc từ nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã được tìm thấy trên trên một số websites như sau:

www.tuongnguyenson.com

www.quansuvn.net

www.vnmilitaryhistory.net

Và nguồn tài liệu đáng kể nhất là cuốn sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương, mang khá nhiều thông tin mới mẻ rất có ý nghĩa.

Đây là quyển sách dịch, được Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội in và lưu hành rộng rãi từ năm 2001 từ nguyên bản chữ Hán Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình do Nhà Xuất bản Thế Giới Đương đại, Bắc Kinh, ấn hành năm 2000. Dịch giả là Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Tác giả là Trần Kiếm Qua, 86 tuổi, đảng viên trung kiên của Đảng Cộng sản Tầu, người vợ Trung Hoa, nay đã mất, của Lưỡng Quốc Tướng Quân. Tuy nhiên nội dung sách gồm cả những tài liệu “bí mật quốc gia” mới được giải mật lần đầu tiên cho thấy thực ra tác phẩm là một công trình tổng hợp của 3 tác giả chính: Trần Kiếm Qua kể lại cuộc đời vợ chồng 7 năm với Nguyễn Sơn, hai tác giả còn lại là Cơ quan Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Tầu và Cơ quan Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt.

Mục đích và đối tượng của cuốn sách này hiện rõ ngay trong lá thư trang trọng ngày 22 tháng 9 năm 2001,được nói là của Trần Kiếm Qua, kèm cả thủ bút và chân dung. Bản dịch của lá thư được in ngay ở phần đầu sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương có nội dung chính như sau:

“Thư gửi Nhà Xuất bản Văn học và bạn đọc Việt Nam:

… Hoàng Hà là dòng sông mẹ của Trung Quốc. Hồng Hà là dòng sông mẹ của Việt Nam. Cuốn sách nói về một câu chuyện có thực, ghi lại những thực tế về cuộc chiến đấu kề vai sát cánh giữa hai quân đội, hai Đảng, hai nước Trung Quốc và Việt Nam, phản ảnh thực tế nhất về tình hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung-Việt. Gia đình chúng tôi chính là tượng trưng cho tình hữu nghị đó. Hoàng Hà và Hồng Hà sẽ mãi mãi chẩy xuôi, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt cũng sẽ mãi bền vững với thời gian…

Kính thư!

Phu nhân tướng Nguyễn Sơn

Trần Kiếm Qua”

Có tên như một truyện tình lãng mạn nhưng thực ra cuốn sách lại có bản chất và mục đích chính trị. Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương như thế phải được hiểu là một cố gắng bài bản của cả 2 Đảng Cộng sản Việt và Tầu, nhằm lật ngược tinh thần bài Hoa, chống Tầu trong xã hội Việt từ Nam ra Bắc, hậu quả của những hành động bá quyền lấn hiếp lân bang đang diễn ra trên biển Đông của nhà cầm quyền Trung Cộng và quan trọng hơn nữa, hậu quả của hơn một thập niên Trung-Việt thù nghịch vừa mới “chính thức chấm dứt” trong hội nghị Thành Đô tháng 9/1990.

Độ tận kiếp ba huynh đệ tại

Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu

(Qua cơn sóng gió anh em còn đó

Gặp nhau cười một tiếng quên hết oán thù)

Các lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, theo hồi ký của Thủ tướng Trung Cộng Lý Bằng kể lại, đã rất vui mừng được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tầu – Giang Trạch Dân đọc tặng 2 câu thơ trên sau khi đặt bút ký biên bản gọi là “hoà giải”.

Các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam rất có lý do để vui mừng.

Trước Hội nghị Thành Đô chừng một năm, họ đã kinh hãi trông thấy trận bão “diễn biến hoà bình” có thể sắp ập tới Việt Nam chính là trận bão 1989-1990 đang càn quét và làm tan tành các chế độ Cộng sản ở Ba Lan, Hungaria, Tiệp, Đông Đức, Albania, Bulgaria, Romania, Nam Tư …với cao điểm là vợ chồng bạo chúa Ceaucescu bị xử tử trong khi đó thì lãnh tụ Xô Viết Gorbachev không những khoanh tay đứng nhìn mà còn cắt các khoản viện trợ thiết yếu dành cho các nước Cộng sản đàn em, kể cả Việt Nam.

Họ cũng nhìn thấy chế độ Cộng sản Trung Hoa sẽ sụp đổ về vụ Thiên An Môn nếu Đặng Tiểu Bình không nghiến răng ra lệnh tàn sát dù máu có chảy thành sông. Trong bối cảnh nguy nan, bất trắc và tâm trạng lo lắng ấy, họ đã nhận chân rằng Đảng Cộng sản Tầu là chỗ dựa duy nhất, chỗ nương tựa duy nhất của Đảng Cộng sản Việt.

Hội nghị Thành Đô được mô tả là hội nghị của “hoà giải” Việt-Trung, thực chất là đàn em tìm đến đàn anh xin tha thứ “lỗi lầm” cũ và xin được bao bọc, che chở – trước khi chính thức ký cái biên bản bị chính trong nội bộ, được coi là bắt đầu một thời kỳ “Bắc thuộc” mới.

Nhưng làm sao chiến tranh với bao nhiêu tàn phá, chết chóc, làm sao thù nghịch ròng rã cả một thập niên (1980’s), bao nhiêu tuyên truyền, giáo dục vo tròn bóp méo trong nhân dân hai nước, thậm chí ra cả bạch thư, ghi trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ đích danh “kẻ thù truyền kiếp” mà nay có thể chỉ “cười một tiếng quên hết oán thù”?!

Rất thất sách và phản tác dụng nếu Bộ Chính trị của Đảng CSVN ra lệnh hay ra nghị quyết “vì quyền lợi sinh tồn tối thượng của… Đảng, kể từ ngày hôm nay trở đi cụm từ “kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta” phải được thay bằng “tình hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung – Việt” và bất cứ ai nói hay làm ngược lại sẽ bị trừng phạt đích đáng”.

Đảng Cộng sản Việt và cả Đảng Cộng sản Tầu đã không “vô chính trị” như thế.

Gieo Độc cần “nghệ thuật tuyên giáo” thì Giải Độc còn cần “nghệ thuật tuyên giáo” nhiều hơn nữa! Phải có kế hoạch khôn khéo, phải mở những chiến dịch “tâm công”, tích cực nhưng từ tốn như “mưa dầm thấm đất” và rất tự nhiên như chuyện giải trí, văn chương, học hỏi nghiên cứu bình thường, có nghĩa… như là Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương!

Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương nói riêng và các “chiến dịch” tưởng niệm – nhằm, nói chung, “làm sống lại” nhân vật Nguyễn Sơn liên tục từ nhiều năm nay, mặt khác, vô hình trung lại là cơ hội “đốt lò hương cũ” để biết Nguyễn Sơn đến thế nào, đi thế nào, đã viết gì, nói gì, làm gì, đã sống thế nào, chết thế nào… trong những năm tháng sôi động ấy… Một khi đã hiểu Lưỡng Quốc Tướng Quân thực sự là ai thì sẽ hiểu được thực chất mối quan hệ giữa hai nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và Nguyễn Sơn cũng như ý nghĩa và hậu quả của mối quan hệ ấy đối với chính lịch sử của nước Việt Nam.

BỐI CẢNH MỘT CUỘC HỒI HƯƠNG

Đầu tháng 8/1945 Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử trên thành phố Hiroshima và Nagasaki cùng lúc với đội quân Quan Đông hơn một triệu người của Nhật Bản ở Mãn Châu bị gần 100 sư đoàn cơ giới của Liên Xô đánh tan một cách bất ngờ trong vòng 2 tuần lễ.

Ngày 15/08/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh.

Ngày 19/08/1945, Việt Minh tổ chức biểu tình cướp chính quyền tại Hà Nội trước sự bất lực và mất tinh thần của chính quyền thân Nhật Trần Trọng Kim. Quốc vương Bảo Đại thoái vị, chấm dứt triều đại nhà Nguyễn.

Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng không được cường quốc nào công nhận. Riêng Tổng thống Mỹ Harry Truman hoàn toàn làm ngơ trước những công hàm liên tiếp và khẩn thiết của Hồ Chí Minh yêu cầu Mỹ công nhận nền độc lập của Việt Nam và công nhận chính quyền Việt Minh. Lý do chính là Truman đã biết cá nhân Hồ Chí Minh và chính quyền do ông Hồ đứng đầu là Cộng sản, có liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Nga và Đảng Cộng sản Tầu. Mặt khác, có thể Mỹ cũng không muốn gặp khó khăn rắc rối với đồng minh Pháp và Trung Hoa Dân quốc một cách không cần thiết.

Vào lúc Nhật đầu hàng đồng minh, Mao đã có trong tay 1 triệu quân, 100 triệu dân, kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn ở vùng Hoa Bắc, lại có Liên Xô, cường quốc đang tập trung đạo lục quân mạnh nhất thế giới ngay sau lưng tại Mãn Châu. Nếu Mỹ không có bom nguyên tử, Mao và Stalin có thể phối hợp đánh bại Tưởng Giới Thạch trong vòng 6 tháng mà Mỹ không kịp trở tay. Trong trường hợp này, chính quyền Hồ Chí Minh không cần nài nỉ Mỹ công nhận, chỉ cần chạy vào rừng cố gắng cầm cự cho qua 6 tháng ấy là thoát nạn. Nhưng thực tế Mỹ đang độc quyền vũ khí nguyên tử, không quân, hải quân mạnh nhất thế giới, căn cứ khắp nơi, kinh tế không bị tàn phá lại đang hết sức phát triển… Được Mỹ công nhận là chính quyền hợp hiến, hợp pháp của nước Việt Nam độc lập có hiệu quả hoá giải ngay mối đe doạ từ Trung Hoa Dân quốc và từ đế quốc Pháp đối với Hồ Chí Minh và đảng CSVN. Tuy nhiên việc này đã không xẩy ra.

Hoàng Văn Hoan trong hồi ký “Giọt nước trong Biển cả”, tả tình cảnh chính quyền Hồ Chí Minh cuối năm 1945 là “ngàn cân treo sợi tóc”. Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập thì 3 tuần sau Pháp đã đổ bộ mấy chục ngàn quân tinh nhuệ, tái lập chế độ bảo hộ ở Lào, Miên và miền Nam VN một cách dễ dàng. Chính quyền Việt Minh địa phương chống cự yếu ớt. Thêm 2 tuần nữa thì 200 ngàn quân Tầu Quốc Dân Đảng tràn vào Miền Bắc, vừa giải giới quân Nhật, vừa hăm he “diệt Cộng, cầm Hồ” mưu đồ lập một chính quyền phiên thuộc, ít nhất ở Bắc Việt Nam.

Cả nước mới chỉ có 5 ngàn tay súng, không có kinh nghiệm chiến trận, trấn áp đám quốc gia “phản động” như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, Duy Dân… thì tạm đủ nhưng đánh nhau với Pháp hay với Tầu Quốc Dân Đảng là “trứng chọi đá”. Ông Hồ Chí Minh dĩ nhiên phải cân nhắc, toan tính đủ đường. Không dám chống cự quân Tầu Tưởng. Làm “Tuần lễ Vàng” để quyên vàng hối lộ Tiêu Văn, Lư Hán, rất nhún nhường trước các “thượng quan“; Giả vờ giải tán Đảng Cộng sản; Tổ chức bầu cử Quốc hội; Sao chép Hiến pháp Mỹ để làm Hiến pháp Việt Nam; Lập chính phủ Liên hiệp… Bí mật cầu cứu Mao, nhưng Mao đang đứng bên bờ cuộc nội chiến sắp bùng nổ toàn diện ở Tầu, lực lượng chỉ tập trung ở vùng Hoa Bắc lại phải đối phó với hơn 3 triệu quân của Tưởng đang hình thành một thế bao vây. Trong hoàn cảnh ấy, Mao chỉ có thể phái người tin cẩn đến đến Việt Nam, giúp Đảng Cộng sản Việt triển khai thế trận “chiến tranh nhân dân kiểu Mao” để đối phó với đế quốc Pháp và có thể cả Tầu Quốc Dân Đảng.

Ông Hồ và Đảng Cộng sản Việt có lẽ đủ thực tế để biết không thể tự mình thắng Pháp mà chỉ mong kéo dài cuộc chiến cho đến ngày Mao thắng Tưởng. Mối lo trước mắt là làm sao sống sót, làm sao thoát khỏi tình trạng nguy ngập “một cổ 2 tròng”, “tứ bề thọ địch”!?

Đúng lúc ấy, tháng 11/1945 Nguyễn Sơn xuất hiện tại Hà Nội – mang dáng dấp của một cứu tinh.

ĐÚNG NGƯỜI, ĐÚNG VIỆC

Ở bên Tầu tên ông là Hồng Thuỷ, khi bí mật trở về Việt Nam hoạt động để che giấu bớt thân thế, nhất là đối với tình báo Trung Hoa Dân Quốc, tình báo Pháp và tình báo Mỹ, ông đổi tên là Nguyễn Sơn.

Nguyễn Sơn, tên thật là Vũ Nguyên Bác, sinh năm 1908 tại Hà Nội, gia đình tư sản, nguyên học viên trường sư phạm tức là được giáo dục theo lối Pháp, kém ông Hồ Chí Minh 18 tuổi nên thuộc thế hệ cùng trang lứa với các nhân vật Cộng sản Việt nổi tiếng làm việc bên cạnh ông Hồ trong thời kỳ đầu như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Chu Văn Tấn, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Tử Bình, Lê Thiết Hùng, Trần Đăng Ninh, Phùng Chí Kiên, Hoàng Sâm, Nguyễn Chí Thanh… Chẳng hạn Nguyễn Sơn cùng tuổi với Lê Thiết Hùng nhưng kém Hoàng Văn Hoan 3 tuổi, kém Phạm Văn Đồng 2 tuổi, kém Trường Chinh và Lê Duẩn một tuổi, hơn Chu Văn Tấn 1 tuổi, hơn Trần Tử Bình 2 tuổi, hơn Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ 3 tuổi.

Tuy nhiên Nguyễn Sơn độc đáo, khác biệt hẳn những người này:

  1. Kể từ 1925 đến 1945, Nguyễn Sơn đi làm Cách mạng Cộng sản nhưng là Cách mạng Cộng sản Tầu chứ không phải là Cách mạng Cộng sản Việt, chỉ hoạt động với Đảng Cộng sản Tầu, không hoạt động với Đảng Cộng sản Việt.
  2. Nguyễn Sơn về Việt Nam, sau 20 năm hoàn toàn vắng bóng, với tư cách là một đảng viên Đảng Cộng sản Tầu, do Mao Trạch Đông đích thân chọn để giúp Đảng Cộng sản Việt đối phó với tình trạng dầu sôi, lửa bỏng lúc bấy giờ. Trước khi lên đường nhận nhiệm vụ, Hồng Thuỷ / Nguyễn Sơn đã được Mao tiếp kiến dặn dò trước sự hiện diện của cả Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh tại thủ phủ Diên An (sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương, trang 225 ). Sau 5 năm làm nhiệm vụ ở Việt Nam, trở lại Trung Cộng năm 1950 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn được bố trí cư trú ngay ở Trung Nam Hải – là một thứ “Tử Cấm Thành” của Đảng Cộng sản Tầu tại thủ đô Bắc Kinh…

Mao Trạch Đông biệt phái Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn giúp Đảng CSVN đánh Pháp trong thời gian 1945-1950, không khác gì biệt phái Vi Quốc Thanh, La Quy Ba làm công tác tương tự trong thời gian 1950-1954, hay biệt phái Trần Canh đến Việt Nam làm một công tác đặc biệt có tầm quan trọng chiến lược là thiết kế và hướng dẫn một lực lượng Việt Minh – vừa được Trung Cộng bí mật huấn luyện và trang bị trên đất Tầu – mở chiến dịch Biên giới tháng 9/ 1950 nối liền thành một giải “đại hậu phương Trung Quốc” với “khu Giải Phóng” ở Miền Bắc Việt Nam sau khi đã tiêu diệt quân Pháp ở Đông Khê và Thất Khê. Dĩ nhiên Mao căn cứ vào mỗi tình thế cụ thể để chọn người thích hợp theo nguyên tắc “đúng người, đúng việc”.

  1. Theo lời của Trung Tướng Trần Độ trong bài hồi ký “tướng Nguyễn Sơn và tôi” thì ông Hồ Chí Minh trong buổi đầu đã giới thiệu Nguyễn Sơn với các đồng chí Trung ương Đảng Cộng sản Việt – là một người “thân kinh bách chiến” và hiển nhiên vào thời điểm lịch sử đó chính ông Hồ không thấy có cộng sự viên nào khác có thể bì kịp với người vừa mới trở về. Không ai có bề dầy kinh nghiệm về các hoạt động chính trị và quân sự như Nguyễn Sơn. Người có ít nhiều kinh nghiệm về hoạt động chính trị như Tổng Bí thư Trường Chinh thì lại không có kinh nghiệm về quân sự, người có ít nhiều kinh nghiệm quân sự như Bộ trưởng Quốc phòng Chu Văn Tấn lại không có kinh nghiệm về hoạt động chính trị. Nguyễn Sơn, vào thời điểm lịch sử 1945-1950, là con người Cộng sản Việt Nam “văn võ song toàn”.

Một người Việt Nam khác dưới trướng của ông Hồ cũng được coi là “văn võ song toàn” nhưng là về sau này chứ không phải trong giai đoạn 5 năm đầu khó khăn ấy và người đó là Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp có bằng cấp đại học, có kiến thức kinh điển nhưng đối chiếu với Nguyễn Sơn thì kinh nghiệm chính trị của ông chỉ giới hạn trong giới học thức và hơn 1 năm trong nhà tù Thực dân Pháp. Thành tích quân sự của Võ Nguyên Giáp còn mỏng manh hơn nữa – ông Giáp chuẩn bị nhưng chưa kịp đi thụ huấn quân chính ở Diên An thì đã được gọi về để chỉ huy đội quân du kích võ trang tuyên truyền năm 1944. Kinh nghiệm chiến đấu gọi là chống Pháp, chống Nhật vào thời điểm lịch sử đặc biệt ấy của ông Giáp thực ra chỉ gồm trên dưới một năm “đánh võ” trong cái “khoảng trống” ngẫu nhiên được tạo ra trong buổi giao thời (1944-1945) do các thế lực đối nghịch triệt hạ lẫn nhau, trung hoà lẫn nhau trên đất nước Việt Nam – Nhật lật đổ Pháp nhưng chưa kịp làm chủ hẳn Đông Dương thì đã phải buông súng đầu hàng Đồng Minh…

Võ Nguyên Giáp chỉ kém Nguyễn Sơn 3 tuổi nhưng kinh nghiệm làm cách mạng Cộng sản, nhất là kinh nghiệm thực tiễn về các khía cạnh của “chiến tranh nhân dân” thì kém hơn Nguyễn Sơn gần 20 năm!

  1. Ông Hồ Chí Minh lúc về sau có thể thấy lời ca ngợi “thân kinh bách chiến” dành cho Nguyễn Sơn có hậu quả bất lợi nhưng “thân kinh bách chiến” đúng ra vẫn chỉ phản ảnh một phần cuộc đời tranh đấu của Nguyễn Sơn trên đất Trung Hoa.

Nguyễn Sơn đến Trung Hoa năm 1925 lúc 17 tuổi, tốt nghiệp khoá 4 trường quân sự nổi tiếng Hoàng Phố năm 1926 và là một trong 15 tướng lãnh của Trung Cộng xuất thân từ ngôi trường này như Lâm Bưu, Từ Hướng Tiền, Trần Canh, Lưu Chí Đan… Trường Hoàng Phố là biểu tượng 2 Đảng Quốc-Cộng Trung Hoa hợp tác lần đầu theo chủ trương “Liên Nga, dung Cộng” của lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng Tôn Dật Tiên. Hoàng Phố là nơi Tưởng Giới Thạch làm Hiệu Trưởng / Tư lệnh, Liêu Trung Khải làm Chính uỷ, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ làm giảng viên, Chu Ân Lai làm Giám đốc học vụ, Mikhail Borodin phái viên cao cấp của Stalin làm cố vấn.

Năm 1927 bùng nổ tranh chấp Quốc-Cộng ở Trung Hoa, Nguyễn Sơn gia nhập Đảng Cộng sản Tầu và tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Diệp Kiếm Anh. Đảng Cộng sản Tầu, ở thế yếu hơn, bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị đàn áp khốc liệt, phải bỏ thành thị chạy về các vùng rừng núi, nông thôn, phát động chiến tranh nhân dân theo sách lược của Mao, kết hợp du kích chiến với vận động chiến, rồi tuyên bố thành lập Cộng Hoà Xô Viết Trung Hoa năm 1931, tạo tình trạng một quốc gia trong một quốc gia.

Thời kỳ 1929-1931, Nguyễn Sơn nằm gai, nếm mật, chiến đấu trong hàng ngũ Hồng Quân Công Nông ở vùng Xô Viết Trung ương thuộc tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến, lần lượt trải qua các chức vụ Chính trị viên đại đội, Chính uỷ trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị sư đoàn, góp phần đẩy lui nhiều cuộc tấn công vây quét quan trọng của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc.

1932: Nguyễn Sơn làm giảng viên chính trị Trường Quân chính Trung ương cùng lúc với La Quy Ba. Hoàn toàn hoà nhập vào môi trường Trung Hoa về mọi khía cạnh kể cả văn hoá, ngôn ngữ như ứng khẩu diễn thuyết trước các đám đông, làm báo, viết văn, làm thơ, sinh hoạt, chiến đấu… không khác gì một cán bộ Cộng sản bản lĩnh người Tầu chính hiệu. Năm 1933 Nguyễn Sơn sáng lập đoàn kinh kịch đầu tiên của Đảng Cộng Sản Tầu, phục vụ cổ vũ chiến đấu, tự mình viết kịch, làm đạo diễn và diễn xuất.

Nhiệt tình, trung thành, tận tuỵ, xông xáo, nóng tính nhưng phóng khoáng, vui nhộn, trình độ trí thức ngang bằng hay còn cao hơn các cán bộ lãnh đạo Cộng sản Tầu khác, lại thông minh, hiếu học, ham đọc sách, có tư duy chiến lược, thích nghi dễ dàng với mọi hoàn cảnh cộng với các tài năng thiên phú đã khiến Hồng Thuỷ sớm lọt vào mắt xanh và trở nên gần gũi, thân thiết với các lãnh tụ cao cấp nhất như Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vĩnh Trăn, Trần Nghị, Lưu Bá Thừa, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài, Nhậm Bật Thời, Lý Phú Xuân, Thái Xương… Những người này thường gọi Nguyễn Sơn là “Tiểu Hồng” một cách thân mật, tự nhiên. Không một người Cộng Sản Việt Nam nào khác lại có quan hệ “người nhà” đối với Đảng Cộng sản Tầu như trường hợp của Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn.

Tháng 1/1934 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn được bầu làm Uỷ viên Trung ương của Hội nghị Đại biểu Toàn Quốc lần thứ hai của Cộng Hoà Xô Viết Trung Hoa, với tư cách là đại biểu của “dân tộc thiểu số” (dân tộc Việt!). Cùng với Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn còn có thêm một người thứ hai gốc Triều Tiên cũng được chọn và cũng với tư cách là đại biểu của dân tộc thiểu số (dân tộc Triều Tiên!). Đây là một tiết lộ quan trọng của Đảng Cộng sản Tầu – được tìm thấy ở trang số 113-114 sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương, rất cần lưu ý.

Cuối năm 1934 Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn tham gia cuộc Trường chinh hay Vạn Lý trường chinh nổi tiếng của Đảng Cộng sản Tầu, trực tiếp dưới quyền Chu Đức – lãnh tụ số 1 của Hồng Quân lúc ấy đang điều khiển một trong 2 cánh quân chính. Trước đó, Hồng Thuỷ chiến đấu trong đoàn cán bộ trung ương do Trần Canh chỉ huy và cũng phải luôn luôn xung trận như các đơn vị khác (Trần Canh sau này là danh tướng từng đánh nhau với đại quân của Nhật trong cuộc chiến Trung-Nhật, từng thống lãnh mấy chục vạn quân trong nội chiến Quốc-Cộng trước khi bí mật sang Việt Nam điều khiển chiến dịch khai thông biên giới, rồi làm Phó Tổng tư lệnh quân đội Cộng sản Tầu đánh nhau với Mỹ tại chiến trường Triều Tiên, cuối cùng là Bộ Trưởng Quốc phòng của Trung Cộng).

Trường chinh là cái tên văn vẻ của cuộc hành quân triệt thoái khỏi căn cứ chính ở Giang Tây vì không chịu nổi áp lực “vây và diệt” của chính quyền Trung Hoa Dân quốc. Cuộc Trường chinh kéo dài hơn một năm trời (1934-1935), theo lộ trình hơn 12 ngàn cây số quanh co rất khó định trước, lúc rẽ về Tây, lúc phải đi vòng quanh như kiến bò trong miệng chén, lúc Bắc tiến, lúc tấn công các đồn bốt, thành trì để lấy đường đi, lúc chạy trốn, lúc bị phục kích, đánh chặn, bị săn đuổi từ trên trời, dưới đất, lúc ngày nghỉ, đêm di hành, vượt bao sông lớn, sông nhỏ, rừng rậm, núi tuyết, đầm lầy, thảo nguyên, các địa hình hiểm trở… xuyên qua 11 tỉnh của nước Tầu mênh mông như Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Cam Túc, Ninh Hạ… Khởi đầu, quân số khoảng 100 ngàn, khi đến được căn cứ Diên An của Lưu Chí Đan trong vùng cao nguyên hoàng thổ phía Bắc của tỉnh Thiểm Tây, gần với lãnh thổ Nội Mông thì chỉ còn khoảng 5 ngàn. Đại đa số đã chết trận, chết bệnh, chết đói, chết khát, mất tích, đào ngũ … Những người sống sót sau những gian khổ tận cùng đã trở nên thành phần kiên định nhất, bản lĩnh nhất, cố kết với nhau nhất trong Đảng Cộng sản Tầu và nhờ thế họ chiếm được toàn cõi nước Tầu 15 năm sau.

Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là một trong những chiến sĩ làm nên “kỳ tích” thiên “anh hùng ca” này của Đảng Cộng sản Tầu, tức là thuộc “một giai cấp quý tộc đỏ” trong nước Trung Hoa mới – giai cấp của những người Trường chinh (The Long Marchers)!

(Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt – tên thật Đặng Xuân Khu nhưng được biết đến nhiều hơn bằng tên hiệu Trường Chinh, cái tên biểu lộ sự khâm phục, ngưỡng mộ cuộc Trường chinh “made in China” này – chắc phải có một cảm giác rất đặc biệt, khi lần đầu giáp mặt người Việt Nam duy nhất, bằng xương bằng thịt, đã tham dự, chiến đấu và sống sót sau cuộc Trường chinh thay đổi lịch sử. Rất tiếc không ai được biết cái cảm giác đặc biệt ấy của “đồng chí Trường Chinh” thực sự thế nào bởi vì giống như hầu hết các cộng sự viên thân cận nói trên của ông Hồ, Trường Chinh cũng tránh né việc công khai đề cập đến nhân vật Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn trong suốt cuộc đời. Người ta tất nhiên không khỏi thắc mắc tại sao Trường Chinh lại phải “kín tiếng” như thế?)

Năm 1936 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là một trong 40 học viên khoa đầu tiên của Trường Đại học Hồng Quân Công Nông Trung Quốc vừa chính thức khai giảng. Các học viên là cán bộ cấp trung đoàn và sư đoàn, Mao Trạch Đông đích thân làm Chính uỷ kiêm thầy giáo, Lâm Bưu làm Hiệu trưởng kiêm học viên. Mao dậy về “các vấn đề chiến lược của chiến tranh cách mạng Trung Quốc”, Hồng Thuỷ và các học viên khác tiếp thu, nghiên cứu, thảo luận, phát biểu sôi nổi, cùng trao đổi các bài học kinh nghiệm đấu tranh chính trị, quân sự trong 10 năm qua. Hoạt động ngoại khoá còn có diễn kịch (Hồng Thuỷ dĩ nhiên có lúc là kịch sĩ) và chơi thể thao. Vợ chồng Chu Đức, Tổng Tư lệnh Hồng quân, sếp cũ của Hồng Thuỷ cũng thường đến trường chơi bóng rổ cùng đội Hồng Thuỷ và các học viên khác, rất là “huynh đệ chi binh”. (Hồng Thuỷ thân với Chu Đức đến độ thời gian làm việc và cư trú ở Bắc Kinh từ mùa hè 1954 trở đi, buổi tối ăn cơm xong Hồng Thuỷ thường đi bách bộ rẽ vào nhà Chu Đức hàn huyên chuyện cũ vì hai gia đình ở chung trong một khu phố (trang 358, sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương)).

Tháng 1/1937 Hồng Thuỷ tốt nghiệp Đại học Hồng Quân và về làm việc ở Tổng bộ Chính trị Hồng Quân Công Nông, giữ chức Chủ nhiệm Hội đồng động viên khu 4 thuộc Quân khu Tấn Sát Ký gồm 3 tỉnh Sơn Tây, Sát Cáp Nhĩ, Hà Bắc (mỗi tỉnh ở bên Tầu thường lớn suýt soát với cả nước Việt Nam). Hồng Thuỷ cũng làm chủ nhiệm nhật báo Tấn Sát Ký, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng uỷ biên khu. Lúc này hai Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng Trung Hoa, sau sự biến Tây An (Tưởng Giới Thạch bị tướng thuộc hạ bắt cóc, được trả tự do nhưng bị ép phải ngưng nội chiến để “đoàn kết kháng Nhật”). Mao cũng đành phải chấp nhận trên nguyên tắc sự lãnh đạo của Tưởng, bãi bỏ cái gọi là “Cộng Hoà Xô Viết Trung Hoa”, đổi tên Hồng Quân Công Nông thành Bát Lộ Quân và đoàn quân Cộng sản này đã phát triển cực kỳ nhanh chóng trong những năm “đoàn kết kháng Nhật”. Dưới cờ của Bát Lộ Quân, Hồng Thuỷ viết chính luận trên báo, viết văn, thơ, kịch thơ, trường thi… tích cực tuyên truyền “Kháng Nhật… cứu quốc”… gây được ảnh hưởng lớn, nâng cao tinh thần quân dân trong suốt 8 năm chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945). Cũng trong thời gian này Hồng Thuỷ đảm nhiệm cả việc giảng dạy tại Đại học Kháng Nhật (là tên mới của Đại học Hồng Quân Công Nông Trung Quốc đã nói ở trên) trong quân khu Tấn Sát Ký để bồi dưỡng nhân tài chỉ huy cho Bát Lộ Quân. Không phải là giảng dạy bình thường mà là vừa giảng dạy, vừa di chuyển, vừa chạy giặc, vừa đánh giặc, rất vất vả, căng thẳng.

Năm 1938, ở tuổi 30, tại vùng căn cứ Kháng Nhật Tấn Sát Ký, Hồng Thuỷ kết hôn với Trần Kiếm Qua 24 tuổi (sinh năm 1914), một đảng viên tích cực của Đảng Cộng sản Tầu, Chủ tịch Hội Phụ nữ của huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây (sau làm Viện trưởng một Viện Giáo dục Mẫu giáo và chức vụ sau cùng trước khi nghỉ hưu là Phó Giám đốc Sở Giáo dục Bắc Kinh). Một cuộc hôn nhân trong thời loạn, trai tài gái sắc, chung lý tưởng Cộng sản – “yêu nhau là cùng nhìn về một hướng”, nhiệm vụ vẫn là trên hết. Tình thâm nghĩa trọng nhưng tương đối ngắn ngủi – 2 mặt con, 7 năm vợ chồng (1938-1945). Hồng Thuỷ về Việt Nam công tác, lấy người khác. Người vợ, người đồng chí trong đảng Cộng sản Tầu không tái hôn, dù cảm thấy rất cay đắng vì bị phụ tình.

  1. Trung Tướng Trần Độ, sinh năm 1923, kém Nguyễn Sơn 15 tuổi, kể lại những ngày đầu tiếp xúc với Nguyễn Sơn (nguyên văn): “…Tôi thấy ngay rằng ông là bậc đàn anh, một đàn anh có tham dự cuộc Trường chinh bên Trung Quốc. Còn ông thì xem xét cái này cái kia, không nói gì, song qua thái độ biểu hiện xem chừng ông có ý xem thường”.

Một lần khác, cuối năm 1947, lúc Nguyễn Sơn đang làm Tư lệnh Khu 4 (tức Liên khu 4), Trần Độ, nguyên Chính uỷ mặt trận Hà Nội, làm Trưởng đoàn hướng dẫn một số cán bộ văn nghê sĩ có tên tuổi như Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến, Nguyễn Công Hoan…đến làm công tác văn hoá, kể tiếp (nguyên văn): “…Khi tôi tới trình giấy tờ, ông Sơn thấy danh sách có mấy tên nhà văn liền hẹn mời đích danh các ông, còn cán bộ chính trị ông không nhắc tới. Tôi liền dẫn mấy ông nhà văn vào phòng khách, là gian đầu của cái nhà tranh vách đất, có bộ ghế mây cũng tươm tất, tôi kéo ghế ngồi lại, ông Sơn chào khách:

– Hôm nay thấy có các anh văn nghệ sĩ, tôi mời mấy anh lại nói chuyện văn nghệ chơi.

Thấy tôi cũng ngồi lại, ông chỉ vào mặt bảo:

– Mày ngồi đây làm gì? Mày biết chó gì văn nghệ.

Ông bổ báng như vậy, nhưng tôi cũng hiểu là lời nói thân tình theo phong cách của ông.

Tôi đáp:

– Tôi muốn ngồi nghe các anh nói chuyện để học tập.

Ông ấy liền bảo:

– Ừ, thì cứ ngồi đấy….”

Phong cách rất đặc biệt nhưng đồng thời cho thấy Nguyễn Sơn là một người rất tự tin, rất kẻ cả!

  1. Tháng 2/1946 chính quyền Tưởng phải tập trung lực lượng đối phó với với Mao nên ký hiệp định với Pháp thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đông Dương đổi lại việc Pháp trả lại các tô giới ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu và nhường lại đường sắt ở Vân Nam. Ngày 6/03/1946 Hồ Chí Minh ký thoả thuận với Pháp đồng ý cho Pháp đưa quân vào Miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng để… giải giới quân Nhật. Thực ra, chính quyền Việt Minh ở thế yếu, không ký cũng không cản được Pháp đổ bộ. Ông Hồ tạm mừng thoát nạn Tầu Tưởng và loại trừ được các đảng phái quốc gia “phản động”, chỉ còn phải đối phó với một địch thủ là Thực dân Pháp. Dù vậy, lực lượng quân sự của Pháp vẫn mạnh hơn Việt Minh mấy chục lần. Việc ký kết chỉ có nghĩa Đảng Cộng sản Việt mua thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mà họ biết sớm muộn sẽ bùng nổ lớn hơn và lan tràn khắp miền Bắc.

Trước đó, chưa kịp ngồi nóng chỗ ở Hà Nội, tháng 12/1945, Nguyễn Sơn, không phải Võ Nguyên Giáp, được tức tốc điều động ra ngay tuyến đầu chống đại quân của Pháp đang đánh phá dữ dội để “bình định” phần lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 16 – với tư cách Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Với chức vụ này, Nguyễn Sơn nghiễm nhiên là nhân vật số 1 của của một nửa nước Việt Nam cho đến tháng 12/1946. Ngược lại chính Nguyễn Sơn, với một quân số ít ỏi, vũ khí thiếu thốn, ngân khố trống rỗng phải đối phó với gần như toàn bộ binh lực của Pháp, vào cuối năm 1946 đã lên tới con số 90,000.

Sắc lệnh 183 bổ túc thành phần Uỷ ban Kháng chiến Miền Nam do Chủ tịch Chính phủ nước VNDCCH ký ngày 24/09/1946 có nội dung như sau:

“Chiếu đề nghị của Chủ tịch Quân sự Uỷ viên Hội và Bộ trưởng Quốc phòng, cử:

Ô. Nguyễn Sơn: Chủ Tịch Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam

Nguyễn Văn Tây: Phó Chủ tịch

Phạm Văn Bạch: Uỷ viên

Cao Hồng Lĩnh: –

Lê Duẩn: –

Nguyễn Chánh: –

Huỳnh Văn Tiểng: –

Chủ Tịch Chính Phủ Việt Nam

(ký tên: Huỳnh Thúc Kháng)”

Sắc lệnh – do ông Huỳnh Thúc Kháng ký theo đề nghị của Võ Nguyên Giáp (Chủ tịch quân sự uỷ viên hội) và chắc là theo chỉ thị của ông Hồ Chí Minh đang bận thương thuyết một giải pháp hoãn xung với Chính phủ Pháp ở Paris – cho thấy ngay cả Lê Duẩn cũng là thuộc cấp của Nguyễn Sơn vào những năm tháng ấy.

Cuối năm 1946 ông Hồ còn ký một sắc lệnh khác cử Nguyễn Sơn làm Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng (lúc đó không có ai là Tổng Tham mưu trưởng hay là không có chức Tổng Tham mưu trưởng).

Trong khi làm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, Nguyễn Sơn còn làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ khu 5 và 6 thuộc miền Nam Trung Bộ gồm nhiều tỉnh Cao Nguyên như Công Tum, Đắc Lắc, Gia Lai và các tỉnh duyên hải như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận… đang bị quân Pháp tấn công ác liệt. Từ giữa 1947 đến cuối 1949 Nguyễn Sơn làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ khu 4 là vùng đất chiến lược hiểm yếu nhất nhì của Việt Nam gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.

Tất cả đều là những trách nhiệm trọng yếu, nặng nề nơi đầu sóng, ngọn gió.

  1. Ở tất cả mọi nơi, Nguyễn Sơn đều nắm toàn quyền, thực thi sáng kiến của chính mình, hành xử một cách rất độc lập, ảnh hưởng đến các chính sách của Trung ương Đảng Cộng sản Việt chứ không phải ngược lại. Trong 5 năm đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Pháp (1945-1950) sự đóng góp nói chung của Nguyễn Sơn rất lớn, rất quan trọng – lớn hơn, quan trọng hơn là đã được Đảng Cộng sản Việt công nhận và ghi nhận. Vậy, Nguyễn Sơn đã thực sự đóng góp cho cho cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào?

Khi rời Diên An để về Việt Nam, hành lý quan trọng nhất được nhắc đến của Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là các tác phẩm thuộc loại cẩm nang chiến lược của Mao Trạch Đông mà Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn đã cặm cụi dịch ra tiếng Việt từ mấy tháng trước, chẳng hạn như “Bàn về cách đánh lâu dài”, “Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc”… (trang 224, Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương). Chỉ riêng điểm này cũng có thể hình dung và cảm nhận được cái vai trò, sứ mạng mà “hoàng đế kiêm giáo chủ” Mao Trạch Đông giao cho “tướng quân kiêm đệ tử” Hồng Thuỷ thi hành ở vùng đất phương Nam hết sức thiết yếu đối với Trung Quốc: Rút tỉa những bài học từ Cách mạng CS Tầu để áp dụng uyển chuyển, thích nghi vào Cách mạng CS Việt, Hồng Thuỷ sẽ là lý thuyết gia, chiến lược gia, kiến trúc sư chính thi triển phép mầu “chiến tranh nhân dân kiểu Mao” chống lại các thế lực thù địch.

“Vạn sự khởi đầu nan”, Nguyễn Sơn đáng gọi là nhà lý luận quân sự cách mạng Cộng sản đầu tiên của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Ông Phạm Xanh, thuộc Trường Khoa học Xã hội Việt Nam, tin rằng chỉ trong 5 năm ngắn ngủi công tác ở Việt Nam Nguyễn Sơn viết rất nhiều, báo và sách, nhưng ông mới chỉ tìm thấy 3 cuốn sách (không kể các sách dịch) là các cuốn “Chiến thuật”, “Dân Quân, một lực lượng chiến lược”, “Chủ nghĩa Lenin” trình bày các nguyên tắc căn bản một cách sáng sủa, thực tiễn, lôi cuốn. (Ông không cho biết tại sao những tác phẩm của tác giả Nguyễn Sơn đã không được bảo quản đúng mức để bị thất lạc.)

Áp dụng lý thuyết vào thực tế trên căn bản tri hành hợp nhất và 20 năm kinh nghiệm học tập, chiến đấu trong nội chiến Quốc-Cộng Trung Hoa, trong chiến tranh Trung-Nhật – lấy yếu đánh mạnh, trường kỳ kháng chiến, toàn dân đánh giặc… Nguyễn Sơn làm được rất nhiều việc trong nửa đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam:

– Mở trường Thiếu sinh quân đầu tiên.

– Mở trường Văn hoá Kháng chiến đầu tiên.

– Mở trường Lục quân tại Quảng Ngãi để gấp rút đào tạo cán bộ quân chính chỉ huy, tự mình làm Hiệu trưởng kiêm giảng viên.

– Làm Hiệu trưởng kiêm giảng viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn là trường đại học quân sự ở miền Bắc Việt Nam.

– Thành lập các lực lượng dân quân song song với việc tạo dựng các lực lượng du kích, lực lượng chính quy cấp tiểu đoàn, trung đoàn.

– Sử dụng văn hoá, văn nghệ làm vũ khí tranh đấu, đãi ngộ các văn nghệ sĩ, một cách rất đặc biệt thân tình, cho họ nhiều tự do sáng tác và thường xuyên giao lưu với họ. Nguyễn Sơn từng làm chủ hôn cho Phạm Duy lấy Thái Hằng ở Thanh Hoá trong chiến khu 4 và những bài hát Kháng chiến nổi tiếng của Phạm Duy như “ bà mẹ Gio Linh” đã được sáng tác trong “lãnh địa” của Nguyễn Sơn. Các văn nghệ sĩ, trí thức đổ về khu 4 nhiều vô số kể. Trong “hồi ký Phạm Duy tập 2”, nhạc sĩ Phạm Duy viết: “Tướng Sơn ra đi là tôi thành một người bị bỏ quên ở chợ Neo. Vị Tư Lệnh hiện nay là Hoàng Minh Thảo và Uỷ viên Chính trị Trần Văn Quang không phải là người biết dùng văn nghệ sĩ…”

– Thân dân, gần dân, hoà mình với dân, chan hoà với binh sĩ, cán bộ, tác phong rất dân dã (không tiền hô, hậu ủng, quần áo xuề xoà, ra vào nơi chợ búa, đi uống cà phê, đánh cờ tướng, chơi đá banh, vào nhà nông dân lăn ra ngủ, mặc quần đùi tập chạy với bộ đội, cong mình đạp xe đạp xông xáo khắp nơi, đăng đàn diễn thuyết tự biên, tự diễn, hùng biện, lôi cuốn).

– Thường xuyên tổ chức tập trận và tổ chức đánh trận thật theo các nguyên tắc của du kích chiến (địch tiến thì ta lùi, địch đóng quân thì ta quấy nhiễu, địch rút lui thì ta truy kích; nghiên cứu cẩn thận, chuẩn bị kỹ, tập trung lực lượng áp đảo, đánh bất ngờ vào chỗ yếu nhất của địch v.v… )

– Tổ chức các Đại hội tập tức là những khoá rèn Cán, chỉnh Quân, hội thảo quân chính, thi điền kinh, thi bắn, đánh trận giả… dẫn đến các phong trào thi đua như chiến sĩ lập công, nông dân thi đua sản xuất, văn nghệ sĩ thi đua sáng tác…

– “Đổi không gian lấy thời gian” tức là chấp nhận mất đất lúc đầu để bảo toàn và phát triển lực lượng. Lui quân mà không loạn, vẫn tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Chỉ giữ những nơi quan trọng, hiểm yếu, thiết lập các căn cứ địa, các vùng giải phóng, các mạng lưới an ninh, tình báo nhân dân, tổ chức các hoạt động kinh tế, sản xuất, phân phối tự túc, tự cường.

– Vùng đất lịch sử “địa linh nhân kiệt”, nơi có đồng bằng sông Mã, sông Cả, dân đông, núi rừng hiểm trở Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc quân khu 4, “vương quốc” của Tư Lệnh kiêm Chính uỷ Nguyễn Sơn đã được củng cố thành một căn cứ địa quan trọng của Kháng chiến chống Pháp, song song với căn cứ Việt Bắc – còn an toàn và bất khả xâm phạm hơn cả Việt Bắc, có khả năng chi viện mọi mặt cho các chiến trường khác, làm kiểu mẫu cho cả nước noi theo, góp phần vô hiệu hoá chiến lược đánh mạnh, thắng nhanh/ tốc chiến, tốc thắng của quân viễn chinh Pháp…

Ông Võ Nguyên Giáp trong bài phát biểu muộn màng về “lưỡng quốc tướng quân” vào tháng 6 năm 2000 đã nói rất đúng: “… Năm 1949 có một tài liệu của Pháp công bố, Pháp đã buộc phải thừa nhận: dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh” nhưng ông Giáp, không biết vô tình hay cố ý đã quên rằng “ba quân dễ kiếm, một tướng khó tìm” nên đã không xác nhận sự đóng góp quan trọng bậc nhất vào thành quả kháng chiến chống Pháp này của Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn. Ngoài ra, cũng có thể ông Giáp đã cố ý quên rằng mặc dù gốc gác người Việt, Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là một đảng viên cốt cán của đảng Cộng sản Tầu trở về Việt Nam công tác theo mệnh lệnh và sứ mạng giao phó của Mao Trạch Đông, chớ không phải của ai khác. Và nếu đúng cái sứ mạng giao phó là “cầm chân” đế quốc Pháp tại Việt Nam càng lâu càng tốt đợi ngày Mao thắng Tưởng, chiếm xong Hoa Lục, khai thông biên giới Trung-Việt (9/1950) thì cái sứ mạng ấy đã được Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn căn bản chu toàn.

PHẦN 2: THẦY – TRÒ HAY ĐỐI THỦ?

Với những tài liệu được giải mật cho thấy Nguyễn Sơn đã được ông Hồ Chí Minh rất trọng dụng trong những năm đầu.

Lẽ tất nhiên là phải như thế.

Đảng Cộng sản Việt trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, “ngàn cân treo sợi tóc” rất cần tài năng và kinh nghiệm của Nguyễn Sơn. Nguyễn Sơn đúng là người của tình thế. Nguyễn Sơn lại là tướng tin cẩn của Mao, đặc phái viên của Mao ở Việt Nam đúng lúc Mao, chỉ sau Stalin, là đại lãnh tụ mà người Cộng sản Việt kính nể, sùng bái và tin tưởng nhất. Ngoài ra, kể từ khi Stalin giải tán tổ chức Đệ Tam Quốc Tế năm 1943 để tỏ thiện chí với Anh, Mỹ, hy vọng hai nước đồng minh tư bản này đáp ứng yêu cầu sớm mở thêm mặt trận ở Tây Âu đỡ đòn cho Liên Xô lúc ấy đang kẹt trong cuộc chiến sinh tử với Hitler thì Stalin đã giao hẳn cho Đảng Cộng sản Tầu trách nhiệm trông coi giúp đỡ Đảng Cộng sản Việt – theo đúng ý của Mao.

Nói một cách khác đi, trong phong trào Cộng sản Quốc Tế tại Á Châu, Hồ Chí Minh là thuộc cấp của Mao, nhận chi viện từ Mao, chấp nhận sự lãnh đạo của Mao. Stalin đã hoàn toàn phủi tay. Hồ Chí Minh, muốn hay không muốn, không có lựa chọn nào khác.

TỪ HIỆN TƯỢNG…

Tuy thế, qua thời gian, sự mâu thuẫn dẫn tới bất hoà giữa ông Hồ và Nguyễn Sơn đã không tránh được và bộc lộ dần trong khi tình hình kháng chiến chống Pháp tiến triển khả quan. Và có thể chính vì tình hình kháng chiến khả quan mà lại dẫn tới mâu thuẫn bất hoà. Nghịch lý nhưng thật ra dễ hiểu.

  1. Tháng 1/1948 để tăng uy thế cho Chính phủ Kháng chiến chống Pháp mà ông lãnh đạo, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm cho 11 cấp chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Việt Minh. Võ Nguyên Giáp được phong Đại tướng. Nguyễn Bình được phong Trung tướng. 9 người được phong Thiếu tướng là: Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai, Lê Thiết Hùng, Trần Đại Nghĩa và Nguyễn Sơn. Quả thực việc phong quân hàm đã làm tăng uy thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của Trung tướng Nguyễn Bình, của tất cả các tướng được phong ngoại trừ Nguyễn Sơn.

Thực tế là giảm uy thế của Nguyễn Sơn.

Đối với một người sâu sắc, mưu lược như ông Hồ, sắp xếp phong tướng như vậy khó có thể là một việc làm không có chủ ý.

Ông Trần Độ kể về phản ứng bất bình của Nguyễn Sơn (nguyên văn):“Mọi người đến mừng thì ông đã vặc lại: “chúc mừng cái đ. gì! Tao “thừa tướng” chứ “thiếu” sao!?”. Rồi Tư lệnh kiêm Chính uỷ Khu 4 Nguyễn Sơn gửi “công văn hoả tốc” cho Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh ở Việt Bắc thông báo từ chối không nhận quân hàm Thiếu tướng. Thay vì cách chức và ra lệnh xử bắn Nguyễn Sơn vì tội “khi quân”, “phạm thượng”, “bất tuân thượng lệnh”, ông Hồ cân nhắc lợi hại, ông biết Nguyễn Sơn đến từ đâu, Nguyễn Sơn là người của ai, thế lực của Nguyễn Sơn ở Chiến khu 4 mạnh yếu thế nào, ông chấp nhận tạm thời một bước lùi. Ông viết bài thơ 12 chữ Hán trên một tấm danh thiếp, đúng ra là thu ngắn một bài cổ thi đời Tuỳ – Đường, tặng Nguyễn Sơn, nghe như lời khuyên bảo ngọt ngào của người anh thân thiết:

Tặng Sơn đệ

Đảm dục đại

Tâm dục tế

Trí dục viên

Hành dục phương

(Bản dịch là:

Tặng chú Sơn

Dũng cảm phải lớn

Tấm lòng phải tế nhị

Suy nghĩ phải trọn vẹn

Hành động phải chín chắn

(Sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương – trang 310)

Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, nguyên Bộ trưởng Y tế, Thứ trưởng Phủ Chủ tịch, đặc phái viên Chính phủ và đại diện cá nhân ông Hồ Chí Minh đã phải lặn lội từ Việt Bắc vào đến Thanh Hoá trao tấm danh thiếp lịch sử nói trên cho Nguyễn Sơn và chuyển lời phủ dụ của ông Hồ. Không ai biết rõ nội dung lời phủ dụ có gồm hứa hẹn nào không nhưng sau đó, ngày 9/10/1948, lễ thụ phong quân hàm Thiếu tướng của Nguyễn Sơn được tổ chức trọng thể tại Chiến khu 4 có mặt Phạm Ngọc Thạch và một số nhân vật quan trọng từ Trung ương đến dự như Lê Đức Thọ, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Khánh Toàn… Cuộc “khủng hoảng quân hàm” kéo dài hơn nửa năm trời tạm kết thúc nhưng “bát nước đã đổ xuống đất…” và có thể đã đổ xuống đất từ trước đó rồi!

Khoảng hơn một năm sau, Nguyễn Sơn mất chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ Chiến khu 4 và được giữ lại ở Việt Bắc để chỉ làm công tác quân huấn, tức là làm tướng… không quân.

  1. Cuối năm 1949 nội chiến Quốc-Cộng ở Tầu kết thúc. Đảng Cộng sản Tầu toàn thắng, chiếm toàn cõi Hoa Lục. Ở thời điểm này, Mao Trạch Đông nghiễm nhiên là Chủ tịch quyền uy tột bực của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 600 triệu dân, 5 triệu quân, một Tần Thuỷ Hoàng mới ngự ở đế đô Bắc Kinh. Hồ Chí Minh vẫn còn là một lãnh tụ của vài chục ngàn du kích, chưa thực sự an toàn trong hang Pác Bó dù chỉ cách biên giới Việt-Trung có 3 cây số.

Tháng 1/1950 Hồ Chí Minh bí mật sang Tầu xin Mao Trạch Đông tích cực giúp đánh Pháp. Mao chấp thuận ngay một sự viện trợ ào ạt và gửi 2 đoàn cố vấn chính trị và quân sự đến Việt Nam bắt tay vào việc.

Trong một buổi làm việc với La Quý Ba, Trưởng đoàn cố vấn chính trị, ông Hồ bầy tỏ ý kiến muốn xin gửi Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc với lý do để… tăng cường liên lạc giữa 2 đảng, 2 nước, 2 quân đội. La Quý Ba làm báo cáo về Trung ương Đảng Cộng sản Tầu và yêu cầu của ông Hồ được chấp nhận. Tháng 9/1950 Nguyễn Sơn/Hồng Thuỷ trở lại Trung Quốc và được La Quý Ba tự thân đi tiễn tới tận biên giới.

Cũng trong bài viết “Tướng Nguyễn Sơn và tôi”, ông Trần Độ (quân hàm Đại tá từ 1948) kể (nguyên văn): “Cũng dịp này tôi được phái sang Trung Quốc chuẩn bị đưa quân sang huấn luyện. Ông Sơn được tổ chức ghép vào cùng đi với chúng tôi. Đến biên giới thì có xe GMC đón chúng tôi đi Nam Ninh. Cả đoàn phấn khởi vui sướng lắm. Yên vị trên xe, ông Nguyễn Sơn bảo:

– Thế là tao cùng đi với chúng mày”

Tôi đáp:

– Được đi cùng anh vui lắm.

Dọc đường tôi có hỏi:

– Tại sao anh đòi trở lại Trung Quốc như vậy?

– Trung Quốc mới là Tổ quốc của tao.

– Thế về Trung Quốc anh định làm gì?

– Tao có ý định lập một đoàn kinh kịch (!), tao sẽ làm trưởng đoàn dẫn quân đi diễn khắp các nước trên thế giới.

Tôi hỏi:

– Thế liệu anh có về Việt Nam diễn không?

– Đi các nước thì đi, chứ không thèm về Việt Nam.”

Ông Trần Độ là người đứng đắn và không có lý do để nói lời bịa đặt.

  1. Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn đến thủ đô Bắc Kinh của Trung Cộng trùng phùng với các chiến hữu cũ trong Đảng Cộng sản Tầu và được trọng dụng ngay mặc dù lúc này nội chiến Quốc-Cộng đã chấm dứt nên công tác thời hậu chiến trong quân đội cũng khác thời chiến tranh. Các chức vụ và trách nhiệm đều thuộc loại khá cao cấp ở nước Tầu, tương xứng với khả năng và kinh nghiệm: làm việc ở Bộ Liên lạc Trung ương (Ban Liên lạc Đối ngoại), thụ huấn và công tác tại Học viện Quân sự, Phó Cục trưởng Cục Điều lệnh thuộc Quân uỷ Trung ương, Chủ nhiệm kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Huấn luyện Chiến đấucủa Tổng cục Huấn luyện thuộc Bộ Tổng Tham mưu…

Tháng 5/1954 ở Việt Nam, quân viễn chinh Pháp, được Mỹ tận tình giúp, thảm bại trong tay quân đội Việt Minh được Trung Cộng tích cực yểm trợ, tại trận quyết chiến Điện Biên Phủ chấn động thế giới.

Tháng 7/1954 Hiệp định Genève chia Việt Nam thành 2 nước: Việt Nam Cộng hoà với lãnh tụ Ngô Đình Diệm và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Theo ngôn ngữ của người Cộng sản Việt thì “Miền Bắc nước ta đã được hoàn toàn giải phóng”.

Tháng 9/1955 ở bên Tầu, Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn được Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai trao quân hàm Thiếu tướng cấp sư đoàn và 3 Huân chương Hạng Nhất trong một buổi lễ rất long trọng trao quân hàm cho 10 Nguyên soái và mấy trăm Tướng lĩnh của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Danh hiệu “Lưỡng Quốc Tướng Quân” của Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn bắt đầu từ đây.

Sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương, trang 362-363 cho biết thêm rằng chính quyền Trung Cộng lúc đầu đã định phong Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là Trung tướng trong quân đội Cộng sản Tầu nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đạt yêu cầu Trung Quốc chỉ nên phong Thiếu tướng cho Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn với lý do khá lạ lùng là “quân hàm nên tương đồng với quân hàm của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trao và cấp bậc nên giữ như biên chế tương đương mà xét thì tốt hơn”.

Nguyễn Sơn được phong Thiếu tướng từ năm 1948, gần 8 năm sau ông Hồ vẫn muốn “Sơn đệ” tiếp tục là Thiếu tướng! Ông không an tâm thấy một người Việt Nam quá rạng rỡ và được sủng ái trong Đảng Cộng sản Tầu chăng?

Mao Trạch Đông can thiệp “nửa vời” vào phút chót với cấp hữu quan: “Như vậy là không thích hợp. Đồng chí Hồng Thuỷ tham gia quân đội từ thời Hoàng Phố, có thể sửa lại cấp quân đoàn được không?!”. Mao Chủ Tịch hẳn đã đọc đầy đủ các giãi bầy, báo cáo chi tiết của Hồ Chí Minh, của Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn và của La Quý Ba. Và lời nói của Mao là một mệnh lệnh.

Kết quả Hồng Thuỷ vẫn là Thiếu tướng nhưng Thiếu tướng cấp quân doàn, không phải Thiếu tướng cấp sư đoàn.

  1. Cũng trang 363 sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thươngnhà cầm quyền Trung Cộng, vì nhu cầu tuyên giáo “hậu Thành Đô” đã “giải mật” bản nhận xét để phong quân hàm cho Hồng Thuỷ có đoạn như sau:

“Sau khi Đại Cách mạng thất bại, nhập Đảng trong thời kỳ khủng bố trắng, đối với Đảng, với nhân dân trung thành, trong sáng, ý chí cách mạng kiên định. Trong những hoàn cảnh tàn khốc nhất, khó khăn nhất như bạo động Quảng Châu, Trường Chinh trước sau vẫn tích cực, hăng hái chiến đấu…Trong chiến tranh kháng Nhật ở Tấn Đông Bắc đã có khả năng độc lập tổ chức quần chúng, thành lập Đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang. Ở Việt Nam đã lãnh đạo đúng đắn cuộc chiến tranh chống Pháp ở các chiến khu 5, 6 và 4, củng cố các căn cứ địa của các chiến khu, khiến cho nó có thể đứng vững suốt hơn 7 năm đấu tranh, cuối cùng dành thắng lợi… Đối với sự phân công công tác của Đảng, quyết định của Đảng, nhiệm vụ mà Đảng trao cho đều phục tùng và chấp hành, chưa bao giờ có hành động, biểu hiện chống quyết định của Đảng, không phục tùng tổ chức…”

Bản nhận xét chính thức này của đảng Cộng sản Tầu, hai năm rõ mười, đã cho biết nhân vật Nguyễn Sơn thực sự là ai!

  1. Vì hút thuốc lá quá độ, đầu năm 1956 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn phát hiện bị ung thư phổi. Được chữa trị tận tình nhưng không kết quả, biết không còn sống được bao lâu, Nguyễn Sơn nuốt hận xin được trở về Việt Nam cùng với gia đình và được ông Hồ cho phép.

Không ai biết chính xác Nguyễn Sơn nghĩ gì, tại sao lại muốn trở về để chết ở Việt Nam ?! Lý do chính, chỉ có thể phỏng đoán, có lẽ là vì quá thương và lo cho người vợ Việt Nam và 4 đứa con thơ sẽ phải bơ vơ, lạc lõng trên đất Tầu sau khi người chồng, người cha của họ không còn hiện diện ở nơi dương thế.

Lê Hằng Huân (1926-1991) là tên người vợ trẻ, gia đình thư lễ, con của cụ Sở Cuồng Lê Dư, một nhà biên khảo từng làm việc tại Trường Viễn Đông Bác cổ và cũng là một cây bút chủ lực của tờ Nam Phong Tạp chí. Cụ Lê Dư có 4 người con gái nhan sắc nổi tiếng là “4 nàng tiên đất Quảng Nam”: Lê Hằng Trang mất sớm; Lê Hằng Phương tức thi sĩ Hằng Phương vợ của nhà phê bình văn học nổi tiếng Vũ Ngọc Phan; Lê Hằng Phấn vợ của học giả Hoàng Văn Chí, tác giả của quyển sách Tiếng Anh, được dịch sang 15 thứ tiếng, kể cả tiếng Việt, trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam: “From Colonialism to Communism” (Từ Thực dân đến Cộng sản); Cô út Lê Hằng Huân, lọt vào mắt xanh của ông tướng Tư lệnh Chiến khu 4, “trai anh hùng, gái thuyền quyên” kết hôn năm 1948 lúc tân nương mới 22 tuổi, kém tân lang 18 tuổi và kém người vợ bên Trung Hoa của tân lang, đang mỏi mắt trông chồng, đúng một giáp.

Mao và Đảng Cộng sản Tầu đối xử với Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn có tình nghĩa và khá sòng phẳng. Mao, Chu Ân Lai, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài, Tổng Tham Mưu trưởng Hoàng Khắc Thành, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đã cùng gặp mặt đồng chí Tiểu Hồng của họ trong phòng họp của lễ đường Quốc hội để cầm tay nói lời tiễn biệt. Hồng Thuỷ còn bị ép nhận 30,000 nhân dân tệ bằng tiền mặt – là tiền hưu bổng, tiền thuốc thang, tiền phụ cấp gia đình… để đền đáp lại mấy chục năm Hồng Thuỷ xả thân phục vụ cuộc Cách mạng Cộng sản ở Tầu để sau cùng thành lập được nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (??) (30 ngàn nhân dân tệ là một số tiền rất lớn vào lúc bấy giờ có thể mua được 28 căn nhà ở Hà Nội, gấp một ngàn lần lương tháng của một Bộ trưởng Việt Nam, nghĩa là đủ cho một gia đình sống thong dong suốt đời). Lúc rời Bắc Kinh về Việt Nam ngày 27/09/1956 bằng xe lửa, trong toa đặc biệt dành cho cấp lãnh đạo, có bác sĩ và tuỳ tùng hộ tống, Hồng Thuỷ được Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, Hoàng Khắc Thành và hơn 200 nhân vật công huân khai quốc tới tiễn biệt trước thềm ga xe lửa Tiền Môn.

Nguyễn Sơn và gia đình về Hà Nội cũng được đón tiếp trọng thể, bà con, thân thích vây quanh, được bố trí ở nhà lầu kiểu Pháp gần phủ Chủ tịch. Hôm sau được ông Hồ tiếp kiến, báo chí nhà nước tường thuật “hai thầy trò ôm nhau khóc”. Hai mươi ngày sau thì Nguyễn Sơn chết, tuổi 48, được hưởng nghi thức quốc tang long trọng – có mặt tất cả những nhân vật lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Ngoại giao đoàn – tất nhiên gồm cả Đại sứ Trung Cộng.

Thi sĩ Hữu Loan, người Thanh Hoá, tác giả của “Mầu tím hoa sim”, tuy vậy, viết một bài thơ khóc Nguyễn Sơn có giọng bi phẫn:

Nguyễn Sơn ra đi

không

ai

ngờ…

Những thằng đại xu nịnh ngày xưa

trở mặt

nhưng lịch sử và thời gian

không

bao

giờ

phản trắc

Còn vang dội mãi rừng núi Nưa

tiếng Nguyễn Sơn

một

lần

truyền

hịch

Chỉ ít lâu sau quốc tang Nguyễn Sơn, Lê Hằng Huân mang nộp cho Chính Phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà toàn bộ số tiền 30,000.00 nhân dân tệ, nói là theo ý nguyện của chồng trước khi mất và rời khỏi căn biệt thự kiểu Pháp được nhà nước cho ở. Không có thêm tin tức về số tiền 30,000.00. Nhà nước Việt Nam có thông báo hay không thông báo cho phía Trung Quốc? Giữ lại hay trả lại số tiền cho Trung Quốc? Nếu giữ lại, thì ghi vào mục nào và chi tiêu vào việc gì?

Người quả phụ, tay trắng, từ đó vất vả tự lực nuôi con, sống cơ cực, thiếu thốn và rất âm thầm cho đến khi mất vì ung thư năm 1991. Bên Tầu, hai đứa con khác của Nguyễn Sơn (với người vợ lặng lẽ chia tay nhưng không bao giờ chính thức ly dị Trần Kiếm Qua) may mắn hơn vì được chính quyền Trung Cộng cho hưởng trợ cấp của con liệt sĩ cho đến năm 18 tuổi.

“Tôi đi mãi cuối cùng cũng tìm được một gò đất nhỏ rộng chừng mươi mét vuông nổi lên giữa khu ruộng trũng đầy cỏ lác và hoa súng. Lối vào là một doi đất nhỏ chỉ vừa một người bước chân. Mộ tướng Nguyễn Sơn nằm ở bên trái… Cỏ dại và hoa trinh nữ che gần hết mộ…” Đó là lời một người cháu gọi Lê Hằng Huân là dì ruột kể lại lần đi thăm mộ Nguyễn Sơn vào khoảng cuối 1969 tức vào khoảng 13 năm sau lễ quốc tang. Hiển nhiên “quốc tang” và “quốc táng” là việc rất khác nhau.

…ĐẾN BẢN CHẤT

Nhân vật lịch sử Nguyễn Sơn chìm vào quên lãng rất nhanh, ít nhất là ở mặt công khai. Kể từ khi ông mất tháng 10/1956 đến hội nghị Thành Đô tháng 9/1990 là 34 năm, trong 34 năm ấy, rất hiếm có ai công khai nhắc đến Nguyễn Sơn ngoại trừ trong những buổi lễ lạc cần đề cao tình hữu nghị Việt-Trung.

Lý do chính là Nguyễn Sơn là nhân vật “có vấn đề”, nhất là “có vấn đề” với Hồ Chủ tịch – “Bác Hồ ghét Nguyễn Sơn cho nên mới trả đương sự về Trung Quốc”. Từ đó bàn tán, loan truyền những lỗi lầm khác của Nguyễn Sơn: có tài nhưng có tật. Chuyện tình ái, vợ nọ, vợ kia; Chi tiêu tiền bạc bừa bãi; Kiêu ngạo, chuyên quyền, vô kỷ luật, “gây mất đoàn kết” với… các cấp lãnh đạo khác v.v…

Mặt khác, Nguyễn Sơn lại là người của Đảng Cộng sản Tầu, thân tín của Mao Chủ tịch, chỉ trích Nguyễn Sơn công khai là có lỗi với đảng đàn anh, có tội với Bác Mao mà Bác Mao còn cao hơn Bác Hồ. Ngược lại, khen hay bầy tỏ cảm tình với Nguyễn Sơn hoặc gia đình của Nguyễn Sơn cách này hay cách khác là có thể bị xem là xúc phạm đến hoặc kém trung thành với Bác Hồ – “quan thì xa, bản nha lại gần”! Các cán bộ trong Đảng Cộng sản Việt, các sử gia của chế độ trong mấy chục năm đều tránh né việc thảo luận, đề cập đến Nguyễn Sơn vì trông thấy nguy hiểm như đi trong bãi mìn không biết mìn nổ lúc nào. Sự im lặng bấy lâu của Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Đoàn Khuê, Hoàng Minh Thảo, Trần Văn Quang… hay sự im lặng của Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Đào Duy Anh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… như vậy là hoàn toàn hiểu được.

Cũng là hoàn toàn hiểu được cái sự đảo ngược 180 độ sau Hội nghị Thành Đô tháng 9/1990: hai Đảng Cộng sản Tầu, Việt đều đồng ý không nên bỏ quên nhân vật lịch sử Nguyễn Sơn lâu hơn nữa, dẫn đến việc Lưỡng quốc Tướng quân được …“tái xuất hiện” với rất nhiều sách, báo, phóng sự, phim ảnh, toạ đàm, hội thảo, tưởng niệm, triển lãm, thăm viếng, giao lưu Trung-Việt… như đã thấy. Tuy nhiên những nhận xét này chỉ hữu ích khi giúp nhìn sâu hơn nữa về mối quan hệ giữa 2 nhân vật Hồ Chí Minh và Nguyễn Sơn:

  1. Ngay từ đầu, về phương diện nội bộ, ông Hồ Chí Minh đã là một lãnh tụ có uy tín của Đảng Cộng sản Việt mặc dù chưa được tôn sùng như bậc thánh nhân toàn thiện, toàn mỹ như lúc về sau. Ông có các lý do để được đàn em nể phục. Tuổi tác của ông có nghĩa ông giầu kinh nghiệm, lịch duyệt, đi trước họ 15 hay 20 năm trong chuyện đấu tranh, lại sắc bén, quyết đoán, hiểu biết tâm lý, ngoại giao giỏi, biết dùng người… Trong khi đa số bọn họ luẩn quẩn ở Việt Nam hay vùng biên thuỳ Việt Trung thì ông đã đi khắp nơi, năm châu, bốn biển. Họ không biết ngoại ngữ hay chỉ biết một, hai ngoại ngữ nhưng nói năng còn vấp váp thì họ thấy ông lưu loát: Pháp, Nga, Tầu, Thái… Ông có tiếng tăm từ trước nhưng lại có vẻ kỳ bí…

Tất cả những điểm này đều quan trọng nhưng điểm quan trọng nhất vào thời kỳ ấy là liên hệ của Hồ Chí Minh với Đệ Tam Quốc tế tức là Quốc tế Cộng sản. Ông Hồ xuất hiện như một đại diện có thẩm quyền của Quốc tế Cộng sản hoặc ít nhất ông tự trình bầy như vậy, ông tuyển mộ, huấn luyện, giao công tác nhân danh Quốc tế Cộng sản, nhân danh Stalin. Sau khi Đệ Tam Quốc tế bị giải tán ông làm việc chặt chẽ với Trung ương Đảng Cộng sản Tầu, nhân danh Mao Trạch Đông, luôn cho thấy có những liên hệ đặc biệt mà không đàn em nào của ông có được. Khi ông Hồ bí mật trở về nước năm 1941 để trực tiếp lãnh đạo, Trung ương đảng Cộng sản Việt đã đề nghị ông làm Tổng Bí thư thay Trường Chinh cho “danh chính ngôn thuận”, ông từ chối và khuyến cáo nên giữ Trường Chinh tiếp tục làm Tổng Bí thư. Ít lâu sau ông được tôn làm Chủ tịch Đảng, vị Chủ tịch đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt, khác biệt hẳn các lãnh tụ tiền nhiệm Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong chỉ có danh hiệu Tổng Bí thư.

  1. Gần như là chuyện nguyên tắc của tuyên giáo: Những người Cộng sản Việt được coi là xuất sắc nhất đều đương nhiên là học trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Võ Nguyên Giáp chẳng hạn. “Hậu” Thành Đô là trường hợp Nguyễn Sơn, không những quan hệ thầy trò mà còn là tình nghĩa thầy trò sâu đậm. Bác Hồ đối với Nguyễn Sơn có công ơn “dưỡng dục” – dẫn dắt, nuôi ăn ở, dạy dỗ, uốn nắn. Nguyễn Sơn đối với Bác Hồ thì “khẩu phục, tâm phục” chẳng hạn như khi đọc cái danh thiếp “Sơn đệ” đã phải kêu lên “ông cụ khiếp thật!”.

Tuy nhiên, sự thực không đúng như vậy. Nguyễn Sơn là người “không giống ai”, hoặc ít nhất không giống những người Cộng sản dưới trướng của ông Hồ. Nguyễn Sơn nhìn ông Hồ từ một vị trí khác, không có mặc cảm tự ti, không bị ảnh hưởng của huyền thoại hay các loại thông tin nặng tính chất tuyên truyền. Với Nguyễn Sơn, một đảng viên cốt cán của Đảng Cộng sản Tầu, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh không hơn, không kém:

– Năm 1918: ông Hồ là đảng viên Đảng Xã hội Pháp.

– Năm 1921: ông Hồ bỏ Đảng Xã hội, gia nhập Đảng Cộng sản Pháp mới thành lập từ một bộ phận nhỏ của Đảng Xã hội tách ra, nên được coi là một trong những “sáng lập viên” của Đảng Cộng sản Pháp, một đảng Cộng sản trong một nước tư bản tranh đấu theo đường lối hợp pháp, bất bạo động. Thực tế, ông Hồ là một đảng viên thường, tự phải lo cuộc mưu sinh cá nhân khá vất vả, sinh hoạt chính trị thu hẹp với một vài đảng viên cũng có gốc gác dân thuộc địa như ông – viết báo, viết kiến nghị đòi hỏi chấm dứt chính sách thực dân đế quốc đàn áp, bóc lột các dân tộc bị trị. Hoạt động kêu gọi, đòi hỏi suông của ông không có kết quả mà cũng không tạo được ảnh hưởng gì trong cộng đồng mấy ngàn người Việt sống rời rạc trên đất Pháp. Ông phải đi tìm một lối đi khác.

-1923-1924: ông Hồ bỏ Paris qua sống ở Moscow, làm cán bộ toàn thời gian cho Quốc tế Cộng sản hay còn gọi là Đệ Tam Quốc tế, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản Liên Xô do Lê-nin mới thành lập năm 1919 với sứ mạng xuất cảng cách mạng theo đúng như lý thuyết: Cộng sản là một chủ nghĩa cách mạng có tính cách quốc tế (a revolutionary internationalism). Đệ Tam Quốc tế cũng là công cụ sách lược của Lê-nin lấy “công” làm “thủ” – bảo vệ Liên Xô chống các cường quốc tư bản thù nghịch bằng cách gây ra những rối loạn trong nội bộ của những nước này. Các đảng Cộng sản được Liên Xô công nhận sẽ được ban cấp tư cách thành viên của Đệ Tam Quốc tế, được trợ cấp tài chánh, được hướng dẫn, giúp đỡ để hoạt động.

Trong thời gian khoảng một năm rưỡi ở Moscow, ông Hồ được huấn luyện tại trường Đại học Lao động Đông Phương về Chủ nghĩa Cộng sản, sách lược “Bôn Sơ Vích”, phương pháp tranh đấu lật đổ chính quyền, kỹ thuật tổ chức, kỹ thuật vận động quần chúng v.v. cùng lúc với khoảng một ngàn học viên người châu Á trong đó phần lớn là nông dân, công nhân và một số nhỏ trí thức. Ông Hồ là người Việt đầu tiên hay là một trong những người Việt đầu tiên được tuyển mộ và huấn luyện làm cán bộ của Đệ Tam Quốc tế theo lối này.

– Cuối 1924, sau khi tốt nghiệp, ông Hồ, lấy tên là Lý Thuỵ, được phái đến Quảng Châu thủ phủ của tỉnh Quảng Đông với danh nghĩa hợp pháp là một trong những thông dịch viên cho Mikhail Borodin, cố vấn của Liên Xô cạnh chính quyền Trung Hoa Quốc Dân đảng đang trong thời kỳ “liên Nga, dung Cộng”. Bên trong ông thực sự là cán bộ của Đệ Tam Quốc tế, lãnh công tác khởi động phong trào cách mạng Cộng sản ở Đông Dương thuộc Pháp, đặc biệt là Việt Nam vì ông là người Việt, biết ngôn ngữ và văn hoá Việt.

Để làm công việc này ông Hồ được Quốc tế Cộng sản cung cấp tiền bạc và phương tiện nhưng rất giới hạn vì Liên Xô vừa thoát khỏi chiến tranh, lại bị “đế quốc” phong toả, bản thân còn rất nghèo. Mặt khác, ở Á Châu, nước Tầu mênh mông với hơn 500 triệu dân là ưu tiên cao nhất trong sách lược của Lenin, Stalin chứ không phải nước Việt Nam bé nhỏ, mười mấy triệu dân, thuộc địa của Pháp. Tầu là “tuồng” chính, Việt là “tuồng” phụ, rất phụ. So sánh trường quân chính bề thế Hoàng Phố mà Liên Xô giúp xây dựng và phát triển mọi mặt với căn nhà thuê cũ kỹ dùng để làm lớp huấn luyện chính trị trong cùng thành phố Quảng Châu của ông Hồ sẽ thấy rõ sự khác biệt. Bù lại, ông Hồ nhận được sự giúp đỡ ít nhiều của Đảng Cộng sản Tầu thời gian ấy trong tinh thần “vô sản quốc tế liên hiệp lại!”.

Công tác chính của ông Hồ là tuyển mộ và huấn luyện thanh niên Việt rồi gửi về Việt Nam hoạt động. Một số nhỏ ở lại Tầu, một vài người qua Thái Lan hoạt động trong cộng đồng Việt Kiều ở Miền Đông Bắc.

Các khoá huấn luyện chính trị do ông Hồ tổ chức thường chỉ kéo dài vài tháng, với vài chục học viên. Nội dung huấn luyện gồm các bài học tương tự như ông đã học ở Liên Xô 1,2 năm trước được giản lược và thay đổi ít nhiều cho hợp với tính cách của người Việt.

Nói chung các lớp huấn luyện đều ở trình độ nhập môn, tương đối thấp. Trong tổng số hơn 200 học viên xuất thân ở đây đa số trở thành các đảng viên cấp cơ sở. Một số rất nhỏ trở thành cán bộ lãnh đạo thì hoặc đã có học thức khá từ trước hoặc phải tiếp tục học nhiều hơn ở các nơi khác. Chẳng hạn như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Hà Huy Tập đều được tiếp tục huấn luyện “cao cấp” ở trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu hay Đại học Lao động Đông Phương ở Moscow.

Trường hợp Nguyễn Sơn cũng tương tự. Cuối 1925, Nguyễn Sơn, 17 tuổi, được ông Hồ gửi người về nước tuyển mộ, bỏ vợ dại con thơ, trốn qua Tầu học làm Cách Mạng. Cuộc phiêu lưu của Nguyễn Sơn thấp thoáng giống như trong lời thơ “Tống Biệt Hành” của thi sĩ Thâm Tâm:

Một giã gia đình, một dửng dưng

Ly khách, ly khách con đường nhỏ

Chí lớn không về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Nhưng Nguyễn Sơn không chỉ đi có 3 năm mà đi gần 7 lần lâu hơn thế.

Nguyễn Sơn trải qua khoá huấn luyện chính trị sơ cấp, rồi giống như các học viên khác, gia nhập Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội do ông Hồ sáng lập, trở thành một trong những người Cộng sản Việt thời kỳ đầu. Tuy vậy, Nguyễn Sơn không thực sự hoạt động gì cho Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội vì cuộc đời ngay sau đó đi vào một ngã rẽ khác hẳn khi được hai cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Tầu là Thái Xương và Lý Phú Xuân giới thiệu vào học ở trường Hoàng Phố.

Tình nghĩa thầy trò giữa ông Hồ và Nguyễn Sơn, nếu có, thì cũng chỉ có thế, nghĩa là không có gì đặc biệt hay khác hơn tình nghĩa thầy trò giữa ông Hồ và những học viên khác đã được móc nối tham dự khoá huấn luyện chính trị mà ông tổ chức ở Quảng Châu theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc tế và sự tài trợ nuôi ăn học các học viên này trong mấy tháng cũng bằng ngân quỹ của Đệ Tam Quốc tế. Khẳng định Nguyễn Sơn đã được ông Hồ “cải hoá” một cách đặc biệt ở bên Pháp lúc mới 15 tuổi xem ra không có cơ sở vì không có bằng chứng hay dấu vết Nguyễn Sơn từng đặt chân trên đất Pháp.

– Tháng 6/1927 ông Hồ bắt buộc phải rời Trung Hoa trở lại Moscow theo chân Borodin. Bối cảnh là sau khi Tôn Dật Tiên mất năm 1925, Tưởng Giới Thạch chấm dứt chính sách “liên Nga, dung Cộng”, dùng nhân lực đào tạo từ trường Hoàng Phố, tiến hành cuộc hành quân Bắc Phạt, dẹp nạn sứ quân, mở rộng thế lực chính quyền Quốc Dân Đảng, cùng lúc thanh lọc hàng ngũ, trục xuất các cố vấn Liên Xô, đàn áp các cuộc nổi dậy của Đảng Cộng sản Tầu ở Thượng Hải, Quảng Châu, Vũ Hán.

– Ông Hồ đến Hongkong theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản tháng 2/1930, họp với các đại biểu của 3 đảng Cộng sản nhỏ đang hoạt động riêng rẽ ở Việt Nam và giúp hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội Đảng kỳ 1 tháng 10/1930 đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trần Phú được bầu là Tổng Bí thư đầu tiên. Đến lúc này Đảng mới được chính thức gia nhập Quốc tế Cộng sản như là một thành viên và được trợ cấp mỗi tháng ước chừng khoảng 5000 quan Pháp, tương đương 1250 Mỹ kim theo thời giá của năm 1930 như ghi nhận của một số tài liệu đã được công bố.

– Tháng 6/1931 ông Hồ bị chính quyền Anh bắt giam tại Hongkong nhưng được phóng thích vào đầu năm 1932 và trở lại Hoa Lục hoạt động nhưng không có kết quả gì đáng nói.

– Khoảng thời gian 1933-1938 là thời kỳ ông Hồ trở về Moscow dưỡng bệnh, rồi bị cưỡng bách học tập trong không khí sợ hãi ngột ngạt vì chính sách “đại khủng bố để thanh lọc” của Stalin áp đặt trên toàn thể xã hội Liên Xô lúc đó. Ông Hồ cũng không được phép tự ý liên lạc với những người Cộng sản Việt Nam khác.

– Cuối năm 1938 ông Hồ trở lại Trung Hoa theo sắp xếp của Quốc tế Cộng sản để liên lạc lại với Trung ương Đảng Cộng sản Việt sau mấy năm gián đoạn. Khác với các lần đến Hoa Lục trước đây, lần này ông Hồ “hội nhập” nhiều hơn với Đảng Cộng sản Tầu. Ông đến Diên An nhưng không có tài liệu nào nói ông được Mao tiếp kiến – Mao quá bận hay Mao không chú ý mấy đến cá nhân Hồ Chí Minh? Ông Hồ gia nhập Bát Lộ Quân, trở thành thiếu tá Hồ Quang đi công tác ở Quế Lâm (Quảng Tây), rồi lại làm việc ở Hành Dương (Hồ Nam), được chọn làm bí thư một đơn vị huấn luyện du kích. Điều này chứng tỏ ông Hồ cũng là đảng viên Đảng Cộng sản Tầu và có lẽ gia nhập Đảng vào một thời điểm trong năm 1939. Nếu quả đúng như vậy “tuổi đảng” của Hồ Chí Minh (Hồ Quang) ít hơn tuổi Đảng của Nguyễn Sơn (Hồng Thuỷ) khoảng 12 năm và “tuổi quân” của ông trong Bát Lộ Quân, cũng cách biệt tương tự với Nguyễn Sơn.

Tháng 2/1940, tức là phải hơn một năm sau khi trở lại Trung Hoa, tại Côn Minh (Vân Nam), nhờ sự giúp đỡ của cơ sở Cộng sản Tầu địa phương, ông Hồ gặp được cán bộ của Đảng Cộng sản Việt đang muốn mời ông về nước để trực tiếp lãnh đạo đảng sau khi Tổng Bí thư Lê Hồng Phong bị Pháp bắt. Từ đây trở về sau ông Hồ dùng tên Hồ Chí Minh, cùng một ý nghĩa như tên Hồ Quang.

Vì Pháp vừa bại trận trong tay Hitler ở Âu Châu nên thời cơ đã đến sớm hơn dự kiến. Đầu 1941 ông Hồ về nước cùng với Trung ương Đảng Cộng sản Việt, lập căn cứ sát biên giới Việt – Trung, xuất bản báo tuyên truyền cổ động, tổ chức quần chúng, chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang du kích, mở đường phát triển về phía Nam.

Tháng 8/1942 ông Hồ lén sang Trung Hoa để đi gặp Trung ương Cộng sản Tầu ở Hoa Bắc báo cáo tình hình, yêu cầu yểm trợ, đặc biệt vũ khí cho các đội quân du kích. Tuy nhiên mới đến Quảng Tây thì ông đã bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ở địa phương bắt giam vì nghi là gián điệp. Tháng 9/1943, sau khi điều tra biết rõ Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc – lãnh tụ của Cộng sản Việt, tư lệnh Chiến khu 4 Trương Phát Khuê ra lệnh phóng thích ông Hồ. Tháng 8/1944 ông Hồ về nước và được Trương Phát Khuê cấp cho một số súng và đạn dược để chống kẻ thù chung là Nhật (và cả Pháp).

Tháng 3/1945 Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương. Lực lượng quân sự của Pháp tan rã, một số khá lớn binh sĩ Việt trong quân đội Pháp đào ngũ và gia nhập Việt Minh với đầy đủ súng đạn. Đột nhiên lực lượng vũ trang của Việt Minh tăng gấp 5 lần, từ 1000 lên 5000 tay súng rồi nhờ thế chiếm được 6 tỉnh ở thượng du Bắc Việt…dẫn đến cơ hội Việt Minh chiếm chính quyền ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh như đã nói ở phần trước.

  1. Nguyễn Sơn, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh có mối quan hệ tay ba phức tạp.

Những tài liệu lịch sử được giải mật cho thấy khá rõ Nguyễn Sơn phục Mao Trạch Đông nhưng không phục Hồ Chí Minh. Nguyễn Sơn xem Mao là thầy, là lãnh tụ, là thượng cấp và trung thành với Mao. Nguyễn Sơn không xem Hồ Chí Minh là thầy, là lãnh tụ, là thượng cấp và không thấy có lý do phải trung thành với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên những điều này không có nghĩa Nguyễn Sơn âm mưu lật đổ Hồ Chí Minh để thế chỗ. Ngang tàng, bất phục thì có nhưng bằng cớ hay dấu hiệu của một tính toán soán đoạt thì không. Nguyễn Sơn được xem là loại người nóng tính nhưng không thâm hiểm. Ngoài ra nếu Mao không bật đèn xanh thì Nguyễn Sơn, nhiều phần, sẽ không làm gì, không dám làm gì để vi phạm kỷ luật rất khắt khe của Đảng Cộng sản Tầu về mặt chính sách.

Một câu hỏi thuận lý kế tiếp ngay: Nhưng nếu Mao thấy cần phải thay thế đảng viên “Hồ Quang” bằng đảng viên “Hồng Thuỷ” là người được Mao tín cẩn hơn thì sao? Câu trả lời, cũng thuận lý, sẽ là: Nguyễn Sơn chắc sẽ “rất vui lòng” chấp hành mệnh lệnh của Mao bởi vì ngoài nghĩa vụ phải chấp hành, có ai từ chối làm “An Nam Quốc Vương” hay chỉ “An Nam Đô Thống sứ”, trong trường hợp đặc biệt này?

Đối tượng của chính trị là quyền lực. Là một chính trị gia lão luyện, Hồ Chí Minh phải nhìn thấy Nguyễn Sơn là một vấn đề nan giải, một mối nguy lớn dần đang đe doạ quyền lực của mình. Tuy nhiên Hồ Chí Minh không thể chống lại Mao Trạch Đông. Cái bóng của Mao gần quá, lớn quá. Không kể vai vế trong phong trào Cộng sản Quốc tế tại Á Châu, cũng như quan hệ cấp trên, cấp dưới trong Đảng Cộng sản Tầu, Hồ Chí Minh lại cần Mao hơn bao giờ hết.

Bất kể quân đội Việt Minh anh dũng chấp nhận hy sinh xương máu đến thế nào, nếu không có sự viện trợ lớn lao và toàn diện của Trung Cộng kể cả huấn luyện, trang bị súng ống, tiếp tế đạn dược, quân trang, lương thực, thuốc men cho các sư đoàn chính qui thì sẽ không có Đông Khê, Thất Khê, không có Vĩnh Phúc Yên, không có Điện Biên Phủ…

Ngay cả Việt Minh vẫn còn cầm cự được với quân viễn chinh Pháp lâu hơn dự liệu nhưng ông Hồ có muốn làm lãnh tụ du kích thêm 10 năm, 15 năm hay chết già ở trong rừng không? Có gì ngăn cản Trung ương Đảng Cộng sản Việt chọn viện trợ của Mao để sớm thắng Pháp thay vì tiếp tục trung thành với Hồ Chí Minh để bị gian khổ hơn và không biết còn kéo dài đến bao giờ ?

Muốn giữ địa vị một cách chắc chắn, ông Hồ Chí Minh, như thế, chỉ còn một chọn lựa là phải cạnh tranh với Nguyễn Sơn để thoả mãn Mao, thoả mãn tất cả những đòi hỏi của Mao – những đòi hỏi đã nói ra và cả những đòi hỏi không tiện nói ra nhưng kẻ ở thế yếu hơn phải tự biết. Mao có sẵn tai mắt ở Việt Nam để ghi nhận mọi chuyển biến và diễn biến.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ trung thành với Mao với mức độ ngang bằng hay hơn cả Nguyễn Sơn.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ là một “người Cộng sản chân chính” bác bỏ chủ nghĩa dân tộc “hẹp hòi” để tiến tới một thế giới đại đồng không còn biên cương với nước Trung Hoa vĩ đại.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ sự ngưỡng mộ, thấm nhuần văn hoá Trung Hoa.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ có khả năng tận dụng sự chi viện của Mao, hợp tác chặt chẽ với các cố vấn Tầu để chống Pháp, chống Mỹ.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ chế độ Cộng sản ở VN là tuyệt đối thân Tầu, tuyệt đối làm một phiên bản nhỏ của chế độ Cộng sản ở Trung Hoa.

Hồ Chí Minh đã làm tất cả những điều này từ năm 1950 trở đi, từ “Cải cách ruộng đất”, “Trăm hoa đua nở” đến xuất bản “Ngục trung nhật ký”, xướng hoạ thơ với các cố vấn Tầu, thân thiết với La Quy Ba, Vi Quốc Thanh, Trần Canh… đến chiến lược, chiến thuật, phương cách tổ chức Đảng, tổ chức quân đội, chính sách công an, hộ khẩu, kinh tế, xã hội, văn hoá… nhất nhất rập khuôn…đến những buổi họp trang trọng treo hình Mao (còn sống) ngang hàng các đại lãnh tụ Cộng Sản Marx, Lenin, Stalin (đã chết), luôn luôn tung hô “Chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Mao Trạch Đông”… đến những vần thơ minh hoạ chính sách mang đặc trưng của thời đại Hồ Chí Minh tại Miền Bắc Việt Nam:

Giết, giết nữa! Bàn tay không lúc nghỉ.

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt!

( Tố Hữu )

Bên kia biên giới là nhà

Bên ni biên giới cũng là quê hương.

( Tố Hữu )

Bác Mao không phải đâu xa

Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao!

( Chế Lan Viên )

Dù có chút tình riêng thiên vị Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn, lịch sử cho thấy Mao Trạch Đông luôn hành động theo lý trí của một chiến lược gia có tham vọng “bình thiên hạ” như Tần Thuỷ Hoàng gồm thâu lục quốc, đã không còn có lý do, đã không cảm thấy sự cần thiết phải “thay ngựa giữa dòng” mặc dù hoàn toàn có thừa quyền lực để làm như vậy.

Hậu quả là nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh là Hồ Chủ tịch trọn đời nhưng nước Việt Nam lại lún rất sâu vào vòng lệ thuộc ngoại bang và có nguy cơ không còn tồn tại.

Đến đây xin mượn câu nói của Winston Churchill năm 1948 để kết thúc bài tiểu luận đã khá dài : “Those who fail to learn from history are condemned to repeat it”!

Cao Tuấn

(Tháng 2/2020)

Visits: 696

Tiền Ảo

Phạm Q. Dũng (CH 10)

Ở phía trên, xin bấm vào ký hiệu 4 mũi tên (được khoanh đỏ như trong hình trên) để xem toàn màn hình (full screen). Bấm nút “Esc” để trở về trang web. (áp dụng cho laptop hay PC)

Visits: 133

Quốc Gia Hành Chánh họp mặt tại Virginia

Đào Hiếu Thảo

(Hàng trước, từ trái): Ô Tạ Cự Nguyên, Bà Tạ Cự Nguyên, Bà Nguyễn Thế Viên, Bà Đoàn Hữu Định, GS Cao Thị Lễ, Bà Trần Hồng, Bà Nguyễn Quang Dũng, Ô Trần Hồng, Ô Vũ Bá Hoan, Ô Lê Văn Quan

(Hàng sau, từ trái): Ô Trương Đình Thăng, Ô Trần Nhựt Thăng, Ô Đoàn Hữu Định, Ô Đào Hiếu Thảo, Nhà Văn Phạm Thành Châu, Ô Nguyễn Kim Hương Hỏa,  Ô Nguyễn Thế Viên

 

Nhân dịp đồng môn Đốc Sự khóa 17 Nguyễn Thế Viên – cựu Trưởng Cơ Sở Dân Vận & Chiêu Hồi tỉnh Ninh Thuận và phu nhân từ Seattle đến thăm bằng hữu trong vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Các cựu sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hòa tổ chức cuộc hội ngộ vào sáng thứ bảy 24 tháng 7 năm 2021 tại Annandale, Virginia.

Ngoài ông bà Nguyễn Thế Viên có Giáo Sư Cao Thị Lễ, ông Trần Nhựt Thăng, ông Trương Đình Thăng, ông bà Trần Hồng, ông Lê Văn Quan, ông Nguyễn Kim Hương Hỏa, ông Phạm Thành Châu, ông bà Tạ Cự Nguyên, ông Vũ Bá Hoan và ông bà Nguyễn Quang Dũng.

Ông Trần Nhựt Thăng (ĐS khóa 10) là nguyên Tổng Thư Ký và ông Trương Đình Thăng (ĐS khóa 10), nguyên Phó Tổng Thư Ký, Bộ Dân Vận & Chiêu Hồi VNCH.

Các đồng môn, đồng nhiệm đã có dịp chúc mừng sinh nhật Nhà Văn Phạm Thành Châu (ĐS khóa 14). Ông Đào Hiếu Thảo trao tặng đến ông bà Nguyễn Thế Viên món quà lưu niệm huy hiệu Quốc Kỳ VNCH và ‘key chain’ có hình White House.

Ô Đào Hiếu Thảo tặng Ô Nguyễn Thế Viên huy hiệu Quốc Kỳ VNCH 

Khách mời, không xuất thân từ Quốc Gia Hành Chánh, là ông Đoàn Hữu Định (Văn Phòng Tổng Trưởng Dân Vận & Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã) cùng phu nhân và ông Đào Hiếu Thảo (Xướng ngôn viên Hệ Thống Phát Thanh & Truyền Hình Quốc Gia).

Được biết, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là một cơ sở giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, tiền thân là Trường Quốc Gia Hành Chánh ở Dalat thành lập từ năm 1952, chuyển về Saigon năm 1955. Học Viện đặt trọng tâm vào công việc đào tạo nhân viên cao cấp cho chính phủ từ chức vụ Phó Quận Trưởng Hành Chánh, Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh, Trưởng Ty, Giám Đốc, Tổng Giám Đốc đến hàng Tổng, Bộ Trưởng và Thủ Tướng.

Vì thấy dịch cúm Vũ Hán có phần thuyên giảm và đa phần người cao niên đã chính ngừa, trong buổi họp mặt này Ban Chấp Hành Hội Cựu Sinh Viên Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ cũng ra thông báo và phổ biến Thư Mời “Picnic Mùa Thu 2021” sẽ được tổ chức vào ngày 04 tháng 9 năm 2021 tại Mason District Park, Annandale, VA từ 11 giờ sáng đến 3 giờ trưa.

Đặc biệt trong buổi picnic lần này sẽ có thêm các sinh hoạt: chúc mừng sinh nhật các huynh đệ đồng môn “8 bó” trở lên và bầu cử lại Hội Đồng Quản Trị và Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2021-2023.

(Ảnh: Nguyễn Quang Dũng & Nguyễn Kim Hương Hỏa

Xem thêm hình ảnh trong link sau: https://photos.app.goo.gl/Q8vnhAUkhFHHCxux8 )

Đào Hiếu Thảo

Visits: 545