Dịch Covid-19 (2020) Với Người Già

Phạm Thành Châu

                                                      (Mao Trạch Đông: Thiên hạ đại loạn, ta (nước Tàu) được lợi )                                           

Đây là một bài phóng sự, nhưng nên giữ lại để cho các thế hệ sau cảm nhận được sự kinh hoàng mà Trung Cộng đã gieo rắc con Covid-19 Vũ Hán trên khắp mặt địa cầu. Nó lây nhiễm tràn lan, rất nhanh, giết chết hàng triệu người trong một thời gian ngắn, tàn bạo hơn chiến tranh thế giới. Tuy nước Mỹ đã chích ngừa (vaccine) cho hầu hết dân Mỹ nhưng số bịnh nhân lây nhiễm Covid-19 ở các nước chậm phát triển vẫn tiếp tục gia tăng.

Bài viết nầy gồm ba phần. Thời kỳ kinh hoàng, hỗn loạn khi Covid-19 bùng phát khắp thế giới. Người chết la liệt, y khoa nổ lực hết sức mình chống đỡ trong cố gắng gần như tuyệt vọng để cứu người. Tiếp theo là khoa học sản xuất được vaccine (chủng ngừa), mọi người lại cuống cuồng tìm mọi cách để được ưu tiên chích ngừa. Phần ba. Nước Mỹ đã hoàn tất chủng ngừa. Y tế Mỹ thở phào, chỉ còn lo chữa trị những người không chịu chích ngừa để rồi lâm bịnh nặng vì Covid-19. Trong khi đó (năm 2021) nhiều nước vẫn tiếp tục chống đỡ Covid-19 trong vô vọng vì dân không đủ ăn, tiền đâu mà mua thuốc chủng ngừa?

Một điều đáng kính phục là ở tiểu bang Virginia, trong khi mọi người cố thủ trong nhà, cửa đóng then cài, thì lại có một nhóm người Việt, dù lớn tuổi vẫn đóng góp, nấu nướng, xông pha đi phân phối thực phẩm, thức ăn đến những người già nua ở các nhà dưỡng lão, các gia đình neo đơn. Điểm tập trung là tiệm bánh Hương Bình ở chợ Eden. Họ làm vì từ tâm chứ không có mục đích gì khác. Không chỉ riêng thời gian dịch Covid-19 hoành hành mà trước và sau đó, họ vẫn âm thầm phân phối những bữa ăn nóng, ngon lành, hợp khẩu vị cho những người già yếu, quan quả, cô đơn trong vùng Virginia.

Các bạn trẻ chẳng bao giờ nghĩ đến lúc mình sẽ chết. Nghe tin một người bạn từ giã cõi đời vì tai nạn, vì một căn bịnh nào đó, bạn đến tiễn biệt và nghĩ đó là chuyện của người ta, không liên hệ gì đến mình. Ngay cả đến nguời lớn tuổi cũng không hề nghĩ rằng mình cũng đến lúc sẽ nằm bất động như thế. Chẳng phải vô tâm mà vì sợ, như trẻ con sợ ma, không dám đứng trong bóng tối.

Khoảng tháng 3 năm 2020, bệnh dịch Covid-19, phát xuất từ Vũ Hán, một thành phố bên Tàu, lây lan khắp thế giới. Nó tàn sát, đa số là những người lớn tuổi. Đã già mà còn thêm bịnh nền (bịnh nặng có sẵn) trong người thì lưỡi hái của nó vung lên lấy mạng trong chớp mắt. Không chạy đâu thoát được! Từ trước đến nay, bịnh gì cũng có thuốc chữa, chỉ có bịnh Civid-19 (thời điểm nầy) là không có thuốc chữa. Đó mới là điều khủng khiếp. Thần chết như đang đứng trước cửa. Không biết lúc nào vào nhà lôi mình đi? Người già không dám ra đường, không dám tiếp xúc với ai, vì sợ lây nhiễm. Họ cố thủ trong nhà, cửa đóng then cài, hy vọng con virút không thể chui vào được (!?). Con cái, bạn bè muốn tiếp tế lương thực cho họ thì để thức ăn trước cửa rồi đi xa, trong nhà sẽ ra lấy vô, nấu lại (cho con vi rút chết) trước khi ăn. Có một bà lão sợ “nó” đến độ không dám ra cửa lấy đồ tiếp tế, cứ để đấy. Gần cả tuần, hàng xóm thấy lạ, gọi cảnh sát, mở cửa. Bà ta suýt chết đói. Con vi rút nầy không phải vi trùng mà nó bay tán loạn trong không khí, bám đầy người, dính vô đồ vật, vô tay, chui vô mũi… người nào đến gần là bị lây nhiễm. Đau cổ họng, nhức mình, sốt. Đến khi thở không được, đưa vô bịnh viện, chỉ thở oxy vài hôm, ngáp ngáp rồi chết. Thân nhân, bạn bè không (dám) được gặp, nhìn mặt để vĩnh biệt, để tránh lây lan.

Khi số tử vong lên cao độ, nhiều người sợ đến quẩn trí. Báo chí đưa vài tin điển hình. Tại Thụy Điển, bố mẹ dùng ván, đóng đinh chặn cửa nhốt 3 đứa trẻ, từ 10 đến 17 tuổi, ngăn chúng rời khỏi nhà, từ tháng 3 đến tháng 7- 2020. Sự việc bị phát giác, vợ chồng nầy bị đưa ra tòa. Đến khi có vaccine (thuốc chủng ngừa), vì số thuốc  giới hạn chỉ dành cho người lớn tuổi, bị bịnh nặng thì ở Florida, có 2 phụ nữ giả dạng bà lão để được ưu tiên chích ngừa cũng bị phát hiện. Một chuyện khác. Eodney Baker, giám đốc điều hành casino và vợ là nữ diễn viên Ekaterina Baker, đã thuê máy bay đến tận Beaver Creek, một cộng đồng hẻo lánh dành cho người da đỏ. Cặp nầy vờ khai là nhân viên một nhà nghỉ địa phương để được chích ngừa. Họ bị bắt ở sân bay và bị phạt 1,800 USD. Ở Mỹ bà cụ Fran Goldman, 90 tuổi, lội bộ trong tuyết 9,7 km đi chích ngừa cho kịp hẹn, vì không đến kịp phải lấy hẹn lại thì khó biết đến ngày nào!(có khi gặp tử thần trước ngày đến hẹn) Cuối năm 2020, tổng thống Philippines, Duterte tuyên bố. Nếu Mỹ không cung cấp vaccine Covid-19 cho Philippines thì sẽ ngưng VFA (hiệp ước các lực lượng quân sự thăm viếng, tập trận). Chính phủ Mỹ thì tuyên bố rằng. Mỹ sẽ không giúp đỡ các quốc gia khác cho đến khi tất cả người Mỹ đã được chích ngừa. Từ khi chính phủ của tổng thống Joe Biden lên cầm quyền (tháng 1 năm 2021) thì vaccine Covid-19 ê hề, chích tràn lan, trong lúc các xứ khác chạy quanh mà vẫn không có vaccine để cứu dân mình.

Chính phủ Arab Saudi ra lịnh cấm hành hương đến Mecca và Medina vô thời hạn, nhưng tín đồ Hồi giáo cho rằng, tình trạng cách biệt cộng đồng khiến mọi người có cảm giác xa Allah (Thượng Đế). Họ tin rằng. Cứ đến các đền thờ, cầu nguyện và hôn lên các bức tường, các cây cột ở đền thờ thì sẽ được Allah bảo vệ, khỏi lây nhiễm. Kết cục, hơn 500 vụ lây nhiễm bùng phát ngay sau đó. Còn người Ấn Độ theo đạo Hindu, cơn dịch đang bùng phát, cần cách ly thì họ kéo xuống tắm sông Hằng (ngày 14 tháng 4 – 2021) để cầu xin thần linh che chở. Tức thì, hơn 2.500 trường hợp lây nhiễm bùng phát ngay sau đó. Hiện nay (tháng 4- 2021) ở Bombay, Ấn độ, cứ 4 người thì có đến 3 người vướng Covid-19. Thống kê ngày 18 tháng 6 – 2021, thế giới có trên 178.264.356 người lây nhiễm với trên 3.859.364 tử vong

 Riêng Ấn Độ có 24 triệu người bị lây nhiễm với trên 262 nghìn tử vong. Con số thực phải gấp 40 lần hơn (Theo dư luận, con số người chết trên 6 triệu). Dân Ấn có tục lệ hỏa thiêu, nên người chết nhiều quá thì họ sẽ bẻ luôn cành cây trong công viên rồi đốt xác đùng đùng ngay trên hè phố, nhà nghèo chả có tiền mua củi mà cũng không thể bẻ trộm cành cây công viên thì lén lút vác xác thân nhân đến cửa nhà tang lễ quẳng đấy rồi bỏ xác chạy lấy người, hoặc giản tiện hơn nữa là để nguyên xác tống xuống sông Hằng cho nổi lềnh bềnh. Virus trong xác cứ thế hòa lẫn vào nước sông rồi theo hạ nguồn trôi đi đâu thì trôi, dính tiếp vào ai thì dính, trong khi nước sông Hằng vốn vẫn chu du khắp châu Á.

Thứ nhất là Ấn Độ nhiều lễ hội tôn giáo hàng đầu thế giới. Người chết ngay bên cạnh làm sao họ lại không biết, nhưng vẫn vài chục ngàn người Ấn tắm chung trong lễ hội tôn giáo Kumbh Mela. Chả mấy ai thèm đeo khẩu trang. Họ dấp nước sông Hằng lên người, rồi úp mặt vào phân bò sền sệt bảo thần linh sẽ phù hộ. Họ thà chết Covid-19 cũng được chứ nhất định không chịu bỏ việc hành hương.  Thủ tướng cũng không thể cấm lễ hội được vì quyền lực của các giáo sĩ Bà la môn ở đây là tối thượng (Là đẳng cấp thứ nhất trong 5 đẳng cấp). Gọi là phép vua thua lệ làng là vậy!

Đây là lỗi của chính phủ Ấn Độ. Tháng 3 – 2020, bộ trưởng Y Tế Harsh Vardhan tuyên bố Ấn Độ đang trong “giai đoạn cuối” của dịch Covid-19 và bắt đầu xuất số lượng oxy khổng lồ (tăng738% sản lượng) và 193 triệu liều vaccine ra các nước khác. Đến khi dịch đợt 2 bùng phát thì không còn gì để chữa bịnh cho dân! Dân Ấn chết liệt địa vì không có oxy. Người ta cho rằng, khi Ấn Độ chận đứng được Covid-19 đợt 1 thì Trung Cộng phóng vào Ấn Độ “Covid-19 biến thể  đợt 2” khiến chính phủ Ấn bó tay!

Đã vậy, ngày 25 tháng 4 năm 2021, Trung Cộng tuyên bố không cho máy bay chở vật phẩm y tế qua Ấn Độ. Số người chết ở Ấn Độ nhiều đến nỗi không kịp chôn hoặc thiêu xác. Người dân bỏ mặc thân nhân trong bịnh viện. Bịnh viện đành vất xác xuống sông Hằng. Xác trôi giạt khắp nơi. Thuốc chích ngừa cho tín đồ Hồi giáo lại gặp trở ngại lớn ở các xứ Trung Đông và Do Thái khi họ biết, trong vaccine Covid-19 có chất Gelatin, gốc từ thịt heo. Dân Hồi giáo và Do Thái giáo cấm ăn thịt heo. Nhiều cuộc tranh luận nổ ra. Nếu chích vaccine thì phạm luật Hồi giáo, ngược lại thì chết. Rốt cuộc mọi người vui vẻ khi một giáo sỹ tuyên bố “Luật cấm ăn chứ đâu có cấm chích”. Một chuyện nữa. Tiến sĩ Pilar Mazzetti, bộ trưởng Y tế Peru bí mật tiêm vaccine Covid-19 cho tổng thống. Việc phát giác, Ông bộ trưởng phải từ chức (12-2-2021)

Cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng rúng động hơn. Người già thất thần khi thấy rõ cái chết của những người quen biết (cỡ tuổi mình). Bạn bè, thân quyến chết hằng ngày, chết liệt địa! Tuần trước, ông X. mới gọi nói chuyện, hôm qua đã nghe “đi” rồi. Mình mới đến nhà thăm ông K. hôm kia, thấy vẫn mạnh khỏe, cười nói vui vẻ, vậy mà vừa nghe, đã được đưa vô bịnh viện, thở oxy (và chờ chết). Đưa vô bịnh viện cũng chết mà nằm nhà cũng chết! “Chết không kịp ngáp!”. Giở tờ báo, mấy trang sau đầy cáo phó với chia buồn. Mấy ông bà già thường mở báo chí, internet xem cáo phó với phân ưu, để biết những người quen biết nào đã từ giã cõi trần? Báo chí, truyền hình, email, YouTube… đăng toàn những tin về số người lây nhiễm, số người chết từng ngày, từng quốc gia. Đa số các bà quẩn trí thành trầm cảm vì lo sợ không biết lúc nào đến lượt mình? Coi bộ các ông rất thản nhiên. Đa số các ông là lính chiến, trước 1975, đã quen chiến trận, xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Làm người lính chiến, sống nay, chết mai, họ chẳng hề bận tâm. Thế nên, mỗi ngày, mở mắt thức dậy lại thêm một niềm vui, là mình vẫn còn sống nhăn, trong khi nhiều người cỡ tuổi mình hoặc nhỏ hơn mà đã leo lên bàn thờ rồi. Bản thân lão già nầy (tôi), hơn tám chục, cũng chẳng sợ gì, vẫn cứ nhởn nhơ ra chợ Eden (tiểu bang Virginia) ăn uống, cà phê, cà pháo, tán phét với mấy ông bạn “xâm mình!” mà chẳng hề ho hen, nóng sốt, đau nhức gì cả. Tôi và các ông bạn tuyên bố “Sống đến tuổi nầy quá đủ rồi. Vi rút tụi bây có ngon thì cứ bắt đi. Tứ khoái chẳng ham, bịnh già (cao máu, cao mỡ, tiểu đường, thấp khớp…) hành hạ, sống thêm chật đất, khi đau ốm chỉ làm phiền người khác chứ sướng ích gì?” Hóa ra, lũ vi rút cũng tránh mặt mấy người lì lợm, chỉ ăn hiếp những người yếu bóng vía. Tinh thần suy sụp thì sức đề kháng cũng giảm đi.

Đôi vợ chồng trên 90 tuổi, sau 70 năm sống bên nhau, cả hai vướng covid-19 đang nằm chờ giây phút cuối đời, cùng nắm tay nhau vào cõi hư vô.         

Các nhà dưỡng lão vắng người vì một số lớn bị Covid-19 đến bắt hồn đi biệt tích (chết), một số khác thì con cháu đón về nhà lánh nạn. Bấy giờ, trên nước Mỹ, nhiều người nhiễm  Covid-19 và bệnh già, thường chọn chết tại nhà thay vì tại bệnh viện hay viện dưỡng lão. Họ muốn được gần gủi người thân trong giây phút vĩnh biệt. Ở Indonesia, khi người Hồi giáo chết vì Covid-19, thân nhân thường trộm xác đem về tắm rửa, chôn cất theo lễ nghi Hồì giáo, họ bảo. Nếu không thì linh hồn người chết sẽ không được về với Allah mà phải ở lại thế gian và đi lang thang thành những bóng ma. Một bài báo, ngày 2 tháng 4 năm 2021 đăng tin. Ở Malaysia, cộng đồng người Hoa đốt những bộ vàng mã mô phỏng khẩu trang, bình cồn rửa tay, bộ kim chích vaccine, ngừa vi rút vào lễ Thanh Minh để “người cõi âm” phòng chống Covid-19.

Một chuyện khác. Theo Daily Mall, một đoạn video cho thấy. Vài giây sau khi vị linh mục cất lời cầu nguyện thì bàn tay của người chết (vì Covid-19) động đậy và các ngón tay đang di chuyển dưới tấm kính nắp quan tài. Thì ra “Cô” Vid-19 đã bắt lầm người!

Theo nhà toán học Kit Yates thì hiện có khoảng 2 tỷ tỷ vi rút SARS – CoV-2 đang xuất hiện trên khắp thế giới. Một con vi rút có đường kính trung bình 100 nanomet, từ đó tính ra thể tích của một vi rút. Toàn bộ vi rút trên thế giới có thể nằm gọn trong một lon nước ngọt.

Tính đến 8 tháng 5 năm 2021 trên thế giới, đã có  155.886.756 người lây nhiễm với  3.257.603 người chết, chưa kể nhiều quốc gia thống kê thấp, giấu số thực tế (Trung cộng, Ấn Độ) hoặc không thống kê được (châu Phi). Covid-19 đã giết hơn 10,000 bác sĩ, y tá, y công, và những người làm công tác Y tế, Xã hội. Riêng nước Mỹ, đứng đầu thế giới với số người nhiễm dịch Covid-19, tính đến ngày 7 tháng 5 năm 2021 là 33.321.244 người và số người chết là 593.148 người. Ngày 24 tháng 2 năm 2021, tổng thống Joe Biden đã làm lễ tưởng niệm hơn 500 nghìn người Mỹ đã chết vì Covid-19. Công sở treo cờ rũ 5 ngày. Số tử vong vì Covid-19 ở Mỹ cao hơn số lính Mỹ chết trong thế chiến 2 và chiến tranh Việt Nam cộng lại.  Nhiều quốc gia, người chết không kịp chôn hoặc hỏa táng. Ngay tại New York, gần 700 thi thể người chết vì Covid-19 chất đầy trong những chiếc xe đông lạnh đã hơn 6 tháng nay (2020), vì không kịp chôn. Mặc dù thuốc chủng ngừa đã nghiên cứu thành công và đang phân phối ở các nước phát triển. Nhưng nước nghèo không đủ ăn, lấy gì mua thuốc chủng, nên tử thần mặc sức tung hoành. Dân nghèo ở Ấn Độ sợ chết đói hơn sợ covid-19!

Một cái chết vô duyên xảy ra ở Ấn Độ. Một ông mắc Covid-19 được đưa vô bịnh viện, cho thở Oxy. Bữa đó, trời nóng trên 40 độ C, thân nhân bèn đem một máy điều hòa nhiệt độ (AC) vào cho bịnh nhân bớt nóng. Loay hoay tìm ổ cắm điện cho máy điều hòa không thấy, người nhà bèn rút dây cắm (điện) của máy thở Oxy. Mấy phút sau, thiếu oxy, người bịnh thành “quá cố!”

Tiểu bang New Mexico cho biết. Ba người thiệt mạng, ba người trong tình trạng nguy ngập và một người bị mù vĩnh viễn vì uống dung dịch khử trùng tay có chứa methanol.

Tổng thống Trump phát biểu “Tôi thấy chất khử trùng (tay) hạ gục virus trong một phút, một phút thôi. Và có cách nào để chúng ta làm điều tương tự bằng cách tiêm vào bên trong cơ thể hay tẩy sạch chúng không?” Ý tưởng “tiêm thuốc khử trùng” và “chiếu ánh sáng” khiến các chuyên gia y tế phản đối, cho rằng đây là phương pháp “tự sát”. Thật hết ý!

Sau đây là những trích đoạn từ bài “Hé lộ nỗ lực cứu Trump trước Covid-19 năm 2020”. “Trump bắt đầu có triệu chứng Covid-19 vào ngày 1/10/2020 và thông báo trên Twitter rằng ông và đệ nhất phu nhân dương tính với nCoV. Vài giờ sau, ông sốt cao, lượng oxy trong máu giảm xuống dưới 94%, có thời điểm trong khoảng 80-90%” “Trump vốn không muốn nhập viện, nhưng các phụ tá đã đưa ra hai lựa chọn. Ông có thể đến bệnh viện vào ngày 2/10, trong khi ông có thể tự đi bộ hoặc nếu ông chờ thêm, máy ảnh có thể chụp được cảnh ông phải dời đi bằng xe lăn hay giường di động. Họ sẽ không thể giấu được tình trạng của ông”… “Ít nhất hai trong số những người đã được thông báo tóm tắt về tình trạng sức khỏe của Trump vào cuối tuần đó nói rằng ông bị ốm nặng và lo sợ ông sẽ không qua khỏi. Những người thân cận với chánh văn phòng của Trump, Mark Meadowns, nói rằng ông rất lo sợ Trump có thể qua đời. Chiều 3/10, tình trạng của Trump bắt đầu cải thiện. Một nguồn tin cho rằng các kháng thể đơn dòng đã giúp tổng thống phục hồi nhanh chóng” “Redfield xem truyền hình trực tiếp từ nhà. Ông cầu nguyện khi Trump đi lên các bực thang, cầu nguyện rằng Trump sẽ tỏ ra khiêm tốn, nhắc nhở mọi người rằng bất kỳ ai cũng có thể nhiễm nCoV, rằng ông sẽ nói với họ cách họ có thể bảo vệ bản thân và người thân. Nhưng Trump không như vậy. Lúc đó Redfield biết rằng mọi chuyện đã kết thúc. Trump cho thấy ông không hề thay đổi. Cách ông phản ứng trước đại dịch sẽ không thay đổi”         

Đúng ra, chính phủ của tổng thống Trump đã đốc thúc FDA cấp giấy phép (trước ngày 11/12/2020) cho viện bào chế Pfizer sản xuất vaccine chống Covid-19, phân phối ưu tiên cho những người làm công tác y tế. Máy bay, xe vận tải đặc biệt đã phân phối trên toàn nước Mỹ gồm 150 bệnh viện và 450 trung tâm chích ngừa từ thứ hai (14/12/2020) và các ngày sau đó. Công ty công nghệ sinh học Moderna, sau đó, thành công với vaccine (25/11/2020) có thể bảo quản ở nhiệt độ âm 20 độ C. Đến đầu năm 2021, Joe Biden đắc cử tổng thống, ông phát động chiến dịch chích ngừa (vaccine Covid-19) trên khắp nước Mỹ. Mỗi ngày sẽ có 6 xe tải đi ra từ nhà máy chuyển hàng (vaccine) cho các hãng chuyển phát nhanh bằng đường hàng không (Fedex, UPS, DHL…) để bảo đảm hàng được giao trong 2 ngày trong nước Mỹ. Đến giữa tháng 5 năm 2021, đa số dân Mỹ đã được chích ngừa, chỉ một số tuổi trẻ không chịu chích ngừa. Chính phủ các tiểu bang phải tặng tiền như ở tiểu bang California, người nào đi chích ngừa thì được tặng một phiếu mua hàng trị giá 50 USD lại còn xổ số, có người đi chích ngừa trúng số 1 triệu USD. Tiểu bang Ohio cũng tổ chức xổ số cho những người tham gia chích ngừa. Giữa tháng 5 – 2021 có cô gái trúng thưởng một triệu ($1.000.000) USD. Một cậu học sinh trúng giải, được chính phủ tài trợ mọi phí tổn cho đến khi tốt nghiệp đại học. Trong tai nạn dịch Covid-19, kinh tế Mỹ suy thoái, chính phủ Liên Bang tặng không cho mỗi công dân trên hai nghìn ($2.000) USD, sinh con được chu cấp ba trăm ($300) USD mỗi tháng, ngoài ra, những người thất nghiệp đuợc trợ cấp thất nghiệp dài dài. Vậy mà cũng có đến hàng trăm nghìn người không (thèm) nhận những số tiền trợ cấp đó? Mục đích chính phû bơm tiền cho dân xài để kích thích nền kinh tế đang suy thoái vì Covid-19. Về thuốc chích ngừa, nước Mỹ còn dư thừa quá nhiều, có chương trình tặng vaccine cho các nước thân hữu.

Chính phủ các tiểu bang tìm đủ cách để dân chích ngừa Covid-19, vậy mà một số người không chịu đi chích ngừa, khiến nạn dịch Covid-19 vẫn tiếp tục lây lan, số người chết vẫn leo thang. Trong tháng 6-2021 số người chết là trên 10.000 người. Ngày 5 tháng 7-2021 bác sĩ Anthony thông báo. “99% những người chết nầy vì đã không chịu chích ngừa”. Đến tháng giữa 7-2021, số người chết ở Mỹ trên 623.435, (thế giới trên 4 triệu).

Hậu quả của cơn dịch Covid-19 thật khủng khiếp. Kinh tế suy thoái trầm trọng. Người ta suy đoán. Sau khi dịch Covid-19 đã bị chận đứng, phải 3 năm sau kinh tế thế giới mới gượng dậy nỗi. Tình trạng xã hội bị xáo trộn. Thất nghiệp tràn lan, Lệnh cách ly khiến mọi người bị tù túng trong bốn bức tưòng, thế là vợ chồng bực bội, gây gỗ, đưa nhau ra tòa (Corona-divorce) Nhưng có nhiều nơi tòa hoãn xử ly hôn, ly dị. Thế là họ về nhà, chẳng biết làm gì? Bèn đem “cờ” ra đánh theo thơ bà Hồ Xuân Hương. “Chàng lừa thiếp đang khi bất ý, đâm tốt đầu dú dí vô cung…”

Chỉ mươi năm sau, nước Mỹ sẽ có thế hệ “Quaranteen” (trẻ cách ly)

Bạn đọc đến đây tất đã biết hết cái nguy hiểm của con Covid-19 rồi. Nó giết người nhanh như chớp. Nhưng người bị lây nhiễm sẽ đau đớn ra sao trước khi chết? Cách cứu chữa của bịnh viện như thế nào? Mọi diễn biến đó, bạn không thể nào biết được vì bạn không trải qua, bạn vẫn còn sống. Sau đây là bài viết của bác sĩ Minh Ngọc trong bài “Nỗi Cô Đơn Của Đá” (Xin phép bác sĩ, được trích một số đoạn trong bài viết của bác sĩ ) sĩ)

(New York USA) “Làm việc tới khuya, anh tắt đèn đi ngủ. Bỗng anh thấy cổ họng đau đau. Anh ngồi dậy, đi ra tủ lạnh rót nước uống rồi trở lại giường ngủ. Gần sáng, anh giật mình thức dậy, đầu nhức như búa bổ, người ớn lạnh khó chịu. Anh đi lấy một viên Motrin uống rồi nằm nghỉ, chắc hôm nay không làm việc được rồi. Anh ngủ vùi tới quá trưa, tỉnh dậy không thấy đỡ, ăn một chút súp đóng hộp Campbell rồi uống thêm một viên Motrin. Khi cô (người yêu) gọi, anh không nói chuyện được vì cổ họng đau rát, anh cố trấn an cô rằng có lẽ vì anh thức khuya làm việc, mai chắc sẽ khởe hơn. Buổi tối ngực anh ran ran, anh muốn ho mà phải nén lại vì vừa dợm ho là ngực đau tức không chịu nỗi. Cả đêm anh trở mình bên nào cũng đau và khó chịu, ngực đau đến mức không thở được. Anh hít Albuterol mấy lần vẫn không thấy đỡ. Chờ mãi đến chín giờ sáng để gọi văn phòng bác sĩ vẫn trị bịnh suyễn cho anh. Vị bác sĩ chăm chú lắng nghe, hỏi anh về đồng sự mắc Covid-19 ở sở. Anh bảo không biết đích xác là ai nên không thể nói là gần người ấy nhiều không. Vị bác sĩ bảo: “Anh phải đi cấp cứu” Anh cãi “Chắc tôi bị cúm thôi bác sĩ, vài ngày là hết có chi đâu” Vị bác sĩ nghiêm nghị “Không, anh nghe lời tôi, đừng coi thường”…                                                                                                                       

Người bảo vệ đeo khẩu trang, găng tay chẳng khác bác sĩ phẩu thuật trên phim, chận anh lại, hỏi, anh khai bác sĩ bảo đi cấp cứu ở cổng nầy. Anh ta hỏi tên rồi bốc đìện thoại gọi vào. Chừng một phút sau, một đoàn bốn năm người trùm kín mít từ đầu tới chân như phi hành gia vội vã đẩy một chiếc băng ca ra, bắt anh nằm lên rồi đẩy nhanh vào phòng. Họ nhanh chóng gắn các thứ phụ tùng lên người anh để các con số nhịp tim, huyết áp và độ bảo hòa oxygen hiện lên màn hình. Một người nhìn lên các con số rồi bảo cho chụp mặt nạ dưỡng khi lên mặt anh. Hơi oxygen mát lạnh phả vào mũi và miệng khiến anh dễ chịu hơn một chút. Một người lấy nhệt độ của anh vừa xong, họ đem đến hai viên Tylenol cho anh uống. Hai người khác cũng vừa đặt xong đường truyền tĩnh mạch, một bao muối sinh lý nhỏ giọt theo ống nhựa mảnh mai chảy vào người anh. Một người nữa dùng que dài có bông gòn ở đầu như Q-tip chọc vào trong mũi anh rồi bỏ vào ông nghiệm đóng nắp lại. Xong xuôi, họ đi ra khỏi phòng. Một người đẩy chiếc máy cồng kềnh vào phòng, đặt một tấm hình vuông dưới lưng anh, điều chỉnh máy ngay bên trên người anh, lui ra ngoài cửa, tay bấm chiếc nút đang cầm một tiếng “tách” khô khan, rồi anh ta lấy ấm vuông ấy ra, đặt bên hông anh, lại bấm thêm một cái nữa. Anh ta đem tấm vuông ấy bọc vào một cái bao để riêng, đẩy cái máy ra ngoài, đóng kín cửa… Bỗng con số màu xanh dương tụt xuống, chớp báo động inh ỏi. Cô (BS) đứng bật dậy, bấm cái nút to màu xanh trên tường rồi mở cửa chạy vụt vào phòng, rút quä bóng oxygen cấp cứu trên đầu giường, úp mặt nạ lên mặt chàng trai, bóp bóng liên tục đẩy oxygen vào phổi. Hai điều dưỡng chạy tới, đẩy xe thuốc cấp cứu đến trước cửa phòng, nhanh nhẹn bẻ khóa, mở ngăn kéo lấy ra ống thở và đèn đặt nội khí quản cho cô. Cô mau chóng đặt ống thở, nối với máy thở bên cạnh giường. Con số màu xanh dương vọt lên 85 nhưng không lên nữa dù cô đặt oxygen 100%…                                                                                

Cô thở dài, bước ra ngoài, tháo bộ đồ trang bị, gỡ bỏ khẩu trang, rửa tay với xà bông, rồi bước lại bàn làm việc, bấm số gọi cha mẹ của anh…                                                          

Chàng trai suy yếu dần dần. Những chỉ số liên tục xấu đi. Máy thở oxygen không giúp được hai lá phổi bị hư hại. Gan và thận suy nặng. Mọi người trong khoa Săn sóc đặc biệt nhìn nhau u ám lắc đầu. Người bệnh không còn hy vọng gì cứu nỗi”.

Và cùng với bài “Cuối Mùa Dịch”, (xin phép trích vài đoạn) bác sĩ Minh Ngọc tóm tắt, nước Mỹ (New York) đã dứt điểm Covid-19 như sau.

Từ cuối tháng 3-2021, các bác sĩ bắt đầu hình thành kế hoạch cụ thể hơn căn cứ vào những kinh nghiệm bước đầu – không chữa theo phác đồ ARDS nữa mà hổ trợ hô hấp bằng BiPAP hay CPAP, chỉ đặt nội khí quản khi bịnh nhân thực sự suy hô hấp nặng cần thở máy, cho xét nghiệm chức năng đông máu thường xuyên để phát hiện sớm và chữa kịp thời bằng thuốc kháng đông alteplase (tPA). Các thuốc thử nghiệm hydroxychloroquine, remdesivir, lerolimab được áp dụng, có còn hơn không. Chưa bao giờ thấy FDA duyệt nhanh và nhiều như vậy, phê chuẩn ào ào đủ loại thuốc và xét nghiệm. Nhiều chương trình nghiên cứu thử luôn thuốc kẽm, pepcid, sinh tố D… nói chung nghĩ ra được món gì khả dĩ chống được con virus này là thử hết. Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân được đề nghị thử thuốc gì cũng gật đầu, biết đâu công hiệu thì sao! Rốt cuộc chẳng biết nhờ các biện pháp phòng ngừa, nhờ thay đổi cách điều trị hay nhờ các thứ thuốc chữa bá bệnh mà các bệnh nhân tháng 4 hồi phục nhanh chóng, xuất viện ào ào, tinh thần làm việc của bác sĩ, điều dưỡng phấn chấn hẳn, thừa thắng xông lên. Trên tường bệnh viện xuất hiện tấm bảng đen ghi bằng phấn, mỗi ngày thay đổi con số xuất viện, lên tới trên con số ngàn. Hai trại cấp cứu dã chiến trong sân bệnh viện đã dỡ bỏ bớt một, còn giữ một trại tuy trống nhưng để phòng đợt dịch thứ hai. Đội cấp cứu đường thở đâm ra “thất nghiệp”, nhiều ngày ngồi ngáp ruồi chẳng ai gọi, bèn phân vào phòng mổ. Phòng mổ “sạch” (Covid-19 âm tính) ngày càng bận rộn, làm việc toàn thời gian. Tuần qua là tuần đầu tiên phòng mổ “sạch” đạt 75% số phòng hoạt động. Các anh chị BS Ngoại khoa và điều dưỡng phòng mổ chính thức không còn làm việc ở Cấp cứu và ICU nữa, trở lại với áo mũ dao kéo, BS gây mê thôi không còn chạy đi cấp cứu đường thở, trở lại với máy móc thuốc men… Trở lại với hoạt động bình thường trong bệnh viện, là điều vẫn ước ao hàng ngày khi đang vất vả đối phó với bệnh nhân la liệt khắp nơi, vậy mà lại bùi ngùi tiếc nuối! Nhớ không khí căng thẳng, mỗi người tất bật làm việc trong trang phục kín mít, những ánh mắt trao đổi thầm lặng qua kính bảo hộ – lo lắng, hy vọng – khi các chỉ số nhảy lên xuống trên màn hình, gương mặt thất thần của bệnh nhân dán mắt vào các nhân viên như cầu cứu. Từ chỗ hoang mang lo sợ những ngày đầu, mọi người trở nên thuần thục, hăng hái, quên cả nguy hiểm dốc sức cứu chữa từng sinh mạng, tự nhiên cảm thấy những ngày giờ làm việc của mình có một ý nghĩa nào đó, không chỉ là một công việc lãnh lương hai tuần một lần… Một điều tôi biết chắc, khi dịch tái phát, đội ngũ y tế nay đã  dày dạn kinh nghiệm, sẵn sàng đương đầu với con virus ghê gớm, các trang bị bảo hộ tích trữ đủ dùng nhiều tháng, máy thở và thiết bị hô hấp được cung cấp quá số lượng cần dùng nằm trong kho chờ sẵn. Chúng tôi không còn sợ nó” 

Một điều đáng quan tâm, vì con Covid-19 phát xuất từ thành phố Vũ Hán bên Trung Hoa nên khắp nơi trên thế giới, người ta ghét người Tàu, nhất là ở Mỹ, hễ thấy người tóc đen, da vàng, mũi tẹt là họ kỳ thị, đôi khi nhục mạ, tấn công. “Hãy cút về xứ của chúng mày!”… Quí ông bà Việt Nam quá khích (cuồng Trump đến thô lỗ, cục cằn) nên suy ngẫm lại thân phận của người tỵ nạn. Người Mễ, người Phi Châu nhập cư rất ý thức, không hề biểu lộ chính kiến. Cái giấy chứng nhận công dân Hoa Kỳ được cấp phát chỉ là thủ tục hành chánh, có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào, trục xuất bất cứ lúc nào nếu ta phạm pháp. Người da đen sinh sống ở xứ Mỹ hàng trăm năm vẫn bị kỳ thị, xem như công dân hạng hai, bị chẹt cổ đến chết, thi công dân hạng ba, là người nhập cư da vàng dễ dàng bị người da trắng và cả da đen tấn công. Nên thận trọng trong sinh hoạt và những phát biểu. Trong thế chiến 2, khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, hàng trăm nghìn người Mỹ gốc Nhật đều bị tập trung lại một chỗ. Gần giống như trại tập trung cải tạo vậy. Hết.

Phạm Thành Châu

Visits: 103

“Thác Là Thể Phách, Còn Là Tinh Anh”

Bài tưởng niệm nhân vật lịch sử Nguyễn Ngọc Huy 31 năm sau ngày mất (28/07/1990)

Cao Tuấn

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy (1924 – 1990)

Cuối cùng ai cũng phải chết. Đối với đại đa số người ta, ngoài phạm vi gia đình riêng, chết là hết. Nhân vật lịch sử thì khác. Chết mà vẫn còn. Ảnh hưởng của họ sau khi chết có thể quan trọng hơn cả ngay khi còn sống. Ông Nguyễn Ngọc Huy là một người như vậy hay là một trường hợp như vậy.

Nói như thế có quá đáng không?

Câu trả lời phải tìm trong cuộc đời tranh đấu phi thường của ông Nguyễn Ngọc Huy trong một giai đoạn lịch sử rất phức tạp, khó khăn. Và phải nghĩ cả đến tương lai của nước Việt Nam – sẽ Độc Lập, Dân Chủ, Tự Do, Hoà Bình, Hạnh Phúc hay vẫn tiếp tục chìm đắm, suy đồi trong độc tài, đảng trị để rồi tan biến không dấu vết vào nước Tầu Cộng Sản?

Làm chính trị đúng đắn cũng là làm cách mạng

Thi phẩm Hồn Việt, tập thơ in lần đầu năm 1950.

Trong bài thơ “Anh Hùng Đất Việt” ông Nguyễn Ngọc Huy sáng tác ngày 27/07/1948 – vào khoảng 3 năm sau khi gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng ở tuổi 21 – được in trong tập thơ Hồn Việt, dưới bút hiệu Đằng Phương có đoạn như sau:

Đây những người sinh nhằm thời quốc biến

Trong gian truân, cố chuyển lại cơ trời

Giữa đêm sâu, mưa máu rộn tơi bời

Vẫn thẳng tiến, không rời đường cách mạng

Ông Nguyễn Ngọc Huy lúc còn trẻ phải rất cảm hứng với “đường cách mạng” mới có thể viết được lời thơ rất truyền cảm vừa bầy tỏ sự khâm phục vừa bao hàm cả quyết tâm của chính mình muốn noi theo những tấm gương của những người hy sinh cho nước.

Điều khá lạ lùng là về sau này, ít nhất từ khi ông từ Pháp trở về nước năm 1964, lúc 40 tuổi, để tích cực hoạt động chính trị công khai như lập đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ở hải ngoại sau biến cố 1975), ông không còn hay nhắc tới “đường cách mạng”.

Từ đó, ông thường  nói “làm chính trị” mà không nói “làm cách mạng”. Lý tưởng và quyết tâm rõ ràng không suy suyển nhưng ngôn ngữ có sự thay đổi. Vậy, giải thích làm sao?

Thời Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam ông Nguyễn Ngọc Huy là một trong 4 vị giáo sư nổi tiếng uyên bác nhất của trường Quốc Gia Hành Chánh, trường Luật, các trường đại học và cao đẳng khác trên toàn quốc về bộ môn chính trị học. (Ba vị kia là các ông Nguyễn Văn Bông, Vương Văn Bắc, Nguyễn Mạnh Hùng). Mà đối với chính trị học hay khoa học chính trị thì cách mạng (revolution) là một chủ trương chính trị hướng đến sự thay đổi xã hội một cách toàn diện thành ra làm cách mạng cũng là làm chính trị rồi.   Cố ý tách rời cách mạng khỏi chính trị, mang tính cách chủ quan, thiên về mục đích tuyên truyền, đặc biệt khi có người nhấn mạnh mình làm cách mạng, không làm chính trị.

Thời Pháp thuộc, vì điều kiện hoàn cảnh, các đảng phái cộng sản hay không cộng sản thường là các đảng kín, kỷ luật sắt, hoạt động bí mật, chủ trương tranh đấu lật đổ chế độ đương hữu, lập chế độ mới nên thường tự xem là làm cách mạng. Riêng người cộng sản lúc nào cũng tự nhận họ làm Cách Mạng (viết hoa), mà cuộc cách mạng cộng sản đồng nghĩa với cực đoan, bạo động trong khi từ ngữ cách mạng chỉ hàm ý một sự thay đổi sâu rộng không nhất thiết phải có bạo động, chém giết tàn bạo.

Một lý do khác: ông Nguyễn Ngọc Huy nhìn thấy những sai lầm căn bản của các cuộc  cách mạng cộng sản và người cộng sản đã lạm dụng danh từ quá đáng  nên để tránh những nhập nhằng hay ngộ nhận ông đã cố ý không nói nhiều đến việc “làm cách mạng”. Nhất là sau khi đã đóng góp ý kiến thiết thực tạo lập bản Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam năm 1967 – đặt khá nhiều hy vọng nó  sẽ là nền tảng cho chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Ông chủ trương làm chính trị công khai, đúng đắn trong khuôn khổ luật pháp như là một giải pháp cứu đất nước khỏi hiểm hoạ cộng sản và xây dựng một quốc gia dân chủ tự do, trường tồn, hạnh phúc.

Trước hết, theo ông, người hoạt động chính trị phải hiểu thế nào là chính trị và ảnh hưởng của chính trị đối với con người rồi mới thấy rõ công việc của mình làm.

Dạy về khoa học chính trị (political science), ông Nguyễn Ngọc Huy biết từ ngữ chính trị đã được hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng qua những phát biểu và cung cách hành xử trong cả cuộc đời tranh đấu thì có thể thấy ông đã chọn và đã sống  một quan điểm về chính trị và về “làm chính trị” ngay từ đầu một cách rất tự nhiên và thành thật với chính mình, không phải đóng tuồng, đóng kịch chi cả. Sự chọn lựa này hoàn toàn phù hợp với cá tính và hoài bão của chính ông.

Chính trị là làm cho xã hội ngay thẳng, lành mạnh. Chính trị là khoa học hay nghệ thuật về việc điều khiển quốc gia. Người làm chính trị có thể phải khôn ngoan, uyển chuyển nhưng không được lừa lọc, dối trá. Người làm chính trị tất nhiên phải nghĩ tới việc nắm quyền lực nhưng quyền lực là phương tiện không phải là mục đích. Chính trị bao trùm mọi khía cạnh của đời sống con người. Nó tốt thì người được sung sướng, nó xấu thì người phải chịu đau khổ. Các chế độ độc tài, dành độc quyền làm chính trị, đều khuyến khích, cổ võ chủ trương phi chính trị trong giới người không thuộc phe cánh, ngoài tầm kiểm soát của họ. Phi chính trị, thực tế, là một thái độ chính trị. Là chấp nhận cái chính trị của nhà cầm quyền đương hữu, làm theo ý muốn của họ hay ít nhất không chống lại họ…

Tư tưởng của ông Nguyễn Ngọc Huy là một hệ thống hoàn chỉnh. Do sở học và do tự suy nghĩ. Là nhà khoa học chính trị đồng thời là một chính trị gia/ chính khách/ nhà cách mạng, hầu như ông luôn luôn có câu trả lời đầy đủ cho bất cứ một câu hỏi quan trọng nào liên quan đến các vấn đề cứu quốc và kiến quốc. Hoạt động của ông phản ảnh trung thực tư tưởng của ông. Nói và làm hoàn toàn tương hợp. Không bao giờ nói một đằng, làm một nẻo.

Chẳng hạn là người theo đạo Phật, thấm nhuần Phật pháp nhưng khi làm chính trị – sáng lập và điều khiển đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ông luôn giữ một khoảng cách hợp lý, vừa phải với giáo hội Phật Giáo nói riêng và các tổ chức tôn giáo nói chung cho dù ông biết rất rõ đảng chính trị dựa vào tôn giáo dễ thu hút, dễ tuyển mộ, dễ huy động quần chúng, đặc biệt trong trường hợp xã hội Việt Nam.

Không giống với một số chính trị gia khác, ông phân biệt rõ ràng đạo và đời, thần quyền và thế quyền. Trong cả lý thuyết và thực tế. Tôn giáo và chính trị là 2 lãnh vực khác nhau. Lịch sử cho thấy 2 thứ trộn lẫn vào nhau có những hậu quả tai hại, hoặc rắc rối không hay. Như trường hợp ông Ngô Đình Diệm và cuộc khủng hoảng với Phật giáo năm 1963. Như suýt có chiến tranh tôn giáo năm 1965, 1966 ở Sài Gòn, ở Huế. Như xẩy ra trên khắp thế giới qua các thời đại cổ, kim.

Ông Nguyễn Ngọc Huy luôn luôn từ chối đi đường tắt nếu nó trái với nguyên tắc, trái với điều ông tin tưởng.

Có khá nhiều minh chứng khác nữa.

Người cộng sản như các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Văn Linh… yêu Đảng (viết hoa) của họ hơn hết. Lịch sử cho thấy họ chấp nhận “thà mất nước còn hơn mất Đảng” .

Ông Nguyễn Ngọc Huy hoàn toàn khác.

Ông cũng thấy trong cuộc tranh đấu vì đất nước cần thiết phải xây dựng được ít nhất một đoàn thể, một đảng chính trị thích ứng – tập hợp được một số đông người, tổ chức chặt chẽ để duy trì được lâu dài, huy động được dễ dàng, hoạt động một cách thống nhất, làm việc một cách hữu hiệu. Muốn thế cần huấn luyện đoàn viên hay đảng viên tin tưởng nơi sự đứng đắn của lập trường mình, có tinh thần xung phong tranh đấu cho lý tưởng, có khả năng thực hiện các công tác được giao phó… Nhưng đảng hay đoàn thể đối với ông chỉ là phương tiện để phục vụ quốc gia, không phải là cứu cánh. Đảng quan trọng, cần thiết nhưng đảng không có đời sống riêng. Không có nước thì không có đảng. Đối với ông, “thà mất nước còn hơn mất đảng” chắc chắn là chuyện phi lý.

Từ lúc ông viết bài thơ “Nén Hương Lòng” khi mới chân vào đời hoạt động:

Hỡi những ai kia đã luỵ mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh

cho đến bài viết cuối cùng, hơn 40 năm sau, vài ngày trước khi mất, với nét chữ yếu ớt, nguệch ngoạc vì hơi đã tàn, lực đã kiệt:

không một lúc nào, trong 40 năm ấy, ông không bận rộn, không làm hay  không nghĩ đến việc phải làm, cần làm để cứu dân tộc, cứu đất nước. Ông muốn sống thêm vài năm mặc dù cơ thể đau đớn vì bệnh ung thư ngày đêm hành hạ chẳng phải vì còn tha thiết với cuộc đời riêng mà chỉ muốn hoàn tất cái trách nhiệm mà ông đã tự trói buộc  mình, đã tự nguyện đảm đương.

Một người yêu dân tộc, thương giống nòi  đến nỗi sao nhãng cả đời sống gia đình, quên cả bản thân, không vụ lợi, không màng danh – “thân còn chẳng kể, kể chi danh!” – không thể là người có tinh thần tư đảng, không thể là người làm chính trị đảng phái chỉ để làm chính trị đảng phái, tranh đoạt quyền lực chỉ để tranh đoạt quyền lực.

Là đảng viên đảng Đại Việt, trong tập thơ Hồn Việt in năm 1950, ông từng làm thơ khóc các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài trong “Ngày Tang Yên Bái” hay tưởng tượng lời khẳng khái của Nguyễn Thái Học nói với Đoàn Kiểm Điểm trong bài “Lòng Người Đảng Trưởng”.

Ông tách khỏi Đại Việt Quốc Dân Đảng để sáng lập Tân Đại Việt vì nhìn thấy nhu cầu phải tranh đấu theo phương cách mới. Ông sáng lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến vì muốn tiến tới một tập hợp chính trị đoàn kết rộng rãi để có sức mạnh trên toàn quốc . Ông sáng lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam để tiếp tục cuộc tranh đấu trong môi trường và điều kiện khác hẳn từ hải ngoại…

Ông vẫn duy trì Tân Đại Việt làm căn bản hay nòng cốt nhưng không bao giờ có dấu hiệu ông xem Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam chỉ là các tổ chức “ngoại vi” như có người nghĩ như vậy. Nhất là từ ngữ hay khái niệm “ngoại vi” làm người ta liên tưởng đến các tổ chức bung xung của đảng cộng sản chỉ lập ra để tuyên truyền hay che mắt thế gian. Như Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hoà Bình Việt Nam (Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết), Mặt Trận Tổ Quốc (Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Thế Duyệt), đảng Dân Chủ Việt Nam ( Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm), đảng Xã Hội Việt Nam (Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám), etc… đều là  các tổ chức “ngoại vi” hữu danh, vô thực của Đảng Cộng Sản, được hay bị đảng Cộng Sản giật dây từ đầu chí cuối.

Ông Nguyễn Ngọc Huy không làm chính trị thủ đoạn “lá mặt, lá trái” như vậy. Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từng là các đoàn thể chính trị có thực chất và phẩm chất do ông gây dựng. Bằng sự tận tuỵ, tận tâm, tận lực. Đó là những tác phẩm tim óc của ông chẳng khác tác phẩm Tân Đại Việt. Đó là những nỗ lực chiến lược đặt căn bản trên sự thành tín giữa những người chung lý tưởng vào các khúc quanh lịch sử của dân tộc.

Như giữa ông và người bạn tâm giao là ông Nguyễn Văn Bông. Ông Bông, kém ông Huy 5 tuổi, không phải đảng viên Tân Đại Việt, cũng không thuộc đảng phái nào nhưng là người trí thức dấn thân, tài đức xuất sắc. Ông cùng ông Huy lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến năm 1969. Dậy về chính trị học với bằng cấp cao nhất nước là tiến sĩ rồi thạc sĩ công pháp (Paris), lần đầu tiên trong cuộc đời, ông Nguyễn Văn Bông bước chân vào chính trường “gió tanh mưa máu” theo đúng nghĩa. Ông Bông làm chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, ông Huy làm Tổng Thư Ký. Phong Trào phát triển nhanh chóng và được sự gia nhập của nhiều cá nhân và tổ chức để sớm trở thành            một đoàn thể chính trị có thực lực và quy củ nhất trong Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Phong Trào giữ thế đối lập với chính quyền nhưng đối lập xây dựng và ôn hoà. Chuyện đáng chống thì chống. Chuyện đáng ủng hộ thì ủng hộ.  Cặp đôi giáo sư Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Ngọc Huy ngày ấy danh tiếng như cồn. Ông Bông bị đặc công cộng sản ám sát bằng mìn, thân thể tan nát và cháy đen, khi chuẩn bị ra làm Thủ Tướng cuối năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu…

Không thể nói Phong Trào QGCT là ngoại vi của Tân Đại Việt và ông Huy đã “giật dây” ông Bông dù có thể chính ông Huy đã “tuyển mộ” ông Bông bằng tình bằng hữu chân thành ngay từ ngày cùng đèn sách đại học và cùng làm bồi bàn ở Paris . Cũng không thể nói Tân Đại Việt “điều khiển” luôn Việt Nam Quốc Dân Đảng (hệ phái Nguyễn Tường Tam) chỉ vì đoàn thể này cũng là một thành viên của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến…Đoàn kết, liên minh, tập hợp chặt chẽ, rộng rãi để cùng tranh đấu hữu hiệu cho đất nước – một bắt buộc cần thiết, hợp lý và chính đáng – không thể là một chiến thuật giai đoạn nhất thời hay một nước sơn bề ngoài.

Ông Nguyễn Ngọc Huy sống ở nước Mỹ 15 năm (1975-1990) nhưng ông không vào quốc tịch Mỹ. Ông giải thích rất nhẹ nhàng “người khác làm thế thì được nhưng tôi thì không”. Tưởng như là lời lẽ của người kiêu ngạo mà không phải. Chính là lời lẽ của người âm thầm tự nhận lấy cái gánh nặng lãnh đạo cuộc tranh đấu cứu vớt đất nước. Ông đã nguyện hy sinh hết cuộc đời, ông có kinh nghiệm, ông có kiến thức, ông đã suy nghĩ về con đường phải đi, ông có viễn kiến… Nếu ông không làm thì ai làm?! Nếu ông vào quốc tịch Mỹ, thề trung thành với nước Mỹ, trở thành công dân nước Mỹ thì còn nhân danh cái gì để lãnh đạo cuộc tranh đấu cho nước  Việt Nam?! Chắc ông phải nghĩ đến ông tướng De Gaulle lúc lưu vong ở nước Anh trong thế chiến thứ hai…

Có thực học, thực tài, thực tâm nên ở ông không bao giờ có sự phù phiếm hay cầu kỳ. Mọi sự đều như ăn khớp với nhau một cách giản dị, hợp lý và mang thực chất. Người ta có thể gọi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Huy nhưng ông không tự xưng giáo sư hay tiến sĩ bao giờ. Ông không cường điệu, không tự quan trọng hoá mà cũng không cố ra vẻ khiêm tốn. Nguyễn Ngọc Huy là Nguyễn Ngọc Huy. Lúc nào cũng vậy. Có lần ông cười vui: “con gái tôi biểu: Ba nói tiếng Pháp như người Anh và Ba nói tiếng Anh như người Pháp” (Con gái của ông, tiến sĩ luật khoa Nguyễn Ngọc Thuý Tần, trưởng thành trong cả hai nền giáo dục Pháp và Mỹ). Ông  còn cho biết làm phụ khảo ở đại học Harvard cho ông cơ hội nghiên cứu Luật Nhà Lê, vừa có lương để sống, vừa có bảo hiểm sức khoẻ, vừa tương đối tự do nên có thể đi đây đi đó để phát triển đoàn thể, tiếp xúc với chính giới các nước vận động thành lập Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Công việc nghiên cứu trong môi trường đại học thích hợp và thuận tiện với hoàn cảnh của ông. Ông nói tự nhiên và thành thật.

Với ông “văn là người”, “người là văn”. Cùng lúc vừa bác học, vừa bình dân.        Vấn đề phức tạp, cao xa, khó khăn đến mấy, qua ông, cũng trở nên đơn giản, gần gũi, dễ hiểu. Khả năng hiếm có ấy tất nhiên là do thông minh bẩm sinh, quá trình tôi luyện nhưng cũng do tấm lòng đôn hậu, thành thực lúc nào cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc. Ông Lý Đông A chẳng nói “nuôi tâm thì làm thiên tài, nuôi trí thì làm nhân tài, nuôi thân thì làm nô tài” đấy sao? Nếu không phải là thiên tài thì ông đã không phải là người duy nhất tìm ra tất cả “các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung” một cách có hệ thống, đâu ra đấy, hợp tình, hợp lý không bác bỏ được – Xin nhắc lại: người duy nhất trong mấy trăm triệu người Trung Hoa và người Việt Nam đã đọc và nghiền ngẫm các tác phẩm của nhà đại văn hào này! Một khả năng phân tích và tổng hợp đã phát huy đến một độ cao hiếm có!

Thành công hay thất bại?

Như đã nói đối tượng của chính trị là quyền lực, ông Nguyễn Ngọc Huy cả đời làm chính trị, làm từ A tới Z – học hỏi, suy nghĩ, viết lý thuyết, viết chính sách, viết tài liệu huấn luyện , viết sách, viết báo, tìm người cộng tác, tổ chức và phát triển đoàn thể, đối nội, đối ngoại…chưa kể phải soạn bài, chấm bài, đến lớp dậy học làm công việc chuyên môn của một giáo sư đại học để sống như mọi người. Một đời bận rộn, gian nan không kể xiết vậy mà chức vị to nhất, cao nhất chỉ là một lần làm Đổng Lý Văn Phòng của Phó Thủ Tướng đặc trách Bình Định & Phát Triển trong vài tháng của năm 1964. Ông Nguyễn Tôn Hoàn làm phó thủ tướng lúc bấy giờ.

Rồi để giúp xây dựng một hệ thống lý luận đối phó với phe cộng sản trong cuộc hoà đàm Paris nổi tiếng thế giới – vừa đánh vừa đàm – ông đã chấp nhận làm nhân viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà cùng vài người khác như ông Trần Thanh Hiệp, ông Vương Văn Bắc, bà Nguyễn Thị Vui… trong những năm 1968-1970. Lãnh đạo phái đoàn lúc đầu là phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, nổi tiếng về khá nhiều mặt kể cả mặt hay nói “bốc đồng” và “ruột để ngoài da”. Riêng ông Huy, từ Đổng Lý Văn Phòng đến làm Nhân Viên phái đoàn thương thuyết, về chức tước, thì đúng là “phú quý giật lùi”. Đã thế còn bị nói xấu là “đối lập lom khom” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu!

Hiển nhiên, về phương diện chức vụ và quyền hành ông Nguyễn Ngọc Huy không thể so sánh được với các nhân vật lịch sử của đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà Việt Nam – cho dù sự nghiệp hay thành tích của họ luôn là đối tượng tranh cãi – như các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Bá Cẩn… Ông Nguyễn Ngọc Huy cũng không so sánh được với các ông  Quốc Trưởng, Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Phó Thủ Tướng, Chủ Tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia, Tổng Trưởng, Bộ Trưởng, Thượng Nghị Sĩ : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Xuân Chữ, Phan Quang Đán, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Lưu Viên, Dương Kích Nhưỡng, Nguyễn Bích Huệ, Nguyễn Tiến Hưng, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Quốc Thúc, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức, Thái Lăng Nghiêm…là các chính trị gia, chính khách đứng đắn, có tiếng tăm tốt …cùng với ít nhiều huyền thoại.

Một số nhân vật, đúng ra, chỉ là những nhân sĩ độc lập, chuyên gia không hoạt động chính trị hay cách mạng bao giờ vậy mà đầu hôm sớm mai trở thành bộ trưởng, tổng trưởng một cách dễ dàng chẳng hạn như  các vị giáo sư Vương Văn Bắc, Trần Văn Kiện, Nguyễn Duy Xuân, Nguyễn Văn Tương…của trường Quốc Gia Hành Chánh. Tuy nhiên một sự thực không ai phủ nhận là các vị này đã dành cho người bạn đồng nghiệp đi dậy học bằng xe đạp hay xe Honda “ôm” một sự quý mến và kính trọng đặc biệt. Không phải vì người bạn là bạn đồng chí hướng của ông viện trưởng trường QGHC Nguyễn Văn Bông mà vì họ đã nhìn thấy hình ảnh của một nhà lãnh đạo quốc gia rất xứng đáng trong tương lai, dù có danh hiệu, chức tước hay không. Cũng vì thế mà không ai cảm thấy cần thiết phải ái ngại cho tình cảnh “phú quý giật lùi” hay “đường công danh” quá chậm chạp, vất vả của ông Nguyễn Ngọc Huy.

Cũng không phải chỉ các giáo sư và sinh viên trường QGHC mới thấy ông thầy giáo Huy “không giống ai”. Nhiều người đã nhìn thấy điều này. Những người để ý tới thời cuộc. Chính giới. Báo chí. Trí thức. Sinh viên các trường đại học. Người dân thường…

Và dĩ nhiên luôn cả tình báo cộng sản, tình báo Mỹ và cả ông tổng thống đương quyền Nguyễn Văn Thiệu. Mỗi nơi này đều có những tính toán riêng với trường hợp ông Nguyễn Ngọc Huy.

Dù là tính đến hại hay tính đến lợi cho chính họ, mỗi bên đều biết rằng ông Huy là một người làm chính trị vì lý tưởng, có tư tưởng phong phú, chặt chẽ, kiên định, làm việc có nguyên tắc, có sách lược, có chiến lược, có tổ chức. Họ đã nhìn thấy một nhân vật chính trị với bề ngoài giản dị bình thường nhưng bề trong là một bản lĩnh xuất sắc nhất hay xuất sắc vào bậc nhất của thời đại. Họ đã nhìn thấy một con người rất thận trọng nhưng một khi quyền lực vào tay, sẽ có đủ khả năng xoay chuyển bàn cờ chính trị Việt Nam theo một hướng khác hẳn.

Những bí mật lịch sử được bạch hoá gần đây cho thấy từ năm 1968, người Mỹ đã ý thức rằng sách lược chiến tranh “tốc chiến, tốc thắng” của họ không có kết quả nếu không nói họ đã bị sa lầy không rút chân ra được. Sách lược của Mỹ đã bị vô hiệu hoá bởi sách lược “chiến tranh nhân dân” đánh tiêu hao, đánh lâu dài của Mao Trạch Đông. Hoả lực và kỹ thuật Mỹ không cản được quân cộng sản xâm nhập qua đường biên giới Việt-Miên-Lào quá dài, quanh co cả ngàn cây số, không cản được Đảng cộng Tầu  tích cực yểm trợ và thúc đẩy đảng cộng sản Việt “đánh đến người Việt Nam cuối cùng” và sẵn sàng đánh thêm 20 năm hay 50 năm, không cản được lãnh đạo chóp bu ở Hà Nội tiến hành cuộc chiến ở miền Nam VN bằng tuyên truyền, khủng bố, vừa đánh vừa đàm nhằm gây rối loạn ngay trong nước Mỹ…

Giết ông Diệm, ông Nhu là một sai lầm. Đổ bộ hơn nửa triệu quân mà không dám Bắc Tiến vì  sợ tái diễn một cuộc chiến Triều Tiên thứ 2 với một biển quân Tầu trên đất Việt là một sai lầm khác. Người Mỹ không còn kiêu ngạo nữa: vấn đề Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Chỉ có một chính quyền miền Nam Việt Nam thật hữu hiệu, thật lương hảo, đích thực của dân, do dân, vì dân và được dân ủng hộ tích cực mới có thể đánh bại mưu đồ và nỗ lực nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam của phe cộng sản. Và giúp cho người Mỹ rút quân trong danh dự.

Người Mỹ đi tìm kiếm một liên hệ tốt với nhóm của ông Bông-ông Huy vì lý do này. Nhân chứng và tác nhân khả tín là ông Stephen B. Young của toà đại sứ Mỹ lúc bấy giờ và ông đại sứ đương nhiệm Ellsworth Bunker. Người Mỹ vận động hay làm áp lực với ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời ông Bông làm thủ tướng thay ông Trần Thiện Khiêm để bắt đầu tiến hành cải cách theo chương trình và kế sách của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến mà kiến trúc sư chính là ông Nguyễn Ngọc Huy: lập nội các đoàn kết quốc gia, làm dân chủ pháp trị đúng nghĩa, dân sự hoá và trong sạch hoá chính quyền ở mọi cấp, thực hiện công bằng xã hội, phát triển kinh tế, cải tiến đời sống nông dân bằng các chính sách ruộng đất thích hợp, đoàn ngũ hoá nhân dân để cô lập cộng sản…

Ông Thiệu chống cộng, điều này ai cũng biết. Có lẽ ông cũng yêu nước – một cách có mức độ như đa số mọi người – nhưng ông không yêu nước bằng yêu quyền lợi của ông, bằng yêu cái chức Tổng Thống và quyền lực đi kèm với nó. Ông Bông làm Thủ Tướng có thể có hại mà có thể cũng có lợi cho ông trong đoản kỳ và trong trường kỳ. Ông chấp nhận ông Bông vì có thể ông tự tin rằng, ảo tưởng hay không, ông có thể “đối phó” được với  “ông Bông thủ tướng” một khi ông vẫn là tổng thống và có quân đội trong tay. Và “đối phó” với ông Bông thì dễ hơn “đối phó” với ông Huy. Có thể ông tính toán: ông Bông ít tuổi hơn ông Huy; ông Bông, một nhà khoa bảng lỗi lạc mới bước vào chính trường  không lâu – tương đối ít kinh nghiệm hoạt động chính trị so với ông Huy là người đã xông pha mấy chục năm, từ một đảng viên thường trở thành lãnh tụ, lý thuyết gia, chiến lược gia, nhà tổ chức. Có thể ông Thiệu lo ngại sẽ bị “ông Huy thủ tướng” làm cho lu mờ, mất dần quyền lực đồng thời ông cũng không an tâm lắm với những người thân tín chung quanh ông Huy nhất là nhóm sĩ quan trong quân đội thuộc thành phần trung cấp và cao cấp khá đông đảo có “gốc” Đại Việt hay Tân Đại Việt mà có người đã từng tham gia các cuộc binh biến trong những năm trước. Chẳng hạn như các ông đại tá “không bao giờ được cho lên tướng” Huỳnh Văn Tồn, Nhan Minh Trang, Dương Hiếu Nghĩa …từng chỉ huy sư đoàn hay các đơn vị lớn…Có thể ông lo ngại ảnh hưởng của ông Huy, đã đáng kể với lớp người xuất thân từ trường Quốc Gia Hành Chánh đang điều khiển nền hành chánh ở khắp các tỉnh quận trên toàn quốc, sẽ còn lan toả nhanh chóng sang cả tập thể quân đội vốn là căn bản phát xuất sự nghiệp chính trị của ông.

Diễn biến lịch sử cho thấy: Ông Thiệu đã mời ông Bông làm thủ tướng. Tin bị tiết lộ. Câu hỏi “ai tiết lộ?” chưa được trả lời. Phía cộng sản quyết định ám sát ông Bông ngay tức khắc trước khi sự bảo vệ được chặt chẽ nâng cao dành cho người giữ chức thủ tướng chính thức. Về phía cộng sản, vụ  mưu sát có tầm quan trọng chiến lược được chuẩn bị từ cấp cao nhất, cẩn thận, tỉ mỉ và đã thành công. Đối với họ,  Nguyễn Văn Bông phải chết trước khi quá trễ cũng như các lãnh tụ xuất sắc nhất, tài đức nhất của phe quốc gia phải chết trước khi quá trễ: Lý Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ…

Giết các đại kình địch như thế – thể hiện một thứ chính trị bá đạo, độc hiểm và đê  hèn nên đảng cộng sản đã giữ im lặng rất lâu chung quanh những vụ mưu sát này. Họ không thể rêu rao: “phản động đã đền tội” như thường lệ vì sẽ ngắc ngứ trước công luận: “phản động” chỗ nào? “Tội” gì mà phải “đền”?

Họ giết vì họ sợ. Họ giết ông Bông để chặn đường ông Huy. Chặn một thế lực chính trị đầy triển vọng của người quốc gia Việt Nam. Để phá tan một đường lối mới, dập tắt một hy vọng của chính quyền Mỹ. Quả thật, chính quyền Mỹ, người Mỹ lại tính sai và thất bại nữa vì đã không bảo vệ được người mà họ đặt cái hy vọng ấy.

Mặt khác, không ai biết rõ cảm giác thực của ông Thiệu khi nghe tin ông Bông bị ám sát. Ông có hối tiếc đã không ra lệnh bảo vệ an ninh đầy đủ cho vị thủ tướng tương lai của ông không hay ông chỉ cảm thấy nhẹ người?

Và những câu hỏi khác nữa, chẳng hạn:

Ông Bông không còn, tại sao ông Thiệu không mời ông Huy thành lập chính phủ thay thế mà chỉ nghĩ đến việc duy trì ông Trần Thiện Khiêm đến giờ chót hoặc thay ông Khiêm bằng ông Nguyễn Bá Cẩn khi tình thế đã suy đồi đến mức không thể cứu vãn? Tình thế biến chuyển quá nhanh, “đồng minh tháo chạy quá sớm” hay ông cố tình trì hoãn việc hợp tác thành thực với ông Nguyễn Ngọc Huy để cứu Miền Nam VN chỉ vì tính toán quyền lợi riêng quá kỹ? Ông cũng “ngán” ông Nguyễn Ngọc Huy như người cộng sản “ngán” ông Nguyễn Ngọc Huy chăng? Ông có muốn bào chữa rằng ông không mời ông Huy làm thủ tướng chỉ vì ông lo lắng ông Huy sẽ bị cộng sản giết như họ đã giết ông Nguyễn Văn Bông? Ông có muốn kể công đã mời ông Huy tham gia phái đoàn hoà đàm Paris nổi tiếng thế giới năm 1968-1970 đối diện với truyền thông quốc tế, đối diện cả với Henry Kissinger, Lê Đức Thọ đã khiến Cộng Sản không dám giết “sứ giả” Nguyễn Ngọc Huy khi 4 bên đang thương thuyết để…vãn hồi hoà bình?

Các nghi vấn đều có thể nêu ra, mọi sự giải thích chỉ là suy đoán. Những câu trả lời chính xác nhất vẫn thuộc về ông Nguyễn Văn Thiệu nếu ông Thiệu thành thật với chính mình. Đáng tiếc, ông Thiệu đã trở thành người thiên cổ!

Ông Nguyễn Ngọc Huy không cứu được Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Ngày ông qua đời 28/07/1990 cả nước Việt Nam vẫn dưới ách độc tài đảng trị cộng sản. 31 năm sau, 2021, chưa thay đổi, vẫn còn độc tài đảng trị cộng sản trên toàn cõi. Tương lai đất nước bấp bênh, đen tối trước một nước Tầu cộng sản hùng mạnh và hung hãn. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã không cứu được, chưa cứu được nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam như lòng ông mong muốn.

Người ta thường nói thành công cần 3 yếu tố, thiếu một cũng không xong: tài năng, cố gắng và may mắn. Ông Huy thực là người có tài. Ông đã cố gắng, chính xác nghĩa đen không phải nói văn chương, cho đến hơi thở cuối cùng. Ông cầu nguyện xin được sống thêm vài năm có lẽ cùng tấm lòng với Gia Cát Lượng khi làm lễ dâng sao trên Ngũ Trượng Nguyên hơn ngàn năm trước:

Lúc hết hơi mới biết đến mạng Trời

Và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động

(Đằng Phương)

Ông Nguyễn Ngọc Huy quả thực đã không may mắn.

Đành phải nói là vận nước.

NẾU tháng 11/1971 đặc công cộng sản không giết được ông Nguyễn Văn Bông…NẾU ông Nguyễn Văn Thiệu không quá tham quyền cố vị… NẾU ông Nguyễn Ngọc Huy không bị ung thư kéo dài và chết ở tuổi 66, sớm ít nhất là 10 năm so với  tuổi thọ của người trung bình… NẾU “quần chúng đối với thiên tài KHÔNG PHẢI là cái đồng hồ đi trễ”…NẾU có nhiều người yêu nước tuyệt đối như ông Nguyễn Ngọc Huy v…v…THÌ mọi sự có thể khác, rất khác. Chẳng hạn như Việt Nam có thể đã là một con rồng châu Á thay vì là con rắn, con trăn như trong chế độ chính trị tệ hại hiện hành.

So sánh người làm chính trị – cá nhân với cá nhân  – Nguyễn Ngọc Huy của Việt Nam có kém gì Tưởng Kinh Quốc của Đài Loan, Phác Chính Hi của Đại Hàn hay Lý Quang Diệu của Singapore – về cả ý chí, lý tưởng, kiến thức, tài năng, đức độ, lòng yêu nước? Vậy có nên đem thành bại mà luận anh hùng?

Còn là tinh anh

Sự thất bại của ông Nguyễn Ngọc Huy là hoàn toàn và có tính cách chung cuộc nếu tất cả người Việt Nam đã cam tâm vĩnh viễn làm “cái đồng hồ đi trễ” – coi cái chế độ độc tài cộng sản tàn nhẫn, thối nát và cả triển vọng mất giống nòi là một thứ định mệnh vì “cái số của nước mình nó thế!” thì không còn gì để nói, để bàn.

Trong trường hợp ngược lại, chết chưa phải hết, “thác là thể phách còn là tinh anh”. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã trở thành người của lịch sử, người của chung dân tộc Việt Nam, không còn giới hạn là người của gia đình hay của đảng – Đại Việt, Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam? Cuộc đời của ông là một đại tác phẩm. Các tác phẩm khác của ông, về văn hoá, luật pháp, chính trị cũng là những đại tác phẩm. Ông không giữ bản quyền. Không ai giữ bản quyền. Tất cả là một di sản hoàn toàn lành mạnh, vô cùng phong phú, hết sức hữu ích mà ông Nguyễn Ngọc Huy để lại cho lịch sử, cho dân tộc, cho thế hệ trẻ thanh niên trong và ngoài nước nhất là cho những ai còn trăn trở về tương lai của tổ quốc thân yêu. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã ra đi nhưng để lại một con đường sáng. Rất sáng. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã chết nhưng sẽ sống mãi trong lòng người Việt Nam.

Cao Tuấn (ĐS 12/CH 8)

(Tháng 7/2021)

Visits: 1664

Cõng Mẹ

Thơ Lê Văn Bỉnh

Tháng Tư đó mẹ con ta trúng đạn.

Con nhẹ hơn, cố cõng mẹ lên đường

Với hy vọng sẽ mau đến nhà thương

Kịp cấp cứu vết thương ra nhiều máu.

 

Máu mẹ ướt lưng, chân con lảo đảo.

Cuối cùng rồi cũng đến cổng nhà thương

Để được xem lời thông báo khác thường:

“Nơi đây không trị liệu gia đình ngụy.”

 

Con nhìn lại áo quần con tiều tụy.

Đó vốn là quân phục mặc xưa nay.

Dù giờ đây có vội vã kịp thay,

Sao rời khỏi bao năm dài gắn bó?

 

Chung quanh đây cao mấy vuông cờ đỏ,

Mà con nghe chết lịm cả tâm hồn.

Trên lưng con hơi thở mẹ đã mòn;

Con vẫn tin mẹ sẽ hồi tỉnh lại.

 

Con cõng mẹ đi trong cơn điên dại:

Hang cùng, ngõ hẻm, tụ điểm, chợ trời,

Trại tù cải tạo, bến bãi khắp nơi.

Và đến đây vào một ngày tuyết trắng.

 

Bốn sáu năm cõi lòng thêm cay đắng.

Lưng con còng vẫn cõng mẹ ngày đêm.

Con nguyện cầu cho “chân cứng đá mềm”,

Tục ngữ xưa nghìn đời lời mẹ dạy.

 

Lê Văn Bỉnh (ĐS10, CH2)

Visits: 75

Khía Cạnh Luật Pháp Việt Nam Về Vấn Đề Công Đoàn Và Tham Nhũng

Nguyễn Bá Lộc

Công nhân Công ty Pouchen VN tràn xuống đường đình công 24/3/2018 ( ảnh BBC News )

Trong lãnh vực kinh tế xã hội, VNCS vi phạm nhân quyền rất trầm trọng và không suy giảm trong thời gian gần đây.  Hai vấn nạn nghiêm trọng của  nhân quyền về mặt kinh tế xã hội là quyền công nhântham nhũng. Hậu quả của hai vấn nạn nầy có liên hệ chặc chẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người dân và của cộng đồng quốc gia. Đây là vấn đề rất rộng lớn, tôi chỉ nêu ra ở đây khía cạnh pháp lý và sự thực thi luật pháp VNCS trong thời gian gần đây của vấn đề nầy.

Mặt khác, quyền công nhântham nhũng còn là hai trong những điều kiện bắt buộc qui định trong các hiệp định mậu dịch quốc tế thuộc loại mới , có tầm mức rất quan trọng mà VN cam kết và thực hiện trong năm 2020 và 2021, vì hội nhập kinh tế toàn cầu là con đường ưu tiên số một của VN để phát triển kinh tế.

Mục đích và vai trò của luật pháp CS là để bảo vệ đảng và ổn định đảng, chớ không phải là giúp cho người dân và xã hội được an toàn, công bằng và phát triển. Cho nên luật pháp XHCN có nhiều khác biệt và mập mờ từ việc làm luật lệ tới việc thi hành luật.

Dưới đây là tóm tắt vài khía cạnh luật pháp VN về hai vấn đề công đoàn và tham nhũng.

I. LUẬT LỆ VỀ CÔNG ĐOÀN

1. Sự thay đổi và cải sửa Luật Lao Động 2019

Luật Lao động VN , từ hàng chục năm trước có rất nhiều khuyết điểm và không giống với luật tại nhiều nước có dân chủ tự do. Nay dưới nhiều áp lực quốc tế, luật lao động được thay đổi hồi tháng 11- 2019, và có hiệu lực từ tháng giêng – 2021. Luật gồm 17 chương và 219 điều khoản, qui định nhiều thứ và sửa đổi hay bổ sung một số điều. Trong đó có qui định về một loại công đoàn mới.

 Đạo luật mới về công đoàn qui định bởi điều 170 “mọi công dân có quyền gia nhập công đoàn”. Công đoàn là một trong những quyền quan trọng của công nhân mà từ trước tới nay do đảng CS nắm giữ và điều hành phục vụ mục tiêu chánh trị của đảng. Đó là Tổng Công Đoàn Lao Động VN trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ). Nó không phục vụ công nhân. Chẳng những quyền lợi chánh đáng của công nhân không được bảo vệ mà CSVN còn đàn áp công nhân hay tổ chức bảo vệ công nhân dưới nhiều hình thức , trong đó có việc lạm dụng luật lệ hình sự để hù dọa và đàn áp công nhân.

Đồng thời khi ban hành Luật Lao động mới nầy, VN phê chuẩn ba điều khoản quan trọng của Công Ước Lao động thế giới (ILO) vào tháng 8-2019 mà VN có gia nhập công ước quốc tế từ nhiều năm trước. Đó là điều 87 qui định về công đoàn độc lập, nhưng tới 2023 mới có hiệu lực, điều 98 qui định về chống lao động cưỡng bức, có hiệu lực vào năm 2022, và điều 105 qui định về quyền thương lượng tập thể có hiệu lực từ 2021.

Dù có chút tiến bộ, nhưng Luật Lao động 2019 hãy còn lờ mờ, chưa đầy đủ, nhất là qua giai đoạn thực thi sẽ có khá nhiều khó khăn, và sự tranh đấu cho quyền lợi công nhân còn phải tiếp tục. Bây giờ thì còn quá sớm để có nhận xét đầy đủ về việc thi hành luật mới. Nhưng công nhân và những người hoạt động cho sự độc lập và sự chân chính của công đoàn cần theo dõi và tiếp tục tranh đấu để nó phù hợp với luật quốc tế. Đặc biệt là hai HĐ mậu dịch mà VN có ký là CPTPP (2019) và EVFTA (2020). Năm qua, VN cũng có đưa ra Nghị định 145 ngày 13-12-2020, chi tiết hóa Luật Lao Động 2019.

Theo yêu cầu và qui định bắt buộc của cả hai HĐ nói trên, VN phải thay đổi luật lao động và sự tương quan giữa luật lao động và lợi ích kinh tế quốc tế.

2. Luật về công đoàn mới còn thiếu sót và sự thực thi còn khó khăn

Liên quan tới công đoàn, có ba điểm chánh nêu lên ở đây là:

Tính cách độc lập và tự do trong thực hiện công đoàn mới. Theo luật 2019 thì tổ chức công đoàn (Trade Union/Workers Union) được gọi là Ban đại diện công nhân (Representative of workers Organization) đ.170 .Trên nguyên tắc tại mỗi xí nghiệp, công nhân được tự do bầu Ban đại diện. Các Ban đại diện chỉ được thực hiện ở cấp cơ sở, tức là xí nghiệp. Không có nói đến Ban đại diện sẽ được tiến tới cấp cao hơn hay rộng hơn như Công đoàn, Tổng công đoàn.

Như vậy Tổng Công Đoàn Lao Động VN (TCĐ), theo luật cũ và là tổ chức của đảng vẫn còn rất mạnh. Đầu tiên là tổ chức nầy bao trùm cả nước và cả các ngành. Khi đó thì BĐD theo luật mới rất nhỏ, chỉ ở cấp cơ sở, bên cạnh một tổ chức rất lớn và được chánh quyền cung cấp tài chánh và nhân sự, như vậy BĐD làm sao có một sức mạnh khả dĩ nào để bảo vệ quyền lợi công nhân cách trung thực. Ngoài ra, tại mỗi xí nghiệp chánh quyền có thể thỏa hiệp với chủ nhân bổ nhiệm một cán bộ công đoàn, hay vẫn còn công đoàn cũ của đảng, và xung đột có thể xẩy ra. Chánh quyền lại có cơ hội chụp mũ.

Một thực tế khó khăn nữa là TCĐ thì đi từ trên xuống. Trong một số văn kiện của chánh phủ ghi “cấp cao của BĐD là thuộc cấp của TCĐ ở quận hay tỉnh (trong điều khoảng về biểu tình). Còn BĐD thì đi từ dưới lên nếu sau nầy có một Liên đoàn công nhân độc lập tương đối mạnh và chánh quyền đồng ý thì mới có thể tiến lên cấp cao.

Vai trò và sách lược của chánh quyền. Trong chế độ độc tài toàn trị thì đảng phải nắm lực lượng công nhân. Điều nầy ai cũng biết rõ sự kềm kẹp công nhân trong hơn 50 năm qua, mà ở bên Tàu cũng vậy thôi. Vấn đề đặt ra bây giờ là, thế giới biến đổi, VN phải biến cải. Dưới áp lực của quốc tế nhất là từ các nước tự do dân chủ có đối tác với VN. VN phải thay đổi để có quyền lợi kinh tế. Lần nầy chỉ là bước đầu. Và còn nhiều điều phải cải sửa nhân quyền, tự do dân chủ. Trong đó có công đoàn độc lập.

Có một số điều chánh quyền VN hứa sẽ làm, có một số vấn đề chánh quyền nầy không dễ dàng để làm.

Những qui định chi tiết hóa, như VN hứa sẽ có văn kiện thực hiện Ban Đại Diện (BĐD) vào cuối 2020. Nhưng nay chưa thấy. Theo luật thì BĐD chỉ đăng ký. Nhưng chánh quyền Tỉnh phải được chấp thuận. Như vậy có ý là danh sách phải thông qua. Cán bộ công đoàn tại cơ sở do TLĐ phối hợp chủ nhân lựa ra và vẫn sinh hoạt. TLĐ sẽ nắm các BĐD công đoàn cơ sở như thế nào? Sẽ có những xung đột nào giữa công đoàn quốc doanh và công đoàn chân chánh?

Chánh quyền tìm cách ngăn chận các cuộc biểu tình theo luật mới. Thực sự qui định về biểu tình theo luật mới chỉ có một điểm khác là đình công do BĐD cơ sở hay Liên BĐD tổ chức, nhưng phải xin phép chánh quyền Quận hay Tỉnh cho phép mới được. Theo luật cũ thì muốn đình công phải do công đoàn thuộc TLĐ tổ chức. Và thực tế mấy chục năm không có cuộc đình công nào do TCĐ, mà tất cả đều tự phát (trên 7000 cuộc đình công trong khoảng 10 năm).  Do đó các cuộc đình công đều bị giải tán. Tương lai cũng còn nhiều khó khăn vì nếu không được chánh quyền chấp thuận thi sẽ không thực hiện chánh thức được. Và do đó sẽ có nhiều xô xát, và đàn áp với công an và nhiều người bị tù.

Tiếp theo là chánh quyền VN phải có văn kiện và cho phép thành lập các Ban Tư Vấn cho công nhân theo qui định của HĐ CPTPP và EVFTA. Cho tới nay chưa thấy thực hiện. Các Hội đoàn dân sự có được quyền tham gia vào các Tổ chức này. Và qua các Tổ chức, Hội đoàn chánh thức thì có tư cách liên lạc với các thành viên ngoại quốc có ký ước với VN.

Mặt khác còn phải chuẩn bị đối phó với nhiều cuộc đình công trong tương lai.

Sự phức tạp của “công đoàn mới” và thử thách cho công nhân . Đối với công nhân và các nhà tranh đấu cho công nhân thì sự cải sửa luật lao động kỳ nầy có một sự tiến bộ. Mà luật mới có cải sửa, nhưng phần lớn là các qui định thông thường của quyền lợi công nhân.  Tuy nhiên hãy còn nhiều điều quan trọng chưa đầy đủ. Như công đoàn độc lập thực sự, quyền đình công, và quyền thương lượng tập thể.

Trước hết, nên có văn phòng tư vấn cho công nhân để lo nhiều vấn đề trong đó việc đăng ký thành lập BĐD. Lựa chọn thành viên đúng đắn. Theo dõi và có thể can thiệp việc Công đoàn quốc doanh hoặc cán bộ Lao động của chánh quyền chen vào làm mất tính cách độc lập của BĐD công đoàn.

Các tổ chức tranh đấu cho công nhân ngay bây giờ cần nên theo dõi và góp ý với chánh quyền (theo nguyên tắc có được quyền nầy) về việc thành lập Ủy ban hòa giải lao động, gồm có 15 thành viên,  5 từ chánh quyền, 5 từ các tổ chức  nghề nghiệp, như tổ chức doanh nhân, phòng thương mại, Luật sư đoàn.. và 5 người từ BĐD công nhân. Như vậy phía chánh quyền và thân chánh quyền có tới 10 thành viên. công nhân ở thế yếu, chưa kể trường hợp thành phần đại diện từ công đoàn là từ TLĐLĐ cũ.

Các tổ chức bênh vực công nhân còn phải theo dõi sự thành hình Ban tư vấn từ Hội đoàn dân sự (HĐ CPTPP) và ban theo dõi sự áp dụng HĐ EVFTA  có tên “Domestic Adviory Groups, DAG”, từ các Hội đoàn phi chánh phủ theo như qui định của HĐ EVFTA.

Những cái lờ mờ thiếu sót là sự cố tình. Chánh quyền sẽ dùng nó như cái bẩy hay lợi dụng luật đồng ý cho có để thông qua với các quốc gia thành viên hay tổ chức quốc tế. Rồi sau đó tính sau.

Trên nguyên tắc luật lệ cũng như trên thực tế, quyền lợi công nhân hay công đoàn độc lập thật sự sẽ còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đây cũng là bước có tiến triển mới và công nhân hay các Hội đoàn dân sự thấy đây là cơ hội và cố gắng đẩy mạnh thêm các bước tới trong tương lai.

II. LUẬT LỆ VỀ THAM NHŨNG  

2020 Corruption Perceptions Index reveals widespread corruption is weakening COVID-19 response, threatening global recovery - Transparency International

Việt Nam xếp hạng thứ 104/180 quốc gia năm 2020 về tệ nạn tham nhũng

Tham nhũng tại VN là quốc nạn và bất trị.

Tham nhũng là một vi phạm nhân quyền nghiệm trọng. Vì sự tàn phá của nó không phải chỉ cho một số cá nhân mà còn cho cả nền kinh tế quốc dân. Sự độc hại của nó không phải chỉ về vật chất mà là sự hũy hoại những giá trị đạo đức cho nhiều thế hệ.

Theo World Economic Forum 09/12/2019 thì tham nhũng làm mất đi 2.26  ngàn tỷ mỹ kim  mỗi năm tại các nước đang phát triển. Mà VN là một trong 10 nước đứng đầu tham nhũng.

Ở VNCS vấn đề nầy được nói quá nhiều gần như nhàm chán. Song, trên phương diện bảo vệ giá trị con người, vấn đề còn phải được nêu ra, trên một góc cạnh nào đó. Hôm nay, tôi xin nêu ra đây một khía cạnh của tham nhũng ở VN. Đó là hệ thống luật lệ và việc thi hành luật lệ bài trừ tham nhũng trong gần đây, giai đoạn mà VN đã có những cam kết với quốc tế qua các Hiệp định mậu dịch.

1. Tóm tắt  luật lệ và chánh sách chống tham nhũng của VN

VN ký nhận vào Công ước quốc quốc tế chống tham nhũng (United Nation Convention against Corruption (UNCAC) vào năm 2003. Đây là một trong 19 Công ước quốc tế quan trọng chống vi phạm hình sự. Công ước nầy được đại Hội đồng LHQ thông qua tháng10-2003 và có hiệu lực ngày 14-12-2005.

Công ước nầy rất nhiều điều khoản mà các quốc quốc gia thành viên phải tôn trọng.

Trong các điều khoản đó có điều 13, nói về “sư tham gia của cộng đồng xã hội” (participation of the society). Theo đó các quốc gia thành viên phải khuyến khích và cam kết để cho các cá nhân và Hội đoàn dân sự tham dự vào công cuộc chống tham nhũng.

Nhưng mãi đến năm 2009, VN mới phê chuẩn Công ước và có hiệu lực từ 18-9-2009.

Điều 13 của công ước qui định chi tiết như sau: “Mỗi quốc gia phải có những biện pháp thích hợp, tùy theo phương tiện và nguyên tắc luật pháp của mình, vận động sự tham gia của các cá nhân và tập thể ngoài chánh quyền, như Hội đoàn dân sự (civil society), tổ chức phi chánh phủ (non-government organization), và tổ chức cộng đồng (community- based organization), vào việc ngăn ngừa và tranh đấu chống tham nhũng”.

Điều 13 của Công ước cũng còn có biện pháp khuyến khích sự tham gia của dân chúng như là gia tăng sự minh bạch trong tiến trình làm luật lệ, trong sự tiếp thu tin tức từ chánh quyền, giáo dục dân chúng về chống tham nhũng. Đó là các điều tổng quát cho mọi quốc gia.(Theo bài viết của Transparence International, Ensuring participation of society in corruption fight in Vietnam, do báo Vietnam Law đăng ngày 26/4/2016).

Còn với VN thì chánh quyền có làm trách nhiệm theo Công ước mà VN đã ký không?

Trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao VN gởi cho LHQ về việc thi hành công ước nầy có xác nhận VN  thi hành công ước theo sự phối hợp với Luật quốc nội của VN. Tức là linh động.

Năm 2005 VN ban hành luật và Nghị định 47 chi tiết hóa luật nầy về phòng chống tham nhũng (Anti corruption Law), và luật được bổ sung năm 2007 và 2012. Chương VI của luật nầy nói về “Vai trò và trách nhiêm của xã hội trong việc phòng và chống tham nhũng”.

Tuy nhiên, theo luật Phòng chống tham nhũng của VN thì trong điều nói về “sự tham gia của xã hội” (participation of society) thì thành phần xã hội mà chánh quyền cho tham gia gồm bốn thứ tổ chức: 1.Mặt trận tổ quốc, 2.Báo chí, 3.Hội đoàn kinh doanh và Hội chuyên gia.4.Ban kiểm sát  nhân dân (cấp địa phương). Bốn thành phần trên của luật VN thì không phản ánh đúng tinh thần công ước UNCAC. Sự thiếu sót quan trọng là các Hội đoàn dân sư (Civil society organization) và Hội đoàn phi chánh phủ (non-governmental organization) độc lập.

Như  một điều lờ mờ khác theo kiểu Luật XHCN là: Nghị định 47 chỉ nói các hội đoàn có qui định được quyền có ý kiến. Nhưng không nói rõ ý kiến có giá trị gì không hay chỉ góp ý cho vui. Thứ hai là không có sự bình đẳng giữa chánh quyền và các hội đoàn trong sự trao đổi ý kiến. Thứ ba là cái quyền và sự bảo đảm sự tham gia của Hội đoàn để chống tham nhũng, nhứt là sự bảo vệ người tố cáo tham nhũng, không rõ ràng, thiếu hướng dẫn, thiếu khuyến khích.

2.  Việc thi hành luật lệ bài trừ tham nhũng

Trên thực tế sự hành luật bài trừ tham nhũng có nhiều sai trái. Nó chánh yếu là để bảo vệ đảng, để dối dân và quốc tế, là sự thanh toán giữa các đảng viên, vì tranh giành quyền lợi và chức vị.

Theo báo cáo của cơ quan quốc tế, thì trong vài năm gần đây tình trạng tham nhũng không giảm, chỉ có một số vụ tham nhũng lớn bị xử phạt. Như chúng ta đã biết.

Trong thi hành luật điều 13 (sự tham gia của xã hội) gần như không thực tế, chỉ có bề ngoài, như phần lớn luật lệ XHCN. Luật lệ thành văn và sự thi hành luật là hai việc khác nhau.

Bốn “tổ chức gà nhà” được cho phép tham gia ý kiến nói ở trên, từ nhiều chục năm nay không thấy đã góp ý kiến gì đáng kể cho việc xây dụng và bảo vệ công nhân.  Mặt trận Tổ quốc Báo chí Hội nghề nghiệp như mọi người biết đều là đảng viên cao cấp .

Quốc Hội trong vai trò quan trọng là chống tham nhũng, cũng chỉ thỉnh thoảng có vài ý kiến chống các vụ tham nhũng, nhưng cũng chỉ nghe qua rồi bỏ.

Phong trào chống tham nhũng được đảng phát động mạnh mẽ trong vài năm qua  thì các vụ bị xử lý đều do đảng đưa ra. Không có vụ nào từ dân chúng hay Hội đoàn dân sự. Và theo luật đảng thì các viên chức cấp cao, Tổng trưởng, Bí thư tỉnh.. chỉ được thanh tra chánh phủ mở cuộc điều tra khi đảng cho phép.

Quyền được bảo vệ người tố cáo tham nhũng không được tôn trọng, mà còn ngược lại. Người dân sợ tố tham nhũng, vì sợ bị trù dập.

Những dự án lớn giao cho Trung cộng làm mà không có đấu thầu công khai gây thiệt hại hàng tỷ Mỹ kim.

Tình trạng tham nhũng hiện nay. Chúng ta biết tình trạng tham nhũng ở VN quá khủng khiếp. Và chúng ta cũng đã biết nguyên nhân chánh yếu của tham nhũng ở VN là từ bản chất và sự vận hành của chế độ CS.

Hệ quả nghiêm trọng của nạn tham nhũng về kinh tế và xã hội

Tham nhũng đưa tới hệ quả cực kỳ to lớn cho nền kinh tế và cả về mặt xã hội.

Theo các cơ quan quốc tế, mỗi năm nền kinh tế thế giới bị thiệt trên 1000 tỷ mỹ kim do tham nhũng.

Luật lệ về phòng chống tham nhũng ở VN quá nhiều và sự hô hào khẩu hiệu đánh tham nhũng cũng kêu to lên. Nhưng thực tế, mọi người cho rằng như các vở kịch thôi, không giải quyết được gì cả. Vì cái gốc sinh ra tham nhũng là từ chế độ .

Qua một số vụ tham nhũng lớn gần đây, một số rất ít trong quốc nạn nầy, chúng ta có thể biết hệ quả tham nhũng quá lớn trên nhiều mặt.

Vài thí dụ : Công ty quốc doanh Gang thép Thái nguyên, mất trên hai ngàn tỷ. Công ty MobiFone mất hơn ngàn tỷ. Đường xe lửa cao tốc Hà đông-Cát linh thiệt hại  trên 500 triệu đô. Xa lộ Đà nẳng-Quảng ngải mất mát gần ngàn tỷ…Và nhiều nữa như Khu đô thị mới Thủ thiêm, khu đất Cần giờ.. Nếu không bị tham nhũng số tiền quá lớn trên có thể làm được nhiều trường học, bịnh viện và cải tiến nông thôn.

Về việc thu hồi tài sản do tham nhũng trên thực tế quá ít. Mặc dù có bắt được một số tham nhũng, nhưng thực sự thu hồi theo luật, chưa đầy 20% trị giá tài sản cdo tham nhũng cướp đi. Như vậy phần lớn tài sản tham nhũng được chuyển ra ngoại quốc, hay nhập vào tích sản của các công ty sân sau của đảng viên cao cấp.

Trên bình diện quốc nội, tham nhũng còn là gây bất công kinh tế xã hội. Và tạo ra sự cách biệt giàu nghèo càng ngày càng lớn hơn nữa.

Trên bình diện quốc tế, tham nhũng to lớn đem lại hai hậu quả chánh là mậu dịch và đầu tư ngoại quốc bị giảm sụt. Mặc dù trong biến chuyển kinh tế thế giới ngày nay, VN có nhiều thuận lợi hơn cho sự thu hút đầu tư ngoại quốc. Tuy nhiên, nhà đầu tư ngoại quốc thường xem tham nhũng như là một trở ngại. Nhất là các công ty từ Hoa kỳ và Âu châu. Và bất cứ sự suy giảm nào về hợp tác kinh tế với Tây phương, đều có lợi cho TQ. TQ càng gia tăng mức độ hợp tác với VN thì tham nhũng càng tăng. Đó là vòng lẩn quẩn và thế kẹt của VN với TQ hiện nay.

Chúng tôi vừa trình bày rất tóm tắt hai vấn đề rất quan trọng mang lại nhiều tiêu cực nhất cho sự phát triển VN. Đó là vấn nạn công đoàn và vấn nạn tham nhũng. Dù có vài cải đổi. Nhưng nguyên nhân thay đổi không phải từ sách lược của CSVN, mà từ nhiều  loại áp lực từ bên ngoài.

Nhìn từ góc độ nào, từ một cảm nghĩ chủ quan hay khách quan, hoặc từ yếu tính lịch sử, thì VN cần phải thay đổi thật sâu rông.

Giờ thì lại một tháng tư thứ 46. Thời gian tương đối khá dài cho một chánh thể độc tài. Cái bản chất, mục tiêu và cách thức hành động căn bản là vẫn thế. Những cái không thay đổi là cốt lõi. Những cái thay đổi là cái vỏ ngoài. Những sắp xếp cứ 5 năm một lần, chỉ là một mô hình chánh trị mang tính hài kịch mà người dân không buồn xem.

Nhưng sự thay đổi theo lòng dân và con đường đi tới của dân tộc là không có gì cản được.

Vận mạng dân tộc đã có nhiều cay nghiệt trong quá khứ, nhưng mỗi lần như vậy không phải là một bế tắc sau cùng.

Nguyễn Bá Lộc

Cali , tháng tư thứ 46– 2021.

Visits: 69

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

Thơ Trần Văn Lương

 

Dạo:

Xưa tuôn máu giữa chiến trường,

Nay tuôn lệ giữa quê hương không còn.

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

 

Từng bước lẻ ngập ngừng theo tiếng nạng,

Nắng xoay chiều, chập choạng bóng thương binh.

Đích viếng thăm bỗng xuất hiện thình lình,

Người chưng hửng, tưởng rằng mình hoa mắt.

     

Sửng sốt nhìn quanh quất,

Tự hỏi mình có thật đến đúng nơi,

Xưa kia đã một thời,

Mình chấp nhận xương rơi cùng máu đổ?

 

Mấy mươi năm gian khổ,

Lất lây kiếm sống ở đô thành,

Cố chắt bóp để dành,

Làm một cuộc du hành thăm chốn cũ.

     

Muốn tìm tới chỗ mình từng tử thủ,

Cùng bạn bè chống lại lũ Cộng quân,

Để giữ gìn lãnh thổ, bảo vệ dân,

Và đã bỏ một phần thân thể lại.

 

Nhờ ít mốc thiên nhiên còn tồn tại,

Mò mẫm ra nơi đóng trại năm nao,

Nhưng còn đâu bao cát, thép gai rào,

Cùng hệ thống giao thông hào phòng thủ.

     

Lặng cúi đầu ủ rũ,

Hình ảnh xưa vần vũ kéo nhau về.

Mắt khép hờ, vật lộn với cơn mê,

Ôn lại trận đánh mùa hè năm đó.

                       *

                  *          *  

Trời rực cháy, mênh mông màu lửa đỏ,

Giặc cùng ta đụng độ suốt đêm ngày,

Súng lúc nào cũng nạp đạn luôn tay,

Xác chết cứ chất đầy như rơm rạ.

     

Trận đánh cuối thật vô cùng vất vả,

Cộng quân đông gần gấp cả chục lần,

Dùng biển người, không ngần ngại thí quân,

Nhưng vẫn bị ta cầm chân từng phút.

     

Đạn lớn nhỏ hai bên giành nhau trút,

Máu đào loang như nước lụt mùa mưa,

Mình kiên trì chống cự, gắng cù cưa,

Cả đại đội chỉ còn chưa đến chục.

    

Bạn bè thi nhau ngã gục,

Viện binh may vừa gấp rút đến nơi,

Thêm không quân tới yểm trợ kịp thời,

Quân ta dẹp tan biển người của giặc.

                       *

                  *         *

Tiếng cãi vã xé toang màn nắng gắt,

Người giật mình mở mắt thoáng nhìn quanh,

Đâu đấy toàn chuyện dối trá gian manh,

Lòng chợt tiếc thời giao tranh chống địch.

 

Chiến trường cũ giờ thành nơi du lịch,

Chẳng còn gì là vết tích ngày xưa,

Dân tình nay cũng quen thói lọc lừa,

Chuyện đạo đức như chưa hề hay biết.

 

Trẻ đua đòi trắc nết,

Già mải miết ăn chơi,

Ngày mất nước tới nơi,

Không một lời thắc mắc.

               

Người uất ức, sắc mặt dần tái ngắt,

Muốn hét lên, nhưng vắt chẳng ra lời,

Ngực phập phồng, dòng đau đớn chợt khơi,

Buồn so sánh hai cảnh đời trái ngược.

     

Cán bộ với bọn Tàu tiền như nước,

Cậy thế cậy quyền, ngang ngược khắp nơi,

Trong khi dân kiếm cả mấy tháng trời,

Không bằng chúng xài chơi trong thoáng chốc.

 

Rồi cố nén nỗi sầu đang chực bốc,

Nhìn người già cực nhọc đạp xích lô,

Kẻ tật nguyền, gầy ốm tựa xương khô,

Ôm vé số co ro ngồi rao bán.

     

Nhưng khi thấy đám mang danh “tỵ nạn”,

Kéo nhau về nhan nhản, miệng huyên hoa,

Người thương binh không kềm được xót xa,

Khối tuyệt vọng vỡ oà trên nạng gỗ.

Trần Văn Lương (CH 8)

Cali, đầu mùa Quốc Hận 2021   

Visits: 318

Mấy Bài Thơ Ngắn Tháng Ba 2021

Thơ Lê Văn Bỉnh

Chút Nụ Ngượng Ngùng

Mấy cành hoa đầu xuân

Chui trốn ngày tháng dài dịch lạnh

Hé chút nụ ngượng ngùng

 

Mắt Đỏ

Lệ em không đủ nhỏ

Cho quê hương đau khổ triền miên

Xem phim cho mắt đỏ

 

Tù Ngục Thêm

Người giam gữ đời em

Giờ đây đã ra đi vĩnh viễn

Em thấy tù ngục thêm

 

Lao Mình Vào Không Trung

Anh vội ra balcon

Trốn không khí trong phòng nghẹt thở

Lao mình vào không trung

 

Cội Nguồn

Lén qua Vườn Địa Đàng

Adam và Eva đang quấn quít

Ta thương yêu cội nguồn

 

Hạnh Phúc

Hạnh phúc trên cành cao

Như đôi chim giúp nhau rỉa cánh

Rồi vụt bay thật mau

 

Mắt Sáng hay Mù Lòa

Tám thập niên đã qua

Bước tới nghĩ lui đời nhanh chậm

Mắt sáng hay mù lòa

 

Tưởng Niệm

Chúng ta thường tưởng niệm

Những đồng đội anh dũng ra đi

Để thấy lòng khâm liệm

 

Lê Văn Bỉnh

tháng 3/2021

Visits: 77

Hy Vọng Khởi Đi Từ Màu Đen

Nguyễn Quang Dũng

1.

Tháng 5 1981. Tôi và vợ cùng hai đứa con, một trai một gái, quyết định vượt biển, vượt thoát khỏi quê hương Việt Nam khốn khó đang sống ngột ngạt trong cuộc đổi đời dưới chế độ kiểm soát tù tội của chính quyền cộng sản từ phương bắc.

Đây là lần vượt biên thứ tư của gia đình tôi, ba lần trước đều bị bỏ rơi, phải trở về, may mắn là không bị bắt, cũng như chưa ra biển.

2.

Lần này, chuyến vượt biên thành công. Chiếc tàu nhỏ dùng chạy đường sông được sửa mủi tàu để có thể vượt sóng biển, thoát khỏi lòng sông ở cửa Cần Giờ, Long An, trực chỉ biển lớn.

Những người tổ chức của chiếc tàu vượt biên mang theo 60 người, mãi mấy ngày sau tôi mới biết, chỉ có một kế hoạch duy nhất là chạy ra hải phận quốc tế và tìm tàu lớn để mong được cứu vớt. Chúng tôi mất đúng năm ngày đêm chỉ để thực hiện được mục tiêu này: Chạy được tới hải phận quốc tế, tìm thấy được nhiều chiếc tàu hàng hải lớn. Nhưng duy chỉ là mỗi lần xả máy lại gần để cầu cứu thì những chiếc tàu sắt lớn này im lặng lừng lững bỏ đi, không hề quan tâm đến những dấu hiệu S.O.S của chúng tôi.

Ngày thứ sáu lênh đênh giữa biển khơi trong những cuộc đuổi bắt và cầu cứu vô vọng, tôi biết được từ người tổ chức là chiếc tàu nhỏ của chúng tôi đã gần cạn xăng dầu và nước uống. Sẽ phải ngưng lại việc rượt đuổi theo tàu lớn và nước uống sẽ được phân phối hết sức hạn chế .

Những mệt mỏi. lo âu và thất vọng hiện ra ở gương mặt mỗi người lớn. Những đứa nhỏ nằm la liệt trên sàn tàu, ói mửa, hốc hác…

Tối hôm đó. Biển động.

Trời đen.

Biển đen.

Những con sóng đen ngòm, với độ cao và độ nghiêng đến chóng mặt.

Lần đầu tiên trong đời, tôi ở trong lòng biển động, giữa trùng khơi sâu thẳm.

Tôi sống ở Nha Trang từ nhỏ. Biển vẫn là niềm vui và gần gủi trong đời sống của tôi. Khi lớn lên, hàng ngày trước khi đi học, tôi thường ra biển từ sáng sớm để ngụp lặn bơi lội trong làn nước xanh mặn mát ấm. Biển do vậy là những nỗi niềm thân thiết rất riêng tư của tôi. Tôi biết Biển có những lúc là Biển của hiền hòa yên tĩnh, cùng nhịp với tiếng gió thông reo hay ánh trăng đêm rằm nhẹ nhàng tỏa sáng mặt biển đêm. Tôi biết Biển có những khi gầm thét, hung dữ trong những ngày bão lớn với những con sóng xám đen cao ngất lừng lững từ xa chạy vào và đập vỡ tung bờ cát trắng.

Nhưng tôi chỉ mới biết Biển khi chân tôi đứng trên mặt đất yên ổn nhìn Biển cuồng nộ. Chưa một lần tôi cảm nhận được cái nhỏ bé mong manh đến không tưởng của chiếc tàu nhỏ  như một cọng rơm giữa biển đen sóng dậy. Không một chỗ tựa. Tôi nhìn thấy chung quanh tôi là biển nước đen ngòm hun hút đến tận trời xa đen thẳm. Biển động đang sắp sửa nhận chìm chúng tôi xuống đáy biển sâu!  Ý tưởng đó, sắc như con dao nhọn bén, đâm thẳng trong đầu tôi.

Sợ hãi ập tới. Như con sóng lớn đen ngòm kia đang ập tới, nhận chìm và chiếm ngự  tôi trọn vẹn. Không gì cản nỗi.

3.

Sợ hãi là một thứ tình tự lạ lùng và ma quái. Tôi nhận ra trong đời tôi, tôi có nhiều nỗi sợ linh tinh, thường là những dấu hiệu báo trước một loại hiểm nguy hay bất trắc nào đó tôi nhắc tôi nên tránh. Tôi gọi nó là sợ hãi nhỏ. Thường vì nhỏ nên chuyện vượt qua loại sợ này cũng là chuyện nhỏ.

Nhưng tôi cũng nhận ra sự hiện hữu của một thứ sợ hãi với mức độ và tầm cỡ kinh khủng, ảnh hưởng và tác động cùng lúc trên nhiều người. Thứ sợ hãi này liên quan đến những biến cố lớn trong đời sống mỗi người.  Và cũng thường tình, người ta dùng màu đen để diễn tả một cánh ngắn gọn nhưng đầy đủ về những biến cố mang tính phá hoại hay bi thảm này. Tháng Tư Đen chẳng hạn, tên gọi ngắn cho  biến cố 30-4-1975, nhận chìm hàng triệu người miền Nam Việt Nam trong bóng đen của sợ hãi, chết chóc và bi thảm trong thân phận những người thua trận và mất nước.

Trải qua và vượt qua biển nước mênh mông đen kịt tối hôm mưa gió đó, tôi nhận ra tại sao màu đen gắn liền với sợ hãi trong tôi bấy giờ:

Đơn giản bởi vì tôi sợ những gì tôi không hình dung, không thấy được.

Biển động ngoài trùng khơi xa thẳm hôm đó chỉ toàn là một màu đen.

Biển đen. Trời đen.

Trong bóng tối, tôi không nhìn thấy được gì ngoài màu đen. Và chính trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra tôi không là gì hết khi đem cái hữu hạn của tôi đặt trước cái vô cùng của trời đất. Những gì tôi biết, tôi thấy, không là gì hết trước khoảng không của hằng hà vô số những gì tôi không thể biết và không thể thấy.

Chỉ như vậy: Tôi sợ.

 

4.

Tháng 4 năm 2020, Tháng Tư Đen của cả thế giới.

Con vi khuẩn nhỏ nhưng với khả năng phá hoại khủng khiếp đã làm cả thế giới sợ hãi.

Cho đến nay, đầu năm 2021, hàng triệu người chết. Hàng triệu người bị lây nhiễm phải nhập viện và vất vả chiến đấu tồn sinh. Đời sống và sinh hoạt thường nhật bị xáo trộn đến cùng cực. Lệnh cách ly và hạn chế mọi sinh hoạt tụ họp hay sinh hoạt mang tính giao tiếp làm mọi người co rúm trong sợ hãi.

Cha mẹ con cái xa cách ông bà. Người yêu người không còn biểu hiện ở những xiết chặt của vòng tay ôm, không còn những nụ hôn gần gũi ngọt ngào, không còn những nụ cười vui. Không còn ai thấy ai. Tôi có cảm tưởng dường như những ngày tháng của Tháng Tư Đen 46 năm trước lại trở về. Người xa người trong những chia xa, ngăn cách.

Và tôi cũng nhận ra len lõi đâu đó trong tâm trí dường như là nỗi sợ hãi khi đối diện với nhiều điều tôi không biết, không thấy được và không lường trước được. Con vi khuẩn nguy hiểm lây lan trong không khí là kẻ thù độc hại và khi nhìn thấy nó thì đồng nghĩa là tôi đã gục ngã. Nỗi sợ hãi này không khác gì nỗi sợ lúc tôi ở trong lòng biển đen trong chuyến vượt biển năm nào.

Chỉ khác một điều: Vào Tháng Tư Đen 1975 tôi biết rất ít về những gì sắp sửa xảy ra trong lúc ở Tháng Tư Đen 2020 thông tin về dịch bệnh lại nhiều đến mức không tưởng. Các cơn bão thông tin này với những phương tiện truyền thông hiện đại từ những chiếc điện thoại cầm tay nhỏ xíu lan truyền đi rộng rãi, khuếch tán lớn thêm mãi về cái hữu hạn của kiến thức loài người hay những-điều-không-biết của con người đứng trước bệnh tật.

5.

Nhưng điều tôi chưa viết ở đây là tối hôm biển động trong chuyến vượt biên của tôi và gia đình, đêm tối tôi tưởng là đã vùi thây trong lòng biển như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác trên đường tìm tự do, biển lớn hay Trời Phật đã nhẹ tay không dìm chết những sinh mạng nhỏ nhoi kia, trong đó có tôi, đang loi ngoi trên làn nước mênh mông. Và còn ban phát những giọt nước cứu tinh.

Là mưa. Những giọt nước mưa lúc đó quý hơn vàng. Trong đêm tối, mưa ướt ngọt trong môi miệng tôi. Chúng tôi loay hoay hứng mưa dự trữ nước uống, cộng thêm kinh nghiệm của người lái tàu biết cách cỡi sóng và nhờ vậy cầm cự, sống sót thêm được vài ngày. Hai ngày sau, sau khi bàn thảo rút kinh nghiệm, chúng tôi đổi cách cầu cứu: Chiếc tàu nhỏ của chúng tôi sẽ ngừng máy, thả neo, đốt khói đen, giăng bản vải S.O.S và khi thấy tàu hàng hải lớn thì những người biết bơi sẽ nhảy xuống biển vẫy tay kêu cứu.

Kế hoạch này thành công một nửa: Một tàu hàng hải của Trung Cộng đã dừng lại cung cấp cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: thức ăn, nước uống, xăng dầu và quan trọng nhất là bản đồ hàng hải hướng dẫn chúng tôi đi đến Mã Lai. Họ không cứu chúng tôi âu cũng là may mắn vì dĩ nhiên là chúng tôi không muốn chạy họa cộng sản lại đến một xứ cộng sản khác.

Bốn ngày sau đó chúng tôi tấp vào thương cảng Singapore thì bị tàu tuần quốc gia này kéo ngược ra, bảo là họ không nhận người tỵ nạn từ Việt Nam, họ khuyên chúng tôi đi đến Phi Luật Tân. Không còn cách nào khác hơn, tàu chúng tôi đâm vào bờ biển Mã Lai, thả người vào bờ và đục tàu, đánh chìm chiếc tàu nhỏ. Sáu chục thuyền nhân của tàu chúng tôi sau đó cũng gia nhập đại gia đình của người Việt tỵ nạn tại đảo Pulau Bidong.

 

6.

Tôi nhận ra trong tuyệt vọng của đói khát và đối diện với tử vong trong chuyến vượt biển năm nào thì hy vọng đến cho tôi cơ hội tiếp tục tồn sinh.

Đến bây giờ có một lý lẽ rất đơn giản mà tôi trực nghiệm từ những trải nghiệm của đời sống là tôi luôn sống trong cái hữu hạn của kiếp người. Cái biết của tôi không là gì hết trong cái vô hạn của Trời Đất.

Cũng cho đến bây giờ tôi vẫn còn tự hỏi: Làm sao tôi còn sống sót trong lúc hàng trăm ngàn người vượt biển tìm tự do  như tôi vùi thây trong lòng biển sâu? Có chăng Trời Phật với những sắp xếp mà loài người không biết được?

Và tôi cũng như triệu tỷ người khác trên trái đất này là những kẻ không-hiểu-gì, loay hoay cả đời trong những tất bật mang tính đối cực, nhị nguyên, cái lý lẽ hai-mặt-của một-đồng-tiền: Sáng-Tối. Vui-Buồn. Sướng-Khổ. Thăng-Trầm. Giàu-Nghèo. No-Đói. Trẻ-Già. Khóc-Cười. Sống-Chết…

Nhưng có một điều tôi hiểu rõ, một cách chắc chắn, là không khi nào tôi có thể ở mãi trong một mặt của đời sống. Tôi không thể có bình an mãi được vì đời sống vốn đầy dẫy những bất an giăng bủa chung quanh. Tôi không thể sống khỏe mãi được vì hàng triệu vi khuẩn gây đủ thứ bệnh tật tìm đủ mọi cơ hội để xâm nhâp các cơ quan chức năng của cơ thể tôi. Và không chóng thì chầy thì tôi sẽ chết vì lẽ đơn giản tôi không thể sống mãi được. Vậy thì tại sao tôi phải sống co rúm trong sợ hãi vì mãi lo bám víu một mặt nào đó của cái đồng-tiền-hai-mặt?

Cũng như trong bóng tối mênh mông của đêm trên biển động tôi tìm thấy hy vọng từ những giọt nước của Trời. Và sau đó là ánh sáng và bình lặng của Biển lớn.

Cũng như lúc này, ở đây,  trong trắng lạnh của tuyết giá một ngày cuối năm âm lịch tôi nhìn thấy con chim anh vũ đỏ từ đâu bay lượn về đáp xuống trước sân nhà bình thản  ngắm tuyết rơi.

Ơ hay! Nếu tôi không biết gì về cái lẽ chuyển vận vô hạn, vô cùng của Trời Đất, của Sống và Chết, thì không có lý do gì tôi phải sống trong lo sợ và bám víu. Buông Xả tôi sẽ Nắm Bắt được Cái Đẹp của màu đỏ con chim Anh Vũ trên màu trắng của Tuyết.

Còn gì cần thiết phải nghĩ ngợi lôi thôi?

Nguyễn Quang Dũng

tháng 2/2021

Visits: 122

Vợ Vắng Nhà Và Chuyện Nàng Hoa Phượng       

Truyện vui Phạm Thành Châu

Có một triết gia đã nói một câu mà quí ông rất thích “Người đàn ông có hai lần hạnh phúc. Lúc cưới vợ và lúc trở lại thành độc thân” Vì sao? Vì vợ nói nhiều quá và bị (phải) ăn các thứ vợ nấu. Vợ nói nhiều xảy ra từ thời con người còn ăn lông, ở hang. Đàn ông muốn săn thú rừng phải im lặng. Gây tiếng động thì con thú chạy mất! Trong lúc quí bà, trong hang đá “Tùng tam tụ ngũ”, chuyện trò với nhau, chờ chồng đem thịt rừng về nhậu. Đó là xét theo khảo cổ học. Theo nghiên cứu khoa học, thì trường y khoa Indiana ở Indianapolis cho biết, đàn ông chỉ dùng nửa bán cầu não, có tên là Temporal Lobe để nghe và nói. Các bà thì dùng cả hai bán cầu não. Bởi thế các bà học ngoại ngữ rất tài và có thể nói suốt ngày đêm không mỏi miệng. Còn theo thống kê thì mỗi ngày, quí ông, trung bình, nói hai nghìn (2,000) tiếng. Quí bà nói năm nghìn (5,000) tiếng. Đa số là để la lối với chồng con và “Thế hả?” với các bà bạn trên điện thoại. Đức Khổng Phu Tử kính mến đã nhiều lần thở dài mà rằng “Ba bà thành cái chợ!” Có ông kia, đi uống cà phê với bạn, báo tin.

– Tôi sắp li dị vợ.

Hỏi vì sao? Ông ta thở dài.

– Nó không hề mở miệng nói với tôi lời nào!

Các ông cười, chế nhạo.

– Xạo hoài! Liên Hiệp Quốc vừa công bố: Sinh vật quí hiếm (người vợ ít nói) đó đã tuyệt chủng từ lâu rồi!

Ông khác thì theo năn nỉ.

– Ông muốn vợ nói nhiều thì đổi vợ cho tôi đi. Vợ tôi nói nhiều quá. Chịu hết nỗi. Khi ngủ nó cũng “mớ”, miệng lảm nhảm suốt đêm.

–  OK! Đổi thì đổi, nhưng không được trả lại.

Một ông khác khoe.

– Tôi có cách làm bà vợ hết nói. Để tôi kể cho quí vị nghe. Vợ tôi cũng nói cả ngày lẫn đêm. Một buổi tối, lên giường, tôi nói. “Em chiều anh đêm nay,được không?” Nàng hỏi. “Trong bao lâu?” Tôi nói “ Suốt đêm nay” Nàng hỏi “Sao bữa nay hăng quá vậy?” Tôi nói “Em cứ nhắm mắt ngủ. Đừng nói gì hết! Chuyện đó để anh lo” Nàng vui vẻ nhắm mắt ngủ (trong thế chờ!). Tôi cũng ngủ một giấc đến gần sáng thì thức dậy sửa soạn đi làm. Nàng chợt thức giấc, ngạc nhiên và giận dữ. Nói “Suốt đêm ông ngủ khò. Bắt tôi đi ngủ sớm mà có làm gì đâu? Bây giờ, dậy sớm để chạy làng phải không?” Tôi nói “Anh cần em chiều anh, là đi ngủ sớm, đừng nói gì cả để anh ngủ yên, lấy sức, sáng nay đi làm sớm”

Mấy ông gật gù.

– Hay. Hay! Rồi sao nữa?

– Thì nàng níu áo, bắt đền. Tôi “phải trả nợ quỉ thần”, lại đi làm trễ giờ.

Đọc đến đây, làm gì cũng có bà tức giận.

– Bộ các ông không nói nhiều sao?

– Xin thưa quí bà. Có ạ! Đó là cố đồng chí chủ tịch Phidel Castro của nước Cuba, từng đọc một bài diễn văn dài hơn 3 tiếng đồng hồ trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.. Và mới đây thôi đồng chí Kim Jong Un chủ tịch Bắc Hàn, thay vì đọc lời chúc Tết đầu năm 01-01-2020, đồng chí Un kính mến họp Hội Nghị Quân Ủy Trung Ương Mở Rộng, đã đọc một bài diễn văn dài bảy (7) tiếng đồng hồ. Đồng chí nào ngồi nghe mà ngáp hoặc ngủ gục thì tức khắc bị lôi ra, cho đi tàu suốt, ra nghĩa trang buồn, nằm nghe dế kêu.

Quí bà lắm lời trong nhà là chuyện bình thường. Vậy chứ có bà nào nói nhiều trước công chúng không? Nhiều lắm! Điển hình như tờ Spunik cho tin. Ngày 01 tháng 2 năm 2020, bà Bộ trưởng Tài chính Sithraman phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ dài 2 giờ, 38 phút khiến các ông nghị sĩ ngáp dài vì quá ngán.

Vợ hắn thì hơn các bà khác. Vừa nói vừa nạt vừa đánh chồng. Đi làm về, đã thấy nàng đứng chống nạnh với cái chổi lông gà.

– Ông nhìn đồng hồ coi! Giờ nầy mới mò về. Theo con đĩ chó nào mà về trễ cả nửa giờ? Đừng nói kẹt xe với tôi.

Và nàng vung cái chổi lông gà lên. Chỉ một cái lắc mình, hắn đã đứng xa nàng hai trượng, vòng tay thủ lễ.

– Tiểu nhân có điều gì thất thố, xin phu nhân lượng thứ!

Nàng bậm môi, tung chổi, tấn công liền. Hắn lùi lại.

– Tiểu nhân đi đây!

Rồi dùng thuật phi hành phóng chạy. Nàng ì ạch, như con vịt bầu, đuổi theo, miệng nheo nhéo.

– Đồ đàn ông mất nết. Có giỏi thi đứng lại!

Hắn chạy quanh nhà, nàng nổi xùng (ì ạch) đuổi tiếp. Vợ hắn hơi nặng cân, cỡ một tạ (100 kí lô). Bác sĩ bảo nàng phải chạy bộ mới bớt mập. Nàng hỏi.

– Tôi rượt ông xã tôi, có được không, bác sĩ?

Ông bác sĩ gật gù.

– Hai ông bà cùng chạy thì tốt quá, nhưng coi chừng, ông ta chạy luôn đến nhà bà khác thì phiền.

Hắn rất muốn giúp nàng giảm cân nên hắn chạy trước, nàng đuổi theo quanh nhà. Được một năm thì kết quả thật đáng kinh ngạc: Nàng sụt mất một nghìn (1,000) milligrams! Một lý do khác để nàng có dịp rượt đánh hắn, là vì hắn có máu dê. Ra đường, thấy người đẹp đưa ngực, đưa đùi, là hắn nhìn sửng “Bước đi rồi, con mắt còn có đuôi…” Nàng giận tím mặt. Về nhà, mới bước xuống xe, là nàng dùng hai ngón tay, kẹp miếng thịt bên hông hắn, vặn tréo, miệng đay nghiến.

– Tật dê không chừa! Tôi hỏi ông. Tôi khác mấy con chó cái đó chỗ nào mà ông nhìn muốn rớt con ngươi? Khác chỗ nào? Hả? Nói mau!

Hắn nói.

– Khác nhiều chỗ lắm!

Rồi tuông chạy, nàng lại rượt hắn.

Một lần khác, hắn đưa vợ đi chợ. Thông thường, hắn đẩy xe theo sau vợ. Vợ hắn muốn mua gì thì bốc bỏ vô xe. Hắn bỗng thấy một nàng đi vào chợ với đôi gò bồng đảo to, để lộ một nửa đồi ngực trắng hồng như hai trái bưởi (đã lột vỏ). Hắn như người mất hồn, đẩy xe theo cô ta đễ nhỉn trộm cái ngực bự, quên cả thế gian. Vợ hắn quay lại không thấy chồng, đi tìm, thấy hắn đứng nhìn sửng ngực người đẹp. Nàng kéo tai hắn, lôi đi. Về nhà, nàng đóng cửa lại, bắt hắn nằm sấp xuống xô pha, trở cán chổi lông gà. Vừa nhịp trên mông hắn vài cái là hắn đã mếu máo khóc như em bé. Vợ hắn tức cười nhưng làm nghiêm.

– Uả! Biết tội gì chưa? Đã đánh đâu mà khóc? Nín ngay! Tại sao thấy con đàn bà nào có ngực bự là ông cứ theo nhìn mê man, quên cả vợ con?

Hắn trả lời.

– Ngực nhỏ, nhà mình có rồi!

Nói xong hắn lại vùng dậy, tung cửa chạy ra đường.

Một hôm, nàng bảo hắn đi mua vé máy bay để nàng về Việt Nam thăm các dì của mấy cháu. Hắn hỏi.

– Em đi mấy ngày?

Nàng đáp.

– Một tháng!

Hắn tưởng mình đang nằm mơ, thấy Bụt hiện ra nói với hắn, (như trong truyên cổ tích) “Ta nói thế là để thử lòng nhà ngươi đấy thôi!” Nhưng đó là sự thật, không phải là giấc mơ. Hắn vội chạy đi mua vé máy bay, sợ nàng đổi ý thì mất vui. Hắn về, đưa vé máy bay cho nàng, mặt buồn thiu, cất tiếng hát “Em đi rồi… còn ai vuốt tóc tôi?” Hắn có tâm hồn nghệ sĩ, thi ca, hò, vè, hắn đều xuất sắc, Gặp chuyện gì hắn cũng có thể cất tiếng, hát hoặc ư ử ngâm vài câu thơ, nghe (rất) vừa dở vừa vô duyên. Lần nầy, hắn đóng kịch quá tệ, bị nàng lột mặt nạ.

– Đừng có vờ vịt. Tôi chưa lên máy bay là ông đã chạy theo mấy con “chó cái” đó rồi. Liệu cái thần hồn! Lạng quạng, tôi thiến tận gốc cho biết thân.

Hắn hát tiếp “Ngày mai em đi, ngày tháng bơ vơ đợi chờ…” Nàng không thèm cười, vớ lấy cái chổi lông gà. Thế là nàng lại rượt hắn.

Vợ vắng nhà. Đó là chân hạnh phúc. Vì sao? Vì không phải nhìn thấy mặt vợ. Có lần, vợ hắn trang điểm, diện áo quần đẹp, ẹo qua, ẹo lại trước gương soi, làm bộ thở dài để hắn chú ý và  khen nàng đẹp.

– Thỉnh thoảng, soi gương, thấy mình già và xấu quá! Thiệt, chán hết sức!

Hắn đồng tình ngay.

– Đúng vậy! Em thì thỉnh thoảng mới soi gương nhìn dung nhan mình. Còn anh thì ngày nào, giờ nào cũng nhìn thấy em. Chỉ muốn nhảy sông chết quách!

Nàng co chân, rút chiếc giày, ném vào người hắn rồi vớ lấy cái chổi lông gà. Hắn lại tuông chạy. Nàng, bước thấp, bước cao (một chân không giày), vừa rượt hắn vừa khóc hu, hu!. Hắn phải quay lại, ôm vợ, xin lỗi ríu rít.

– Sorry! Em đẹp nhất thế gian. Mấy con hoa hậu thế giới, so với em, là đồ bỏ!

Hạnh phúc thứ hai khi vợ vắng nhà là không phải ăn các món vợ nấu. Nhiều ông chồng, đôi khi, để làm vui lòng vợ, khen một món nào đó do vợ nấu. Chớ chơi dại! Vợ sẽ nấu mãi món đó, chồng ăn mãi món đó. Ăn tới “lòi cuống họng!”. Vừa rồi, đầu năm 2020, một đại họa giáng xuống thế gian, người chết như rạ. Đó là nàng Covid-19 hạ sơn, giết mấy triệu người. Chính phủ các nước vội ra lịnh “Cách ly” Ai ở nhà nấy. Văn phòng, xí nghiệp, nhà hàng… đóng cửa. “Nhàn cư vi bất thiện”, các bà nghĩ đến trò nấu nướng. Các bà sưu tầm cách nấu các món ăn, càng kỳ lạ càng hấp dẫn. Bà nầy nấu xong, dọn ra, chụp hình gửi cho các bà khác. Các bà trầm trồ “Chị nấu cách nào? Chỉ cho em với!” Rồi bắt chồng đi chợ (các bà không dám đi, sợ lây bịnh Covid-19, để chồng đi chợ, rủi có chết thì mình còn có dịp lên xe hoa lần nữa) Các bà lại hì hục nấu nướng, rồi lại chụp hình, gửi các chiến hữu, sau đó bắt ông chồng ăn, làm “vật thí nghiệm” (Rủi có trúng độc mà chết thì cũng đúng như “Lời nguyện cầu” của quí bà). Trong tám cái khổ của lũ đàn ông, có “Tắng oán hội” khổ. Nghĩa là đau khổ khi phải sống với (ai đó) mà mình không ưa. cái khổ thứ hai là “Cầu bất đắc” khổ. Nghĩa là muốn chết quách để khỏi phải nhìn thấy “người kia” mà không chết được, cũng là khổ. Có ông nọ, lúc sắp đưọc nằm ngủ trong lòng chị “Sáu… Tấm” có mấy lời trăn trối với vợ.

– Khi tôi chết, “Đừng quăng tôi ra biển”(nhại thơ Mr. Lê), bà cũng đừng nấu nướng gì cả. Cứ ra “tiệm cơm chỉ” (bán thức ăn nấu sẵn, thích món nào, chỉ món đó) mua về cúng tôi.

Bà vợ hỏi.

– Ông nói tôi nghe. Tại sao?

Ông chồng thều thào.

– Các món bà nấu, tôi “bị” ăn suốt mấy chục năm, ngán đến tận cổ. Tôi chết bà lại nấu cúng tôi, chỉ ngửi thấy mùi, tôi đã khiếp vía, không dám hưởng, sẽ thành ma đói, không siêu thoát được.

Bà vợ đay nghiến.

– Tôi sẽ chết theo để nấu cho ông ăn.

Ông chồng thất kinh.

– Tôi lạy bà. Để tôi đi một mình.

Nói xong, thở hắt ra, linh hồn “cấp tốc” phóng chạy vào hư không. (Như những chuyện tôi đã kể trước đây. Nhiều ông, trước giờ lâm chung cũng đã lạy “giả từ” vợ kiểu đó)

Trở lại chuyện vợ hắn về Việt Nam. Trên đường đưa nàng đến phi trường, hắn lại hát nho nhỏ “Người ơi! Chốn xa xăm biết người nhớ tôi những gì?…” Mặt lạnh tanh, nàng nói “Xạo đủ rồi!”. Hắn cười hề hề rồi liếc nhìn gương mặt hầm hầm của nàng để biết chắc gương mặt ‘đáng yêu’ đó sẽ không hiện diện trong cuộc đời hắn trong một tháng. Sau khi nàng lên máy bay, hắn ‘lưu luyến’ đứng nhìn chiếc máy bay (có nàng trong đó) lên cao dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ, khuất vào trong mây trời, hắn mới tát vào mặt mình mấy cái, để biết chắc mình không nằm mơ, rồi ngâm nga “Vợ đi! Ừ nhỉ, vợ đi thực. Nàng giờ đây ở trên máy bay. Nàng giờ đây nhỏ như hạt bụi. Ta giờ đây, phải nhậu cho say…” Và hắn reo lên “Ha ha! Không thấy mặt vợ đến một tháng luôn!” Rồi nhảy chân sáo, ra xe, mở chai ‘Thằng Johny đi bộ’ (Johny Walker, đã mua, giấu kỹ cho giờ phút nầy), tì tì từng ngụm, mắt ngước nhìn mấy cánh chim đang lướt trên bầu trời xanh bao la, để suy ngẫm và thưởng thức hai chữ Tự Do. Hắn cứ ngồi lơ tơ mơ như thế cho đến khi dã rượu, hắn lái xe về mà cứ hồi hộp, lo lắng, không hiểu, vợ còn ở nhà hay đã về Việt Nam? Ngay đêm đầu tiên, nằm ngủ trên giường, thỉnh thoảng hắn quờ quạng khắp giường, thấy trống vắng, biết chắc vợ không nằm bên cạnh, hắn mỉm cười, chìm vào giấc ngủ (cô đơn!).

VÀ CHUYỆN NÀNG HOA PHƯỢNG 

Sáng hôm sau, trước khi đi làm, hắn móc điện thoại.

– A lô! Em Hoa Phượng đó hả? Anh Ba đây!

– Anh Ba nào vậy?

– Anh Ba Trợn đây!

– Dạ. Chào anh Ba Trợn. Em Hoa Phượng nghe anh đây!

– Trưa nay, giờ lunch (nghỉ ăn trưa) mình ra chợ Eden (tiểu bang VA) kiếm gì ăn?

– Dạ. Cám ơn anh. Khoảng mười hai giờ. Em sẽ ra với anh.

Nàng Hoa Phượng nầy là một trong các cô bạn rất thân của hắn, nhưng tình bạn còn rất trong sáng, không như các cô, bà khác (đã hết trong sáng). Sau khi chào hỏi, ngồi vào bàn, hắn làm bộ ngạc nhiên nói với người đẹp.

– Em là ảo thuật gia tài ba nhất ở đây.

Nàng cảnh giác.

– Em có ảo, iếc gì đâu?

– Em làm cách nào mà chung quanh đây anh chẳng thấy ai. Chỉ thấy mình em!

Rồi hắn cất giọng vịt đực hát “… Và hỏi tại sao thế giới đông người anh chỉ thấy riêng em?”

Cô bậm môi rồi nhìn hắn phì cười.

– Miệng ông dẻo như kẹo mạch nha!

Đàn ông có tật xấu là thấy đàn bà, con gái là cứ lỏ mắt nhìn mấy điểm chiến lược của người ta. Vì tò mò chứ chẳng ham muốn gì. Chỉ cần thoáng qua, các ông biết ngay hai quả đào tiên là thật hay ‘made in China’, quả cam hay trái mướp. Sách Thiên Mệnh Kinh (Tàu) có câu “Thiếu nữ như trái nho tươi, nạ dòng như trái nho khô!”. Quí bà mặc quần đùi ra đường là các ông nhìn chăm chăm, chẳng phải chiêm ngưỡng mà vì tò mò, xem đùi nàng có mấy con trùn (nổi gân xanh). Các bà, các cô biết “tật” của các ông là cứ nửa kín, nửa hở các ông mới lỏ mắt nhìn mê mẩn chứ mấy cô gái sắc tộc để ngực trần hay ở các bãi biển, người ta mặc hai mảnh tí xíu, các ông đâu thèm nhìn? Mà cũng chẳng có gì tội lỗi vì các bà cũng cần các ông ngắm nghía. Mình có đẹp, có hấp dẫn người ta mới ngắm nhìn. Bị ngó lơ mới đáng tủi thân. Nhưng xin quí ông đừng nhìn “nham nhở” quá khiến quí bà “nhột”. Trước khi đi đâu, quí cô, quí bà bỏ hàng giờ để trang điểm, lựa chọn áo quần để làm gì? Để “khoe” với các ông. Trên đời nầy mà không có đàn ông thì quí bà hoặc trùm kín mít như bên Ả Rập hoặc chẳng thèm mặc áo quần làm gì cho mất thì giờ. Cứ “vườn không, nhà trống” mà thổn thệnh ngoài đường “Cho gió mát cái bàn chân, cho gió mát cái cùi tay…” Ở bên Âu Châu có hội khỏa thân, ra bãi biển, chẳng ai thèm nhìn ai. Các bà, các cô không mặc áo quần thì cũng giống như con chim công, con chim phượng hoàng bị vặt trụi lông, chẳng biết đẹp ở chỗ nào?

Trở lại chuyện cậu Ba Trợn. Nàng Hoa Phượng ngồi trước mặt, trang phục lịch sự, kín đáo, chỉ dưới cổ, để trần một chút ngực trắng nuốt, mà mắt hắn cứ láo liên, nhìn trộm. Đàn bà nhạy cảm với đôi mắt đàn ông về mấy vụ nầy. Nàng biết, mỉm cười hỏi.

– Âm mưu gì đây? Không hi vọng gì đâu!

Bị lộ tẩy, hắn làm bộ rầu rỉ.

– Vui sướng gì! Vợ về Việt Nam…

Nàng ngạc nhiên.

– Anh mà cũng nhớ vợ?

– Không phải. Vợ anh về Việt Nam, đem luôn chìa khóa cửa. Tối nay không biết ngủ đâu!

Nàng lại cười.

– Thì ngủ khách sạn. Nhà em đông người lắm.

Đó là cách hắn “thả thính” dọ đường, mục đích cho người đẹp hiểu ý. Nếu nàng “lơ lửng” thì sẽ có chút hi vọng. Nghe trả lời như thế, hắn ngỡ mình sắp được ôm nàng Hoa Phượng trong vòng tay. Không ngờ, nàng cảnh giác, mấy lần sau, hắn mời nàng đi ăn thì bị từ chối thẳng thừng. Nàng chỉ đồng ý cho gặp trên điện thoại mươi phút thôi. Thấy nàng quyết liệt, mà một tuần đã trôi qua, hắn sốt ruột, đổi chiến thuật. Hắn khen nàng đẹp trên điện thoại. Khen từ mái tóc, gương mặt, đôi mắt cho đến hình dáng. Dĩ nhiên hắn phải khen đúng để nàng soi gương, mỉm cười và hài lòng. Đàn bà, con gái có chỗ yếu là được ai khen thì có cảm tình với người đó. Hắn thêm một bước nữa. Hắn tỉ tê rằng nhớ nàng, mong được gặp mặt cho đỡ nhớ. Nàng không trả lời, có lẽ còn đắn đo. Hắn biết, không lẽ nàng “Ừ!” ngay. Và hắn chờ đợi.

Một buổi chiều mùa thu, trời mưa lất phất và lạnh. Cảnh nầy làm các cô hơi lớn tuổi, độc thân, buồn ghê lắm. Không có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn cô đơn! Nàng Hoa Phượng gọi cho hắn.

– Em đi công chuyện, ngang nhà anh, em sẽ ghé thăm, độ năm phút thôi. Vì chuyện gấp nên em đến thăm anh là đi liền.

– Em có thể đến sớm, để chuyện trò lâu một chút? Cả tháng (xạo!) nay, em có cho anh gặp đâu!

Im lặng. Một phút sau.

– Bảy giờ em đến, bảy rưỡi em đi.

Ôi chà chà! Nửa giờ! Rõ ràng là nàng Hoa Phượng đã phó mặc số phận đẩy đưa, đến bến bờ nào cũng… OK!.

Hắn đi nấu trà, đem bộ đồ trà chưng trong tủ búp-phê ra, để trên bàn khách cho thêm phần long trọng. Nàng Hoa Phượng đến, hắn mở cửa mời vào. Nàng ngồi đối diện. Hắn rót trà mời. Trong ánh đèn mờ, hắn thấy trang phục nàng sang trọng, son phấn cẩn thận, chứng tỏ nàng  có đi đâu đó thật chứ không phịa chuyện để đến gặp hắn. Coi bộ gay go đây! Các bậc thức giả  có câu “Tri hành hợp nhất” nghĩa là khi ‘biết’ đối tượng muốn gì thì mình phải làm sao cho đương sự ‘hợp ý nhất’. Nhưng nàng có ý nghĩ giống như hắn không? Chợt nàng xem đồng hồ tay. Hắn thử đoán, nàng sốt ruột, muốn đi công chuyện hay muốn nói với hắn “Coi chừng hết giờ!”? Trò chuyện thêm mấy câu nữa, nàng nói.

– Thôi, em về!

Hắn cũng nói.

– Anh cũng đi công chuyện ngay bây giờ. Để anh tắt đèn!

Hắn đứng lên, tắt đèn. Tối thui!

Tôi, (người kể chuyện nầy) chưng hửng! Mà quí bạn đọc cũng chán nản “Tưởng gì gay cấn sắp xẩy ra. Mất công theo dõi nãy giờ!” Mà tôi có muốn kể tiếp, tả tình, tả cảnh cũng chẳng thấy gì. Tối mò mò!  Vả lại, họ sắp rời nhà, ra xe. Nhưng khoan. Xin lắng nghe. Trong bóng tối dày đặc, có tiếng nàng Hoa Phượng.

– Chìa khóa xe em đâu rồi?

– Anh đang giữ đây.

– Cho em, để em về.

– Cho anh hôn, anh đưa chìa khóa.

Yên lặng…

– Để em về!

Có tiếng rù rì của hắn, nghe không rõ nhưng đoán chừng hắn đang tỉ tê gì đấy với người đẹp. Nàng Hoa Phượng, giọng miễn cưỡng.

– Để em về kẻo trễ.

Lại tiếng thì thầm. Nàng cũng thì thầm.

– Đừng anh! Đừng làm em sợ!…

Rồi thì, tất cả rơi vào im lặng. Sự im lặng đáng sợ! Thưa quí bạn đọc kính mến. Quí bạn thử đoán xem chuyện gì đang xảy ra trong căn phòng tối om kia? Tôi thú thật, chịu thua! Trong nhà mà bị mất điện thì thành người mù, chả thấy đường mà làm việc gì!

Thời gian như ngừng trôi. Bỗng (trong bóng tối) có tiếng cười rúc rich.

– Anh là đồ ‘quỉ xứ!’. Làm người ta sợ muốn chết. Lần sau em không dám đến thăm anh nữa đâu!

Hắn cất tiếng hát “Thôi rồi còn chi đâu em ơi. Hết rồi còn chi đâu em ơi!”.

Có tiếng đập lưng hắn thình thịch

– Hết rồi thì đưa chìa khóa xe cho ngưòi ta về. Mở đèn lên. Quần áo xốc xếch hết cả rồi nè!

Đọc chuyện nầy, xin quí bà đừng trách rằng “Lũ đàn ông các ông như gậy thằng mù, chỗ nào cũng thọt được!” Xin thưa rằng. Bản tính đàn ông vốn tò mò mà người nữ lại là một sinh vật bí ẩn. Càng huyền bí, mơ hồ càng khiến lũ đàn ông say mê theo đuổi, khám phá. Ai lên mặt trăng. Quí ông. Ai đã cắm cờ trên đỉnh Everest? Cũng quí ông. Ai đã tìm ra Châu Mỹ? Cũng quí ông. Ai là chồng của quí bà? Cũng quí ông. Thế nên, thưa quí cô chưa chồng, quí bà độc thân, xin hãy thông cảm cho nàng Hoa Phượng cô đơn của hắn.

Phạm Thành Châu

Visits: 148