Liên Bang Chế Hoa Kỳ (American/US Federalism)

Lê Văn Bỉnh

                                     Người ta không thể luôn luôn ở tâm trạng chống đối quê hương mình. Phải có điều gì đó vui với chi phí mà nó đài thọ.

A man cannot always be in a battle mood about his country. There is some fun  to be had at her expense.(Franks Moore Colby.  The Colby Essays, Vol. 2)

          Tôn giáo và  chủ nghĩa quốc gia đồng hành tay nắm tay trong lịch sử Tây Phương ….Hoa Kỳ … gần đứng đầu trong cả hai lãnh vực này.

   Religious and nationalism have gone hand in hand in the history of the West…  America ranks… close to the top of both dimensions. (Samuel P. Huntington. Who Are We?)

Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi Tổng Thống Donald Trump bước vào Tòa Bạch Ốc, người Việt chúng ta, tại Hoa Kỳ cũng như ở nhiều nước khác, tỏ ra rất chú trọng đến sinh hoạt chính trị nước này.  Trên các phương tiện truyền thông cũng như qua những trao đổi thư tín, người ta không ngừng bày tỏ ý kiến cá nhân về đường lối chính sách của Hoa Kỳ đối với các nước đồng minh, hay đối thủ về nhiều mặt chính trị, kinh tế, tài chánh, ngoại giao quân sự, tài chánh vv.  Về phương diện quốc nội Hoa Kỳ, những chính sách lớn ban hành trước đây do Hành Pháp lãnh đạo bởi đảng Dân Chủ, như y tế, thuế khóa, nhập cư, hôn nhân giữa những người đồng tính, công bằng xã hội vv. cũng được đem ra mổ xẻ để so sánh.  Đây là một biểu hiện tích cực, cho thấy chúng ta, sau khi đã tương đối “an cư lạc nghiệp”, nay có khuynh hướng tham gia vào “dòng chính” chính trị, không còn xem mình là người “tạm dung, ăn nhờ ở đậu” nữa.  Người theo, kẻ chống đưa ra những lập luận –dựa theo truyền thông, hay những hiểu biết và suy nghĩ riêng tư của mình– nghe đều có lý.

***

Bài viết này –của một người vừa tìm hiểu vừa viết — nhằm mục đích khiêm tốn là cung cấp thêm một góc nhìn để chúng ta có những hiểu biết cơ bản về Liên Bang Chế Hoa Kỳ (US/American Federalism).  Sự hiểu biết thêm về thể chế chính trị này có thể giúp chúng ta thấy rõ hơn mối liên hệ –gắn bó lẫn xung đột– giữa chính quyền liên bang (federal/national government), với các tiểu bang, cũng như giữa hai cấp chính quyền này đối với các chính quyền địa phương* (xin xem thêm Ghi Chú phiá dưới bài).  Ngay từ đầu, có thể nói rằng liên bang chế Hoa Kỳ đã, đang và sẽ định hình quá khứ, hiện tại và tương lai của quốc gia này; và  sự phân chia quyền lực giữa chính quyền liên bang và các tiểu bang ảnh hưởng đến sự thịnh vượng, an ninh và sinh hoạt thường nhật của mỗi người dân Mỹ.  Nhiều chính sách đối ngoại của chính quyền liên bang, trong quá trình hình thành cũng như khi thực hiện, đã không thể nào bỏ qua các mối liên hệ này. Thậm chí có người còn lý luận rằng hầu hết các vấn đề lớn của nước Mỹ, kể cả đối ngoại, đều có thể giải quyết êm đẹp nếu các xung đột giữa liên bang và tiểu bang và địa phương được giải quyết thỏa đáng – nghĩa là “đầu xuôi, đuôi lọt.” Nói cách khác, người ta khó có thể gọi là hiểu biết rõ về các chính sách của Hoa Kỳ khi chưa biết vai trò của liên bang chế nước này.

Một Chút Lịch Sử

Chính quyền của đa số các quốc gia trên thế giới (chẳng hạn Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam Cộng Hòa trước 1975) theo đơn nhất chế (unitary system), nghĩa là quyền lực quốc gia được tập trung vào bộ phận chính trị cao nhất.  Đó là chính quyền trung ương; từ đó quyền lực được phân tản hoặc ít hoặc nhiều đến các địa phương mà khi thấy cần, chính quyền trung ương có thể tập trung trở lại, thậm chí  quyết định thay cho chính quyền các địa phương.   Hoa Kỳ thì lại theo liên bang chế, nghĩa là quyền lực không tập trung vào một bộ phận duy nhất, tức cấp quốc gia (thường được gọi là cấp liên bang hay trung ương), gồm Tổng Thống, và Lưỡng Viện Quốc Hội, mà còn nằm trong tay các tiểu bang mà Hiến Pháp năm 1879 đã ghi khá rõ.  Dưới đây là một chút lịch sử về sự hình thành của Liên Bang Chế Hoa Kỳ.

Như chúng ta nhớ lại, trong thời gian chiến tranh với Anh quốc để giành độc lập (1775 – 1783), 13 thuộc địa miền Đông Hoa Kỳ ngày nay (4 thuộc Miền Bắc là NH, MA, RI và CT; 5 Miền Trung là NY, PA, NJ, DE, MD; và 4 thuộc Miền Nam là VA, NC, SC và GA) đã cùng nhau soạn thảo bản “Tuyên Ngôn Độc Lập” (năm 1776).  Một năm sau lại cùng tụ tập lại soạn dự thảo bản Hiếp Pháp đầu tiên của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, tên gọi  là The Articles of Confederation. Bản dự thảo này lần lượt được các thuộc địa phê duyệt, và có hiệu lực từ năm 1781.  Theo Hiến Pháp 1781 này, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ là một “liên minh thân hữu” (league of friendship).  Đó là một thứ liên minh lỏng lẻo:  các tiểu bang giữ lại hầu hết chủ quyền (sovereignty) của mình, lớn nhỏ đều bình đẳng và độc lập với nhau.  Chính quyền “trung ương”, tuy có quyền hạn về hòa bình (nhờ đó mới ký hòa ước với Anh năm 1783, và có “tổng thống” John Hancock được bầu năm 1785), nhưng không được quyền thu thuế và điều hành thương mại giữa các tiểu bang.  Chính quyền trung ương này tỏ ra không hữu hiệu và đáp ứng kịp thời khi tình thế đòi hỏi, vì các quyết định quan trọng cần phải được 9 trên 13 các tiểu bang lớn nhỏ đồng thuận.

Vì những lý do đó mà các tiểu bang thấy Hiến Pháp 1781 cần phải có những sửa đổi.  Mùa Xuân năm 1787, 12 tiểu bang đã gửi 55 đại biểu đến họp tại Philadelphia (Pennsylvania) để bàn nhau tu chính Hiến Pháp The Articles of ConfederationTiểu bang Rhode Island không gửi đại biểu vì lo sợ nếu “một chính quyền quốc gia” (a national government, tức theo đơn chế) có thể hình thành như lời đồn đoán, thì sẽ không lợi cho tiểu bang nhỏ bé và ít dân của mình (chỉ 35 ngàn dân, so với 500 ngàn của Virginia, và 200-300 ngàn của nhiều tiểu bang còn lại) .  Các đại biểu họp phiên đầu tiên ngày 25/5/1787.  Sau đó, thay vì tìm cách tu chính bản Hiến Pháp cũ, các đại biểu lại bàn tán tranh luận sôi nổi về sự hình thành lưỡng viện quốc hội liên bang, và về vai trò của các tiểu bang.  Có hai khuynh hướng khác nhau rõ rệt.  Một nhóm đại biểu xem cần phải có chính quyền trung ương mạnh; cho rằng các tiểu bang sẽ là trở ngại nếu cứ muốn duy trì chủ quyền của mình. Khuynh hướng kia cho rằng các tiểu bang nhỏ lo sợ sẽ bị nuốt chững nếu khuynh hướng trước thắng thế.  Vì vậy các đại biểu nghĩ ra một giải pháp dung hòa hai khuynh hướng, nhằm quân bình quyền lực trung ương và quyền lực các tiểu bang.  Cuối cùng một bản dự thảo Hiến Pháp mới được hình thành vào ngày 6/8/1787.  Trong thời gian hơn một tháng sau đó (7/8/1787 – 10/9/1787), các đại biểu còn ở  lại vẫn tiếp tục bàn về nội dung của bản dự thảo này.

Trong khi thảo luận, cũng như khi bản Hiến Pháp thành văn, thì chữ federalism không hề xuất hiện, chỉ được nói đến sau này khi các tiểu bang đem ra phê chuẩn.  Theo Drake & Nelson (1999), federal do tiếng Latin foedus có nghĩa là một hợp đồng giữa đôi bên bình đẳng.  Theo dự thảo Hiến Pháp mới, các quyền của trung ương và địa phương đều được liệt kê ra.  Vì vậy, các chế độ liên bang trên thế giới khó có thể hoàn toàn giống nhau, vì tùy theo hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mà mối quan hệ đôi bên có thể định hình khác nhau.

Để thuyết phục các tiểu bang, đăc biệt  New York, bấy giờ thương mại trở nên phồn thịnh nhờ Hiến Pháp cũ,  đồng ý phê duyệt dự thảo bản Hiến Pháp mới, hai đại biểu tài ba và tích cực nhất trong việc soạn thảo, Alexander Hamilton, đại biểu 30 tuổi của New York và James Madison, đại biểu 35 tuổi của Virgina, đã cùng John Jay, một chuyên viên ngoại giao kinh nghiệm đang làm việc tại New York, dùng chung bút danh Publius viết ra 85 bài báo, khởi đầu bằng “To the People of the state of New York,” để giải thích các vấn đề mới mẻ trong bản dự thảo Hiến Pháp . Bài báo đầu tiên xuất hiện ngày 27/10/1787.  Về sau, những bài báo đó được tập hợp lại, hiệu đính và xuất bản thành sách với tựa đề là The Federalist Papers, rất hữu ích cho việc tìm hiểu Hiến Pháp Hoa Kỳ –giá trị tương tự những biên bản thảo luận tại Quốc Hội được ghi lại trong  Công Báo Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta –Trong bài báo số 45, Madison viết: “Các quyền hành ủy thác cho chính phủ liên bang theo dự thảo Hiến Pháp thì hiếm hoi và giới hạn. Còn quyền hành dành lại cho chính quyền tiểu bang thì nhiều và vô hạn…. Những quyền dành cho tiểu bang sẽ nới rộng tới mọi thứ đời thường liên quan đến cuộc sống, tự do, tài sản nhân dân, và trật tự, cải tiến và thịnh vượng của tiểu bang.”

Theo điều cuối cùng của bản dự thảo, thì chỉ cần 9 tiểu bang thông qua là đủ túc số. NH là tiểu bang thứ 9, thông qua ngày 21/6/1788; không lâu sau đó là VA, NY, NC.  Rhode Island là tiểu bang sau cùng, mãi đến 29/5/1790 mới chịu phê duyệt.  Bản Hiến Pháp mới với cái tên The Constitution of the United States đã có hiệu lực từ ngày thứ Tư 3/4/1789, tức là ngày họp đầu tiên của Quốc Hội mới theo Hiến Pháp này.  Bản Hiến Pháp 1789, cùng với 27 tu chính án lần lượt ra đời sau đó,  là cơ sở pháp lý cao nhất chi phối mọi sinh hoạt chính trị và đời sống của mọi công dân Hoa Kỳ.

Liên Bang Chế Qua Hiến Pháp

Người Mỹ, do sinh ra hay do nhập tịch, là công dân (citizen) của cả liên bang và tiểu bang mình đang ở, có quyền lợi và nghĩa vụ đối với cả 2 thực thể này.  Có vài tác giả còn gọi họ là công dân của các địa phương nữa, nghĩa là dưới cấp tiểu bang.  Theo nhận xét của người viết, Hiến Pháp 1789 chỉ gọi họ là “công dân của liên bang (Điều I, Khoản 2) và “công dân của tiểu bang (Điều IV, Khoản 2) mà thôi.  Như chúng ta biết, dưới chính thể cộng hoà, công dân bầu ra các chính quyền.   Trong quốc gia theo đơn nhất chế (unitary system), công dân bầu ra chính quyền trung ương, và chính quyền trung ương này san xẻ, phân tán quyền hành đến các cấp chính quyền địa phương – được bổ nhiệm hay có thể  được bầu ra.  Trong các quốc gia theo liên hiệp chế (confederation), công dân bầu ra các chính quyền tiểu bang (state governments); các tiểu bang này giữ lại hầu hết chủ quyền của mình, chỉ uỷ nhiệm cho “chính quyền trung ương” một số quyền nào đó mà thôi (thường là quốc phòng, ngoại giao vv.) Còn trong các quốc gia theo liên bang chế (federalism), công dân bầu ra chính quyền liên bang và chính quyền tiểu bang mình đang cư trú để 2 chính quyền này cùng thực thi các quyền hạn được ghi trong Hiến Pháp.  Theo Gordon Grodzins , người ta không nên so sánh  chính quyền Hoa Kỳ như một chiếc bánh nhiều tầng (a layer cake) với những tầng có chất liệu và màu sắc phân biệt rõ ràng, mà nên so sánh nó   như “chiếc bánh cẩm thạch” (a marble cake) với những tầng màu sắc quện nhau như  trong những viên bi  mà chúng ta hay chơi khi còn bé.  Ông viết:

Như những màu sắc pha trộn nhau của “chiếc bánh cẩm thạch”, những nhiệm vụ trong chế độ liên bang Hoa Kỳ cũng pha trộn nhau …. Chế độ liên bang Hoa Kỳ chưa bao giờ là những hoạt động chính quyền riêng biệt.  Không có lúc nào có thể ghi lên nhãn hiệu gọn gàng cụ thể  nhiệm vụ  “liên bang”, “tiểu bang” và “địa phương” cả [Xin xem  Chú Thích]  Trước khi được tổ chức đầy đủ, quốc gia này đã thiết lập ra nguyên tắc đầu tiên của liên bang chế Hoa Kỳ: Đó là chính quyền quốc gia sẽ dùng tài nguyên siêu việt của mình để khởi tạo và yểm trợ các chương trình quốc gia, chủ yếu được quản lý bởi các tiểu bang và địa phương. (Elaza, Carroll, Levine & Angelo, p. viii)

Những quyền của liên bang (được hiểu chủ yếu là Quốc Hội Liên Bang) được liệt kê trong các Điều Khoản của Hiến Pháp 1789.  Dưới đây là một số quyền của LB:

  • Điều I

Khoản 8  về điều hành thương mại (commerce clause) với nước ngoài và giữa các tiểu bang với nhau; ra những luật cần thiết và thích hợp (necessary and proper clause) để thực thi các trách nhiệm của chính quyền liên bang do Hiến Pháp qui định; vay mượn; in tiền; bưu điện (nhân số trên 900 ngàn so với 2,6 triệu nhân số LB); quảng bá tiến bộ khoa học và nghệ thuật; tổ chức tòa án LB dưới Tối Cao Pháp Viện LB; tổ chức quốc phòng; thu thuế vv.

Khoản 9 về di trú, nhập cư; quan thuế; tàu bè, bến cảng

  • Điều IV

Khoản 3 về việc thu nhận các tiểu bang mới vào Liên Bang

Khoản 4 về việc bảo đảm dân chủ cho các tiểu bang, cũng như bảo vệ chống xâm lăng và nội loạn

  • Điều VI, về sự tối thượng của Hiến Pháp, các luật Liên Bang và các hiệp ước quốc tế, nghĩa là có giá trị pháp lý cao hơn luật lệ của các tiểu bang.
  • Tu Chính Án XIII (phê chuẩn ngày 6/12/1865) hủy bỏ chế độ nô lệ trên toàn quốc
  • Tu Chính Án XIV (phê chuẩn ngày 9/7/1868) qui định bầu cử các giới chức chính quyền LB
  • Tu Chính Án XVI (phê chuẩn ngày 3/2/1913) cho phép chính quyền LB thu thuế lợi tức
  • Tu Chính Án XVII (phê chuẩn ngày 8/4/1913) cho phép công dân trực tiếp bầu 2 thượng nghị sĩ thay vì do quốc hội các tiểu bang chọn lựa như trước đó.
  • Tu Chính Án XXVII đặt điều kiện về sự thay đổi lương bỗng cho các Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ. Dự thảo Tu Chính Án này dự trù sẽ được phê duyệt ngày 25/9/1789 chung với 10 Tu Chính Án đầu tiên (gọi chung là Bill of Rights), nhưng nó lại bị quên đi!  Mãi trên 200 năm sau, nó mới được phát hiện, rồi trở thành Tu Chính Án sau cùng của HP 1789, sau khi tiểu bang Michigan bỏ phiếu thông qua vào ngày 15/12/1992.

Những quyền hành các tiểu bang được Hiến Pháp qui định qua:

  • Điều I, Khoản 10: Cấm không được gia nhập ký kết với nước ngoài, phát hành tiền tệ; nếu không được QHLB cho phép thì không được quyền ban hành thuế xuất nhập cảng; không được quyền có quân đội, tàu chiến trong thời bình, không được quyền gây chiến với tiểu bang khác hay ngoại quốc.
  • Tu Chính Án X (cùng với 9 Tu Chính Án I – IX, gọi chung The Bill of Rights, được phê chuẩn ngày 15/12/1791) được xem là vô cùng quan trọng trong việc xác lập quyền hạn của các tiểu bang. Tu Chính Án này viết như sau: Những quyền hành không được Hiến Pháp ủy thác cho Liên Bang, hay bị cấm đoán đối với các tiểu bang, thì sẽ được duy trì cho các tiểu bang, hay cho nhân dân (The powers not delegated to the United States by the Constitution, nor prohibited by it to the States, are reserved to the States respectively, or to the people).  Có thể khẳng định rằng Tu Chính Án này ra đời nhằm bảo đảm những quyền hạn rộng rãi, tuy không được nêu rõ ra, dành cho các tiểu bang và toàn dân, được xem như là bộ phận đối kháng với chính quyền liên bang.
  • Tu Chính Án XIV (được phê chuẩn ngày 9/7/1868, tức sau Nội Chiến 1861- 1865) Khoản 4 cho phép tiểu bang (và liên bang) không phải chịu trách nhiệm về nợ nần đối với các vụ nổi dậy chống Hoa Kỳ; cũng như những đòi hỏi về mất mát hay giải phóng người nô lệ; những nợ nần liên hệ bị xem là bất hợp pháp.

 Hai Tu Chính Án X và XIV nói trên được Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) sử dụng triệt để giải thích về những vấn đề được xem như là “xám” trong Hiến Pháp nhằm giải quyết các vụ kiện giữa Liên Bang và Tiểu Bang, cũng như trong các vụ án về kỳ thị chủng tộc.

Vai trò của các tiểu bang quan trọng đến nỗi danh từ “tiểu bang” được nêu ra minh thị hay trực tiếp hàm ý đến 50 lần trong 42 khoản riêng biệt của Hiến Pháp 1789. Tuy nhiên nếu Tu Chính Án X nói trên cũng không cấm nỗi các thẩm phán các tòa liên bang thường  viện dẫn câu cuối cùng của Khoản 8 Điều I cho phép Quốc Hội “Làm mọi thứ luật cần thiết và thích hợp để hành xử các quyền đã nêu, hay những quyền mà Hiến Pháp này cho phép chính quyền Hoa Kỳ hay bất kỳ Bộ hay Viên Chức của chính quyền này” (“To make all Laws which shall be necessary and proper for carrying into Execution the foregoing Powers, and all other Powers vested by this Constitution in the Government of the United States, or in any Department or Officer thereof.” )

Chúng ta cũng không quên rằng các tiểu bang đều có Hiến Pháp riêng.  Tuy nhiên điều quan trọng về  song hành chủ quyền này không phải các “công dân” Mỹ ai ai cũng  biết.  Trong một cuộc thăm dò toàn quốc năm 1988, chỉ có 44% số người trả lời cho rằng tiểu bang mình đang ở cũng có Hiến Pháp! Thật ra ngay trong thời gian lập quốc (1776 – 1788), 13 tiểu bang đầu tiên cũng đã được Quốc Hội Liên Bang khuyên nên soạn những bản Hiến Pháp riêng cho tiểu bang mình (Những bản HP nguyên thủy này ngày nay cũng được đánh giá là rất dân chủ). HP các tiểu bang đều tam quyền phân lập.  Hành Pháp đứng đầu bởi Thống Đốc, ai cũng biết. Lập Pháp thì tên gọi khá khác nhau: đa số TB gọi đó là Legislature, một số lại gọi là General Assembly, thậm chí Massachusetts gọi General Court –dễ đưa đến hiểu lầm.  Tất cả các TB đều gọi Viện Trên (Upper House) là Senate, nhưng lại gọi Viện Dưới (Lower House) với các tên khác nhau: đa số gọi House of Representatives, vài TB gọi là House of Delegates, hay đơn giản chỉ là Assembly. Riêng Nebreska sau năm 1934 chỉ còn độc viện  –Senate, vì viện dưới bị xem là quá tốn kém.  Tổ chức Tư Pháp cũng phức tạp không kém. Có TB thì hệ thống tòa án có 4 cấp; có TB chỉ có 3 cấp, với các tên gọi khác nhau. Vai trò của tòa án tiểu bang đối với liên bang cũng có sự thay đổi. Vào đầu thập niên 1970, vấn đề liên bang chế thuộc lãnh vực tư pháp (judicial federalism)  đặt ra sau khi Warren Burger được bổ nhiệm làm Chánh Thẩm Phán.  Như chúng ta biết, khi xét xử, Tòa Án Tiểu Bang dựa theo Hiến Pháp tiểu bang cùng luật lệ tiểu bang và địa phương.  Do hoàn cảnh dân số, kinh tế  vv. thay đổi, Hiến Pháp các tiểu bang thỉnh thoảng cũng được tu chính để đáp ứng.

Qua các textbooks về chính quyền Hoa Kỳ (US Government), hay chính quyền tiểu bang và địa phương (State and Local Government), cũng như qua các sinh hoạt hằng ngày, chúng thấy các tiểu bang có ít nhất những quyền hạn cụ thể sau đây:

  • Tổ chức các cuộc bầu cử bầu các giới chức liên bang như Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ LB, Dân Biểu LB, và phê chuẩn các tu chính án cho Hiến Pháp Hoa Kỳ
  • Điều hành thương mại trong tiểu bang
  • Thu các loại thuế (trừ thuế xuất nhập cảng với nước ngoài), vay mượn nợ để đài thọ các công chi
  • Thanh tra kiểm soát hoạt động các hoạt động ngân hàng, công ty
  • Điều hành các định chế dân chủ cho tiểu bang như Thống Đốc, Quốc Hội, chính quyền địa phương
  • Làm luật và thi hành luật và điều hành tư pháp
  • Cung cấp, bảo vệ cư dân trong tiểu bang qua các dịch vụ y tế công cộng, giáo dục, cảnh sát, cùng các hoạt động văn hóa và tinh thần

Chống Tập Trung Quyền Hành

Như chúng ta đã biết, khi đồng ý ngồi lại để cùng soạn bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1776, rồi kế tiếp bản Hiến Pháp 1781, các cựu thuộc địa muốn đoàn kết để đủ sức mạnh chống lại vương quốc Anh, nhưng đồng thời không muốn có một nhà nước giống vương quốc Anh, tức quá tập trung quyền bính vào một người, cũng không muốn tập quyền vào tay một nhóm nào.  Hiến Pháp 1781 thành công trong việc duy trì chủ quyền cho các thuộc địa này, tức không quá tập trung quyền lực, nhưng không thành công ở chỗ không hình thành được một chính quyền mạnh đủ khi cần thiết.

Hiến Pháp Hoa Kỳ- Trang 1            Nguồn: National Archives

Mục đích chủ yếu của cuộc họp mặt của các đại biểu tại Philadelphia là để tu chính bản Hiến Pháp 1781. Sau khi làm việc trong thời gian tương đối ngắn –chỉ 2 tháng rưỡi (từ 25/5/1787 đến 6/8/1787– bản dự thảo Hiến Pháp mới đã hoàn thành, nội dung khác rất nhiều với bản Hiến Pháp cũ.  Có hai khác biệt nổi bật.  Thứ nhất, Hiến Pháp mới hàm ý (tức không minh thị) nguyên tắc tam quyền phân lập theo chiều ngang, tức là Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, mà đối với Tư Pháp, theo sử liệu, các đại biểu đã không mất nhiều thì giờ để tranh cãi;  lại còn không “dân chủ” bằng hai bộ phận kia, vì không  do dân bầu!  Thứ hai, có sự phân quyền theo chiều dọc giữa liên bang và các tiểu bang.  Nếu vấn đề đơn nhất chế trở thành nghị trình chính của hội nghị, thì đại biểu của nhiều tiểu bang, trong đó có ít nhất 3 tiểu bang dân số dưới 100 ngàn người sẽ ra về; và chắc chắn sẽ không có một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ như ngày nay!

Một số đại biểu có địa vị quan trọng ở tiểu bang còn sợ rằng nếu quyền hành quá tập trung vào trung ương, thì mình có thể bị biến hay lu mờ đi, và dọa  sẽ bỏ họp nếu vấn đề tập trung quyền lực tiếp tục bàn.  Ngoài ra, khi bàn về quyền của các tiểu bang, có một vấn đề lớn khác không được đề cập tới. Đó là vấn đề nô lệ, vốn đã bắt đầu nhen nhúm những xung đột, Liên Bang hay tiểu bang, ai là người có trách nhiệm giải quyết sớm?  Các đại biểu đều lặng thinh. Nếu nó được đưa ra, thì chắc chắn sẽ có tranh cãi dữ dội, và 4 tiểu bang miền Nam, trong đó có Virginia đông dân nhất có thể sẽ rút lui khỏi hội nghị. Tuy đã dung hòa, nhưng các đại biểu cũng nghĩ rằng chủ trương dung hoà này cũng không dễ thuyết phục được các tiểu bang.  Vì thế các bài báo của “Publius” mới ra đời, như đã nói trên. Khi Hiến Pháp bắt đầu áp dụng, thì những tranh tụng kiện cáo thuộc lãnh vực liên bang chế đã xảy ra, và vẫn còn tiếp tục dai dẳng đến ngày nay và trong tương lai nữa. Do đó, có thể khẳng định rằng muốn tìm hiểu thêm về sự vận hành hay tiên đoán về định chế phức tạp này, người ta không thể không đề cập đến vai trò của hệ thống Tòa Án Liên Bang.

Một Chút Về Tòa Án Liên Bang

Theo Hiến Pháp 1789, Hoa Kỳ chỉ có 2 cấp chính quyền: Liên Bang (Quốc Gia) và Tiểu Bang.  Các xung đột giữa Liên Bang (Lập Pháp lẫn Hành Pháp) và các Tiểu Bang sẽ được giải quyết qua hệ thống Toà Án Liên Bang,  cấp thấp nhất là Tòa Quận Hạt (US District Court).  Thông thường, mỗi tiểu bang có ít nhất một tòa; các tiểu bang lớn như Califonia, Texas, New York, mỗi nơi có đến 4.  Toàn quốc tổng cộng 94 (kể cả 1 cho thủ đô Wahsington, DC).  Tòa Quận Hạt quan trọng vì đây là tòa xét xử (trial court), nghĩa là qua đầy đủ thủ tục:  mở hồ sơ, nghe nguyên cáo, bị cáo và luật sư; nghe bồi thẩm đoàn.  Các vụ tranh chấp liên quan đến Hiến Pháp hay tranh chấp quyền hành giữa Liên bang và Tiểu bang thường được xét qua các phiên tòa gồm 3 thẩm phán (three-judge district court) –thay vì 1 trong các vụ thông thường– và nếu khiếu kiện thì lên thẳng Tối Cao Pháp Viện, không qua Tòa Phúc Thẩm.

Cấp cao hơn:  Tòa Phúc Thẩm (US Circuit Court, hay US Court of Appeals), được tổ chức theo vùng (region hay circuit),  gọi tên theo thứ tự.  Thí dụ Tòa Phúc Thẩm Thứ Chín (the Ninth Court of Appeals) phụ trách các tiểu bang WA, OR, CA, AZ, NV, ID, MT, AK, HI và đảo Guam; Tòa Phúc Thẩm Thứ Mười phụ trách WY, UT, CO, NM, KS và OK).  Có tất cả 13 trong đó 11 cho các tiểu bang và vùng lãnh thổ Puerto Rico và Virgin Islands, 1 ở thủ đô và 1 gọi là Federal Circuit Court dành cho các trường hợp đặc biệt.  Tòa Phúc Thẩm không phải là tòa xét xử như Tòa Quận Hạt, mà là tòa “xem lại” (review) hình thức đúng sai của các vụ đưa lên từ các tòa quận hạt, hay đôi khi từ các cơ quan hành chánh;  có thể nghe luật sư của đôi bên trình bày ngắn gọn (thường chỉ 10 phút); tranh luận miệng (oral argument). Vì Tối Cao Pháp Viện chỉ nhận “xem lại” rất ít vụ, cho nên có thể xem Tòa Phúc Thẩm là nơi giải quyết cuối cùng (last resort).  Tòa này không tìm kiếm bằng chứng thực tế mới (new factual evidence), mà chỉ đi tìm các sơ hở trong hồ sơ chuyển lên.  Tòa này cũng giải quyết các tranh chấp và cho thi hành án.  Nó cũng tìm ra và đưa phương thức giải quyết cho các vụ mà Tối Cao Pháp Viện có thể nhận để xem xét.

Cấp cao nhất là Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court).  Với 9 vị thẩm phán, trong đó Chánh Thẩm Phán (Chief Justice), tất cả đều do Tổng Thống đề nghị và phải thông qua Thượng Viện (giống như các vị quan tòa ở 2 cấp trên).  Vị Chánh Thẩm Phán này cũng chỉ được bỏ một phiếu như đồng viện, nhưng đôi khi lại là lá phiếu quyết định (5/4). Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cũng là nơi nhận những vụ do các tòa án cao cấp nhất của tiểu bang (đôi khi cũng mang tên tối cao pháp viện) đưa lên.   TCPV Hoa Kỳ có quyền chọn lựa và chỉ nhận rất ít các vụ được đưa lên (trên dưới 1%).  Một cách tổng quát,  tất cả các quyết định của TCPV Hoa Kỳ, cũng như một số lớn của Toà Phúc Phẩm và một số nhỏ của Tòa Quận Hạt là những quyết định có tính cách chính sách (policymaking decisions). TCPV Hoa Kỳ cũng thụ lý các vụ chuyển từ TCPV Tiểu Bang lên.

Trụ Sở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tại Washington D.C.

Vì vậy có thể nói một cách không thái quá rằng, các quyết định nói trên về môi trường, hôn nhân đồng tính, nhập cư di trú, sử dụng cần sa ma túy, vv. của 3 cấp tòa án liên bang này có tác dụng định hình các đường lối chính sách liên hệ của các cấp chính quyền trong quản hạt (jurisdiction) của mình.    Tuy nhiên, các quyết định này cũng có thể không giống nhau cho những trường hợp tương tự xảy ra sau này. Lý do biện giải có thể là vì tiến bộ kỹ thuật, hoàn cảnh vật chất hay nhân sinh quan thay đổi!   Tất cả các vị quan tòa liên bang (judges dùng chỉ thẩm phán 2 cấp dưới và justices chỉ 9 vị ở Tối Cao) đều phải do Tổng Thống đề cử và Thượng Nghị Viện biểu quyết. Vì vai trò của họ quan trọng (họ còn xử các vụ vi phạm luật pháp liên bang, ngoại giao đoàn, các tiểu bang với nhau, cũng như giữa các công dân các tiểu bang trong một số trường hợp vv.) và thời gian tại nhiệm lại không hạn định (chỉ chấm dứt khi bị bãi chức vì lý do đạo đức –rất hiếm hoi– hay từ chức, từ trần), cho nên sự bổ nhiệm họ thường mang nhiều màu sắc chính trị đảng phái và không ít kịch tính.

 Ngoài tính cách thực dụng nói trên của cách giải thích, người Mỹ còn tin tưởng khá nhiều vào “khả  năng” và  “lý lịch” của các vị quan tòa.  Nước Mỹ có khá nhiều người học luật (trung bình có 1 luật sư trên 240 dân), Hơn một nửa số thẩm phán Tòa Quận Hạt tốt nghiệp đại học từ các trường uy tín (Ivy League Schools) và sau đó theo đuổi ngành luật tại những trường nổi danh.  Các thẩm phán Tòa Phúc Thẩm còn đáng tin cậy hơn về quá trình học vấn và kinh nghiệm trong nghề. Ngoài ra, khi được bổ nhiệm, họ cũng khá giả về tài chánh. Một nghiên cứu cho thấy rằng trong mấy thập niên gần đây, 90% thẩm phán Tòa Sơ Thẩm tuy được Tổng Thống cùng một đảng bổ nhiệm, nhưng những phán quyết của họ không đi theo lằn ranh đảng phái như trước  năm 1992 (Carp, Sitdham & Manning, 2014, pp 25-47).  Đây là một nhận xét được đưa ra từ nhiều năm trước.

Liên Bang Chế Hoa Kỳ Qua Các Giai Đoạn Lịch Sử

Qua hơn 200 năm nay, sự cân bằng quyền lực giữa liên bang và các tiểu bang không mấy khi được hòa thuận.  Lý do chính yếu là do nhu cầu càng ngày càng thay đổi  trên trường quốc tế cũng như  quốc nội, mà  liên bang càng muốn tăng quyền hành của mình về cường lực cũng như về các lãnh vực, trong khi các tiểu bang –đã tăng từ 13 lúc lập quốc lên 50–  cũng muốn kéo lại chủ quyền đã “mất” vào tay liên bang. Mặt khác, tiểu bang lại phải đối phó với các vấn đề địa phương của mình, do sự tạo lập các đơn vị hành chánh mới, những vấn đề mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vv.  Tìm hiểu nước Mỹ mà quên yếu tố thứ hai này sẽ là một thiếu sót quan trọng. Nói một cách đại cương, Tổng Thống, Lưỡng Viện Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện, và cả các tiểu bang đều có phần đóng góp vào sự mất cân bằng quyền lực này.  Nhưng công bằng mà nói, một khi Tổng Thống hay Quốc Hội muốn thay đổi, Tối Cao Pháp Viện thường khó ngăn cản.  Để dễ có những nhận xét tổng quát, các nhà nghiên cứu, trong đó có Smith & Greenblatt (2018) khảo sát sự biến chuyển liên bang chế Hoa Kỳ qua những thời kỳ sau đây:

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Lưỡng Tính — Dual Federalism  (1789 – 1933)

 Do quyền hành đã được phân định rõ trong Hiến Pháp còn chưa ráo mực, hai bên –Liên Bang và các Tiểu Bang– phần ai nấy làm, hơn là hợp tác với nhau.  Các tiểu bang cùng các địa phương củng cố việc nội bộ.  Thậm chí, có tiểu bang còn nghĩ tới việc rút ra, vì nghĩ vào được thì rút được. Đã vậy, Chánh Thẩm Phán Roger B. Taney của TCPV (một  định chế lúc ấy đang chia rẽ trầm trọng)  trong vụ Dred Scott v. Sandford (1857, Scott là một nô lệ, sau khi chủ cũ chết, đã đến sinh sống  nhiều năm ngoài tiểu bang cũ, nơi  không công nhận nô lệ, nay bị kiện đòi mang về)  lại tuyên bố rằng những nô lệ không là, không được nhập xếp vào  ‘những công dân’ ghi trong hiến pháp, và do đó không có quyền và đặc ân kiện tụng dành cho công dân trước các tòa án liên bang.  Các ý kiến của Taney được các luật gia về sau này xem là tệ hại nhất trong lịch sử TCPV Hoa Kỳ, và là một trong những lý do dẫn tới Nội Chiến. Năm 1860, các tiểu bang miền Nam rút khỏi Hợp Chủng (Union, tiếng dùng để chỉ  tổ chức mới gồm 13 cựu thuộc địa thành lập theo HP 1789), và lập ra “the Confederation States of America”, và Jefferson David được bầu lên làm Tổng Thống  ngày 18/2/1861.  Không bao lâu sau, Abraham Lincoln được bầu làm Tổng Thống của “the United States of America” (trong cả 2 HP 1781 và HP 1789, tên nước đều là như thế). Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên ngày 8/3/1861, Lincoln tuyên bố ông không có quyền hành pháp định để can thiệp vào định chế nô lệ đang hiện hữu tại các tiểu bang.  Nhưng ông khẳng định Hợp Chủng là vĩnh viễn; không thể muốn rút ra thì rút … không thể tách rời.  Nội Chiến chính thức khởi đầu, chỉ hơn một tháng sau đó, ngày 12/4/ 1861, và kéo dài đến năm 1865 mới chấm dứt với sự đầu hàng của Tướng Lee, Chỉ Huy Trưởng của Confederation Miền Nam.  Giữa lúc chiến tranh, năm 1865, Abraham Lincoln tuyên bố chấm dứt chế độ nô lệ.

 Sau Nội Chiến, 4 Tu Chính Án  quan trọng ra đời như đã được đề cập ở trên.  Trong thời kỳ này, chính quyền liên bang xây dựng hệ thống đường sắt (bắt đầu  năm 1887) nối liền các tiểu bang với nhau, tạo thuận lợi cho sự giao thông và chuyên chở hàng hóa.  Đây là một phương tiện vô cùng quan trọng đưa đến sự hội nhập lớn lao của nước Mỹ,  không những về phát triển kinh tế, mà còn về văn hóa, xã hội  nữa khi mà phương tiện truyền thông chưa mở mang. Cũng nhờ Tu Chính Án XVI (phê chuẩn ngày 3/2/1870) cho phép thu thuế lợi tức (income tax) mà Liên Bang mới có dư tiền mặt để giúp đỡ các tiểu bang qua các chương trình cho không qua trợ giúp (grants-in-aid), tổng cộng có tới 15 chương trình. Thời kỳ này chấm dứt khi xảy ra cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế bắt đầu năm 1930. Đáng lưu ý là  sau khi Hiến Pháp được thi hành , những phán quyết của Tối Cao Pháp Viện do Chánh Thẩm Phán John Marshall đứng đầu (1801-1835) đã giúp chính quyền Liên Bang có những quyền lực cơ bản, và đồng thời cũng tạo thế đứng cho các cấp Tòa Án Liên Bang, dù các quan tòa  không do dân trực tiếp bầu lên như chúng ta đã biết.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Hợp Tác – Cooperative Federalism (1933 -1964)

 Vừa khi bước vào Tòa Bạch Ốc, trong 100 ngày đầu trăng mật, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã lần lượt gửi sang Quốc Hôi nhiều dự thảo luật để đối phó với tình trạng kinh tế toàn quốc quá tệ hại với 25% lực lượng lao động không có công việc làm, mà thủa đó trong hầu hết  gia đình chỉ có người chồng làm việc. Tất cả đều được Quốc Hội thông qua, nhưng một số lớn lại bị Tối Cao Pháp Viện bác đi, với tỷ lệ 5/9.  Quá tức giận, Tổng Thống Roosevelt bí mật soạn kế hoạch để có thể lần lượt bổ thêm những thẩm phán mới của mình vào TCPV: hễ có một vị tại chức tới tuổi 70 và đã phục vụ 10 năm nhưng không chịu về hưu, thì  ông sẽ bổ nhiệm một vị của mình, tổng cộng TCPV sẽ có thể lên đến 15!  Để cứu định chế có thể có quá nhiều thẩm phán này, TCPV đã nghĩ lại và quyết định thuận lợi cho Hành Pháp!  Nhờ vậy mà nhiều cơ quan mới được thành lập (thí dụ TVA, phát triển canh nông vùng thung lũng Vanderbuilt), biện pháp kinh tế xã hội mới được thực hiện, trong đó có chương trình an sinh xã hội (social security), mà nay vẫn còn hiệu lực, giúp cho người già có tiền hưu sau ít nhất 40 quý (10 năm)  làm việc.  Thế Chiến II lại càng khiến cho Liên Bang và Tiểu Bang hợp tác chặt chẽ hơn.  Roosevelt làm Tổng Thống đến bốn nhiệm kỳ (1933- 1944, mất vào đầu nhiệm kỳ thứ tư), do đó mà nhiều biện pháp cải tổ cũng như các cơ quan mới kinh tế  xã hội  đã được đưa ra.  Sau chiến tranh, kinh tế Hoa Kỳ phục hồi và phát triển nhanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm (cho cả phụ nữ vốn đã đi làm trong thời kỳ chiến tranh để thay thế nam giới nhập ngũ), thuế thu được nhiều hơn, nên chính quyền liên bang có thêm phương tiện mở rộng các chương trình hợp tác với các tiểu bang qua các chương trình cho không thông qua trợ giúp, như đề cập ở trên.   Đến cuối 1960, Liên Bang thực hiện tới 132 chương trình cho không thông qua trợ giúp, tức đã bắt đầu ảnh hưởng khá nhiều đến sinh hoạt và “thẩm quyền” của các tiểu bang.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Tập Trung –Centralized Federalism (1964 – 1980)

Bắt đầu với Tổng Thống Lyndon Johnson. Song song với cuộc chiến Việt Nam, ông còn có  tham vọng mở thêm cuộc chiến nhân quyền và chống nghèo đói trong quốc nội qua chương trình Xã Hội Vĩ Đại (Great Society), chủ trương chính quyền liên bang phải lãnh đạo các chính sách dân sinh của quốc gia,  còn các chính quyền tiểu bang và địa phương sẽ giúp thực hiện các chính sách này. Johnson chủ trương sự giúp tặng phải kèm theo những điều kiện ràng buộc rõ ràng, chẳng hạn phải có sự đóng góp tài chánh tối thiểu, sự đóng góp nhân sự do tiểu bang đài tho.  Trong 4 năm tại chức, chính quyền Johnson đã tung ra trên 200 chương trình loại này, trong đó có Chương Trình Medicare nay vẫn còn hiệu lực.  Thêm vào đó còn có những chương trình hợp tác với các điều kiện “kỳ lạ” từ liên bang, thí dụ như qua các chương trình gọi là “cấm chéo” (crossover sanctions), thì muốn được nhận ngân quỹ trợ giúp xây đựng đường sá, tiểu bang phải ra luật cấm dưới 21 tuổi không được uống rượu.  Đi xa hơn, còn có một số chương trình hợp tác bắt buộc (mandated) mà không đem lại tiền bạc (unfunded) đã tạo bực bội cho tiểu bang và địa phương, chẳng hạn như chương trình về các tiêu chuẩn nước sạch, lương tối thiểu.  Quốc Hội Liên Bang càng ngày càng lấn lướt, ra những đạo luật buộc các tiểu bang và địa phương phải thi hành, tạo tốn kém cho họ –131 tỷ đô la trong 4 năm 2004-2008, theo một ước tính.

 Trong thời gian này, Tối Cao Pháp Viện đã đưa ra nhiều phán quyết có hiệu lực làm giảm bớt sự kỳ thị chủng tộc. Trong lãnh vực Tư Pháp, vấn đề liên bang chế cũng được đặt ra (judicial federalism).  Như chúng ta rõ, khi xét xử, các tòa án tiểu bang dựa vào Hiến Pháp và luật tiểu bang, cũng như luật lệ địa phương; chỉ khi thấy thiếu căn bản để giải quyết thì mới tham khảo Hiến Pháp và luật liên bang.  Với sự bổ nhiệm Chánh Phẩm Phán mới Warren Burger (bảo thủ, do Tổng Thống Nixon, 1969), phe cấp tiến lo ngại chủ trương công bằng xã hội (social equality), cùng với các phong trào khác như khan hiếm năng lượng, khí hậu toàn cầu thay đổi vv.  có thể sẽ bị cản trở.  Nhưng lo ngại này thiếu căn cứ, vì đó là những lãnh vực mà  Quốc Hội Liên Bang phải có tiếng nói trước (Simon & Steel & Lovrich, 2011).

  • Thời Kỳ Tân Liên Bang Chế –New Federalism (1980 – 2002)

 Thật ra thời kỳ này phải nói là bắt đầu trước đó.  Thật vậy, ngay sau khi Nixon vào Tòa Bạch Ốc, tại đây đã tổ chức những cuộc tranh luận nội bộ giữa 2 nhóm giới chức cao cấp về “tập quyền” và “tản quyền”.  Tân Liên Bang Chế được hình dung như “chủ nghĩa địa phương mang tính quốc gia (national localism), hay một hệ thống tản quyền hành chánh nhìn nhận thực tế tập quyền trong khi về hình thức thì nói là trả quyền hành và các quyết định quản trị về cho các tiểu bang và dân địa phương.  Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Tinh túy của Tân Liên Bang Chế là đạt được sự kiểm soát vận mạng quốc gia bằng cách trả sự kiểm soát lại cho các tiểu bang và địa phương; [nghĩa là] quyền hành, ngân khoản, và quyền lực (power, funds, and authority) sẽ được tăng cường chuyển đến cho những chính quyền gần nhất với dân.”  Nixon còn nhấn mạnh là các tiểu bang sẽ có thêm quyền nhận sự giúp đỡ tài chánh của liên bang, và quan trọng hơn nữa, “các quyền của các tiểu bang nay được miêu tả chính xác hơn là nhiệm vụ của các tiểu bang” (Banks, 2018, p. 4)

Nixon sử dụng đầu tiên thuật ngữ này khi ông muốn trao trả quyền hành về cho các tiểu bang và địa phương, mà không đưa ra những điều kiện trói buộc, và đồng thời để giảm các khoản tiền cho không  (tặng dữ) thông qua trợ giúp (grants-in-aid) từ liên bang mà ngân sách liên bang  bấy giờ đang túng thiếu.  Tuy nhiên Nixon không có những hành động cụ thể.  Chính Tổng Thống Reagan mới là người nâng chủ trương này thành ý thức hệ cùng với chính sách giải tỏa các rào cản khác (de-regulations) của ông.  Thật ra khi ông hùng hồn tuyên bố “Chính quyền không là giải pháp cho vấn đề của chúng ta; chính quyền mới là vấn đề” (Government is not the solution to our problem; government is the problem), thì người ta không nghĩ ông hoàn tin tưởng ở khả năng của các chính quyền tiểu bang và địa phương; trái lại ông chỉ muốn bớt gánh nặng cho trung ương mà thôi. Và điều này thì phù hợp với chủ nghĩa cá nhân mà ông cổ võ.  Khi được giao việc, các Chính quyền Tiểu Bang (CQTB) và Chính quyền Địa Phương (CQĐP) cũng được Chính quyền Liên Bang (CQLB) giúp những ngân khoản (block grants) để đài thọ chính sách phát triển của họ. Về lý thuyết, căn bản của khuynh hướng tân bảo thủ này dựa trên chủ trương rằng để đối phó với tình trạng kinh tế xã hội cả nước, thì chính quyền trung ương không hiệu quả và hiệu năng bằng 50 CQTB và hằng chục ngàn CQĐP, vì 2 loại chính quyền sau này gần gủi dân chúng hơn. Reagan đưa William Rehnquist, vị thẩm phán đứng hàng thứ năm về thời gian tại chức  lên chức vị Chánh Thẩm Phán; rồi sau đó người kế nhiệm của ông, George H. W. Bush, lại bổ thêm 2 vị nữa, tạo nên một Tối Cao Pháp Viện bảo thủ giúp chính quyền liên bang hạn chế bớt quyền lực mình, và đưa quyền hành về cho các tiểu bang. Trong thời kỳ này, có nhiều vụ xử mà Tối Cao Pháp Viện dành phần thắng cho tiểu bang.  Chẳng hạn, trong vụ United States v. Lopez, TCPV gạt bỏ một luật LB cấm mang vũ khí gần các trường công lập; đây là lần đầu tiên TCPV hạn chế quyền QH theo điều khoản về điều hành thương mại giữa các tiểu bang. Trong vụ Printz v. United States (1997), TCPV bác một điều luật mà LB buộc phải kiểm tra lý lịch trước khi mua súng.

 Nhân đây, xin trình bày với  chút chi tiết vụ Bush v Gore (2000) liên quan đến cuộc bầu cử,  nhằm minh họa ảnh hưởng qua lại giữa Liên Bang và Tiểu Bang. Như lịch sử ghi lại, qua kiểm phiếu phổ thông toàn quốc, Gore hơn Bush trên nửa triệu phiếu.  Tuy nhiên nếu ai thắng phiếu phổ thông ở Florida, thì sẽ chiếm trọn 25 số phiếu cử tri đoàn của tiểu bang này, và sẽ trở thành Tổng Thống. Do số phiếu phổ thông Gore thua Bush rất ít, nên các luật sư phía của Gore yêu cầu đếm lại. Như chúng ta đã biết, tổ chức bầu cử Tổng Thống tại Florida là do Florida đảm nhiệm theo sự phân quyền của Hiến Pháp 1789; và kiện tụng nếu có cũng phải do các Toà Án tiểu bang này thụ lý.  Khi vụ kiện được đưa lần đến Tối Cao Pháp Viện Florida tháng 12/2000,  thì cơ quan này ra phán quyết cho đếm lại bằng tay tất cả số phiếu bầu tại 4 quận trong 67 quận (counties)  của Florida.  Các luật sư phía Bush liền đưa vụ kiện này lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.  Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng việc đếm phiếu lại phải được xử lý công bằng với tất cả các phiếu bầu trong tiểu bang.  Với tỷ lệ 5-4, ngày 12/12/2000, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ra lệnh ngưng đếm tiếp, nhưng vẫn giữ kết quả cuả cuộc đếm số đang tiến hành tới lúc đó, mà Bush đang hơn 537.  Nghĩa là Bush thắng số phiếu phổ thông tại Florida, do đó chiếm trọn 25 số phiếu cử tri đoàn của Florida, nâng số phiếu cử tri đoàn toàn quốc lên 271, chỉ hơn Gore 1 phiếu và trở thành Tổng Thống thứ 43 của Hoa Kỳ.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Vụ Việc –Ad Hoc Federalism (2002 – Nay)

 Trong thời kỳ này, những tiêu chuẩn có tính cách tổng quát kể trên không còn được sử dụng nữa. Thay thế vào đó là tùy vụ việc mà chọn lưạ, dựa trên quan hệ đảng phái, xem ai sẽ đóng vai trò chủ yếu –liên bang hay tiểu bang và địa phương. Trong thời kỳ này, Luật “No Child Left Behind” Act ban hành năm 2002 được chính quyền George W. Bush xem là rất quan trọng nhằm nâng cao và giảm cách biệt quá đáng đối với  trình độ học sinh trung tiểu học toàn quốc, một bước ngoặc trong lịch sử giáo dục Hoa Kỳ, mà trước đó hoàn toàn nằm trong tay các CQTB và CQĐP.  Theo Luật này, trợ cấp Liên Bang ít hay nhiều sẽ tùy thuộc thành quả đạt được (performance) của các trường công lập tiểu bang và địa phương.  Tiến trình như sau (1) CQLB đặt ra tiêu chuẩn cấp LB –> (2) CQ TB dựa vào đó đặt ra tiểu chuẩn cấp TB, ra bài thi để đo lường thành quả học sinh –> (3) Các trường địa phương thực hiện giảng dạy, thi cử hằng năm -> (4) Các trường phúc trình kết quả thi cử lên CQ TB -> (5) CQTB đúc kết trình lên CQ LB –> (6) CQ LB xem xét thành quả –> (7) CQLB  và CQTB  xét cấp ngân quỹ cho các trường tùy theo thành quả.  Một cách tổng quát, CQLB cấp ngân quỹ cho địa phương qua CQTB; nhưng cũng có trường hợp cấp trực tiếp cho điạ phương.  Dưới thời G.W. Bush, trong vụ tiểu bang Massachsetts cùng 12 tiểu bang khác kiện cơ quan môi sinh Environment Protection Agency EPA (viện lý do sự thay đổi khí hậu không hẳn là do nhà kính)  đã không chịu thi hành luật Clean Air Act ban hành từ năm 1999, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2007, đã ra phán quyết với số phiếu 5/4  nghiêng về phía các tiểu bang, mặc dầu Chánh Thẩm Phán John Roberts đại diện cho phía thiểu số viết rằng EPA đã không đưa ra lời giải thích hợp lý để từ chối. Phán quyết TCPV 2007 này đưa đến những thay đổi về phương diện bảo vệ môi sinh trong nội bộ Hoa Kỳ, cũng như khi Hoa Kỳ (thời Obama) ký kết Hiệp Định Khí Hậu Paris, mà sau đó Tổng Thống Donald Trump tuyên bố rút khỏi.

Tổng Thống Barack Obama, giống như Tổng Thống Bill Clinton, cũng muốn sử dụng CQLB để thực hiện các chương trình dân sinh của mình.  Đạo luật Affordable Care Act, thường được gọi là Obama Care, được Quốc Hội thông qua lại bị kiện cáo tại Tối Cao Pháp Viện.  Chánh Thẩm Phán John Roberts, do George W. Bush bổ nhiệm, lại bỏ lá phiếu quyết định thuận, với lý luận rằng đó là ý của nhân dân (hàm ý Lưỡng Viện Quốc Hội và Tổng Thống đều thuộc đảng Dân Chủ, do dân bầu lên).  Tuy nhiên, sau đó 24 tiểu bang trên toàn quốc từ chối hợp tác với chính quyền Liên Bang, bằng cách không chịu đóng góp 31 tỷ đô la để dân chúng trong địa phận mình có thể hưởng một ngân khoản lớn 423, 6 tỷ dành cho chương trình Medicaid (2013 – 2022) sẽ đến từ Liên Bang.  Trường hợp tương tự cũng xảy ra khi các tiểu bang từ chối đóng góp thêm phần mình để kéo dài trợ cấp thất nghiệp trong tiểu bang, theo ý muốn của chính quyền Obama. Trong cả 2 trường hợp, lý do chủ yếu là vì lập trường chính trị hơn là do phải đóng phần mình.  Trong vụ Arizona v. United States (2012), TCPV phán rằng các tiểu bang không có quyền làm và thi hành luật về di trú; tuy nhiên lại cho phép các tiểu bang thực hiện các qui định đòi hỏi giấy tờ (“show me your papers” regulations) để chứng minh về tình trạng di trú.

Trong 2 thập niên vừa qua, trong thời đại phát triển toàn cầu hóa, nhiều CQTB và CQĐP lần lượt chấp nhận từ nước ngoài –đặc biệt Á Rập, Nga, Trung Cộng– các khoản đầu tư, cho thuê các thương cảng, mướn các nhà thầu xây dựng thiết lập hệ thống giao thông trong TB mình vv. khiến cho CQLB phải lo ngại.  Ngoài ra, việc các thành phố trong nước “kết nghĩa” với các thành phố ngoại quốc, việc giao lưu văn hoá và khoa học của các trường đại học Mỹ với các đối tác nước ngoài cũng được CQLB lưu ý.  Tuy chưa có kiện tụng giữa CQLB và các thực thể địa phương này, nhưng cũng có thể đây sẽ trở thành động cơ, nếu CQLB không thuyết phục được các địa pương về những nguy cơ có thể xảy đến.

Chính quyền dưới thời Tổng Thống Donald Trump trong 3 năm đầu tiên đã tận dụng quyền lực hành pháp nhằm hạn chế nhập cảnh, nhập cư;  không trợ cấp các thành phố chứa chấp di dân nhập lậu; không triển hạn DACA;  không tính di dân bất hợp pháp trong cuộc Kiểm Tra Dân Số Năm 2020; mở cửa các cơ sở thương mại và trường học, chủ trương gửi quân đội/vệ binh tới các địa phương mất trật tự do biểu tình;  vv. Tuy nhiên hầu hết các biện pháp này đều bị khước từ bởi các CQTB; hoặc bác bỏ bởi các tòa án liên bang (US District Courts, hay US Court of Appeals). Tranh chấp vẫn còn tiếp tục: mới vừa qua trong tháng 9/2020, Tòa Phúc Thẩm Thứ Mười Một đã xử không cho phe Dân Chủ Texas mở rộng nổ lực bỏ phiếu qua thư tín.  Chúng ta nên nhớ theo tinh thần Hiến Pháp 1789, thì quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ được phân công cho Liên Bang; những công tác còn lại là do các tiểu bang, trong đó có y tế sức khỏe, an ninh trật tự, giáo dục, điều hành các cuộc bầu cử liên bang, vv. Đối với một số các công tác này, một số tiểu bang chọn lựa hợp tác với các tiểu bang khác hơn là với CQLB.

Nói tóm lại, nếu chỉ nhìn qua những nhiệm kỳ Tổng Tống, chúng ta có thể nói các Tổng Thống sau đây chủ trương chính quyền trung ương mạnh và gần gủi với nhân dân: John Quincy Adams, Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin D. Roosevelt, Harry Truman, Lyndon B. Johnson, Jimmy Carter, Bill Clinton, Barack Obama, và có lẽ cả Tổng Thống Donald Trump nữa! Và những Tổng Thống sau đây cổ vũ cho sự gần gũi giữa các tiểu bang và nhân dân: Thomas Jefferson, Andrew Jackson, William Howard Taft, Herbert Hoover, Richard Nixon, Ronald Reagan, George W. Bush. (Drake & Nelson, p. 224). Đa số ý kiến đối với Obama, W. Bush và Trump là ý kiến riêng của người viết bài này.

Về phương diện chi tiêu, trong vài thập niên vừa, Liên Bang đã giúp không dưới 25% chi phí của các CQTB và CQĐP, trong khi bản thân liên bang thì nợ nần chồng chất.  Thống kê cho thấy từ hơn 6 thập niên vừa qua, ngân sách liên bang chỉ bội thu trong tài khoá 1960 dưới thời Tổng Thống Dwight Eisenhower, và 4 tài khoá liên tiếp (1998, 1999, 2000 và 2000) dưới thời Tổng Thống Bill Clinton, nhờ kinh tế phát đạt. Còn lại đều là nợ nần. (Lê Văn Bỉnh, 2012).  Những khoản chi lớn lao của Liên Bang do ảnh hưởng của cơn đại dịch Covid-19 năm nay tạo  thêm những món nợ khổng lồ, có lẽ vài thập niên sắp tới CQLB cũng không trả nỗi, đừng nói gì tới các món nợ trước đó mà ngân sách liên bang hằng năm phi chi gần 10% để trả lãi và vốn đáo hạn.  Nay các tiểu bang và địa phương lại đòi (qua Hạ Viện) giúp đỡ thêm, thì thử hỏi tiền đâu mà có!  Nói chung, thì cả 3 cấp chính quyền đều gây nợ, nhưng rõ ràng CQLB là con nợ ký tên  trên giấy nợ!

Những Thuận Lợi Và Bất Thuận Lợi Của Liên Bang Chế

Đến nay Liên Bang Chế Hoa Kỳ đã tồn tại được 240 năm, một thời gian khá dài khi đề cập đến sự ổn định của một thể chế chính trị. Có lúc suông sẻ, có lúc gập ghềnh. Dưới đây là một số thuận lợi và bất thuận lợi, tổng hợp từ nhiều tài liệu, trong đó có Smith & Greenblatt (2018), Rozell & Wilcox (2019)

  • NHỮNG THUẬN LỢI

    Ngoài thuận lợi quan trọng ban đầu là chống tập trung quyền hành vào trung ương, liên bang chế (LBC) có thêm những thuận lợi dưới đây:

*Sự Hợp Tác – Qua sự phân tích các thời kỳ nói trên, chúng ta thấy LBC Hoa kỳ chưa bao giờ là một hệ thống những hoạt động chính quyền riêng lẻ.  Ngay từ đầu, nó là những quan hệ giữa liên bang và tiểu bang; nhưng về sau thì càng ngày càng nhiều tiểu bang hơn gia nhập, kéo theo các địa phương với những tổ chức khác nhau đến nỗi đến nay không có sách giáo khoa nào có thể đề cập đủ chi tiết về tên gọi, tổ chức và quyền hành các địa phương này. Theo thống kê năm 2017,  Hoa Kỳ có gần 90.000 chính quyền: 1 liên bang, 50 tiểu bang, còn lại là 2 loại chính quyền điạ phưong (Xin Xem Chú Thích).  Theo Morton Grodzins, “Không có lúc nào người ta có thể dán lên những cái nhãn hiệu gọn gàng về những chức năng cụ thể của “liên bang”, “tiểu bang” và “điạ phương”.  Quốc gia này, trước khi nó được tổ chức và ổn định hoàn tòan …. thì cái nguyên tắc đầu tiên của LBC là: chính quyền quốc gia sẽ sử dụng các nguồn lực siêu việt của mình để khởi xướng và yểm trợ các chương trình quốc gia, được chủ yếu quản lý bởi các tiểu bang và các địa phương  …” (Elazar 1969)

*Sự Linh Động & Bớt Mâu Thuẩn—Chính sách liên bang không có tính cách áp đặt, cùng một nội dung cho mọi tiểu bang và địa phương khác nhau (one-size-fits-all policies); mà trái lại các CQTB và CQĐP có thể chọn lựa cho thích hợp với hoàn cảnh địa lý, chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa của mình miễn sao có lợi cho dân chúng. Nhờ linh động chọn lựa và thích nghi chính sách và dự án LB với hoàn cảnh mình như nói trên, CQTB và CQĐP tránh được những xung đột với CQLB và những CQTB + CQĐP lân cận.

*Thí Nghiệm Dân Chủ  & Tham Gia Dân Chủ — Thẩm Phán TCPV Hoa Kỳ Louis Brandels ví các tiểu bang Hoa Kỳ như những phòng thí nghiệm dân chủ: một chương trình, một dự án do LB đưa ra, hay tự một TB hay địa phương nào đó khởi xướng, sẽ không áp dụng  đồng loạt khắp nơi, mà là nếu áp dụng thành công ở một nơi, sẽ được nhân rộng cho nhiều nơi hay toàn quốc. Sự tản quyền đến CQTB và CQĐP tạo cơ hội gần gũi thuận tiện cho dân chúng tham gia vào các chương trình, dự án nhằm phát huy dân chủ, giúp công chúng ý thức thêm về công ích và quyền lợi chung của cộng đồng mình ở.  Và nhờ đó mà củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận của họ đối với các định chế chính trị.

*Cạnh Tranh & Mục Tiêu LB Có Thể Đạt Được Ở Một Số Nơi –Sau khi LB đề ra một chương trình, các TB hay các địa phương có thể không cần phải đợi LB vạch ra phương thức thực hiện chi tiết, mà tùy khả năng riêng của mình có thể làm trước LB và các nơi khác, để được chú ý cũng như được sự trợ giúp của Liên Bang .  Việc thực hiện mục tiêu có tính cách cạnh tranh này giúp cho các mục tiêu mà LB đề ra có thể sớm đạt được.

*Nhiều Chọn Lựa – Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn mà đường lối chính sách kinh tế, thuế khóa, xã hội, giáo dục, y tế lại khác nhau từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, cũng như từ địa phương này sang địa phương khác trong cùng tiểu bang.  Do đó người dân có thể chọn lựa nơi mà mình đến cư trú để có thể hưởng những dịch vụ công cộng đó.  Thí dụ chọn mua nhà ở tiểu bang mà thuế thấp, trong đó có thuế tài sản, hay không có thuế trường học; dọn nhà đến Maryland để con cái hưởng giáo dục tốt của các trường công lập; đến Virginia để hưởng nhiều dịch vụ xã hội  y tế dành cho người già và người khuyết tật.  Thậm chí có người nghĩ rằng sẽ dễ sống đạo hạnh hơn nếu di dời đến Utah, tiểu bang chỉ có 3 triệu cư dân mà 63% theo đạo Mormon, hầu như mọi nơi cấm bia rượu; tuy nhiên xin đừng lái xe sang Nevada, nơi cờ bạc  gái điếm đều hợp pháp!

*Linh Động Đối Với Các Tôn Giáo –  Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều tôn giáo. Khởi thủy là những người theo đạo Tin Lành (Protestant, nay thường được gọi là Christian), kế đó là những người Thiên Chúa giáo/ Công giáo (Catholic), Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo vv.  Ngày nay chúng ta thấy nhan nhãn khắp nơi các nhà thờ Tin Lành (Baptist church), nhà thờ Thiên Chúa giáo (Catholic church), nhà thờ Do Thái giáo (synagogue), nhà thờ Hồi giáo (mosque), chùa Phật giáo (Buddist temple, pagoda), những nhà cầu nguyện khác.  Nói chung, tín đồ các tôn giáo này đi đến các nơi đây tuy không thường xuyên bằng ở các nước Á Rập, Ấn Độ hay Nigeria.  Ở những tiểu bang tập trung nhiều nhà thờ Công giáo như New York, New Jersey, Rhode Island, Connecticut, Massachusetts, không có án tử hình, hoặc nếu có, thì cũng ít mang ra thi hành.  Do đất đai rộng lớn, tín đồ có nhiều chọn lựa nơi để xây lên cơ sở tôn giáo của mình.  Quyết định của họ buộc phải theo luật lệ về qui định vùng ở địa phương (zoning code) của chính quyền địa phương trong đó ý kiến cư dân lân cận là yếu tố quyết định –nếu cư dân phản đối, họ sẽ tìm nơi khác, tránh được có những xung đột đáng tiếc có thể xảy ra sau này.

  • NHỮNG BẤT LỢI

    Tuy nhiên, LBC cũng có thể đem lại những bất lợi, như sau:

*Gây Phức Tạp và Bối  Rối— Vì mỗi TB, mỗi địa phương có luật lệ riêng, cho nên một công dân sẽ thấy bối rối không biết hành vi của mình có “hợp pháp” chăng.  Chẳng hạn, bạn có một cơ sở sản xuất rượu nho ở California, bạn sẽ mất thời giờ tìm xem là rượu nho có được phép gửi sang Virginia không, và thuế suất  bán (sales tax) là bao nhiêu; cũng câu hỏi đó đối với 48 TB, và ĐP khác! Về phía chính quyền, sự khác biệt về luật lệ có thể khiến cho sự phối hợp giữa các đơn vị chính quyền lân cận trở nên khó khăn trong một số công tác như về chửa lửa, cảnh sát, tội phạm vv.

*Tạo Thêm Xung Đột/Gây Bất Bình Đẳng –Liên Bang Chế giảm bớt mâu thuẩn xung đột như đã nói  phần lợi ích, nhưng cũng có thể tạo ra những mâu thuẩn xung đột khi mà thẩm quyền địa hạt không được ấn định rõ ràng, hay dễ lẫn lộn, tức là không có một luật lệ đồng nhất. Thí dụ bạn mang theo cần sa, hay súng đạn từ một tiểu bang cho phép sang biên giới một tiểu bang cấm đoán thì sẽ gặp phiền toái. Ngoài ra, vì luật lệ khác nhau, ngân sách khác nhau, thuế đóng khác nhau, mà người dân địa phương này có thể hưởng những dịch vụ hay được đối xử khác nhau và họ cảm thấy không công bằng.  Thí dụ trường công khu nhà giàu được xem là “tốt” hơn trường công khu nhà nghèo về cơ sở, phương tiện, phẩm chất giáo dục cũng như kỷ luật vv.

* Cạnh Tranh Có Thể Đưa Đến Thiệt Hại – Nói chung, Hoa Kỳ coi cạnh tranh là tốt.  Trong phạm trù liên bang chế, sự cạnh tranh giữa các tiểu bang để thực hiện các chương trình hay dự án do CQLB đưa ra, cũng được xem là lợi điểm đáng khuyến khích như trình bày trên.  Tuy nhiên có thể có vài trường hợp cạnh tranh có thể đưa đến thiệt hại. Thật vậy, tại mỗi tiểu bang hay những quận hạt hay thành phố lớn đều có một bộ phận phụ trách phát triển kinh tế (Department of Economic Development) mà mục đích chính là chiêu dụ những công ty lớn trong cũng như ngoài nước đến lập nhà máy, hãng xưởng ở địa phương mình, chủ yếu là tạo công ăn việc làm cho cư dân.  Để cạnh tranh với các địa phương khác, CQTB hay CQĐP có thể đưa ra những khuyến khích đầu tư  (incentives) hấp dẫn nhưng lại quá tốn kém, như giảm miễn thuế nhiều năm hay vĩnh viễn, xây dựng hạ tầng cơ sở theo yêu cầu của phía đầu tư.  Nếu không may, các dự án đầu tư này không thành công như dự toán, thì rõ ràng sự cạnh tranh tuy kéo được đối tượng về mình, nhưng lại là một thất bại về phúc lợi cho dân chúng trong nhiều năm sau.

* Không Dễ Qui Trách Nhiệm – Trong các quốc gia theo đơn nhất chế, khi xảy ra những biến cố trọng đại, thì công luận thường nhanh chóng –đôi khi không đúng– qui trách nhiệm cho chính quyền trung ương.  Hoa Kỳ  theo liên bang chế, ba cấp  chính quyền phân định không rõ ràng, nhưng công luận vẫn không khác.  Chẳng hạn, trong vụ đại dịch Covid-19 vẫn còn đang tiếp diễn, thì câu hỏi đầu tiên là chính quyền liên bang (nghĩa là cả Quốc Hội lẫn Tổng Thống)  và chính quyền các tiểu bang ai là phía chịu trách nhiệm trước tiên về sự phòng ngừa, phát hiện cũng như chuẩn bị y cụ, vv.   Theo hầu hết các phương tiện truyền thông và dân chúng,  thì Tổng Thống phải chịu trách nhiệm (có lẽ họ dựa theo Điều II, Khoản 3, theo đó ông đã không đề ra những các biện pháp mà ông cho là cần thiết và thích nghi (recommend … such Measures as he shall judge necessary and expedient).  Trong khi đó HP 1789 cũng đã dành nhiều quyền hành cho CQTB như đã đề cập ở trên, và trên thực tế trong mấy trăm năm naỵ CQTB và CQĐP đã đảm trách y tế công cộng trong địa phương mình.  Điều thú vị là khi Tổng Thống Trump tỏ ý muốn khôi phục kinh tế toàn quốc bằng cách yêu cầu các nhà máy, cơ xưởng mở cửa trở lại, thì nhiều Thống Đốc lại nhanh miệng tuyên bố đó là không thể được vì bịnh dịch còn đang hoành hành! Và quyền quyết định thuộc về CQTB.   Điều nghịch lý là trước đó, không vị nào xác nhận rằng “phòng chống bệnh” là quyền hay trách nhiệm của tiểu bang cả!   Rất tiếc đã không có những vụ kiện xảy ra để qui trách nhiệm về ai  — CQLB, CQTB hay CQĐP– để người dân có dịp nghe phán quyết của các quan tòa.

Liên Bang Chế Và Hành Chánh Công Quyền

Đến đây, qua những quan hệ suôn sẻ cũng như gập ghềnh giữa liên bang và tiểu bang, cũng như lợi và bất lợi của LBC, cùng với sự xét xử của hệ thống Tòa Án Liên Bang, chúng ta có thể nhìn được nước Mỹ gần hơn một chút. Những khái niệm mà chúng ta thường nghe như những lý tưởng cao siêu đã trở thành “cụ thể” hơn một chút.  Trong Hiến Pháp cũng như trong 27 Tu Chính Án, không có thuật ngữ “tam quyền phân lập” (separation of powers), như một nguyên tắc, một triết lý chính trị rõ ràng.  Ngay từ thành lập, “Tư Pháp” đã bị coi nhẹ hơn hai quyền kia qua thời lượng thảo luận cũng như những chi tiết ghi ra, đáng chú ý là các thẩm phán không buộc phải do dân bầu như Tổng Thống hay dân biểu và thượng nghị sĩ, mà lại tại vị trọn đời.  Qua thời gian, LBC được định hình và phát triển, nhờ phần lớn ở khả năng của các thẩm pháp liên bang các cấp.  Chúng ta cũng không thấy thuật ngữ “kiểm soát và quân bình” (check and balance). Họa chăng người ta chỉ thấy vài lần trong The Federalist Papers khi 2 tác giả Hamilton và Madison dùng đến chữ “check” để nói về mối quan hệ giữa Lưỡng Viện Quốc Hội mà thôi, khi thấy Hạ Viện được dành cho quá nhiều quyền ; chứ hai ông không viết là dùng chữ “check” để đề cập đến việc dùng quyền này để kiểm soát quyền kia.  Và khi đề cập đến liên bang chế thì đọc lại nhiều lần, chúng ta cũng chẳng thấy từ  “liên bang chế” (Federalism) mà chúng ta đề cập trên đây xuất hiện trong Hiến Pháp và các Tu Chính Án. Thông thường khi nghe nói đến tranh chấp giữa Liên Bang và Tiểu Bang, chúng ta nghĩ đó là tranh chấp “trên dưới” và  thường liên tưởng đến những quyết định hành chánh công quyền.  Mà thực ra đây là những tranh chấp của 2 phía đều có chủ quyền (sovereignty), lẫn quyền (rights) và thẩm quyền (authority) tuy 2 loại quyền sau này có thể bị tranh cãi. Như vậy đó là tranh chấp thuộc phạm trù chính trị. Thêm yếu tố đảng phái, chủng tộc nữa thì lại càng phức tạp.  Tuy nhiên, một nền hành chánh công quyền thích hợp, hữu hiệu cũng có thể giúp giảm bớt các phức tạp này.

Người Mỹ hình như chỉ xem LBC là công cụ để bảo vệ tự do, hơn là để thực thi công bằng xã hội, một đối tượng mà họ khá dè dặt khi đề cập tới, nhất là phía bảo thủ. Phía cấp tiến tuy muốn tập quyền để thực thi chính sách liên bang, trong đó có công bằng xã hội, nhưng cũng chỉ tới đó mà thôi, chứ không đẩy mạnh để hy vọng tạo nên một cơ chế bền vững.  Những người nghiên cứu hành chánh chắc không quên không khí chống chiến tranh Việt Nam, giấc mơ cải tạo xã hội Great Society, tinh thần hăng say của các học giả hành chánh trẻ đã cho chào đời học thuyết “Tân Hành Chánh Công Quyền” (New Public Administration) chủ trương hành chánh công quyền phải có nhiệm vụ cải tạo xã hội trong đó thực hiện công bằng xã hội phải là mục tiêu hàng đầu. Nhưng chủ trương này hình như lần lần đi vào quên lãng. Do Syracuse University (New York) khởi xướng, lần đầu tiên họ họp ở Minnobrook vào tháng 9/1968, đến nay chỉ có thêm 2 lần họp nữa mà thôi  –vào năm 1988 và 2008, nghĩa là 20 năm những “con ve sầu hành chánh” mới gặp nhau một lần!  Cuộc cải tổ hành chánh kéo dài 6 tháng do Phó Tổng Thống Al Gore chủ trì kết thúc với phúc trình “The Report of The National Performance Review” đệ trình Tổng Thống Bill Clinton ngày 7/9/1993 chủ yếu nhằm vào việc giản dị hóa thủ tục hành chánh và sự du nhập các nguyên tắc quản lý khu vực tư vào khu vực công để giảm bớt chi phí, chứ không đề cập gì đến liên bang chế, có lẽ vì nó thuộc phạm trù chính trị cũng như những phức tạp đã đề cập ở đoạn trên.

Toàn cầu hóa làm giàu thế giới, khiến cho sự cách biệt giàu nghèo giữa các nước giảm đi.  Nhưng trong nội bộ các quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, bất bình đẳng về lợi tức (BBĐLT, income inequality) tăng thêm.  Như trình bày, đảng Dân Chủ luôn luôn có chương trình kế hoạch giảm khoảng cách biệt này, nhưng điều nghịch lý là tại những tiểu bang mà Dân Chủ nắm quyền lập pháp, BBĐLT lại càng ngày càng tăng. Một nghiên cứu của kinh tế gia James Galbraith cho thấy 14 tiểu bang mà mức gia tăng về BBĐLT cao nhất đã bỏ phiếu cho ứng viên Tổng Thống Hillary Clinton trong cuộc bầu cử tháng 11/2016.  Trong khi đó 7 tiểu bang với mức gia tăng BBĐLT thấp đã dồn phiếu cho Donald Trump. Và ông kết luận rằng sự tương ứng giữa mức thay đổi BBĐLT và kết quả bầu cử thật là kỳ lạ (Kettl, 2020, p. 158)

Trong hành chánh công quyền, hình như người Mỹ cũng không quá coi trọng “kinh nghiệm”.  Họ quan niệm kỹ năng lãnh đạo, quản lý có thể chuyển đổi (transferable skills), nghĩa là lãnh đạo thành công một công ty thì sẽ thành công ở một cơ quan công quyền hay một địa phận hành chánh, do đó mà mỗi lần Tòa Bạch Ốc thay đổi chủ nhân là mỗi lần có những vị chỉ huy mới  (political appointees) cho nhiều cơ quan, ngay cả cơ quan rất chuyên môn mà người mới lại thiếu chuyên môn.  Họ có thể, mà cũng là không thể, thành công. Quá khứ đã chứng minh điều đó.  Một người lãnh đạo thành công một đại công ty, không nhất thiết sẽ thành công khi lãnh đạo một cuộc chiến tranh; một người lãnh đạo một hội đua ngựa quyền quý, nhưng lớ ngớ khi phải chỉ huy cứu trợ khẩn cấp nạn nhân bão Katrina.  Có người sau một thời gian đã thành công, thì lại đi, không dùng kinh nghiệm và kỹ năng cho cơ quan cũ, nhường chỗ cho người mới tới … bắt đầu học việc. Sự thiếu vắng những viên chức uy tín làm việc lâu năm và có nhiều kinh nghiệm ở trung ương để liên lạc với địa phương cũng là một thiệt thòi cho thể chế liên bang Hoa Kỳ.

Hình như người Mỹ cũng không coi trọng hành chánh công quyền lắm.  Đến nay, họ vẫn còn luận bàn về vai trò của chính trị và hành chánh, vẫn coi trọng quản lý khu vực tư hơn.  Sau Thế Chiến Thứ Hai, trong khi nước Pháp mở Ecole Nationale d’ Administration (ENA) để đào tạo chuyên sâu cán bộ hành chánh trung ương, và lần lượt nhiều viện hành chánh vùng (instituts regionaux d’administration) đào tạo cán bộ hành chánh địa phưong, trong đó khá uy tín là Ecole nationale d’adminstration municipal ENAM, nay là Institut national d’études territoriales, INET) , trong khi  tại Hoa Kỳ, các trường Đại Học dò dẫm cung cấp chương trình MPA, với những môn học tương đối tổng quát cho sinh viên đã tốt nghiệp mọi ngành đại học. Triết lý giáo dục của Hoa Kỳ là giúp anh những điều tổng quát, để ra đời anh tự trau dồi thêm cho thích nghi với địa phương, với hoàn cảnh, và tình thế.  Nhưng một số không nhỏ, sau khi ra trường một thời gian, “đủ lông đủ cánh” thì bay đi nơi khác hay cơ quan khác! Do đó mà hành chánh công quyền Hoa Kỳ tương đối thiếu người kỳ cựu kinh nghiệm.

Liên Bang Chế Và Yếu Tố Truyền Thống

Các tranh cãi đó phản ánh văn hóa chính trị (political culture) của các địa phương.  Nói cách khác những qui luật của chính trị Mỹ thay đổi khi quan niệm và quan điểm của người công dân thay đổi. Ngày xưa sự thay đổi của người dân chủ yếu nhờ giáo dục học đường, chậm nhưng vững chãi. Ngày nay lực lượng truyền thông quá lớn và ảnh hưởng quá mạnh, các công dân “am tường” (informed citizens) dễ bị cung cấp “thông tin dõm” (fake information) đến một cách ào ạt, mà họ lại không có đủ thời giờ để chọn lọc, đánh giá chúng. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói  cư dân các thành thị lớn đông dân dễ bị nhiễu tin hơn cư dân miền quê thưa thớt.  Do đó tìm hiểu văn hoá chính trị Hoa Kỳ thì cũng cần tìm hiểu  thêm về văn hóa chính trị truyền thống và địa phương . Đa số người Việt chúng ta không định cư và sinh sống ở các vùng nông thôn Hoa Kỳ, tuy nhiên nếu có dịp “nhìn lại” qua phim ảnh, sách báo, có thể chúng ta sẽ hiểu biết và “thấm” phần nào cái truyền thống địa phương đó.

 Alexis de Tocqueville, một học giả trẻ người Pháp khi sang Hoa Kỳ 9 tháng (1831-1832) để nghiên cứu chế độ lao tù của nước này, khi về nước đã không tiếc lời ca tụng sinh hoạt của các thành phố Mỹ vùng New England thủa đó.  Trong nhật ký, ông tỏ ra thích thú về các thành phố được đặt tên mang dấu vết lịch sử hay quê hương cũ như Ethena, Troy, Rome, Liverpool, vv. bên cạnh những cánh rừng đầy hoang dã  (sauvagerie).  Trong Chương 5 của quyển Democracy in America (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp De la Démocratie en Amérique: Les Grands Thèmes), Tocqueville viết: “Các thị trấn nhỏ là nơi hội họp duy nhất, bắt nguồn một cách tự nhiên là bất cứ ở đâu người ta tụ họp, là nó tự hình thành …  Con người tạo dựng các vương quốc, các nước cộng hòa, nhưng các thị trấn nhỏ dường như nảy sinh ra từ bàn tay của Chúa.” Trải qua hơn hai trăm năm, các thị trấn lớn nhỏ thay đổi nhiều, nhưng cái truyền thống đó vẫn giữ lại tuy ít, nhưng mỗi khi lễ hội, bầu cử, hay khi địa danh được nhắc nhở trong phim ảnh, một người con địa phương thành danh, hay hy sinh vv., cái truyền thống hào hùng đó chợt sống lại và gắn kết điạ phương với nhau, không khác chi làng quê chúng ta trên cả 3 miền Bắc Trung Nam.  Tinh thần truyền thống nhen nhúm này dễ bùng lên khi có nhân tố mới, chẳng hạn chủ nghiã dân túy (populism) trong kỳ bầu cử 2016 đưa đến thắng lợi cho Tổng Thống Donald J. Trump.

Đã có nhiều người phê phán về LBC Hoa Kỳ. Kettl (2020), một tác giả khá nổi tiếng về nền hành chánh Hoa Kỳ, viết: “Liên bang chế có thể là một khám phá cốt lõi nhằm xây dựng và duy trì nền Cộng Hòa Hoa Kỳ. Nhưng nay nó không còn là chất kết chặt quốc gia với nhau, mà chỉ là động lực phân chia quốc gia mà thôi. Kết quả một nước Mỹ chia rẽ.” (trang 205).  Thật ra, LBC Hoa Kỳ tỏ ra không hoàn hảo ngay từ khi xuất hiện, mức độ hữu hiệu có lúc cao, có lúc thấp.  Nhưng nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.  Có người đề nghị rằng muốn nó hữu hiệu thì cần phải tu chính Hiến Pháp 1789.  Nhưng thủ tục tu chính lại không dễ.   Theo Điều V, khi thấy cần thiết, Quốc Hội có thể đề nghị tu chính với 2/3 số phiếu Hạ Viện 2/3 số phiếu Thượng Viện.  Hoặc phải do Quốc Hội của 2/3 tổng số các tiểu bang, tức Quốc Hội của 34 tiểu bang. Ngoài ra, còn có tác giả đề nghị tăng cường quyền hạn của  cả hai bên liên bang lẫn các tiểu bang (Chemerinsky, 2008).  Trong thời đại kỹ thuật số tân tiến này, cũng đã có những tác giả, chẳng hạn do Koliba (2018) đề nghị  tạo lập những mạng lưới  (networks) để quản lý  hành chánh với gần 90.000 chính quyền,  gồm CQLB + CQTB + CQĐP hầu  tiện việc thi hành các chính sách công.   Người viết chỉ xin  ghi ra đây để quý độc giả có cơ hội thâm cứu.

                                                                                    ***

Đến đây, có thể nói chính Liên Bang Chế đã tạo ra nước Mỹ.  Nếu LBC không ra đời, nước Mỹ khó có thể hình thành và hùng mạnh như ngày nay.  Các nguyên tắc tam quyền phân lập được tạo ra ngay từ đầu là để tránh độc tài, bảo vệ dân chủ, cùng bảo vệ luật pháp –mà Hiến Pháp là luật cao nhất,  Khi tuyên thệ nhậm chức, không giống các nhà lãnh đạo các nước khác tuyên bố trung thành với tổ quốc nhân dân,  các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tuyên bố duy trì, bảo vệ và phòng thủ Hiến Pháp  (preserve, protect and defend the Constitution of the United States).  LBC không hoàn hảo, có những vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề bất bình đẳng về cơ hội và lợi tức, cũng như sự ổn định về mối tương quan quyền lực giữa CQLB + CQTB + CQĐP.

Điều hành hiệu quả Liên Bang Chế  do đó quả là không dễ.  Chúng ta thử suy gẫm về một đoạn dưới đây trích từ lá thư số 51 do James Madison viết trong quyển The Federalist Papers:

“Nhưng chính quyền tự nó là gì nếu không là điều tốt đẹp nhất trong những điều phản ánh bản chất con người? Nếu con người là những vị thánh, thì chính quyền sẽ không cần thiết.  Nếu những vị thánh cai trị con người, thì sự kiểm soát chính quyền từ trong nội bộ cũng như từ bên ngoài sẽ không cần thiết. Khi tạo lập chính quyền với con người cai quản con người, điều khó khăn nhất là ở điểm này: bạn phải cho phép chính quyền kiểm soát người bị trị; và kế đó buộc chính quyền kiểm soát lấy mình.”

 Nếu cần hiện đại hoá khái niệm trên, chúng ta có thể nói “chính quyền” ở đây là cả Chính Quyền Liên Bang, Chính Quyền Tiểu Bang và Chính Quyền Địa Phương ; và “người bị trị” là toàn thể công dân được thông báo đầy đủ (informed citizens), không phân biệt màu da, tôn giáo hay đảng phái.  Trong chính trị, không dễ gì thay đổi khẩu hiệu mà đôi khi chúng ta nghe hò reo thích thú “They get low, we get high”, thậm chí quá đà say máu “They get low, we kill them.”

Để kết luận, chúng ta có thể nhắc lại ý kiến của Huntington (2004) đã trích dẫn dưới tựa đề của bài viết này với ước vọng rằng kết quả cuộc thăm dò năm 1983 của 15 nước Tây Phương mà ông viện dẫn ngày nay không thay đổi nhiều.   Và người Mỹ sẽ tìm được những giải pháp thỏa đáng cho những vấn đề mới mà Liên Bang Chế Hoa Kỳ đưa ra.

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 9 năm 2020

(Trong mùa đại dịch Covid-19)

 ___________

*Chú Thích

Hiến Pháp Hoa Kỳ không đề cập đến chính quyền địa phương của các tiểu bang.  Tổ chức CQĐP/ TB  lại khá phức tạp,  không những khác nhau về tên gọi, diện tích, dân số, cơ cấu quản lý, vv. , mà tiếng Việt khó có từ ngữ để dịch cho đúng, hay có tổ chức tương đương để so sánh.  Nói chung, trong các sách bàn về “State and Local Government”, các tác giả Mỹ chia CQĐP/TB ra làm 2 loại: (1) những CQĐP với mục tiêu tổng quát (general-purpose local governments), thực hiện nhiều chức năng, như county, city vv. ; và (2) những CQĐP với mục tiêu đơn nhất (single-purpose local governments) chỉ thực hiện một chức năng, như school district chỉ lo về trường học. Tổng cộng gồm gần 90.000 chính quyền địa phương. Mỗi năm US Census Bureau đều có thống kê. Có thay đổi về các con số, nhưng không nhiều. Đề nghị độc giả truy cập website http://www. Census. gov/govs/cog nếu muốn biết thêm chi tiết.

Cũng cần lưu ý: Nhiều CQTB lắm lúc than phiền bị CQLB áp lực nặng nề, thì nhiều CQĐP cũng bất mãn không kém khi bị CQTB bức bách, đưa đến kiện tụng tại các Tòa Án, vì hầu hết các CQĐP không phải trực thuộc hành chánh theo cách chúng ta đã quen khi còn ở VN trước 1975.

  • Các CQĐP Với Mục Tiêu Tổng Quát – Người Mỹ xem đây là những bộ phận chính trị (political arms) hơn là những đơn vị hành chánh, vì chúng có đủ Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp mà tên gọi và quyền hạn khác nhau từ TB này sang TB khác.   Dưới đây là một số tổ chức:

Quận (County) – Người Việt ở Hoa Kỳ thường dùng chữ Quận để gọi cho tiện một county Hoa Kỳ, một bộ phận của hầu hết các TB.  Nước Mỹ có trên 3000 đơn vị như thế này. Thật ra, Quận của VNCH trước 1975 có thể lớn hay nhỏ hơn một county Mỹ, nhưng hoàn toàn khác với county về phương diện quản lý.  Quận Việt Nam là trung gian giữa Tỉnh và Xã, mà hai đơn vị này đều có tư cách pháp nhân, Hội Đồng (Tỉnh, Xã) do dân bầu, và có ngân sách riêng. Còn quận thì không có tư cách pháp nhân, cũng không có ngân sách. County là một địa phận hầu hết tương đối thôn quê. Tiểu bang Hawai chỉ có 3 counties, California có 57, Virginia có 96, Texas lại có đến 254.  Tại Virgina, mỗi county (cũng như city, sẽ đề cập) phải có những chức vụ sau đây do dân bầu lên, có nhiệm kỳ 4 năm. Đó là:  Treasurer, Sheriff, Attorney of the Commonwealth, Commission of Revenue, Clerk of Court (nhiệm kỳ 8 năm).  Bộ phận lãnh đạo county, gọi là Board of Supervisors (hay Board of Commissioners, County Board tại nhiều tiểu bang khác) mà mỗi supervisor của mỗi khu vực cũng do dân bầu, phụ trách thuê mướn nhân sự hành chánh và chuyên môn cung cấp dịch vụ. Ngân sách của County do thuế (sales taxes, property taxes), lệ phí (cung cấp nước, thu nhặt rác), tiền cho thuê tài sản, tiền phạt giao thông, tòa án và các trợ giúp của tiểu bang và liên bang. Đơn vị hành chánh căn bản của nhiều tiểu bang là county. Louisiana gọi nó là parish; Alaska gọi là borough.  Toàn quốc có trên 3000 counties và tương đương.

Thành Phố (City) Có tác giả dùng municipality đồng nghĩa với city.  Nhưng đa số , trong đó có US  Census Bureau, dùng municipality để chỉ city và town. Thành phố được thành lập (incorporated) theo luật tiểu bang, và hoạt động theo một bản điều lệ (charter) do lập pháp tiểu bang phê chuẩn, hay theo luật TB (như tại California).  Tại Virginia, thành phố được thành lập theo một đạo luật của lập pháp Virginia; hay theo thủ tục tư pháp tại một tòa sơ thẩm (circuit court) ở county nơi thành phố này toạ lạc. Phải hội đủ những điều kiện chính đáng, trong đó có các điều kiện về dân số, mật độ, lý do (tạo thêm lợi ích cho đơn vị mới cũng như cho các đơn vị hành chánh lân cận).  Thành phố thường đông dân hơn thị trấn.  Sau khi thành lập, các thành phố và thị trấn trở nên tự trị, không được trông cậy vào đơn vị cũ để cung cấp dịch vụ nữa; thuế thường cao hơn. Có những thành phố sau khi thành lập càng ngày càng phát triển; đôi khi trở nên xung đột với tiểu bang đưa tới kiện cáo.  Nhưng cũng có những thành phố sau 5-7 năm thì “phá sản” và phải quay về với county cũ.  Các thành phố có thể được điều hành theo một trong những hình thức sau đây: (1) Thị-Trưởng Hội Đồng (Mayor- Council): Dân bầu lên Hội Đồng, Thị Trưởng và một số viên chức khác, như ủy viên thuế vụ, thủ quỹ à Thị Trưởng tuyển chọn các viên chức phụ trách công chánh, tài chánh, an toàn, phát triển cộng đồng, công viên vv. (2) Hội Đồng- Quản Lý Viên (Council- Manager): Dân bầu Hội Đồng à  Hội Đồng bổ QLV (có thể là 1 thành viên của HĐ) à QLV bổ chuyên viên. (3)  Ban Ủy Viên Thành Phố (City Commission): Dân bầu ra một số ủy viên, mỗi vị phụ trách phần vụ chuyên môn à một vị sẽ được đề cử đảm trách việc họp hành để phối hợp công tác.   Hình thức (1) taọ một chính quyền mạnh, thường áp dụng cho các thành phố lớn, đông dân, giàu có. Hình thức (2) khá hữu hiệu. Có vài thành phố mà Hội Đồng Thành Phố (City Council)  quản lý rất khéo bằng cách mướn City Manager giỏi;  thuê các counties lân cận cung cấp dịch vụ (xã hội, pháp lý ) cho cư dân mình, không phải tốn kém nhiều cho nhân sự, hành chánh.

Thị Trấn Lớn – Thị Trấn Nhỏ (town và township), thường ít dân hơn county và city. Khi dân số tang  nhiều, town có thể xin trở thành city; và khi dân số giảm, chúng dễ mất tư cách này và nhập vào county, như trường hợp của các city.  Hiện nay chỉ tồn tại ở 20 TB, chủ yếu Vùng Northeast và Midwest. Hằng năm, toàn thể dân chúng trong town họp khoáng đại hội nghị; đưa ra phương hướng hoạt động, bầu ra các viên chức, thông qua các qui định, biểu quyết ngân sách, ấn định thuế suất vv. Township, ít dân hơn town, và thôn dã hơn, thường được quản lý bởi những viên chức bán thời gian, hay tự nguyện. Theo thống kê 2007, Hoa Kỳ có 16.519 towns và townships, chỉ giảm 110 so với mười năm trước đó. (Bownan & Kearney, 2012, p. 266).

  • Các CQĐP Với Mục Tiêu Đơn Nhất

Còn được gọi là những khu đặc biệt (special districts).  Đây là những đơn vị chính quyền độc lập, được thành lập nhằm một mục tiêu hạn chế và đặc biệt.  Mỗi năm đều có những khu đặc biệt mới ra đời, và những khu đặc biệt hiện hữu biến đi. Nói chung, các CQĐP loại này được thành lập vì lý do kỹ thuật/tài chánh (chẳng hạn dự án dẫn nước sạch hay dự án cống rãnh buộc phải qua ranh giới của một hay nhiều counties hay thành phố khác), hay vì lý do chính trị (phòng chống lũ lụt, bảo vệ môi sinh). Nhưng loại CQĐP phổ biến nhất trên toàn quốc có lẽ là các học khu (school district).  Số học khu mỗi tiểu bang lại khác nhau, tùy theo truyền thống hơn là tùy theo số học sinh.  Thí dụ California có tới 1.025, Texas đến 1.079.  Có vài TB, học khu còn bao gồm các trường đại học cộng đồng (community college).  Toàn quốc có khoảng 14.000 học khu độc lập.  Đối với các trường công, học khu chịu hoàn toàn trách nhiệm trong 32 tiểu bang; hầu hết trách nhiệm trong 8 TB; một phần trách nhiệm trong 5 TB.  Riêng 5 TB còn lại gồm Alaska, Hawaii, Maryland, North Carolina và Virginia, không có học khu độc lập, hay nói khác đi toàn TB chỉ xem như chỉ có một học khu.   Học khu được điều hành bởi  một hội đồng (board), thường gồm 3 người trở lên, được dân bầu trực tiếp, không mang tính đảng phái; có nhiệm vụ quản lý ngân sách học khu, thuê trưởng học khu (school superintendent) mà ở nhiều nơi lương lại cao hơn cả lương thống đốc tiểu bang.

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

Blakeman J. & Banks C. (2018).  The US Supreme Court, New Federalism, and Public Policy. In Controversies in American Federalism and Public Policy. Ed. Christopher P. Banks. New York, NY: Routledge.

Chemerinsky, Erwin (2008). Enhancing Government: Federalism for the 21st Century. Stanford, CA: Stanford University Press.

Drake, F. & Nelson, L. (1999). States’ Rights and American Federalism: A Documentary Historỵ.  Westport, CT: Greenwood Press                  

Elazar, D., Carroll R., Levine E. & Angelo, D. (Ed.). (1989).  Cooperation and Conflict: Readings in American Federalism. (11th ed.).  Itaska, IL: F. E. Peacock Publisher.

Gelm, Richard (2008).  How American Politics Works: Philosophy, Pragmatism, Personality and Profits. Newcastle, UK:  Cambridge Scholars Publishing.

Huntington, Samuel (2004). Who Are We? The Challenges to America‘s  National Identity. New York, NY:  Simon & Schuster.

Kettl, Donald (2020). The Divided States of America: Why Federalism Doesn’t Work. Princeton, NY: Princeton            University Press.

Koliba, C., Meek, J., Zia, A. & Mills, R. (2018).  Governance Networks in Public Administration and Public Policy.             (2nd ed.).   New York, NY: Routledge.

Lê Văn Bỉnh.  Câu Chuyện Nợ Nần Nước Mỹ.  Hành Chánh Miền Đông số 17 (2012).  Có thể còn được giữ lại trên một vài Website với tựa đề “Câu Chuyên Nợ Nần Của Chính Phủ Hoa Kỳ”.  Tác giả có thể gửi bản thảo nếu độc giả yêu cầu.  Địa chỉ: levanbinh4303@yahoo.com

May, C & Ides, A. (2013) Constitutional Law: National Power and Federalism. (6th ed.) New York, NY: Wolters Kluwer Law & Business.

Plano, J. & Greenberg, M. (2002). The American Political Dictionary. Belmont, CA: Wadsworth.

Peaslee, L. & Swartz, N. (2014). Virginia Government: Institutions and Policy. Thousand Oaks, CA: Sage.

Posner, P & Conlan, T. (2016). European-Style Federalism’s Lessons for America.  In State and Local Government: 2015-2016 Edition. Ed. Kevin B. Smith. Thousand Oaks, CA: Sage.

Rozell, M. & Wilcox, C. (2019) Federalism: A Very Short Introduction. New York, NY: Oxford University Press.

Smith, K. & Greenblatt A, (2018). Governing States and Locations. (6th ed). Thousand Oaks, CA: CQ Press.

Visits: 309

Câu Chuyện Nợ Nần của Chính Phủ Hoa Kỳ

Lê Văn Bỉnh

Trong một bức thư gửi cho một người bạn, vị Bộ Trưởng Ngân Khố đầu tiên của Hoa Kỳ Alexander Hamilton (hình trên tờ giấy bạc $10), đã viết:

Quốc trái, nếu không dư thừa, sẽ là quốc phúc đối với chúng ta. Nó sẽ là một chất xi măng có tác dụng mạnh mẽ gắn chặt Liên Hiệp của chúng ta lại. Nó còn đưa đến sự cần thiết duy trì thuế khóa tới mức độ nào đó, nếu không bị áp chế, sẽ là một kích thích cho nền kinh tế.

Hamilton đã viết những lời trần tình trên vào năm 1780, tức trên hai trăm ba mươi năm về trước, để giải thích vì sao quốc gia tân lập này cần huy động quốc trái để trả dứt nợ mà một số tiểu bang còn mắc trong cuộc chiến tranh giành độc lập từ nước Anh. Quan điểm của ông đã thắng thế thời bấy giờ.  Và quốc trái Hoa Kỳ hình thành từ đấy .

Nhiều người khi biện minh cho việc chính phủ vay nợ, đã cố tình bỏ đi mấy chữ “if it is not excessive” trong câu “A national debt, if it is not excessive, will be to us a national blessing.”

Có lẽ chỉ vì Hamilton đã không cho biết đến mức độ nào thì nợ bị gọi là “dư thừa”, cho nên vấn đề quốc trái đã không ngừng được bàn cãi trong những thập niên vừa qua khi mức nợ cứ lần lần lên cao, và “nổ tung” ra từ giữa năm 2011 khi cần phải quyết định xem đến đâu thì được xem là mức nợ không được phép vượt qua (debt ceiling). Báo chí của cộng đồng người Việt hải ngoại bỗng dưng cũng bị hai “chữ lạ” xâm nhập.  Đó là “Nợ trần”! Nếu tiếng Anh mà dịch ra dễ dàng như thế này, thì thiên hạ chỉ cần lật từ điển ra là xong, chứ cần chi phải mất thì giờ học ngữ pháp!

Chữ quốc trái trong bài này dùng để dịch chữ national debt. Nếu đề cập đến Hoa Kỳ mà thôi, nó cũng dùng để chỉ nợ liên bang (federal debt) mà chính phủ liên bang Hoa Kỳ vay mượn từ các nguồn trong và ngoài nước.

Thật ra đã từ lâu các nhà lãnh đạo trên thế giới đã sử dụng quốc trái để tài trợ những chi phí cần thiết.  Đế quốc La Mã, đế quốc Anh v.v. không những chỉ được xây dựng trên xương máu của binh sĩ, mà còn trên nợ nần để mua sắm vũ khí, tàu bè, quân trang, quân dụng. Và từ năm 1936, khi học thuyết của kinh tế gia John Meynard Keynes ra đời thống ngự chính sách kinh tế của hầu hết các nước Tây phương nhiều thập niên sau đó, thì vay mượn trở thành “chuyện thường ngày”. Không phải chỉ khi có chiến tranh lớn, chính quyền mới vay mượn nợ; mà trong thời bình, mỗi khi thấy cần thiết, chính quyền cũng vay mượn nợ như một công cụ cho chính sách kinh tế tài chánh. Thậm chí nhiều chính quyền còn vay mượn nợ để tài trợ cho những chương trình được xem là dân sinh để nhằm duy trì hay củng cố quyền lợi của cá nhân hay đảng phái của mình.

Song song với cuộc khủng hoảng nợ nần của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, người ta cũng đang chứng kiến cảnh bên kia bờ Đại Tây Dương nhiều nước châu Âu trong Châu Âu Thống Nhất lâm vào cảnh nợ nần chồng chất.  Bắt đầu từ Hy Lạp, rồi đến Ý, đến Tây Ban Nha v.v., vấn đề quốc trái đang đe dọa nền tiền tệ của khu vực sử dụng đồng euro.  Ban đầu nhiều người nghĩ nếu không có sự ra tay của “hiệp sĩ” Đức dưới một hình thức nào đó, thậm chí của “hảo hớn” Bắc Kinh mà ngũ tạng kinh tế cũng đang có vấn đề, thì tổ chức bên kia bờ Đại Tây Dương này, vốn đã được dày công thành lập với tham vọng đối kháng với sức mạnh kinh tế Hoa Kỳ, sẽ trở về giấc mơ nguyên thủy. Nhưng sau hội nghị thượng đỉnh European Leaders ngày 26/10/11 vừa qua, thì tình hình tài chánh của châu Âu đã bớt khẩn trương và các vấn đề sẽ được giải quyết theo hướng mà hội nghị đã vạch ra, tuy chi tiết thi hành cũng sẽ gây xích mích ít nhiều giữa các nước trong tổ chức, nhất là giữa Pháp và Đức.

MỘT CHÚT LÝ THUYẾT

Để tài trợ công chi, chính phủ thường sử dụng 2 biện pháp chính: thuế và vay mượn. Tại Hoa Kỳ, cả hai đều phải có sự chấp thuận của Quốc Hội: thuế thường được biểu quyết riêng biệt và vay mượn thường được thông qua khi biểu quyết ngân sách.  Lệ phí cũng giúp khá nhiều cho số thu[1], do các cơ quan hành chánh quyết định. Ngân sách hằng năm của liên bang mang tên niên lịch năm sắp tới, bắt đầu vào ngày 1 tháng 10 của niên lịch trước và chấm dứt vào ngày 30/9 niên lịch sau.  Thí dụ Ngân Sách 2012 bắt đầu ngày 1/10/2011 (đã được soạn thảo xong và chuyển sang quốc hội vào tháng Hai năm 2011 để Quốc Hội thảo luận và biểu quyết) và sẽ chấm dứt ngày 30/09/12.  Lý tưởng là số dự thu bằng số dự chi.  Đôi khi nền kinh tế bỗng nhiên phồn thịnh hơn dự tính, thì số thực thu có thể vượt quá số dự thu, nhờ căn bản thuế tăng lên, trong khi thuế suất vẫn không thay đổi. Khi số thực thu nhỏ hơn số thực chi thì xảy ra khiếm hụt ngân sách (budget deficit). Và khi số thực thu lớn hơn số thực chi thì là thặng dư ngân sách (budget surplus).

            Khi số thu (revenues) nhỏ hơn số chi (outlays), thì ý nghĩ đầu tiên là phải tìm cách nâng số thu lên, bằng cách tăng thuế suất các loại thuế hiện hành hoặc đặt ra các loại thuế mới. Giải pháp tăng thuế suất có thể đưa đến việc trốn thuế (tax evading), tức người bị đánh thuế sẽ không khai thuế, hoặc khai gian, mặc dầu biết đó là phạm pháp; hoặc họ tìm mọi cách để tránh thuế (tax avoiding) nếu có thể được, chẳng hạn không đi làm thêm nếu là cá nhân, hay tân tạo, sửa chửa máy móc dụng cụ theo luật định, mặc dầu không cần thiết, nếu là cơ sở thương mại. Cả hai hành vi trốn thuế và tránh thuế, nếu ở mức độ cao sẽ đưa đến thất thu cho ngân sách.  Ngoài ra, cả hai giải pháp tăng thuế hay ra thuế mới không phải dễ thực hiện, vì dễ đưa đến hậu quả chính trị không hay cho những nhân vật đề nghị, hay bỏ phiếu.

Một câu hỏi tự nhiên khác cũng được đặt ra: Tại sao khi dự trù ngân sách lại không bớt số dự chi để cho nó cân bằng với số dự thu? Thông thường vị Tổng Thống đương nhiệm, muốn chứng tỏ mình làm được việc, thường có khuynh hướng thêm chương trình này, dự án nọ v.v. dĩ nhiên đưa đến tốn kém hơn dưới thời người tiền nhiệm, hay ngay cả dưới tài khóa trước; hoặc để cứu nguy cho tình thế kinh tế suy thoái, thì lại tốn kém nhiều hơn. Dự trù chi thêm, nhưng lại không dám dự trù tăng thuế, nhất là phải tăng nhiều cho cân bằng. Khi thảo luận, các vị dân cử — nhất là các vị thuộc đảng đối lập — có thể đề nghị cắt bớt các khoản chi; nhưng chẳng mấy ai dám đề nghị tăng thuế, nhất là tăng thuế đụng chạm đến quyền lợi của cử tri, đặc biệt cử tri đã từng ủng hộ, hay có thể sẽ còn ủng hộ mình. Vai trò của các tay vận động hành lang (lobbyists) sẽ trở nên rất lợi hại đối với các công ty, các ngành nghề lớn (xe hơi, xăng dầu, nông nghiệp vv.)

            Khi Quốc Hội thảo luận cắt bỏ một số loại thuế, nhất là khi giảm thuế suất cho thuế hiện hành –đặc biệt thuế lương bỗng (payroll tax) và thuế lợi tức (income tax), dư luận thường lên án là cắt giảm thuế chỉ “giúp cho người giàu trở thành giàu thêm”. Câu chuyện này đã xảy ra từ thời Tổng Thống Reagan. Tái diễn ra dưới thời Tổng Thống G.W. Bush, khi nền kinh tế Hoa Kỳ đã có dấu hiệu suy thoái trước khi ông bước vào Tòa Bạch Ốc, chứ không cần phải đợi đến biến cố lịch sử 9-11-2001.  Có phải thực sự Đảng Cộng Hòa đã hai lần hành động vô lý và “điên rồ” hay không?

            Vì chủ trương giảm thuế suất để tăng thu cho ngân sách là một chủ trương tương đối mới, chỉ phổ biến từ đầu thập niên 1970, cho nên xin bàn thêm một chút. Thật vậy, từ khi phương pháp sản xuất hằng loạt (mass production) được áp dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, lý thuyết kinh tế dựa chủ yếu trên số cầu tổng gộp (aggregate demand): muốn kinh tế tăng trưởng cần phải nâng cao số cầu tổng gộp, tức cầu của những người tiêu thụ (consumption), cộng với cầu của những nhà đầu tư (investment) và cầu của chính phủ (government), tức (C + I + G) như thường viết vắn tắt. Theo Keynes, cung cầu không thể tự điều chỉnh; do đó muốn giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, thì chính quyền cần ảnh hưởng đến cầu tổng gộp qua chính sách tài chính, tức tăng công chi. Theo lý luận này, thì một đô la chính phủ chi ra sẽ làm cho tổng sản lượng quốc gia tăng thêm nhiều hơn một đô la theo tác dụng số nhân (multiplier effect), và càng lớn hơn khi càng trao đổi nhiều lần hơn. Nói chung, cầu tổng gộp tăng kéo cung tổng gộp (hàng hóa và dịch vụ) tăng theo, làm cho kinh tế lớn mạnh thêm, và chính quyền sẽ thu nhiều được thuế hơn. Năm 1971, sau khi quyết định tách đồng đô la ra khỏi kim bản vị (tức không thể đổi đồng đô la để lấy vàng như trước đó), Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Giờ đây tôi cũng là một người theo chủ nghĩa Keynes trong kinh tế học” (I am now a Keysian in economics).

            Sang đầu thập niên 1970, một số kinh tế gia thuộc trường phái “kinh tế dựa trên phía cung” (supply side economics, trong đó có Arthur B. Laffer[2], sau trở nên một thành viên của Economic Policy Advisory Board của Tổng Thống Reagan 1981-89), lý luận rằng việc giảm thuế suất không những không bớt mà còn tăng tổng số thu cho ngân sách nữa. Nếu tổng số thuế thu là tích số của thuế suất và căn bản thuế (tax base), như công thức dưới đây:

     Tổng số thuế thu =  (thuế suất) X (căn bản thuế),

thì khi giảm thuế suất đến một mức nào đó, căn bản thuế sẽ mở rộng ra, và chính phủ sẽ thu thuế vào nhiều hơn.  Theo một nghiên cứu, khi thuế suất lên cao đến 70%, như trường hợp Thụy Điển năm 1969, chính quyền giảm thuế suất, thì tổng số thu đã tăng lên.  Cơ sở cho lý luận của lý thuyết “kinh tế dựa trên phía cung” là: Giảm thuế suất sẽ khuyến khích và thúc đẩy người ta hăng hái làm việc hơn: người lao động cung cấp thêm sức lao động để làm thêm giờ, thêm jobs; các nhà sản xuất cung cấp thêm hàng hóa dịch vụ, các nhà tư bản cung cấp thêm vốn để đầu tư vv. Và Chú Sam sẽ có thêm tiền thuế bỏ vào túi, nhiều hơn khi không giảm thuế suất.

            Một thí dụ giản dị hoá: Giả sử có 10.000 người đang thất nghiệp, và mỗi người hưỏng trợ cấp thất nghiệp 1.300 đô la/tháng.  Nếu có jobs mở ra cho họ, trung bình 2.000/tháng và thuế suất là 20%; như vậy khi đi làm, họ sẽ lãnh 1.600 đô la/tháng, không hơn trợ cấp thất nghiệp bao nhiêu và chưa chắc họ muốn đi làm ngay.  Bây giờ, nếu giảm thuế bằng cách hạ thuế suất xuống chỉ còn 10%, nếu đi làm mỗi người sẽ lãnh 1.800 đô la/tháng. Họ có thể suy nghĩ lại. Nếu tất cả đều đi làm, thuế chính phủ sẽ thu: 2.000 x 10% x 10.000 = 2.000.000 đôla/tháng.  Đó là chưa kể đến số tiền tiêt kiệm lớn vì  không còn phải trả cho trợ cấp thất nghiệp:  13.000.000 đôla/tháng.

            Ứng cử viên Tổng Thống Ronald Reagan đã đưa ra chương trình giảm khiếm hụt ngân sách và nợ nần liên bang như một trong những chủ đề tranh cử. Thắng cử vẻ vang, ngày 20/1/81, ông tuyên bố như sau về chuyện nợ nần trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên:

Đồng bào và tôi, với tư cách cá nhân, có thể sống quá phương tiện của chúng ta bằng cách vay mượn, nhưng chỉ trong một thời gian hạn định mà thôi.  Vậy thì, nói chung như một quốc gia, chúng ta có nên nghĩ rằng chúng ta không bị ràng buộc bởi cùng cái giới hạn đó hay chăng? Chúng ta phải hành động ngay bây giờ để duy trì mai hậu. Và đừng để hiểu lầm. Chúng ta sẽ bắt đầu hành động, bắt đầu ngay hôm nay.”

Ông lại còn quả quyết: “Chính quyền không là một giải đáp cho vấn đề; chính quyền mới chính là vấn đề.” Ông đã thành công trong việc thuyết phục quốc hội chịu giảm thuế suất lợi tức (từ 70%, xuống còn 50% năm 1984, rồi chỉ còn 33%; rồi với cuộc cải cách thuế khóa  năm 1986, thuế lợi tức chỉ còn 2 thuế suất 28% và 15% khi ông mãn nhiệm kỳ 2). Ông cũng tận lực cắt giảm tổng công chi của chính phủ liên bang, từ 23,5% TSLQG năm 1983 xuống còn 21,2% năm 1989.  Chỉ riêng trong lãnh vực quốc phòng, ông cũng làm cho các vị dân cử bùi tai thông qua kế hoạch tốn kém “Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao” (Star War), lôi cuốn Liên Xô phiêu lưu vào cuộc thi đua võ trang, và cuối cùng tan rã, chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh không một phát súng như chúng ta đã biết. Và kết quả sau 2 nhiệm kỳ là: khiếm hụt từ 73.845 tỷ (tài khóa 1981) 152.481 tỷ (tài khóa 1989), và nợ liên bang cùng thời đã tăng theo, từ 909.050 triệu tỷ lên 3.206.564 triệu, tức trên 3,2 ngàn-tỷ (3.2 trillion).  Nói cách khác, nợ nần tính bằng ngàn-tỷ bắt đầu từ thời Reagan![3]

            Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh ở đây: Khiếm hụt ngân sách và quốc trái không phải là các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của chính sách kinh tế, vì các mục tiêu chính của chính sách kinh tế là chống lạm phát, tạo công việc làm, tăng lợi tức cho dân chúng. Thật vậy, dưới thời Reagan, ngân sách năm nào cũng khiếm hụt – năm ít hơn, năm nhiều hơn – và quốc trái mỗi năm đều tăng về số lượng, cũng như về tỷ lệ so với tổng sản lượng quốc gia (Quốc Trái/TSLQG)[4], nhưng nhờ chính sách cắt giảm thuế và chủ trrương tháo gỡ các ràng buộc (deregulation, chẳng hạn không còn qui định giá cả, lệ phí, không hạn chế địa lý hoạt động của các ngân hàng v.v.) mà nền kinh tế Hoa Kỳ bành trướng thêm ra hơn 30% trong thời kỳ 7 năm hồi phục. Chỉ riêng năm 1984, mức tăng trưởng kinh tế lên con số kỷ lục 6,8%. Về phương diện nhân dụng, đã có thêm 20 triệu công việc làm; tỷ lệ thất nghiệp giảm dần, chỉ còn 5,3% vào năm 1989. Tỷ lệ lạm phát năm 1980 (trước khi Reagan nhậm chức) xuống phân nửa, tức chỉ còn 6,2% vào năm 1982; rồi lại xuống thêm phân nửa vào năm sau đó, tức 3,2%, nghĩa là gần đạt mức lý tưởng 3% mà các kinh tế gia xem là lúc nền kinh tế toàn dụng. Cũng dưới thời Reagan, lợi tức khả dụng thực (real per capita disposable income, tức lợi tức khả dụng sau khi điều chỉnh lạm phát) đã tăng lên 18%, khiến cho mức sống của dân chúng được nâng cao nhiều.

            Lúc đầu, nhiều kinh tế gia không mấy tin tưởng vào hiệu quả của nguyên tắc giảm thuế theo lý thuyết kinh tế dựa trên phía cung. Nhưng về sau, khi nó phát huy đầy đủ tác dụng thì kết quả rất khả quan. Thực vậy trong tài khóa 1986, khiếm hụt ngân sách lên đến con số kỷ lục: 221 tỷ. Nhưng trong 3 tài khóa kế tiếp sau đó, thì khiếm hụt chỉ còn là 149,8 tỷ; 155,2 tỷ và 152,5 tỷ. Một vài tác giả còn dành công lao cho lý thuyết này khi kể đến sự ra đời và phát triển của các đại công ty như Microsoft, Intel, Wal Mart v.v.

            Trên đây là lời giải thích rất đơn sơ cho biết vì sao những chính quyền sau đó vẫn còn chuộng các biện pháp giảm thuế.

KHIẾM HỤT NGÂN SÁCH VÀ QUỐC TRÁI

Khi ngân sách khiếm hụt, thì chính quyền đi vay nợ để tài trợ các khoản chi, nếu không thể thu thuế đủ để trang trải.  Nhìn lại lịch sử của Hoa Kỳ trong một trăm năm vừa qua, chúng ta thấy rằng không phải đợi đến khi có chiến tranh, thì ngân sách mới thâm thủng; mà ngay trong thời bình chính phủ cũng phải vay mượn, tuy thường ít hơn.

            Thật vậy từ tài khóa 1909 đến 1917, tỷ lệ quốc trái so với tổng sản lượng quốc gia (TSLQG) chỉ trong khoảng 2% – 3%.  Mười tài khóa thời bình (1930-1940) do ảnh hưởng của cuộc Đại Suy Thoái Kinh Tế (Great Depression), tỷ lệ này lên từ 17,90% lên 50,85%.  Các biện pháp can thiệp khá thành công của nhà nước dưới thời Tổng Thống Franklin D. Roosevelt (1933-1945) vào lãnh vực kinh tế tài chánh, cùng sự ra đời của học thuyết của John M. Keynes về vai trò tích cực của chính quyền trong việc giải quyết thất nghiệp như đã đề cập là một bước ngoặc quan trọng giúp chính quyền càng ngày càng thêm bạo dạn trong việc sử dụng nợ nần trong thời bình.

Thế Chiến Thứ Hai là một biến cố gây tốn hao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ so với tất cả những biến cố trước đó:  Tài khóa 1946, ngân sách khiếm hụt 17.389 triệu, đưa quốc trái tích lũy lên mức 269.422 triệu, tức 129,98% TSLQG.  Nhưng trong sáu tài khóa kế tiếp, ngân sách đều thặng dư, nợ được trả dần; quốc trái chỉ còn bằng 74% TSLQG (1952).

Từ đó đến năm 1997, ngoại trừ một năm thặng dư (1960), ngân sách liên bang đều khiếm hụt, nhưng tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG lại giảm dần (phần lớn nhờ TSLQG tăng nhanh), thấp nhất là 33,84% (1981), rồi lại tăng lên. Cuối nhiệm kỳ của Reagan (1989), tỷ lệ này là 54,68%. Và cứ thế mà tăng thêm.  Đến nhiệm kỳ 2 của Bill Clinton, thì có bước ngoặc rất lịch sử: liên tiếp 4 tài khoá (1998, 1999, 2000 và 2001), ngân sách đều thặng dư. Được như thế, một mặt, là do giảm chi: trung bình mỗi năm chi tiêu thực (đã điều chỉnh lạm phát) chỉ tăng 1,5% TSLQG (so với 5% dưới thời Lyndon Johnson và George W. Bush)  nhờ chi phí quốc phòng sau khi Bức Tường Bá Linh đổ xuống chỉ còn chiếm 3% TSLQG (so với 10% trong 3-4 thập kỷ trước đó) .  Mặt khác, cũng nhờ tăng thu, chẳng hạn, tăng thuế suất áp dụng cho nhóm lợi tức cao nhất lên đến mức 39.6%  (Bush hứa “read my lips” không có thuế mới “no new taxes” nhưng đã tăng thuế suất này từ 28% lên 31%, và tạo nhiều bất lợi chính trị khi ông tái cử dù đã tạo chiến thắng quân sự huy hoàng ở Vùng Vịnh), tiền hưu an sinh xã hội (social security benefits) cũng bị thuế. Tóm lại, do giảm chi và nhờ bội thu do kinh tế tăng trưởng, tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG thấp xuống: lần lượt là 62,60%; 60,50%; 57,30% và 59,20%.  Đến đây, những chuyên viên kinh tế, tài chánh, ngân hàng, ngân sách tỏ ra vô cùng phấn khởi, hy vọng là nếu tiếp tục giữ cơ cấu thuế và hạn chế chi tiêu như thế này thì đến năm 2013, chính phủ Mỹ sẽ trang trải hết nợ nần.

Nhưng đó chỉ còn là một giấc mơ lớn! Như đã thấy, trong trên 50 năm, từ 1949 đến 2001, Hoa Kỳ chỉ có 10 tài khóa ngân sách thặng dư, thì trong 50 năm tới, con số tài khóa thặng dư chắc chắn sẽ còn ít hơn. Và giấc mộng trả dứt nợ nần không thể nào thành sự thật được.

Thật vậy, năm 2001, sau khi Tổng Thống G.W. Bush được bầu vào Tòa Bạch Ốc, thì nhiều biến cố lớn xảy ra: vụ không tặc tấn công New York và Washington DC làm kinh tế trì trệ, hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq vô cùng tốn kém. .

Phấn khởi vì 4 tài khóa thặng dư trong nhiệm kỳ hai của Tổng Thống Clintonnhư đã nói trên, nhiều chuyên viên đề nghị tỷ lệ Khiếm Hụt/TSLQG không được vượt quá 1%.  Nhưng khi Tổng Thống G.W. Bush bước vào Nhà Trắng năm 2001, thì kinh tế có đã dấu hiệu suy thoái rồi. Để chống suy thoái, ông tạm cắt giảm thuế trong một thời gian  Trước hết, là thuế lợi tức cá nhân.  Sở dĩ thuế suất thuế lợi tức cá nhân đưọc sử dụng thường xuyên vì nó không những là một công cụ tài chánh hữu hiệu dễ đem lại nguồn thu lớn nhất cho chính quyền liên bang mà còn phản ảnh khá rõ ràng lập trrường chính trị của đảng cầm quyền. Thật vậy, individual income tax & tax withholding trong 2 tài khóa 2004 và 2005 chiếm trên 80% ngân sách dự trù[5]. Bush giảm tỷ lệ 39,6% cho nhóm cao nhất thời Clinton, giảm xuống còn 35% (rất thấp so với tỷ lệ 94% thời Thế Chiến Hai, hay 90% thời Tổng Thống Eisenhower 1963-61); và cho nhóm thấp nhất từ 15% xuống còn 10%. Năm 2003, thuế suất đánh trên thắng lợi tư bản (capital gains tax rate) và thuế suất thuế lợi tức đánh trên tiền lời cổ phiếu công ty (income tax rate on corporate dividents) được giảm hơn phân nửa. Năm sau đó, Đạo Luật American Jobs Creation Act lại giảm thuế lợi tức cho các công ty Hoa Kỳ kinh doanh ở nước ngoài.

Nhưng với những phương cách giảm thuế suất đó, tổng số thu không tăng lên nhanh như dự trù, mà trái lại còn sụt xuống nhiều — chủ yếu do ảnh hưởng biến cố 11/9/2001– từ 20,9% GNP trong tài khóa 2000 xuống còn 16,3% GNP trong tài khóa 2004. Chỉ riêng trong tài khóa này, quốc trái lên đến 413 tỷ. Tuy nhiên, trong 3 năm kế tiếp, sau khi các biện pháp cắt giảm thuế nói trên được áp dụng và phát huy tác dụng, thì nền kinh tế cải tiến phục hồi khả quan: chi phí tư doanh tăng trung bình mỗi quý 6,7%, nhờ đó tạo thêm 7,8 triệu công việc làm, hạ tỷ lệ thất nghiệp từ 6% xuống còn 4,4%, sản lượng công nghiệp vọt lên cao nhất tính trong vòng 20 năm, đẩy suất số tăng trưởng kinh tế lên 3,5%, tức tăng gấp đôi 3 năm trước đó. Riêng số thu đánh trên thắng lợi tư bản (capital gains tax) lại tăng gấp đôi mặc dù thuế suất giảm đi 25%.

Nhưng những thuận lợi trên không kéo dài được lâu.

Nếu trước đây đến cuối nhiệm kỳ của Tổng Thống Clinton, thì nay chỉ mới đến năm thứ 7 của nhiệm kỳ của vị Tổng Thống G.W. Bush,  nền kinh tế phồn vinh dựa trên nợ nần vay mượn của Hoa Kỳ cho thấy nhiều dấu hiệu suy thoái. Những người Mỹ lớn tuổi đã từng chứng kiến thị trường nhà cửa vỡ tung ở nhiều thập niên truớc, cũng như người Việt di tản đã từng chứng kiến thị trường chim cút sụp đổ ở Saigon hồi đầu thập niên 1970, cũng nghĩ sẽ có chuyện không hay xảy ra.  Một số kinh tế gia Mỹ — không nhiều — đã lên tiếng cảnh giác; nhưng rất tiếc không mấy ai tiên liệu rõ được thời điểm, nguyên nhân và hậu quả! Giá xăng dầu lên vùn vụt, giá nhà đất mỗi ngày một lên cao khi có nhiều người tranh giành nhau mua, các gia chủ refinance để tiêu xài thoải mái, hệt thống tín dụng sự cho vay bừa bãi v.v. chỉ là một tín hiệu tuy không rõ ràng lắm.  Sự kiện hàng hóa ế ẩm mùa Giáng Sinh 2007, và hàng hóa bán đại hạ giá vài tuần sau đó cũng không được chiếu cố như những năm trước là một tín hiệu rất rõ nét. Tháng 2/2008, quốc hội thông qua đạo luật nhằm kích thích  nền kinh tế (Econonomic Stimulus Act) cho phép hành pháp tung ra $168 tỷ — gọi là hoàn thuế, $600/người cho hầu hết người lớn và $300 cho mỗi trẻ em. Lần “giảm thuế” này không phải là để kích thích phía cung, mà là để kích thích phía  cầu. Các tác giả của giải pháp này hy vọng khoảng 3 tháng sau khi các checks được gửi đi, thì TSLQG sẽ tăng lên từ 1 đến 3%.  Nhưng thực tế cho thấy những người nhận được tiền chỉ xài 20-30% cho việc sắm sửa; số còn lại thì tiết kiệm để xài từ từ cho những nhu cầu khác, trong đó quan trọng nhất là nhu cầu đổ xăng, mà giá cả càng ngày càng tăng, trung bình là $4.00/gallon vào cuối tháng 5 năm đó.

Cuộc khủng hoảng nhà đất năm 2007-2008 bắt nguồn từ việc cho vay dễ dãi (subprime mortgage crisis) đã gây tác hại rất lớn mà đến nay ảnh hưởng vẫn còn, nhất là đối với các địa phương.  Theo ý kiến của một số chuyên viên kinh tế, nó xuất phát từ thời Clinton: Dưới sự vận động của nhóm khuynh tả Assosiation for Community Organization for Reform Now (ACORN), năm 1993, Bộ Trưởng Phát Triển Nhà Ở và Đô Thị (HUD) Henry Cisneros đã cho sửa đổi nhiều điều khoản về cho vay của 2 công ty tính cách “bán công” Fannie Mae và Freddie Mac’s để các tổ chức này tạo điều kiện giúp những người có lợi tức thấp được dễ dàng vay tiền để mua nhà.  Trong một cuộc họp báo tháng 6/1995, Clinton tuyên bố: “Kế hoạch sở hữu chủ gia cư của chúng ta sẽ không tốn hao thêm một xu nào cho người thọ thuế. Nó cũng không đòi hỏi thủ tục lập pháp.”[6] Năm 1998, khi bị chất vấn tại Quốc Hội về việc không tiết kiệm của xã hội Mỹ, vị Chủ Tịch FED Alan Greenspan giải thích: “Vâng, nhưng giá nhà đang lên cao, và vì vậy mà người ta có tiền tiết kiệm.” Nếu lúc đó, ông mua cái biệt thự sang trọng 5 triệu đô la, thì giờ đây nếu bán được thì chỉ còn không hơn 3,5 triệu: ông không tiết kiệm, mà còn lỗ to.

Tháng 9/2008, sau 2 tháng cố gắng cứu nhưng không hiệu quả, ngày 7/9/08 chính quyền liên bang đành nhận đảm nhiệm 2 công ty trên, cam kết đền bù 200 tỷ để đền bù thiệt thòi cho các cổ đông, và 150 tỷ cho 2 năm kế tiếp. Bỏ mặc cho đại công ty Lehman Brothers khai phá sản, vào ngày 19/6/08, Bộ Ngân Khố tuyên bố sẽ bỏ thêm 85 tỷ bailout đại công ty bảo hiểm khác AIG.

            Trong khi cuộc tranh cử gần kết thúc và ứng cử viên Tổng Thống Obama đang có chiều thắng thế, thì ngày 13/10/08, Bộ Trưởng Ngân Khố Henry Paulson của chính quyền Bush, Chủ Tịch Quỹ Dự Trữ Liên Bang Ben Bernake, Tổng Giám Đốc Sheila Bair của FDIC và Chủ Tịch Fed ở New York Timo Geithner gặp gỡ làm việc với 9 vị Tổng Giám Đốc ngân hàng lớn nhất của nước Mỹ, yêu cầu họ điền và ký vào mẫu in sẵn để bán preferred stock của các ngân hàng này cho chính phủ, nhiều ít tùy theo tầm cở của ngân hàng, với giá tính trung bình thấp hơn 20% total equity của các ngân hàng.  Nói cách khác, nếu các ngân hàng này không muốn bị chính phủ bailed out, thì bất kỳ lúc nào FBI cũng có thể xin lệnh bố ráp … và đóng cửa.  Đến 6 giờ rưỡi tối, thì quý vị TGĐ đành tuân thủ ghi tiền bán đã được định sẵn, ký tên và ghi ngày tháng vào.  Có lẽ Bộ Ngân Khố đã đãi họ ăn trưa với cái hamburger và lon nước soda rồi. Mà nếu Paulson có đãi cơm chiều vì tình đồng nghiệp cũ, thì họ cũng không ăn nỗi!  Thật ra, sự kiện xảy đến cũng không có gì đáng ngạc nhiên: Mười ngày trước đó, sau khi đã bị đánh bại ở Hạ Viện, một dự luật nhằm cho phép Hành Pháp xuất một ngân khoản lớn đã được Thượng Viện bổ sung, rồi thông qua và được Tổng Thống Bush ban hành có hiệu lực kể từ ngày 3/10/08.  Đó là Luật Cứu Trợ Kinh Tế Khẩn Cấp (The Emergency Economic Stabilization Act) cho phép Bộ Ngân Khố thiết lập chương trình TARP (Troubled Asset Relief Program) với ngân khoản 700 tỷ để mua các chứng khoán được bảo đảm bằng mortgage (mortgage-backed security) cũng như giúp các ngân hàng đang gặp khó khăn.

Nói tóm lại, giảm thuế, lún sâu vào 2 cuộc chiến Afghanistan và Iraq, cứu trợ Katrina, suy thoái kinh tế nhiều năm sau vụ tấn công của khủng bố,  các vụ bailout vv. đã khiến cho khiếm hụt ngân sách tăng lên đáng ngại. Trừ tài khóa 2001, mà ngân sách được soạn thảo và thực hiện từ thời Clinton, tất cả tài khóa dưới thời ông (2002 – 2009) đều khiếm hụt, khiến tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG vượt quá con số 60%.  Ông bay về Texas thảnh thơi bửa củi cho khỏe tay, để lại ngân sách khiếm hụt trên 1.420 tỷ, hay 1,42 ngàn-tỷ (trillion, và đưa quốc trái lên 1,909 ngàn-tỷ, khiến tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG là 81.54%.  Để cho dễ nhớ, chúng ta có thể ghi nhận rằng: Tổng Thống Bush là vị Tổng Thống Mỹ đầu tiên đưa khiếm hụt ngân sách lên đơn vị ngàn-tỷ (trillion); còn trước đó thì Tổng Thống Reagan đã mở kỷ nguyên đưa quốc trái lên ngàn-tỷ. 

            Quả là một sự chuẩn bị trao ấn kiếm hứa hẹn nhiều thách thức cho chủ nhân mới của Tòa Bạch Ốc.

            Trước tình hình kinh tế rất khẩn trương: tỷ lệ thất nghiệp càng ngày càng cao, dân chúng không trả nổi mortgage, hệ thống ngân hàng hầu như bất động, nhiều người lo sợ một đại khủng hoảng kinh tế mới sẽ xảy ra. (Amazon.com cho biết các sách viết về cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế hồi đầu 1930 được tái bản và bán rất chạy. Người viết này cũng là một trong những người mua). Ngay từ tháng 11/2008, Tổng Thống Đắc Cử Obama loan báo đề cử một số chuyên gia kinh tế thượng thặng vào các chức vụ cao cấp nhất trong chính phủ mới, và họ bắt đầu làm việc ngay, rất khẩn trương. Vì dân chúng không có việc để mà làm, cho nên biện pháp giảm thuế để khuyến khích người ta làm việc đã không được nghĩ tới.  Các kinh tế gia đều nghĩ đến các chương trình New Deal hồi phục kinh tế của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt (1933-1945, vị TT được bầu lại nhiều nhiệm kỳ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ), và John M. Keynes với tác dụng số nhân của tiền chính phủ tung ra như đã đề cập ở trên.

            Trong bức thư đề ngày 14/2/11 kèm theo dự án Ngân Sách 2012, nghĩa là ông đang bước vào năm thứ ba của nhiệm kỳ, Tổng Thống Obama phân trần: “Khi tôi tuyên thệ nhậm chức 2 năm trước đây, Chánh Phủ của tôi được để lại cho một ngân sách khiếm hụt hàng năm 1,3 ngàn-tỷ, hay 9, 2% TSLQG; và một khiếm hụt được dự phóng trên 8 ngàn-tỷ cho 10 năm kế. Những khiếm hụt này là hậu quả của 8 năm đã không chi trả cho nhiều chương trình – đáng lưu ý, 2 lần cắt giảm thuế lớn lao, và lợi ích mới Medicare chi trả cho việc mua thuốc có toa – cũng như cuộc khủng hoảng và suy thoái tài chánh đã làm tệ hại thêm tình hình thuế má trong khi số thu lại giảm và các loại chi phí tự động của Chính Phủ (automatic government outlays) lại tăng lên để đối phó với cuộc suy thoái, và làm nhẹ bớt ảnh hưởng của nó.”[7]

            Tổng Thống Obama tuyên bố Chính Phủ của ông đã thực hiện nhiều bước để “tái lập trách nhiệm tài chánh (re-establish fiscal responsibility).”  Khác với Tổng Thống Kennedy muốn ám chỉ việc tránh khiếm hụt thêm ngân sách (avoidance of additional deficits)[8] khi đầu tiên dùng chữ “trách nhiệm tài chánh” trong Thông Điệp gửi Quốc Hội ngày 04 20/4/61, Tổng Thống Obama còn muốn đề cập tới việc đã hoàn thiện thủ tục ngân sách, cắt bỏ, cải tổ các chương trình kém hiệu năng hay trùng dụng.  Theo phân tích của Congressional Budget Office (thường được gọi tắt CBO, một cơ quan không mang tính cách đảng phái của Quốc Hội phụ trách ngân sách, được thành lập nhiều năm sau Office of Management and Budget, gọi tắt OMB trực thuộc Tòa Bạch Ốc), thì khiếm hụt ngân sách giảm hơn 200 tỷ trong thập niên này, và 1.000 tỷ trong thập niên kế.

            Để đạt các mục tiêu trên, ngân sách tài khóa 2012 sẽ không tăng các dự chi cho các lãnh vực khác ngoài lãnh vực an ninh; không tăng lương cho công chức liên bang trong 2 năm; bãi bỏ nhiều cơ quan; giảm chi phí Bộ Quốc Phòng, trong đó bỏ hẳn các dự án quân dụng tốn kém, giải ngũ trên 100 vị đại tướng và đô đốc.  Để duy trì nguồn thuế, ông chống lại việc triển hạn cắt giảm thuế cho những gia đình có lợi tức hàng năm trên 250.000 đô la đã được ban hành năm 2001 và 2003  dưới thời TT. Bush.  Dự án ngân sách cũng đề nghị cải tổ hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, cải tổ Công Ty Pension Benfits để bảo đảm tiền hưu cho công nhân của các công ty suy sụp và phá sản, cải tổ  Cục Federal Housing Administration phụ trách giúp đỡ nhà ở rẻ tiền cho những người có lợi tức thấp; cải tổ thêm hệ thống bảo hiểm sức khỏe để đủ chi trả trong 2 năm theo tỷ lệ tăng lên ở mức chịu đựng được, mà không phải cắt giảm lớn lao số tiền bồi hoàn y tế cung cấp cho người lớn tuổi.

            Trong khi đó, sẽ có những đầu tư mới và lớn lao cho một số lãnh vực quan trọng sau đây.  Trước hết, Ngân Sách 2012 khuyến khích giáo dục đại học qua việc triển hạn Luật American Opportunity Tax Cut, duy trì chương trình học bỗng Pell Grant có từ nhiều thập niên vùa qua, ngõ hầu đến năm 2020, Hoa Kỳ sẽ có số sinh viên tốt nghiệp đại học cao nhất thế giới; đào tạo thêm 100.000 giáo chức toán và khoa học kỹ thuật; thúc đẩy và khuyến khích các trương học, các tiểu bang thi đua trong giáo dục qua chương trình “Race to Top”. Kế đến ngân sách này cũng sẽ tích cực trợ giúp những nghiên cứu cơ bản (basic research), tức những nghiên cứu chỉ có thể sinh lợi về lâu về dài mà các công ty không muốn thực hiện, chẳng hạn trong lãnh vực kỹ thuật năng lượng sạch (clean energy technology) để sao cho đến năm 2015, Hoa Kỳ là nước đầu tiên có 1 triệu chiếc xe hơi chạy điện; đến năm 2035, có 80% điện lực được cung cấp bằng năng lượng sạch. Hơn nữa, ngân sách này sẽ tiếp tục sửa sang, tu bổ hay tân tạo hạ tầng cơ sở, hệ thống lưu thông đã khá cũ kỹ, với số đầu tư sơ khởi  50 tỷ và qua sự thành lập của một ngân hàng mới có tên National Infrastructure Bank.

            Ngân Sách 2012 do Obama đưa sang đề nghị phần thu (revenues) là 2,627 ngàn-tỷ và phần chi (outlays) là 3,732 ngàn-tỷ. Vào tháng 4, đảng Cộng Hòa đề nghị 2 con số này lần lượt là 2,533 ngàn-tỷ và 3,529 ngàn-tỷ; nghĩa là đề nghị giảm cả thu lẫn chi.  Tuy nhiên, trong phần dự chi, có những khoản được gọi là entitlements, thì đề nghị cắt giảm của Đảng Cộng Hoà không đáng kể, vì chúng được xem như là bắt buộc (mandate). Chính Obama đã đề nghị giảm chi phí cho các chương trình sau đây: Medicare 0,6% (còn 761 tỷ), Medicaid và Chương Trình Bảo Hiểm Y Tế Trẻ Em Cho Các Tiểu Bang 2,5%  (còn 269 tỷ), Trợ Cấp Thất Nghiệp 14% (còn 612 tỷ), Cứu Nạn Nhà Cửa Gặp Khó Khăn 54% (còn 13 tỷ). Tuy nhiên, trong thành phần entilements này có 2 loại chi phí tăng lên.  Đó là tiền an sinh xã hội (social security), lý do là vì các baby boomers bắt đầu về hưu, tăng 2.6% (lên 761 tỷ) và tiền lãi cho quốc trái sẽ tăng 17% (lên đến con số 242 tỷ). Nhìn chung, các chi phí bắt buộc (entitlements) lên đến 2,382 ngàn-tỷ, chiếm 67,5% ngân sách; và Đảng Cộng Hòa dù có cắt giảm thành công chăng nữa, thì cũng chẳng giảm được bao nhiêu.  Riêng tiền lãi trả cho quốc trái đã chiếm trên 10% ngân sách.

            Chi phí cao nhất vẫn là chi phí cho Bộ Quốc Phòng (553 tỷ, tăng 0,7%);  Kế đến là Overseas Contingecies Operations, tức các hoạt động chống khủng bố hải ngoại,  (118 tỷ, giảm 26%); Bộ Y Tế Xã Hội (79, 9 tỷ, giảm 1,8%) vv.  Ngân Sách của Bộ Giáo Dục tăng 6,2%;  của Bộ Năng Lượng tăng 4,2%, của Bộ Gia Cư tăng 0,5% phù hợp với các chương trình phát triển đã đề cập trên đây. Và dĩ nhiên ngân sách Bộ Cựu Chiến Binh cũng tăng nhiều (3,1%) để đáp ứng nhu cầu cho quân nhân về hưu, thương tật trở về.

            Trong khi đó, thì tổng số thu chỉ là 2,627 ngàn-tỷ, trong đó thuế lợi tức cá nhân như bấy lâu nay vẫn đem lại số thu cao nhất: 1,141 ngàn tỷ (43,4%). Kế đến là thuế lợi tức công ty 329 tỷ (12,5%); thuế công quản (excise tax) 103 tỷ (3,92%).  Deposits of Earnings và Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang cũng sẽ đem lại 66 tỷ (2,5%).  Riêng Thuế An Sinh Xã Hội và Thuế Lương Bỗng đem lại 925 tỷ (35%).  Chúng ta cũng đừng quên rằng thuế an sinh xã hội của những người chưa về hưu mỗi tháng 2 kỳ phải bỏ vào trust fund, trên nguyên tắc là để sau này trả mỗi tháng cho người đó. Nhưng trust này có nhiều tiền quá, trong khi chính phủ lại thiếu tiền. Vì vậy chính phủ cứ tiếp tục mượn đỡ để “xoay xở” và trả tiền lãi.  Đã có lúc Quỹ An Sinh Xã Hội không có tiền mặt, vì thu vào chưa kịp, để trả cho những người đã về hưu!

            Thu không đủ chi, khiếm hụt ngân sách phát sinh từ đó.  Và vay mượn là kết quả hiển nhiên.

Nhưng câu hỏi quan trọng đã được đặt ra là: Khiếm Hụt Ngân Sách và Quốc Trái lên đến mức nào thì đáng được gọi là báo động?

Đến ngày 17/12/11, TSLQG Hoa Kỳ là 15,074 ngàn-tỷ và  quốc trái lên đến 15,128  ngàn-tỷ (so với 14,294 ngàn-tỷ ngày 12/2/11 lúc TT Obama chuyển Ngân Sách 2012 sang Quốc Hội).  Nghĩa là tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG là 100,36%.  Trong khi đó,  khiếm hụt ngân sách là 1.303 ngàn-tỷ. Như vậy, tỷ lệ Khiếm Hụt/TSLQG là 8,64%. [9]

Theo thỏa hiệp The Maastricht Treaty được các nguyên thủ quốc gia Châu Âu Thống Nhất ký kết ngày 10/12/199,  một trong những điều kiện để một quốc gia được chấp nhận vào Liên Hiệp Tiền Tệ là khiếm hụt ngân sách không được vượt quá 3% TSLQG, và tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG phải dưới 60%. Nếu Hoa Kỳ cũng theo tiêu chuẩn này, thì khiếm hụt và quốc trái phải đáng được báo động từ lâu rồi.

Tuy nhiên, theo tính toán của Reinhart &Rogoff  thuộc tổ chức Peterson Institute for International Economics, chuyên nghiên cứu nợ nần của Hoa Kỳ và các nước phát triển khác, thì:

“…mối liên hệ giữa nợ của chính phủ và TSLQG thực sẽ yếu đối với những tỷ lệ Nợ/TSLQG bắt đầu ở mức 90%. Trên mức 90% này,thì các suất số tăng trưởng trung bình giảm 1% xuống, và sự tăng trưởng trung bình giảm xuống nhiều hơn.”[10]

  Vả lại, cân bằng ngân sách một cách tuyệt đối (nghĩa là chi phải bằng thu) cũng không phải là một giải pháp lý tưởng. Lý do là nếu xảy ra lạm phát chẳng hạn, thì Federal Open Market Committeee, bộ phận phụ trách mua bán chứng khoán chính phủ (government securities) thuộc Quỹ Dự Trữ Liên Bang, tức ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ, sẽ khó thi hành hữu hiệu chính sách tiền tệ.

Tỷ phú Warren Buffet trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình CNBC (8/7/11) đã sử dụng tỷ lệ 3%  của  Thỏa Hiệp Maastritch khi ông tuyên bố: “Tôi có thể chấm dứt khiếm hụt ngân sách trong 5 phút. Chỉ cần ra một đạo luật quy định rằng bất kỳ khi nào khiếm hụt ngân sách trên 3% TSLQG, thì tất cả thành viên đương nhiệm của quốc hội không đủ điều kiện để tái tranh cử.”  Ông chỉ nói cho vui, chứ nếu ông bỏ ra phân nửa tài sản để vận động, thì cái luật như vậy cũng không thể ra đời! Ba năm trrước đó  (2008), trong một cuộc phỏng vấn, ông cho rằng tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG 40% đã không gây rắc rối gì trong quá khứ, thì  cũng sẽ không gây phiền toái trong tương lai.

Chúng ta đồng ý với Tổng Thống Reagan là cá nhân thì không nên xài quá khả năng tài chánh của mình, bởi lẽ nợ nhiều quá nếu thiên hạ biết được sẽ không cho mượn tiếp; và không trả thì sẽ gặp rắc rối đối với pháp luật. Nhưng đối với nhà nước thì lại khác.  Không ai bắt giam nhà nước cả; nhà nước lại còn có uy tín và có nhiều phương cách để vay mượn.

            Tuy nhiên, nếu nhà nước nợ nần nhiều quá, cứ phải in tiền mới để trả, hoặc cứ phải tiếp mượn nợ mới để trả tiền lãi và nợ cũ, thì có cơ thiên hạ sẽ không dám cho vay nữa, vì sợ lạm phát sẽ làm mất giá cả vốn lẫn lãi. Do đó cũng cần phải có biện pháp qui định mức vay mượn, mục tiêu và cách thức vay mượn, cũng như kế hoạch và thời gian hoàn trả v.v.  Đó là lý do Quốc Hội Hoa Kỳ muốn đặt ra một mức nợ không được vượt qua (debt ceiling) mà Hành Pháp phải tuân theo.  Đáng lẽ đến ngày 30/9/11 vừa rồi Quốc Hội phải biểu quyết xong ngân sách để được ban hành và áp dụng từ ngày 1/10/11, nhưng Quốc Hội đã không làm xong, nhưng vì chưa thỏa thuận được mức nợ đó, cho nên Quốc Hội đã làm một chuyện bất thường; đó là lập ra liên ủy ban gọi là Joint Select Committee on Debt Reduction, gồm 12 thành viên (3 Dân Biểu và 3 Thượng Nghị Sĩ, tức 6 người mỗi đảng) được cử ra ngày 10 và 11/8 . Làm việc trên 2 tháng dài, 2 phía không đi đến thỏa hiệp nào cả về thời gian gia hạn gỉảm thuế (ban hành từ thời TT Bush), các khoản chi tiêu cần cắt giảm hay thêm mới; mức quốc trái không được vượt qua (debt ceiling) cùng thời gian bắt đầu hiệu lực (việc này đáng lẽ TT Obama nên làm khi đảng Dân Chủ còn chiếm đa số ghế ở Quốc Hội, trưóc cuộc bầu cử cuối năm 2010) vv.  Đến ngày 21/11/11, siêu ủy ban này tuyên bố sứ mạng đã thất bại, hai bên đổ lỗi cho nhau và chờ đợi Quốc Hội họp lại quyết định! Nếu Quốc Hội quyết định mau chóng đi nữa, thì chỉ mới xong cho Ngân Sách 2012 mà thôi.

  Riêng chuyện nợ nần của Chánh Phủ Hoa Kỳ vẫn còn là câu chuyện dài, khó có thể giải quyết trong một hay hai nhiệm kỳ Tổng Thống sắp tới vì Ngân Sách hằng năm của Hoa Kỳ theo một tiên liệu mặc dầu rất lạc quan của Congressional Budget Office (CBO) thì từ nay đến tài khóa 2020, năm nào cũng khiếm hụt vì kinh tế chưa phục hồi.[11] Mà ngân sách còn khiếm hụt, thì chính phủ phải vay mượn.

            Nói chung, các chủ nợ trong và ngoài nước có thể mua đủ loại chứng khoán của Chính Phủ Hoa Kỳ từ ngắn hạn đến dài hạn do Bộ Ngân Khố, nhân danh Chánh Phủ Hoa Kỳ bán ra để trang trải nhu cầu tài chánh vào mỗi  thời điểm. Loại thứ nhất gồm những loại chứng khoán mà chủ nợ mua vào và có thể bán lại được (marketable debt) gồm US Treasry Bills (13, 26, 52 tuần); US Treasury (1-10 năm); US Treasury Bonds (10 năm trở lên). Loại thứ hai, gồm những loại chứng khoán không bán lại (non-marketable debt) gồm US government accounts; Foreign governments; US Savings Bonds.[12]  Như vậy, chúng ta có thể hiểu được rằng không bao giờ xảy ra tình trạng các loại chứng khoán trên đáo hạn cùng một lúc. Do đó, một trong những công tác quan trọng của Bộ Ngân Khô là bán những loại chứng khoán này cho người mua trong cũng như ngoài nước để có tiền trả cho các nợ đáo hạn, cũng như tài trợ cho các chi tiêu mới đã được Quốc Hội cho phép.  Chỉ khi nào không còn người mua các loại chứng khoán chính phủ, nghĩa là không còn ai cho vay nữa, thì lúc đó Chánh Phủ Hoa Kỳ mới gặp khó khăn và vỡ nợ. Trong chiều hướng này, thì quyết định vào đầu năm 2012 của công ty lượng giá Standard & Poor’s trong việc hạ thấp hạng (downgrade) các chứng khoán dài hạn của chính phủ mà nhiều người chê trách là vội vã (so với tích sản còn quá lớn của Mỹ) và có tính cách giả nhân gỉả nghĩa (công ty này được các tổ chức tà chánh bảo trợ cho nên muốn tạo áp lực để Bộ  Ngân Khố lên lãi suất cho các chứng khoán dài hạn) có ảnh hưởng không ít cho việc vay nợ dài hạn của Chánh Phủ.

            Đến tháng 12/10, Hoa Kỳ đã nợ nước ngoài 4.440 tỷ.  Nhiều nhất từ Hoa Lục: 1.160 tỷ (26,1%); kế đến từ Nhật: 882,3 tỷ (19.9%); Anh: 272, 1 tỷ (6,1%); các xứ xuất cảng dầu hỏa: 221, 9 tỷ (4,8%) v.v.

Cựu Tổng Thống Clinton cho rằng ngoại quốc là chủ nợ của hơn phân nửa tổng số quốc trái Hoa Kỳ, nếu không tính các lưu giữ của Quỹ Dự Trữ Liên Bang (Fed’s holdings) và các chứng khoán chính phủ (Treasury bonds) giữ bởi Social Security và các trust funds khác, như là những thành phần của quốc trái.[13]

            Sở dĩ các công ty, các ngân hàng ngoại quốc, cũng như các chánh phủ ngoại quốc (qua Ngân Hàng Trung Ương của họ) mua các chứng khoán của chính phủ Hoa Kỳ nói trên là vì: (1) đồng đô la vẫn còn là key currency dùng cho các thanh toán quốc tế theo Hội Nghị  Bretton Woods;  (2) mua các chứng khoán của Chính Phủ Hoa Kỳ vẫn an toàn hơn là gửi tiền vào các ngân hàng; (3) theo quy ước, các xứ xuất cảng dầu hỏa đồng ý để đồng đô la lại ở Hoa Kỳ, vậy thì nên mua các loại chứng khoán nói trên vừa an toàn, vừa được lãi, tuy không cao;  (4) có khi Chánh Phủ Hoa Kỳ đến “năn nỉ” các chánh phủ ngoại quốc, và các chánh phủ này trực tiếp mua (qua Ngân Hàng Trung Ương) hay thuyết phục các ngân hàng, hay công ty công/tư v.v.  mua chứng khoán của Chánh Phủ Hoa Kỳ để “giúp cho đồng minh.”

            Đến đây có thể có người hỏi tại sao chính phủ không in tiền ra để xài hay trả nợ, mà lại phải vay mượn cho phiền toái và tốn kém vì phải trả tiền lãi và các chi phí khác.  Câu trả lời là: Nếu in tiền ra thêm, thì dễ đưa đến lạm phát; càng tung thêm nhanh tiền mặt ra thì lạm phát sẽ càng lên cao mau lẹ, rất khó đối phó, và nền kinh tế dễ đưa đến suy sụp .

           xxx

            Khi một nền kinh tế tự hào hay mang tiếng là một nền kinh tế dựa trên tiêu thụ, nó sẽ lần lần sản sinh một nền văn hóa sống ngoài khả năng của mình (overdraft culture). Đó là chưa nói đến thói quen của một bộ phận không nhỏ của xã hội đã quen trông cậy và đòi hỏi i chính quyền, cũng như sẵn sàng lợi dụng những kẽ hở của luật lệ mà trục lợi.  Đến lượt nó, nền văn hóa sống ngoài khả năng này sẽ đòi hỏi cho kỳ được một loại chính quyền chi tiêu vượt khả năng (overdraft government) để thỏa mãn nó, không cần phải ưu tư nhiều vì rồi đây sẽ có người khác trả nợ cho mình. Ngành bảo hiểm gọi đây là nguyên tắc nguy hiểm về tinh thần (the principle of moral harzard).  Nay nếu vì một sức mạnh tinh thần nào đó – chứng tỏ trách nhiệm tài chánh, nêu gương “tri túc/ tri hữu” và “đứng trên hai chân mình”, hoặc cảm thấy tội lỗi với thế hệ mai sau vì bắt buộc chúng phải chịu sưu cao thuế nặng để trả món nợ cho mình gây ra– chính quyền loại này muốn bớt tiêu xài và hạn chế nợ nần, thì điều đó không phải thực hiện dễ dàng và nhanh chóng được, dù cho quốc gia đó đó là Hoa Kỳ.

            Như chúng ta đều biết:  Kinh tế học là môn học nghiên cứu về sự phân bố tài nguyên khan hiếm.  Nợ là một loại tư bản khan hiếm.  Do đó, nó cần phải được sử dụng khôn ngoan để phục vụ cho ổn định và tăng trưởng kinh tế.  Trong nhiều thập niên vừa qua, rõ ràng Hoa Kỳ đã sử dụng quốc trái chủ yếu cho tiêu thụ hơn cho đầu tư, cho mục tiêu quân sư hơn cho tăng trưởng kinh tế.  Với biện pháp hạn chế mức nợ không được phép vượt qua trong thập sắp đến,và dự trù sử dụng tiền vay mượn vào việc tái thiết hạ tầng cơ sở; cải tổ giáo dục; tăng cường nghiên cứu cơ bản v.v., mà Chánh Phủ của Tổng Thống Obama và Quốc Hội hiện nay đang cố gắng thực hiện có đánh dấu được một bước khởi đầu kiên quyết mới , và sẽ được các chính quyền sau này tiếp tục không; hay hóa ra đó chỉ là những nổ lực nhằm mục tiêu tranh cử mà thôi.  Người ta còn phải chờ đợi câu trả lời trong tương lai

Lê Văn Bỉnh

Virginia, 12/2011

Chú Thích:

[1] Mỗi năm đóng góp vào ngân sách 16,3% đến 20,9% tổng sản lượng quốc gia trong khoảng thời gian 1953- 2008 (Presimetrics, by Mike Kimel & Miachael Kanell, 2010, p. 40)

[2] Nổi tiếng với khúc tuyến Laffer curve: Trục tung biểu thị tổng số thuế thu, trục hoành biểu thị thuế suất. Khúc tuyến Laffer có hình một paroble úp xuống và không đối xứng; phát xuất từ điểm O (thuế suất 0%) và cắt trục hoành ở điểm p (thuế suất 100%). Ở 2 thuế suất này, không thu được gì cả. Theo Laffer, thuế suất lớn Om (m là điểm chiếu của đỉnh paroble xuống trục hoành) chỉ làm cho tổng số thu sụt giảm mà thôi.

[3] Trong bài này, các con số được viết theo lối tiếng Việt (23,5%) thay vì tiếng Anh (23.5%) và ngàn-tỷ dùng để dịch trillion

[4] Những tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG sử dụng dưới đây có nguồn là U.S. Dept. of Commerce, được in lại trong Hamilton’s Blessing,  by John S. Gordon (2010), p. 207..  Nguyên văn Gordon ghi: Debt as % of GNP/GDP. Xin lưu ý là GNP Hoa Kỳ trong mấy thập niên vừa qua chỉ bằng 20-25% GDP (tổng sản lượng quốc nội) vì chưa cộng thêm hiệu số giữa lợi tức của người Mỹ đầu tư ở hải ngoại và lợi tức người ngoại quốc đầu tư ở Hoa Kỳ. Nói khác đi, Quốc Trái/TSLQG < Quốc Trái/TSLQN.

[5] Financial Report of the United States ( 2006), p.192

[6] America’s Ticking Bankruptcy Bomb, by Peter Ferrara (2011), pp. 184-186

[7] Fiscal Year 2012 BUDGET of the U.S. Government

[8] Macroeconomic Decision Making in the World Economy, 3rd ed., by Michael G. Rukstad (1992), p. 238

[9] Tính theo U. S. Debt Clock.org mà các con số thay đổi không ngừng

[10] A Decade of Debt by Carmen M. Reinhard & Kenneth S. Rogoff (2011), p.27

[11] Debt, Deficits and the Demise of the American Economy by PeterTanous & Jeff  Cox (2011), p.6

[12] Red Ink: The Budget, Deficit, and Debt of the ỤS. Government by Gary R. Evans (1997), p.6

[13] Back to Work: Why We Need Smart Government for a Strong Economy by Bill Clinton (2011), p.33 & p.55

Visits: 1065

Dịch COVID-19 Với Suy Nghĩ Của Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Biết bạn đang trải qua một thời gian dài tự cô lập trong lo lắng và buồn bực vì nạn Covid-19, tôi sẽ viết linh tinh “đủ thứ bà rằng” và cố gắng thêm thắt sao cho bạn nằm trong chăn, vừa hưởng cái thú gây gây lạnh của mùa thu vừa mĩm cười với những dòng chữ lẩm cẩm nầy. Tuy chẳng nghiêm trang, nhưng cũng được “một vài trống canh”.

Từ tháng 3 năm 2020, dịch Covid-19 bùng phát khắp thế giới. Tử thần Covid khởi hành từ thành phố Vũ Hán bên Tàu. Đó là một trong những thứ vũ khí sinh hóa, giết người tàn độc nhất mà tất cả các quốc gia, từ văn minh đến chậm tiến đều bó tay chịu chết. Nó tàn sát, đa số là những người lớn tuổi. Đã già mà còn thêm bịnh nền (có sẵn) trong người thì lưỡi hái của nó vung lên lấy mạng trong chớp mắt. Người lớn tuổi khiếp vía. Họ không dám ra đường, không dám tiếp xúc với ai. Có một bà già sợ đến nỗi không đi chợ, không lấy thức ăn mà bạn bè, con cháu để trước cửa, sợ vi rút dính ở bao bì, nên cứ để đó suốt mấy ngày, hàng xóm thấy lạ, gọi cảnh sát. Hóa ra bà ta gần chết vì đói. Chưa bao giờ người lớn tuổi nhìn thấy rõ cái chết của người khác (cỡ tuổi mình) bằng lúc nầy. Bạn bè, thân quyến chết hằng ngày, chết liệt địa! Tuần trước, ông X. mới gọi nói chuyện, hôm qua đã nghe “đi” rồi. Ông K. mình mới đến nhà thăm hôm kia, thấy vẫn mạnh khỏe, cười nói vui vẻ, vậy mà vừa nghe, đã được đưa vô bịnh viện, thở Oxy. Giở tờ báo, mấy trang sau đầy cáo phó với chia buồn. Tính đến hôm nay (thời điểm tháng 9 năm 2020) trên thế giới, đã có gần 30 triệu người nhiễm Covid-19 với gần 1 triệu người chết. Bịnh dịch đã giết hơn 7,000 bác sĩ, y tá, y công, là những người làm công tác chống đỡ, cứu chữa người bị lây nhiễm. Riêng nước Mỹ, số người nhiễm dịch Covid-19 gần 7 triệu người và số người chết đã trên 200 nghìn. Điều buồn cười là một quan chức y tế hàng đầu của Canada, Therese Tam khuyên mọi người không hôn và cần đeo “khẩu trang?” (che miệng lại!) khi quan hệ tình dục để bảo vệ bản thân khỏi virus corona.

Sau đây là những suy nghĩ vụn vặt của một người lớn tuổi, đang bị Cô (tên) Vít ám ảnh trong đầu. Như người lính ra trận, trước kẻ thù mà run sợ thì có mà bỏ mạng sớm. Nhưng kẻ thù thì có thể thấy được, chứ với cái “Cô Vít-19” nầy thì dung nhan chỉ thấp thoáng trong kính hiển vi điện tử với hình chụp như trái banh có gai màu sắc sáng chói, thấy đã lạnh người. Cá nhân tôi,  “thí mạng cùi”, cứ nhởn nhơ khắp nơi, cà phê, cà pháo với bạn bè mà vẫn bình yên vô sự. Mà giả sử như thình lình Cô Vít-19 (tuổi) nhảy đến ôm chầm lấy tôi thì sao? Sao trăng gì! Sống đến tuổi nầy, trên bảy mươi, quá đủ rồi, Còn gì phải lưu luyến chốn trần ai nầy nữa? Đời chỉ là vở hài kịch mà tôi là tên hề giễu dỡ, hạ màn thì vừa. Nhưng, cũng giống như trong tuồng cải lương, Nhân vật sắp chết mà vẫn ngóc đầu ca đủ sáu câu vọng cổ mới chịu tắt thở. Tôi cũng vậy, nhưng chỉ nói chuyện vui thôi vì “Khóc lóc, rên rỉ là hèn nhát”.

Mỗi người, sinh ra đời có ba giai đoạn. Giai đoạn đầu, “tin” có ông già Noel (Santa Claus), giai đoạn kế tiếp là “không tin” có ông già Noel và giai đoạn cuối cùng là “làm” ông già Noel. Giai đoạn đầu, trẻ con, ăn chơi và học hành, không có gì đáng nói. Đoạn giữa mới nhiều chuyện rắc rối cuộc đời, mà cái rắc rối nhất là tình yêu, rồi  tiến đến hôn nhân (lập gia đình), có cặp  chia tay (ly dị) và cuối cùng kéo nhau chui xuống đất (xuống “âm phủ!).

Xin nói chuyện tình yêu trước. Yêu ai phải tìm cách cho người ta biết. Người ta yêu lại mình mới ngỏ lời xin cầm bàn tay tức là cầu hôn. Mà muốn cầu hôn phải làm gì? Quì xuống dưới chân người đẹp với bó hoa hoặc với chiếc nhẫn hột xoàn. Khi người đẹp đã khoái mình thì dù nói “ba hoa thiên địa” gì nàng cũng gật đầu. Ngược lại người ta không ưng mà mình cứ lải nhải thì coi chừng ăn guốc lên đầu. Có vài màn cầu hôn đáng chú ý như sau.

Ngày 8 tháng 3, 2020, một cậu ở đường Abbeydale, nam Yorkshire, nước Anh, sửa soạn một buổi tối long trọng gồm hàng trăm ngọn nến được thắp lên, rượu, bong bóng bay và thức ăn bày lên bàn rồi vội vã lên xe đi đón người yêu. Lúc quay về thì căn nhà đang cháy tưng bừng với ba xe cứu hỏa đang xịt nước vào đám cháy một cách tuyệt vọng. Người đẹp khoái quá, nhận ngay lời cầu hôn của cậu ta trước đống tro tàn. Chả cần, hoa lá, đèn đóm phiền phức.

Một chuyện khác. Cậu Jérémy đưa người đẹp Athina Yalias vào công viên quốc gia Kruger, Nam Phi. Đến một nơi vắng vẻ, rậm rạp, cậu Jérémy quì xuống, thiết tha ngỏ lời yêu thương. Người đẹp cảm động, cúi xuống, hôn lên trán cậu ta. Thình lình, một con nhện có nọc cực độc tanratula, chích cho cậu ta một phát vào mông đít. Cậu Jérémy hét lên đau đớn, người đẹp cũng suýt ngất xiu vì lo sợ. Cũng may, con nhện không chích vào “điểm chiến lược” nên cậu vẫn là vợ chồng được như thường.

Một cậu khác, có sáng kiến lặn xuống nước, ngỏ lời cầu hôn với người đẹp đang đứng trên cầu nhìn xuống, lắng nghe. Cậu nói cách nào mà nước tràn vào họng và cậu chết đuối. Kính lạy ngài Allah! Xin ngài nhận cậu ta lên thiên đường và tặng cho cậu bảy (7) nàng trinh nữ kẻo tội nghiệp.

Rồi đến chuyện gia đình. Có mấy ông thần ve chai ngồi nhậu, gật gù với nhau. Một ông đề nghị, mọi người thử gửi tin nhắn (message) bằng điện thoại về cho vợ câu “Anh yêu em” để xem các bà trả lời ra sao? Bà vợ 20 tuổi trả lời “Em cũng yêu anh” Bà 30 tuổi “Xỉn rồi phải không?” Bà 40 tuổi “Ông điên rồi hả?” Bà 50 tuổi “Ông gửi lộn cho con đĩ chó nào hở? Về đây, bà thiến tận gốc cho biết tay bà”                            

Sống với nhau qua thời gian, làm gì cũng xảy ra chuyện “Ông ăn chả, bà ăn nem”, nghĩa là ngoại tình. Đã là vợ chồng mà còn ngoại tình thì gia đình trở thành địa ngục. Khi một người ngoại tình cũng giống như cây đinh đã đóng vào tường. Cây đinh có được nhổ đi nhưng cái lỗ đinh vẫn còn đấy. Nó ám ảnh suốt đời sống vợ chồng. Nhiều khi cố quên để hàn gắn tình cảm gia đình, nhưng đã thật sự nguội lạnh, thấy ghê tởm, hết phương cứu chữa, đành sống với nhau như đóng kịch, coi như bạn “share” phòng. Hiếm có những cặp vợ chồng lớn tuổi sống hòa hợp bên nhau tuy người ngoài nhìn vào tưởng như họ đang hạnh phúc, vì trải qua bao nhiêu năm, làm gì cũng có lúc họ vi phạm nghĩa vụ vợ chồng (nghĩa vụ đồng cư, chung thủy). Với người Âu, Mỹ, hễ có xích mích nhỏ là họ chia tay. Người Việt thường vì sĩ diện, vì con cái, vì xã hội mà miễn cưỡng chịu đựng nhau “Ở chung với người nghịch như nếm mật nằm gai” Không gì khổ sở bằng sống dưới một nhà mà hằng ngày phải nhìn thấy mặt người mà mình không dám nhìn. Có mấy ông già ngồi uống cà phê. Một ông hỏi các bạn “Ở tuổi gần đất xa trời. các ông ghét nhất là điều gì?” Người thì nói “Cái mặt lầm lì của mụ vợ khi có chuyện không vừa ý. Nó như người câm, miệng như dán băng keo” Người khác “Vợ tôi mở miệng ra là gầm gừ như sủa. Hỏi nó thì nó hỏi ngược lại. Nó cũng có học mà không hiểu sao càng ngày nó càng hỗn hào, mất dạy. Tôi là chồng nó mà nó nạt tôi như đứa ở”  Ông khác “Mình già rồi, đâu thiết chuyện lăng nhăng. Vậy mà cứ ghen bóng ghen gió. Hết chuyện mới lại đem chuyện xưa rích ra kể lễ, đay nghiến. Ước gì được như mấy ông độc thân. Sống không có vợ sung sướng như đang ở trên thiên đàng”. Báo chí thường đăng chuyện nhiều ông chồng sợ vợ đến nỗi phải vào nhà băng cướp tiền rồi ngồi chờ cảnh sát đến bắt đi. Hỏi tại sao? Ông ta bảo, mong được ở tù còn hơn là phải về nhà nhìn thấy mặt bà vợ. Muốn “thoát ly” khỏi tay bà vợ đâu phải chuyện dễ. Trốn đi dâu mà không bị “dẫn độ” về nhà? Ăn uống, sinh hoạt ra sao? Ai săn sóc khi bịnh hoạn? Chỉ có nhà tù là tốt nhất. (xin lưu ý. Tốn kém mỗi năm để giam giữ một tù nhân ở Mỹ là trên ba mươi nghìn USD, thời giá năm 2000)

Bây giờ nói qua chuyện ly dị. Ở Việt Nam ta, ngày xưa, có luật “Thất Xuất” (7 lý do chồng đuổi vợ ra khỏi nhà)

1- Tuyệt tự. Không con trai nối dõi tông đường.

2- Dâm dật (không chung thủy)

3- Không thờ cha mẹ chồng.

4- Lắm điều (chua ngoa, khiến người khác khó chịu).

5- Trộm cắp.

6- Ghen tuông vô cớ.

7- Có ác tật (bịnh tật, không đảm đương được việc nhà, có thể truyền bịnh cho người nhà, con cái)

Xem ra, người chồng, chỉ cần viện cớ mơ hồ (điều 4, điều 6) là có thể tống xuất vợ ra khỏi nhà. Tuy nhiên, cũng có luật “Tam Bất Khả Xuất” để bảo vệ người đàn bà dù người vợ phạm “Thất Xuất”.

1- Người vợ đã từng để tang cha mẹ chồng trong ba năm.

2- Trước nghèo, sau giàu (người vợ đã góp công sức vào gia đình nhà chồng)

3- Không còn chỗ nương thân (thông thường, chồng trả vợ về bên nhà vợ. Nếu cha mẹ vợ không còn thì không được đuổi vợ)

Tôi không thấy luật cho vợ được phép bỏ chồng?! Luật xưa, coi cho biết, chứ thời bây giờ, không ưa nhau, thì lôi nhau ra tòa xin li dị mà không cần nêu lí do. “Anh đi đường anh, tôi đường tôi…” Ly hôn chớp nhoáng được luật Hồi giáo chấp nhận. Người chồng chỉ nói, (có thể gọi điện thoại) 3 lần, 2 tiếng “Galak” (ly hôn) là coi như đã ly hôn (Xin báo một tin vui. Tôi đã theo đạo Hồi sáng nay. Chiều nay tôi sẽ về nói với vợ tôi “Galak. Galak. Galak!” Hê Hê Hê!)

Sau đây là một vài lý do (vui) khiến vợ chồng đưa nhau ra tòa. Một bà vợ đòi li dị ông chồng vì “Ông ta cứ gài ngược cuộn giấy vệ sinh khiến tôi bực mình hết sức”. Một bà vợ phát hiện chồng dẫn gái về nhà trong lúc bà ta đi vắng, vì con vẹt cứ nói “Vào nhà đi em. Anh nhớ em, thèm em quá!” Một bà khác thưa chồng vì tội phỉ báng “Hắn nói tôi là con khỉ già” Quan tòa hỏi “Ông ta nói như thế với bà từ khi nào?”Cách nay 20 năm” “Sao bây giờ bà mới thưa ông ta ra tòa?” “Tuần trước tôi đi sở thú mới thấy rõ con khỉ già nó như thế nào” Một bà khác đưa chồng ra tòa vì nói nhiều quá, chịu hết nỗi, quan tòa hỏi lý do, ông chồng trình bày sự việc suốt bốn tiếng đồng hồ khiến quan tòa cũng phải phát khùng! Một bà khác thưa với quan tòa “Buổi sáng, tôi chiên trứng cho thằng chả ăn thì hắn nói “Sao không làm ốp-la?”(chiên hơi sống). Bữa sau tôi làm ốp-la, thằng chả lại hòi “Sao không chiên trứng mà làm ốp-la?” Bữa sau nữa tôi làm ốp-la một trứng, chiên một trứng khác. Thằng chả lại nói “Trứng chiên thì làm ốp-la, trứng ôp-la thì lại đem chiên. Ai ăn cho được?”                                                                                                          

Vậy thì vợ là người như thế nào? Một ông bố nhận được thiệp hồng (thư mời đám cưới)  của con trai, ông ta trả lời thư như sau. “Một số người nói. Khi hai người kết hôn, họ trở thành những người thân. Nhưng bố muốn nói với con rằng. Cho dù con kết hôn bao nhiêu năm, con phải nhớ. Cha mẹ, con cái mới là người thân, còn vợ chỉ là người yêu. Vợ con không phải là người thân của con. Con có thể la lối, hờn trách bố mẹ vì bố mẹ là người sinh ra con. Mối liên hệ nầy không thể chối bỏ được, nhưng vợ thì không. Quan hệ với cô ấy là hai bên cùng có lợi. Nếu con phạm lỗi, cô ấy có thể rời con bất cứ lúc nào” (và thành vợ người khác)

Nói vậy tôi không có ý đánh giá thấp tình vợ chồng. Người Á Đông như người Việt, nhất là vùng thôn quê, hiếm có chuyện vợ chồng bỏ nhau. Họ yêu  thương nhau cho đến trọn đời. (Ngày xưa, vợ gian dâm với người không phải chồng mình thì bị gọt đầu, bôi vôi, đóng bè cho trôi sông, không ai dám cứu). Ở hải ngoại, vợ chồng sống giữa xã hội văn minh với người bản xứ, ngôn ngữ bất đồng, như người câm điếc, cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng nên vợ chồng phải nương tựa, che chở cho nhau, tình nghĩa vợ chồng càng trở nên sâu đậm. Thế nên khi đôi vợ chồng già mà một người từ giả cõi đời thì người kia đau khổ, nhớ nhung dẫn đến suy sụp cả tinh thần lẫn thể chất. Người đàn ông chịu đựng mất mát tình cảm kém hơn đàn bà nên thường gục ngã rất nhanh sau khi vợ chết.

Có vài chuyện kể, khiến ta cảm động.

Cụ ông John Wilson 92 tuổi, cụ bà Marjorie 88 tuổi sống bên nhau gần 62 năm. Cụ bà bị bịnh phải vào nằm nhà thương Queen Hospital Burton ở Staffordshire, nước Anh. Rồi cụ ông mắc bịnh ung thư giai đoạn cuối phải vào cùng bịnh viện. Lúc đó cụ bà bịnh đã ổn định sẽ được đưa về nhà dưỡng lão. Nhận thấy, có thể hai người sẽ không còn dịp gặp nhau, bịnh viện sắp xếp hai giường của hai cụ gần nhau. Cụ ông nắm tay cụ bà, nói lời vĩnh biệt rồi mỉm cười, nhắm mắt đi vào cõi hư vô.

Đôi vợ chồng đều mù. Ngày cưới về, chồng nắm tay vợ dẫn đi khắp nhà cho vợ quen biết mọi vật. Nay cả hai đã gần tám mươi tuổi. Chồng làm nghề thổi kèn đám cưới, lúc nào cũng nắm tay vợ, dẫn theo, coi như thổi kèn cho vợ nghe “Trăm con phượng hoàng”, “Niềm vui đầy nhà”. Trong đám đông lao xao tiếng cười nói, chỉ cần nghe tiếng gọi nho nhỏ, chỉ cần nghe hơi thở, họ cũng tìm thấy nhau. Một lần, chồng ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện. Vợ bốn ngày không ăn hạt cơm. Không sờ thấy bàn tay quen thuộc kia, bà không còn hồn vía nào nữa.

Bây giờ đến “Cái vấn đề” mà các cụ ông, cụ bà quan tâm, lo lắng. Đó là cái Chết.

Đứa bé, vừa lọt lòng mẹ đã chào đời bằng tiếng khóc “Oe oe!”. Trần có vui sao chẳng cười khì? Lớn chút nữa, chập chửng biết đi. Bước đi đầu tiên cũng là bước tiến đến bức tường trước mặt. Bức tường vô hình nhưng không người nào, kể cả vua chúa hay thánh nhân có thể vượt qua. Đó là cái Chết.

Nhưng chết là hết hay còn gì xảy ra?

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

(Đến như nước chảy, như gió thoảng.

Không biết ta từ đâu đến, rồi về đâu?)

Nếu người có linh hồn thì khi chết, hồn đi đâu? Lang thang trong cõi âm tăm tối, mịt mù, không thấy đường đi, không có lối về, bơ vơ, trơ trọi. Ai? Có ân nhân nào ra tay cứu vớt, đưa đường, dẫn lối cho linh hồn về với ánh sáng, thoát khỏi trầm luân? Thế là các triết gia, các ngài giáo chủ các tôn giáo đứng ra giải thích, rằng có những thế giới khác. Nó ở “trên cao” là thiên đường, nát bàn, cõi tiên… sướng lắm! Nó ở “dưới” địa ngục, hỏa ngục, âm phủ… đau đớn, khổ sở?

Triết gia Epicure (341-270 tcn) viết “Ta không sợ chết. Nó chẳng là gì đối với ta cả, vì khi ta sống, nó chưa có, đến khi nó có mặt thì ta không còn tồn tại”. Phái Khắc Kỷ, đặc biệt là Senèque và Epitète, lại có một lý luận khác để chiến thắng nỗi sợ chết. Họ coi sự chết là một tất yếu của thiên nhiên. Con người là một phần của thiên nhiên. Thiên nhiên có lý tính và con người tham dự vào lý tính ấy. Với cái chết, cá nhân sẽ tan biến, nhưng thiên nhiên là cái toàn thể vẫn tồn tại. Vì thế ta hãy chấp nhận cái chết như một “tất yếu theo định luật thiên nhiên”.

Đa số những lời giải thích của các tôn giáo thường siêu hình và áp đặt. Tôi không có thẩm quyền trên tôn giáo nên chỉ trích đăng một vài đoạn ngắn về phát biểu của các tín đồ của tôn giáo họ.

Trước hết là bài viết vui của luật sư Nguyễn văn Chức, một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ông tưởng tượng, sau khi mình chết, linh hồn mình sẽ “sinh hoạt” như sau. (bài của vip kk)… Sau khi đi thăm một vài nơi ở thế giới của Dante, tôi được đưa ra trước tòa phán xét của Thượng Đế. Tôi là người Công Giáo, tôi phải trả lời về tất cả những hành vi và ý nghĩ của tôi lúc còn sống. Ôi “ngày của thịnh nộ” (Dies irae, dies illa). Nếu linh hồn tôi có tội trọng (mortal sin), tôi sẽ phải xuống hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt đời đời. Nếu linh hồn tôi không có tội trọng và trong trắng như gương, tôi sẽ được lên Thiên Đàng ngay lập tức. Nhưng nếu linh hồn tôi, tuy không có tội trọng, nhưng không trong sáng như gương, nghĩa là còn lợn cợn bụi trần, thì tôi sẽ đi đâu? Tôi sẽ phải xuống ngục luyện tội (purgatory) một thời gian để lửa đốt con người tôi cho sạch những lợn cợn, và sau đó tôi mới được lên Thiên Đàng. Thời gian ở luyện tội, có thể là 10 năm, 20 năm, 50 năm . . . Tùy trường hợp nặng nhẹ. Mà tôi thì như cụ đã biết, nhiều lợn cợn lắm, thể xác cũng như tâm hồn. Có lẽ phải ở luyện tội cả mấy trăm năm.   Tôi được đưa đến tòa phán xét. Chưa đầy 5 phút, có tiếng loa. “Ai có vợ, và đã sống với vợ từ 30 năm trở lên, hãy đứng sang bên phải.” Tôi lễ mễ chạy theo tiếng loa, đứng sang bên phải. Đông lắm, người nào trông cũng thiểu não quá sức. Hai phút sau, có tiếng vọng từ trời cao: “Các con yêu mến, lúc còn sống, các con có vợ và đã ở với vợ trên 30 năm, như thế các con được coi như đã ở luyện tội cả mấy trăm năm rồi, các con sạch mọi tội lỗi và đáng được lên Thiên Đàng ngay lập tức để hưởng Thiên Nhan Chúa”. Mọi người đều hoan hô. Một ông già Mỹ móm mém, phều phào “All right!”. Tôi cũng phều phào “All right!”.                                              

Sự chết đối với người Hồi giáo.  Theo Qur an: Thiên Chúa định trước thời điểm một người chết trước khi được sinh ra. Không ai có thể đẩy nhanh hoặc trì hoãn cái chết của chính mình hoặc cái chết của người khác nếu điều ấy trái với ý muốn của Thiên Chúa, bất kể nguyên nhân cái chết. Theo Kinh Qur an 45:26: “ Allah sẽ ban cho bạn sự sống, sau đó giết bạn, và sau dó Ngài sẽ tập hợp bạn đến Ngày Phục sinh, trong đó không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết điều nầy”.  Có người nói rằng, người chiến binh Hồi giáo chết vì kẻ thù, linh hồn sẽ được lên thiên đàng và được Allah thưởng cho bảy (7) trinh nữ. Trước kẻ thù mà người chiến binh Hồi giáo bỏ chạy thì đàn bà cũng có quyền chém chết.                                                                                                   

Phát biểu của đức Đạt Lai Lạt Ma (Phật giáo) về cái chết.    

Với những người chuyên tạo ác nghiệp thì hơi ấm của thân thường thất thoát ở phần trên của thân trước tiên và sau đó mới thất thoát ở các phần khác của thân. Ngược lại, người chuyên tạo nghiệp thiện, thì hơi ấm thường thất thoát từ dưới chân trước tiên. Trong cả hai trường hợp trên, hơi ấm sau cùng tụ lại ở nơi tim, và từ đấy lìa khỏi thân. Các phần tử vật chất này, gồm tinh cha và huyết mẹ kết hợp lại, là nơi thần thức nhập vào lúc đầu tiên để vào tử cung mẹ khi bắt đầu sự sống. Các phần tử vật chất này biến thành trung tâm luân xa tim, và chính từ những điểm nầy mà thần thức cuối cùng lìa khỏi thân. Ngay khi thần thức lìa luân xa tim, thân trung ấm bắt đầu, trừ trường hợp của các vị tu hành cao, thác sinh trong cảnh trời vô sắc của các cõi không vô biên giới, thức vô biên giới, các “cõi Không” hoặc là các cảnh giới cao nhất của cõi luân hồi, thì đi tái sinh ngay sau khi chết. Những người thác sinh vào các cõi dục giới và sắc giới thì vẫn phải trải qua thân trung ấm, ở trong đó những người này sẽ mang hình dạng của thân tái sinh tương lai. Thân trung ấm có đầy đủ 5 giác quan và có cả nhãn thông, có khả năng đi xuyên qua vật chất, và bay ngay lập tức đến nơi mình muốn. Thân trung ấm cũng có thể thấy được các thân trung ấm khác cùng thể loại (tức là cùng cõi đi tái sinh). Các thể loại khác nhau là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, a tu la và trời. Khi thân trung ấm chưa tìm được nơi đi tái sinh thích hợp với nghiệp lực của mình sau 7 ngày thì nó sẽ phải trải qua sự chết của trung ấm và tái sinh trong một thân trung ấm mới. Tái sinh trung ấm chỉ có thể diễn ra nhiều nhất là 6 lần, có nghĩa là thần thức chỉ có thể trải qua tối đa là 49 ngày trong cõi trung ấm. Điều đó cũng có nghĩa là khi một thần thức sau khi chết đi một năm trời, hiện ra và cho biết vẫn chưa được tái sinh, không còn ở trong cõi trung ấm nữa, thì thần thức đó đã tái sinh thành ma. (hết  trich) 

 Tóm lại đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Do Thái tin rằng, sau khi chết, linh hồn sẽ bất diệt, được về với Thiên Chúa nơi thiên đàng. Đạo Phật thì cho rằng, linh hồn không bất diệt mà được  đầu thai vào kiếp khác tùy theo cái nghiệp mà mình đã tạo nên. Thế thì với người Á Đông (đặc biệt Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, Đài Loan, Nhật Bản) chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, và Đạo giáo, nhận định ra sao về cái chết?

Như đã nói ở trên, với Phật giáo, con người khi chết, thân xác tiêu tan nhưng linh hồn sẽ đầu thai vào sáu cõi tùy nghiệp chướng do mình tạo ra khi còn sống. Lão giáo (Đạo gia) cho rằng, ngoài thân thể, là phần vật chất hữu hình còn có hồn và phách (vía).  Lão Tử không bàn đến Thượng Đế, linh hồn, thiên đàng, địa ngục mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng trở về Đạo, hòa với Đạo. “Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh” (Đạo mà có thể nói ra được không phải là đạo thường hằng vĩnh cửu, Tên mà có thể gọi ra được không phải là tên thường hằng bất biến)  Xin trích một bài báo: Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh Tăng quan còn có cả Đạo quan. Từ đời Lê Trung hưng Đạo giáo bắt đầu suy thoái, những đạo quán bị Phật giáo hóa, trở thành chùa. Bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tượng Phật[3]. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người Việt thì vẫn còn. Thuật phong thủy, các phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, các hình thức bói toán, cúng bái, trừ tà của Đạo giáo vẫn phổ biến tại Việt Nam. Tại Hà Nội vẫn còn một số đạo quán của Đạo giáo như Thăng Long tứ quán bao gồm Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.

 Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng “cưỡi diều tìm long mạch” để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới. Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên (hết trích).

Tóm lại, theo đạo Giáo, ngoài thân thể, phần vật chất hữu hình, còn có hồn và phách (vía). Hồn là phần tinh thần. Khi thân thể chết đi thì phách không còn nữa, hồn tiếp tục tồn tại trong thế giới vô hình. Nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng về với Đạo hòa với Đạo. “Sống chết là do khí tụ lại hay tan mà thôi” (Trang Tử). Đạo giáo là một triết lý, sau biến thành một thứ mê tín dị đoan, ma thuật, phù thủy, bùa chú.

Còn theo Nho giáo thì người có khí, có hồn, có phách. Chết không phải là hết. Chỉ chết cái hình hài, còn cái khí tinh anh, cái hồn khí ấy thì lại về với chỗ sáng tỏ của vũ trụ. Tuy nhiên, đạo Nho chỉ hướng sự quan tâm về những vấn đề nhân sinh, nên xiểng dương phương châm “Sự quỉ thần” (khí, phách được gọi cung kính là sự quỉ thần) “Kính nhi viễn chi” và dụng đạo thần minh làm phương tiện giáo hóa tức đề cao khía cạnh phong hóa mà không bàn về khía cạnh siêu hình. Có người hỏi Khổng Tử “Con người có số mệnh không?” Khổng tử đáp “Có số mệnh nhưng không nên đứng dưới bức tường sắp đổ” “Chưa biết chuyện sống, sao biết được chuyện chết?”

Còn người Việt ta nghĩ gì về cái chết, về linh hồn?

Người Việt đa số, có đi chùa lễ Phật, xin lễ cầu siêu cho thân nhân, tin lời Phật dạy nhưng vẫn tự cho rằng mình theo “Đạo Ông Bà”. Họ vẫn tin rằng thân nhân mình, chết đi không phải đầu thai kiếp khác, không phải lên Niết Bàn hay xuống địa ngục mà vẫn ở cùng với con cháu trong gia đình. Trong nhà, chỗ trang trọng nhất là bàn thờ tổ tiên, thân nhân người đã khuất. Ngày xưa, trên bàn thờ có bài vị (thần chủ), là nơi linh hồn người đã khuất ẩn náu, ngày nay thay bài vị bằng di ảnh, tưởng như người đã chết vẫn hiện diện trong gia đình. Khi người thân trong gia đình bị “bất tỉnh nhân sự”. Để hồi sinh, chủ nhà đứng trước sân kêu lớn “Hú ba hồn chín vía (bảy vía nếu là nam) X. về nhập xác” đồng thời thắp đèn nhang trên bàn thờ, cầu xin ông bà phò hộ cho con cháu tai qua nạn khỏi. Khi người thân bị tai nạn hay bịnh tật mà “chết đường, chết chợ” thì gia chủ ra nơi người đã chết kêu lên “Hú ba hồn chín vía Nguyễn, hay Lê… X. theo tôi về nhà” Họ tin rằng nếu không gọi như vậy, hồn người chết sẽ không biết nhà ở đâu mà về để hưởng sự cúng kiếng, sẽ thành ma đói, ma khát. Người chết đuối phải nhờ thầy cúng đến lập đàn trục vong, hướng dẫn hồn về chùa nghe kinh kệ mà siêu thoát, nếu không hồn vẫn phải ở dưới nước cho đến khi (lôi kéo) một người khác chết (đuối) thay, hồn mới thoát khỏi trầm luân. Họ tin rằng, những người chết đuối, chết oan, chết “bất đắc kỳ tử”, linh hồn vất vưởng (oan hồn uổng tử) không nơi nương tựa thành ma, thành quỉ nên ngày rằm, mồng một thường có lẽ vật cúng ngoài trời (bàn thiên) cho các hồn ma đến hưởng và chấp nhận lời cầu xin của gia chủ đừng quấy phá, gây xáo trộn trong nhà đồng thời phù hộ cho mọi người được mạnh khỏe, vạn sự như ý. Vào dịp cuối năm âm lịch có lễ “rước ông bà” về đoàn tụ, vui xuân với con cháu. Sau ba ngày tết có lễ “tiễn ông bà”. Đa số người Việt tin rằng, linh hồn thân nhân vẫn đoàn tụ với nhau  ở một thế giới (vô hình) khác gọi là Âm Phủ. Âm Phủ không phải là địa ngục như Phật giáo mô tả mà là nơi linh hồn những người đã chết vẫn sinh hoạt, đi lại, giao tiếp, chuyện trò với nhau giống như một xã hội bình thường nơi dương thế. Vì vậy đến ngày giỗ chạp, rằm tháng bảy, ngoài lễ vật còn đốt theo “giấy tiền vàng bạc”, áo quần, nhà lầu, xe hơi, đô la… để người thân nơi cõi âm được sung sướng. Người bịnh nặng thường kể lại. Họ thấy cha, me, vợ, chồng… (đã khuất) đến nắm tay đòi dẫn đi. Trong cuộc chiến vừa qua “Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình”. Mạng người như hạt gạo trên sàng. Sống sót được là nhờ phước đức ông bà.

Bây giờ mới thực sự là những suy nghĩ của bọn đàn ông già của chúng tôi. Người trẻ thường hỏi người già “Có sợ chết không?” Xin trả lời “Không sợ chết, chỉ sợ bịnh” Già lão đi đôi với bịnh tật. Nhiều người lớn tuổi ngồi với nhau thường nói về bịnh hoạn của mình như chuyện thời sự. Sau đây là những lời đối đáp của mấy ông già. Một ông nói “Tôi không muốn đến thăm người bịnh, vì thấy chính mình sẽ như vậy. Nằm một chỗ, cựa mình cũng đau, thở không nỗi, ăn uống, tắm rửa, thậm chí đi vệ sinh cũng phải có người giúp đỡ… Khổ như thế thà chết quách còn hơn” Một ông khác thở dài “Vậy mà lúc đó lại muốn sống. Chẳng phải lưu luyến cuộc đời mà vì bản năng sinh tồn của một sinh vật. Hơn nữa, người bịnh chẳng nghe ai nói mình sẽ chết mà an ủi rằng không sao đâu, bịnh sẽ hết. Ngay đến bác sĩ cũng quả quyết rằng bịnh đang được cải thiện, nhưng ra bảo nhỏ với người thân rằng. Bịnh nhân khó qua khỏi, về chuẩn bị tang lễ là vừa” Một ông có vẻ vô tư “Người chết có số. Mới thấy đó mà đã bịnh chết, còn người khác bị ung thư cả mấy chục năm vẫn sống nhăn. Có người cho rằng, do di truyền. Ông bà, cha mẹ sống thọ được bao nhiêu tuổi thì con cháu thọ được khoảng tuổi đó. Vậy tôi xin hỏi. Mấy ông có lưu luyến cuộc đời nầy không?” “Ra đi tay không. Chết là hết. “Gia tài” theo mình là cái “Quan tài”. Giờ thì chỉ cầu sao ngủ một giấc và không hề thức dậy nữa” .

               Đọc  đến đây, làm gì bạn cũng sẽ phàn nàn “Viết dài dòng quá! Tôi chỉ muốn biết ông đã chuẩn bị những gì trước khi ông từ giã cõi đời?” Xin thưa “Tôi chả làm gì cả ngoài việc viết mấy dòng di chúc, đại ý: Khi đưa tôi vô bịnh viện, thấy không hi vọng gì thì rút ống trợ thở. Liên lạc với nhà quàng, lo quan tài, tẩn liệm. Không làm lễ tang ma, không cáo phó, không thăm viếng, không phúng điếu. Tẩn liệm xong đưa quan tài thẳng ra nghĩa trang. Thế là xong một đời người!” Hết!

Phạm Thành Châu

tháng 9/2020

         

Visits: 343

Đâu Những Xe Buýt Vàng

Thơ Lê Văn Bỉnh

Ảnh: Faifax County News Center

Ta về mang gió mát

Cho bầu trời thanh thanh

Lòng ta thêm dào dạt

Trong không khí trong lành

***

Hình như chút tĩnh lặng

Làm cho ta băn khoăn

Đường phố sao trống vắng

Cho bước ta ngại ngần

***

Bây giờ ta mới rõ

Thiếu tiếng cười vang râng

Bầy trẻ thơ trước ngõ

Đợi những xe buýt vàng

***

Kìa xa sau cửa kính

Lãng vãng chú Jason

Cô Rachael xúng xính

Như đợi xe buýt vàng

***

Ta thẩn thờ ngơ ngẩn

Đâu những xe buýt vàng

Giờ tan trường yên ắng

Nỗi buồn lại  mang mang

Lê Văn Bỉnh

(Mùa Tụ Trường Niên Học 2020 -21)

 

 

 

 

 

 

Visits: 161

Mùa Vu Lan Hà Nội

Thơ Lê Văn Bỉnh

Vụ xử án Đồng Tâm tại Hà Nội ngày 14-9

 

Mùa Vu Lan Hà Nội

Tòa xử vụ Đồng Tâm

Có khát chi mà vội

Uống máu tươi ngày rằm

 

Một cụ già chưa đủ

Phải thêm xác cháu con

Thịt mới ngon bữa cỗ

Đảng mới béo mới tròn

 

Dân đen chỉ thèm chết

Bao nhiêu thập niên rồi

Nô lệ dâng lợi ích

Lũ ký sinh đầy trời

 

Mùa Vu Lan Hà Nội

Tiếng chuông chùa hư không

Tịch liêu mùa lễ hội

Nghe tê tái triệu hồn

 

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 9 năm 2020

Visits: 88

Sư Đoàn Tiền Giang

Trần Bạch Thu

Chuyến xe khách đến trại giam vào buổi xế chiều. Trời mây đen u ám vần vũ chùng xuống thấp như sắp chuyển mưa. Dưới đường thấp thoáng bóng công an đi lại quanh quất trước cổng dẫn ra con đường chính. Từ trong trại một đoàn người tù xếp hàng đôi đi ra ngồi xuống cạnh bên thành xe chờ gọi tên từng người đứng lên bước đến cửa cho công an khám xét trước khi lên xe. Tù nhân đi chân đất, đầu trần không được phép mang theo bất cứ một thứ gì. Tất cả đồ đạc vật dụng đã được nhét vào trong bao bố cá nhân gởi theo xe tải từ trưa. Im lặng bao trùm bầu không khí trên xe. Mọi người đang trên đường đến trại cải tạo Vườn Đào, nổi tiếng từ lâu với tên gọi chính thức rất đẹp – Mỹ Phước.

Tất cả tù nhân đã kết thúc giai đoạn tạm giam điều tra ở trại chấp pháp P15 hoặc cơ quan an ninh P12 sau đó được đưa xuống trại giam tỉnh Tiền Giang trong một vài tuần để chờ chuyến đi Mỹ Phước. Thành phần tù nhân bao gồm đủ loại từ vượt biên, vượt biển, hình sự, chính trị hay kinh tế nhưng đông nhất và ồn ào nhất là tù vượt biên.

Đoạn đường đi tới trại Mỹ Phước khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ. Từ Mỹ Tho đến ngã ba Long Định phố xá chen chúc hai bên đường tạo thành từng khu dân cư đông đúc, rồi từ ngã ba rẽ phải đi vào, nhà cửa bắt đầu thưa thớt dần. Hai bên đường cỏ dại, đưn lác mọc cao um tùm. Xe cộ, người đi vắng vẻ. Trông thật đìu hiu ảm đạm.

Xe dừng lại giữa đồng trống mênh mông, xa xa cổng trại làm bằng gỗ trên viết hai hàng chữ sơn đen “Trại cải tạo Mỹ Phước” hiện lên trơ trọi được bao bọc xung quanh bởi hàng rào dây kẽm gai dầy đặc. Chúng tôi xuống xe xếp thành hàng đôi điểm danh rồi lần lượt đi theo con đường đất nhỏ vào bên trong trại. Từ những ô cửa sổ bằng phên đất trong các dãy nhà dài dọc theo đường, hằng trăm con mắt tò mò nhìn ra theo dõi xem đoàn người tù được phân tán vào các dãy nhà. Họ hy vọng có người vào buồng mình để biết tin tức ở bên ngoài dù là rất ít, nhưng cũng đủ giúp cho họ đủ niềm tin sống sót chờ ngày về.

Tôi được phân vào dãy nhà ở góc trong cùng của trại dành cho tù nhân chính trị, gần dãy nhà tù nữ, mặc dù đa số tù nhân chuyển lên đợt nầy đều là “khách” vượt biên. Căn cứ vào kinh nghiệm của các đợt chuyển tù theo cách gối đầu, có nghĩa là trại thả đợt trước thì sẽ có đợt sau được chuyển lên từ Mỹ Tho trám vào, mỗi đợt như vậy thụ án ở trại cảo tạo chừng 6 tháng đến một năm là được thả. Ngược lại tù chính trị thì không có án và không biết được thời gian thụ án là bao lâu cho nên khi bị chuyển vào khu nầy thì mọi người ai nấy cũng đều nhìn bằng cặp mắt e ngại.

Ngay khi mới bước vào buồng giam tôi có cảm giác như đi lạc vào một nơi thâm u cùng cốc. Không gian tối lù mù chỉ có một bóng đèn tròn, vàng vọt ở giữa buồng. Mùi ẩm mốc hòa lẫn với mùi mồ hôi người xông lên nồng nực. Hai bên sạp ọp ẹp, lố nhố người đang ngồi dựa lưng vào vách không thấy rõ mặt chỉ thấy mờ nhạt, xanh xao một màu xám xịt. Buồng trưởng hướng dẫn đi một vòng tìm chỗ trống, cuối cùng đưa tôi đến gần nơi lối đi ra phía sau sát bờ kênh, ngay bên cạnh một người tù đang nằm bất động phủ toàn thân bằng một tấm mền đen mỏng che kín mặt ở cuối buồng.

Buồng giam nền đất lợp lá, vách phên luôn tuồn, tù nhân trải chiếu đệm trên sạp kết bằng cây đước ngủ ban đêm cũng như sinh hoạt ban ngày ăn uống tại chỗ trên manh chiếu nhỏ không hơn không kém. Mỗi tuần dọn vệ sinh một lần, nhưng cũng làm cho có lệ, chỉ quét rác thôi chứ không có tẩy rửa. Lâu ngày nền đất gồ ghề lên bóng láng như vảy cá đen thui. Đêm nằm ngủ mơ thấy như đang đi trên xe nhà rồng ra miền đất lạnh.

Mọi người ai đã từng ở trại Mỹ Phước đều biết địa ngục trần gian là có thật. Điều đầu tiên là đi ị phải đúng giờ. Mỗi sáng theo thứ tự từng dãy nhà chừng hơn 40 người xếp hàng ra dãy cầu tiêu cá đi tập thể trên chừng 10 căn chòi lá dừng sơ sài. Đi trên cây cầu khỉ lắt lẻo đang còn sợ té chưa kịp hoàn hồn thì công an đã ra lệnh khẩn trương cho đợt khác. Thời gian chừng nửa tiếng sau đó tất cả tập họp trở vô buồng cho dãy nhà khác đi ra.

Hôm đầu tiên đến trại đi cầu tiêu cá buổi sáng tôi thấy hơi khó, nhưng không sao, tự quên mình đi so với hình ảnh đập vào mắt, trông thấy vô cùng tội nghiệp khi đoàn tù nữ đi ra xếp hàng chờ. Bất ngờ một nữ tù nhân băng vượt lên phía trước vội vàng lao ngay xuống bờ cầu tiêu cá lềnh bềnh chất thải để ngắt thật nhanh vạt rau muống mọc quanh bờ. Nữ tù nhân nầy còn trẻ đã ở đây hơn 2 năm rồi mà không có thân nhân thăm nuôi. Công an thấy cũng làm lơ, quay mặt đi chỗ khác.

Mỹ Phước là vùng đất trũng phèn nặng nên mỗi buồng giam đều có một hàng lu nước phèn lọc bằng vôi hoặc tro để chắt nước uống và nấu ăn. Lao động chủ yếu là làm thủy lợi đắp đất thành từng luống trồng khóm. Đội cải tạo đi ra ngoài lao động trên nắng như đỗ lửa, dưới dầm chân quá gối trên kênh, xắn đất chuyền đắp lên luống. Bữa sau, hai ống quần đóng phèn bạc hoe, đỏ chạch. Chỉ một tuần thôi dưới chân nhất là ở các móng chân dính phèn vàng khè và mặt mày, tay chưn dộp da tróc vảy trông thật thảm thương.

Ngoài các đội lao động nông nghiệp, trong trại còn có nhiều đội đan lát hoặc làm các tạp vụ linh tinh mà phần lớn là tù vượt biên và tù nữ. Chung quanh trại ở tầm xa ngoài các rẫy khóm còn có các chốt canh giữ hoa màu do một số tù nhân tự giác trông coi, các tù nhân nầy thường đã thụ án hơn hai phần ba bản án hoặc ở đây trên 5 năm mà vụ án vẫn chưa kết thúc. Họ được đi lại tự do sinh hoạt riêng biệt trong các căn chòi lá chốt ở cuối rẫy. Đây là nơi cung cấp thực phẩm chui cho tù nhân trong trại. Dĩ nhiên cũng là nơi giúp các gia đình thu lượm tin tức của người thân đang bị giam bên trong, nhất là tù vượt biên thường có gia đình ở Sài Gòn hay các tỉnh xa xôi ngoài miền Trung. Công an chia chác tiền bạc qua những dịch vụ mua bán đổi chác và đồng thời cũng gián tiếp kiểm soát hàng hóa chuyển lậu vào trong trại.

Trong số các chốt nầy có một tù nhân bị bắt nguội trong một vụ án phản động và không có án. Khi chuyển lên đây anh đã nhiều lần vượt ngục và bị bắt lại. Bắt đi bắt lại mấy lần cho đến nay hơn 5 năm rồi mà cũng chưa được thả. Ra rẫy lao động mọi người thường hay liên lạc với anh ta để gởi mua thêm thức ăn tươi ngoài chợ Long Định vì ngoài nhiệm vụ canh giữ ở chốt anh còn được cán bộ cho theo ghe ra cầu kênh Xáng lấy chở nước ngọt về trại.

Quen dần anh tù tự giác tín cẩn tôi nên mới tiết lộ chi tiết về người tù ít nói lầm lì suốt ngày, gần mười năm không có ai thăm nuôi, nằm kế bên tôi trong buồng giam thuộc tổ lao động vệ sinh trong trại và đồng thời thỉnh thoảng anh ta cũng có nhờ tôi chuyển một ít gạo và cá mắm cho người tù nầy mà anh ta gọi là “ông thầy.”

Thật tình cờ và cũng rất thú vị khi được nằm kế bên và trò chuyện nhiều đêm với “ông thầy” tên thật là Trần văn Đ. nguyên sĩ quan tác chiến Sư Đoàn 7 Bộ binh quân lực VNCH, anh là nhân chứng sống và đang thụ án trong tù về một vụ án mà ít được nhắc tới sau nầy.

Câu chuyện bắt đầu với trí nhớ của một người tù 10 năm.

Tháng 8 năm 1977 cộng sản mở một phiên tòa tại Mỹ Tho để xử một vụ án âm mưu lật đổ chính quyền, tổ chức có danh xưng là Sư Đoàn Tiền Giang. Tuy luôn luôn nói là công khai nhưng không có thân nhân bị cáo tham dự cũng như không có phóng viên báo chí theo dõi và tường thuật, kể cả báo chí trong nước. Phiên tòa chỉ đọc cáo trạng trong khoảng hơn 2 giờ đồng hồ. Tất cả nhân viên pháp lý cũng như bồi thẩm nhân dân đều do chính quyền chỉ định. Tất cả bị can không có kháng án. Hoàng văn Ngãi, Tư lệnh sư đoàn, tử hình. Hai anh em Trương văn Thân (Bí danh Trần Minh Dũng), Tham Mưu Trưởng và Trương văn Dậy (Mười Dậy) Chỉ Huy Trưởng khu căn cứ Long An, mỗi người lãnh án 10 và 20 năm tù khổ sai. Khoảng hơn 10 người khác gồm có Lê Duy Phong (Sinh viên), Đỗ Hữu Thọ (Sinh viên), Phạm văn Quyền, Nguyễn văn Hiệp. Lê văn Điểu … và TVĐ. lãnh án từ 5 đến 10 năm tù giam. Tất cả đều bị bắt tại nhà Trần Minh Dũng vào buổi chiều tối ngày 10 tháng 10 năm 1976 và đem về biệt giam ở khám đường cũ, số 2 đường Lãnh Binh Cẩn, thành phố Mỹ Tho.

Ngược dòng thời gian, kể từ khi có lệnh đầu hàng từ Tướng Dương Văn Minh trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tất cả sĩ quan binh lính cùng viên chức tại địa phương đều rời khỏi cơ sở hoặc nơi đơn vị đồn trú. Sau đó, đa phần đều ra trình diện đi cải tạo theo như thông báo trên báo chí và đài phát thanh cộng sản. Một số khác vẫn còn lẫn trốn không ra trình diện. Có người mai danh ẩn tích về các vùng xa xôi hẻo lánh tận miền Thất Sơn, Châu Đốc hay xuống vùng U Minh, Cà Mau. Lâu dần biệt tích, có thể họ đã vượt biên hoặc chết không ai biết. Cũng có người chờ tham gia các tổ chức kháng chiến được móc nối từ nước ngoài như trong vụ án Trần văn Bá sau nầy.

Chỉ một thời gian ngắn sau ngày cộng sản chiếm đóng toàn miền Nam, họ đã biểu lộ rõ dã tâm thống trị đất nước Việt Nam bằng một chế độ độc tài hà khắc. Giam cầm, lưu đày các sĩ quan, viên chức VNCH vô thời hạn. Ngược đãi thành phần trí thức, học giả miền Nam. Trấn áp dân chúng rời thành phố đi các vùng rừng thiêng nước độc để cán bộ đảng viên miền Bắc trán vào chiếm ngụ nhà cửa trong thành phố hoặc các vùng đất đai trù phú trong Nam. Kể từ giữa năm 1976 họ ban hành các chính sách phân biệt đối xử với các thành phần xã hội. Người miền Nam sinh sống trong vùng do VNCH kiểm soát bị loại ra khỏi các sinh hoạt công quyền kể cả trong các lãnh vực kinh tế và xã hội. Không đủ sức để chống đối lại kẻ xâm lược, một làn sóng vượt biên vượt biển đã trở thành phong trào rộng khắp trên toàn miền Nam.

Lúc bấy giờ, sư đoàn Tiền Giang là một tổ chức sớm nhất ở trong Nam chống lại sự cầm quyền của cộng sản. Thành phần tham gia đa số là quân nhân, viên chức VNCH đã cải tạo về hoặc còn lẫn trốn trong vùng Tiền Giang từ sau ngày cộng sản chiếm đóng. Tên gọi là sư đoàn nhưng chưa có trang bị vũ khí trong giai đoạn hình thành và chuẩn bị hoạt động như một phong trào nhân dân nổi dậy chống lại cộng sản. Cấp chỉ huy sư đoàn là các nhà hoạt động chính trị thời VNCH như ông Trương văn Thân là sáng lập viên đảng Tân Đại Việt, cùng thời với GS. Nguyễn Ngọc Huy, nguyên Trưởng Ty Nông Nghiệp tỉnh Định Tường. Trung Tá Hoàng văn Ngãi là Sĩ quan Tham mưu, Tiểu khu Định Tường. Lê văn Điểu là Tỉnh Đoàn trưởng Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Kiên Giang.

Theo kế hoạch của tổ chức thì sư đoàn sẽ là lực lượng nồng cốt một khi tổ chức ra mắt công khai chống lại nhà cầm quyền cộng sản được dư luận quốc tế quan tâm cũng như sự ủng hộ, tài trợ của nước ngoài. Sư đoàn thành lập vào đầu tháng tư năm 1976 tại Mỹ Tho dưới sự chỉ đạo của Trần Minh Dũng (Tư Thân). Hoạt động chính yếu lúc bấy giờ là tổ chức rải truyền đơn chống cộng sản. Tuyên truyền kết nạp cảm tình viên và thành viên hoạt động. Cho đến khi bộ chỉ huy bị vây bắt tại nhà Tư Thân, đường Pasteur, thành phố Mỹ Tho thì thành viên sư đoàn hầu như có mặt khắp nơi trên vùng lãnh thổ của ba tỉnh Long An, Định Tường và Kiến Hòa. Sau ngày 10 tháng 10 năm 1976 công an Tiền Giang ráo riết truy lùng bắt tiếp các thành viên hoạt động của sư đoàn.

Bắt đầu là khu căn cứ ở Long An do Mười Dậy chỉ huy. Công an phối hợp với bộ đội địa phương dùng súng tấn công căn cứ gây thiệt mạng nhiều người và bắt sống một số người tay không có vũ khí. Một số vượt thoát ra ngoài bị bộ đội rượt theo bắn chết. Số còn lại ẩn trốn trong nhà dân và thoát đi về hướng Mộc Hóa.

Sau đó công an dùng các phương tiện giam cầm dã man đối với tù nhân bị bắt. Tra tấn, biệt giam và cùm chân trong phòng tối là đòn cân não để khai thác tin tức. Càng lúc họ càng truy ra nhiều manh mối hơn và đi lùng bắt nguội (không có lệnh của Tòa án) khắp nơi. Thành phần bị bắt bao gồm đủ mọi loại từ sĩ quan, binh lính VNCH cho đến các giới chức trong chính quyền cũ tại địa phương, Trong đó có cả các viên chức tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh (QGHC). Công an ruồng bố trong các cư xá công chức cũ và trại gia binh trước đây. Chỉ trong vòng 10 ngày khám đường cũ chật kín người, công an chuyển một số tù nhân xuống trại giam mới, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho chừng khoảng 4km.

Trong thời gian 6 tháng, công an truy lùng bắt tất cả mọi người có liên quan đến những người bị bắt từ quan hệ gia đình cho đến bạn bè người quen, thân thuộc. Tháng 4 năm 1977 công an chuyển tất cả những người bị bắt vì tham gia sư đoàn Tiền Giang xuống trại giam chính của tỉnh. Tình hình căng thẳng khiến cho nhiều người có liên quan chưa bị bắt bỏ trốn dây chuyền, mặc dù không có liên can gì cả. Một người bị bắt kéo theo hàng chục người bị công an bắt đi thẩm vấn. Thật ra tổ chức cũng chỉ mới còn trong vòng tụ họp và tuyên truyền tham gia với tính cách cảm tình viên thì nhiều nhưng tuyên thệ tham gia vẫn còn rất ít trừ những người chủ chốt.

Cộng sản giấu nhẹm các sự kiện trong vụ án và mở một phiên tòa nhanh chóng để xử các bị can. Theo lời một nhân vật có thẩm quyền cho biết vụ án được Mai Chí Thọ chỉ đạo không khoan nhượng. Không biết cộng sản xử kín bao nhiêu người, chết hay sống trong mười năm qua không có tin tức. Anh cho biết lúc còn ở trại giam Tiền Giang, có thời gian anh bị nhốt chung với hai anh Lê Tấn Trạng và Ngô Ngọc Vĩnh (QGHC).

Vụ án Sư Đoàn Tiền Giang khép lại khi tòa tuyên án chính thức và những người bị bắt sau đó đều có lệnh tập trung cải tạo 3 năm vào cuối năm 1977. Phạm nhân được đưa đi các trại cải tạo tại địa phương hoặc án nhẹ hơn được đưa đi khu nông nghiệp Cồn Tròn ở Cái Bè thuộc Tỉnh ủy Tiền Giang, ở đây phạm nhân sinh hoạt thoải mái, làm việc hưởng theo chế độ công nhân một thời gian ngắn trước khi được trả tự do về với gia đình.

Từ khi được đưa đến trại Mỹ Phước, trong tù anh Đ. thường chỉ nghe ngóng và quan tâm đến tin tức ở nước ngoài. Thật là phấn khởi khi biết được phong trào phục quốc của nhóm Mai văn Hạnh và Trần văn Bá đã về tới Cà Mau. Hay là phong trào kháng chiến của Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã về tới biên giới Lào – Việt. Ngoài các tổ chức trên anh còn luôn biểu lộ sự kính ngưỡng đến các “anh hùng” Võ Đại Tôn và Lý Tống.

Tết năm 1989 tôi được trả tự do. Trước khi biết tin có lệnh được thả hai hôm, tôi và anh có tâm sự nhiều điều. Điều sau cùng anh nói:

– Tôi bây giờ không còn hy vọng gì. Trừ phi các anh ra ngoài còn giữ được tinh thần phục quốc VNCH.

Ra khỏi cổng trại Mỹ Phước tôi bước lên xe mà đầu còn ngoảnh lại. Bóng anh mờ dần sau khung cửa sổ chằng chịt dây hàng rào kẽm gai. Tôi thầm khấn.

Trần Bạch Thu (ĐS 17)

Visits: 415

Giấc Mơ Trở Lại Đồi 29

Thơ Lê Văn Bỉnh

 

Đêm qua trong giấc mơ

Toàn thân tôi bừng nóng

Đau đau cổ họng

Ho khan rồi khó thở

Những đám vi khuẩn đỏ

Ồ ạt chui vào phổi

Hung hăng đào xới

Phá vỡ hàng vạn phế nan

Khi tôi sắp xỉu ngất

Bỗng cửa phòng mở bật

Mấy làn gió mát

Từ một đỉnh đồi xa

Thổi vào mũi miệng vô vàn hạt phấn hoa

Hai buồng phổi đầy dưỡng khí và thân tôi hồng hào trở lại

Chúng ta phải sống và tập hợp dưới chân đồi xưa

Tiếng vọng vang vang oai phong hiệu lệnh

***

Ngọn đồi đó chúng tôi từng dừng quân

Đóng lại một đêm

Đồi 29 ai dễ gì quên

Cao độ trùng tên với ngày cận cuối tháng Tư

Chúng tôi đã vội vã leo lên

Hì hục cuốc đào công sự

Những ụ súng to nhỏ bố trí sẵn sàng

Lệnh chờ đánh tập hậu

Đại quân địch sẽ qua thung lũng dưới chân đồi này

Nhưng sáng hôm sau

Khi mặt trời vừa lên cao

Chợt có lệnh đầu hàng

Chúng tôi bàng hoàng

Đắn đo do dự

Cả đơn vị tức tưởi gục đầu

Quân phục cởi ra giấu cùng súng đạn

Vào những hốc đá

Lần lượt bước xuống chân đồi

***

Vừa hồi sức tôi cùng đồng đội

Quay trở lại ngọn đồi xưa

Hoang vu u tịch

Những mái tóc bạc vờn bay trong gió

Những khuôn mặt nhăn nheo khắc khổ

Những bàn tay gầy guộc ốm o

Chúng tôi nhìn lên đồi

Nhạt nhòe nước mắt

Đồi 29 hôm nay sao cao quá

Những chướng ngại không thể vượt qua

Những bộ quân phuc kia ơi còn như xưa hay mục nát

Những khẩu súng kia ơi còn như xưa hay rỉ sét

Bốn mươi lăm năm háo hức chờ đợi

Còn lại đây hồn xác thẫn thờ

Đau xót

Lê Văn Bỉnh, ĐS 10

Virginia, tháng Tư 2020

Visits: 154

Tháng tư, bức tường đá đen *

Hoài Ziang Duy

Tôi đứng nhìn em

Người thiếu phụ đứng ở bức tường đá đen

Có chồng chết ở chiến trường Việt nam

Mấy chục năm qua như lời em kể

Mỗi năm tháng tư

Hoa đào mở hội

Trên mặt phẳng đá đen cuộc đời trơ trụi

Năm mươi bảy ngàn chiến binh, quan, quân ghi dấu

Thấy lại tên chồng

Hồi ức chuyện năm xưa

Mấy mươi năm qua, lịch sử nhục vinh còn đó

Tên kề tên không phân biệt chức danh

Khi chết đi thân người nằm xuống

Cũng cầm bằng

Một nghĩa như nhau

 

Em trở về, tôi tháng tư đen

Tìm lại tên ai trên bức tường hồi ức

Tôi bâng khuâng lòng đêm canh thức

Xương máu đồng bào

Đồng đội tôi

Người lính vô danh

 

Đâu có bức tường nào ghi đủ chiến cuộc Việt Nam

Cả triệu người nhà tan phận nát

Sau chiến tranh, chiến binh người lưu lạc

Có còn đâu tổ quốc quay về

Dẫu hôm nay, cho cùng màu da mẫu hệ

Thấy sống còn

Đâu có nghĩa như nhau

 

Hỡi cô gái ở bức tường đá đen

Em dò lấy tên người thân quá cố

Có thấy tôi, mang tên người chết trước

Sử xanh kia sao buông bỏ nửa chừng

 

Không biết em nghĩ gì ở tháng tư

Tôi đứng đây vịn cành đào trĩu nặng

Bức tường đen, đứng ngoài xa thầm lặng

Vẫn thấy gần nước mất với khăn tang.

 

*( Bức tường tưởng niệm chiến tranh VN tại Washington D.C.)

Hoài Ziang Duy

(trích trong thi tập “ĐỨNG TỰA BÊN ĐỜI”, xuất bản tháng 4-2019)

Visits: 348

Trận đánh Quận đường Đak-Tô năm 1969

Tôn Thất Hùng

Dân hành chánh, trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam thường được nghe dư luận cho là ít can đảm. Bài viết của một cựu sinh viên Học viện Quốc Gia Hành Chánh, (QGHC) vừa là cựu sinh viên trường sĩ quan trừ bị Thủ-Đức K1/ 68, hồi ký về trận đánh của quân chính quy Bắc-Việt tấn công vào quận đường Đak-Tô. Bài viết trình bày tinh thần anh dũng của nghĩa quân, bộ chỉ huy chi khu địa phương quân và tài điều quân hợp tác đồng bộ giữa Trung tá Quận trưởng, Ban Cố vấn Mỹ cùng hỏa lực yểm trợ đã đẩy lùi cuộc tấn công này.

 

Cá nhân người viết (NV) cũng như bao thanh niên cùng trang lứa, không ai muốn làm người hùng. Trong cuộc chiến Quốc Cộng, là trách nhiệm làm trai đúng với 3 tín niệm: “Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm”, nên mọi người tùy hoàn cảnh, địa vị, đã đem hết trách nhiệm để bảo vệ Miền Nam cho đến ngày tàn cuộc.

Ngày 7 tháng 12 năm 1967, NV tốt nghiệp khóa 12 Đốc-sự QGHC. Tháng 3/1968 thụ huấn 9 tuần Khóa sinh dự bị Sĩ Quan ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Tháng 6/1968 sang Trường Bộ Binh Thủ-Đức. Vừa đặt chân xuống là đã được K.27 đàn anh chào mừng, cho chạy hai vòng Vũ Đình Trường, cũng đã thực hiện tốt đẹp, vì đã được thụ huấn ở Quang Trung, mà các đàn anh không bao giờ được biết.

Tháng 10/1968 lên Kontum, vào thời điểm NV đã vào tuổi 22. Ở nhà đàn anh Lê văn Minh, khoá 10. Ngày hôm sau 8/10, Thiếu tá Quận trưởng Đak-Tô Lò văn Bảo, đến nhà đón về Quận bằng trực thăng. Từ Tỉnh lỵ Kontum theo quốc lộ 14 lên Quận đường Đak-Tô là 57 kilomét. Sau Tết Mậu Thân 1968, địch thường xuyên bắn phá, đặt mìn trên đoạn đường Võ Định, Ngô Trang và con dốc dài Đakma-Konhring, là hai nơi nguy hiểm nhất. Ngày nào cũng có xe chở̉ khách, xe quân đội bị mìn hoặc bị phục kích bắn sẻ, làm cho nhiều thường dân và quân nhân bị tử thương, nên đoạn đường này được báo chí mệnh danh là “tử lộ”, và tên Đak-Tô được báo chí Mỹ mệnh danh là “The Hell of Dakto’’, tạm dịch ‘’Hỏa ngục Đak-Tô’’. Vì di chuyển bằng đường bộ là đùa với tử thần, nên trong suốt thời gian từ tháng 10/ 1968 cho đến tháng 3/1970, NV thường xuyên được trực thăng chở về dự họp ở Tòa Hành chánh Tỉnh, chỉ khi nào không có máy bay, thì mới di chuyển bằng xe của Quận.

Lần đầu tiên được di chuyển bằng trực thăng, từ cao độ trên 3000 mét, NV đã thấy nào là rừng già đang vào Thu, lá vàng núi non trùng điệp, nào là cảnh thác nước Yali trắng xóa dưới ánh mặt trời, nào là đồi hoang, nào là sông Dakla nước chảy ngược dòng, cùng với những thung lũng trải dài sâu rộng. Hai đỉnh núi Ngok-wan, Ngok-xi, còn loang lổ cây rừng cháy đen, đất lở, vết tích của trận đánh năm 1965, do cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam chỉ huy, cùng với Chiến đoàn Dù, đã làm nên chiến tích. Mãi say sưa thưởng ngoạn, trực thăng đã đáp xuống sân bay nhỏ trước cổng Quận đường hồi nào không hay.

Thiếu tá Lò văn Bảo, sinh năm 1934, hơn NV 12 tuổi, xuất thân Khóa 8 Sĩ quan Võ bị Đà Lạt năm 1954, người Thái trắng, con một Chánh tổng ở Lai châu,. Sau khi tốt nghiệp trung học trường Pháp, đã từng được du học Mỹ, nên nói tiếng Anh rất lưu loát. Trước khi về làm Quận trưởng ông đã nhiều năm giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng thuộc Trung Đoàn 42 biệt lập, đồn trú tại Thị trấn Tân Cảnh. Trung Đoàn trưởng là Trung tá Đinh Thế Thoại, người Nùng và hầu hết gần 4 Tiểu Đoàn đều là người Thái, Nùng, Mường thuộc các tỉnh thượng du Bắc Việt.

(Dakto Camp)

Sau biến cố Tết Mậu-Thân 1968, chính quyền quân sự ở trung ương, đã giao thêm chức vụ Chỉ Huy trưởng Lực lượng Nhân Dân Tự Vệ (NDTV) Quận cho Phó Quận trưởng. Xét thấy với nhiệm vụ là cấp trưởng của guồng máy hành chánh Quận, nay thời chiến chức vụ Chi Khu Trưởng kiêm nhiệm Quận trưởng, phải có trách niệm cho sự mất còn của Quận và Quận đường. Thiết nghĩ Thiếu tá Quận trưởng giữ Quận, thì Chuẩn uý Phó Quận, cũng phải cùng với Quận trưởng bảo vệ Quận là hợp lý. Bên cạnh văn phòng Quận và Bộ Chỉ Huy Chi Khu, từ trước năm 1963, thời cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền Tỉnh đã xây thêm một căn nhà gạch, làm hành dinh, để cho cố Tổng Thống có nơi nghỉ qua đêm, khi đến kinh lý Quận. Vợ chồng Thiếu tá đã cư ngụ ở đó, cùng với 2 cháu nhỏ. Trước đây các đàn anh tiền nhiệm đều ở Thị trấn Tân Cảnh, cách Quận đường vài cây số. Thị trấn luôn đông đúc, náo nhiệt. Dân cư ở đây bao gồm gia đình các sĩ quan và quân nhân của Trung đòan 42, và rất đông thường dân buôn bán, cung cấp dịch vụ cho cả Trung đoàn, trên dưới 2500 người. Ở Tân Cảnh có rạp hát, có nhiều quán ăn, giải khát nên các đàn anh thường đến ở đó. Cố đàn anh Nguyễn Khánh, Khoá 8, trước đây đầu năm 1968, đã về nhậm chức Phó Tỉnh trưởng Quảng Nam. Trong buổi ăn tối với vợ chồng Thiếu tá, nhìn thấy có một phòng đối diện với phòng ngủ của Thiếu tá còn trống, NV đề nghị xin cho ở căn phòng này. Thiếu tá đồng ý vì ông nghĩ là NV sẽ có mặt tại chỗ, thay thế ông trong bất kỳ công việc nào cần thiết khi ông vắng mặt. Mỗi thứ bảy, chủ nhật vợ chồng Ông Quận trưởng đều cho NV tháp tùng, đến thăm các gia đình bạn bè vừa là đồng hương ở Bắc Thái, vừa là thuộc cấp cũ. Quý vị có biết không, tập tục của người Thái như sau: khách đến nhà là phải uống rượu cho đến say mèm mới được cho về. Chủ xị thường là các bà Thầy pháp, hôm nào quý bà làm chủ xị, thường có luật uống rượu khác nhau. Mỗi bà ra lịnh mỗi cách, có lần một bà ra lịnh cầm bát bằng tay trái, mà khách vì uống nhiều, tửu nhập ngôn xuất, nên khi đến lượt mình, quên cầm bát qua tay mặt, thì phải chịu phạt 10 bát rượu liên tiếp. NVcũng đã được nếm mùi rượu phạt này, đến độ đến bát thứ 10, thì các mạch máu đều giản ra căng thẳng muốn đứt luôn. Khi vừa về đến nhà, có bao nhiêu chai soda trong tủ lạnh của ông Quận trưởng, NV đều đổ vào họng hết, mặc dù ngoài trời rất lạnh. Có nhiều đêm trăng non trên đường từ Quận đường xuống Tân cảnh qua “eo tử thần”, nơi cố Trung tá Lai văn Chu Trung Đoàn trưởng bị phục kích tử thương năm 1965, thì Thiếu tá cho hai nghĩa quân người Thượng nhảy xuống canh phòng, khi về thì bốc theo. Thiếu tá rất biết đãi người, đi đâu ông cũng ngồi ở ghế tài xế và để NV ngồi ở ghế trưởng xa.

Cuộc sống giữa NV và gia đình Thiếu tá có nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Bà Thiếu tá cứ nhắc hoài là có lần cháu trai tên Lôi làm gì sai đó, Thiếu tá định đánh đòn nặng, NV vội chạy đến kịp thời ẵm cháu, chạy lẹ thoát trận lôi đình của ông. Ngày thường các sắc dân Thượng khi vào văn phòng Quận, từ cách xa 10 mét là cúi đầu chào, mời Bót Phó, Bót Quận đi “bắt cái rượu”, vì Lễ Hội truyền thống, nhưng một khi trong tình trạng say xỉn, thì chạy vào cặp hông 2 Bót kéo đi, khỏi có lễ phép gì cả. Ban đêm Ban Cố vấn Mỹ sang mời uống rựợu, vào những ngày Lễ Hội của Mỹ, cho nên NV thường cặp nách “Ông già đi bộ” hoặc bẻ cổ lùn Ngài Nã Phá Luân, ngày ngày say men rượu cần, đêm đêm bia rượu hội ngộ.
Cũng có đôi lần, sau khi thu nhận các nguồn tin tình báo từ Ban 2, Cảnh sát, An ninh Quân đội và ban Cố vấn Mỹ, Bộ Chỉ huy Chi khu kết luận là đich sẽ tấn công vào Quận đường bất cứ lúc nào, thì Thiếu tá liền cho vợ con về Tùng Nghĩa, Đà Lạt trước đó vài ngày. (Tùng Nghĩa là nơi định cư của dân tộc Bắc Thái, và các sắc dân thượng du Bắc Việt, khi di cư vào Miền Nam sau năm 1954). Thiếu tá và Bộ Chỉ huy Chi khu, luôn luôn được đặt trong tình trạng báo động. Khi chỉ còn lại hai người, ông đã tâm sự rất nhiều với NV. ông thích bia Miller, thuốc lá Marlboro, còn NV thì Lucky, rồi thì trao đổi ý kiến về hiện tình đất nước, về việc cán binh Bắc Việt bị xiềng chân vào các súng phòng không, mà Trung tá và NV đã chứng kiến vài hôm trước, trong tháng 10/1969, khi quân Bắc Việt tấn công vào Tổng Konhring. Mỗi khi phi tuần F.4 dội bom vào bọn chúng, tiêu diệt các mũi tiến công, dập tắt hết các khẩu thượng liên, đại liên, B.40 và AK.47, đến khi phi tuần thứ hai vào vùng, thì vẫn còn nghe độc nhất tiếng súng phòng không tác xạ vào các phi tuần F.4 này mà thôi. Nhiều hôm mãi say sưa chuyện trò đến thật khuya, khi ngoài trời Tây Nguyên sương đêm rơi xuống giá lạnh, hai người mới chia tay về phòng.

Đầu năm 1969, ông Bảo được thăng cấp Trung tá. Mặt trận B.3 đã nhiều lần ra lịnh tấn công vào Quận đường. Sau Tết 1969, hai đaị đội chính quy Bắc Việt tấn công vào Quận. Đêm hôm ấy NV về Tỉnh họp, ngày hôm sau trở lại Quận, thì Trung tá cho biết đã bắt được một cán binh người Thừa Thiên, thuộc Quận Quảng Điền ven biển. Người này bị bắt khi tấn công vào Quận, bị chống trả mãnh liệt, không biết lối đào thoát, cùng đường phải nhảy xuống hố phân ẩn núp. Sáng sớm hôm sau một nghĩa quân đi cầu nghe tiếng lạ, soi đèn bấm bắt được. Trung tá nói: “Ông Phó người Huế, nhờ hỏi giùm tôi mấy câu”. Trung uý Trưởng Ban 2 và Chuẩn uý Ban 5, đưa anh cán binh Việt cộng vào, trong bộ quân phục nghĩa quân màu xanh mới, sau khi đã được tắm gội sạch sẽ. NV kéo ghế mời ngồi, tay mở tù lạnh, lấy ra chai rựợu ngọt Lychee trái vãi, quà của chủ trại cưa gỗ nhân dịp Tết Kỷ Dậu, rót vào ly mời uống. Anh ta e dè, NV bèn uống một hớp, rồi đưa cho anh ta uống. NV hỏi “Anh đã được ăn no chưa?” Anh ta bảo là “có”. Mở gói thuốc Lucky thơm phức, mời anh một điếu, bật lửa cho mình, rồi bật lửa cho anh. Anh cho biết quê quán ở Quận Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên, bị bắt đi bộ đội trước Tết Mậu Thân 1968. Đã theo đường mòn Hồ Chí Minh vào Nam, nay thuộc Mặt trận B3, hay là Mật khu Bông Hồng. Trung tá Quận trưởng giao bộ đội VC cho Tiểu đoàn 3, Trung Đoàn 42, dẫn theo hành quân khai thác và chỉ điểm các hầm vũ khí VC cất dấu. Do sơ hở của đơn vị canh phòng, người cán binh VC này đã lăn xuống đồi trốn mất. Sau đó anh này đã dẫn hai Đại đội chính quy Bắc Việt vào tấn công Quận đường Đak-tô lần thứ hai.

Cuộc tấn công vào Quận đường tháng 11 năm 1969

Từ đầu tháng 11/1969, địch quân đã pháo kích vào sân cờ Quận đường nhiều lần. Vào ngày Thứ Hai, lúc toàn Bộ Chi khu, các sĩ quan, binh sĩ và các chi sở hành chánh, đang trong giờ chào Quốc kỳ, thì địch phóng nhiều hỏa tiễn 122 ly vào. Tiếng hú tử thần rít qua đầu, Trung tá Quận trưởng cho lịnh mọi người vào hầm ẩn núp, sau đó là ban hành lịnh giới nghiêm, cho trung đội công vụ kéo dây kẽm gai, chặn hai lối vào Quận đường. Sau nhiều ngày pháo kích bằng hỏa tiển 122 ly, để áp đảo tinh thần quân phòng thủ, ngày Thứ Hai trung tuần tháng 11, tin tức tình báo từ Ban 2, Cảnh sát và đặc biệt là từ Ban Cố vấn Mỹ, do máy dò độ nóng ghi nhận chính xác, VC đang di chuyển về hướng Quận với khoảng hơn 200 người, và có thể tấn công vào lúc 12 giờ khuya. Thiếu tá Culp, Cố vấn Trưởng, đã cùng họp với các sĩ quan Chi Khu, Trung tá Quận trưởng và NV. Vừa họp vừa uống bia. Vài hôm trước đó, theo yêu cầu của Ban Cố vấn, Quận đã quyết định cho đại bác 175 ly từ Ben-Hét (Ben-Hét là Trại Lực lượng biên phòng, nằm cách xa ngã 3 biên giới Việt Miên Lào chừng 6 miles), bắn thí điểm vào các nơi tiên liệu là đường tiến binh và chém vè của chúng. Tiếng nổ 175 ly nghe ù tai nhức óc, ngộp tim. Sau mỗi trái nổ, liền tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ của các chuổi đạn nổ chùm sát thương. Cùng trong thời gian này, bà Trung tá và hai con nhỏ đã được đưa về Tùng nghĩa vài ngày trước đó. Cuộc họp từ 6 giờ chiều đến 10 giờ tối là kết thúc. Tất cả sĩ quan, nghĩa quân các Ban, đều vào vị trí chiến đấu tại các pháo tháp phòng ngự với trung liên Bar, xuống giao thông hào dưới địa đạo phòng thủ. Lực lượng phòng ngự có khoảng một trung đội nghĩa quân người Thượng, cùng với nhân số sáu Ban Chi khu gồm: Sĩ quan, Hạ sĩ quan và binh sĩ Địa phương quân khoảng 20 người. Tổng cọng vừa NQ và ĐPQ trên dưới 60 tay súng. Trung sĩ Lưu, người Quảng Bình, xem lại vị trí khẩu súng cối 4.6, chuẩn bị phản pháo với bản đồ có các tọa độ đã chấm sẵn. Vào thời điểm này chưa có trung đội pháo binh 105 ly trực thuộc cấp Chi khu.

(Dakto Base)

Khi địch pháo 130 ly có đầu đạn nổ chậm, chui qua bao cát rồi mới nổ. Trung tá Quận trưởng cho Trung đội công vụ, làm bao cát phòng thủ ở trong phòng ngủ ông. Ông ta hỏi NV có muốn làm bao cát không? Vì thuộc loại Chuẩn úy nai tơ, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ và vì không cho mình là người quan trọng, thêm tốn công sức của lính, nên NV đã nói “cám ơn, không’’. Bất cứ ai đã qua thời gian thụ huấn quân sự, đều có được thói quen là: đang ngũ mà luôn cảnh giác, cảnh giác này chỉ mất đi, khi ta bị bệnh hoặc đã uống nhiều rượu. Đang nằm thiu thiu trên giường gỗ, bỗng dưng nghe tiếng pháo 82, nổ dồn dập cùng với đại liên, AK 47 áp đảo, có tiếng nổ rớt ngay ngoài sân cờ, cách phòng ngủ khoảng 2,3 mét. Có trái nổ ngay tại văn phòng Quận, NV xem đồng hồ tay đúng 12 giờ đêm, không có cảm giác sợ hải là gì cả. Tháng 4/1968 lúc còn ở Quang Trung, có đêm bị VC pháo kích. Trong ánh sáng hỏa châu, nghe bắn hù dọa cũng không cảm thấy lo âu, thầm bảo: “Mày pháo tao trên 15 phút thì tao mới dậy, nếu không thì tiếp tục ngủ”. Đạn súng cối vẫn tiếp tục nổ, hòa cùng nhiều tiếng đại liên của địch nổ dòn sát phạt xối xả. Và đây rồi tiếng nổ của cây trung liên Bar, ở pháo tháp phòng ngự sau nhà vang lên chát chúa. Khói mù khét lẹt ùa vào phòng khách. Vì đã chuẩn bị nên đã trang phục tác chiến, với giày trận trước khi lên giường, NV đeo vội khẩu P38 ngắn nòng, hối hả bước ra cửa sau .Trong tiếng súng liên thanh của ta và địch, hoà với mùi khói, nghe tiếng la của anh nghĩa quân Thượng cận vệ: ‘’ Ai đó?’’, ‘’Bót Phó đây, sao em?’’. Tiếng trung liên vẫn nổ chát chúa. Tiếng đại liên địch nổ liên hồi. Nhiều tiếng bộc phá nổ ầm dưới hàng kẽm gai phòng thủ quanh Quận. Tiếng AK47 nổ khắp bốn phía.” Nó đánh tới rồi, Bót Quận đâu?” ” Xem kỹ, bắn đi. Bót kêu Bót Quận ngay”. Vài bước vội quay lại. Trong tiếng đạn pháo, tiếng bộc phá, tiếng đại liên nổ dồn dập, khói khét lẹt mù mịt, NV đập cửa phòng Trung tá Quận trưởng thật mạnh, vì mỗi giây chậm trễ là phải trả giá rất đắc. Phòng kín quá, bao cát dày quá, chừng hai phút sau Trung tá bước ra: “Gì vậy ông Phó ?”. ” Dạ nó đánh tới nơi rồi”. Trung tá vội gọi ngay Thiếu tá Culp. Bước ra sân cờ thì hỏa châu đã soi sáng. Chiến trường đã được soi sáng rõ mồn một, nghe tiếng súng cối 4.6 của Trung sĩ Lưu, liên tiếp phản pháo vào các vị trí tấn công của địch. Từ các pháo tháp phòng thủ, tiếng nổ chát chúa của nhiều khẩu trung liên Bar, cùng tiếng AR.15 (sau này thay bằng AR.16), NV theo liền Trung tá. Các sĩ quan Chi khu đã có mặt ở các vị trí phòng thủ, cùng với Trung tá Bảo, Đại úy Bửu Uyên, Chi khu Phó kiêm nhiệm Trưởng ban 3 và Chuẩn úy trưởng khẩu cối 4.6, quyết định chấm tọa độ phản pháo. Thiếu tá Culp, Cố vấn Trưởng, Trung uý Nhảy Dù Furnman, người cùng đi ngủ Ấp với NV, thường xuyên đến các xã ấp xa xôi hẻo lánh nguy hiểm, trong Chương Trình Hành Chánh về Làng của chính quyền, đã có mặt tại chổ. Thiếu tá Cố vấn, sau khi hội ý với Trung tá Bảo, đã gọi về Quân Đoàn. Tiếng súng đại liên M.60 của Ban Cố Vấn, tiếng súng Garant, Carbine, Shotgun của lực lượng Nhân Dân Tự Vệ Xã Toumorong đang tị nạn, nằm sau Quận đường thi nhau nổ, hoà cùng với đủ loại vũ khí của ta và địch, dưới ánh sáng hoả châu, đã tạo nên một cảnh chiến trường sôi động. Súng đạn nổ vang trời, nhiều lằn đạn đan chéo nhau chi chít tạo thành những chuổi dài lửa liên tục nhắm vào cả hai bên ta và địch. Chợt một trái 82 nổ ầm gây khói lửa, nhiều mãnh đạn cùng đất sõi tung tóe lên. Chuẩn uý Kim, Ban NDTV bị thương ở tay trái, được Trung úy trợ y Thiện và Ban Quân Y kịp thời băng bó ngay. Tay mặt vẫn tiếp tục cầm súng. Địch có ý đồ tấn công vào Quận đường và Xã Toumorong cùng một lúc.

(Phi Trường Đak-Tô)

Chừng 20 phút sau, hai chiếc Hỏa Long Spooky nhào xuống. Đánh không đẹp thì thôi!. Hỏa châu thay nhau soi sáng chiến trường. Từ trên hai chiếc trực thăng võ trang, phi công cho hạ sát hàng rào phòng thủ, phóng rockets. Lửa cháy ngùn ngụt. Tiếng cánh quạt nổ lớn làm chủ chiến trường, át hẳn các tiếng súng tấn công của địch. Địch quân chưa kịp phản ứng gì thì đã được nghe nhiều tiếng nổ kinh hồn chính xác khủng khiếp. Từng tên lửa sát thương nhắm vào các đặc công cảm tử, bộc phá nổ tung, hoà cùng với nhiều tiếng nổ của các mìn Claymore chống tấn công, làm banh xác những kẻ xâm lăng mù quáng do bị nhồi sọ. Đồng thời bốn cây Đại liên M.60 từ trên hai chiếc Hỏa long, nhắm đúng, chính xác khạc đạn liên hồi, tạo thành những chuổi dài lửa, viên sau nối tiếp với viên trước mang thần chết đến cho đám địch quân cộng sản. Cứ sau một vòng bắn tên lửa và đại liên thì Hoả Long quay ngay lại, tiếp tục gieo kinh hoàng chết chóc cho hai đại đội chính quy sinh Bắc tử Nam này. Tiếng bộc phá im ngay, tiếng đại liên thưa dần. Sau gần 20 phút làm chủ chiến trường, hai chiếc Hỏa Long rời khỏi trận địa. Một phi tuần F.4 vào vùng, dội bom chính xác vào các vị trí tấn công và đường rút lui của chúng, khoảng 5 giờ sáng, địch rút lui mang theo nhiều tên bị thương và tử thương. Đến 6 giờ sáng, tiếng súng giao tranh đã ngưng bặt, chiến trường đã trở lại im lắng. NV và các Sĩ quan Quận, Ban NDTVệ, Bình định Phát triển rời công sự, đi ra khỏi cổng Quận, cùng với trung đội phòng thủ để lục soát chiến trường. Vì hiếu kỳ và trong trách nhiệm chỉ huy trưởng NDTV Quận, muốn biết tổn thất lực lượng NDTV Toumorong về nhân mạng và vũ khí như thế nào, nên NV đã theo chân các Nghĩa Quân (NQ) và NDTV Xã tỵ nạn, cho lệnh lục soát các bụi cây dọc hai bên đường. Kết quả Trưởng Ấp thuộc Xã tỵ nạn và NQ đã bắt đựợc một cán binh Bắc Việt, đang ẩn núp trong lùm vì không biết đườ̀ng thoát chạy. Trưởng Ấp có vợ vừa bị trúng đạn súng cối chết, ông ta vung dao rừng định chém đầu tên Việt cộng, NV vội đưa tay ngăn cản và bảo: – “Để Bót Quận lo”, trước ánh mắt ngỡ ngàng, sững sốt, đầy nổi kinh hoàng khiếp sợ, pha lẫn sự bàng hoàng ngạc nhiên của cán binh VC, vốn đựơc học tập vào giải phóng các Xã Ấp bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, sao bây giờ lại bị người được giải phóng muốn chém đầu”. Qua thẩm vấn, tên tù binh khai là người Thái Trắng ở Lai Châu, trùng quê với Trung tá Quận trưởng. Quanh đây nồng nặc mùi hôi thối khét lẹt của thây người, do bị rockets của Hỏa Long tác xạ, có thây bầy nhầy chỉ còn gan ruột, nằm vắt trên hàng rào kẽm gai, có thây trong túi quần cụt có vài viên “Hùng Lực”(viên thuốc kích thích chém giết), một ít lương khô của Trung cộng. Lần lượt lục soát cẩn thận các bụi cây quanh vòng đai an ninh Quận, NV đã nhìn thấy nhiều vết máu loang lổ kéo dài trên cỏ, chứng tỏ đơn vị VC tấn công, bọn chúng đã mang theo đồng bọn bị thương nặng khi chúng chém vè. Trời thì quá lạnh, mà sao bọn đặc công này, chỉ với một cái quần cụt mình trần, lại dám liều thân chui vào đặt bộc phá, trên nhiều hàng rào kẽm gai đã được Quận phòng thủ, gàì đặt dày đặc sẵn nhiều mìn Claymore, mìn chống tấn công, thì NV cũng phải bái phục ma lực tuyên truyền của Việt cộng. Giao tù binh cho Ban 5 và Ban 2 Chi Khu giải quyết. Khoảng 8 giờ sáng, cố Đại tá Nguyễn Hợp Đoàn, Tỉnh Trưởng và Đại tá Cố vấn Trưởng Tiếu Khu Kon Tum, đáp trực thăng xuống Quận đường. Trung tá Bảo đã trình một khẩu K.54, cùng hai khẩu CKC súng trường bá đỏ. Nhờ đã chuẩn bị trước, nên khi các toán đặc công cảm tử đặt bộc phá, cùng với chiến thuật tiền pháo hậu xung, đã bị Chi Khu phản pháo chận đứng, với hỏa lực khủng khiếp của Hỏa Long, cùng với sức chống trả mãnh liệt kiên cường của NQ, đã tiêu diệt kịp thời các mũi đặc công, không để cho chúng vượt qua được hàng rào phòng thủ Quận đường. Do nhiều kinh nghiệm chiến trường và tài điều quân của Trung Tá Quận trưởng, hai đại đội chính quy Bắc Việt, đã bị thảm bại, bỏ lại chiến trường nhiều xác chết và vũ khí, một số cán binh bị bắt làm tù binh, một số đông bị tử thương và bị thương, được mang đi chưa được kiểm chứng. Đó là câu trả lời thực tế cho các cán binh sinh Bắc tử Nam, thấm thía về sự tuyên truyền chính trị xảo quyệt, của Đảng Cộng sản Việt Nam qua chiêu bài: Giải phóng Miền Nam.

(Dak-Tô Hill)

Cũng trong ngày này, khoảng 9 giờ sáng, khi mở cửa văn phòng, NV thấy nguyên một quả đạn 82 ly rớt ngay bàn Phó Quận. Trái cối không nổ, mũi nhọn đầu đạn gây một dấu lõm lớn. Một sĩ quan và ba nghĩa quân bị thương nhẹ, không ai bị tử thương. Vài phòng bị hư nát, nhiều mái tôn bị lũng hoặc bị bay mất. Trong trận đụng độ này, Trung sĩ Lưu được tưởng thưởng huy chương và thăng cấp Trung sĩ nhất.
Sau khi di tản khỏi Đak-Tô trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Trung Tá Bảo đã đảm nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng Tỉnh Phú Bổn. Ước nguyện sau cùng của ông là muốn được làm một Đại tá hồi hưu. Nghe đâu ông và gia đình đã được định cư ở Hoa-Kỳ.
***

Grand Rapids, Michigan, March, 30. 2020

Tôn Thất Hùng

Cựu Đốc Sự K.12
Cựu Trung Uý K.1/68.

Visits: 608