Chiến Tranh Mậu Dịch Mỹ -Trung Và Hệ Quả Đến Việt Nam

Nguyễn Bá Lộc

(Cập nhựt và bổ sung lần ba)                            

                                                                                                                           

Chiến tranh mậu dịch giữa Hoa kỳ và Trung quốc đã manh nha từ năm 2017, và khởi đầu từ 2018. Trên danh nghĩa là cuộc chiến thương mại giữa hai siêu cường kinh tế. Thực sự là một sự xung đột trên nhiều mặt, kinh tế, khoa học kỹ thuật, và ý thức hệ. Ngoài ra, và sâu xa hơn, đó là do âm mưu đại bá của Trung cộng từ lâu.

Bởi do tính chất và qui mô, chiến tranh mậu dịch nầy có ảnh hưởng và hậu quả to lớn chẳng những cho hai quốc gia tham chiến, mà còn cho hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Sau ba năm, giờ cuộc chiến chưa chấm dứt, mặc dù có tạm đình chiến của giai đoạn I, hai bên vẫn còn một số bất đồng lớn, một số xung đột còn lan rộng ra trên một số lãnh vực khác.

Để hiểu thêm về một xáo trộn lớn của thế giới, trong hai năm 2018 và 2019, tôi có bài khảo luận về Chiến tranh mậu dịch Mỹ – Trung , nay tôi xin cập nhựt lần thứ ba nầy.

I. TÓM LƯỢC CHIẾN TRANH MẬU DỊCH MỸ -TRUNG

I.1. Nguyên do

Trong lịch sử chiến tranh kinh tế thế giới, đây là một trong những cuộc chiến lớn.  Hoa kỳ coi đây là cuộc chiến chẳng đặng đừng, trễ còn hơn không.

Còn Trung quốc thì phải chống đỡ bằng mọi giá, vì đó có liên hệ tương lai chế độ, tương lai mô hình và chiến lược kinh tế, và mục tiêu toàn cầu hóa. Các nguyên do:

Thâm thủng mậu dịch: Chánh yếu là sự thâm thủng mậu dịch quá lớn của Hoa kỳ đối với Trung quốc, trên $375.2 tỷ (2017) càng ngày càng lớn, Hoa kỳ nhập siêu 420 tỷ (2018). TT  Trump yêu cầu TC giảm ngay thâm thủng bớt $100 tỷ mỗi năm. Sự mất mát lớn đó của Mỹ chánh yếu là do TQ chơi nhiều đòn bất chính và do Mỹ lầm lẫn chế độ TC. Hoa kỳ yêu cầu TC phải có chánh sách mậu dịch đàng hoàng (fair trade).

Về đầu tư, hàng trăm công ty Mỹ qua kinh doanh ở TQ, làm cho thất nghiệp trong nước Mỹ gia tăng cao. Điều nguy hiểm khác là TC cho các công ty lớn, nhứt là ngành công nghệ thông tin đầu tư ngay tại Mỹ. Cơ hội TC ăn cắp khoa học kỹ thuật cao của Mỹ tăng cao hơn. Trong nước, nhiều công ty Mỹ bị phá sản hay bị TC mua, và thất nghiệp tăng cao.

Trên bình diện quốc tế, Mỹ bị thua thiệt dần cả trên mặt ngoại thương lẫn đầu tư ngoại quốc. Một thí dụ rõ ràng là trong thời đại dịch Covid 19, TC đầu cơ và tung sản phẩm y tế khắp mọi nơi, trong lúc Hoa kỳ và Âu châu thiếu hụt trầm trọng.

Về phía TC, thì sau thành công vượt bực về kinh tế, TQ nuôi dưỡng mộng bá quyền toàn cầu. Khi Tập cận Bình lên nắm quyền, thì ý đồ TC càng mạnh và rõ ràng. TC bành trướng thế lực mình  trong nhiều lãnh vực, trong nhiều quốc gia chậm tiến hoặc đang phát triển, kể cả tạo ảnh hưởng và nắm giữ một số cơ quan quốc tế.

Xây đắp “Giấc Mộng Trung Hoa” (Chinese Dream). Đó là ước mơ truyền thống của TQ từ các vua chúa ngày xưa, nay Tập cận Bình muốn dựng lại. Ý đồ của Tập là đến năm 2050 TC sẽ mạnh trong nước và có nhiều ảnh hưởng quốc tế và thay Mỹ trở thành lãnh đạo thế giới.

I.2.Thế và Lực của hai bên lâm chiến

Thế  và lực của Mỹ so với TC: Cho tới nay, Mỹ vẫn được coi như có thế và lực mạnh nhứt thế giới về các lãnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự và tư tưởng chánh trị văn hóa. Nhưng cái thế và lực đó đã, đang và sẽ còn đi xuống nữa nếu Hoa kỳ không có những biện pháp thích ứng kịp thời.

Về kinh tế mặc dù bị TC qua mặt xuất cảng, bị nhập siêu quá lớn hàng TC. Nhưng GDP của TC chỉ bằng  2/3 của Mỹ. Lợi tức đầu người của Mỹ cao gấp hơn sáu lần TC.

Vài so sánh sức mạnh kinh tế (2019):

                            GDP          GDP /GDP toàn cầu  Per capita              Xuấtcảng

Hoakỳ               21.374 tỷ     24.4%                     $ 65.165                     1.646 tỷ

Trung quốc       14.343 tỷ     16.4%                      $10.260                      2.479 tỷ

Nguồn: World Bank / Data

Về khoa học kỹ thuật, Mỹ có thế cao hơn nhiều vì có nghiên cứu và phát minh liên tục, còn TC thì phần lớn sao chép hay đánh cắp kỹ thuật từ bên ngoài. Nhưng khoảng 5 năm trở lại đây, TC đã đầu tư nhiều cho khoa học kỹ thuật. Cái lợi của TC là những phát minh dùng được cho cả kinh tế và quân sự. Mức độ khoa học kỹ thuật TC hiện nay cũng khá cao.

Về quân sự, Mỹ có tiềm năng cách xa TC mặc dù trong những năm gần đây TC sản xuất nhiều sản phẩm quân sự mới. Trong khi đó thì những năm trước kia Mỹ đầu tư ít cho quân sự. Gần đây Hoa kỳ đã thấy nhược điểm nầy và có một số cải tiến.

Về toàn cầu hóa, từ sau đệ nhị thế chiến Mỹ dẫn đầu phong trào toàn cầu hóa. Các công ty đa quốc Mỹ phát triển rất nhanh. Cái ưu thế thứ hai của Mỹ là toàn cầu hóa dựa trên nguyên tắc kinh tế tự do, và được hầu hết các quốc gia và các Tổ chức quốc tế đi theo mà không bị cản trở gì nhiều.

Sau nầy với chủ trương mới, TC có thế cao hơn Mỹ ở phần viện trợ quốc tế, và sự hơp tác với các nước đang phát triển, đồng thời vận động thâm nhập vào các cơ quan quốc tế. TC lợi dụng Toàn Cầu Hóa một  cách rộng rãi để tấn công Mỹ và Âu châu với sự xuất cảng ào ạt hàng giá rẽ, và thu hút đầu tư với nhân công lương thấp. Đồng thời TC tung tiền viện trợ cho nhiều nước nghèo. Cách hợp tác quốc tế, TC không đòi hỏi dân chủ hay nhân quyền, nên thu hút được nhiều quốc gia. Đó là thế quốc tế quan trọng.

Nhưng nay, TC và Mỹ đều gặp khó khăn, nhứt là sau đại dịch Covid-19. Khó khăn và cách giải quyết của hai bên có khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu thì hiện nay khó khăn của TC nhiều hơn, mức nguy hiểm sâu hơn. Mặc dù bề ngoài TC nói là kinh tế 2020 vẫn phát triển với số dương, còn Mỹ thì có số âm.

Trong 30 năm qua, TQ tung hàng hóa ra khắp thế giới với giá rẽ, từ 257 tỷ (2000 lên 2.400 tỷ (2016) (theoMcKensey& Company Global Institute,www.mckensey.com). Và TC qua mặt Mỹ chiếm hạng nhì thế giới về xuất cảng.

Đầu tư ngoại quốc: Nhờ thị trường nội địa rất lớn và nhân công rẽ, TQ đã thu hút đầu tư ngoại quốc mạnh nhứt thế giới. FDI tại TC vừa cung ứng cho thị trường nội địa vừa chủ yếu cho xuất cảng, 50% xuất cảng là do FDI. (Theo Mac Kensey Global Institute)

TC ăn cắp kỹ thuật cao phần lớn là từ Hoa kỳ (sản phẩm trí tuệ, intellectual property), đem áp dụng trong nước và đã phát triển đến mức quan trọng. Những loại kỹ thuật cao đó xử dụng trong công nghiệp và kỹ nghệ quốc phòng .

Thái độ của TC là lặng lẽ tiến công Mỹ và Tây phương qua các kế hoạch và chủ trương lớn như tự do thương mại hoàn toàn, gia tăng viện trợ và đầu tư tại các nước nghèo đang phát triển qua Kế Hoạch Belt & Road, và đặc biệt mở rộng đầu tư của TC tại Mỹ và Âu châu với công ty rất lớn và kỹ thuật cao.

Trước tình trạng TC vừa đạt mức phát triển kinh tế cao, chiếm giữ phần lớn kinh tế toàn cầu. Mặt khác, là TC muốn soán ngôi thứ nhứt của Hoa kỳ để lãnh đạo thế giới. Đây là một biến chuyển thế giới rất lớn, có thể thay đổi trật tự thế giới trong tương lai.

Trong cuộc chiến mậu dịch TC coi như bị tấn công. Nhưng TC nhiều lần tuyên bố sẽ đánh trả bất cứ giá nào. Mặt khác, bề ngoài thì TC tuyên bố cần hợp tác để Mỹ và TQ cùng có lợi hơn là đánh nhau hai bên sẽ bị thiệt hại.

Về mô hình chánh trị, mặc dù TC là nước độc tài CS, không tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng TC xử dụng công cụ tiền bạc cách tối đa để dụ dỗ các nước nghèo, và tạo được thế quốc tế mạnh cho TC. Hiện nay dân chúng trên thế giới có ý nghĩ xấu về TC nhiều hơn trước. TC là một đe dọa lớn của nhiều nước.

Trong nước, các sắc tộc luôn bất ổn vì sự chênh lệch giàu nghèo quá cao, nạn tham nhũng quá khủng khiếp, cùng sự tranh giành quyền lực trong đảng, chánh quyền TC luôn cứng rắn đàn áp.

Tóm lại, mỗi bên tham chiến có những cái mạnh và yếu khác nhau, võ công khác nhau. Nhưng chắc chắn mâu thuẩn hai bên không dễ dàng giải quyết nhanh chóng.

I.3.Tóm tắt các trận chiến

Tóm tắt các trận đánh:

Mặt trận ngoại thương

Trận đánh thứ nhứt, 22-tháng giêng -2018, Mỹ đánh thuế 25% lên tấm solar (với trị giá 8.5 tỷ) và máy  giặt (1.8 tỷ). Đánh trả lại, TC tăng  thuế

Tháng 4-17-2018 TC đánh thuế phá giá bo bo nhập từ Mỹ thuế  178.6%

Tháng-2018, TC chấm dứt đánh thuế bo bo, vì đang thương thảo Mỹ TC để ngưng chiến.

Tháng  8- 14-2018, TC kiện Mỹ ra WTO.

Trận đánh thứ 2, Mỹ đánh thuế nhôm và thép 25% của tổng số nhập 48 tỷ, nhưng thực sự phần lớn nhôm thép Mỹ nhập từ Canada, Âuchâu, Mexico.

Tháng 7-24-2018, Mỹ kiện ra WTO về các nước Canada, Âu châu tăng thuế nhập từ Mỹ, vì Mỹ tăng thuế nhôm và thép là áp dụng “luật bảo vệ an ninh quốc gia”.

Tháng 7-24-2018, Mỹ ký sắc lịnh trợ cấp nông sản 12 tỷ do TQ không  nhập.

Trận đánh thứ 3,  ngày 18 tháng 8-2017, Mỹ phản đối TC vi phạm quyền sản phẩm trí tuệ và sản phẩm kỹ thuật cao khác.

Ngày 3-tháng 4-2018, Mỹ dự trù đánh nhiều món hàng từ TC trị giá $50 tỷ với thuế 25%

Ngày 3 tháng 4-2018, TC đánh thuế lại cũng 25% lên xe hơi, máy bay và nông sản trị giá 50 tỷ.

Ngày 5 tháng 4-2018, Mỹ đưa thêm danh sách 100 tỷ hàng TC với 25% thuế.

Các trận đánh tạm ngưng từ tháng  5-20-2018 vì hai bên thương thảo lại.

Ngày 10 tháng 7-2018, Mỹ đưa ra danh sách 200 tỷ hàng hóa TC sẽ bị đánh thuế 25%, vì cuộc thương thảo không thành. TT Trump nói sẽ đánh thuế cao cho tất cả hàng TC vào Mỹ. Đó là phần lớn  hàng tiêu dùng cá  nhân.

Ngày 24- tháng 9-2018, TT Trump tuyên bố sẽ đánh thuế  25% của danh sách 200 tỷ (đang bị thuế  10%). Để đánh trả, TC sẽ cho đánh thuế tăng 25% của gói hàng trị giá 60 tỷ.

Ngày 2/12/2018  hai bên ngưng chiến để thương thảo .

Đến tháng 5-2019, thương thảo không thành, Mỹ cho biết sẽ đánh thuế 25% lên số hàng 250 tỷ. Chia ra hai lần. Lần 1 vào tháng 10-2019 và lần 2 vào tháng 12-2019. Và sau đó còn có thể có danh sách khác với 300 tỷ nữa. TC cũng sẽ đánh trả 75 tỷ với 25% thuế.

Ngày 26/tháng 6/2019, ở buổi họp G20 tại Nhựt, hai bên đồng ý ngưng đánh để thương  lượng.

Hai bên thỏa thuận được. Mỹ không đáng thuế  25%  của danh sách 250 tỷ nầy vào tháng 12/2019. Đáp lại TC hứa nhập 200 tỷ hàng nông sản và hàng công nghiệp Mỹ trong hai năm 2020 -2021. Thỏa hiệp ký ngày 15-12-2019. Và sẽ thi hành từ 15 tháng  giêng -2020. Rồi đại dịch bùng nỗ gây khó khăn trong việc thực hiện. Thảo luận cho giai đoạn hai cũng không thực hiện.

Bên cạnh mặt trận thuế quan, Mỹ có hai cú đánh nhỏ là Hoa kỳ đưa TC ra WTO cho là TC lợi dụng qui chế “developing country status” để hưởng lợi nhiều trên thị trường quốc tế. Trận đánh nữa là Mỹ tố cáo TC định giá thấp đồng yuan để hàng xuất cảng có giá quá rẽ.

Nguồn: Peterson Institute for International Economics, www.www.piie.com, 28/9/2020

Thỏa hiệp giai đoạn I chỉ nói đến mậu dịch. Còn các vấn nạn khác mà Mỹ đưa ra tạm hoãn lại cho giai đoạn II (chưa biết bao giờ). Đó là: TC trợ cấp sai trái cho quốc doanh để cạnh tranh bất chánh, việc TC buộc các FDI ngoại quốc chuyển giao kỹ thuật; vấn đề bảo vệ sản phẩm trí tuệ; vấn đề FDI của TC tại Mỹ, vấn đề đánh cắp kỹ thuật; vấn đề tình báo kinh tế; vấn đề lủng đoạn tiền tệ. Đó là những vấn đề lớn và khó khăn giải quyết nhanh.   

Mặt trận đầu tư và kỹ thuật.

Có hai vấn đề: Hoa kỳ yêu cầu TC cải sửa luật buộc nhà đầu tư ngoại quốc tại TC    không được đánh cắp kỹ thuật hay cộng tác ở các trung tâm chuyển kỹ thuật cách bất hợp pháp về TC. Dĩ nhiên TC chối vấn đề nầy. Nhưng tình báo Mỹ đã tìm  ra một số vụ. Các nhà khoa học TQ bị đuổi về nước hay bị tù. Tháng 12-2017 Mỹ cấm các công ty Mỹ làm ăn với một số công  ty lớn kỹ thuật cao của TC. Các công ty nầy có thể xử dụng cho kỹ nghệ quân sự.

Ngày 23/8/2019, TT Trump ra lịnh cho công ty Mỹ rút khỏi TQ đến một nước khác hay về lại HK. (Theo cơ quan Politico)

Mặt trận tình báo.  

TC gài tình báo khắp nơi, và trên hầu hết các lãnh vực, các mặt trận quân sự kinh tế và kỹ thuật

Mặt trận văn hóa truyền thông.

Vì TC dùng chiến thuật văn hóa và truyền thông để tấn công Mỹ và bành trướng trên toàn cầu, Mỹ đánh trên mặt trận nầy. Mỹ cho phổ biến những tin tức và nhận định tệ hại của chế độ độc tài CSTC mà TC ngụy trang dưới hình thức văn hóa và chủ nghĩa dân tộc.

Song  một trong nhược điểm của Hoa kỳ cũng như Tây Âu là chế độ tự do dân chủ nên phải trình bày cho dân các chương trình kế hoạch rõ ràng. Do đó TC đã biết được một số điều về đối phương. Trận chiến trở nên khó khăn hơn.

I.4. Trung cộng phản công

TC bị đánh trước. TC dùng chiến thuật trên 4 mặt:

Thương mại/ quan thuế, vừa đánh trả vừa thương lượng. Một mặt tìm thị trường mới thêm ở nhiều nước ,nhứt là Âu châu.

Về đầu tư, sửa luật đầu tư cho nhà đầu tư ngoại quốc có thuận lợi hơn nữa, cải tổ quốc doanh cho lành mạnh. Chấn chỉnh các công ty ở ngoại quốc, sau khi bị Mỹ trừng phạt hay cấm.

Gia tăng viện trợ và đầu tư đến nhiều nước ĐNÁ và Phi châu theo kế hoạch Belt & Road. Gia tăng phát triển kỹ thuật trong nước cho dự án “Made in China 2025”.

Phá giá thêm đồng “yuan” để tăng xuất cảng.

Về quốc tế vận, TC gia tăng tuyên truyền, nhất là trong thời kỳ có đại dịch để tiếp tục tạo hình ảnh một Trung quốc mới tốt và nhân đạo đối với mọi nước. Chia rẽ đồng minh của Mỹ. Kết hợp liên minh mới, Hiệp ước kinh tế RCEP, Regional Cooperation Economic Partnership, gồm 15 nước, 10 nước Asean cộng với Úc, Tân Tây lan, Nhật, Nam Hàn, Trung quốc, lúc đầu có Ấn độ sau nầy Ấn độ rút ra. Hiệp ước nầy do TQ dẫn đạo và vừa ký chung vào tháng 11 /2020. Đây là một thỏa ước kinh tế lớn nhất hiện nay.

Trong  nước, TC củng cố nội bộ đảng và trấn an dân, thúc đẩy tự hào dân tộc. Quyết tâm tiến lên đánh nhào Tư Bản và chiếm vị trí số một toàn cầu.

I.5. Kết Quả và Hậu Quả Tạm Thời

Tới nay (12/2020), chiến tranh mậu dịch Mỹ Trung đã xẩy ra gần ba năm. Như trên đã nói cuộc chiến không phải chỉ giới hạn trong thương mại và đầu tư, mà còn lan rộng tới nhiều lãnh vực. Một số xung đột vẫn tiếp diễn. Cuộc chiến chưa biết sẽ chấm dứt lúc nào và sẽ ra sao.

Dưới đây là tóm tắt một số kết quả và hệ quả tạm thời (tới cuối 2020) .

I.5.1.Hệ quả về phía Hoa kỳ

Về thương mại thì hai bên đánh và đàm nhiều lần. Thương thảo cho giai đoạn I, được hai thực hiện là vào tháng giêng năm 2020. Coi như tạm huề. Nhưng rồi bị đại dịch. Thỏa ước không được thực hiện đúng như cam kết. Trung quốc mua nông sản Mỹ ít hơn lời hứa. Hàng TC vào Mỹ bị giảm.Thuế đánh vào hàng TC cao lên thì giá bán lẻ cao ảnh hưởng người tiêu thụ và một số công  ty sản xuất Mỹ.

Về đầu tư, một số công ty Mỹ ở TQ  dời đi  qua một số nước khác, như Google, Apple, Nike… Mặt khác TC đang sửa luật đầu tư theo yêu cầu của Mỹ. Về phần công ty TC  ở Mỹ thì một số bị cấm hay bị phạt. Như công ty công nghệ thông  tin  lớn ZTE và Huawei. Hoa kỳ còn cấm các công  ty Mỹ không được giao dịch với công ty do quân đội TC  làm chủ. Các công ty TC không được lên thị trường chứng khoán Mỹ nếu không được Mỹ kiểm soát tài chánh. Tuy  nhiên, sự cấm đoán bán  cho TC các  sản phẩm bán dẫn (semiconductors, software)  làm một số  công ty Mỹ bị thiệt hại. Một món hàng lớn khác là 900 chiếc máy bay Boeing  (trị giá 1,000 tỷ) mà TC hứa mua trước Thương chiến, nay  bị hoãn lại.

Đối với nông dân Hoa kỳ, thương chiến có ảnh hưởng lớn vì TC nhập một số lượng lớn đậu nành, thịt heo, gà của Mỹ. Nếu thỏa hiệp sau cùng (tháng giêng/2020) bị trục trặc, TC không giữ lời hứa mua 55 tỷ nông sản Mỹ thì đó là thiệt hại cho nông dân.

Một số nhà khoa học TC làm việc tại Mỹ bị bắt vì là tình báo cho TC.

Tâm lý chiến và vận động đồng minh. Chánh quyền Mỹ kêu gọi và trình bày cho dân trong nước thấy thiệt hại của Mỹ về nhập siêu từ TQ quá lớn từ nhiều năm.Tình trạng thất nghiệp ở Mỹ do công ty Mỹ sang làm ăn ở TQ trong mấy chục năm qua. Chánh quyền kêu gọi người tiêu thụ mua hàng Mỹ (Buy American), công ty Mỹ trở về cố hương với sự giúp đỡ về thuế và tín dụng.

Chánh quyền và một số truyền thông Mỹ cũng cho dân chúng thấy TC là nước CS, họ dùng những mánh khoé gian dối. TC không có đủ điều kiện và giá trị cần thiết cho một lãnh đạo thế  giới. Mỹ và một số đại học đóng cửa các Viện Khổng Tử, một nơi truyền bá văn hóa lỗi thời và là nơi ẩn dấu cho tình báo TC.

Do đó, gần đây người Mỹ hiểu rõ hơn TC và đa số họ coi TC là kẻ thù cần cảnh giác.

Đối với đồng minh, Hoa kỳ có thay đổi. Lúc đầu TT Trump với chủ trương“America First” làm cho một số đồng minh, nhứt là Âu châu xa Mỹ. Trong đối phó đại dịch, một số nước hiểu TC hơn, và có sự hợp tác trên một số mặt với Hoa kỳ. Về bang giao quốc tế, Mỹ lôi kéo được các nước mạnh như Nhật, Ấn, Úc thành liên minh “Chuổi Kim Cương ” ở Ấn độ-Thái bình dương. Hoa kỳ đi gần hơn với VN và các nước ASEAN để đối phó sự xâm lăng của TC ở Biển đông.

Hoa kỳ gặp ba khó khăn cùng lúc, là sự suy giảm do chiến tranh mậu dịch, do đại dịch rất nặng nề, và do cuộc bầu cử Tổng thống 2020.

Nhưng kinh tế phục hồi từ tháng 10 năm nay. Thị trường chứng khoán lên cao. Về kinh tế tài chánh, Hoa kỳ còn khó khăn lớn khác là nợ công quá cao do ngân khoản cứu trợ đại dịch. Vào những ngày cuối năm thì dịch covid bùng phát trở lại. Có cái may là thuốc chủng dịch covid- 19  được bắt đầu xử dụng. Kinh tế chưa có dấu hiệu lạc quan .

I.5.2.Hệ quả về phíaTrung Cộng

Kinh tế TQ chậm lại và mức phát triển suy giảm, một phần do thương chiến, một phần do đại dịch. Theo cơ quan nghiên cứu Terence Tai-Leung Chong & Xiao Yang Li ước lượng thiệt hại do thương chiến làm GDP TC giảm 1% và thất nghiệp tăng 1.1%. (Research Gate). Cộng với sự suy giảm do đại dịch, theo ước tính của Ngân hàng thế giới năm nay, suất số phát triển của TC chỉ có 2.9% . Được như vậy là may rồi. Dù sao kinh tế TC vẫn còn mạnh, vẫn còn là đối thủ đáng ngại của Hoa kỳ.

Xuất cảng: Tháng giêng và hai /2020 giảm 17% so với cùng thời kỳ 2019. Trong đó xuất qua Mỹ giảm 28%. (Theo Peterson Institute for International Economics,)

Đầu tư ngoại quốc  :   Đầu tư của TC tại Mỹ giảm từ 46.5 tỷ (2016) xuống còn 5.4 tỷ (2018) (Theo trung tâm nghiên cứu kinh tế Rodium Group).

Khoa học kỹ thuật, TC dù có nhiều cố gắng trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn lệ thuộc nhiều ở Mỹ. Như công  ty ZTE và Huawei phải nhập một chip quan trọng từ Mỹ.

Công nợ và ngân hàng. Nợ công rất cao nay phải cho quốc doanh vay thêm, nhưng tình trạng bị lỗ. Đó là một mối nguy hiểm lớn. Tiền trả nợ cho các nước vay trong kế hoạch BRI bị gián đoạn hay hoãn nợ vì phần lớn các dự án không có lời hay bị đội vốn. Nợ xấu do đó tăng cao.

Chuyển tài sản ra ngoại quốc. Vì tình trạng kinh tế khó khăn, nhiều nhà giàu tìm cách chuồn tiền ra ngoại quốc. Và tham nhũng gia tăng.

Trên bình diện quốc tế, dân chúng và chánh quyền nhiều nước có cảm nghĩ xấu với TC vì phần lớn thấy được mặt thật của “chế độ CS biến thể”

I.5.3. Hệ quả cho thế giới

Tổng quát xuất cảng trên thế giới giảm khoảng3%, GDP thế giới bị giảm 1.7%, trong năm 2020 do chiến tranh mậu dịch, (theo World Bank và Research Gate ghi lại).

Theo ước tính của Viện Nghiên Cứu Peterson Institute Global Economics thì cho tới năm 2030 kinh tế thế giới bị giảm mất 301 tỷ, chỉ do chiến tranh mậu dịch Mỹ-Trung.

Giá cả hàng hóa nói chung sẽ tăng khắp mọi nơi.

Đầu tư ngoại quốc bị giảm. Một số công ty bị ngưng hoạt động. Hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu thay đổi. TC sẽ không còn nắm các chuỗi cung ứng nhiều thứ hàng hóa quan yếu như trong hàng chục năm qua. Mỹ và Âu châu sẽ tự sản xuất cho thị trường nội địa các loại hàng quan trọng cho kinh tế quốc nội, y tế và quân sự. Mặt khác một số chuỗi cung ứng bị chẻ nhỏ ra và được sản xuất tại một số nước Á châu như VN, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, Mexico, Chile..

Hệ thống tài chánh quốc tế bị ảnh hưởng xấu đi. Thị trường chứng khoán dễ giao động hơn.

Mô hình toàn cầu hóa theo kiểu tự do hoàn toàn, kéo dài trên 50 năm nay, bị thay đổi ít hay nhiều. Vì chủ trương bảo hộ mậu dịch một phần của một số nước. Và các lưởn tài chánh trên thế giới có những thay đổi, kể cả các định chế tài chánh lớn. Toàn cầu hóa sẽ được tái định hình, tùy diễn tiến chiến tranh mậu dịch trong tương lai

Tuy nhiên trước mắt cũng có một số quốc gia có lợi trong cuộc thương chiến nầy, vì sự di dời của các công ty ngoại quốc ra khỏi TC và vì nhờ được xuất cảng tăng thêm do hàng hóa TC bị sụt giảm trên thị trường quốc tế. Trong số đó có Việt Nam

II. HỆ QUẢ THƯƠNG CHIẾN MỸ TRUNG ĐẾN VỊÊT NAM

Chiến tranh mậu dịch Mỹ -Trung cho tới nay đem tới những hậu quả lớn chẳng những cho hai nước đương đầu mà còn cho nhiều nước trong đó có VN.

Trong nhứt thời, nhiều người cho rằng đây là cơ hội mà VN hy vọng được nhiều thắng lợi nhất. Song , về phương diện kinh tế, Hoa kỳ và TC là hai đối tác quan trọng nhất của VN, và vì chiến tranh mậu dịch nầy nhiều phức tạp, nên hệ quả cho VN vừa tích cực vừa tiêu cực.

Trong chương nầy, xin tóm tắt qua hai vấn đề: Mối liên hệ kinh tế VN với Hoa kỳ và Trung quốc và Hệ quả chiến tranh mậu dịch Mỹ- Trung đến với VN.

II.1. Tóm lược Tiến Trình Việt Nam Hội Nhập Toàn Cầu
 II.1.1. Tiến trình Hội nhập toàn cầu của VN

Sau  khi đổi mới kinh tế (1986), VNCS theo đuổi nền kinh tế pha trộn giữa kinh tế tự do và nền kinh tế độc quyền XHCN. VN chấp nhận nhiều thành phần kinh tế: quốc doanh, tư doanh, tư doanh ngoại quốc, hợp tác xã và cá thể. Khu vực kinh tế quốc nội quá yếu, nhứt là quốc doanh chiếm khoảng 60% tài sản và phương tiện kinh tế nhưng 65% bị lỗ triền miên. Tư doanh trong nước còn quá yếu. Cho nên VN phải đẩy mạnh kinh tế đối ngoại từ khoảng năm 2000. Từ đó đến nay, VN đạt một số kết quả khá tốt về xuất cảng và đầu tư ngoại quốc (FDI).

Chúng tôi xin tóm tắt một số điểm quan trọng quá trình mở cửa và đi mạnh vào thị trường thế giới của VN trong 20 năm qua.

Về mậu dịch, từ khi vào WTO cho tới nay VN đã ký 17 Hiệp định (HĐ) mậu dịch song phương cũng như đa phương. Song phương VN ký với các nước: Hoa kỳ, Nhật bản, Trung quốc, Đại hàn, Đài loan, Hồng kong, Singapore. Về đa phương VN ký với nhiều nước trong các HĐ : ASEAN với các nước, với HĐ RCEPT do TC cầm đầu,  CPTPP với 11 nước Xuyên Thái Bình Dương (Hoa kỳ rút ra), và EVFTA, VN với Cộng đồng Âu châu. Hai HĐ sau cùng nầy là HĐ thuộc thế hệ mới và toàn diện.

Một số thành quả về ngoại thương:    2015                          2018                             2019

Xuất cảng:   ($ triệu)                            162,107                      236,862                       253,903

Đầu tư ngoại quốc  ($ tỷ)                   14,100 (2007)            16,120   (2019)

Nguồn: Oxford Business Group

Trong 10 năm qua, xuất cảng tăng trung bình 12-15%/năm.

Tổng cộng FDI cho tới năm 2016 là $293 tỷ. FDI chiếm 25% tổng số đầu tư, và chiếm 70% tổng số hàng hóa xuất cảng (theo IMF).

HĐ mậu dịch CPTPP và EVFTA

HĐ CPTPP chính thức thi hành từ tháng giêng 2019. HĐ EVFTA bắt đầu thi hành từ tháng 8- 2020. Hai HĐ nầy gần như giống nhau. Ở đây xin nói một số điểm chánh của hai HĐ nầy.

Đặc điểm:

Hợp tác toàn diện, vừa đẩy mạnh phát triển mậu dịch và đầu tư, vừa gián tiếp cải thiện các định chế, hệ thống pháp lý và lành mạnh hóa xã hội; đặc tính thứ hai là HĐ dựa trên nguyên tắc kinh tế tự do hay kinh tế thị trường.

Ngoài các qui định về kỹ thuật của mậu dịch và FDI, hai HĐ nầy còn qui định bắt buộc mà các HĐ trước kia không có: sự minh bạch, công bằng trong kinh doanh, sự tham gia của công chúng, tôn trọng tự do và nhân quyền.

Tầm quan trọng và lợi ích:

Khi Hoa kỳ rút ra hồi 2017, CPTPP yếu hơn TPP có Hoa kỳ. Vì Hoa kỳ chiếm tỷ trọng 58% của CPTPP. Nếu có Hoa kỳ (tương lai có thể Hoa kỳ trở lại) thì 12 nước thì GDP chiếm 40% GDP thế giới, và 37.5 % lượng hàng hóa giao dịch của thế giới. CPTPP nay chỉ có tỷ trọng 13% GDP và 17% của thế giới. Hiện nay, EVFTA lớn nhứt của VN, và CPTPP hàng thứ tư, sau Hoa kỳ và TC ( VN xuất siêu qua Hoa kỳ khoảng $40 tỷ/ trong năm vừa qua, còn với TC thì VN phải nhập siêu trên $30 tỷ/ năm).

Theo ước tính của các chuyên gia thì tới 2030, EVFTA sẽ giúp VN tăng xuất cảng 12% năm và GDP tăng 2,4% . (Theo Report World Bank tại VN, tháng 5/2020).

Hai HĐ mới còn giúp gia tăng năng suất công nhân, tạo thêm việc làm, cải tiến phẩm chất hàng hóa, và giúp cải thiện vấn đế tài chánh, tín dụng theo chiều hướng tiêu chuẩn quốc tế.

Các khó khăn nghiêm trong:

Mặc dù tương đối thành công trong Hội nhập, mặc dầu hai HĐ mới có tầm mức quan trọng và là hy vọng nhiều cho VN, nhưng con đường đi tới của Hội nhập toàn cầu của VN còn rất nhiều khó khăn và thử thách. Nếu VN như các quốc gia có Tự do Dân chủ và Nhân quyền thì khó khăn ít hơn và dễ cải thiện hơn nhiều. Mà những khó khăn lớn lại nằm trong các lãnh vực ngoài tính chuyên môn trong mậu dịch và đầu tư. Nhưng nó gián tiếp và quan trọng, vì nếu VN không thi hành đúng sẽ bị chế tài, nghĩa là không được hưởng những ưu đãi của hai HĐ.

Các khó khăn chánh yếu là:  Phải tôn trọng nguyên tắc kinh tế thị trường thực sự. Phải có công đoàn độc lập và bảo vệ quyền công nhân theo luật quốc tế. Phải bảo vệ môi trường. Phải điều hành kinh tế cách minh bạch và công bằng. Phải cải sửa và giảm quốc doanh. Phải giảm tham nhũng và có công bằng xã hội.

Đó là những thử thách, những khó khăn tồn tại từ rất lâu và nguyên do là từ bản chất chế độ và sự vận hành nhiều sai trái của chánh quyền.

II.1.2.  Mối liên hệ kinh tế VN với Hoa kỳ và Trung cộng

Lịch sử cho biết VN từ lâu ở trong thế kẹt trong tranh chấp Hoa kỳ và Trung quốc, từ sau đệ nhị thế chiến cho tới ngày nay.

Sự mâu thuẩn và tranh chấp lớn của hai siêu cường quốc Hoa kỳ và TC có liên quan đến VN  từ chiến tranh với Pháp, rồi qua cuộc đụng độ giữa hai khối Tự do và CS, đến chiến thắng của CS tại VN, đến nay là sự tranh giành “độc bá thiên hạ” của hai siêu cường nầy.

Hệ quả đó với VN trên nhiều mặt, từ chánh trị, quân sự , kinh tế và xã hội. Có những hệ quả nhứt thời, nhưng cũng có những hậu quả trong lâu dài.

Để hiểu về hệ quả của Chiến tranh Mậu dịch Mỹ-Trung cho VN,  chúng tôi xin tóm tắt mối tương quan giữa VN và Trung quốc , giữa VN và Hoa kỳ trên mặt thương mại và đầu tư.

Trên con đường phát triển hội nhập toàn cầu, TC và Hoa kỳ là hai đối tác quan trọng nhứt nhì cho VN. Sự gắn chặt kinh tế VN với hai đại cường Hoa kỳ và TC có tính chiến lược.

II.1.2.1. Tương quan kinh tế VN -Trung quốc:

Sự lệ thuộc kinh tế TC quá lớn và khó thoát ra có nguồn gốc từ mối tương quan chánh trị giữa hai nước. VN ở thế yếu vì các lý do: Thứ nhứt là hai chế độ CS độc tài chuyên chính giống nhau. Sau khi Sô Viết sụp đổ thì hai nước càng sát nhau hơn để bảo vệ nhau sự sống còn, nhứt là về an ninh chính trị, đảng CS VN hay các lãnh tụ đảng luôn coi đảng CSTC là sự bảo đảm tốt nhứt; thứ hai là vì địa lý, VN nằm cạnh một nước khổng lồ có sức mạnh lớn hơn nhiều lần và với truyền thống tham vọng bá quyền;  thứ ba là VN là nước nghèo cần phát triển kinh tế, mà TC là một nước đàn anh giúp đỡ đầu tư, vay mượn dễ dãi, và sự cấu kết tham nhũng cũng dễ dàng hơn. Về mặt kinh tế, VN là thị trường lớn nhất của TC ở Đông nam Á, và ngược lại thị trường TC cho hàng hóa VN khá lớn, đứng hàng thư tư. Sự lệ thuộc TC được xác lập qua sự kiện quan trọng là hai lãnh đạo Trung quốc, Giang Trạch Dân và lãnh đạo VN , Nguyễn văn Linh, ký Hiệp đinh bình thường hóa vào ngày 7 tháng 11 năm 1991. Tiếp theo từ đó có nhiều Hiệp định toàn diện và theo đó CSVN dâng cho TC nhiều điều nhiều thứ kể cả kinh tế có lợi cho TQ và quá nhiều thiệt hại cho VN.

Tóm tắt mối tương quan kinh tế VN- TC  

Cam kết mạnh mẽ và rõ ràng giữa hai đảng và hai chánh phủ bắt đầu từ 1991. Năm 2007, Thành lập Ủy ban Hợp tác Kinh tế Thương mại . Mới nhứt là Thỏa ước hợp tác kinh tế toàn diện ký hồi tháng 11/2017 giữa Trần đại Quang và Tập cận Bình. Hai bên trao đổi qua các hiệp ước song phương và đa phương.

Sự trao đổi giữa hai lãnh đạo thường dễ dàng vì có chủ thuyết và mô hình kinh tế của hai nước  giống nhau .

Trên quan điểm và sự cấu kết , hai nước Việt Trung cụ thể hóa các Thỏa ước, đã có nhiều phái đoàn chánh phủ cũng như doanh nhân hai bên trao đổi kế hoạch đầu tư và mậu dịch cụ thể.

Về Đầu tư trực tiếp và thầu công trình lớn

TQ là một trong 4 nước có đầu tư ngoại quốc cao nhứt tại VN. TQ đầu tư gia tăng: 2 tỷ mỹ kim (năm 2012) lên $10.5 tỷ mk (2016) từ hạng 13 lên hạng 8. Theo báo cáo của  Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì chỉ riêng tháng giêng 2017 , TQ đã đầu tư trực tiếp $340 triệu mk (chiếm 22% tổng số đầu tư ngoại quốc tại VN), và đứng hạng ba sau Singapore và Nam Hàn. Từ khi Hiệp định TTP được ký hồi đầu năm 2016, TQ đẩy rất mạnh đầu tư ở VN. Chỉ trong 10 tháng năm 2017, TQ đầu tư 214 dự án với tổng số vốn $1,6 tỷ mk (theo Vietnam Business News, tháng giêng 2018). Các FDI của TC có ba mục đích: Cạnh tranh với công nghiệp và tiểu thương VN để chiếm thị trường VN, mục tiêu thứ hai là khai thác dầu khí, khoáng sản cho kinh tế TQ, loại thứ ba là các ngành né tránh các HĐ đa phương như tơ sợi, phân bón hay ngành có thể dùng chứng chỉ xuất xứ VN để bán qua Mỹ tránh né thuế quan cao như nhôm thép , đồ gỗ, và thứ tư là các dự án trong kế hoạch “Belt and Road” trong chiến lược bao vây toàn cầu như hải cảng, đường xe lửa, sân bay…

TQ thầu thực hiện các dự án đầu tư công lớn, trên 100 triệu mỹ kim. Tổng quát từ 5 năm nay, 80% các dự án xây dựng hạ tầng, điện nước hầm mỏ , chánh quyền VN giao cho TQ thực hiện.

Khai thác quặng nhôm ở  Lâm đồng và Gia lai, năm 2008 với kinh phí hai dự án lên 950 triệu mỹ kim. Công trình bị kéo dài đến 2014 mới bắt đầu sản xuất.  Nhôm sơ chế bán hết qua TC và bị ép giá. Hai dự án nầy bị lỗ $200 triệu/năm.

TQ thầu được nhiều dự án lớn: nhà máy điện Bình Tuy, Vĩnh Bình tổng cộng trên 2 tỷ mỹ kim,

Dự án Đường xe lửa Cát Linh- Hà Đông (2008) với chi phí đầu tư lúc đầu $552.89 triệu, trong đó tiền vay TQ $419 triệu. Đến 2016 tổng chi phí được điều chỉnh lên $868.04 triệu.Tới năm 2020  chưa xong, dù thời gian thực hiện kéo dài gấp ba. Mỗi năm theo tính toán lúc đầu, VN phải trả nợ cho TQ  $28.8 triệu. Nay công trình kéo dài nợ phải trả nhiều hơn.

Về xuất nhập khẩu: Trung bình từ năm 2010 -2016 hàng nhập từ TQ tăng 18%/năm, năm 2017 ước lượng tăng 15.3%. Theo Vietnam Business Forum, tháng giêng 2018, tổng trị giá xuất nhập năm 2016 là $73 và 11 tháng năm 2017 lên tới 82 tỷ. Xuất siêu với Hoa kỳ gần bằng nhập siêu từ TC.

Hoa kỳ nhập siêu tăng từ US$9 tỷ (2007), lên $17.3 tỷ lên $28.9 tỷ (2015), 39 tỷ (2017). VN đứng hàng thứ 7 trong các nước Hoa kỳ nhập siêu, ý là chưa có TPP.

Về đầutư Hoa kỳ vào VN (FDI): Cũng tăngnhanh. Từ $2000 tỷ đô (2010) lên $10.5 tỷ (2016). Từ hạng 19 (2010) lên hạng 9 (2016). Và tiếp tục tăng, nhứt là vì Chiến tranh Mậu dịch, một số công ty lớn của Mỹ chuyển qua VN. Nhìn chung qui mô FDI của Mỹ khác với TC. Mỹ chủ yếu đầu tư các ngành quan trọng mà VN rất thiếu khả năng như dầu khí, nhiệt điện, sửa chữa máy bay, điện tử…

Còn TC đầu tư đủ thứ, một loại có tác hại xâm nhập thị trường và cạnh tranh thị trường VN như : địa ốc, khu giải trí, casino, bán lẻ ..

Càng tăng giao thương tăng VN càng lỗ vì nhập siêu của VN với TC rất cao, trung bình US $ 30 tỷ, gần bằng số xuất siêu của VN với Hoa kỳ. Như trên, trong vòng 16 năm mà mậu dịch hai bên gia tăng gấp hơn 23 lần. VN trở thành thị trường lớn nhứt của TC trong khối ASEAN. Còn TC là thị trường lớn thứ ba của VN. Chưa kể hàng hóa qua lậu giữa hai nước ước lượng US $20 tỷ/ năm.

VN mua của TC đủ mọi thứ hàng tiêu dùng vì giá rẻ, một phần số lớn hàng qua lậu ở biên giới. Còn TC mua của VN hầu hết dầu thô, nông sản, khoáng sản.

Đầu tư tại VN, TC tràn ngập đầu tư dưới nhiều loại từ điện lực, cầu cống, phi trường, nhà đất tới cơ sở mua bán nhỏ trải dài từ Bắc vô Nam. Trong 10 tháng 2017, TC nhận được các gói thầu và dự án đầu tư tại VN trị giá US $11.9 tỷ (theo WTO văn phòng VN). Ngoài ra, kỹ nghệ VN bị lệ thuộc nguyên liệu của TC. Như ngành may mặc, giầy dép có nguyên liệu nhập 80% từ TC.

Viện trợ. TC cho VN vay rất lớn, họ giữ bí mật con số tổng quát. Nhưng qua một số dự án lớn, đang thực hiện, như ba công trình nhiệt điện ở Phan thiết, Bình Tân và Vĩnh Bình lên tới 6 tỷ mỹ kim, dự án đường xe lửa Cát linh – Đông hà với kinh phí lúc đầu $385 tỷ  sau 4 năm thi công tăng đội vốn lên $850 tỷ, nay sau 8 năm vẫn chưa hoàn tất. Thường TC cho vay 80% chi phí dự án. Các dự án lớn hầu hết nằm trong đại kế hoạch Belt & Road Initiative (BRI). Nội phần trả lãi cũng là gánh nặng cho người dân.

Riêng về mặt kinh tế TC-VN có tầm mức rất quan trọng. Đầu tư TC tại VN (2017) đã lên hàng thứ tám trong các nước.

Theo thỏa hiệp ký vào năm 2011 về dự án thăm dò dầu và lợi ích khác dưới biển trong đó có phần chánh là lãnh hải TC chiếm của VN. Một “hợp tác” khai thác dầu khí trị giá một tỷ mỹ kim. Dự án nầy do công ty quốc doanh dầu lửa CNOOC của TC (theo báo The Gardian ngày 15-5-2014). Từ đây đưa tới hậu quả là TC cứ tự nhiên kéo giàn khoan thăm dò dầu khí từ vùng nầy đến vùng kia của VN. Và TC còn ra lịnh cấm và đuổi các các nước khác hợp tác VN khai thác như công ty Rapsol của Tây ban Nha, công ty Exon của Mỹ.

Năm 2013 VN- TC lại ký Thỏa ước hợp tác về mậu dịch, hạ tầng cơ sở, an ninh biển, kể cả khai thác dầu khí.

Năm 2017 khi Tập cận Bình (TCB) đến VN dự Hiệp định APEC, hai bên có ký một Bản ghi nhớ cho Thỏa hiệp 5 năm hợp tác về mậu dịch và kinh tế giữa VN-TC . Trong đó nói về các mục: mậu dịch, đường xe lửa Vân nam-Hà nội-Hải phòng, hai bên còn cam kết sẽ kiểm soát và quản lý tốt về quyền lợi lãnh hải (theo báo Shanghai Daily ngày 4 tháng 11 2017). Tiếp sau chuyến thăm của TCB, VN-TC ký một loạt 83 Hiệp định thương mại trị giá US $1,94 tỷ (theo Reuter 8-11-2017).

Sau đó các HĐ được chi tiết hóa bởi nhiều Bộ hay cơ quan liên hệ của hai bên. Ví dụ một phái đoàn 60 đại diện của 30 công ty do Bộ Thương mại TC qua VN làm việc bởi Bộ Công thương VN để thực hiện cụ thể. Sự hợp tác kinh tế VN-TC được đẩy mạnh với bề ngoài TC đưa ra hình thức tốt đẹp, như lời ông Zhi Luxun, trưởng phái đoàn phát biểu “China is ready to join hands with VN in upholding the Silk Road spirit of peace and cooperation, openness and exclusiveness, mutual learning and mutual benefit” (theo China Daily 9-11-2017) – “TC sẵn sàng hợp tác với VN trong tinh thần dự án Silk Road là hợp tác hòa bình, cởi mở và đặc biệt, hai bên hiểu biết nhau và cùng nhau có lợi” . Đó là chánh sách chung của TC khi hợp tác kinh tế với nước khác, một thể hiện êm ái lúc đầu và hiểm độc về sau của “Thực dân kiểu TC”.

Vấn nạn tồn tại giữa VN – TC trong hợp tác kinh tế:

Tinh thần hợp tác toàn diện của TC là sự kềm kẹp toàn diện. Kinh tế đi song song với chánh trị và an ninh.

Thái độ TC luôn trịch thượng kẻ cả đối với VN, nhứt là khi đảng CSVN chưa thoát khỏi đảng CSTQ. Nhứt là thái độ các lãnh đạo VN “thà mất nước hơn mất đảng”.

Sự áp đảo chiếm đoạt VN có tánh cách chiến lược và lâu dài, vì địa lý, tài nguyên dầu khí, vì văn hóa, vì việc phát triển lực lượng Hoa kiều hải ngoại, và vì thế quân bình quốc tế khi Hoa kỳ và Âu  châu chuyển trục qua Á châu.

Sự hợp tác kinh doanh hay viện trợ còn là sự “hợp tác tham nhũng” và hủy hoại tài sản VN 

Về mặt chiến lược, TQ  coi VN là một quốc gia ưu tiên số một cần nắm chặt về phương diện an ninh và kinh tế. CSVN ở thế yếu, cần chỗ dựa chắc, nên thường không cưỡng lại ý đồ của TQ.

Về thầu xây cất các công trình lớn. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, trong chánh sách bung mạnh ra thế giới, TQ yểm trợ cho nhiều nước đang phát triển, trong đó có VN, xây dựng nhiều công trình hạ tầng cơ sở bằng sự phối hợp cho viện trợ khoảng 80% kinh phí, nước nhận viện trợ giao cho TQ thầu, mà không có đấu giá cách bình thường, TQ bán máy móc trang thiết bị, và đem chuyên viên và công nhân qua thi công. Trong vòng 10 năm nay, VN giao cho TQ 80% công  trình và phẩm chất công trình rất yếu kém.

Một nguy hại về mặt xã hội là VN đang xây dựng nhiều casino ở các khu kinh tế Vân đồn, Vân phong và Phú quốc. Dân TC qua VN rất đông sống bừa bãi và gây ra nhiều loại tội phạm.

 Dự án công trình lớn song phương và đa phương VN – TQ: Hành lang kinh tế Việt Trung, đại dự án”  Vành đai con đường” qua nhiều quốc gia.

Một số công trình lớn của TC tại VN có liên hệ đến an ninh quốc phòng. Như Dự án Hành lang Trung-Việt với chi phí trên 4 tỷ US$ từ năm 2012, (Ngân phát triển Á châu cho vay 2 tỷ.) trong đó phương án xây dựng các xa lộ từ TC qua 6  tỉnh miền Bắc, và phương án đường xe lửa từ Vân Nam qua Hà nội đến Hải phòng. Dọc bờ biển và các đảo bị TC chiếm trái luật và tự tiện khai thác dầu khí, và đặt căn cứ quân sự. Các điểm trọng yếu thì VN xây các Đặc khu kinh tế cho TQ. Trên cao nguyên TC khai thác dự án quặng nhôm. Phía Tây nam thì TC có căn cứ lớn ở Cambodia. Còn ngã nào để thoát khỏi TC!

II.1.2.2.  Tương quan kinh tế VN – Hoa kỳ

Hoa kỳ và VN thiết lập bang giao năm 1995. Trong hoàn cảnh mới hai nước tiến lại gần nhau nhanh chóng. Nhất là từ khi bá quyền TC muốn chiếm đoạt Biển đông. Ngày nay sự hơp tác Hoa kỳ – VN nâng lên mức toàn diện. Riêng về lãnh vực kinh tế, Hoa kỳ trở thành đối tác số một của VN, chẳng những về thương mại mà còn nhờ có  ảnh hưởng Hoa kỳ với các định chế quốc tế và với một số nước tư bản tự do, và an ninh vùng Biển đông.

 Nay với chiến tranh mậu dịch Mỹ -Trung, tác động cho hai bên Mỹ- Việt chắc có ít nhiều thay đổi trong tương lai mà cả hai bên hy vọng theo chiều hướng tốt.

Hoa kỳ – VN  Ký Hiệp định kinh tế song phương ngày 13-tháng 7 năm- 2000, có hiệu lực từ tháng 12/2001. Đó là HĐ thương mại kiểu cũ, không kèm theo điều kiện Dân chủ và Nhân quyền như các HĐ sau nầy. Trong đó có các điều khoản quan trọng: Hoa kỳ cho VN “qui chế tối huệ quốc” (đ.1,Ch.I). Hàng hóa VN xuất qua Mỹ với thuế quan giảm từ 40% còn 5%. Về bảo vệ và chế tài sản phẩm trí tuệ. Về đầu tư, nếu có tranh chấp sẽ xử dụng trọng tài Liên Hiệp Quốc (UNCITRAL).

Hai bên hứa tạo thuận lợi về mậu dịch và đầu tư (Ch.V).

Cái hy vọng lớn cho hai bên, nhứt là phía VN là HĐ đa phương mang tính cách lịch sử và đặc  điểm mới của Tòan cầu hóa. Đó là HĐ TPP (Trans Pacific Partnership) hồi 2016 gồm  12 nước trong đó Hoa kỳ và VN. HĐ nầy toàn diện hơn đầy đủ hơn trước, ngoài qui định về mậu dịch và đầu tư còn qui định về sự tham gia của người dân, về nhân quyền… Nhưng năm 2017, TT Trump rút ra khỏi TPP. 11 còn lại tiếp tục với tên mới CPTPP. Không có Hoa kỳ là thiệt thòi lớn cho VN, vì Hoa kỳ là đối tác lớn nhất.

Thấy tầm mức quan trọng của Hoa kỳ, VN nổ lực vận động Hoa kỳ qua nhiều công tác như: Hoa kỳ bãi bỏ luật Valik Jackson, (cấm vận với nước CS), sau nầy Hoa kỳ bỏ luật cấm bán vũ khí sát thương tập thể. VN vận động gia nhập Hiệp hội ASEAN, và Hiệp ước mậu dịch tự do APEC.

Về mậu dịch hai bên, tăng nhanh. Dù Hoa kỳ không có là thành viên CPTPP. Trong vòng 20 năm, từ 2001 đến 2011, tăng 1200%, từ US $1.500 lên US $20 tỷ (Theo Wikipedia). Và tiếp tục lên US $77.600 năm 2019. Trong giao thương nầy, VN có lợi nhiều. VN xuất siêu từ US $592 (2001) lên US $39 tỷ (2019)

Về Đầu tư (FDI) của Hoa kỳ tại VN: Có lẽ các công ty của Mỹ với qui mô lớn, trong những năm trước TC mở cửa FDI Mỹ qua TC, nên qua VN ít hơn. Từ 2000- 2018, tổng số FDI của Mỹ ở VN trị giá US $54,5 tỷ dự án (Theo US Department of Trade) . Trong đó các công ty Microsoft, Cisco, Fedex, Coca Cola, Visa, Intel, Bank of America, City Bank… Dù không chiếm vị trí cao, nhưng FDI của Mỹ ở VN trong quá khứ có gia tăng. Hai nước càng ngày càng gần hơn, về mặt đầu tư sẽ tăng hơn và VN cần nhập hàng Mỹ nhiều hơn.

Trong chiến tranh mậu dịch, có một số công ty Mỹ chuyển qua VN. Mặt khác, Hoa kỳ và VN  đang gia tăng đầu tư về năng lượng. Như hồi tháng 10 vừa qua, Công ty Mỹ ký hợp đồng khí hóa lỏng trị giá $2.8 , hợp đồng đầu tư $3 tỷ nhà máy nhiệt điện Bình sơn, Bình Thuận, và một vài dự án lớn nữa trong chiều hướng có vẻ thuận lợi cho hai bên.

Vấn nạn tồn tại giữa Hoa kỳ-VN trong lãnh vực kinh tế:

Bang giao hai nước ngày nay tới mức toàn diện, nghĩa là ngoài kinh tế còn an ninh vùng. Nhưng riêng về mặt kinh tế, hãy còn một số tồn tại như:

Hoa kỳ không tin CSVN thật lòng hợp tác, mà muốn lợi dụng Hoa kỳ về kinh tế, vì VN nằm trong thòng lọng  ác nghiệt của TC, và sự thiếu thành thật của trong quản lý kinh tế .

Hoa kỳ không công nhận VN có nền kinh tế thị trường thực sự (Non Market Economy, NME). Theo luật về thương mại quốc tế của Hoa kỳ thì nếu một quốc gia được cho là có  nền kinh tế không phải thị trưòng thì bị áp đặt một số biện pháp khác có hại cho đối tác đó. (Theo luật US19-USC 1677 về NME “ any foreign country that the administering authority determine do not operate on the market principles of cost or pricing structures so that sale of merchandise in such country do not reflect the fair values of merchandise”- Một nền kinh tế không phải thị trường là bất kỳ một quốc gia bên ngoài khi cơ quan thẩm quyền xác nhận không điều hành theo nguyên tắc thị trường về giá thành hay cách định giá bán một món hàng của quốc gia nầy không phản ánh trị giá đúng của món hàng ). Nhiều lần VN yêu cầu Mỹ công nhận cho VN được qui chế nền kinh tế thị trường. Tới nay Hoa kỳ chưa chánh thức xác nhận .

VN phải gia tăng nhập hàng Mỹ để giảm bới nhập siêu của Hoa kỳ nay lên tới gần US $ 40 tỷ/năm. VN đã hứa nhập thêm hàng các món hàng như máy bay, sản phẩm cho quốc phòng, máy móc kỹ thuật cao, một số nông sản với hàng nhiều tỷ.

Hồi tháng 10 vừa qua, Bộ trưởng Thương Mại HK nêu vấn đề VN đang lũng đoạn tiền tệ để gia tăng xuất cảng. Đó là vấn đề rắc rối có thể xem như sự sai trái trong thanh toán ngoại thương. VN bị Mỹ coi như không minh bạch và công bằng trong điều hành kinh tế tài chánh trong nước. VN không công khai và minh bạch ngân sách, viện trợ, và trong các vụ thầu cho chánh quyền mà VN giao 80% các dự án lớn cho TC. Tin mới nhứt là Hoa kỳ chính thức trừng phạt VN về sự lũng đoạn tiền tệ, là hạ tỷ suất đồng bạc VN so với Mỹ kim. Trừng phạt nầy khá nặng và Mỹ tuyên bố vào ngày gần Giáng sinh, chắc chắn có ảnh hưởng xấu với kinh tế VN.

Hệ thống luật lệ trong kinh tế, VN không đúng tiêu chuẩn quốc tế. Chẳng hạn về quyền công nhân, luật biểu tình, luật hình sự, cũng như nhiều vụ gian lận như việc dán nhãn “Made in VN” cho hàng sản xuất TC. Tóm lại bang giao kinh tế hai bên Mỹ-Việt tiến bộ tốt. Nhưng còn nhiều mâu thuẩn tồn tại phải giải quyết, trong đó có sự lệ thuộc của VN với TC và sự bất quân bình quá lớn có lợi cho VN.

II.2.   Hệ quả Chiến tranh Mậu dịch Mỹ Trung đến VN

Trong phần trên, chúng ta thấy mối tương quan kinh tế VN- TC và VN-Hoa kỳ càng ngày càng gia tăng và có vị thế rất lớn đối với kinh tế VN. Vì vậy khi hai quốc gia số một và số hai đánh nhau thì VN là một trong các nước chịu ảnh hưởng quan trọng. Nhưng cuộc chiến chỉ mới còn ở giai đoạn khởi đầu cho nên hậu quả cho  hai bên cũng như cho VN chưa có nhiều. Ảnh hưởng sẽ nhiều hay ít lâu hay mau tùy cường độ cuộc chiến, và tùy sự chấn chỉnh của VN.

Chiến tranh mậu dịch Mỹ -TC là một trong những biến động thế giới. Có thể đây là khởi đầu cho sự thay đổi lớn về Toàn cầu hóa, và sự tái định hình trật tự thế giới. Với vị thế đặc biệt VN phải dính líu những biến động quốc tế trong ngắn hạn và dài hạn. Muốn được nhiều lợi ích hay tránh bớt hậu quả tai hại, VN cả chánh quyền và dân chúng, cần cứu xét kỹ lưỡng lợi và hại trong sách lược hội nhập toàn cầu của chính mình.

Trong gần hai năm qua , nhiều người nói nhiều đến VN được lợi nhiều nhứt. Nhưng ít người nói đến thử thách cho VN trong ngắn hạn và trong lâu dài.

II.2.1. Hệ quả tích cực 

Hậu quả cuộc chiến mậu dịch làm cho một số nước có lợi và một số nước có thêm khó khăn. Về mặt kinh tế, thì nhiều nhà nghiên cứu cho rằng VN là một trong các nước có lợi nhiều nhứt. Vì VN có nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh ngoại quốc.

Các yếu tố đem lại thuận lợi và tích cực cho VN trong kinh tế quốc ngoại:      

Lực lượng lao động đông đảo và trẻ. Lương công nhân rất thấp, thấp nhứt trong vùng .

Sách lược kinh tế và và hội nhập được coi là mở rộng, hợp tác với mọi quốc gia.

Địa lý thuận tiện cho việc đầu tư xuất cảng. Có thể trở thành trung tâm chế tác khá lớn cho toàn cầu, kể cả chuổi cung ứng trong mô hình Toàn cầu hóa.

Một số thành công và kinh nghiệm trong quá khứ. Trong quá khứ VN tương đối thành công trong mậu dịch và đầu tư quốc tế.

Văn hóa VN tương đối cởi mở, và đã du nhập và hòa hợp được với hai nguồn văn hóa Đông phương và Tây phương.

Trên thực tế, vì chiến tranh mậu dịch, đã và sẽ có một số công ty Mỹ, Nhựt, Đại Hàn chuyển cơ sở qua VN.

Nếu có nhiều công ty chuyển từ TC qua là cơ hội tốt cho VN ổn định thêm kinh tế nội địa quá yếu. Giúp giải quyết thất nghiệp, và tạo thế mạnh hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu.

II.2.2. Hệ quả tiêu cực

VN cũng gặp nhiều khó khăn và thử thách làm cho thuận lợi bị giảm đi. Các yếu tố tiêu cực hay không thuận lợi có thể là:

Mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là hai nền kinh tế mâu thuẩn, đối nghịch. VN không có kinh tế thị trường thực sự. Thực tế, kinh tế XHCN hướng dẫn kinh tế thị trường. Cho nên khu vực tư doanh kể cả tư doanh ngoại quốc bị đối xử không công bằng, bị nhiều thiệt thòi.

Môi trường chánh trị dù “ổn định”, nhưng không có Dân chủ, Tự do và Nhân quyền mà luật lệ các nước đối tác yêu cầu và bắt buộc.

Công nhân rẻ nhưng thiếu chuyên môn, các công ty ngày nay xử dụng kỹ thuật nhiều không mướn được. Một số công nhân có thái độ không tốt do chịu ảnh hưởng nền giáo dục XHCN.

Hạ tầng cơ sở còn rất kém. Trong đó có tình trạng các hải cảng lớn, đường xá cầu cống, điện nước, môi trường ô nhiễm.

Bộ máy hành chánh công quyền rất tệ hại. Luật lệ rắc rối, đôi khi mâu thuẩn giữa luật đảng và luật chánh quyền, một số không theo tiêu chuẩn quốc tế. Bộ máy có hai hệ thống rất to lớn và rất tốn kém. Nhân sự kém khả năng vì nạn con ông cháu cha người có tài không được xử dụng đúng.  Kém hiệu năng chuyên môn và kém đạo đức hành chánh, không minh bạch

Giáo dục yếu kém, không đi sát với bước phát triển kinh tế.

Tệ trạng xã hội: Tham nhũng, bất công xã hội đầy dẫy và khủng khiếp. Đây là một trong những ngại ngùng của doanh nhân ngoại quốc.

Phong cách và tinh thần làm việc của nhiều người, nhứt là ở khu vực chánh quyền là thiếu minh bạch, nghĩa là dấu diếm, gian lận, không thật tình. Chẳng hạn hàng giả, hàng TC dán nhản “made in VN” để xuất cảng qua Mỹ, đã bị bắt gặp, và bị phạt nặng. Sao chép và bàn các loại sản phẩm trí tuệ.

Chánh quyền VN thường chối cải và dấu các vi phạm nhân quyền điều mà luật các đối tác qui định. Các đối tác ngoại quốc rất lo ngại vì chính luật nước họ cũng buộc cho.

Cán cân mậu dịch là điều quan trọng cho hợp tác quốc tế. Nếu VN có xuất siêu quá cao là vấn đề. Trong đó vấn đề lủng đoạn tiền tệ mà Hoa kỳ mới nêu ra cho VN.

Về sách lược và mô hình phát triển. VN phải cải đổi nhanh việc thực thi đúng đắn nền kinh tế thị trường. Chánh quyền phải sửa đổi nhiều luật lệ theo tiêu chuẩn quốc tế. VN phải tôn trọng nhân quyền và Tự do Dân chủ. Trong đó có vấn đề cần phải thực hiện ngay là Công đoàn độc lập. Nó chứng tỏ sự quan trọng về hai điều, thực thi đúng luật pháp quốc tế mà VN hứa nhiều lần, thứ hai là nó có tác dụng tốt cho việc phát triển về hợp tác kinh tế .

Trên đây là tóm tắt thuận lợi và khó khăn của VN trong thời buổi chiến tranh mậu dịch và có thể cho tình trạng thay đổi mạnh mẽ Toàn cầu hóa. VN cần xem kỹ lại mình. Toàn cầu hóa là phải cạnh tranh và là sự hợp tác công bằng không mưu sĩ của nhiều quốc gia. Thứ hai là trên mặt thu hút đầu tư ngoại quốc, VN phải cạnh tranh với Thái lan, Indonesia, Malaysia, Ấn độ, và một số nước ở những khu vực khác.

II.3. Xung đột Mỹ – Trung và Trật Tự Thế Giới trong Tương Lai
II.3.1.Tương lai cuộc chiến Mỹ Trung

Cách tổng quát tình hình xung đột Mỹ Trung cho tới cuối năm 2020 nầy còn nhiều ẩn số và còn nhiều điều chưa giải quyết. Dù thương chiến còn tạm đình chiến, dù các đụng độ trên các mặt trận khác còn đang tiếp diễn và phải tiếp tục trong tương lai. Nói chung vấn đề cực kỳ khó khăn, có lẽ khó hơn thời kỳ chiến tranh lạnh. Dù Mỹ có Tổng thống mới từ năm tới, vì tích tụ từ quá lâu và chằn chịt trong nhiều lãnh vực. Đặc biệt là là do sự tranh bá để chiếm đoạt địa vị lãnh đạo số một thế giới. Có nhiều người ngiên cứu về cuộc chiến không đổ máu nầy, nhưng những kết luận chỉ là suy diễn. Đó là các kịch bản có thể xảy ra trong tương lai.

Có một điều có thể thấy được là cuộc đụng độ Mỹ Trung làm thay đổi trật tự thế giới. Sự tái định hình như thế nào còn tùy các chiến trận trong tương lai giữa hai siêu cường, tùy quan điểm mới về Toàn cầu hóa, và tùy Mỹ và Trung cộng xây dựng được đồng minh như thế nào, hay nói khác tùy mức độ quốc tế hóa cuộc chiến nầy.

Dù thế nào ở tương lai, thì hiện nay Trung quốc và Hoa kỳ đang có những thử thách rất lớn.

Về phía TC, nếu nhìn bề ngoài thì nước CS nầy chưa bị sứt mẽ bao nhiêu. Thậm chí có một số nhà nghiên cứu cho rằng Mỹ bị thua thiệt nhiều hơn TC. Và cũng theo tin tức của một số nhà nghiên cứu sâu bên trong thì TC bị khó khăn lớn về nhiều mặt.

Về kinh tế, mức phát triển 2020 chỉ còn độ 2.9% (World bank) . Xuất cảng giảm. Đầu tư ngoại quốc giảm. Kinh tế trong nước giảm mạnh vì thất nghiệp tăn cao. Mãi lực giảm, mặc dù hai năm qua TC Bình muốn chuyển chánh sách kinh tế cho trong nước nhiều hơn Quốc doanh bị khó khăn hơn, trong đó đặc biệt các ngân hàng vị nợ xấu tăng cao do nhiều công ty phá sản và do một số nước mắc nợ trong kế hoạch Belt& Road bị thua lỗ không tiền trả nợ.

Xã hội và chánh trị TC bị khó khăn vì cùng lúc xẩy ra các vụ chống đối mạnh ở Hồng kong, Tân cương, và Đài loan .

Trên bình diện quốc tế, có nhiều nước, nhiều dân chúng hiểu rõ và chống TC nhiều hơn về mô hình chánh trị XHCN, về thủ đoạn trên thương mại và về văn hóa truyền thông. Nói tóm lại TC đang phải đối diện nhiều thử thách khó giải quyết trong tương lai gần.

Về phía Hoa kỳ cũng đang gặp nhiều khó khăn lớn. Mục tiêu thương chiến không có kết quả bao nhiêu. Vẫn nhập siêu lớn. Đầu tư mới trong nước giảm một phần vì đại dịch. Nợ công tăng , ngân sách thiếu hụt thêm. Người tiêu thụ có khó khăn vì giá cả tăng.

Qua hơn hai năm, cuộc thương chiến chưa có kết quả rõ ràng, nên tương lai cũng chỉ suy đoán .

Có thể có ba kịch bản xảy ra trong tương lai:

1/ Trung quốc kiệt sức trước. Có thể TC suy sụp và chống đở khó khăn. Lý do là tham vọng quá lớn. Thực hiện quá nhanh và quá rộng. Kinh tế dựa vào xuất cảng quá nhiều, khi kinh tế toàn cầu thay đổi TC bị ảnh hưởng mạnh nhứt. Nội bộ chia rẽ và nhiều chống đối. Trên thế giới TC bị phản ứng xấu và sức mạnh kinh tế bị hạn chế. Trong trường hợp nầy TC phải thay đổi sách lược kinh tế. Dù trong khó khăn nào thì sức mạnh kinh tế TQ không dễ dàng vị sụp đổ nhanh chóng.

2/ Hoa kỳ thất bại. Trường hợp thứ hai là Mỹ bị suy yếu, bị hụt hơi. Vì kinh tế không phục hồi nhanh và mạnh. Chánh trị trong nước bị xáo trộn hơn, chia rẽ làm sức mạnh Mỹ yếu từ trong nước lẫn quốc tế. Hoa kỳ đi vào giai đoạn khó khăn nhất từ sau thế chiến thứ II. Do đó thế số một thế giới bị thách thức. Mặc dù chánh nghĩa Dân chủ Tự do, Nhân quyền còn đó. Nhưng những giá trị nào cũng phải xây dựng cách thực tế dựa trên sức mạnh kinh tế.

3/ Hai bên giải hòa. Vì cả Hoa kỳ và TC đều nhận ra rằng khó có thể một bên chết và một bên chiến thắng. Ngày nay cả hai siêu cường cần hợp tác, mặc dù có nhiều xung khắc, nhiều  mâu thuẩn. Tức là hai nước giải quyết trên quyền lợi thực tế, hai bên cùng có lợi. Điều mà TQ đã nêu ra từ lâu, nhưng không phải là điều mà TC thực lòng theo đuổi. Từ thời Tổng thống  Nixon thiết  lập bang giao với TC nay đã gần 60 năm , Hoa kỳ và Âu châu đã hiểu sai về TC quá lâu và quá nhiều. Liệu tương lai ra sao, có rút được nhiều kinh nghiệm đau thương không?

Hợp tác quốc tế trên căn bản hòa bình và thịnh vượng luôn là nguyên tắc đúng. Nhưng lợi dụng danh nghĩa đó cho mưu đồ đen tối là không chấp nhận được.

II.3.2. Vấn đề trật tự thế giới mới

Nhiều người nghĩ là là báo hiệu sự cáo chung của Toàn cầu hóa (TCH) theo căn bản tự do hoàn toàn, nghĩa là không có hạn chế và cản ngăn trong trong ngoại thương trong đầu tư ngoại quốc và giao lưu tiền tệ. Mặc dù qua hơn năm thập niên của mô hình TCH đó đem lại nhiều lợi cho kinh tế thế giới. Nhưng nó đã bị TC lạm dụng và lợi dụng để phát triển sức mạnh toàn diện của mô hình XHCN kiểu mới. Nếu tiếp tục như vậy trong tương lai không xa, TC sẽ chiếm vị trí lãnh đạo thế giới.

Như vậy có thể thế giới trở lại “lưỡng cực” như thời chiến tranh lạnh của hai khối Tự do và Cộng sản. Sau khi Liên sô và Đông Âu sụp đổ (1991), khối CS bị bể. TC lúc đó không đủ sức mạnh để đương đầu với Mỹ và Âu châu. TC thay đổi quan trọng  mô hình XHCN với sắc thái Trung quốc để đánh lừa khối tự do, khối thế giới thứ ba gồm các nước đang phát triển, và TC còn đánh lừa cả quần chúng TQ, để tìm một con đường mới. “Giấc mộng TQ” mà Tập cận Bình theo đuổi cách quyết liệt là trong tương lai gần TQ có vị trí siêu cường ngang hàng với Hoa kỳ. Lúc đó thế giới có trật tự lưỡng cực, nhưng rất khác với lưỡng cực trước 1991. Bây giờ TQ nguy hiểm hơn Liên Sô nhiều. Cực thứ ba là Âu châu, sau nhiều năm thụt lùi, giờ muốn vùng lên. Nhưng thế và lực của Âu châu chưa đủ mạnh. Nhu cầu tốt nhứt để chận TC lên “độc bá quyền” là Hoa kỳ và Âu châu trở lại tình đồng minh tốt hơn hiện nay. Một “liên minh  lõng lẽo” chưa đủ mạnh nhưng cũng có thế và lực nào đó không nhỏ và có lập trường chống TC là  “Liên minh Kim Cương” gồm  Mỹ , Nhật , Úc và Ấn độ.  Thế giới còn lại là rất nhiều nước, phần lớn nghèo và “cuốn theo chiều gió”.

Người ta nghĩ tương lai trật tự thế giới sẽ có thay đổi nhiều , nhưng chưa ai có thể biết rõ nó như thế nào vì thế giới còn nhiều biến động, trong đó hận thù và mặc cảm quá khứ, về chủng tộc  vẫn còn đè nặng trong tâm tư con người.  Còn biến động quốc tế thì Việt Nam còn bị lôi cuốn vào nhiều khó khăn lớn gần như một định mạng .

Cali, cuối năm 2020          

Nguyễn Bá Lộc.

 

                                             

                

Visits: 235

Đi thăm Australia và New Zealand

Đặng-Quốc-Tuấn 

                                                          

Australia và New Zealand thường được gọi là Down Under (Miệt Dưới) vì ở Nam Bán Cầu và “below” rất nhiều nước khác. Down Under được dùng từ cuối Thế-kỷ 19 và trở nên rất thông-dụng. Bản nhạc nổi tiếng “Down Under” của ban nhạc Men At Work đã quảng-bá thêm cho tên gọi thân-thương này với những lời ca yêu-mến:

Do you come from a land down under

Where women glow and men plunder

I come from a land down under

Where beer does flow and men chunder

Năm 2004, khi hoa-hậu Úc Jennifer Hawkins thắng giải Hoa-hậu Hoàn-vũ (Miss Universe), cô được giới-thiệu là Hoa-hậu của Miền Down Under.

Hội-ngộ Liên Khóa Úc Châu 2018

Tôi không gọi là HNLK Kỳ 4 như Ban Tổ-chức và nhiều người gọi vì theo tôi, đây là Kỳ 5. Năm 1999, Tổng Hội CSV/QGHC đã tổ-chức Họp Mặt lần đầu tiên ở Virginia. Năm 2014, Hội CSV/QGHC Texas tổ-chức cuộc Họp Mặt Kỳ 2 nhưng lại gọi là Kỳ 1. Một hội-viên Hội Miền Đông đã đính-chính nhưng Hội CSV/QGHC Texas vẫn giữ tên là Kỳ 1 và giải-thích rằng Họp Mặt Năm 1999 là Đại Hội QGHC Thế Giới, đêm Liên-hoan gọi là Đêm Hành Chánh Hội Ngộ chứ không phải Hội-nghị Liên Khóa; bởi vậy HNLK 2014 ở Houston là HNLK Kỳ 1. Tôi không hiểu sự khác biệt giữa “Đêm Hành Chánh Hội Ngộ” và “Hội Ngộ Liên Khóa” ra sao? Có lẽ chỉ nên đặt tên Họp Mặt theo năm và nơi tổ-chức, không cần “Kỳ” nữa. Nói vậy thôi chứ Hội CSV/QGHC nào tổ-chức họp mặt và đặt tên ra sao tôi cũng đi để gặp bạn-bè.

Tôi và Nhà Tôi vẫn có ý-định đi thăm vùng Miệt Dưới từ lâu nên khi Hội CSV/QGHC Úc tổ-chức HNLK 2018 tôi ghi tên ngay. HNLK 2018 được tổ-chức rất chu-đáo, thành-công tốt-đẹp. Trước ngày Đại-hội có tour đi Canberra, hai buổi họp-mặt “Tiền Hội-ngộ” và “Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô.” Sau ngày Đại-hội lại có tour Sydney, tour Symbio Wildlife Park và cruise Great Barrier Reef. Thật là qúa đầy đủ, ít cuộc họp mặt thân-hữu nào có nhiều “options” như vậy.

Trung Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa Cộng Đồng

Tour Canberra do anh Đặng Văn Hiền hướng-dẫn. Anh Hiền vốn là một công-chức lâu năm ở đây nên hiểu biết rành-rẽ tổ-chức của chính-quyền Úc. Anh Hiền và người hướng-dẫn ở văn-phòng Quốc-hội đã đưa chúng tôi đi thăm các văn-phòng Thượng và Hạ Nghị-viện Úc. Đi thăm Australian War Memorial thấy hình ảnh cuộc chiến Việt Nam lại buồn nhớ đến hơn 3 triệu người Việt Nam chết, gần 60,000 chiến-sĩ Hoa Kỳ và Đồng Minh đã bỏ mình để ngăn làn sóng Đỏ ở Việt Nam, bảo-vệ tự-do cho Thế-giới. Xin cám-ơn Chính-phủ, Quân-đội, và nhân-dân Úc đã trực-tiếp tham chiến tại Việt Nam, khởi sự từ con số khiêm-nhường 30 Cố-vấn Quân-sự năm 1962 lên đến một lực-lượng hùng-mạnh 7,672 chiến-sĩ. Trước chiến tranh Afghanistan, chiến-tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất trong lịch-sử Úc. Tuy chiến tranh Afghanistan dài hơn chiến-tranh Việt Nam, lực-lượng Quân-đội Úc ở Afghanistan lại ít hơn ở Việt Nam nhiều. Khoảng 60,000 chiến-sĩ Úc đã tham chiến tại Việt Nam, 521 chiến-sĩ Úc đã bỏ mình, và hơn 3,000 người bị thương. Chúng ta không thất trận ở Việt Nam, chúng ta đã thất trận ở Paris và Washington!

Trụ-sở Quốc-hội Australia

 

Sydney Opera House

Tour Sydney và Tour Symbio Wildlife Park do hai anh David Ngô và Lê Văn Thái hướng-dẫn đã đưa chúng tôi đi thăm hầu hết các thắng cảnh ở Sydney. Vào những đêm giao-thừa Dương lịch, tôi hay theo-dõi Năm Mới tuần-tự đến với các nước. Sydney, vì ở Down Under, nên là thành-phố lớn đầu tiên đón Năm Mới. Nhìn cảnh pháo bông rực-rỡ trên Sydney Opera House và Sydney Harbour Bridge, vợ chồng tôi vẫn có ý-định đến thăm nơi này vào một đêm giao-thừa. Nay tuy không phải là giao-thừa nhưng chúng tôi cũng đã được đi trên Harbour Bridge, vào thăm Opera House thì cũng mãn nguyện. Hàng năm có hơn 8 triệu người viếng thăm Sydney Opera House, một thắng cảnh được liệt-kê là UNESCO World Heritage Site. Tour Symbio Wildlife Park không hấp-dẫn cho lắm vì tôi không thấy con kangaroo mẹ đìu con trước bụng như tôi đã thấy ở Mỹ; kangaroo ở sở thú này nhỏ nhưng rất hiền và thân-thiện. Nhà Tôi rất thích con két trắng cứ luôn luôn chào “Hello” với nàng.

Sri Venkateswara Temple – Helensburg                            

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô đựợc tổ-chức rất long-trọng và cảm-động. Hội CSV/QGHC Úc vẫn tổ-chức lễ này hàng năm nên có nhiều kinh-nghiệm, tổ-chức rất chu-đáo. Có Chủ Tế, Bồi Tế mặc áo thụng, khăn đóng cổ-truyền với tiếng chiêng, tiếng trống linh-thiêng. Có dâng hương, hoa, rượu, trà, bánh trái. Anh Trần Thiện Tích đã nói lên tình thầy trò đậm-đà và nỗi lòng biết ơn, thương-tiếc của CSV/QGHC với các Thầy, các Cô đã qua đời. Anh Tích và Chủ Tế Bùi Đức Hùng cũng nhắc đến một số đồng môn đã đi trước chúng ta, nhiều người đã anh-dũng hy-sinh cho Tổ-quốc. Đặc-biệt năm nay khi các CSV/QGHC tổ-chức Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô thì một vị Thầy khả-kính là Giáo-sư Nguyễn Khắc Nhân vừa nằm xuống ngày hôm trước ở Sydney. Nơi Thầy đang nằm chỉ cách chỗ các học-trò đang tổ-chức Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô một khoảng đường rất ngắn. Nguyện xin Thầy an-nghỉ và cầu mong hương-linh Thầy sớm siêu-thoát về Miền Cực Lạc. Riêng con, con không bao giờ quên ơn Thầy đã chấm Luận-văn Tốt-nghiệp Khóa Đốc-sự 10 của con hạng nhất trong lớp.[1]

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô

Tôi sang Úc hơi trễ nên đã không còn gặp được một vài người bạn thân-thương đã đi trước chúng ta. Anh Lưu Văn Của học chung với tôi Khóa Cao-học 2. Anh Nguyễn Khoa Huân, huynh-trưởng Khóa Đốc-sự 2, một người bạn vong niên của tôi. Khi Anh làm Trưởng-ty Thuế-vụ Nha-trang / Khánh-hòa thì tôi làm Trưởng-ty Thuế-vụ Lâm-đồng, chúng tôi có chung một “xếp” và vẫn đi họp với nhau. Anh không nề-hà tuổi cao đã dấn thân ra làm Chủ-tịch Hội CSV/QGHC South New Wales với ý-định cùng ACE tổ-chức HNLK 2018 cho thật đẹp. HNLK chưa tới thì anh đã ra đi. Một đàn anh nữa là Anh Nguyễn Văn Thực làm Chánh Sự Vụ Sở Hành-chánh khi tôi về học Cao-học. Về Sài-gòn tôi phải thuê nhà hết gần $2,000 một tháng lại mất phụ-cấp chức-vụ nên ăn tiêu hơi thiếu thốn; tôi đi tìm việc làm thêm. Anh Thực lúc ấy đang coi Trung-tâm Văn-hóa Bình-dân vào buổi tối; anh nhường cho tôi khi biết tôi chưa tìm được việc làm. Hội Văn-hóa Bình-dân mở các lớp học vào buổi tối dạy chữ, dạy nghề cho các em lớn tuổi nhưng không có điều-kiện theo học các trường ban ngày. Hết khóa học, tôi trả lại anh Thực việc làm này và đi dạy học ở Trường Trung-học La-san Đức Minh. Tôi không bao giờ quên nghĩa-cử này của anh Thực đã dành cho tôi. Nói chuyện với chị Thực tôi mới biết anh Cung Đình Thanh, Luật-sư Chủ-tịch Hội Văn-hóa Bình-dân cũng mới mất ở Úc.

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô

Một người bạn nữa tôi không được gặp là anh Đặng Gia Thoại; Thoại học chung với tôi Khóa Đốc-sự 10 lại ở cùng phòng trong Ký Túc Xá. Tôi quen biết hầu như hết mọi người trong gia-đình Thoại. Tôi còn học chung với chị Thoại ở Đại-học Văn-khoa Sài-gòn. Xem danh-sách, tôi có thấy chị Thoại ghi tên tham-dự Lễ Tưởng Niệm nhưng tôi đi quanh phòng họp mấy lần cũng không thấy chị. Sợ rằng không gặp Chị từ lâu nên tôi không nhận được Chị, tôi nhờ Dũng và Khôi là dân Khóa 10 ở Úc đi tìm mới hay Chị không đi dự được. Trong buổi Lễ Tưởng Niệm này, tôi đau buồn nhớ đến mấy người bạn thân-thương của tôi ở Úc mà tôi không còn gặp được nữa. Họ đã bỏ chúng ta sang bên ấy thành-lập một Chi-hội CSV/QGHC mới. Chắc chắn là Chi-hội của họ sẽ càng ngày càng đông hội-viên, Chi-hội của chúng ta ở lại sẽ càng ngày càng ít đi. Không biết ai sẽ là người cuối cùng ở lại cõi đời vô thường này?

Về đến Hoa Kỳ, nhà tôi, vốn là một nhà giáo, vẫn tấm-tắc khen-ngợi “Em chưa từng dự một Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô long-trọng và cảm-động như ở Úc.” Tôi đề-nghị các Hội CSV/QGHC và ACE/CSV gửi về Hội QGHC Úc Châu hình, ngày sinh, ngày qúa vãng của các thầy, các cô, các bạn CSV đã qua đời để Hội Úc Châu cập nhật Bàn Thờ. Nếu không đủ chỗ thì in hình nhỏ, nếu không có hình thì chỉ ghi tên trên bài-vị. Hiện nay Hội Úc Châu chỉ có hình của 8 Thầy.

Đêm Liên Hoan được tổ-chức rất tưng-bừng, náo-nhiệt, thành-công rực-rỡ. Văn-nghệ rất hay, MCs lưu-loát, thức ăn đầy-đủ. Đặc-biệt Ban Tổ-chức còn “đãi” anh em món thịt đuôi con Kangaroo. Nhà Tôi rời bàn ăn, không muốn nhìn tôi ăn thịt Kangaroo là một con vật Nhà Tôi rất thương-yêu vì chúng có tình mẫu tử vô cùng đặc-biệt.

Đêm Liên Hoan là một đêm tràn đầy niềm vui được “Hội Ngộ.” Video đẹp, rõ-ràng nhưng chỉ tiếc là mỗi khi anh Đượm hay MC giới-thiệu ai thì video vẫn chỉ chiếu hình anh Đượm hay MC chứ không thấy “long nhan” của người được giới-thiệu. Video cũng ít chiếu hình những bàn ở xa.

Đêm Liên-Hoan

Xin chân thành cám ơn Anh Hà, Anh Thái, Anh Đượm và Ban Tổ Chức đã bỏ công, bỏ của, bỏ thời giờ tổ-chức một cuộc Hội Ngộ vui-vẻ, chu-đáo, đẹp-đẽ, thành-công vượt bực mặc dù Cờ Luân Lưu đã có lần bị gửi trả lại cho Hội CSV/QGHC Nam Cali để tìm một hội khác tổ-chức HNLK 2018. Với tư cách là một thành viên của Hội CSV/QGHC Miền Đông, tôi đang lo-ngại cho Hội của tôi sang năm tới rất khó “qua mặt” được Hội CSV/QGHC Úc.

Đêm Liên-Hoan

Tổ-chức nào cũng có người khen, kẻ chê. Tôi có nghe loáng thoáng mấy lời “xì xào” của vài tham-dự viên và vài ACE trong Ban Tổ-chức nhưng, các anh ơi, không bao giờ chúng ta có thể thỏa-mãn 100% mọi người. Người không bao giờ bị chỉ-trích là người không làm gì và cũng chẳng bao giờ phát-biểu ý-kiến, chẳng bao giờ viết một bài gì. Học-viện QGHC đào-tạo sinh-viên thành những công-chức cao-cấp. Dù theo nhiều ngành hành-chánh, quân-sự khác nhau nhưng nói chung, các cựu sinh-viên này đều phải điều-khiển nhân-viên dưới quyền để đạt mục-đích phục-vụ dân chúng. Khi làm nhiệm-vụ này, chúng ta khó (có thể là không bao giờ) thỏa-mãn 100% nhân-viên dưới quyền và thỏa-mãn 100% dân chúng.

Cruise Sydney-Great Barrier Reef

Sau Đêm Liên Hoan, 56 người đi cruise Sydney-Great Barrier Reef với Carnival Legend. Tôi đã đi “cruise” nhiều lần và tôi không thích đi “cruise” vì tôi thấy rất “boring.” Tuy nhiên tôi thông-cảm rằng đi “cruise” là cách tổ-chức dễ nhất cho các Ban Tổ-chức họp mặt: không phải lo xe bus, không lo ăn uống, không cần tổ-chức tours, không sợ “trẻ lạc;” mọi việc đều do “cruise” lo hết. Nếu Ban Tổ-chức siêng thì lo chụp hình nhóm và sinh-hoạt nhóm trên tàu. Anh Đượm đã lo hết các vụ này, lo chu-đáo. Trong hai buổi Họp-mặt Nhóm trên tàu, anh Đượm bao ACE uống rượu “unlimited.” Tiền rượu, thuê phòng họp, thuê đàn, thuê chuyên-viên âm-thanh đều do tiền bonus của anh khi anh booked cruise cho ACE (cứ 8 cabins anh được một vé free). Anh đã không bỏ tiền bonus này vào túi mà bao ACE hết; tôi sợ tiền bonus này không đủ trả tiền rượu cho ACE; có lẽ “Cô Thắm” phải chi thêm. Hoan Hô Anh Chị Đượm!

Cruise Great Barrier Reef

Chuyến đi “cruise” có một chuyện làm nhiều người bất-mãn là đã không được đi thăm Great Barrier Reef mặc dù tên chuyến đi là Sydney – Great Barrier Reef. Tàu Carnival chở hơn 2,500 hành-khách mà khi đi thăm Great Barrier Reef chỉ có một tàu nhỏ chở 60 người; khi chúng tôi ghi tên thì đã hết chỗ. Sau cùng, Carnival tăng thêm một tàu nhỏ 60 chỗ nữa, chúng tôi hí-hửng ghi tên. Sáng hôm sau Carnival thông-báo tàu nhỏ thứ hai không có glass bottom; như vậy hành-khách không nhìn thấy san-hô và cá lội. Chúng tôi đành hủy-bỏ chuyến đi thăm Great Barrier Reef và đi thăm quanh Airlie Beach. Đi Úc mà không thăm được Great Barrier Reef là một thiếu-sót lớn. Tụi tôi buồn mà anh Đượm cũng rất buồn.

Uluru / Ayers Rock

Đi “cruise” về, vợ chồng tôi tạm-biệt ACE rồi bay vào sa-mạc Úc thăm Uluru / Ayers Rock. Uluru là một hòn đá nguyên khối (monolith) lớn thứ nhì trên thế-giới, chỉ thua Mount Augustus (Burringurrah) ở Western Australia. Tính từ mặt đất, Uluru cao 348 m (1,142 ft) [2], nhưng nếu tính từ mực nước biển, Uluru ở độ cao 863 m (2,831 ft). Chu-vi hòn đá Uluru phần sát mặt đất là 9.4 km (5.8 mi). Người thổ-dân Anangu gọi hòn đá là Uluru, một địa-danh linh-thiêng của họ. Người Âu Châu tìm thấy Uluru năm 1872; năm sau họ đặt tên hòn đá là Ayers Rock để vinh-danh Sir Henry Ayers, Chief Secretary of South Australia. Sau vài lần thay đổi, tên chính-thức từ 2002 là “Uluru / Ayers Rock.”

Uluru / Ayers Rock

Uluru là một “hòn đảo núi” (inselberg hay island mountain) là một ngọn núi nổi lên giữa một vùng đất bằng-phẳng có khí-hậu khô, nóng. Hàng trăm triệu năm trước đây nước biển tràn ngập khu-vực này mang theo nhiều “phù-sa” gồm đất, cát và đá. Cát này rất lớn có đường kính từ 2 đến 4 millimeters. Nước biển rút đi mang theo đất nhưng để lại cát và đá tương-đối nặng hơn. Nhờ những chất hoá-học calcite, clays, và silica mang tới từ những dòng nước ngầm, cát và đá “dính” lại thành một khối: “sands” trở thành “sandstone,” Uluru là một sandstone (sa thạch). Sau hàng trăm triệu năm, khối sandstone này trở thành một hòn đá nguyên-khối trồi lên mặt đất trong thời-kỳ Petermann Orogeny[3] cách đây khoảng 550 triệu năm[4]. Cùng vào thời-gian này, những hòn đá ở vùng Kata Tjuṯa, cách Uluru 25 cây số, cũng được tạo dựng tương-tự như Uluru. Kata Tjuta có nhiều hòn đá nhưng đều nhỏ hơn Uluru. Ngày nay, cả Uluru và Kata Tjuta cùng nẳm chung trong Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park.

Người thổ-dân Anangu tin rằng Uluru và Kata Tjuta là địa-danh linh-thiêng của họ; Uluru có nghĩa là “Mẹ Trái Đất” (Earth Mother). Tổ-tiên người Anangu đã định-cư tại vùng này từ 10,000 năm trước. Thổ dân Anangu không bao giờ bước chân trên mặt các hòn đá, nhất là Uluru, vì họ tin rằng đó là một điều bất-kính, một tội-lỗi với thần-linh của họ. Gần trăm năm qua, người Anangu cố-gắng vận-động Chính-phủ Úc cấm các du-khách đi trên mặt Uluru; có lúc họ thắng nhưng rồi lại thua. Năm 2017, Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park mới ra quyết-định cấm không cho ai được leo qua Uluru kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019. Tôi cũng muốn leo qua một lần cho biết nhưng hãng du-lịch của tôi rất thân-thiết với người Anangu nên không tổ-chức hoạt-động này; chúng tôi chỉ đi bộ quanh chân các hòn đá. Khi dừng lại uống trà, cà-phê chúng tôi cũng không được đổ trà, cà-phê, nước ngọt thừa xuống đất; cô hướng-dẫn-viên du-lịch đem những nước thừa này về đổ ở thành-phố. Cô ta nói thẳng với chúng tôi là không được tiểu tiện ở đây. Cô ta cho hay ngoài tính cách thiêng-liêng của vùng này, cây cỏ ở đây có thể chết vì những thứ “nước lạ” này, mà cây cỏ ở vùng sa-mạc rất quý. Nhà Tôi cũng không muốn tôi leo lên đỉnh Uluru vi dốc cao và trời nóng 106° F [5]. Kể từ thập-niên 1950s đã có 37 người chết vì leo qua Uluru và nhiều người khác phải nhờ trực-thăng chở về bệnh-viện.

Leo qua Uluru

 Uluru thay-đổi màu sắc trong ngày tùy theo thời-tiết, ánh sáng. Đặc-biệt Uluru có màu đỏ thắm tươi đẹp khi mặt trời mọc và lặn. Phần lớn du-khách tới đây đều đi thăm “Sunrise at Kata Tjuta” và “Sunset at Uluru”. Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park có sẵn nhiều nơi để du-khách đứng coi cảnh này. Tôi cũng dậy từ 3:30 sáng vì xe bus đến đón lúc 4:30 để đi xem Sunrise at Kata Tjuta. Hàng ngàn người chen chúc nhau, máy hình trong tay, dành nhau chỗ tốt để xem những cảnh đẹp của mặt trời.

Sunset at Uluru

Uluru và Kata Tjuta là sa-mạc nhưng cũng có nhiều loại thú, đặc-biệt có Red Kangaroo, đà-điểu (emu), và lạc-đà (camel). Cuối thế-kỷ 19, người Anh mua lạc-đà từ Ấn Độ, Afghanistan để chuyên-chở dụng-cụ xây cất vào vùng sa-mạc Úc. Khi có phương-tiện chuyên-chở cơ-khí họ thả lạc-đà sống tự-do ở sa-mạc. Khí-hậu ở đây rất thích-hợp với lạc-đà nên hiện nay Úc có khoảng 700,000 con lạc-đà hoang; nhiều nhất trên thế-giới. Chính-phủ Úc đang tìm cách giảm số lạc-đà này vì chúng dành ăn cỏ, cây hiếm-hoi ở sa-mạc với những con vật khác. Nhiều người cũng tìm bắt lạc-đà hoang để bán sang Afghanistan, Pakistan vì lạc-đà ở những nơi này bị chết nhiều vì chiến-tranh. Giá một con lạc-đà bán sang Afghanistan hay Pakistan khoảng một triệu đồng Úc. ACE/CSV/QGHC nào còn khỏe-mạnh nên sang Úc bắt lạc-đà hoang; mỗi năm chỉ cần bắt được một con cũng đủ nhậu nhẹt lai-rai.

Sống ở vùng sa-mạc Uluru / Ayers Rock ba ngày là một kỷ-niệm khó quên của vợ chồng tôi. Ngày nào cũng nóng trên 100° F, ra khỏi cửa là lo đuổi ruồi, muỗi, và nhiều con “bugs” khác. Vậy mà chúng tôi rất vui-thích được thăm vùng sa-mạc cằn-cỗi này.

Melbourne

Vợ chồng tôi nằm ở Melbourne một tuần để chờ ngày đi “The Ghan” nên có nhiều thời-giờ thăm viếng Melbourne và vùng phụ-cận. Melbourne có nhiều tours du-lịch, có lẽ hai tours được nhều người đi nhất là “Great Ocean Road Tour” và “Phillip Island Penguin Parade Tour.”

Twelve Apostles

Tour Great Ocean Road đi thăm một vùng bờ biển đẹp với những trụ đá nằm dọc theo bờ biển (gần giống bờ biển Oregon). Có 12 trụ đá gọi là Twelve Apostles. Nếu đi vào buổi chiều thì có thể thấy cảnh đẹp của hoàng-hôn trên mặt biển: mặt trời từ từ lặn xuống mặt nước biển.

Đi tour Great Ocean Road, chúng tôi được đi ngang một khu-vực đồi núi thấp với những đồng cỏ mênh-mông; bò, cừu tràn-lan trên đồng cỏ. Khu này do các cựu-chiến-binh Thế Chiến II định-cư. Sau cuộc Thế Chiến II, các cựu-chiến-binh Úc không có việc làm lại không còn lương quân-nhân nên rất nghèo-đói. Chính-phủ Úc đem họ lên vùng rừng núi âm-u này để khai-hoang. Chính-phủ không đầy họ lên đây như một Vùng Kinh-tế Mới của Việt Cộng; Chính-phủ Úc đem theo máy ủi đất hạng nặng, máy cày, máy cưa…để phá rừng làm rẫy rồi bán đất cho các cựu-chiến-binh với một giá tượng-trưng, gần như cho không.

Chính-phủ và nhân-dân Úc luôn luôn kính-trọng và biết ơn các cựu-chiến-binh. Hầu như thành-phố lớn nào cũng có các Trung-tâm trưng-bày hình ảnh các cuộc chiến-tranh mà người Úc đã tham-dự. Các cựu-chiến-binh Việt-Nam cũng được Úc công-nhận vì đã chiến-đấu cạnh chiến-sĩ Úc trong cuộc Chiến-tranh Việt-Nam; các cựu-chiến-binh Việt-Nam cũng được hưởng quyền-lợi về ý-tế, hưu-bổng…như cựu-chiến-binh Úc. Thật là một Tình Huynh Đệ Chi Binh không đâu có trên thế-giới. Chính-phủ Hoa-kỳ đã đài-thọ hầu hết chiến-phí cho cuộc chiến Việt-Nam nhưng sau cuộc chiến, họ cũng không có một chính-sách cựu-chiến-binh cho người Việt như ở Úc. Mấy trăm chiến-sĩ Biệt-kích đã phải mướn luật-sư kiện Chính-phủ Hoa-kỳ mới được bồi-hoàn mỗi người vài nghìn US Dollars, tiền lương cho mấy chục năm bị tù. Họ đã được Hoa-kỳ tuyển-dụng (trực-tiếp hoặc gián-tiếp), huấn-luyện và thả dù ra Miền Bắc để hoạt-động gián-điệp. Đa số bị bắt và bị tù nhiều năm. Năm 1973, họ cũng không được nằm trong chương-trình trao-đổi tù-binh như đã quy-định trong Hiệp-định Đình-chiến Paris vì họ là những”chiến-binh không có quân số.” Thật ra Chính-phủ và nhân-dân Hoa-kỳ đã hy-sinh rất nhiều trong việc định-cư mấy triệu người Việt-Nam gồm những người tị-nạn năm 1975, những người vượt biển, vượt biên, những người đến Hoa-kỳ theo chương-trình đoàn-tụ gia-đình ODP và “Chương Trình Tái Định Cư Những Cựu Tù Nhân Chính Trị.”[6]. Chúng tôi xin thành tâm cám-ơn Chính-phủ và nhân-dân Hoa-kỳ đã mở rộng vòng tay đón-tiếp chúng tôi, chúng tôi không hề than-vãn, so-sánh với chính-sách cựu-chiến-binh của Úc. Chương Trình Tái Định Cư Những Cựu Tù Nhân Chính Trị và Gia-đình là một quyền-lợi đặc-biệt, vĩ-đại cho các cựu-chiến-binh Việt-Nam, một chương trình đầy ắp tình người, hoàn-toàn ngược lại với chính-sách dã-man, tàn-bạo, vô nhân đạo, không còn tình người của các trại học-tập, cải-tạo của Cộng-sản Việt-nam.

Knickers, một con bò khổng-lồ ở Australia  

Những khu rừng âm-u, khỉ ho cò gáy đã được các cựu-chiến-binh Úc khai-phá thành những đồng cỏ mênh-mông, bò, cừu tràn-lan. Vùng nầy bây giờ là xương sống của nền chăn-nuôi ở Úc. Năm 2017, dân-số Úc là 24.3 triệu người; họ có 27.8 triệu con bò, 99.3 triệu con cừu; như vậy mỗi người Úc có hơn một con bò và hơn 4 con cừu. Úc đứng thứ 4 trong năm nước trên thế-giới có số bò nhiều hơn dân số. Làm sao mà họ đói được? Nhìn những đàn bò, đàn cừu đi ăn trên những đồng cỏ mênh-mông mà thương cho những con bò, con trâu ở quê-hương mình, thương cho dân mình!

Cừu ở Australia

Tour Phillip Island Penguin Parade thì không được như ý muốn. Nhìn hình quảng-cáo cũng như nhớ lại hình ảnh trên TV, tôi tưởng sẽ được thấy hàng ngàn con penguins chạy lạch-bạch trên bãi cát đề về nhà. Không có như vậy. Ngồi chờ gần hai giờ, tôi chỉ thấy có 12 con penguins chạy từ biển qua bãi cát đề về nhà trong đám cỏ. Gió biển lạnh quá nên vợ chồng tôi bỏ cuộc, đi lên nhà hàng ăn chờ xe bus đến đón. Trời lạnh nhưng vẫn có hàng ngàn người ngồi dưới bãi biển chờ xem “Penguin Parade.” Không ngờ trên đường về chúng tôi lại thấy rất nhiều penguins chạydọc theo con đường dẫn lên nhà hàng ăn. Thì ra có nhiều con penguins đã vượt bãi cát ở những chỗ tối nên chúng tôi không thấy. Chính lúc thất vọng nhất lại được xem vài trăm con penguins. Penguins ở đây rất nhỏ, chỉ nhỏ bằng con vịt; penguins ở Australia và New Zealand là penguins nhỏ nhất trên thế-giới.

Penguins ở Australia

Những tours du-lịch ở Melbourne có rất nhiều du-khách Tầu; tour nào họ cũng chiếm hơn một nửa. Họ đi thành từng đoàn, có hướng-dẫn-viên du-lịch người Tầu. Họ nói chuyện lớn tiếng như chỗ không người, chen ngang vào những hàng người đang xếp hàng chờ đợi. Họ hút thuốc lá, xả rác công-khai. Năm ngoái vợ chồng tôi đi sang Âu Châu cũng đã gặp cảnh này. Nhiều người Âu Tây liếc nhìn mình làm mình xấu-hổ; chắc họ cũng tưởng vợ chồng tôi là Tầu, có những hành-động xấu tương-tự. Ở khu xem “Penguin Parade” luôn luôn có những loan-báo bằng tiếng Tầu theo sau loan-báo bằng tiếng Anh. Phi-trường, khách-sạn ở Melbourne cũng in chữ Tầu ở dưới các bảng chỉ-dẫn bằng chữ Anh. Nhiều người Tầu có máy “thông-dịch” nhỏ: họ nói vào máy bằng tiếng Tầu rồi bấm nút dịch sang tiếng Anh. Đôi khi tôi và người Úc cũng chẳng hiểu lời dịch tiếng Anh của họ khi muốn giúp-đỡ vài du-khách Tầu.

Theo Tổ-chức Du-lịch thế-giới của Liên Hiệp Quốc, du khách Tầu chi $257.7 tỷ USD trong năm 2017, đứng nhất trên thế-giới trong khi du khách Hoa-kỳ (đứng thứ nhì trên thế-giới) chỉ tiêu có $135.0 tỷ USD. Năm 2017 có 130.5 triệu người Tầu du-lịch nước ngoài, tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước. Du-khách Tầu là mối lo lớn cho các nước trên thế-giới dù họ mang đến lợi-ích kinh-tế qua ngành du-lịch. Nhưng lợi mà họ đem lại không bằng cái hại họ gây ra về môi-sinh, về thuần-phong mỹ-tục của dân chúng địa-phương.

”The Ghan” là một trong những đoàn tàu vận chuyển hành-khách bằng đường sắt dài nhất trên thế-giới, chạy xuyên qua sa-mạc Úc. Cái tên “The Ghan” và huy-hiệu hình một người cưỡi lạc-đà được đặt theo tên Afghanistan (hay còn gọi là Ghan) vì lạc-đà nhập-cảng từ Afghanistan đã đưa những người thám-hiểm đầu tiên vượt qua sa-mạc Úc vào cuối thế kỷ 19.

The Ghan

The Ghan chạy từ Adelaide, miền Nam nước Úc, tới Darwin, miền Bắc[7] . The Ghan đi qua rất nhiều địa danh tuyệt vời của Australia như: Alice Springs, Tennant Creek, Kulgera, Kingoonya, Katherine… với chiều dài quãng đường là 2,979 km. Chuyến tàu đi hết 3 ngày 2 đêm[8]. Hiện nay, The Ghan có ba loại vé: Red Service, Gold Service, và Platinum Service; gía vé rất khác nhau. Gold Service lại chia ra mấy loại nữa. Đoàn xe có chiều dài trung-bình 902 meters có 25 giường Platinum Service, 258 giường Gold Service và một số toa Red Service, nhà hàng ăn, máy điện, toa chứa nước, diesel, và các vật-liệu khác.

The Ghan

Đầu tháng 6 tôi vào website của The Ghan để xem tin-tức chứ không định mua vé vì sớm quá; mãi ngày 1 tháng 11 Cruise Great Barrier Reef mới về lại Sydney. Không ngờ khi vào website của The Ghan tôi mới biết hầu hết vé các chuyến xe sau ngày 1 tháng 11 đã “sold out.” Chuyến ngày 4 tháng 11 thì còn mấy vé Gold Service nhưng đi chuyến này thì hơi trục-trặc vì tôi định thăm Melbourne trước The Ghan. Chuyến xe ngày 11 tháng 11 thì Gold Service và Red Service đều “sold out,” chỉ còn vé Platinum Service.

The Ghan chạy qua vùng sa-mạc khô-cằn, cây cỏ thấp, thưa-thớt. Đất phần lớn màu đỏ nên người ta gọi vùng này là “Red Centre” bao gồm Uluru, Kata Tjuṯa và là trung-tâm-điểm của Australian Outback. Thỉnh-thoảng tôi thấy vài con bò, cừu mà tôi không biết là bò hoang, cừu hoang hay của thổ-dân nuôi? Tôi thấy có nhiều đám muối trắng, không biết muối này có liên-hệ gì đến nước biển mấy triệu năm trước hay không?

The Ghan

Mặt Trời mọc ở sa-mạc Úc

Từ Adelaide, trạm dừng đầu tiên là Manguri. Chúng tôi xuống tàu từ 4 giờ sáng để xem mặt trời mọc. Manguri chỉ là trạm xe lửa của The Ghan ở giữa sa-mạc chứ không phải là một thành-phố. Chúng tôi quây-quần quanh hai đống lửa trại để ăn sáng chờ mặt trời mọc. Chúng ta quen dùng những chữ mặt trời mọc, sunrise, mặt trời lặn, sunset là sai, hoàn-toàn phản khoa-học. Mặt trời không mọc, không lặn mà đứng yên một chỗ bởi vì mặt trời là một định-tinh. Thời Cổ Hy-lạp, những chữ này được coi là rất đúng vì người ta tin rằng trái đất là trung-tâm của vũ-trụ; mặt trời, mặt trăng và các tinh tú xoay quanh trái đất (terracentric).

The Ghan

Nitmiluk Gorgges

Trước khi đến Darwin, The Ghan dừng lại rất lâu ở hai trạm Alice Springs và Katherine. Ở hai trạm này, du-khách chọn đi những tours du-lịch địa-phương khác nhau. Alice Springs là một thành-phố nằm giữa sa-mạc mà cũng có một Đài Kỷ-niệm các trận chiến Quân-đội Úc đã tham-dự, trong đó có Việt-Nam. Katherine có nhiều cảnh đẹp hơn, tôi chọn đi thuyền trên sông Katherine để thăm các Nitmiluk Gorgges; phong-cảnh rất đẹp.

Tưởng cần nói thêm là ở Melbourne, du-khách người Tầu chiếm hơn 50%; ở Uluru / Ayers Rock tỉ-lệ này chỉ còn dưới 10%. Đi The Ghan, chúng tôi chỉ gặp một người Á Châu (Nhật Bản) trong số gần một ngàn du-khách.

New Zealand:Kia Ora!”

Kia Ora là tiếng chào thông-dụng ở New Zealand. Kia Ora nguyên nghĩa là “Chào mạnh giỏi” và thường dùng như “Hello.” New Zealand rất đẹp nên du-lịch là một phần quan-trọng trong nền kinh-tế New Zealand. Năm 2016, New Zealand thu được $12.9 tỷ USD về du-lịch (5.6% GDP) và xử-dụng 7.5% nhân lực toàn quốc.

New Zealand đứng thứ hai trong năm nước có số bò nhiều hơn số dân. Năm 2017, dân-số New Zealand là 4.6 triệu mà có tới 9.9 triệu con bò và 39.6 triệu con cừu. Tính ra mỗi người dân New Zealand có 2.17 con bò và 8.6 con cừu. Đi đâu cũng thấy đồng cỏ mênh-mông; bò, cừu đầy đồng; vườn nho, vườn kiwi tươi-tốt.

Nữ Hoàng Anh cũng là Nữ Hoàng của Australia và New Zealand[9]; tuy nhiên, quyền-hành nằm trong tay các Thủ-tướng (Prime Minister). Thủ-tướng hiện-tại của New Zealand là Jacinda Ardern. Bà là nữ lãnh-tụ quốc-gia trẻ nhất trên thế-giới. Bà là người lãnh-tụ quốc-gia thứ hai sinh con khi tại chức [10]. Tuy nhiên Bà Ardern lại là lãnh-tụ quốc-gia thứ nhất bế con nhỏ đi họp Liên Hiệp Quốc. Tòa nhà Dinh Thủ-tướng có mái tròn với nhiều khuôn cửa sổ trông giống như một tổ ong nên dân chúng gọi đùa là “Beehive;” Chính-phủ New Zealand bèn đặt tên website của mình là “beehive.govt.nz.” Dân chúng gọi Jacinda Ardern là “Queen Bee.”

New Zealand chọn con chim kiwi là biểu-tượng cho đất nước mình nên người ta gọi người dân New Zealand là Kiwi. Khi dùng để gọi người New Zealand chữ Kiwi viết với chữ K hoa, khi dùng để chỉ chim kiwi, chữ kiwi viết với chữ k thường. Ngoài ra, khi dùng để chỉ người New Zealand, chữ Kiwis có “s” cho số nhiều nhưng khi dùng để chỉ chim kiwi thì số nhiều cũng không có “s”. Bởi vậy “two Kiwis” là hai người New Zealand còn “two kiwi” là hai con chim kiwi. Rất nhiều người trên thế-giới, kể cả người Việt-Nam, đều biết hình chim kiwi. Các bạn đi lính chắc còn nhớ dầu đánh giày hiệu kiwi; đây là một sản-phẩm của New Zealand đang bán trên khắp các nước trên thế-giới và con chim kiwi này là biểu-tượng cho nước New Zealand.

Auckland

Auckland là thành-phố lớn nhất New Zealand có dân-số 1.6 triệu người, khoảng một phần ba dân-số New Zealand. Trước đây (1842 – 1865) Auckland là thủ-đô của New Zealand. Tôi ở Khách-sạn SkyCity Hotel nằm sát cạnh Sky Tower. Sky Tower cao 328 meters, cao hơn Tháp Eiffel 28 meters và cao gấp 3.5 lần Tượng Nữ Thần Tự-do. Sky Tower có thể chịu-đựng được động đất với cường độ 8.0 độ Richter. Auckland là thành-phố duy nhất trên thế-giới được xây-dựng trên một vùng núi lửa vẫn còn hoạt-động. Cũng nhờ núi lửa, Auckland có nhiều động đá (caves) rất đẹp.

Auckland với Sky Tower

Trên đường từ Auckland đến Rotorua, chúng tôi ghé thăm Động Waitomo Glowworm. Động này không lớn bằng Động Luray Caverns ở Virginia nhưng Waitomo Glowworm Caves không có đèn điện, chỉ có nhiều ánh-sáng của những con glowworms bám trên trần, trên tường, có chỗ phải đi bằng thuyền nên có vẻ âm-u, kỳ-bí như trong truyện kiếm-hiệp. Glowworms là những côn-trùng phát ra ánh sáng như con đom đóm. Glowworms có nhiều loại và có ở nhiều nơi trên thế-giới nhưng con Glowworms Arachnocampa Luminosa sống trong Waitomo Glowworm Caves thì chỉ có ở New Zealand. Đời sống của con glowworm này kéo dài độ 11 tháng và chia ra làm 4 thời-kỳ: trứng, ấu-trùng, con nhộng, và con glowworm. Con glowworm mẹ đẻ từng chùm trứng, mỗi chùm có khoảng từ 30 đến 40 trứng. Sau 20 ngày trứng nở ra con ấu trùng. Ấu trùng tự làm tổ, phát ra ánh sáng để dẫn-dụ những con mồi. Tổ nó làm bằng những sợi tơ có nhựa dính nên dễ bắt mồi. Ấu trùng sống như vậy khoảng 9 tháng thì biến thành con nhộng tương tự nhộng tằm. Con nhộng sống 13 ngày thì cắn tổ nở thành con glowworm giống như một con muỗi to. Con glowworm không có miệng nên sẽ chết đói sau vài ngày. Nhiệm-vụ của chúng trong vài ngày ngắn-ngủi này là giao-hợp và đẻ trứng; mỗi con glowworm cái đẻ độ 120 trứng. Cuộc đời của chúng còn buồn hơn đời sống con ve sầu.

Glowworms trong Waitomo Glowworm Caves

Waitomo Glowworm Caves không cho chụp hình, quay phim. Hình tôi đứng trong Động là một hình ghép. Trước khi vào Động họ chụp hình cho mọi người, chụp đủ kiểu. Khi cô thợ chụp hình yêu-cầu tôi chỉ tay lên trời, tôi không hiểu ý định của cô ta. Cô ta ghép hình này với một hình trong Động, ngón tay tôi chỉ lên những con glowworms như diễn-tả cảnh đẹp kỳ bí của chúng. Những hình này họ bán cho du-khách rất dễ-dàng[11] .

Trung-tâm-điểm của Waitomo Glowworm Caves là “The Cathedral,” chỗ cao nhất trong Động có nhiệt độ 14° C (57° F) quanh năm suốt tháng. Sự cấu-tạo của trần và vách tường thạch-nhũ chung quanh The Cathedral đã khuếch-tán âm-thanh một cách tuyệt-vời. Nhóm du-khách nào cũng có một người hát ở The Cathedral. Đi xa The Cathedral vẫn còn nghe thấy du-khách Tầu hát. Có đoàn du-khách Tầu đã sửa-soạn trước đồng ca một bài ca hùng-tráng; chắc là nhạc Cách-mạng Văn-hóa hoặc nhạc chiếm Trường-sa, Hoàng-sa của Việt-Nam. Tôi định trở lại The Cathedral để hát bài Hội-nghị Diên Hồng hoặc Bạch Đằng Giang để trả lời họ nhưng thấy cũng hơi lố-bịch nên lại thôi. Hơn nữa nhóm tôi đã có một người Đức hát một bài nhạc cổ-điển Tây-phương rất hay.

Waitomo Glowworm Caves

30 triệu năm trước, Waitomo ở sâu dưới mặt nước[12] với những hòn đá vôi bắt-đầu hình thành. Khi núi lửa hoạt-động đã đẩy những hòn đá vôi này trồi lên mặt nước; những hòn đá vôi này cũng bị rạn-nứt tạo ra nhiều khe nhỏ. Nước chảy qua những khe này chảy vào khoảng trống bên dưới. Đá vôi theo nước đọng lại ở chỗ nhỏ nước trên trần và ở chỗ nước nhỏ xuống nền. Chỗ đá vôi đọng lại trên trần gọi là “stalactites,” chỗ đá vôi đọng lại dưới nền là “stalagmites.” Cứ mỗi 100 năm đá vôi đọng lại được một phân khối (1 cubic centimeter). Khi stalactites gặp stalagmites sẽ tạo nên một cây thạch-nhũ từ trần xuống nền gọi là “helicti,” chu-kỳ này cần mấy trăm nghìn năm mới hoàn-thành.

Nông-trại Agrodome

Quanh vùng Auckland chúng tôi còn đi thăm nông-trại Agrodome xem họ cắt lông cừu, dùng chó đuổi cừu vào chuồng…Trước đây tôi cứ tưởng trái kiwi mọc trên cây (trees) nhưng đến Agrodome tôi mới biết kiwi leo như nho (vines); gốc và nhành đều lớn hơn cây nho nhiều. New Zealand trồng rất nhiều kiwi. Phải tới năm 1966 Hoa-kỳ mới nếm thử mùi-vị trái kiwi và những trái kiwi đầu tiên này đã nhập-cảng từ New Zealand. Ngày nay nhiều người Mỹ “nghiện” mùi-vị ngọt, chát, chua của kiwi và thích những chất bổ-dưỡng của kiwi. Có thuyết cho rằng tên trái kiwi do người New Zealand đặt ra từ giữa thế-kỷ 20. Họ đổi tên từ “gooseberry”[13] thành “kiwi” vì thấy trái kiwi và cái bụng con chim kiwi hơi giống nhau. Mặt khác, thời ấy các sản-phẩm mang tên Kiwi, hình ảnh tượng-trưng của New Zealand, được hưởng thuế nhẹ.

Chúng tôi thăm làng Te Puia để xem những tục-lệ cổ-truyền của người Maori. Buổi tối, chúng tôi lại ghé thăm Mitai Maori Village để xem những vũ-khúc văn-hóa cổ-truyền của họ, xem họ diễn lại những chiến trận trên sông. Tối đó chúng tôi thưởng-thức “hangi dinner” của người Maori, một bữa ăn nấu trên đá nóng. Họ đào một hầm sâu, đốt củi thành than rồi kê một tấm đá lớn trên mặt than hồng. Gà, cừu, khoai tây, các loại rau đuợc “nướng” trên tấm đá nóng này.

Mitai Maori Village

Trên đường từ Rotorua đi Napier, chúng tôi đi ngang rừng Kaingaroa, một rừng thông nhân tạo lớn nhất thế-giới, rộng 2,900 cây số vuông. Xe bus chạy 100 cây số một giờ mà đi mãi vẫn không hết rừng thông nhân tạo. Dân số New Zealand chưa tới 5 triệu (ít hơn dân số nhiều thành-phố) mà họ trồng được một rừng thông vĩ-đại như vậy trong khi Việt-Nam cứ chặt cây rừng bán cho Nhật và Tầu.

Napier là một thành-phố nhỏ, dân-số khoảng 64 ngàn, nhưng đón tiếp nhiều du-khách nhờ kiến- trúc Arc Deco, hòa nhạc, và hải-cảng quan-trọng. Trận động đất năm 1931 hầu như hủy-diệt Napier, nhất là khu trung-tâm thành-phố. Trận động đất cường-độ 7.8 này giết hại 256 người và là một thiên-tai giết hại nhiều người nhất trong lịch-sử New Zealand. Bên cạnh sự tàn-phá kinh-khủng này, trận động đất lại tạo nên 40 cây số vuông đất mới vì đã nâng vùng bờ biển lên khoảng 2 meters (đáy Đầm Ahuriri Lagoon được nâng lên 2.7 meters). Người hướng-dẫn-viên du-lịch đưa chúng tôi đi thăm thành-phố thỉnh-thoảng lại dậm chân xuống sàn xe “This was water before.”

Ahuriri Lagoon trước (trái) và sau (phải) trận động đất

Mission Estate do các Cha người Pháp thành-lập ở New Zealand vào năm 1838 nhằm mục-đích giảng Đạo Thiên Chúa. Năm 1851, Mission Estate xây-cất trụ-sở ở Pakowhai nhằm nuôi bò, trồng nho và cây ăn trái. Mission Estate là nhà máy làm rượu nho đầu-tiên ở New Zealand. Năm 1858, các Cha mua được một miếng đất mới ở gần Napier nên dọn về đây. Trụ-sở Nhà Dòng là một căn nhà gỗ rất lớn. Các Cha cắt căn nhà này ra làm 11 phần và chuyển về miếng đất mới bằng các dụng-cụ di-chuyển thô-sơ. Các Cha làm thêm căn phòng chính rồi ghép 11 “miếng nhà” từ trụ-sở cũ vào. Riêng Nhà Thờ thì các Cha không chuyển về và quyết-định xây một Nhà Thờ mới bằng đá. Trận động đất 1931 đã phá-hủy Nhà Thờ đá, giết hại 2 linh-mục và 7 tu-sĩ trong khi trụ-sở Nhà Dòng ghép lại bằng 12 “miếng” bằng gỗ lại không việc gì. Thật là kỳ-lạ!

Năm 1931, tờ báo The Dominion nói “Napier là một thành-phố đã bị xoá tên trên bản-đồ” (Napier as a town has been wiped off the map). Mười năm sau, tờ báo New Zealand Listener nhận-xét “Napier đã sống lại từ tro tàn như một con chim Phượng Hoàng” (Napier had risen from the ashes like a phoenix).[14]

Wellington là thủ-đô của New Zealand được gọi là “the World’s Coolest Little Capital” bởi vì trung-tâm thành-phố chỉ rộng khoảng một cây số vuông. Tòa nhà trụ-sở của Chính-phủ là một trong những căn nhà gỗ lớn nhất trên thế-giới. Wellington rất đẹp nhờ có biển, đồi núi bao quanh.

Wellington – New Zealand

Người dân Wellington có những kỷ-niệm đẹp với US Marines. Đầu năm 1942, Chính-phủ New Zealand rất lo sẽ bị Nhật tấn-công trong khi hầu hết lực-lượng New Zealand đang chiến-đấu bên cạnh Quân-đội Anh ở Âu Châu và Trung Đông. Cùng lúc đó, Hoa Kỳ sửa-soạn tấn-công Nhật nên muốn tìm một căn-cứ quân-sự để tổ-chức một hậu-phương vững-chắc nhằm yểm-trợ mặt-trận Thái Bình Dương và săn-sóc các thương binh. New Zealand là một địa-điểm lý-tưởng. Giữa năm 1942, Sư-đoàn 2 US Marines đã đổ-bộ lên Wellington làm đẹp lòng cả ba nước New Zealand, Hoa-kỳ, và Anh. US Marines trải quân bảo-vệ thủ-đô Wellington và các quân-nhân Công-giáo thường đi xem lễ ở Nhà Thờ Old St. Paul’s. Dần dần giáo-dân và Marines đã vun-đắp những tình bạn thân-thiết, đậm-đà. Từ đó đến nay, năm nào Nhà Thờ Old St. Paul’s cũng cử-hành một Lễ Cầu-nguyện cho US Marines. Trong Nhà Thờ vẫn còn treo lá cờ của Second Division of the US Marines và cờ Hoa Kỳ; Quốc kỳ này chỉ có 48 sao vì hồi ấy, Hoa Kỳ chưa có hai tiểu-bang Alaska và Hawaii. Ngày nay, nhiều người dân Wellington, dù sinh ra sau năm 1942, cũng biết tên những con đường, nhà thương…do US Marines xây nên. Một điểm dễ thương nữa là Wellington có một khu phố mang tên Brooklyn, cạnh Brooklyn là Central Park; Wellington có nhiều đường phố mang tên các tổng-thống Mỹ.

Cờ trong Nhà Thờ Old St. Paul’s

Đến Wellington thì phải đi thăm vườn hồng, đi Cable Car, đi lên đỉnh Mount Victoria, và đi xe Tram. Có hai vườn hồng mà vườn nào cũng có hàng trăm loại hoa hồng khác nhau. Mount Victoria cao 196 meters nên từ trên đó có thể nhìn thấy toàn cảnh Wellington. Xe Tram gần giống như xe điện ở Hà Nội; ngồi trên xe Tram có thể đi khắp thành-phố, rẻ hơn mua một tour “sightseeing.” Wellington đẹp đến nỗi Nhà Tôi muốn dọn qua Wellington ở vài năm để tránh nghe về Tổng-thống Trump.

Christchurch

Năm 1848, John Robert Godley đề-nghị đặt tên cho thành-phố là Christchurch; Godley vốn tốt-nghiệp từ Trường Đại-hoc Christ Church ở Oxford, Anh-Quốc. Christchurch được gọi là “The Garden City” nên rất hãnh-diện với các vườn hoa của mình, nhất là “Christchurch Botanic Garden” rộng 52 mẫu (acres). Vườn này trồng rất nhiều loại cây, hoa trên thế-giới. Có cả cây Red Wood đem từ California sang trồng hơn 100 năm trước, vườn hồng có hơn 250 loại hồng khác nhau. Christchurch Botanic Garden không thu tiền vào cửa nhưng những hãng du-lịch cho thuê xe, thuê thuyền đi thăm các nơi trong vườn. Mỗi năm có hơn 1.1 triệu du-khách thăm-viếng Christchurch Botanic Garden.

Christchurch Botanic Garden

Muốn nhìn Christchurch từ một góc cạnh khác thì đi xe “Gondola,” một toa xe nhỏ treo vào giây “cable” rồi kéo lên đỉnh núi hoặc đưa xuống mặt đất tương-tự như “Ski Lift” ở những núi trượt tuyết. Christchurch Gondola đưa du-khách lên đỉnh núi Cavendish, cao 445 meters trên mực nước biển. Từ trên cao, Christchurch giống như cảnh thần tiên.

Christchurch nhìn từ Mount Cavendish

Năm 2010, một trận động đất cường-độ 7.1 đã tàn-phá Christchurch nặng-nề nhưng không có ai chết. Năm 2011, một trận động đất 6.3 yếu hơn lại giết hại 185 người. Kể từ 2010 đến 2014, có 4,558 trận động đất có cường-độ lớn hơn 3.0. Rất nhiều tòa nhà bị hư-hại mà đến nay vẫn chưa tu-bổ xong kể cả Vương-cung Thánh-đường Christchurch. Thánh-đường này thuộc Giáo-hội Anglican được xây từ 1864 và hoàn-tất năm 1904; Thánh-đường bị hư-hại trầm-trọng sau nhiều trận động đất. Năm 2012 Tòa Giám-mục quyết-định phá-hủy ngôi Thánh-đường rồi xây một Nhà Thờ mới nhưng có nhiều nhóm dân phản-đối; UNESCO World Heritage Centre cũng hậu-thuẫn cho những nhóm này. Phá-hủy rồi xây một Nhà Thờ mới sẽ tốn-kém từ $56 triệu tới $74 triệu, và cần từ 4 đến 9 năm trong khi sửa-chữa lại sẽ tốn-kém từ $104 triệu tới $221 triệu, và cần từ 6 đến 22 năm. Tiền bồi-thường từ bảo-hiểm động đất là $40 triệu. Tòa Giám-mục không chịu sửa-chữa vì qúa đắt, phần lớn giáo-dân cũng đang bị hư-hại nhà cửa nên không thể đòi-hỏi họ đóng góp nhiều cho việc sửa-chữa Nhà Thờ. Các nhóm dân phản-đối kiện Tòa Giám-mục và họ thắng. Năm 2017, Tòa Giám-mục quyết-định sẽ sửa-chữa Vương-cung Thánh-đường Christchurch.

Christchurch là cửa ngõ đi xuống Nam Cực. Không-quân và Hải-quân Hoa-Kỳ cộng thêm Không quân New Zealand và Không-quân Australia đều lấy phi-trường Christchurch làm điểm xuất-phát để đi tiếp-tế cho các căn-cứ McMurdo và Scott Bases ở Nam Cực. Hậu-cứ Christchurch chứa hàng ngàn bộ quần áo và đồ phụ-tùng để chống lại nhiệt-độ cực lạnh dùng cho các chương-trình của Hoa-Kỳ ở Nam Cực.

Christchurch là thành-phố cuối cùng của cuộc du-lịch “Miệt Dưới” 40 ngày của hai vợ chồng tôi. Đi dự HNLK năm nay còn là dịp hai đứa tôi kỷ-niệm hơn nửa thế-kỷ chung sống bên nhau, hơn nửa thế-kỷ trôi-nổi theo vận-mệnh đất nước. Ở New Zealand chúng tôi đi tour của hãng Thrifty Tours New Zealand nhưng suốt 9 ngày này tôi không gặp một nhân-viên nào của Thrifty Tours; họ chỉ là người trung-gian thuê các hãng du-lịch địa-phương để ghép lại thành 9 ngày du-lịch cho vợ chồng tôi. Từ trước tới nay, khi du-lịch nước ngoài, tôi đều đi với hãng Grand European Travel hay Trafalgar; họ tổ-chức khác hẳn Thrifty Tours. Grand European đón mình từ nhà, đưa mình về lại nhà sau tour. Tour dù dài, dù ngắn cũng chỉ có một hướng-dẫn-viên du-lịch đi với mình từ đầu đến cuối (đôi khi họ có thêm hướng-dẫn-viên người địa-phương). Nhóm du-khách đi tour với mình cũng không thay-đổi. Ở New Zealand 9 ngày, chúng tôi đi với hơn mười hãng du-lịch khác nhau, hướng-dẫn-viên du-lịch cũng như bạn du-khách cũng thay-đổi theo mỗi tour địa-phương. Mặt khác, mua tours ở Australia và New Zealand phải đọc kỹ chi-tiết vì nhiều tours rẻ họ cắm trại (camping) chứ không ở khách-sạn hoặc mình phải lái xe lấy.

Anh Nguyễn Trường Phát, Hội QGHC Miền Đông HK, nhận cờ Luân Lưu từ Anh Nhan Tử Hà

Cảm tạ Chúa, cám ơn Thượng-đế đã cho chúng con sống đến tuổi này lại cho chúng con còn sức-khỏe để đi đây đi đó. Cám ơn Anh Nhan Tử Hà, Anh Lê Văn Thái, Anh David Ngô Văn Đượm và các ACE trong Ban Tổ-chức HNLK 2018, các ca-sĩ, nhạc-sĩ, MCs.. đã cho chúng tôi có cơ-hội gặp mặt nhau; cám ơn Anh Nguyễn Văn Sáu đã như con thoi chuyển tin từ Úc đến chúng tôi. Cám ơn tất cả ACE/QGHC ở Úc đã đón-tiếp chúng tôi rất niềm-nở, thân-thiện, chan-hòa tình-nghĩa ACE đồng song, đồng môn. Hẹn gặp lại các ACE trong kỳ HNLK 2019 ở Washington. Tuổi chúng ta đều đã 6, 7, 8 bó; hãy tận-dụng những ngày còn lại ít-ỏi của chúng ta để gặp mặt nhau, hàn-huyên, thăm hỏi nhau. Tôi xin cám ơn hai anh David Ngô Văn Đượm và Nhan Tử Hà đã sốt-sắng gửi cho tôi nhiều tài-liệu du-lịch Australia và New Zealand.

Tôi đi Úc về trễ nên giữa Tháng 12 mà vẫn chưa viết xong bài này thì vừa nghe tin Chị Trần Thiện Tích mới qua đời ở Úc. Khi sang Úc, vợ chồng tôi có ghé thăm Chị vì Chị không đi họp HNLK. Anh Tích học với tôi ở Cao-học 2, Chị Mỹ Nam học với tôi ở Đại-học Văn-khoa Sài-Gòn. Vừa được gặp lại Chị thì nay Chị đã ra đi. Mong xin Chị an-nghỉ, quên đi cõi đời vô thường này và nguyện cầu hương-linh Chị Mỹ Nam, Pháp-danh Tâm Tường sớm tiêu-diêu Miền Vĩnh Hằng.

Đặng-Quốc-Tuấn

ĐS 10 / CH 2

12/2018


Ghi chú:

[1] Tôi được giải nhất Luận-văn Tốt-nghiệp Khóa Đốc-sự 10 và Khóa Cao-học 2 (Ban Hành-chánh) nhưng ở cả hai khóa, tôi đều đồng điểm với một sinh-viên khác. Cả hai lần Giáo-sư Bông đều phải họp Hội-đồng Giáo-sư để chọn một sinh-viên nhất vì Học-viện muốn tặng một quyển Luận-văn chiếm Giải Nhất cho vị Chủ-tọa Lễ Tốt-nghiệp. May mắn thay, tôi được Hội-đồng Giáo-sư chọn cả hai lần. Cám-ơn Thầy Nguyễn Văn Bông, Thầy Nguyễn Khắc Nhân, Thầy Nguyễn Văn Tương và các Thầy, Cô khác đã chọn con. Nhờ vậy con đã có đủ lòng tự tin khi viết Luận-án Tiến-sĩ Tài-chính / Kế-toán ở Pace University, Hoa-Kỳ. Lần này con đã chiếm giải Nhất mà không có sinh-viên nào đồng điểm vì cả 5 vị Giáo-sư chấm Luận-án Tiến-sĩ của con đều cho con A+.

[2] phần dưới mặt đất của Uluru lớn hơn phần trên mặt đất nhiều

[3] Orogeny là sự tạo núi hay mountain building

[4] ký-hiệu là 550 Ma (Ma viết tắt chữ megaannum, đơn-vị đo thời-gian cho một triệu năm)

[5] bây giờ đang Mùa Xuân; Mùa Hè có thể nóng tới 115° F (46° C), mùa Đông có thể xuống

tới 23° F (-5° C).

[6] Từ nhiều năm nay, chúng ta quen dùng tên “Chương-trình H.O.” theo nghĩa HO là Humanitarian Operation nhưng có người cho rằng chữ “H” là chữ viết tắt chữ “Hồ-sơ” của Hà-nội, 0 không phải là chữ O mà là số zero; H 01 là Hồ-sơ 01 chứ không phải là HO 1, H 02 là Hồ-sơ 02 chứ không phải là HO 2… Những Hồ-sơ từ 10 trở lên không có số zero nữa (H 11, H 12….). Cộng-sản Việt-nam đã lợi-dụng tên sai-lạc H.O. Humanitarian Operation này để tuyên-truyền cho một chính-sách nhân-đạo tưởng-tượng của họ. Tôi tìm (chỉ “Googled” sơ thôi chứ chưa nghiên-cứu kỹ) trong vài hồ-sơ của Bộ Ngoại-giao Hoa-kỳ thì không thấy họ dùng chữ “H.O. Humanitarian Operation.” (In 1989, the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former ARVN soldiers and officials held in re-education camps and allow them to emigrate to the United States under the Orderly Departure Program (ODP)).  Tôi sẽ tìm hiểu thêm về vấn-đề này.

[7] tàu sẽ đi ngược lại cho chuyến tàu Southbound, bán vé riêng biệt

[8] có những chuyến xe đặc-biệt, “The Ghan Expedition,” đi 4 ngày 3 đêm, giá vé đắt hơn

[9] New Zealand vốn là thuộc-địa của Anh từ 1841, được độc-lập năm 1947.

[10] người thứ nhất là Thủ-tướng Benazir Bhutto của Pakistan

[11] tương-tự như các du-thuyền

[12] Waitomo là chữ Maori; wai có nghĩa là nước, tomo là động sâu

[13] tên gọi trái kiwi ở Tầu; Tầu là nước trồng kiwi nhiều nhất trên thế-giới.

[14] Con chim Phượng Hoàng khi gìa gần chết lại nhẩy vào “tắm” trong lửa để trẻ lại như thời son trẻ.

Visits: 648

Tuyển Tập Tâm Thanh

Trân trọng giới thiệu Tuyển Tập Tâm Thanh bao gồm nhiều truyện ngắn, bút ký của nhà văn Tâm Thanh tức Ngô Thanh Tâm (1939-2015, Cao Học 2/ QGHC)

Tuyển Tập Tâm Thanh dày 251 trang dưới đây là công phu sưu tập trình bày và sắp xếp do anh Đặng Quốc Tuấn (ĐS 10/CH2 /QGHC), một đồng môn và bằng hữu  49 năm thâm giao với cố nhà văn Tâm Thanh.

Chúng tôi xin cảm ơn anh Đặng Quốc Tuấn với công phu sưu tập và nhất là bài viết rất cảm động và mang nhiều tâm tình của anh về Nhà Văn Tâm Thanh.

Mời đọc bài viết “Nhà Văn Tâm Thanh” của anh Đặng Quốc Tuấn trong mục “ĐỌC VÀ GIỚI THIỆU SÁCH-BÁO-TÁC GIẢ” ở Trang Chủ của website HCMĐ hay theo link dưới đây:

https://quocgiahanhchanhmd.com/2021/01/02/nha-van-tam-thanh/ 

Chúng tôi trân trọng cảm ơn chị Khánh Hà (Cao Học 3/QGHC), hiền thê của anh Ngô Thanh Tâm, cũng như nhiều website, diễn đàn mà chúng tôi xin phép được trích đăng tải các bài viết, truyện ngắn, bút ký của nhà văn Tâm Thanh trong “Tuyển Tập Tâm Thanh” do anh Đặng Quốc Tuấn sưu tập.

BBT Website HCMĐ

Visits: 568

Nhà Văn Tâm Thanh

Đặng Quốc Tuấn

Tâm Thanh là bút hiệu của Ngô Thanh Tâm (Cao-học 2 / QGHC) như thi-sĩ Khánh Hà (Cao-học 3 / QGHC), người vợ thân-yêu của Tâm đã giới-thiệu chồng:

Tìm bút hiệu không khó gì

Tâm Thanh đảo lại- nghe đi tiếng lòng

Nhà văn Phạm Phú Minh, bạn thân của Tâm từ Viện Đại-học Đà-Lạt, nguyên Chủ-nhiệm Tạp-chí Thế Kỷ 21, đã nhận xét: “Và tôi nghĩ tên của anh, Thanh Tâm – một tấm lòng trong trẻo – là một cái tên tiền định cho phẩm chất đời sống của anh. Và cả bút hiệu của anh nữa, từ tên nói ngược thành Tâm Thanh – tiếng lòng – cũng rất xứng đáng: những gì anh viết ra sẽ là tiếng nói chân chính từ cõi lòng anh.”

Hãy nghe chính Tâm Thanh nói về lối viết văn của anh: “…đôi khi tôi cũng suy nghĩ một chút về việc viết lách. Xin cho phép tôi nói ra tiêu chí văn chương của mình: Bản chất văn chương là hư cấu. Khi viết tôi bịa đặt hoàn toàn; nhưng khi sống, tôi ráng không phản bội những điều mình viết, dù một chữ. Thả bút viết “tình yêu” mà trong lòng đầy oán hờn, tôi không làm được.” (Trích thư Tâm Thanh gửi Ban Tổ chức Ngày Văn Hóa Việt Nam ở Oslo, Na Uy ngày 3 tháng 5, 2014, với chủ đề nói về tác phẩm của nhà văn Tâm Thanh, với hơn hai trăm người tham dự. Nhà văn Tâm Thanh vì bệnh nặng không đến dự được, đã gửi bức thư này để được trình bày với cử tọa.)

Tâm tốt-nghiệp Đại-học Sư-phạm Đà-Lạt rồi về dạy Triết tại Trường Trung-học Ngô Quyền, Biên-hòa. Năm 1966, Tâm thi đậu vào Cao-học Hành-chánh Khóa 2, Ban Hành-chánh. Theo chương-trình Cao-học, những sinh-viên chưa có kinh-nghiệm hành-chánh phải đi thực-tập 5 tháng trước khi nhập học. Tâm chọn thực-tập ở Lâm-đồng vì chị của Tâm là Sœur Hiền đang tu tại đây. Lúc ấy tôi đang làm Trưởng-ty Hành-chánh Lâm-đồng và cũng đang chờ về học Cao-học Khóa 2; tôi có nhiệm-vụ phải tổ-chức 5 tháng thực-tập Hành-chánh Địa-phương cho Tâm. Từ đấy, tôi được hân-hạnh quen biết anh gần một nửa thế-kỷ (49 năm).

Tôi và Tâm rời Lâm-đồng về Sài-Gòn học Cao-học; Tâm thuê dùm vợ chồng tôi một căn nhà trong Xóm Đạo Bùi Phát. Sau khi thành-hôn với Khánh Hà, vợ chồng Tâm Hà cũng thuê một căn nhà gần tụi tôi. Khi nghe tin Tâm và Khánh Hà sắp lấy nhau, một cô học trò cũ của Tâm uống sẵn một chai thuốc ngủ rồi vào thăm Tâm trong Ký Túc Xá Học-viện QGHC. Đang ngồi nói chuyện với Tâm thì cô ta ngã lăn ra bất tỉnh; cô ta muốn được chết trong vòng tay người thầy cũ của mình. Tâm lật-đật gọi xe cứu-thương đưa cô ta vào bệnh-viện. Khánh Hà đến trường nghe tin vội chạy vào bệnh-viện giúp Tâm. Tâm, Khánh Hà cùng với các bác-sĩ, y-tá đã cứu sống được cô học trò nhỏ. Vì chuyện cô gái tự-tử hụt này, Học-viện QGHC không cho Tâm ở trong Ký Túc Xá nữa mặc dù Tâm đã trần-tình rằng Tâm không hề có liên-hệ tình-ái với cô học-trò cũ. Sau này, khi viết bài “Cuốn Luận Văn” Tâm cũng qủa-quyết lập lại: “có Trời làm chứng, cô bé và tôi không có gì” (Cuốn Luận Văn, Kỷ Yếu Quốc Gia Hành Chánh 1952-1975 do Tổng Hội CSV/QGHC phát-hành năm 1999, trang 300). Hôm đó tôi, Tâm, và Vũ Công phải thuyết-trình về một đề-tài hành-chánh do Thầy Nghiêm Đằng chỉ-định. Tôi đành gồng mình thuyết-trình thêm phần của Tâm. Ngoài cô gái tự-tử hụt này còn có một cô học trò Ngô Quyền khác nữa, từng bị anh bồ Không Quân bắn vì ghen với giáo sư Tâm, mặc dù thầy Tâm không hề có tình ý gì với cô ta. Trong bài “Cuốn Luận Văn” Tâm đã tâm-sự: “Tôi bỏ nghề dạy học là vì truyện riêng ( tôi không biết cách đối xử với những cô học trò mới lớn, mà tôi cũng mới lớn…)”

Tâm Hà tham-dự Đại-hội CSV/QGHC Washington, D.C. 1999

Hình như chuyện cô học-trò cũ tự-tử hụt đã thúc-đẩy Tâm Hà thành-hôn sớm hơn dự–định. Vợ chồng Tâm Hà như hai nhánh sông hợp lại:

ta như hai nhánh sông

gặp nhau chung một dòng

đổ vào nhau bất tận

trôi giữa đời mênh mông”

(Khánh Hà, hai nhánh sông)

Sau khi “hai nhánh sông” hợp lại, Khánh Hà đưa chồng về thăm quê:

“Như chú rể Bắc của tui lần đầu

Về thăm quê vợ vùng sâu

Chưa nghe tiếng Bắc, lần đầu lạ tai

Ngoại hỏi nhỏ “Thẳng là ai?

Là người xứ nào, chẳng phải xứ ta?”

Nhà văn Phạm Tín An Ninh nhận xét: Chị [Khánh Hà] luôn đồng hành cùng anh trên mọi nẻo đường đời, luôn được tất cả mọi người quí mến, nể nang. Chồng Bắc vợ Nam, nhưng có lẽ đây là đôi tình nhân hạnh phúc nhất, cặp vợ chồng tâm đầu ý hợp nhất mà tôi biết được.”

Từ hồi học Đại-học Sư-phạm ở Đà-Lạt, Tâm đã kết bạn trao đổi thư tín với Hà năm năm trời:

Xa xôi Đà lạt thuở nào

Pensée anh ép gửi vào trang thư

(Khánh Hà, Chỉ còn)

Khi Tâm không được ở trong Ký Túc Xá Học-viện QGHC nữa, Tâm rủ Hà: Bạn đề nghị hai đứa thuê nhà chung, nhưng năn nỉ thuyết phục thế nào cô cũng không chịu. Cuối cùng bạn nói bạn bị lao, ho ra máu. Đó là bạn đánh một canh bạc liều − nếu cô yêu bạn thật cô sẽ theo bạn, nhưng lỡ gia phong thắng lướt tình yêu thì sao? Không ngờ, cô sụp đôi mi cong xuống, nói, “Cũng được. Chỉ để em chăm sóc anh thôi à nghe” (Tâm Thanh, Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 30). Thật ra bệnh lao của Tâm đã khỏi từ lâu rồi. Năm, sáu năm trước, nhân dịp đi chụp hình phổi để làm thủ-tục vào đại-học, Tâm phát giác bị lao phổi vì những đêm thức khuya học thi tú tài II. Tâm đã nằm Bệnh-viện Thánh Tâm, Biên-hòa 3 tháng, Bệnh-viện Hồng-bàng, Sài-gòn 6 tháng và, tạ-ơn Chúa, bệnh lao của Tâm đã được trị sạch hoàn-toàn.

Cũng nhờ việc “Chỉ để em chăm sóc anh thôi à nghe” đã dẫn đến một đám cưới thân-mật, đầm ấm. Tâm Hà lấy nhau qua một “Phép Giao” (một nghi-thức hôn-phối Công-giáo đơn-giản) trong một tu-viện Dòng Mân Côi. “Các bạn không có tiệc cưới, chỉ có tiệc trà cực kỳ đơn sơ tổ chức trong một lớp học bạn dạy còn ngái mùi phấn, “ban tổ chức” là 12 nữ sinh, quan khách khoảng mươi lăm người bà con và bạn bè chí thân. Vậy mà vợ chồng còn ăn ở với nhau tới khi tóc bạc ruột lủng, cũng lạ.” (Tâm Thanh, Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 103). Nhờ vậy chúng ta được quen biết một gia-đình đầy ắp tình yêu-thương giữa vợ chồng, con cái; một gia-đình tràn đầy tình-yêu qua những thành-công của Tâm trong lãnh-vực nghề-nghiệp, văn-chương cũng như qua những cơn bệnh hiểm-nghèo, đau-khổ của Tâm. “Chỉ để em chăm sóc anh thôi à nghe” là một khúc ngoặt quan-trọng trong đời Tâm. Nó chấm dứt giai-đoạn cô-quạnh trong mặc-cảm yếu-đuối. Bạn phải kể lại chuyện quá khứ để bằng hữu và con cái biết câu “Chỉ để em chăm sóc anh thôi à nghe” quyết định hạnh phúc đời bạn như thế nào. Tình yêu đến với bạn như giấc mơ, như phép lạ. Nước cam lồ rót vào bạn qua cái phễu bất hạnh, đau đớn, bệnh tật” (Tâm Thanh, Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 32).

Tốt nghiệp Cao-học Hành-chánh, Tâm về làm Giảng-sư tại Viện Tu-Nghiệp Quốc-Gia. Đổi nghề từ Giáo-sư Trung-học sang Đốc-sự Hành-chánh, Tâm vẫn làm công việc “dạy học,” một công việc rất thích-hợp với con người và tính-tình Tâm.

Khi Miền Nam sắp sụp-đổ, Tâm đang tu-nghiệp ở Hoa-kỳ. Trong lúc hàng triệu người Việt-Nam tìm đủ cách để bỏ nước ra đi thì Tâm tìm cách về lại Việt-Nam để “lo cho vợ con” dù chương-trình tu-nghiệp chưa hoàn-tất. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tâm Hà làm đủ nghề để sống, kể cả đạp xích-lô. Thật ra sức Tâm yếu không đủ sức chở những ông bà phốp-pháp mà chở những cô học-trò nhỏ-nhắn thì Khánh Hà lại không an-tâm. Tuy nhiên, để tránh khỏi bị đẩy đi Vùng Kinh-tế Mới, Tâm phải thuê một xe xích-lô đậu trước cửa nhà. Tâm Hà học được nghề trồng nấm tai mèo (mộc nhĩ) tương-đối kiếm được đôi chút nuôi con và chờ dịp vượt biên. Tâm gia-nhập đội đánh cá Quận Bình Thạnh, mua ghe đi đánh cá và chở công nhân viên tuyến Sài Gòn – Cần Giờ… để tìm cách vượt biển. Cũng may trước đây cả hai đều giữ những chức-vụ chuyên-môn nên không phải đi học-tập, cải-tạo dã-man của Cộng-sản.

Nhờ nghề đánh cá, Tâm có cơ-hội móc nối vài người bạn liều mạng tổ-chức một chuyến vượt biển vào cuối năm 1979. Thuyền nhỏ (dài 12.5 mét), chở 51 người, không có đủ dụng-cụ hải-hành nên thuyền không đến được một nước láng giềng nào như Thailand, Malaysia hay Indonesia. Thời ấy các trại tỵ-nạn quanh vùng Đông Nam Á chật ních dân tỵ-nạn Việt-Nam bởi vì chính-khách ngu-dốt, dã-man của Cộng-sản. Ít có tầu biển nào dám vớt người tỵ-nạn vì sợ trách-nhiệm; cùng lắm họ dừng lại cho thực-phẩm, săng nhớt hay giúp sửa máy chứ không vớt thuyền nhân. Chiếc thuyền nhỏ bé của bọn Tâm Hà lênh-đênh trên biển cả ba ngày ba đêm, gặp 29 tầu biển nhưng không tầu nào dừng lại cứu vớt. Nước uống và mì gói sắp hết, thời-tiết như sắp có bão, mọi người lo-sợ sẽ làm mồi cho cá biển. May sao tầu “Seaspeed Dima” thuộc công-ty hàng hải Na-Uy Sjøhistorie đã dừng lại vớt hết mọi người và chở bọn Tâm Hà vào trại tỵ-nạn Singapore. 51 người vừa được vớt thì một cơn bão ập tới. Suốt đời bạn không bao giờ quên ơn cứu tử của thuyền trưởng và thủ thủy tàu Sea Speed Dima” (Tâm Thanh, Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 65). Thời-tiết Na-Uy lạnh gía nhưng tình người Na-Uy rất ấm-áp.

Seaspeed Dima / Sjøhistorie.no

Ba mươi ba năm sau (2012), Tâm Hà trở lại Singapore để thăm lại trại tỵ-nạn Việt-nam nhưng không tìm được. Hỏi thăm nhân-viên khách-sạn họ cũng không biết nhưng có người tìm trên “internet” được một bản đồ cũ có chỉ vị trí của “Vietnamese Refugee Camp” ở vùng Sembawang phía cực bắc Singapore. Khi Tâm Hà lần mò tới nơi, không còn vết tích xưa nữa. Thật ra trại tỵ-nạn này đã đóng cửa từ tháng 6 năm 1996, nhà cửa vốn thuộc một doanh trại cũ của quân đội Anh bị phá hủy, tên đường phố Hawkins Road cũng gỡ xuống; lúc ấy còn 99 người tỵ-nạn Việt-Nam không có nước nào tiếp-nhận nên bị trả về Việt-Nam. Trại Hawkins Road được coi là một trong những trại tỵ nạn nhân-đạo tốt hơn hết trong khu vực Đông Nam Á.

Định-cư ở Na-Uy, Tâm Hà đều đi làm Bưu-điện (hèn chi thư từ tôi gửi cho Tâm Hà cứ bị thất-lạc); sau Tâm bỏ Bưu-điện đi làm cho đài truyền hình Quốc Gia Na Uy NRK. Ổn-định cuộc sống rồi, Tâm Hà sáng-tác rất mạnh, chàng viết văn, nàng làm thơ. Tâm đã xuất bản ba quyển truyện ngắn: Thiên Nga giữa cõi người, Gỗ thức trên rừng, Thiên Hương về Trời, và quyển Nụ cười xã hội chủ nghĩa. Khánh Hà cũng in ba tập thơ: Cõi Thơ, Ở Đây Cuối Đường. Tâm Hà còn dịch sang tiếng Việt vở kịch thơ Peer Gynt của đại thi hào Henrik Ibsen, một tác phẩm cổ điển giá trị của Na-Uy. Tâm còn vài truyện ngắn và truyện dài Ngọn hải đăng bỏ hoang chưa xuất-bản. Gần cuối cuộc đời Tâm viết một “chúc thư”: Lệnh Triệu Ban Rồi-Một Trường Hợp Ung Thư, quyển này chỉ in ít bản dành tặng bạn bè. Nhân vật chính trong Lệnh Triệu Ban Rồi“Bạn” vừa có thể hiểu là ngôi thứ nhất: tác giả, mà cũng có thể hiểu là ngôi thứ hai: độc giả nhưng thật ra “Bạn” trong “chúc thư” là người bạn thân-thương Tâm Thanh của chúng ta. Sau phần “chúc thư” của Tâm Thanh là 23 bài thơ của Khánh Hà: “Vần Cuối Cho Anh.” Hình như Khánh Hà đã dùng nước mắt mình làm mực để viết Vần Cuối Cho Anh.

Tâm Thanh viết văn giản-dị, nhẹ-nhàng, trong sáng nhưng thỉnh-thoảng cũng lồng thêm nhiều tình-tiết bất-ngờ, gay-cấn. Đôi khi độc-gỉa thấy một câu văn hay tên truyện hơi “khó hiểu;” hãy đọc chậm lại bạn sẽ hiểu ý của Tâm và xin nhớ rằng nhà văn thân-thương của chúng ta vốn là một giáo-sư Triết học. Cố văn-sĩ Nguyễn Mộng Giác, người viết Tựa “Đọc Tâm Thanh, từ một góc riêng” cho quyển truyện đầu tay của Tâm Thanh, Thiên Nga giữa cõi người” đã viết: Người đọc bước vào truyện như lạc vào một cõi mơ, và ra khỏi truyện thì ngơ ngẩn bàng hoàng vì băn khoăn không hiểu nổi những vấn nạn muôn thuở của nhân sinh. Có thể xem truyện ngắn của Tâm Thanh như những bài thơ triết lý” và: Tâm Thanh viết văn như một cách tiếp nối nghề nghiệp anh đã từng làm ở quê nhà trước ngày tan đàn rã gánh: nghề một giáo sư triết học. Chỉ khác là lần này anh “triết lý” bằng “thi ca.

Buổi Ra Mắt Sách do Tổng hội CSV/QGHC, Câu Lạc Bộ Văn Học Vùng Hoa Thịnh Đốn và Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam Tự Do Đông Bắc Hoa Kỳ phối-hợp tổ-chức (Virginia 1999).
Từ trái: Khánh Hà (CH3), với tác-phẩm “Cõi Thơ”
Đặng Quốc Tuấn (ĐS10, CH2) bút hiệu Đặng Vũ Hoài Việt, với bộ truyện dài “Trôi Giạt”
Ngô Thanh Tâm (CH2) bút hiệu Tâm Thanh, tập truyện ngắn “Thiên Nga giữa cõi người”
(Không có trong hình là chị Phạm Thị Quang Ninh, phu-nhân anh
Hà Thế Ruyệt (ĐS 9, CH4) với tập hồi ký “Cùng Nhau Trôi Nổi”

Nhà văn Phạm Tín An Ninh, người đã được Tâm Thanh khuyến-khích viết văn, nhận xét về Tâm Thanh: “Tính của anh không thích nghe những lời khen, những lời cám ơn hay ngưỡng mộ mình” Anh rất xứng đáng là thầy tôi, nhưng không bao giờ chịu nhận. Đôi lúc tôi còn giận anh cái tính quá khiêm nhường.” Phạm Tín An Ninh viết những lời này trong ngày Giỗ 49 Ngày của Tâm Thanh; khi ấy (2015) có người cho rằng Phạm Tín An Ninh còn nổi tiếng hơn cả “Thầy” Tâm Thanh của mình.

Trong cuốn “chúc thư” Lệnh Triệu Ban Rồi-Một Trường Hợp Ung Thư, Tâm ghi vội nhiều cảm nghĩ của mình về nhiều vấn-đề như bệnh-tật, đau-đớn, đau-khổ, tôn-giáo, bạn bè, và nhiều chuyện lặt-vặt hàng ngày mà Tâm đã trải qua trong cuộc đời mình. Khi biết mình sắp ra đi Tâm viết lại những cảm nghĩ này để gửi vợ con, bạn bè, chủ-yếu là khuyên-bảo mọi người làm cách nào để sống quãng đời còn lại một cách phong-phú và hạnh-phúc.

 Tâm viết về cha mẹ, các anh chị và em gái. Tâm có ba người chị, anh Lưu, và một em gái. Chị Hiền lớn nhất đi tu Dòng St. Paul ở Hà-Nội từ năm 14 tuổi. Hai chị kế đã đi lấy chồng, anh Lưu ở xa với người chú ruột. Bố của Tâm vốn là Chủ-tịch Ủy-ban Hành-chánh Xã Thiên Thiện của Việt Minh nên bị Tây bắt giam. Chú của Tâm, một linh-mục, đến xin và bảo-lãnh cho anh nên bố của Tâm được thả ra. Việt Minh cho rằng phải là Việt gian hay nhận làm Việt gian, mới được Tây thả nhanh như vậy, nên họ muốn thanh toán ông. Ông trốn thoát kịp. Ông trốn ở đâu, gia đình cũng không biết. Trong thời gian đó mẹ Tâm bị bệnh nằm liệt giường; Tâm mới 11 tuổi, vừa coi em gái út Minh 5 tuổi vừa coi Mẹ; mỗi ngày chị thứ hai về nhà nấu cơm cho mẹ một lần rồi phải trở lại nhà chồng. Có lần Tâm đang giặt áo cho Mẹ trên cầu ao, em Minh ngã xuống ao, Tâm nhanh tay nắm được chân em lôi lên. Hơn 60 năm sau, Minh và con gái đi lùng khắp làng để xin lá đu đủ đực gửi sang Na-Uy cho anh uống chữa bệnh ung-thư tụy tạng.

Anh Lưu của Tâm xa nhà từ năm 9 tuổi để sống với chú là một linh-mục. Chú rất thương cháu nhưng lại rèn-luyện cháu theo khuôn-khổ một nhà tu-hành nghiêm-khắc, kỷ-luật nên thường hay đánh đòn cháu. Theo Tâm, chính vì đời sống khắc-khổ thời niên thiếu nên Lưu rất cô-đơn, ít biểu lộ tình-cảm. Lấy vợ cũng không biết tự tìm mà để chú lo-liệu. Tuy không quen nhau trước khi cưới nhưng hai vợ chồng Lưu rất thương-yêu nhau. Lưu tốt-nghiệp Học-viện QGHC Khóa 6 Đốc-sự. Tâm và gia-đình rất hãnh-diện khi thấy người ký văn-bằng tốt-nghiệp của Lưu là Tổng-thống Ngô Đình Diệm, một chí-sĩ của Việt-nam, một ân-nhân, một “thần tượng” của những người Bắc di-cư vào Nam năm 1954-1955.

Trong một kỳ nghỉ Tết, Lưu chở vợ bằng xe Lambretta đi chơi bị đụng xe gần Vũng Tàu. Vết thương ở chân chị Lưu không nặng lắm nhưng vì là chiều Giao-thừa, nhân-viên y-tế thiếu, nên thay vì sắp-xếp xương gẫy cho ngay-ngắn rồi bó bột thì người ta cưa một chân của chị. Ít năm sau Anh Lưu mất vì bướu não khi chưa đầy 35 tuổi. Cũng may Chị Lưu rất tháo-vát, giỏi kinh-doanh, nuôi ba đứa con côi thành-công và hiện đang định-cư ở California. Không kể hồi nhỏ còn bú mẹ, Tâm và Lưu chỉ sống chung với nhau khoảng hai năm. Tâm vẫn nhớ một việc duy nhất Tâm làm anh Lưu hài lòng là gãi đầu Lưu khi Lưu bị bướu não vì bướu não lan đau-đớn ra tận chân tóc. Tâm “bon chen vào học hành chánh (CH2), một phần do muốn theo chân anh” (Ngô Thanh Tâm, Anh tôi).

Tâm Thanh & Khánh Hà tại Norwegian Wood

Cuối cùng bố Tâm cũng bị Việt Minh bắt. Ông được thả về vài tháng thì mẹ Tâm mất. Ông gửi Tâm cho ông chú để Tâm có chỗ đi học. Chú lại gửi Tâm sang trường Dòng. Năm 1954 Tâm theo trường Dòng di cư vào Nam, trong khi Bố Tâm ở lại, bị Việt Minh đấu tố tới chết.

Sống trong trường Dòng, liên hệ gia đình chỉ còn là những lá thư hằng tuần của người chị. Để em bớt cô đơn, Sœur Hiền cho Tâm một tấm hình bỏ túi áo. Nhiều anh lớn (học-sinh trong trường) hối lộ tiền hoặc kẹo lạc, bong bóng để xin một tấm hình tương tự; xin không được thì mượn hình Sœur Hiền hôn một cái. Tâm tức lắm mà không làm gì được. Nhưng một anh đã đi quá đáng, anh ta ôm chặt Tâm và gọi tên chị Hiền. Tâm mách cha, anh này bị đuổi. Tâm không ngờ hậu quả cho anh ta lớn như vậy, nên vẫn hối hận dù anh ta đã chết bên Mỹ.

“Trong trường dòng tại Sài Gòn, bạn rất chuyên tâm, không ngại ngùng chi cả, chỉ ngại những ngày lễ và kỳ nghỉ hè. Bởi vì mỗi lần bãi trường bạn bè hân hoan về với gia đình (quen gọi là “về quê”), còn bạn không biết về đâu. Hai chữ “về quê” nghe đẹp làm sao, nhưng chưa bao giờ bạn được hưởng. Có lần Tết Nguyên Đán bạn không biết đi đâu, phải cùng một đứa bụi đời leo xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho, lang thang ở bờ sông, cuối cùng ngủ trên cái thuyền bỏ cạn, ngực áp một cuốn sách cho đỡ lạnh. Đó là cuốn Sans Famille (Vô gia đình) của Hector Malot, cuốn truyện tiếng Pháp đầu tiên bạn đọc. Mỗi lần đọc lại khóc, nhưng cứ thích đọc. Suốt đời bạn mơ ước mình có một gia đình để nếm mùi ngọt ngào” (Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 31 – 32). 

 “Chị Hiền ơi,

Em nói câu này nếu Chị không bằng lòng thì xin Chị tha-thứ cho em. Theo em nghĩ, khi Bác Gái đau nằm liệt giường, Bác Trai đang trốn-tránh Việt Minh hoặc bị tù thì Chị phải xin phép Bề Trên về nhà săn-sóc Mẹ và các em. Khi nào các em 1ấy chồng, lấy vợ hoặc các em đã khôn lớn thì Chị sẽ trở lại Nhà Dòng tiếp-tục cuộc đời tận hiến cho Chúa và Mẹ Maria. Em chỉ gặp Chị hai lần, chắc Chị chẳng còn nhớ em ra sao nhưng em còn nhỏ hơn Tâm vài tuổi nên Chị cứ la mắng em như một người em của Chị nếu Chị cho là em sai. Em xin lỗi Chị. Cám-ơn Chị đã cho Tâm Hà một tình-yêu trìu-mến, một tình-yêu pha trộn giữa tình Mẹ và tình Chị, một an-ủi nồng ấm trong những năm tháng bệnh-tật của Tâm.”

Đôi uyên-ương Tâm Hà tại Đại-hội CSV/QGHC Washington, D.C. 1999

Trong cuốn “chúc thư,” Tâm dành nhiều trang viết về bạn bè: bạn thời niên-thiếu ở Trường Dòng, Trường Hồ Ngọc Cẩn, bạn đồng môn ở Đại-học Văn-khoa Sài-gòn, Đại-học Sư-phạm Đà-Lạt, và Học-viện QGHC. Tâm viết về các bạn trong giới văn-chương, các nữ tu Dòng Mân Côi, và các bạn ở Na-Uy kể cả người đồng hương và người bản xứ. Tâm còn viết về bạn bè của Khánh Hà và của Anh Lưu. Trang nào cũng đầy ắp tình người, tràn ngập tình bằng hữu, ngào ngạt hương thơm vì Tâm rất thích La Fontaine đã thi vị hóa tình bạn già bằng một hình ảnh sinh động “Tình bạn như bóng chiều, ánh dương đời càng xuống thấp nó càng trải dài ra”.

“Chữ ký” của Tâm Hà trong nhiều emails

Gần ngày ra đi, Tâm nghĩ có thể Tâm đã no đủ rồi, không ước ao gì nữa: “Quan trọng nhất là bạn cho vợ con thấy bạn đã sống hạnh phúc, đã thương yêu họ, đã nhận lãnh đủ tình thương của họ, no đầy. Bạn sẵn sàng ra đi trong no đủ, thảnh thơi đến một nơi hạnh phúc tuyệt vời… Thương khóc hay nguyền rủa, bạn không hay. Có mấy người tiễn đưa? Có mấy vòng hoa, to hay nhỏ?… Tất cả sẽ là hài kịch cuối cùng mà vai chính không được tham dự, đành xin lỗi và cám ơn trước” (Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 174). Thực ra Tâm vẫn còn một giấc mơ chưa đạt được: “Giấc mơ một nước Việt Nam tự do no ấm – có lẽ là giấc mơ duy nhất tan vỡ, bạn nhắm mắt trước khi thấy một tia sáng” (Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 173).

Tâm chỉ có một “Di chúc duy nhất của bạn là được liệm bằng cái áo lính mà Trung tâm Huấn luyện Quang Trung phát cho khi bạn đi ‘lính chín tuần’. Cũng cái áo này bạn đã mặc khi đi đạp xích-lô và vượt biên” (Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 174). Chiếc áo lính này đã được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Hàng Hải Na-Uy nhân Ngày Kỷ Niệm Thuyền Nhân. Tâm chỉ đi lính chín tuần nhưng theo Tâm, chúng ta đã “nợ người lính Cộng Hòa. Họ đã lấy thân đỡ đạn cho các bạn ngồi trên ghế nhà trường, ngủ yên trong nhà ở thành phố mấy chục năm trời, mấy ngàn đêm ngày” (Lệnh Triệu Ban Rồi, trang 137).

“Lệnh Triệu Ban Rồi, thôi tôi đi đây” là thơ của Rabindranath Tagore (1861–1941) do Đỗ Khánh Hoan dịch. Tagore là người Bengale; ông là một triết gia, một thi-sĩ, văn-sĩ, nhạc-sĩ, và họa-sĩ. Năm 1913, Tagore là người không thuộc Âu-châu đầu tiên (the first non-European) giật giải Nobel Văn-chương. Tâm Thanh đã mượn câu thơ của Tagore để trối-trăn với vợ con, bạn bè; đây là dòng chữ cuối cùng Tâm Thanh viết cho những người thân-yêu của mình. Giuse Ngô Thanh Tâm đã theo Tagore ra đi vào ngày 9 tháng 4 năm 2015 nhưng Tâm Thanh vẫn mãi mãi ở lại trong lòng vợ, con, chị, em và bằng-hữu.

Trước khi bị ung-thư, Tâm rất săn-sóc sức-khỏe của mình. Anh ngồi thiền, tập tài-chí khí công được 20 năm. Tâm Hà ăn gạo lức, muối mè theo phương-pháp dưỡng-sinh của Triết gia Nhật-bản Ohsawa; Tâm Hà cũng ăn nhiều đậu hũ. Có lần vợ chồng tôi và Tâm Hà đi ăn cơm Việt-nam ở Virginia, Tâm rất ngạc-nhiên và thích-thú khi thấy nhà hàng có bán canh tôm đậu hũ nấu với lá hẹ. Tâm say-mê món ăn bình-dân, giản-dị này, ít động đũa tới những món thịt, cá cầu-kỳ khác. Khi Sœur Hiền từ Việt-nam sang Na-uy thăm các em, các cháu “cái vali chỉ có một bộ đồ, chỗ còn lại dành cho cái máy xay sữa [đậu nành] làm đậu hũ”.

“Anh-hùng thấm mệt”
(ngày gần cuối trong chuyến du-lịch Nhật Bản và Đại Hàn, 2014)

Căn bệnh nan-y của Tâm được chẩn bệnh vào năm 2012; Tâm thấy hay mệt, ăn không ngon, hay đau thắt ngang hông. Đi khám bác-sĩ mới biết bị ung-thư tụy-tạng (Pancreatic Cancer); tin xấu này đến trong Mùa Chúa Giáng-sinh 2012. Qua Tết Ta (Tết Qúy Tỵ, tháng 2 năm 2013) Tâm vượt qua được cuộc giải-phẫu nguy-hiểm Whipple (Whipple procedure hay còn gọi là pancreaticoduodenectomy). Giải-phẫu Whipple rất phức-tạp nhằm cắt bỏ phần đầu của tụy-tạng (the head of the pancreas), khúc đầu ruột non (duodenum), túi mật (gallbladder), và một khúc ống mật (bile duct). Phần còn lại của tụy-tạng, ruột non và ống mật được các bác-sĩ nối lại để bệnh-nhân có thể tiếp-tục tiêu-hóa thực-phẩm. Cuộc giải-phẫu Whipple của Tâm kéo dài hơn 7 giờ. “Bạn vừa chết bảy tiếng đồng hồ! Sống dậy, nhưng không biết có sống thật không.” Khoảng 25% bệnh-nhân hoặc chết trên bàn mồ Whippel hoặc chết chỉ sau đó ít lâu.

Cục u nằm ở đầu tụy-tạng của Tâm dài 1.5 cm; nó nằm ngay chỗ mấy giây thần-kinh giao nhau nên đau lắm. “đau nhói như chưa bao giờ đau như vậy. Cơn đau dữ dội nhưng ngắn gọn như đạn xuyên…Có lần đau đến nỗi không há miệng cầu cứu vợ được.” Đau như vậy nhưng Tâm lại tự an-ủi “Đó là cái may của bạn, vì nhờ đau, bệnh được phát giác kịp thời. Về phương diện thể lý, đau là một dấu hiệu cảnh báo nguy cơ, một cảnh báo rất tử tế của Tạo hóa. Cơ thể không biết đau có thể ví như chiếc xe hơi không có đèn báo thiếu nhớt, cạn dầu thắng, cứ chạy cho tới khi lao xuống vực thẳm.” Tôi có một kinh-nghiệm giống hệt lời ví rí-rỏm của Tâm về việc “cơ-thể không biết đau.” Tôi bị bệnh lở bao tử (stomach ulcer) mà không biết vì không đau; vết lở không nằm trong bao tử mà nằm ngoài cuống bao tử, chỗ ấy không có giây thần-kinh nào nên không đau. Khi tôi mệt qúa, nhà tôi đưa tôi vô nhà thương. Nằm chờ ở Phòng Cấp-cứu tôi thấy chóng mặt, khó chịu nên xin cô y-tá một cái gối nữa hy-vọng gối cao lên sẽ dễ chịu hơn. Cô ta chẩn mạch tim, đo “blood pressure,” gọi phòng thí-nghiệm đang thử máu của tôi rồi thay vì cho tôi thêm một cái gối nữa, cô ta lấy nốt cái gối tôi đang nằm. Thì ra tôi đã mất khoảng nửa số máu trong cơ-thể mà tôi không biết, cô y-tá sợ tôi không có đủ máu chạy lên não nên hạ thấp đầu tôi xuống trong khi đang tiếp máu cho tôi.

Sau giải-phẫu Whipple, Tâm tiếp tục chữa ung-thư tụy-tạng bằng chemotherapy (hóa trị) trong 6 tháng. Bệnh tình thấy thuyên-giảm đôi chút nhưng cuối năm 2013, Tâm bị pancreatitis (viêm tụy), lại vô nằm nhà thương. Khổ cho Tâm; phần lớn người ta hay bị pancreatitis trước khi bị pancreatic cancer. Chúa ơi! sao đôi khi Chúa thử thách chúng con qúa nặng nề! Trong bài giảng Lễ an táng Giuse Ngô Thanh Tâm, Đức Ông (Monsignor) Huỳnh Tấn Hải, người đã quen biết Tâm 33 năm, cho hay Anh ngưỡng mộ giáo lý từ bi và giải thoát của Nhà Phật. Anh quí trọng nền lễ giáo của thầy Khổng Tử, lối sống phóng đạt, siêu thoát của Lão Tử, nhưng anh luôn bám chặt niềm tin cứu độ của Kitô giáo. Và điều này không dễ dàng.” Đã có lần qúa thất-vọng, Tâm có phần than trách Chúa.” Từ Đại Hàn, Tâm đã viết cho Đức Ông “Con ở tại một khách sạn sát cạnh một nhà thờ, con ngẫm nghĩ tinh thần Kitô giáo có thể chuyển hoá cả một quốc gia Đại Hàn, thì sao không đem lại bình an cho tâm hồn và thể xác bé mọn của con.”

Vì Tâm yếu sức hầu như không chịu đựng nổi chemotherapy nên bác-sĩ cho Tâm nghỉ ít ngày và khuyến-khích Tâm Hà đi du-lịch cho khuây-khỏa. Từ lâu Tâm Hà vẫn muốn đi thăm Nhật Bản vào mùa hoa Anh Đào. Tâm Hà đã mua vé năm 2011 nhưng Nhật bị động đất nên chuyến đi phải hủy-bỏ. Được phép của bác-sĩ, Tâm Hà vui-vẻ đi thăm Nhật Bản và Đại Hàn. Tâm thích chuyến du-lịch này lắm, Tâm chụp nhiều hình và làm video “HOA ĐÀO” dài 50 phút; video có nhiều hình đẹp, nhạc rất hay. Tâm giới-thiệu nước Nhật: “Không thấy đâu một cọng rác trừ những cánh hoa đào rơi.”

Hoa Đào Nhật Bản (Tâm chụp năm 2014)

Một điều tôi vẫn tiếc là đã không đi với Tâm Hà sang Nhật bởi vì cùng lúc ấy Nhà Tôi đã ghi tên đi Machu Picchu (Peru). Lúc ấy dù tôi có bỏ “tour” Machu Picchu thì cũng không mua được vé đi Nhật với Tâm Hà vì họ đã “sold out.” Tâm an-ủi tôi: “Nếu đi Nhật về, chữa bệnh tiếp mà bớt thì chúng tôi thoáng nghĩ hai cặp chúng ta đi BHUTAN (nước Phật hiền hòa) với nhau.” Tâm ơi! Mộng ước bốn đứa mình đứng dưới chân núi Hi-Mã-Lạp-Sơn hay đi thuyền trên sông Seine (Paris) thay vì dòng sông Trương Minh Giảng đen ngòm không bao giờ thành!

Tâm Hà thăm Đền Thần Đạo Itsukusima Shrine, Hiroshima (Nhật Bản 2014)

Đi Nhật về Tâm bị đau 3 ngày rồi sau đó ra vào bệnh-viện liên-miên để chemotherapy, radiation therapy (quang trị), và truyền máu…Thường Chị Khánh Hà cũng ở luôn trong bệnh viện để săn-sóc chồng. Khi không chữa thuốc Tây, Tâm Hà đã thử dùng đủ mọi loại thuốc thiên-nhiên như lá đu đủ, măng tây, mãng cầu, nghệ, fucoidan, trái khổ qua.. Tôi và Nguyễn Minh Triết (CH 2) rủ Tâm Hà dự Đại Hội Liên Khóa CSV/QGHC ở Houston năm 2014 nhưng Tâm không dám đi, Tâm than có lẽ tôi phải bỏ giấc mộng giang hồ vặt để chuẩn bị cho một chuyến đi lớn cuối cùng.” Chuyến đi lớn cuối cùng này đã xảy ra vào ngày 9 tháng 4 năm 2015. Trong ngày đau-buồn này, Cao-học Hành-chánh 2 mất hai người bạn thân-thương: Ngô Thanh Tâm mất ở Na-Uy, Nguyễn Ngọc Diệp mất ở California, Hoa-kỳ.

Tâm đã bỏ chị Khánh Hà, các cháu Tiêu Dao, Như Thủy, Camillia; Tâm đã bỏ chúng ta đi về “Bên Kia,” Tâm đi một mình, cô-độc. Nguyện xin Chúa Nhân-từ, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, sớm đưa linh-hồn Giuse Ngô Thanh Tâm về hưởng Nhan Thánh Chúa, sớm cho Tâm được gặp lại Ba Mẹ và Anh Ngô Đức Lưu. May God hold you in the palm of his hand.

Khi không còn anh

Em phải đi bằng đôi chân của mình

Trong mùa đông giá lạnh

Bàn tay em không người sưởi ấm

(Khánh Hà , Khi không còn anh)

Mới ngày trước, Bàn tay em không người sưởi ấm” này đã cầm chặt tay Tâm để “con đau nó bò sang em.”

Sau đây là một số truyện ngắn và bài viết của Tâm Thanh. Gọi là một “Tuyển Tập” thì không đúng hẳn nhưng đây là một sưu-tập những bài của Tâm Thanh đang có sẵn trên “internet”. Cách đây ít lâu, bạn Lê Qúy Đính (ĐS 10 / CH 3) “posted” truyện ngắn “Trích tiên” của Tâm Thanh trên Diễn-đàn Khóa 10 và nhiều bạn của Tâm Thanh muốn xem thêm truyện của Tâm. Tôi có một số sách truyện của Tâm và thơ của Khánh Hà (CH 3) nhưng đều là “sách;” khó gửi luân-lưu cho bạn bè. Tôi tìm trên “internet” thấy có một số truyện ngắn của Tâm Thanh nên góp lại đây để chuyển cho các bạn. Ngoại trừ bức thư của Tâm tôi cố ý để cuối cùng, những truyện khác tôi không xếp theo một thứ tự nào; gặp truyện nào của Tâm ở trên mạng là tôi mừng hú, “copy” ngay; tôi biết còn sót nhiều truyện. Tôi trân-trọng cám-ơn những diễn-đàn, đặc-san đã in truyện / bài của Tâm Thanh Ngô Thanh Tâm mà tôi đã sao in trong sưu-tập này; tôi xin lỗi qúy vị vì tôi không xin phép trước.

 

Hoa Đào Khánh Hà và Hoa Đào Nhật Bản của Tâm (2014)

Truyện / Bài                                        Trang                 Nguồn

  1. Thiên nga giữa cõi người                    17                    http://phamtinanninh.com/
  2. Nén hương nhớ mẹ                             23                    https://vnthuquan.net/
  3. Cổ Thành (truyện Tâm Thanh)            29                    http://phamtinanninh.com/
  4. Cổ Thành (thơ Khánh Hà)                  40                    http://phamtinanninh.com/
  5. Đám mây bên kia hồ Mjøsa                42                    https://tiengthongreo.blogspot.com/
  6. Chân dung một cô gái Việt-Nam        50                    https://tiengthongreo.blogspot.com/
  7. Ngôn Ngoại                                        56                    https://quocgiahanhchanhmd.com/
  8. Chiêu hồi ngôn từ                               65                    https://www.diendantheky.net/
  9. Nụ cười Xã Hội Chủ Nghĩa                78                    https://tiengthongreo.blogspot.com/
  10. Trích tiên                                             79                    https://vietmessenger.com
  11. Lụa bạch                                             94                    https://www.luanhoan.net
  12. Di ngôn lạ                                           109                  https://www.luanhoan.net
  13. Hương xưa                                          119                  https://www.luanhoan.net
  14. Bàn tay                                                128                  https://www.luanhoan.net
  15. Chó và người giữa Hà-Nội                 133                  https://tiengthongreo.blogspot.com/
  16. Nhà sư dắt con                                    138                  https://tiengthongreo.blogspot.com/
  17. Túp lều của chị tôi                               143                  https://buonmathuot.org/content.php
  18. Con bọ mắt                                         151                  https://www.diendantheky.net/
  19. Mai sau kiếp khác                               155                  https://www.diendantheky.net/
  20. Thiên Hương về trời                           168                  http://www.hocxa.com
  21. Gỗ thức trên rừng                               177                  http://www.hocxa.com
  22. Tên người yêu                                     190                  https://www.diendantheky.net/
  23. Phấn thông                                          197                  https://www.diendantheky.net/
  24. Hỏi vườn dâu đâu giòng nước cũ       206                  https://www.diendantheky.net/
  25. Mùi trần                                              216                  Nhà văn Phạm Tín An Ninh gửi
  26. Trái mùa                                              224                  Nhà văn Phạm Tín An Ninh gửi
  27. Em gái tôi và con dê đen                    231                  Nhà văn Phạm Tín An Ninh gửi
  28. Qùa cho em                                         238                  Nhà văn Phạm Tín An Ninh gửi
  29. Cuốn Luận Văn                                  242                  Kỷ Yếu QGHC 1952-1975 (xb 1999)
  30. Anh tôi                                                245                  Đặc-san “Nửa Thế Kỷ Hội Ngộ”
  31. Giáng phước                                       248                  Nhà văn Phạm Tín An Ninh gửi
  32. Đọc thơ người nhà                              253                  https://www.luanhoan.net
  33. Câu truyện hay nhất thế giới              256                  http://www.hocxa.com
  34. Bức Thư của Nhà Văn Tâm Thanh     263                  http://www.hocxa.com

Tuyển tập này dài 264 trang nên không tiện “layout” để đăng trên Diễn-đàn Hội Cựu Sinh Viên Quốc-Gia Hành-Chánh Miền Đông. Bởi vậy tôi chỉ đăng bài “Nhà Văn Tâm Thanh” để giới-thiệu tác-gỉa. Độc-giả xin theo “nguồn” mà tôi ghi trên để tìm đọc truyện, bài của Tâm trên mạng; tiện dịp mời qúy vị ghé thăm một số diễn-đàn văn-nghệ, diễn-đàn hội ái-hữu của người Việt mình. Ngoài truyện của Tâm Thanh, quý vị sẽ có dịp thưởng thức các truyện, bài, tin-tức khác trên các diễn-đàn này. Tuy nhiên nếu độc-giả nào muốn có toàn bộ tuyển tập này xin “email” cho tôi, tôi sẽ gửi đến quý vị.

Hy-vọng qúy vị “enjoy” sưu-tập này. Hãy thắp lên một nén hương lòng để tưởng nhớ người bạn Tâm Thanh Ngô Thanh Tâm thân-thương của chúng ta.

Một người bạn cũ của Tâm
Đặng Quốc Tuấn
(ĐS 10 / CH 2)
Ngày cuối năm 2020
Dr.MichaelDang@gmail.com

Vợ chồng Ngô Thanh Tâm & Khánh Hà và vợ chồng Thu-Cảnh & Đặng Quốc Tuấn Đại-hội CSV/QGHC Washington, D.C. 1999 (Ảnh do Cố Huynh-trưởng Châu Kim Nhân chụp)

 

Visits: 1047

Bệnh Tiểu Đường Loại 2

Nguyên tác Anh ngữ: BS. Phạm Hiếu Liêm

Bản Dịch: DS. Nguyễn Hiền

(Bài viết này tóm lược các ý chính cho ngắn gọn dễ hiểu hơn cho người đọc lớn tuổi đeo kính, trình bày bằng chữ lớn và xin phép bỏ các bảng tham khảo tiếng Anh của BS Liêm dù quý giá)

Trong một bài báo mới đây mang tựa đề “Tình trạng Sức khỏe của Người Cao Niên Hoa Kỳ gốc Á”, đăng trên tạp chí có uy tín Journal of the American Geriatrics Society đã tiết lộ nhiều hình trạng đáng lo nơi các Người Việt cao tuổi ở hải ngoại. Khi đối chiếu so sánh với những nhóm người Mỹ gốc Á khác trong văn hóa “dùng đũa” (Khổng giáo) như người Mỹ có gốc Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc, người Mỹ gốc Việt cao niên, được coi như một nhóm có trình độ học vấn kém hơn và nghèo hơn, lại có tỷ lệ cao hơn về bệnh tâm thần, và nhất là có tỷ lệ cao nhất về tiểu đường (22%).

Người ta có thể tìm ra lời giải thích thỏa đáng cho phần lớn những phát hiện trên nơi các Cụ người Việt, ngoại trừ chuyện có tỷ lệ cao với bệnh Tiểu đường Loại 2. Bài viết này cố gắng đưa ra một lời giải thích có khả năng thuyết phục nhất về sự khác biệt và với hy vọng sẽ có thể mang lại một vài lời khuyên bổ ích cho những Cụ này về bệnh Tiểu đường Loại 2.

Tiểu đường Loại 2 là gì?

Tiểu đường Loại 2 là một chứng rối loạn từ lâu đã bị gán cho một cái tên sai, đã bị hiểu lầm và cho đến năm 2008, người ta vẫn còn hoàn toàn lầm lẫn trong chỉ dẫn về phương cách chữa trị.

·Khác với Tiểu đường Loại 1 (Tiểu đường ở Thanh thiếu niên) là bệnh đái tháo đường duy nhất đúng nghĩa, bệnh này do sự thiếu hụt sản xuất Insulin của tuyến tụy– làm ngăn trở khả năng biến đổi chất đường glucose này thành glycogen để dự trữ, do đó lượng glucose trong máu tăng cao.

Bệnh nhân mắc bệnh Tiểu đường Loại 1 do đó phải được chích Insulin để giữ cho lượng glucose trong máu trở lại càng xuống mức bình thường chừng nào càng tốt. (Chữa trị: Nhiều người mang dụng cụ bơm Insulin có cài chương trình để rập khuôn sự phóng thích Insulin từ tuyến tụy đáp ứng nhu cầu vào những bữa ăn.)

·Sự việc lại không đơn giản như thế ở bệnh Tiểu đường Loại 2 vì sự gia tăng glucose trong máu lại gây ra bởi sự kháng cự của các mô chống lại hoạt động của Insulin vẫn được sản xuất (“Insulin Resistant”).

Tuyến tụy phản ứng lại bằng cách bơm thêm Insulin nhiều hơn nữa để lấn áp sự đề kháng này; kết quả là bị mắc chứng Insulin tăng trong máu, ngay cả khi đói bụng.

Ðề kháng lại Insulin rất có thể là do sự thấm nhập chất béo vào trong những cơ quan nội tạng và phản ứng viêm để chống lại tiến trình này.

Dòng thác lũ sưng viêm này và sự rối loạn chức năng của những tế bào mỡ là do hoạt động của những vi hạt organelles trong tế bào nhiều hơn là do adipokines, là những kích thích tố (hormones) có liên quan đến bệnh béo phì, hay là do cytokines (hoặc những chất gây viêm khác) dẫn đến chứng tăng mỡ trong máu, tăng huyết áp, tăng lượng đường trong máu mà kết quả cuối cùng trong nhiều trường hợp là sự hư hại các cơ quan nội tạng, thí dụ như những bệnh tim mạch, những bệnh thận, bệnh võng mạc, bệnh thần kinh ngoại vi và chứng mất trí nhớ Alzheimer. Cũng cần ghi chú thêm là Insulin, tự thân, đã từng được coi là một chất kích thích có chiều hướng gây phản ứng viêm.

Một cách rõ ràng hơn, bệnh Tiểu đường Loại 2 không hẳn là do lượng đường (glucose) cao, mà đúng hơn là do sự gia tăng Insulin trong máu, gây ra sự sưng viêm và rối loạn chức năng của tế bào mỡ adipocyte.

Ðể chỉ chứng này, tôi thích gọi bệnh Tiểu đường Loại 2 là “Hội chứng kháng Insulin”  (có người lại dùng những thuật ngữ Hội chứng Biến dưỡng và Hội chứng X).

Việc chữa trị bệnh Tiểu đường Loại 2 đã bị hiểu sai lạc ra sao trước khi có cuộc nghiên cứu ACCORD?

ACCORD (Action to Control Cardiovascular Risk in Diabetes) là một cuộc nghiên cứu rộng lớn, có hoạch định cẩn thận, với sự tham dự của nhiều trung tâm nghiên cứu, thực hiện trên bệnh nhân mắc chứng Tiểu đường Loại 2; cuộc nghiên cứu được bảo trợ bởi Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia (NIH), khởi sự thiết lập hồ sơ bệnh nhân vào khoảng năm 2005 và cho tới nay (2010) đã thâu lượm được vài kết quả quan trọng:

1. Sự kiểm soát gắt gao lượng glucose trong máu bằng những chế độ dùng Insulin chặt chẽ làm tăng đáng kể số tử vong ở những bệnh nhân này, một điều làm những nhà nghiên cứu ngạc nhiên là họ chết vì những cơn đau tim và đột quỵ chứ không do phản ứng chống lại lượng đường trong máu thấp như người ta vẫn nghi ngờ. Nhánh nghiên cứu này đã chấm dứt trước hạn kỳ, vào năm 2008, do mối quan ngại về sự an toàn của những đối tượng còn lại của cuộc nghiên cứu.

2. Như đã được chứng minh trước đây, sự chế ngự chứng cao huyết áp đặc biệt hữu hiệu khi dùng thuốc ức chế ACE (ACE Inhibitor). Tuy nhiên, làm giảm áp suất tâm thu (systolic pressure) xuống mức thấp hơn 140mmHg không mang lại thêm lợi ích nào cho người bị cao huyết áp (và còn có thể nguy hiểm ở người cao tuổi).

3. Ðiều quan trọng là kiểm soát lượng chất béo trong máu bằng cách dùng những thuốc statine. Dùng thêm những thuốc fibrate để hạ lượng chất béo xuống nữa không giúp gì được cho một kết quả lâm sàng tốt hơn.

Trước khi có cuộc nghiên cứu mang tính mở đường này, các bác sĩ chỉ chăm chăm vào việc chế ngự lượng đường tăng cao trong máu ở những bệnh nhân bị bệnh Tiểu đường Loại 2 và chữa trị họ giống như phương thức chữa trị bệnh Tiểu đường Loại 1. Insulin khi đó thường được dùng khi thuốc uống không còn công hiệu để cố đạt được một lượng glucose khi đói bụng là 110mg% hay ít hơn, hoặc là khi lượng Glycosylated Hemoglobin (HGb A1C) cao hơn 7. Lượng Insulin được đưa thêm vào cho những bệnh nhân vốn đã có một lượng Insulin cao trong máu đã mặc sức tàn phá cơ thể họ và hiển nhiên đã đưa đến những kết quả xấu ban đầu như theo nghiên cứu ACCORD.

Cuộc nghiên cứu ACCORD sẽ được các bác sĩ hiện đang hành nghề thẩm định lại và sẽ được đưa vào trong những sách chuyên khoa Y trong thời gian tới.

Kết Luận

I) Một cách nhìn toàn diện, chế ngự Hội chứng Ðề kháng Insulin hay bệnh Tiểu đường Loại 2 bao gồm những điều sau đây:

a. Phải có một chế độ ăn hợp lý hàng ngày với một lượng calori giới hạn (trong khoảng từ 1700 tới 2000 Kcal mỗi ngày ở nam giới, ở phái nữ là từ 1500 tới 1800 Kcal mỗi ngày). Cách ăn theo kiểu vùng Ðịa Trung Hải (Mediterranean type diet) được đề cao do bởi tác dụng chống sưng viêm có được nhờ:
·chất mỡ đơn chưa no (mono-unsaturated fat, thí dụ như dầu ôliu) là chất chủ yếu trong thực đơn;
·dồi dào lượng acid béo omega-3 có trong đồ biển và chứa ít đường đơn (mono và diglycerides);

  • đủ lượng chất đạm, ăn vào mỗi ngày ít nhất phải là 1,2 gram cho mỗi kg thể trọng (thí dụ cần 72 gram cho người cân nặng 60kg); và
  • chỉ dùng chất bột/đường phức hợp (complex carbonhydrates).

b. Một thời khóa biểu tập thể dục ngắn, 15 – 30 phút mỗi ngày, trong đó bao gồm tập nhảy aerobic, thể dục dụng cụ nhẹ (callisthenic) cho hệ tim mạch và óc được dẻo dai, vài môn tập cử tạ cũng được khuyến khích để duy trì lượng cơ bắp, giúp thêm tác động trên sức kháng cự lại Insulin.

c. Theo dõi kỹ tình trạng cao huyết áp và cao mỡ máu như đã đề cập ở trên.

d. Chấm dứt việc bị ám ảnh bởi chuyện theo dõi lượng glucose. Kiểm tra lượng glucose mỗi ngày 1 lần khi bụng đói (fasting) là quá đủ; mọi mức dưới 200mg% đều có thể chấp nhận được. Ở bệnh Tiểu đường Loại 2 (Hội chứng Ðề kháng Insulin), kết quả tốt tương ứng với một trị số HGb A1C (chỉ số trung bình cho 3 tháng) trong khoảng 7,3 – 7,5; vì thế mọi trị số dưới 8 đều chấp nhận được.Phép trị liệu duy nhất đã được chứng minh là có ích về lâu dài là Metformin bởi vì nó làm cho các “receptor-cảm-ứng-với-Insulin” (Insulin Receptors) nhạy cảm hơn. Những phương cách chữa trị khác hao tốn nhiều và làm cho kết quả glucose xem ra có vẻ tốt hơn, nhưng chúng không chứng tỏ được là có lợi cho bệnh nhân; ngược lại, nhiều khi cho thấy sự nguy hiểm tức thời (thí dụ Insulin, Avandia, v.v…). Cho tới ngày nay, lợi ích duy nhất đã được minh chứng trong việc kiểm soát chặt chẽ lượng glucose ở những bệnh nhân này là sự trì hoãn bệnh võng mạc do tiểu đường mà nguy cơ quá nhiều để có thể kể ra hết.

II) Vì sao người Việt cao tuổi lại có nguy cơ cao hơn về Hội chứng Ðề kháng Insulin (bệnh Tiểu đường Loại 2) và người ta nên làm gì thêm để phòng ngừa?

Bên cạnh cái nhìn toàn diện đã nêu ra trên đây, người Việt cao tuổi có những khó khăn làm cho Hội chứng Ðề kháng Insulin nặng thêm, với bệnh lý như sau:

1. Thiếu Vitamin D: Tình trạng này phổ biến ở những Việt kiều sống ở những quốc gia Tây phương. Sự thiếu hụt Vitamin D (với mức thấp hơn 33) làm cho các mô có khuynh hướng thiên về sự tạo tác dụng phá hoại do sưng viêm và làm trầm trọng thêm sự chống lại Insulin. Tất cả Việt kiều nên đi kiểm tra lượng 25-OH-Vitamine D và dùng Vitamin phụ thêm nếu mức này thấp. Vài năm trước đây cuộc nghiên cứu trong lãnh vực điều dưỡng ở Hoa Kỳ về chứng loãng xương đã bất ngờ cho thấy là nhóm được chỉ định dùng Vitamin D phụ thêm đã có một sự giảm thiểu bệnh Tiểu đường Loại 2 là 35%.

2. Sự tiêu thụ quá độ những “sản phẩm đã được hóa đường ở cấp cao” (hay AGEs, là tên gọi chung những chất đạm đã bị hư hại vĩnh viễn do những nhóm đường kết nối vào và làm phân hóa chúng). AGEs có thể được tạo ra ở ngoài hay bên trong cơ thể:Ở trong cơ thể, chúng xảy ra khi sự chống lại Insulin là nguyên nhân gây cho monosaccharide tạo phản ứng kết nối để thành những hợp chất AGEs (thí dụ như HGb A1C).Ở ngoài cơ thể, AGEs được cấu thành do đồ ăn bị nấu ở nhiệt độ cao; đun cháy đường (thắng đường để làm thành nước màu caramel) tạo nên một lượng lớn AGEs; cách nấu nướng của người Việt dùng đầy dẫy chất này (nước kho, nước màu, nước thắng v.v…) cần bớt đi.AGEs tạo nên một phản ứng oxi-hóa mạnh mẽ nơi những mô sống và được xem như là nguyên nhân chính gây nên hư hại nội tạng ở giai đoạn chót trong Hội chứng Ðề kháng Insulin, đặc biệt là nguyên nhân gây nên đột quỵ và đau tim nơi những bệnh nhân hư hại chức năng thận. Giữ nhiệt độ thấp liên tục trong khi nấu (hấp, đun sôi), và chung với chất chua (dấm, chanh, me v.v…) sẽ làm giảm thiểu sự thành lập AGEs một cách đáng kể.

3. Dùng fructose quá mức trong môi trường sinh sống như ở Mỹ: Hoa Kỳ và những quốc gia kỹ nghệ hóa trên toàn thế giới đã tiêu thụ ít sucrose hơn (chỉ chứa 50% fructose) và nhiều HFCS hơn (HFCS: High Fructose Corn Syrup: mật đường chế từ bắp, chứa 78% fructose) trong 20 năm qua.Gan của người chỉ có thể chuyển hóa khoảng 25gram fructose mỗi ngày thành năng lượng, phần còn lại sẽ thành chất béo triglyceride; acid béo không có VLDLs sẽ kích hoạt phản ứng sưng viêm nơi tạng phủ và phản ứng chống lại Insulin. Fructose cũng dễ dàng tạo AGEs.Cuối cùng, mặc dù không có chứng cớ khoa học vững chắc, những cựu quân nhân Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở Việt Nam đang bị bệnh Tiểu đường Loại 2 có thể lấy được tiền bồi thường cho việc họ bị bắt buộc tiếp xúc với Chất độc Da cam trong thời gian thi hành nhiệm vụ ở Việt Nam. Có thể đây cũng là một phần của lý do giải thích tỉ lệ cao của người mắc bệnh Tiểu đường Loại 2 ở người Việt cao tuổi chăng?

BS Phạm Hiếu Liêm hân hạnh dành bài này cho những người Việt cao tuổi ở khắp mọi nơi.

Nguyên tácType 2 Diabetes: A Curse To Older Viet Kieu, Pham H Liem, MD, Professor of Geriatrics, Donald W. Reynolds Department of Geriatrics, College of Medicine at UAMS and Associate Chief of Staff for Geriatrics and Extended Care, at CAVHS; Bản dịch tiếng Việt: DS Nguyễn Hiền.

____________________________________________________________________________

Nguyên tác:

Type 2 Diabetes: A Curse To Older Viet Kieu

Viet Kieu are Vietnamese who have left Viet Nam since 1975 to live in free countries around the world. Most Viet Kieu have settled in the USA; California has the largest number of Viet Kieu and Westminster, CA can boast the highest density of Vietnamese outside of Viet Nam.

A recent paper titled “Health Status of Older Asian Americans in California”, published in the prestigious Journal of the American Geriatrics Society revealed many disturbing patterns in older Viet Kieu. Compared to other Asian-American counterparts in the “chop sticks” (Confucian) culture like Japanese-, Chinese- and Korean-Americans, older Viet Kieu, as a group are less educated, poorer , have higher rate of mental health problems, are more disabled and have the highest rate of diabetes (22%).

One can find a good explanation for most of the above findings in older Viet Kieu with the exception of higher rate of diabetes (type 2). This paper attempts to find the most likely explanation of the discrepancy and hopefully, may be able to offer some educated advice to Viet Kieu regarding Type 2 Diabetes.

What is Type 2 Diabetes?

Type 2 Diabetes is a disorder that has been misnamed, misunderstood and until 2008, the recommended treatment was completely misguided.

Unlike Type 1 Diabetes (Juvenile Diabetes) which is the only true diabetes mellitus where the lack of Insulin production from the pancreas hinders the body ability to regulate glucose by turning it to glycogen for storage therefore plasma glucose is elevated . Patients with Type 1 Diabetes have to take Insulin injections to keep their serum glucose as normal as possible. Many wears an Insulin pump programmed to mimic the pancreas release of Insulin in response to meals consumption.

It’s not that simple with Type 2 Diabetes because the elevation of glucose is caused by tissues’ resistance to the action of Insulin. The pancreas reacts to this by pumping out more and more Insulin to override the resistance; the result is Hyperinsulinemia even in fasting state.

Resistance to Insulin most likely is caused by fat infiltration into various organs and the inflammatory reaction to it. This cascade of inflammation and the dysfunction of adipocytes (fat cells) which are far more active organelles than previously believed with many adipokines, adipo-related hormones , other cytokines and inflammatory reactants cause hyperlipidemia, hypertension, hyperglycemia resulting in many end organ damages i.e. cardio-vascular diseases (strokes and heart attacks), nephropathy, retinopathy, peripheral neuropathy and Alzheimer’s dementia. Of note, Insulin itself has been recognized as a pro-inflammatory reactant.

Clearly, Type 2 Diabetes is not just about high sugar (glucose) but more about hyperinsulinemia, inflammation and adipocyte dysfunction. I prefer to call it “Insulin Resistant Syndrome”, others have coined the terms Metabolic Syndrome and Syndrome X.

How treatment of Type 2 diabetes was so misguided prior to the ACCORD trial.

ACCORD (Action to Control Cardiovascular Risk in Diabetes) study is a major, well designed, multi-center study of patients with Type 2 Diabetes; sponsored by the National Institutes of Health (NIH) which started enrolling patients around 2005 and today has yielded some major findings;

1- Tight control of serum glucose using intensive Insulin regimen significantly increase mortality on those patients who, to the surprise of investigators, died from heart attacks and strokes and not by hypoglycemic reactions as suspected. This branch of the study was prematurely terminated in 2008 due to concern for the safety of the remaining study subjects.

2- As previously proven, it’s beneficial to control hypertension particularly using an ACE Inhibitor. However, lower systolic pressure to below 140 mmHg offers no extra benefit for hypertensive subjects (and might even be harmful for old people).

3- It’s important to control serum lipids using a statin drug. Adding fibrates to further lowering lipid parameters is not helpful for better clinical outcome.

Prior to this landmark study, physicians were fanatical about controlling hyperglycemia in patients with Type 2 Diabetes and treated the same way as Type 1 Diabetes. Insulin was often used when oral medications failed to achieve a fasting glucose of 110 mg% or less or when Glycosylated Hemoglobin (HGb A1C) got higher than 7. The extra Insulin given to patients who were already hyperinsulinemic wreaked havoc on their bodies and no doubt lead to premature poor outcomes as demonstrated in the ACCORD trial.

The ACCORD study should be reviewed by all current practicing physicians and should also be incorporated in the next Medicine textbooks.

A comprehensive approach to management of Insulin Resistant Syndrome should include the following:

a- There should be a sensible daily intake of limited calories ( for men between 1700 to 2000 Kcalories, for women 1500 to 1800 Kcalories per day). A Mediterranean type diet is recommended for it anti-inflammatory effect from using predominantly mono-unsaturated fat (i.e. olive oil), rich in omega-3-fatty acid from seafood and low in simple sugar (mono and disaccharides). Daily intake of protein should be at least 1.2 grams per kilogram of body weight. Only complex carbohydrates are recommended.

b- A short, 15-30 minute daily exercise program which should include aerobic and callisthenic exercises for cardio-vascular and brain fitness and some weight resistant training is recommended to maintain muscle mass to counter the effects of Insulin resistance.

c- Good management of hypertension and hyperlipidemia as mentioned earlier.

d- Stop being obsessed with glucose control. Checking fasting glucose once a day is more than enough; any level of less than 200 mg% is acceptable. Good outcomes for Type 2 Diabetes (Insulin Resistant Syndrome) are associated with HGb A1C values between 7.3-7.5, so anything less than 8 is acceptable. The only medication that has been proven beneficial in the long-term is Metformin because it makes Insulin receptors more sensitive. Other medications cost more and make the glucose readings look better but have not been shown to benefit patients; au contraire, many are downright dangerous (i.e. Insulin, Avandia etc….). Until today, the only proven beneficial effect of tight glucose control of these patients is delay of diabetic retinopathy while the risks are too many to mention.

Why are older Viet Kieu at much higher risk for Insulin Resistant Syndrome (Type 2 Diabetes) and what should be done for prevention?

Beside the comprehensive approach listed above, Viet Kieu have other problems that aggravate Insulin Resistant Syndrome and its pathology:

1- Vitamin D deficiency: this is ubiquitous in Viet Kieu living in western countries. I have yet met an older Viet Kieu with 25OH vitamin D level of greater than 34 unless he/she is taking vitamin D supplement; the reasons are many. Deficient in vitamin D (level less than 33) makes tissue more prone to the destructive effect of inflammation and aggravates Insulin resistance. All Viet Kieu should have level of 25OH vitamin D checked and take supplement if level is low. Several years ago the American Nurses Study for Osteoporosis unexpectedly showed that nurses assigned to the Vitamin D Supplement group had a 35% reduction in Type 2 Diabetes.

2- Excess consumption of Advanced Glycation End products (AGEs): AGEs can form outside or inside of the body. Inside the body, it happens when Insulin resistance causes monosaccharide to be glycolated in to AGEs compound (i.e. HGb A1C). Outside of the body, AGEs is created when food is cooked at high temperature; intentional burning of sugar (caramelize) generates large quantity of AGEs; Vietnamese cooking use this in abundant (nước kho, nước màu, nước thắng etc…). AGEs put severe oxidative stress on live tissues and have been identified as majors causes of end organ damages in Insulin Resistant Syndrome, particularly as the cause of strokes and heart attacks on patients with kidney failure. Cooking in consistently lower temperature (steam, boil) and/or adding acidic ingredients (vinegar, lemon juice, tamarind etc…) will reduce the formation of AGEs significantly.

3- Exposure to excessive amount of fructose in the environment: the USA and the rest of industrialized world have consumed less sucrose (50% fructose) and more HFCS (High Fructose Corn Syrup up to 78% fructose) in the last 20 years. Human liver can only process about 25 grams of fructose per day into energy, the rest becomes triglyceride, VLDLs free fatty acid (excess glucose is stored as glycogen) which trigger the viscera inflammatory reaction and Insulin resistance. Fructose also forms AGEs readily.

4- Lastly, although the scientific evidence is not robust, American Vietnam Veterans suffer from Type 2 Diabetes can get compensation for alleged exposure to Agent Orange during their tour of duty in Viet Nam. Could this be part of the reason for high incidence of Type 2 Diabetes in older Viet Kieu as well?

Affectionately dedicated to older Viet Kieu everywhere.

Pham H Liem QYHD20

Nguồn: https://www.svqy.org/type2diabetes.html

Visits: 842

Hạnh Phúc, Khổ Đau, và Em

Thơ Lê Văn Bỉnh

Thân tặng những cặp vợ chồng già đã có một thời sóng gió

Hình như có điều gì em chưa hiểu rõ

Giữa Hạnh Phúc và Khổ Đau

 

Hạnh Phúc mong manh khoảnh khắc

Đến nhà bếp đến bàn ăn

Đến phòng khách đến giường ngủ

Hay khi chúng ta cùng quanh quẩn dọn dẹp cửa nhà

Nếu em không nhanh tay chụp lấy

Còn đợi chờ đong  đếm cho đầy

Nó sẽ vụt bay đi

Bằng đôi cánh dài rất khỏe

Rồi nó đậu trên hàng dậu láng giềng

Hay trên vai bạn bè quen thuộc

Nhìn em mỉm cười

Tiếc cho cơ hội đã vuột trôi

Để  bây giờ em đứng một mình

Cô đơn buồn bã

Cảm nhận trên tấm lưng còng già cổi

Những năm tháng dài lê thê đè nặng khổ đau

Em cố sức vùng vẫy thoát mau

Đôi khi em thành công

Cứ gọi là thành công

Đập vỡ khổ đau ra từng mảnh vụn

Cẩn thận quét gom chôn vùi đâu đó

Hay tung rải ra biển khơi ào ào sóng gió

Những mảnh vụn tưởng chừng như biến như tan

Em đâu ngờ còn vướng lại trong tim

Chỉ một ít thôi

Vâng chỉ một ít thôi

Rồi sau đó lớn lên

Lớn lên

Tích tụ từ từ thành từng  tảng

Lại làm tim em đau nhói vô cùng

 

Em yêu

Hình như em chưa rõ được điều này

Và hạnh phúc chúng ta cứ vuột khỏi tầm tay

Lê Văn Bỉnh

Giáng Sinh 2020

 

Visits: 347

Nhu Lực của Trung Cộng *

Đỗ Hữu Long

Trong vài thập niên gần đây người ta hay nhắc đến từ ngữ ‘Soft Power’ và được các cơ sở truyền thông trong đó có đài phát thanh BBC, VOA, dịch là ‘Quyền Lực Mềm’. Tuy nhiên, nếu đặt tên Soft Power là Quyền Lực Mềm thì phải gọi Hard Power là Quyền Lực Cứng, âm ngữ không thuận tai, vậy hãy tạm gọi Soft Power là Nhu Lực.

I – ĐẠI CƯƠNG VỀ NHU LỰC.

Nhu lực (soft power) là khả năng đạt đến điều mong muốn do sự hấp dẫn hoặc chiêu dụ. Nhu lực trái ngược với Cương Lực (hard power) do xử dụng sự áp bức hoặc mua chuộc, trả công. Nhu Lực đề cập đến một quốc gia muốn gây ảnh hưởng ra quốc ngoại bằng cách tạo ra sự tin phục và lôi cuốn hơn là hăm doạ hoặc xử dụng quân lực. Nhu lực cũng thừơng được vận dụng không phải do chính quyền mà do các Tổ Chức Phi Chính Trị (NGO Non Government Organizations) hoặc những Định Chế Quốc Tế (International Institutions). Quan niệm cho rằng sự hấp dẫn cũng là một năng lực đáng kể do Nye và Lukes khai sinh mới đây, thật ra khi ngược dòng thời gian trở về quá khứ xa xăm, người ta gặp Lão Tử, một hiền triết Trung Hoa sinh thởi khỏan thế kỷ thứ 7 truớc công nguyên đã đã từng nhắc đến.

Những người Việt Nam có đọc sách đều biết ít nhiều về Lão Tử với những lời khuyên dạy uyên bác, hiền hoà, nhân ái:

  • Phải đi phía sau để lãnh đạo quần chúng.
  • Biết người khác là thông minh, biết chính mình mới thật sự khôn ngoan. Làm chủ người khác là sức mạnh, làm chủ chính mình là năng lực thật sự.
  • Một người tàn bạo sẽ chết trong sự bạo tàn.
  • Chỉ những kẻ điên khùng mới tìm kiếm quyền lực và những kẻ điên khùng nhất tìm kiếm quyền lực bằng vũ lực.

Từ ngữ Nhu Lực (Soft Power) do Joseph Nye của Đại Học Harvard tạo ra năm 1990 trong tác phẩm ‘Hướng về Lãnh Đạo: Bản Chất Thay Đổi của Quyền Lực Hoa Kỳ’ (Bound to Lead: The Changing Nature of American Power). Quan điểm này được phát triển rộng hơn trong tác phẩm ‘Nhu Lực: Phương Tiện để Thành Công trong Hoạt Động Chính Trị Toàn Cầu’ (Soft Power: The Means to Success in World Politics) phát hành năm 2004.

Ngày nay từ ngữ Nhu Lực được những nhà phân tích thời cuộc và chính khách xử dụng rộng rãi trong giao dịch quốc tế. Thí dụ, tại Đại Hội lần thứ 17 của đảng cộng sản Trung Hoa (15 – 21/10/2007), Hồ Cẩm Đào nói rằng Trung Cộng cần gia tăng Nhu Lực và Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gates cũng nói đền nhu cầu cấp thiết nâng cao nhu lực của Hoa Kỳ bằng cách gia tăng đáng kể chi tiêu vào những dự án dân sự trong kế hoạch an ninh quốc gia, như là giao tế, thông tin chiến lược, ngoại viện, dân sự vụ, phục hồi và phát triển kinh tế.

Năm 2008, trong tác phẩm ‘Quyền Lực Lãnh Đạo’ (The Power to Lead), Nye kết hợp những quan niệm về cương lực và nhu lực đối với sự lãnh đạo cá nhân. Trong bất cứ sự thảo luận nào về quyền lực, phải lưu ý đến thái độ hay cách hành xử là tác nhân gây ảnh hưởng đến người khác và đem lại kết quả. Đôi khi, những cá nhân hoặc những quốc gia có nhiều tài nguyên quyền lực lại không thể thu hoạch những điều mong muốn.

Lực lượng quân sự đôi khi cũng góp phần vào nhu lực. Một cuộc thao diễn quân sự hùng tráng có thể tạo nên một sức lôi cuốn; một hợp tác quân sự hoặc chương trình huấn luyện tạo nên một mạng lưới liên quốc gia làm gia tăng nhu lực của một quốc gia. Công tác vĩ đại cứu trợ nạn nhân sóng thần trong vùng Ấn Độ Dương và động đất ở Nam Á của quân đội Mỹ năm 2005 đã tái tạo vẽ hấp dẫn của Hoa Kỳ đã bị hoen ố khi can thiệp quân sự vào Trung Đông. Sô Viết có một số vốn nhu lực sau Đệ Nhị Thế Chiến nhưng bị mất trọn gói khi xử dụng cương lực đối với Hung Gia Lợi tháng 10 năm 1956 và TiệpKhắc tháng 8 năm 1968.

Nhu Lực tượng trưng cho cung cách thâu hoạch những kết quả mong muốn, đối nghịch với cương lực là phượng tiện thường thấy từ trước đến nay, hoặc nói rõ hơn nhu lực đề cập đến một quốc gia muốn gây ảnh hưởng với quốc gia khác bằng cách tạo ra sự tin tưởng vả hấp dẫn, không phải là hăm doạ hay xử dụng quân lực. Một số chuyên viên đồng hóa nhu lực với đầu tư và phát triển kinh tế, một số khác cho rằng nhu lực gồm các yếu tố giáo dục, văn hóa, ngoại giao.

II – TRUNG CỘNG GÂY DỰNG NHU LỰC.

Sự phát triển kinh tế vượt bậc của Trung Cộng đi kèm theo với sự bành trướng liên tục ảnh hưởng ngoại giao và văn hóa trên toàn thế giới nhất là trong những nước đang phát triển. Một vài chuyên viên đã nhìn thấy ảnh hưởng của Trung Cộng hiện nay ngang tẩm với Hoa Kỳ xử dụng nhu lực một cách hiệu quả trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh.

Cuộc thăm dò ý kiến quần chúng trong 24 quốc gia tháng 2/2009 do đàì BBC thực hiện cho thấy rằng Trung Cộng đã mất 39% những yếu tố tích cực và gia tăng 40% những yếu tố tiêu cực. Bản tin của Dune Laurence of Bloomberg ngày 17/2/09 tường trình rằng Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đang huy động tiểm lực văn hóa, chính trị, kinh tế để xây dựng hỉnh ảnh Trung Cộng như là một cường quốc lãnh đạo có trách nhiệm của thế giới. Tiếp theo, chính quyển Trung Cộng tung ra một ngân khỏan 6.6 tỉ mỹ kim để mở rộng phạm vi hoạt động và tầm mức ảnh hưởng của cơ quan truyền thông do chính phủ điều hành, đó là Truyền Hình Trung Ương Trung Cộng gọi tắt là CCTV (China Central Television) và Xinhuanet.

1.  Truyền Thông

 Truyền Hình Trung Ương Trung Cộng (CCTV) có mạng lưới 19 băng tầng, phát nhiều chương trình khác nhau với số khán giả hơn một tỉ người. Những chương trình gồm có phim tài liệu, hài kịch, giải trí, kịch nói nhiều kỳ … Trong cộng đồng người Việt thường trao đổi tin tức lẫn nhau, thỉnh thỏang vẫn nhận được nhũng màn trình diễn ca múa, thể thao, xiếc, ảo thuật xuất sắc trích từ CCTV. Đài Truyền Hình Trung Ương Trung Cộng (CCTV) là cơ quan phát ngôn chính thức của chính quyền Trung Cộng và cũng là nơi báo cáo trực tiếp với những viên chức cao cấp trong Bộ Tuyên Truyền Trung Ương Đảng Cộng Sản. CCTV duy trì khoàn 10.000 nhân viên với kinh phí khỏan 1.120.000.000 nhân dân tệ.

Xinhua Thông Tấn Xã ( Xinhua News Agency) là cơ quan thông tin quốc nội và quốc ngoại của Trung Cộng, phụ trách điều hành Xinhuanet.com như là trụ cột giữa những trang nhà của chính phủ. Với số lượng 150 chi nhánh trên toàn lục điạ và trải khắp thế giới, Xinhuanet.com được trang bị kỹ thuật tinh xảo, tạo nên mạng lưới truyền thông hàng đầu cung cấp tin tức, tài liệu, các bản tường trình tại chỗ, tường trình đặc biệt … Xinhuanet.com thu thập tin tức, các biến cố quốc nội, quốc ngoại và phát ra tin tức hàng giờ bằng bảy ngôn ngữ chính: Hoa ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ, Tây ban Nha, Nga, A rập và Nhật ngữ.

2.  Giáo Dục

 Trung Cộng không ngừng gia tăng yểm trợ các công tác trao đổi văn hóa, gởi bác sĩ, giáo sư đi làm việc ở nước ngoài, chào đón sinh viên nhiều quốc gia đến học hỏi, nghiên cứu tại Trung Cộng, cung cấp tài chánh cho những chương trình dạy tiếng Hoa tại ngoại quốc. Năm 2005, Bộ Trưởng Giáo Dục Trung Cộng công bố sáng kiến gia tăng giáo dục Hoa ngữ trong các Đại học Hoa Kỳ và các Viện Ngôn Ngữ trên thế giới. Đại Học Bắc Kinh môt cơ sở giáo dục uy tín nhất, dành một ngân khỏan lớn cho các giáo sư thỉnh giảng, khuyến khích các tiến sĩ ngoại quốc đến nghiên cứu tại Trung Cộng.

Bản tin của Xinhuanet tháng 1 năm 2006 cho biết số sinh viên ngoại quốc theo học tại Trung Cộng đã gia tăng 20% hằng năm trong suốt năm năm vừa qua. Phó giám đốc Phân Viện hợp tác quốc tế của Bộ Giáo Dục nói rằng: ‘Chính quyền Trung Cộng đánh giá cao sự hợp tác giáo dục với các quốc gia khác và hoan nghênh sinh viên ngoại quốc đến Trung Cộng’. Ông ta cũng cho biết số sinh viên ngoại quốc lên đến 110.000 người năm 2004 và thêm rằng: ‘Trung Cộng mong muốn biết thế giới nhiều hơn nữa và cũng mong muốn thế giới biết Trung Cộng nhiều hơn. Đối với những sinh viên đã tốt nghiệp sẽ góp phần tích cực vào sự giao tiếp thân hữu giữa Trung Cộng và các quốc gia trên thế giới trong những lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn hóa ’. Viên Phó giám đốc ấy cũng tiết lộ tiêu chuẩn học bổng sẽ nâng cao và năm 2006 sẽ cấp học bổng cho khoảng 10.000 sinh viên ngoại quốc ’.

Báo China Daily ngày 21/11/2008 trìch dẫn nguồn tin từ Trung Tâm Trao Đổi Giáo Dục Hoa Kỳ (the American Center for Educational Exchange) cho biết sinh viên Mỹ ngày càng quan tâm đến Trung Cộng. Một bản báo cáo năm 2008 của Viện Giáo Dục Quốc Tế (Institute on International Education) cho biết rằng Trung Cộng là điạ chỉ phổ cập đối với sinh viên Mỹ, đã từ hàng thứ bảy vượt lên hàng thứ năm với số lượng 11.064 sinh viên, trong khi số sinh viên Trung Cộng du học tại Mỹ niên khóa 2007-2008 là 81.127 người, tăng 20% so với năm ngoái. Frank Mok, phối trí viên của Trung Tâm Trao Đổi Giáo Dục nói rằng các trường đại học Mỹ nổi tiếng với sự giáo dục và nghiên cứu đã thu hút sinh viên Trung Cộng, số lượng sinh viên du học nói trên thật là kỳ vĩ và sẽ gia tăng trong những năm tới.

3.  Văn Hóa

 Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Bắc Kinh ra sức thuyết phục thế giới tin rằng chủ trương của họ là hòa bình, bảo đảm nguồn tài nguyên dùng cho nhu cầu phát triển kinh tế và cô lập Đài Loan. Trung Cộng thi hành kế hoạch Văn Hóa bằng cách thiết lập nhiều trung tâm văn hóa và ngôn ngữ gọi là Học Viện Khổng Tử (Confucius Institutes) trên khắp thế giới.

a/ HOC VIỆN KHỔNG TỬ.

Học Viện Khổng Tử được mô tả là học viện công cộng, bất vụ lợi, nhằm mục đích phát huy ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa; ban điều hành trung ương có trụ sở tại Bắc Kinh, trực thuộc Văn Phòng Hội Đồng Hoa Ngữ (the Office of Chinese Language Council). Học Viện này có chức năng giảng dạy tiếng Hoa, đào tạo giáo viên Hoa ngữ, tổ chức thi trình độ tiếng Hoa, chiếu phim Tàu, tư vấn du học, tổ chức các hoạt động trao đổi văn hóa hữu nghị … Học Viện Khổng Tử cũng có thẩm quyền cấp chứng chỉ HSK, được xem như một văn bằng quốc tế về tiếng Hoa phù hợp với nhu cầu học tiếng Hoa ngày càng cao ở các nước. Trung Cộng đang trở thành một cường quốc kinh tế có ảnh hưởng nhất toàn cầu, công cuộc mở rộng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa xem như bước đi song hành, đạt đến mục tiêu cuối cùng là chi phối đời sống tòan khối nhân loại từ vật chất đến tinh thần. Điều nầy nhắc người ta nhớ lại giấc mơ của Mao trạch Đông ‘Gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây’.

Cho đến tháng 10 năm 2009, trên toàn thế giới đã thành lập 282 Học Viện Khổng Tử và 241 lớp học Khổng Tử trong 84 quốc gia. Số Học Viện Khổng Tử phân phối như sau: 70 trong 28 quốc gia Á châu, 21 trong 15 quốc gia Phi châu, 94 trong 29 quốc gia Âu châu, 87 trong 11 quốc gia Mỹ châu, 10 trong 2 quốc gia hải đảo Thái bình dương. Số lớp học Khổng Tử gồm có 27 trong 10 quốc gia Á châu, 2 trong 2 quốc gia Phi Châu, 34 trong 7 quốc gia Âu châu, 176 trong 5 quốc gia Mỹ châu và 2 trong 1 quốc gia hải đảo Thái bình Dương.

Riêng tại Việt Nam, bản tin BBC ngày 6 tháng 4 năm 2009 cho biết Thủ tướng cộng sản Việt Nam vừa gởi công văn số 1992/VPCP-QHQT đến các bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Ngoại Giao, Công An và Văn phòng Trung ương đảng Cộng sản, thông báo ý kiến cho phép thành lập một Học Viện Khổng Tử tại Việt Nam. Nguyễn tấn Dũng giao cho Phó thủ tướng Nguyễn thiện Nhân chỉ đạo việc thành lập Học Viện Khổng Tử theo các qui định hiện hành. Chưa rõ học viện này sẽ được đặt ờ đâu và bao giờ bắt đầu xây dựng.

Những người Việt Nam trưởng thành từ 1945 trở về trước đều thấy rằng tại các tỉnh thuộc vùng trung du và đồng bằng khắp nước đều có đền thờ Khổng phu Tử gọi là văn miếu, được các quan lại điạ phương lo viêc lễ bái hàng năm. Qua hai cuộc chiến 1946-1954, 1960-1975 và cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo trong khu vực thuộc quyền kiểm soát của cộng sản, hầu hết các kiến trúc đó đã bị phá hủy. Sau 1975, còn sót lại một số:

– Văn miếu Quốc tử giám tại Hà nội.

– Văn miếu Xích Đằng, Hưng Yên.

– Văn miếu Mao Điền, Hải Dương.

– Văn miếu Bắc Ninh, Bắc Ninh.

– Văn miếu Diên Khánh, Khánh Hoà.

– Văn miếu Nghệ An, Nghệ An.

– Miếu Văn Thánh, Huế.

Trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ phong kiến, quân chủ, kéo dài nhiều ngàn năm từ Trung Hoa đến các nước Đông Á như Triểu Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Văn Miếu là thánh đường, Khổng Tử là giáo chủ, giáo lý là các tín điều ghi chép trong Ngủ kinh, Tứ thư mà các nhà nho như là tầng lớp tăng lử phài thông hiểu để thực hành. Khổng Giáo từ đấy còn gọi là Nho Giáo, chiếm vị trí hàng đầu, chi phối toàn bộ sinh hoạt xã hội từ tổ chức triều đình, phép tắc trị nước, đến đời sống vua chúa, quan lại, thứ dân …

b/ NHO GIÁO VÀ KINH SÁCH

Khổng Tử

Theo sử liệu, nền tảng Nho giáo được hình thành từ đời Tây Chu (1134 – 770 trước công nguyên) do sự đóng góp đặc biệt của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến đời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập Nho giáo.

Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh tuy nhiên sau đó Kinh Nhạc bị thất lạc nên còn năm bộ Kinh, gọi là Ngũ Kinh:

– Kinh Thi, sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử nói về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục con người tình cảm lành mạnh, trong sáng.

– Kinh Thư, ghi các biến cố và truyền thuyết về các đời vua trước, san định lại để các vua đời sau noi gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn, xa lánh các hôn quân như Kiệt, Trụ.

– Kinh Lễ, ghi chép các lễ nghi đời trước, san định lại mong dùng làm phương tiện duy trì và ổn định trật tự xã hội.

– Kinh Dịch, nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái.

– Kinh Xuân Thu, ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa.

Tứ Thư là bộ sách do các môn sinh biên soạn sau khi Khổng Tử qua đời, gồm có:

– Luận Ngữ, là lời dạy của Khổng Tử do học trỏ ghi chép.

– Đại Học, sách dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử, do Tăng Sâm còn gọi là Tăng Tử, một học trò xuất sắc của Khổng Tử biên soạn.

– Trung Dung, do cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Từ viết ra dạy người ta cách sống dung hoà.

– Mạnh Tử, sách ghi chép lời dạy của Mạnh Tử.

c/ NHO GIÁO VÀ TU THÂN.

Nho Giáo cũng đưa ra những chuẩn đích đạo lý: Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức để cá nhân chấp nhận như là một nhân sinh quan, một lý tưởng, cố gắng noi theo, phát triển khả năng và ước vọng của đời người, góp phần ổn định và xây dựng xã hội, xứng đáng làm Người giữa Trời và Đất.

Tam Cương là ba mối quan hệ sinh tử giữa vua và tôi (quân thần), giữa cha và con (phụ tử), giữa chồng và vợ (phu phụ).

Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong đời sống:

– Nhân là tình yêu thương giữa con người và với vạn vật.

– Nghĩa là cách cư xử với mọi người theo lẽ phải và công bỉnh.

– Lễ là tôn trọng người khác, hoà nhã khi xử sự.

– Trí, thông hiểu lý lẽ, đủ khả năng phân biệt đúng sai, thiện ác, chân giả.

– Tín là sự tin cậy lẫn nhau, giữ đúng lời nóì, lời hứa.

Tam Tòng là ba điều giáo huấn dành cho nữ giới: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải cố gắng gìn giữ:

– Công: chăm chỉ và khéo léo trong việc làm.

– Dung: giữ gìn sắc đẹp, biết trang điễm, biểu lộ nét thanh tú, trang nhã.

– Ngôn: lời nói ôn tồn, nhã nhặn, lễ độ.

– Hạnh: hiền thục, hiểu biết, khôn ngoan trong cuộc sống.

d/ NHO GIÁO QUA CÁC BIẾN CHUYỂN.

Thời Xuân Thu, Khổng Tử san định, hiệu đính, giải thích bộ Lục Kinh làm hành trang chu du rao giảng khắp thiên hạ trong vùng Hoa Bắc và thu nhận học trò. Tiếp theo, các môn đệ biên sọan Tứ Thư góp phần hình thành nên Nho Giáo nguyên thủy còn gọi là Nho Giáo tiền Tần.

Sau khi tóm thâu lục quốc, Tần Thủy Hoàng lên ngôi hoàng đế (221 TCN) nghe theo đề nghị của thừa tướng Lý Tư, nhằm mục đích thống nhất chính kiến và tư tưởng, ra lệnh đốt sạch sách vở (triết lý, chính trị, sử…) thi, thư, ngoại trừ sách dạy về bói toán, nông nghiệp, y dược. Nhắc đến Tần Thủy Hoàng đàn áp hàng ngũ trí thức không ai quên câu chuyện chôn sống 460 nho sinh bên ngoài thành Hàm Dương. Đây là thời kỳ suy trầm nhất của Nho Giáo.

Đến đời Hán (206 TCN – 8), Nho Giáo được đưa lên hàng quốc giáo dùng làm công cụ thống nhất tư tưởng, Nho Giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ các triều đại Trung Hoa. Thời kỳ nầy Nho Giáo được gọi là Hán Nho.

Đời Tống (960 – 1126), Tứ thư và Ngũ kinh là sách gối đầu giường của các nhà nho. Nho giáo thời kỳ nầy gọi là Tống Nho hay là Tân Khổng Giáo với các tên tuổi như Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di.

Vào thế kỷ 20, Khổng Giáo cũng hai lần bị va chạm nặng nề, đó là Phong Trào ngày 4 tháng 5 năm 1919 và cuộc cách mạng văn hóa (1966 – 1976).

Phong Trào ngày 4 tháng 5: Trung Hoa tham gia Thế chiến I bên cạnh Đồng Minh năm 1917, gởi 140.00 lính thợ (laboureur) đến Pháp, với điều kiện tất cả khu vực ảnh hưởng của Đức trong lãnh thổTrung Hoa phài giao hoàn cho chính quốc đáng kể là bán đảo Sơn Đông. Tuy nhiên thỏa ước Versailles tháng 4 năm 1919 lại chuyền giao thẩm quyền quản trị Sơn Đông cho Nhật Bản.

Buổi chiều ngày 4 tháng 5 hơn 3000 sinh viên của Đaị học Bắc Kinh và những trường khác tâp trung trước Thiên an môn. Họ phản đối chính quyền nhu nhược, hèn yếu. Họ tức giận sự phản bội của đồng minh và sự bất lực của chính quyền không đủ sức bảo vệ những quyền lợi của Trung Hoa tại bàn hội nghị.

Ngày hôm sau, sinh viên ở Bắc Kinh đồng loạt đình công và sinh viên khắp nơi trong nước lần lượt đáp ứng. Từ đầu tháng sáu, để yểm trợ cuộc đấu tranh của sinh viên, công nhân và thương gia ở Thượng Hải cũng đình công. Trung tâm của phong trào từ Bắc Kinh chuyển về Thượng Hải. Tình hình hiện tại cũng làm giai tầng xã hội bên dưới nổi giận, giới lao động thấy bị bóc lột, tiểu nông nhận ra sự nghèo khó triền miên. Những hội đoàn báo chí, hiêp hội nhân dân, phòng thương mãi cũng tham gia yểm trợ sinh viên. Các thương gia còn đi xa hơn, đòi không trả thuế nếu chính quyền vẫn ngoan cố.

Phong trào lan toả trên 20 tỉnh và hơn 100 thành phố, sự tham gia của quần chúng rộng khắp vả phổ biến hơn cả cuộc Cách Mạng Tân Hợi (1911).

Kết quả ghi nhận Phong trào thắng thế lúc ban đầu và cuối cùng chỉ cỏn là biểu tượng, Nhật Bản vẫn giữ quyền kiểm soát bán đảo Sơn Đông và những đảo trong Thái Bình Dương. Mặc dù cuộc xuống đường vĩ đại và phản đối rầm rộ khắp nơi không đạt đến mục tiêu, tuy nhiên sự thành công đáng kể là đã đem lại sự đoàn kết các giai cấp trong xã hội. Biến cố cũng tác động mạnh mẽ đến giới trí thức Trung Hoa nhắc họ quan tâm tích cực đến những những vấn đề trọng đại của đất nuớc.

Thấy rõ sự ưu thắng của người và cảnh bại liệt của mình, một số nhân sĩ, trí thức, giáo sư đại học, sinh viên muốn thay đổi nền tảng tư tưởng cổ truyền.

Khổng Giáo là một đối tượng được đem ra xét lại. Cuộc vận động tân văn hóa phát sinh tại đại học Bắc Kinh do Hồ Thích, Trần độc Tú và Thái nguyên Bồi (hiệu truởng trường Đại học Bắc kinh) chủ trương. Họ hô hào: 1/Đả phá các ý thức truyền thống. 2/ Gầy dựng tinh thần khoa học và dân chủ. Vì thế các vấn đề như Khổng giáo, lễ nghi, phụ nữ, văn học đều đuợc những người nầy đem ra nghiên cứu, phê bình.

Hồ Thích là một trong những nhà trí thức có ảnh hưởng lớn trong Phong trào 4 tháng 5 và Phong trào Tân văn hóa (New Culture Movement).

Ông du học Mỹ, học môn triết học và văn chương năm 1912. Sau đó ông theo môn triết học tại Đại học Columbia và chịu ảnh hưởng giáo sư John Dewey và suốt đời bênh vực chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) của Dewey. Ông trở về Trung Hoa giảng dạy tại Đại học Bắc Kinh. Trong thời gian nầy ông hợp tác với Trần độc Tú, chủ nhiệm tuần báo Tuổi trẻ mới (NewYouth) và mau chóng nổi tiếng. Thập niên 1920 Ông rời bỏ tuần báo Tuổi trẻ mới, cùng với bạn hữu phát hành nhiều nhật báo hoăc tạp chí chính trị. Ông chủ trương canh tân văn hóa trên nền tảng chủ nghĩa thực dụng.

Ông là đại sứ Trung hoa Dân quốc tại Hoa Kỳ từ 1938 đến 1942.

Trần độc Tú là một khuông mặt lãnh đạo của Phong trào 4 tháng 5. Ông đưa ra sáu nguyên tắc hướng dẫn thanh niên thóat khỏi sự kiềm toả cổ hủ của Khổng giáo:

– Phải tự lập thay vì lệ thuộc.

– Phải tiến bộ thay vì bảo thủ.

– Phải đi tới thay vì lùi bước.

– Phải hướng ngoại thay vì cô lập.

– Phải vụ lợi thay vì không thực tế.

– Phải khoa học thay vì không tưởng.

Trần độc Tú cổ vũ những tư tuởng mới như cá nhân chủ nghĩa, dân chủ, nhân bản và những phương pháp khoa học đồng thời đào bới tận gốc rễ Khổng Giáo vì những lý do:

– Khổng Giáo quá thừa thãi nghi lễ và thuyết giảng thứ luân lý hiền lành, ngoan ngoãn, an phận, phục tòng, làm người Tàu yếu đuối, thụ động, không thích nghi với thế giới văn minh, cạnh tranh và hiếu chiến.

– Khổng Giáo nhìn nhận giá trị gia đình nhưng bỏ quên cá nhân là đơn vị của xã hội.

– Khổng Giáo ủng hộ sự bất bình đẳng điạ vị trong xã hội.

– Khổng Gíáo nhấn mạnh vảo lòng hiếu thảo là nguyên nhân làm con người trở nên qụi lụy, lệ thuộc.

– Khổng Giáo thuyết giảng tuyệt đối trung thành với tư tưởng mà không quan tâm đến tự do tư tưởng và tự do phát biểu.

Trần độc Tú là Chủ tịch đầu tiên của đảng Cộng sản Trung Hoa (1922-1925) và Mao trạch Đông kế vị sau đó.

Cuộc cách mạng văn hóa và thân phận Khổng Tử

 Tháng 10 năm 1949 sau khi đánh bại Quốc dân đảng, Mao trạch Đông và đảng cộng sản chiếm cứ toàn thể lục điạ, đặt Trung Hoa trong chế độ cộng sản. Mao tự cho mình là người trung thành của Marx, Lenin và Stalin dựng nên chủ nghĩa Mao trạch Đông đưa đất nước vào những giai đoạn khủng khiếp trong đó có cuộc Cách mạng Văn hóa.

Tháng 11 năm 1966 mộ phần của Khổng Tử tại quê hương tỉnh Sơn Đông bị khai quật, thi thể của người chết từ năm 479 TCN nay chi còn cát bụi cũng bị ném tung theo gió cuốn. Hình tuợng và đền đài thờ phượng bị đập phá, kinh sách lưu trữ được đem đốt sạch. Trong chiến dịch, Khổng Tử bị lên án là ‘kẻ xấu’, ‘kẻ thù’, ‘kẻ hèn nhát’ ; những người chống lại Khổng Tử – kể cả nhi đồng – được gọi là ‘người tốt’, ‘dũng cảm’ và ‘tất thắng’.

Riêng Mao trạch Đông cũng dùng những lời lẽ thô tục, hạ cấp đối với Khổng Tử khi gọi Khổng giáo là đạo ‘ăn phân’.

4. Sơ lược Nhu lực của Trung cộng trong vùng Đông Nam Á.

Trung Cộng đã tiến vào Đông Nam Á để quân bình sự liên hệ trong khu vực với Nhật Bản và Hoa Kỳ. Tình trạng Đông Nam Á với những hiềm khích trong quá khứ và tình hình kinh tế đang bị đình trệ, là cơ hội tốt để Bắc Kinh gia tăng nhu lực vào khu vực và đạt kết quả. Trong một kỳ họp quốc hội tại Bắc Kinh, Thủ tướng Ôn gia Bảo đã mô tả Trung cộng như là ‘một con voi thân thiện’ không có bất kỳ sự hăm doạ nào với Đông Nam Á.

a/ TRUNG CỘNG HIỀN LÀNH.

Trong quá trình lịch sử, Trung Cộng đã hai lần doạ nạt Đông Nam Á. Lần thứ nhất xảy ra trong thập niên 1950, 1960 khi đảng cộng sản Maoist lan tràn trong các nước Nam Dương, Thái Lan, Mã lai, Singapore, Phi luật Tân, Miến Điện. Kế tiếp là cuộc xua quân tràn qua biên giới Việt Nam lấy cớ dạy nước nầy môt bài học vì đã xâm chiếm Cam bốt.

Ngày nay các quốc gia Đông Nam Á là chứng nhân thay đổi quan điểm về Trung Cộng từ chỗ một ‘Trung Cộng hăm dọa’ (kinh tế, thương mại, đầu tư) trong những năm trước, trở thành một ‘Trung Cộng hiền lành với nhiều cơ hội’ cho Đông Nam Á. Các yếu tố sau đây đã làm thay đổi cục diện:

Chính sách thực dụng của Bắc Kinh và sự ổn định chính trị làm các quốc gia Đông Nam Á yên tâm.

Trung Cộng được xem như là một thời cơ kinh tế đối với Đông Nam Á, xuất phát từ chính sách duy trì hối xuất đồng nhân dân tệ trong suốt cuộc khủng hỏang tại Á châu 1997- 1998 và chấp nhận thặng dư mậu dịch với những quốc gia Đông Nam Á.

Càng đi vào chính sách thực dụng, Trung Cộng càng hiện ra là một quốc gia bình thường dưới mắt các nước Đông Nam Á tái tạo được sự tương quan điạ lý chính trị. Trung Cộng thường nhắc đến khẩu hiệu ‘Ổn định, Phát triển, Cải cách’ làm cho các nước Đông Nam Á có cảm tưởng chung rằng giờ đây họ có thể yên tâm làm ăn với những thế hệ lãnh đạo Trung Cộng có đầu óc thực dụng chủ nghĩa. Trung cộng đang tiếp tục đầu tư vào Đông Nam Á trong các ngành dầu, khí đốt, các loại khoáng sản, nông sản và hàng tiêu dùng. Nguồn nhân lực của Trung Cộng cũng di chuyển đến Đông Nam Á như là du khách, sinh viên, công nhân … đem lại lợi tức đáng kể.

b/ TRUNG CỘNG GIA TĂNG NHU LỰC.

Sự gia tăng sức mạnh kinh tế và chính trị tại Đông Nam Á góp phần phát triển nhu lực của Trung cộng. Trung Hoa với những yếu tố văn hóa, ẩm thực, thư họa, phim ảnh, cổ vật, nghệ thuật, châm cứu, đông y, thời trang … phổ cập trong đời sống dân chúng. Thanh thiếu niên Đông Nam Á say mê phim ảnh, nhạc pop, truyền hình, ngưỡng mộ các tài tử nguởi Hoa cho dù các sản phẩm và nhân vật có nguồn gốc từ lục điạ, Huơng cảng hoặc Đài Loan.

Quan trọng hơn cả là người Đông Nam Á gốc Hoa – Hoa Kiều – ngày càng thành đạt và có nhiều ảnh hưởng trong xã hội. Trước đây đa số đều có khuynh hướng chống cộng, chống Bắc Kinh, nay chính họ đang lèo lái chấp nhận một Trung Cộng hiền lành. Tết âm lịch năm 2004, người Đông Nam Á gốc Hoa đồng loạt tổ chức liên hoan trọng thể. Tại Thái Lan, người Thái gốc Hoa ngày càng có thêm quyền lực và ảnh hưởng không chỉ trong thương trưòng như ngày trước mà còn gia tăng trong lĩnh vực chính trị (Thai Rath Thai Party), công sở, giới trí thức. Tại Nam Dương, cộng đồng người gốc Hoa đã được ‘hồi phục’ và tết nguyên đán hay là ‘Imlek’ được ghi là ngày lễ chính thức. Tại Phi luật Tân những phim Trung Hoa thu hút nhiều khán giả và được đánh giá cao nhất. Đối với Việt Nam, họ bắt chước làm kinh tế và chính trị theo kiểu mẫu Trung Cộng, kêu gọi Việt kiều tham gia góp phần phục hồi kinh tế như Trung Cộng đã làm vài thập niên trước đây. Tại Mã Lai, những tài phiệt gốc Hoa ngày càng giữ vai trò then chốt trong các lĩnh vực quốc nội, đối ngoại, nhất là tham gia tích cực phục hồi kinh tế và những công cuộc cải cách hiện hành chống lại chính sách kỳ thị các sắc dân thiểu số (bumiputra policy).

Tại Đông Nam Á, cảm tính bài Hoa (pai hwa or anti-Chinese sentiment) đã trở nên lắng đọng đáng kể và người Đông Nam Á gốc Hoa lại tái hiện cả nhân diện lẫn văn hóa. Các lớp học tiếng quan thoại đang nở rộ trong khu vực nầy.

Sự thay đổi rõ nét nhất tại Đông Nam Á do thái độ của cư dân gốc Hoa, trong suy nghĩ của họ đã giảm phần chống đối cộng sản, chống đối Bắc Kinh. Tuy nhiên theo đuổi sự liên hệ với Trung Cộng một cách phiến diện, cho rằng sự giàu có là nhờ giao thiệp với Bắc Kinh, không chia sẻ sự giàu có với điạ phương chính là con dao hai lưỡi. Phải luôn luôn cảnh giác Bắc Kinh như là một đại hoạ.

5. Sơ lược Nhu Lực của Trung Cộng tại Châu Mỹ La Tinh.

Các nhà phân tích đã có những nhận định giống nhau về cách ứng xử nhu lực của Trung cộng tại Mỹ Châu Latinh và vùng Caribbean. Trung Cộng nhắm hai mục tiêu trong khu vực, đó là bảo đảm nguồn tài nguyên sắt thép, đậu nành, dầu hỏa và thuyết phục các quốc gia nầy bỏ rơi Đài Loan theo về với Trung Cộng. Nơi đây là đấu trường chiến lược giữa Trung Cộng và Đài Loan. Từ trước Đài Loan là đồng minh trong khu vực, giữ vai trò chính trong những trợ giúp nhân đạo và trao đổi mậu dịch để nhờ các quốc gia nhỏ bé trong vùng Caribbean ủng hộ sự hiện diện của Đài Loan trong cộng đồng thế giới. Ngày nay Trung Cộng cũng áp dụng kế sách đó với phương tiện dồi dào và áp đảo đã đạt được mục đích thay thế vị trí của Đài Loan.

Cuộc thăm viếng Châu Mỹ La tinh năm 2004 của Hồ Cẩm Đào đem đến khu vực một thông điệp thắt chặc sự liên kết kỹ thuật, thương mại, tài chánh, kinh tế, những vấn đề mà Châu Mỹ La tinh đang mong đợi đến từ Hoa thịnh Đốn. Tiếp theo chính quyền Bắc Kinh đã thương lượng và đạt được hơn 400 thỏa hiệp về đầu tư và thương maị, đổ vào khu vực hơn 50 tỉ đô la. Hệ quả, một số lãnh đạo Mỹ La Tinh và vùng Caribbean quay mặt hướng về Bắc Kinh thay vì Hoa thịnh Đốn.

Trung Cộng hứa hẹn đầu tư vào Á Căn Đình những dự án hỏa xa, khai thác dầu khí, xây cất ; vào Cu Ba dự án Nickel, khai thác dầu khí; vào Chi Lê dự án mỏ đồng; vào Ba Tây dự án hỏa xa, khai thác dầu khí, nhà máy thép; vào Ecuador, Bolivia, và Columbia dự án khai thác dầu khí. Trung Cộng cũng lập danh sách những quốc gia Mỹ La tinh và vùng Caribbean đuợc nhà nước chuẩn thuận khuyến khích nhân dân đi du lịch, gồm có: Mễ tây cơ, Á căn đình, Ba tây, Chi Lê, Peru, Venezuela, Antigua, Barbuda, Bahama, Barbados, Dominica, Grenada, Guzana, Jamaica, Surinam, Trinidad, Tobago, Costa Rica.

Cuộc trao đổi mậu dịch của Trung Cộng với khu vực từ 8.2 tỉ mỹ kim năm 1999 tăng lên 70 tỉ mỹ kim năm 2007. Trung Cộng xuất cảng qua Mỹ châu La Tinh gồm các lọai hàng điện tử, dụng cụ văn phòng, đồ gia dụng, hàng may mặc, dày dép, hóa chất … với trị giá từ 5.3 tỉ mỹ kim năm 1999 tăng lên 35.8 tỉ mỹ kim năm 2006. Cũng năm 2006, các quốc gia hàng đầu nhập hàng hóa từ Trung Cộng, gồm có Mễ tây cơ: 8.8 tỉ, Ba Tây: 7.4 tỉ, Panama: 3.9 tỉ, Chile: 3.1 tỉ, Á căn đình: 2 tỉ.

Từ những công cuộc làm ăn nêu trên, đa số người dân Nam Mỹ và người dân vùng Caribbean khi xét đến ảnh hưởng của Trung Cộng đã nói rằng như là một luồng không khí mát mẻ so với Hoa Kỳ.

6. Sơ lược Nhu Lực của Trung Cộng tại Phi Châu.

Trung Cộng đã tích cực theo đuổi kế hoạch khai triển Nhu lực tại Phi Châu với những công tác:

– Liên lạc chặt chẽ với các Diễn Đàn về các vấn đề nhân đạo và thương mại.

– Bãi bỏ hơn một tỉ mỹ kim tiền nợ của một số quốc gia Châu Phi.

– Huấn luyện hơn 100.000 người Phi châu tại các trường đại học và học viện quân sự của Trung Cộng.

– Gởi hơn 900 bác sĩ làm việc khắp Phi Châu.

– Đặt trọng tâm đầu tư vào hạ tầng cơ sở, nông nghiệp và năng lượng.

Mối quan hệ của Trung Cộng với Châu Phi ngày càng ràng buộc chặt chẽ chính là thương mại và năng lượng. Trung Cộng tập trung xây đắp đường sá, cầu cống, bệnh viện trong những quốc gia mà họ đang đầu tư những dự án khai thác năng lượng như là Sudan, Angola, Guinêe Xích Đạo tạo ra hai luồng dư luận. Phe chấp thuận thuộc phía chính quyền và phe chỉ trích từ những nhóm nhân quyền lên án Trung cộng dựng nên những tên độc tài và bán vũ khí cho chính quyền toàn trị. Người ta nhìn nhận quả thật Trung Cộng dấn thân vào những lĩnh vực mà Hoa Kỳ không tìm đến và cũng không gắn liền những điều kiện chính trị với công việc làm ăn. Trung Cộng cũng được tiếng tốt hoàn tất những công trình nhanh chóng và trong phạm vi ngân sách. Tuy nhiên, các công ty Trung Cộng đem theo nhân công từ Hoa lục, không tạo ra công việc làm cho dân chúng tại điạ phương cũng đã gây ra nhiều bất mãn. Và dĩ nhiên, hàng hóa Trung Cộng tràn ngập thị trường Châu Phi cạnh tranh với sản phẩm bản xứ.

Châu Phi là một lục điạ có những sắc thái đăc biệt về vị trí lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên và con người. Trung Cộng đã lượng định tình thế, tích cực xử dụng nhu lực che đậy cho mưu đồ chiến lược: khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên, bao che các chính quyền độc tài, tạo những cứ điểm vững chắc trong khu vực, từng bước khống chế Phi Châu.

Cuộc công du Phi Châu của Hồ Cẩm Đào tháng 2 năm 2004 đến Algeria, Gabon, Nigeria – ba nước Phi Châu có túi dầu khổng lồ – mở ra một kỷ nguyên mới trong mối liên lạc giữa Trung Cộng với Phi Châu. Tháng 6 cùng năm, Phó Chủ tịch Trung cộng Zeng Quington viếng thăm Tunisia, Togo, Benin và Nam Phi, những quốc gia có trữ lượng khoáng sản đáng kể . Tháng 10 năm 2004, Chủ tịch quốc hội Wu Bangguo viếng thăm Kenya, Zimmbabwe và Nigeria. Tất cả những cuộc thăm viếng đều nhắm vào mục tiêu tạo cơ hội khai thác tài nguyên thiên nhiên, dầu khí và khoáng sản.

Đáp lại, các lãnh tụ hàng đầu của Kenya, Liberia, Nam phi, Zimbabwe cũng thăm viếng Bắc Kinh để kêu gọi gia tăng đầu tư và trợ giúp kinh tế. Tháng 1 năm 2006, Bộ trưởng ngoại giao Li Zhaoxing viếng thăm sáu nước Phi Châu: Cape Verde, Senegal, Mali, Liberia, Nigeria và Lybia kèm theo một bản công bố Chính sách Châu Phi của Trung cộng (China’s African Policy), nội dung nhắc đến sự hợp tác kinh tế, chính trị, phát triển năng lượng và không can thiệp vào nội bộ.

Do tình trạng tiêu thụ năng lượng cuà Trung Cộng ngày càng gia tăng và Phi Châu cung cấp hơn 25% cho nhu cầu nầy vì vậy họ đã có những kế hoạch đầu tư đáng kể.

Sudan là nước cung cấp 7% tổng số lượng dầu hỏa của Trung Cộng và dùng phần lớn số tiền kiếm được mua vũ khí từ Trung Cộng để khuất phục các nhóm nổi dậy ở Nam Sudan. Mới đây Trung Cộng bán cho Sudan 3 nhà máy chế tạo vũ khí tại Khartoum.

Tháng 3 năm 2004, Bắc Kinh cho Angola vay 2 tỉ mỹ kim trong một hợp đồng cung cấp 10.000 thùng dầu thô mỗi ngày. Tiền vay dùng vào việc xây dựng hạ tầng cơ sở theo cách thức 70% do các công ty Trung Cộng cung ứng và 30% còn lại dành do các nhà thầu nhỏ điạ phương (local subcontractor).

Tháng 7 năm 2006, Petro China thu xếp một hợp đồng 800 triệu với Tổ hợp Dầu hỏa Quốc gia Nigeria để mua 30.000 thùng dầu mỗi ngày trong suốt một năm. Tháng 1 năm 2006, Tổ hợp Khai thác dầu ngoài biển của Trung cộng (CNOOC) đã mua 45% dầu thô trị giá 2.27 tỉ mỹ kim và hứa sẽ đầu tư thêm 2.25 tỉ nữa.

Kỹ nghệ dầu của Gabon đang trên đà suy sụp liền nhận được sự đầu tư từ Tổ hợp Dầu và Hóa chất của Trung cộng (China National Petrochemical Corporation) bằng kế hoạch khai thác tiềm năng dầu trong đất liền và ngoài khơi.

Nam Phi và Zimbabwe dành cho Bắc Kinh nguồn lợi chính về quặng sắt và platinum.

Để giữ vững một điạ bàn quan trọng với nguồn lợi kinh tế to lớn, Trung cộng tìm mọi cách nâng đỡ, che chở những lãnh tụ tàn bạo của Châu Phi. Đó là trường hợp chính quyền Sudan được Trung cộng khuyến khích thi hành chính sách diệt chủng đối với người dân không theo Hồi giáo ở Vùng Dafur. Các bản tin của các hãng thông tấn Âu Mỹ cho biết quân đội Sudan phối hợp với dân quân vũ trang dùng trực thăng vũ trang do Trung cộng chế tạo oanh kích phá hủy hàng trăm thành phố và làng mạc, bắn giết bừa bãi, xua đuổi dân chúng rời bỏ vùng đất có giếng dầu thuộc quyền khai thác của CNPC. Trước hành động diệt chủng, các quốc gia Hoa Kỳ, Liên hiệp Âu châu, Nhật Bản và các quốc gia dân chủ khác đệ trình Liên hợp quốc Nghị quyết cấm vận Sudan nhưng Trung cộng thằng tay bác bỏ.

Đối với Zimbabwe, Trung cộng cung cấp toàn bộ nhu cầu quân sự và thêm lời ca tụng vị lãnh tụ anh minh Mugabe là ‘một nhân vật thành công vĩ đại, tận tâm với hoà bình thế giới và người bạn tốt của Trung cộng ’.

Vào những ngày chủ nhật (8/11/09) và thứ hai (9/11/09) vừa qua, thủ tướng Trung Cộng Ôn gia Bảo gặp gỡ các lãnh tụ Phi Châu tại nơi nghỉ mát (resort) Sharm el-Sheikh trên bờ Hồng Hải, Ai Cập. Theo lời Bộ Trưởng thương mại Chen Deming, Trung Cộng muốn loại bỏ thuế quan với một số mặt hàng nhập cảng từ Phi Châu và bảo đảm một số hàng hóa xuất cảng của Trung Cộng vào lục điạ nầy là an toàn nhằm tăng cường mậu dịch cả hai bên. Trung Cộng cũng khuyến khích những công ty đầu tư vào Phi Châu và chào đón những nhà thầu Phi Châu đầu tư và khai phá ở Trung Cộng.

Trong thập niên qua, thương mại Trung Cộng-Phi Châu gia tăng nhảy vọt khoảng 30% mỗi năm và đạt mức 100 tỉ đôla năm 2008. Cũng năm nầy Trung Cộng trực tiếp đầu tư vào Phi Châu 7.8 tỉ đôla. Trong những biện pháp mới, Chen Deming đề nghị bãi bỏ thuế quan những loại hàng thông dụng, đặt những trung tâm vận chuyển tiếp liệu và một hệ thống thanh tra nhằm loại trừ những hàng hóa kém phẩm chất. Trung Cộng tiếp tục xây cất trường học, nhà thương, phòng chống sốt rét, cải tiến phương pháp nông nghiệp cho Phi Châu. Những dự định công tác nầy che chắn phần nào những chỉ trích cho rằng Trung Cộng đã vơ vét quá nhiều trong quan hệ thương mãi với Châu Phi. Các quan sát viên quốc tế cũng cảnh báo Bắc Kinh trong chính sách cho vay có quá ít điều kiện ràng buộc khiến tham nhũng dễ khai thác.

Những sự kiện nêu trên chứng tỏ Trung Cộng đầu tư tối đa vào Phi Châu nhằm vào những mục tiêu và lợi ích lâu dài, tuy nhiên qua bài viết cuà Lưu thực Vinh đăng trên mạng Hua Xia Kuai Di tháng 6 năm 2009 cho thấy kết quả vẫn còn chua chát lắm:

‘Hoa Kiều ở châu Phi cũng như những người Trung Quốc công tác, chắc chắn đều suy nghĩ tới vấn đề nầy: vì sao ngay những người da đen cũng coi thường người Trung Quốc? Trung Quốc viện trợ châu Phi nhiều như vậy, sao họ lại ăn hiếp người Trung Quốc? …

 53 năm nay, Trung Quốc đã viện trợ cho hơn 50 nước châu Phi hơn 900 hạng mục toàn bộ. Sau khi Diễn Đàn hợp tác Trung-Phi họp, Trung Quốc đã miễn giảm cho 31 nước châu Phi khỏan nợ 10,5 tỉ NDT. Năm 2007, ngoại giao Trung Quốc chi tiêu hết 23 tỉ NDT thì có tới 10,3 tỉ dùng cho viện trợ nước ngoài ’….

 Tiếp theo phần kể lể công ơn, Lưu thực Vinh cay đắng và hỗn láo đưa ra những nhận định, tóm lược như sau:

‘Chúng ta viện trợ cho châu Phi bao nhiêu năm rồi, viện trợ bao nhiêu hạng mục, thế nhưng các nước châu Phi có hữu hão không? Tất nhiên qua vô tuyến truyền hình, chúng ta có thể thấy cảnh người lãnh đạo Trung Quốc tới thăm châu Phi đều được hoan nghênh nhiệt liệt. Đó là nghi lễ ngoại giao, hơn nữa người lãnh đạo Trung Quốc tới thăm châu Phi trong nhiều trường hợp trong túi đều có hạng mục viện trợ. Con chó vẫy đuôi với bạn, không phải là vì bạn mà là vì cái bánh mì trong tay bạn …

 Vì sao người Trung Quốc bị coi thường tại châu Phi?

Tôi nghĩ nguyên nhân chủ yếu là vì chúng ta chưa hề thực dân với họ. Tôi đã công tác tại châu Phi mấy năm, phát hiện châu Phi đặc biệt sùng kính người Pháp, người Anh. Người da đen trước đây bị người da trắng mua bán như con vật, sau nầy, những người da trắng nầy dạy người da đen học tiếng Pháp, tiếng Anh, nên người da đen coi người da trắng là ông chủ …

 Các dân tộc trên thế giới phần lớn đều giống nhau ở chỗ, tôn sùng kẻ mạnh, khinh kẻ yếu. Điều nầy giống như huấn luyện ngựa, anh ghê gớm thì thuần phục được ngựa, nó phục tùng anh, theo sự điều khiển của anh …

Một lý do nữa khiến chúng ta phải viện trợ cho châu Phi còn vì mục đích gạt bỏ những nước có ý đồ muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Một số nước châu Phi không cần nguyên tắc, không cần nghĩa khí, cái mà họ cần là thực huệ, ai có sữa thì là mẹ, ai cho nhiều tiền hơn thì công nhận người đó. Hiện nay vẫn còn 4 nước châu Phi có quan hệ ngoại giao với Đài Loan.’

 Xuyên suốt bài viết của Lưu thực Vinh đầy rẫy những ý tưởng thất vọng và phẫn uất, làm bộc lộ chân tướng của Trung Cộng đối với Phi Châu. Chúng nó muốn thay thế vai trò người Pháp, người Anh trong những thế kỷ trước, làm ông chủ thực dân tại Phi Châu trong thời đại nầy nhưng chưa toại nguyện, đang vấp phải vô số trở ngại.

o0o

Lực là khả năng bẩm sinh hay thiên phú để sinh vật tồn tại. Theo đà tiến hóa, con người ngày càng ý thức về Lực, điều động Lực để duy trì sự tranh sống và Lực được nhìn thấy dưới hai hình thức: Cương Lực và Nhu Lực.

Từ thuở xa xưa, các vị thánh nhân đều mong muốn loài người sống thanh bình, an vui, hạnh phúc đã rao giảng tính hiếu hoà, sự công bình, niềm tôn kính lẫn nhau làm nền tảng cho cách cư xừ và những mối liên hệ trong xã hội. Đây là Nhu Lực. Sự kiện Khổng Giáo được tôn thờ và cũng trải qua nhiều lần bị chà đạp thô bạo trên chính quê hương của ngài, nay lại được Bắc Kinh đem phổ biến khắp nơi khiến ngươì ta nghi ngờ, cảnh giác Nhu Lực của Trung Cộng đang phô diễn tại những nước đang phát triển. Trong thời Chiến Quốc, Tần Chiêu Vương áp dụng kế sách ‘Viễn Giao Cận Công ’ để lần lượt thanh toán các nước xung quanh là một kinh nghiệm lịch sử cho những quốc gia láng giềng với Trung Cộng, nhất là Việt Nam một hành lang đặc biệt ở Đông Nam Á.

Nhu và Cương là hai trạng thái vật lý có thể cảm nhận dễ dàng nhưng trong lĩnh vực chính trị ranh giới không rõ rệt thường bị xoay xở tùy theo nhu cầu và khả năng lèo lái của con người. Nhu và Cương chỉ là hai tĩnh từ đi kèm danh từ Lực, vì vậy muốn xử dụng Nhu Lực hoặc Cương Lực, điều kiện đầu tiên phải có là Lực. Không có Lực, cá nhân, tổ chức kể cả dân tộc không thể hòa mình trong nhịp điệu Sinh Tồn. ◘

Đỗ Hữu Long (ĐS 13)

_______________________________________

Tài liệu tham khảo:

  • The Dragon Looks South…………… Bronson Persival.
  • China’s foreign policy and ‘Soft Power’ in South America,
  • Asia, and Africa………… Congressional Research Service.
  • Soft Power …………….Wikipedia, the free encyclopedia.
  • The Benefits of Soft Power …….. Harvard Business School.
  • China’ Soft Power Initiative……………….. Esther Pan.
  • China’ Rising Soft Power in Southeast Asia … Eric Teo Chu Cheo
  • ( Council Secretary, Singapore Institute of International Affairs )
  • China’s Influence in Africa: Implications for the United States ….
  • ……..Peter Brook and Ji Hye Shin.
  • …………….. Wikipedia, the free encyclopedia.
  • Confucius Institutes…………………………. Hanban.
  • Embracing Confucius as a way of living..Wang Young (ShanghaiDaily).
  • Cultural Revolution……….. Wikipedia, the free encyclopedia.
  • May Fourth Movement…….. Wikipedia, the free encyclopedia.
  • Lao Tzu Quotes…………… Abundance-and-Happiness.com.
  • Hu Shi…………………. Wikipedia, the free encyclopedia.
  • Chen Duxiu……………… Wikipedia, the free encyclopedia.
  • Việt Nam cho mở Học Viện Khổng Tử … Bản Tin BBC ngày6/4/09.
  • Vì sao người Trung Quốc bị kỷ thị tại châu Phi … BBC ngày 16/6/09.
  • Lịch sử Trung Quốc 5.000 năm (tập I)…. Lâm hán Đạt, Tào dự Chương.
  • Trung Quốc Sử Cương……………. Phan Khoan

__________________________________

(*) Bài biên khảo “Nhu Lực của Trung Cộng” trích đăng, với sự cho phép của tác giả,  từ Tập Sách Biên Khảo “Tấm Lòng Với Dân Tộc” của ông Đỗ Hữu Long (ĐS 13). Sách do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 2019.

Sách Tấm Lòng Với Dân Tộc, 262 trang, bao gồm 19 bài viết trải rộng trên nhiều đề tài nghiên cứu từ “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam” đến các Luận khảo về “Dân tộc và Dân Chủ” hay “Dân Tộc Sinh Tồn Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa” và các biên khảo công phu khác, với ước vọng của tác giả:

“Tuổi thanh xuân của nam nữ Việt Nam dù bất cứ nơi đâu, đang hoà mình vươn lên trong xã hội, dành ra những khỏanh khắc nghĩ đến nguồn cội Dân Tộc mình, sự sống còn cuả Dân Tộc mình, sẽ cảm nhận những rung động thiêng liêng, cao quý. Từ đấy, họ sẽ có chung những ước mơ vị tha, vị quốc, là cơ hội vượt qua những dị biệt danh lợi nhỏ mọn, tìm thấy ý nghiã cuộc sống cuả một đời Người, trong đó có Lẽ Sinh Tồn của Dân Tộc.”

Visits: 91

Liên Hiệp Quốc & Quyền Dân Tộc Tự Quyết

Trần Xuân Thời

I.  Liên Hiệp Quốc

Sau khi thế chiến thứ II chấm dứt, các quốc gia đồng minh đánh bại Đức và Nhật, đã họp tại San Francisco Hoa Kỳ từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1945 để hình thành một tổ chức quốc tế mệnh danh là Liên Hiệp Quốc (United Nations). Liên Hiệp Quốc được chính thức hoạt động từ ngày 24 tháng 10 năm 1945 đến nay đã được 75 năm nhằm duy trì nền hoà bình thế giới và ngăn ngừa tai hoạ chiến tranh mà đệ nhất và đệ nhị thế chiến đã tàn phá các quốc gia và gây thiệt mạng cho hằng chục triệu sinh mạng.

Bản Hiến Chương LHQ (Charter of The United Nations) ấn định cơ cấu tổ chức và điều hành LHQ. Trụ sở LHQ đặt tại New York, USA, với phí khoản xây cất do nhà tỷ phú John D. Rockefeller, Jr. tặng 8 triệu rưỡi ngày 14 tháng 12 năm 1946 và Quốc hội Hoa Kỳ cho vay 65 triệu. Trụ sở LHQ được khánh thành năm 1952.

Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York, USA

LHQ gồm có 6 cơ quan chính:

1 – Đại Hội Đồng (General Assembly)

Gồm đại diện của tất cả các nước hội viên. Mỗi hội viên có quyền gởi đến LHQ 5 đại biểu chính thức, 5 đại biểu phụ khuyết, và không giới hạn số cố vấn. Tuy nhiên mỗi quốc gia chỉ được một phiếu bầu. Đại Hội Đồng họp thường niên, có nhiệm vụ thảo luận ngân sách của LHQ, ấn định lệ phí các nước hội viên phải đóng góp, thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến việc điều hành tổ chức LHQ, kể cả vấn đề can thiệp tìm các biện pháp duy tri`nền hòa bình thế giới khi Hội Đồng Bảo An không làm tròn nhiệm vụ giao phó.

2 – Hội Đồng Bảo An (Security Council)

HĐBA có nhiệm vụ duy trì nền hoà bình thế giới, gồm có 5 hội viên thường trực (permanent) là Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nga và Trung Hoa Dân Quốc. Đến năm 1971 Trung Cộng đã thay thế Trung Hoa Dân Quốc và 10 hội viên không thường trực (non-permanent) do Đại hội Đồng bầu với nhiệm kỳ 2 năm. HĐBA có nhiệm vụ điều tra, thảo luận và quyết định các biện pháp giải quyết các vụ xung đột quốc tế bằng các biện pháp chế tài về kinh tế hoặc quân sự.

Lần đầu tiên, sau ngày thành lập, LHQ đã can thiệp vào chiến tranh Cao ly (1950-1953). Sau đệ nhị thế chiến, quân CS Nga trú đóng ở Bắc Hàn, phía bắc vĩ tuyến thứ 38 và quân Mỹ trú đóng ở Nam Hàn. Năm 1947, Liên Hiệp Quốc cử một Ủy Ban tìm cách thống nhất Đại Hàn. Bắc Hàn từ chối không tham gia kế hoạch thống nhất Đại Hàn. Tuy vậy, cuộc bầu cử vẫn được tổ chức ở Nam Hàn và Cộng Hòa Đại Hàn (Republic of Korea) được thành lập. Năm 1948 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc tuyến bố chỉ có chính phủ Cộng Hòa Đại Hàn mới là chính phủ hợp pháp của Đại Hàn Dân Quốc. Sự kiện này đã khiến khối Cộng Sản quốc tế tiến quân xâm lăng Nam Hàn ngày 25 tháng 6 năm 1950.

LHQ cho đó là hành động vi phạm nền hoà bình thế giới. Hội Đồng Bảo An LHQ đã biểu quyết chấp thuận can thiệp, yêu cầu các nước hội viên gởi quân qua trợ giúp Nam Hàn. Đại biểu Nga trong Hội Đồng Bảo An trước đó đã rút lui để phản đối tư cách đại biểu thường trực của Trung Hoa Dân Quốc nên không thể phủ quyết nghị quyết đưa quân qua trợ giúp Nam Hàn.

Ngày 7 tháng 7 năm 1950, LHQ lập bộ tư lệnh hành quân do Hoa Kỳ chỉ huy. Trong số 60 quốc gia hội viên lúc bấy giờ, 16 hội viên gởi quân tác chiến và 41 hội viên cung cấp quân trang, quân dụng. Hoa Kỳ tham chiến với 90% quân số, trang bị và tiếp liệu. Tháng 10, 1950, Trung Cộng tham chiến, gởi quân qua tăng viện cho Bắc Hàn. Quân Liên Hiệp Quốc, sau gần 3 năm chiến đấu, đã đẩy lui quân CS Bắc Hàn do Nga và Trung Cộng trợ chiến trở về phía bắc của vĩ tuyến thứ 38. Sau đó đôi bên ký thỏa ước ngừng bắn chấm dứt chiến tranh Cao ly ngày 27 tháng 7 năm 1953 …

Thời điểm này cũng là lúc Mao Trạch Đông giúp Việt Minh tiến đánh căn cứ Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, các đồng minh, Nga, Trung Cộng, Anh, Pháp… họp tại Geneva, Thụy Sĩ và áp dụng phương thức giải quyết chiến tranh bằng cách chia đôi nước Việt Nam thành hai miền Nam (Quốc gia) , Bắc  (Cộng sản)  bằng Hiệp Định Geneve ký ngày 20/7/1954….Đại diện Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vaò Hiệp Định Geneva.

Hồ Chí Minh cứ tưởng được sự hỗ trợ của Chu Ân Lai, đại diện Trung Cộng, quân CS có thể chiếm toàn cõi Việt Nam qua Hiệp Định Đình Chiến Geneva như lời hứa của Chu Ân Lai, nhưng trong Hội nghị Chu Ân Lai sợ phản ứng của Hoa Kỳ nên khuyên HCM chấp nhận giải pháp CS hóa Miền Bắc từ vĩ  tuyến thứ 17 thay vì khi thì đòi chia đôi VN từ vĩ tuyến thứ 13,  rồi vĩ tuyến thứ 16 và sau cùng đồng ý chia đôi tại vĩ tuyến thứ 17.

Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đại diện Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng trong chính phủ của Bửu Lộc không được chính thức tham dự Hội Nghị Geneva chỉ được đóng vai trò quan sát cuộc dàn xếp chia đôi Việt Nam giữa chính phủ Pháp và khối CS quốc tế. Nếu không có sự dàn xếp này thì Pháp cũng phải trao trả độc lập cho Quốc Gia Việt Nam theo tiến trình giải thể thuộc địa sau đệ nhị thế chiến.

Sự kiện chia cắt đất nước do thực dân và cộng sản dàn xếp là một kinh nghiệm đau thương cho dân tộc Việt Nam vì Quốc Gia VN không đủ khả năng quyết định số phận của mình nên mất quyền “Dân Tộc Tự Quyết”. Trong bản văn “ Final Declaration of the Geneva Conference” có đề cập đến vấn đề hiệp thương vào tháng 7 năm 1956, hai năm sau ngày ký Hòa Ước Geneva, nhưng chỉ là một đề nghị, không được các phe tham dự thỏa thuận ký kết. Về phía VNCH, sau 1954, Quốc Trưởng Bảo Đại mời Cựu Thượng Thư Ngô Đình Diệm về lập chính phủ thay thế chính phủ Bửu Lộc. Thủ tướng Ngô Đình Diệm không phải không đồng ý hiệp thương để thống nhất đất nước nhưng vì thực tế hiễn nhiên là không có bầu cử tự do tại Miền Bắc do Cộng Sản chiếm đóng, nếu không có sự kiểm soát hữu hiệu do Hoa Kỳ giúp đỡ. Vì Hoa Kỳ không ký kết vào Hiêp Định Geneva nên Hoa kỳ cũng không đồng ý.

Ngoài ra, LHQ đã can thiệp vào nhiều vụ xung đột quốc tế khác. Gần đây LHQ đã gởi quân đánh đuổi quân xâm lăng Iraq ra khỏi Kuwait (Persian Gulf War) năm 1991, hoặc bảo trợ các thoả ước: Thoả ước hòa bình ở Campuchia năm 1991-1993, thỏa ước ngừng bắn giữa Croatia và Serbia, thỏa ước ngừng chiến ở Angola. LHQ gởi quân can thiệp can thiệp vụ Somalia năm 1992-1995 và vụ thanh tra vũ khí tại Iraq, sau đó liên quân Hoa Kỳ tiến chiếm Iraq … đến nay cuộc chiến Trung Đông vẫn còn tiếp diễn…

3 – Văn phòng Tổng Thư Ký (Secretariat)

Văn phòng TTK có nhiệm vụ điều hành công tác hằng ngày của LHQ. Nhân viên Văn Phòng TTK gồm có một vị Tổng Thư Ký (Secretary General) và các viên chức quản trị, nhân viên văn phòng. Tổng Thư Ký do 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An (Security Council) đồng thanh đề cử và do Đại Hội Đồng (General Assembly) bổ nhiệm với đa số tương đối, nhiệm kỳ là 5 năm.

4 – Hội Đồng Kinh Tế – Xã hội (Economic and Social Council)

LHQ là cơ quan quốc tế đầu tiên, ngoài nhiệm vụ duy trì an ninh quốc tế, còn có nhiệm vụ thăng tiến đời sống của nhân loại về các lĩnh vực như nâng cao mức sống, y tế, văn hoá, giáo dục, bảo vệ nhân quyền …  Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội gồm một số uỷ ban: (1) Bốn ủy ban đặc trách kinh tế các vùng Phi châu, Á Châu, Viễn Đông, Âu Châu và Mỹ châu Latin. (2) Sáu uỷ ban đặc trách về các lãnh vực: Nhân quyền, ma túy, dân số, phát triển xã hội, thống kê, quyền của phụ nữ, và một số cơ quan như Quỹ Nhi Đồng Quốc tế (UNICEF) và chương trình phát triển LHQ (UNDP).

5 – Toà Án Quốc Tế (The International Court of Justice)

Tòa án quốc tế có 15 vị thẩm phán, nhiệm kỳ 9 năm do Đại Hội Đồng và Hội Đồng Bảo An đề cử. Chủ Tịch và phó chủ tịch do Toà án đề cử, nhiệm kỳ 3 năm. Trụ sở Tòa án đặt tại The Hague, Netherlands. Toà án quốc tế có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia hội viên và các quốc gia không phải là hội viên của LHQ. Cá nhân không thể kiện lên Tòa Án Quốc tế trừ phi được một chính phủ bản xứ bảo trợ. Toà Án Quốc tế còn đóng vai trò cố vấn cho Đại Hội Đồng, Hội Đồng Bảo An và các cơ quan khác của LHQ nếu được yêu cầu.

6 – Hội Đồng Quản nhiệm (Trusteeship Council)

HĐQN đặc trách các thuộc địa của các nước Ý, Đức. Nhật chưa được tự trị hay độc lập sau đệ nhị thế chiến. Hội đồng này ngừng hoạt động năm 1994 sau khi các lãnh địa nêu trên đã được tự trị hoặc đã được sáp nhập vào các quốc gia khác.

Ngoài ra, LHQ còn điều hành 16 cơ quan chuyên môn liên quan đến các lĩnh vực sinh hoạt : Thực phẩm và Canh nông (FAO), Anh ninh Hàng không (ICAO), Phát triển Quốc tế (IDA), Tài Chính Quốc tế (IFC), Quỹ Quốc tế phát triển Canh nông  (IFAD), Lao động Quốc tế (ILO), Hàng Hải quốc tế (IMO) Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF), Truyền Thông Quốc tế (ITU), Giáo dục, Khoa học và Văn hoá (UNESCO), Phát triển Kỹ nghệ (UNIDO), Bưu Điện (UPU), Ngân hàng Quốc tế (World Bank), Y Tế Quốc tế (WHO) Văn học, Nghệ Thuật (WIPO), Khí tượng Quốc tế (WMO).

II- Liên Hiệp Quốc và Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền  (Universal Declaration of Human Rights)

Liên Hiệp Quốc, ngoài nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự thế giới, còn đóng vai trò tích cực trong vấn đề bảo vệ nhân quyền qua Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ban hành ngày 10 tháng 12 năm 1948.  Sau đệ nhị thế chiến, vấn đề nhân quyền được Liên Hiệp Quốc đặc biệt lưu âm nhất là vì các hành động dã man của Đức, Ý, Nhật đã phạm trong đệ nhị thế chiến.

Ủy Ban Nhân Quyền (Commission on Human Rights) thuộc Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội, được LHQ thành lập từ năm 1946.  Bà Eleanor Roosevelt, phu nhân của Tổng Thống Roosevelt, đã được tín nhiệm giữ chức vụ Chủ Tịch Điều Hành Ủy Ban Nhân quyền trong những năm đầu. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã chấp thuận Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, do Ủy Ban Nhân Quyền đệ trình, ngày 10 tháng 12 năm 1948 đến nay đã trọn năm thứ 72. (1948-2020)

Kể từ năm 1950, LHQ dùng ngày 10 tháng 12 mỗi năm làm Ngày Nhân Quyền (Human Rights Day). Bản TNQTNQ đã được một số quốc gia ghi vào Hiến Pháp như El Salvador, Haiti, Indonesia, Jordan, Libya, Puerto Rico và Syria. Liên Hiệp Quốc yêu cầu các nước hội viên phổ biến sâu rộng trong dân chúng, niêm yết, diễn giảng tại các cơ quan giáo dục không phân biệt địa phương hay thể chế chính trị.

Những điều khoản chính yếu trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Bản Tuyên Ngôn gồm 30 điều quy định mọi quyền căn bản của con người. Qua 7 điểm căn bản trong lời mở đầu, chúng ta nhận ra được phần nào nội dung của bản Tuyên Ngôn QTNQ.

Người Việt Quốc Gia hải ngoại, quốc nội, các đoàn thể dân sự, chính trị trong, ngoài nước, chính phủ VNCH, QLVNCH với tinh thần “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”, luôn quyết tâm hoàn thành đại nghiệp “ Dân Chủ Hóa Việt Nam” để tái lập tự do, dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, Đảng CS Hà nội đã tuyên tuân thủ Hiến Chương LHQ khi xin gia nhập LHQ từ năm 1977, nhưng đã và đang vi phạm trầm trọng các điều khỏan , nhất là 7 điều chính yếu trong phần mở đầu, của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

(1) Sự công nhận quyền hạn đồng đều và bất khả xâm phạm của nhân loại là nền móng cho sự tự do, công lý và nền hòa bình thế giới,

(2) Sự không quan tâm hay khinh miệt nhân quyền sẽ mang lại các hành động dã man, đi ngược lại lương tâm nhân loại, và triển vọng của thế giới trong đó nhân loại được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, khỏi sợ sệt và thiếu thốn. Các nhu cầu đó được coi như nguyện vọng cao cả nhất của nhân loại,

(3) Nếu không muốn để cho quần chúng nổi dậy chống bạo tàn và áp bức, nhân quyền phải được luật pháp bảo vệ,

(4) Sự thăng tiến tình huynh đệ giữa các chủng tộc là một điều thiết yếu,

(5) Các nước hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc xác nhận niềm tin tưởng vào các quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của con người, và quyền hạn bình đẳng giữa nam và nữ, cũng như quyết tâm thăng tiến đời sống xã hội trong tự do, no ấm,

(6) Với sự hợp tác của Liên Hiệp Quốc, các nước hội viên đã tự tuyên hứa thực thi nhân quyền và những quyền căn bản của con người,

(7) Sự hiểu biết căn bản về nhân quyền và các quyền tự do đóng vai trò rất quan trọng trong vấn đề thực thi lời cam kết này.

Bản Tuyên Ngôn QTNQ đã đặt nền móng cho các giao dịch quốc tế, tạo điều kiện cho sự thành hình của nhiều tổ chức nhân quyền và đóng vai trò hướng dẫn cho các quốc gia trong vấn đề bảo vệ nhân quyền. Nói một cách tổng quát, Bản Tuyên Ngôn đề cập đến ba loại nhân quyền căn bản:

(1) Các quyền tự do liên quan đến con người: Quyền tự do sinh sống, cấm cưỡng bách lao động, nô lệ, đối xử dã man, bất nhân, hay trừng phạt, bắt bớ, giam cầm, lưu đày trái phép, tôn trọng tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng;

(2) Các quyền về tự do chính trị: Quyền tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tham chính trực tiếp hay qua các cuộc bầu cử, và cuối cùng;

(3) Các quyền tự do về kinh tế, văn hóa, xã hội: Quyền tự do chọn nghề nghiệp, quyền có công ăn việc làm, quyền làm việc trong hoàn cảnh thuận lợi và an toàn, quyền nghỉ ngơi, được học hỏi và quyền được tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng.

LHQ, qua thời gian, đã ban hành thêm các bản Nghị quyết (resolution) và Tuyên Cáo (Proclamation):

(4). Nghị Quyết liên quan đến quyền Dân Tộc Tự Quyết (Self-determination) mà Bản Tuyên Ngôn không đề cập đến, đã được ghi vào trong hai bản công ước (covenant) ban hành trong năm 1966: (a). Bản công ước liên quan đến các quyền dân sự và chính trị, (civil and political rights) và (b) Bản Công ước liên quan đến các quyền về kinh tế, xã hội (economic, social and cultural rights). Hai bản công ước còn đề cập đến quyền được giáo dục, quyền tham gia sinh hoạt văn hoá, khoa học; quyền hưởng an sinh xã hội, và ấn định thủ tục áp dụng, kiểm soát. Các nước hội viên ký kết vào quy ước phải phúc trình cho văn phòng Tổng Thư Ký về diễn tiến áp dụng các quy ước này. Các công ước này có hiệu lực pháp lý đối với các nước hội viên đã tham gia và phê chuẩn.

(5).Tuyên Cáo công nhận quyền độc lập của các nước thuộc địa và các dân tộc bị trị ban hành năm 1960.; Tuyên cáo hủy bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc ban hành năm 1963; bảo vệ các dân tộc thiểu số đã được 110 quốc gia thừa nhận; Tuyên cáo bảo vệ con người khỏi bị tra tấn, hoặc các biện pháp trừng phạt độc ác, dã man, làm hạ phẩm giá con người (1975). Các quốc gia tham dự Hội Nghị Helsinki về nền An Ninh Âu Châu đã đồng ý hành động phù hợp với Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Nhân kỷ niệm 20 năm Bản Tuyên Ngôn QTNQ, LHQ đã chỉ định năm 1968 là Năm Quốc Tế Nhân Quyền (International Year of Human Rights) và thập niên 1973-1983 là Thập Niên Chống Kỳ Thị Chủng Tộc (Decade Against Racial Discrimination). LHQ cũng cụ thể hoá các hoạt động nhân quyền khác như đã ghi vào bộ luật quốc tế và áp dụng các nguyên tắc do Tòa Án Nuremberg phán định các tội phạm chiến tranh, các tội ác chống lại nhân loại.

Năm 1968, LHQ tuyên bố không áp dụng luật hạn định thời gian truy tố, (statute of limitations: Luật về thời tiêu) cho các tội ác chiến tranh (war crime) và các tội ác chống lại nhân loại … Các tội ác chiến tranh thời đệ nhị thế chiến đến nay vẫn còn bị truy tố. Hiện nay các tài liệu do tập thể dân, quân, cán chính VNCH viết về tội ác chiến tranh do đảng CS Hà Nội gây nên, là những chứng từ (testimony) cần được lưu trữ.

Sau hơn 70 năm (1948-2020) tranh đấu cho nhân quyền, LHQ đã tạo được nhiều kỳ công trong lĩnh vực bảo vệ an ninh và nhân quyền, đã đặt ra những mẫu mực bảo vệ nhân quyền cho các nước hội viên áp dụng. Nhờ đó nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế được thành hình như Amnesty International, International, Commission of Jurists … dù không trực thuộc LHQ nhưng rất có ảnh hưởng đến các quốc gia tự do mà thống kê và các báo cáo về vi phạm nhân quyền được trích dẫn, tham khảo để phê bình, chỉ trích các nước vi phạm nhân quyền nhất là các nước Cộng Sản như Việt nam, Trung Hoa, Cuba, Bắc hàn……các vi phạm nhân quyền của South Africa …

Cao Ủy Tị Nạn (UN High Commissioner for Refugees) đã tranh đấu cho nhân quyền, cứu trợ những người tị nạn Cộng sản hay các chế độ khủng bố sát hại xảy ra khắp năm châu bốn bể. Các cơ quan cứu trợ quốc tế như Catholic Relief Services của International Rescue Committee (IRC) cũng đã và đang góp công vào các công tác phổ biến các phạm trù về tôn trọng nhân quyền quốc tế. Dù không đạt được được kết quả khả quan và sự vi phạm nhân quyền còn nhan nhản khắp nơi trong một số nước độc tài đảng trị, nhưng cũng là những cố gắng quy mô đáng lưu ý.

Tầm ảnh hưởng của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được các quốc gia lượng giá khá rộng rãi có thể sánh với tầm ảnh hưởng của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of Independence) của Hoa Kỳ năm 1776, hoặc  Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Pháp (French Declaration on the Rights of Man) năm 1789.

Hiện nay, còn một số quốc gia áp dụng thể chế độc tài lấy lý do đời sống vật chất chưa đầy đủ, thì chính quyền chưa thể cho người dân hưởng các quyền tự do chính trị như CSVN. Lý luận này có tính cách tránh né trách nhiệm và xuyên tạc. Chưa có bản phúc trình hay nghiên cứu nào chứng minh được rằng sự hạn chế quyền tự do chính trị có thể giúp phát triển kinh tế như lý luận của các chế độ độc tài đảng trị. Trên thực tế tự do chính trị đã mở đường cho sự phát triển kinh tế mà đời sống thịnh vượng của các quốc gia tự do là một bằng chứng.

Lý do chính của sự hạn chế quyền tự do chỉ để củng cố giai cấp đàn áp, như trường hợp Việt Nam. Cộng sản Hà Nội, mặc dù là hội viên LHQ từ năm 1977, nhưng cấm đoán việc phổ biến Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. CSVN vi phạm các điều khoản căn bản được ấn định trong bản Tuyên Ngôn QTNQ, từ quyền (1) Tự do sinh sống như không bị bắt bớ giam cầm trái phép, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do di dân, tự do xuất ngoại …(2)Tự do chính trị như tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tham chính, đến (3) các quyền tự do về an sinh xã hội, kinh tế như tự do kinh doanh, tự do phát triển văn hoá, tự do sáng tác, tự do được hưởng điều kiện làm việc thoải mái, an toàn, tự do được hưởng nền giáo dục tiến bộ, tự do tham dự vào sự phát triển truyền thống văn hoá nhân bản, nhất nhất đều bị kiểm soát, kìm kẹp…

III- Liên Hiệp Quốc và Quyền Dân Tộc Tự Quyết

Sống trong xã hội tự do, thoải mái, chúng ta không thể an lòng khi nhìn thấy quê hương hiện nay sa dần vào vực thẳm, từ mức sống đại đa số đồng bào khó khăn – nghèo nhất thế giới – “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” – tâm trí bị kiềm chế quẫn bách đến đời sống văn hóa suy đồi…Ngụy quyền  Cộng Sản không do toàn dân bầu cử và tấn phong vào vai trò cai trị Việt Nam nên gần đây ông Nguyễn Xuân Phúc, trong Đại hội Đảng thứ 13 tháng 10, 2020,  đã  xác định là thân phận của cán bộ các cấp và bộ đội nhân dân gắn liền với chế độ độc tài, tham nhũng,  vơ vét tài sản của nhân dân để phục vụ đảng Cộng sản chứ không phải nhận thù lao của đảng để phục vụ toàn dân!

Đối với cộng đồng người Việt tự do, dù không đồng nhất về tư tưởng và hành động, nhưng đó là biểu hiện đặc điểm của xã hội dân chủ. Tập thể người Việt hải ngoại đã tạo được tiếng nói có ảnh hưởng đến chính sách của các quốc gia tự do khiến cho các công tác tuyên truyền của Công sản tại hải ngoại bị thảm bại. “Nhân vô tín, bất lập”, người thất tín thì không đứng vững được. Trước dư luận và tâm tưởng (mentality) của thế giới tự do thì CSVN là chế độ dã man, phi nhân, thất đức. Đó cũng là mối ung nhọt đau đớn của CS Hà Nội trên chính trường quốc tế.

Để dứt điểm, xoá bỏ chế độ CS, chúng ta không ngại nỗ lực áp dụng mọi phương tiện nhân sinh như văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế,  bang giao quốc tế, dẫn chứng các vi phạm các Công ước, Hiệp định quốc tế mà CS Hà Nội đã ký kết để hạch tội CSHN. CSHN đã trắng trợn vi phạm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà CSHN cam kết tuân thủ khi xin gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 và trước đó đã vi phạm Hoà Ước Ba Lê mà CSHN đã ký kết năm 1973. Dĩ nhiên CSHN sẽ phản đối khi chúng ta luận về tội ác của CSHN, nhưng chúng ta vẫn kiên trì suốt 45 năm qua, tranh đấu không ngơi nghỉ cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, tôn trọng nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Vấn đề của Việt Nam hiện nay, dù nhìn dưới khía cạnh nào chăng nữa thì cũng không thể phủ nhận đó là vấn đề Việt Nam mất quyền “ Dân Tộc Tự Quyết” (Right to Self-determination) phần vì Thực dân, phần khác vì Cộng sản.

Sau thế chiến thứ hai (1939-1945), đa số các quốc gia bị trị được trả tự do. Việt Nam có cơ hội được tự do khi chế độ thuộc địa được giải thể (decolonization). Trước 1954, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, dù tự do bị hạn chế nhưng không đến nổi tự do bị huỷ diệt. Nhưng khi mặt trận Việt Minh hoành hành thì người dân phải bán tài sản, kể cả ruộng vườn, trâu, bò để đóng thuế nông nghiệp cho Việt Minh. Thậm chí làm thịt gà cúng giổ tổ tiên cũng phải xin phép. Người dân bị Việt Minh khủng bố đến tận xương tuỷ.  Hôm nay, lỡ lời hỏi bè bạn “Hồ Minh nhưng hình mô?” là ngày mai thấy đầu bác lý bị treo tòng teng trên cổng chợ. Việt Minh hay đảng cộng sản là một tổ chức khủng bố và khuynh đảo, mượn danh nghĩa giải phóng để tước đoạt quyền sống của con người.

Cộng sản biết, nếu để cho tình hình chính trị thế giới diễn biến hòa bình một cách tự nhiên thì bất lợi cho phe Cộng Sản. Nếu Việt Nam được trả tự do thì Việt Minh sẽ không còn có lý do tồn tại. Vì thế,  khối Cộng Sản Quốc Tế  đã  giúp Hồ Chí Minh gấp rút áp đảo căn cứ Điện Biên Phủ, dù phải hy sinh xương máu của 30 ngàn thanh niên Việt Nam, để áp lực đưa vấn đề Việt Nam ra bàn Hội  nghị  Geneva năm 1954. Dự mưu của Việt Minh Cộng sản nhằm cộng sản hoá toàn cõi Việt Nam.  Những âm mưu này không thực hiện được vì  sợ  phản ứng của Hoa Kỳ  nên Thực dân và  Cộng sản đã đơn phương ký  kết Hiệp Định Geneva, chia cắt VN thành hai Miền Nam (dân chủ tự do) và Miền Bắc (độc tài cộng sản) để giành một nửa giang sơn cho phe Cộng Sản ngoài ý muốn của nhân dân Việt Nam.  Nhân dân Miền Bắc, một nửa giang sơn và một nửa dân tộc Việt Nam, đã bị tước đoạt mất quyền tự quyết, buộc lòng phải sống dưới ách độc tài Cộng sản từ năm 1954.

Miền Nam Việt Nam, may mắn hơn, được sống dưới chính thể tự do, nhưng tiếc thay những phần tử “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản và ma thực dân”, lợi dụng tự do để phá hoại VNCH, trong khi đó, khối Cộng sản quốc tế nỗ lực giúp loạn đảng CS Hà Nội (Hanoi rebel) xâm lăng VNCH để cộng sản hóa mảnh đất thân yêu còn lại.

Nam Việt Nam qua hai giai đoạn Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa dù đã vận dụng sách lược ứng phó, nhưng đến năm 1975, vì thiếu quân lương, vũ khí đạn dược, nên phải lui binh. Chính Phủ và Quân Lực VNCH phần thì bị tù tội, phần thì di tản chiến thuật ra hải ngoại tiếp tục cuộc đấu tranh tái lập tự do, dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ cho quốc tổ Việt Nam.  Quốc Kỳ và Quân kỳ VNCH vẫn tung bay trong tâm hồn con Hồng cháu Lạc.

Tinh thần quốc gia dân tộc được thể hiện qua các hoạt động xã hội, chính trị của CĐVN hải ngoại mà CS Hà Nội mệnh danh là những thế lực đối nghịch. Trong những đoàn thể, lực lượng, mặt trận phục quốc, đáng vinh danh, có Chính Phủ kế tục chính phủ VNCH trước năm 1975 do Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, sau ngày di tản đến Hoa Kỳ, tiếp tục lãnh đạo với nội các “ Shadow Cabinet” âm thầm hoạt động trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, thực thi sứ mệnh  phục vụ trong tinh thần “ Tổ Quốc-Danh Dự- Trách Nhiệm”.  Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn là một chính khách xuất thân từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một quân nhân, xuất thân từ Khóa I trường Sĩ Quan Thủ Đức.

Trong lịch sử cận đại, từ thời đệ nhị thế chiến, quân Đức Quốc Xã xâm lăng Pháp Quốc. Thống Chế Pétain ra đầu hàng và lập chính phủ thân Đức ở Vichy. Tướng De Gaulle, một vị Tổng Trưởng trong Chính phủ Pháp trước khi quân Đức xâm lăng Pháp quốc, di tản qua Anh Quốc lập chính phủ đối lập lưu vong (Shadow Cabinet) , tiếp tục kháng chiến chống Đức Quốc Xã cho đến ngày thắng lợi khi quân Đức đấu hàng năm 1945.

Tình trạng kế tục của các chính phủ lưu vong qua lịch sử nêu trên phù hợp với Công Ước Vienna về tư cách kế tục pháp định (state succession). Cố TT Nguyễn Bá Cẩn đã qua đời, sau khi lập xong hồ sơ thềm lục địa gởi đến Liên Hiệp Quốc để bổ túc hồ sơ kiện Trung Cộng chiếm Tây Sa và Hoàng Sa. Dù sự nghiệp cứu quốc chưa thành nhưng đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm của bậc trượng phu.   Đến nay, Chính Phủ VNCH kế tục được lãnh đạo bởi LS Lê Trọng Quát, một chính trị gia, xuất thân từ trường Luật và khóa 2 trường Sĩ Quan Thủ Đức, đã từng giữ chức vụ Đệ Nhất Quốc Vụ Khanh trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn trước khi CS Hà Nội xâm lăng VNCH. Khối công chức các ngành phục vụ trong nền hành chánh công quyền di tản ra hải ngoại vẫn hiện hữu.

Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn (hình trái) ký nhận bàn giao chức vụ Thủ Tướng VNCH từ cựu Thủ Tướng là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. (Hình phải:) Vào ngày 14-4-1975, Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trình diện thành phần nội các.

Về Quân Lực VNCH, ngoài tập thể chiến sĩ cố thủ trên quên hương, tập thể Chiến Sĩ QLVNCH Hải Ngoại cũng đã được đoàn ngũ hóa. Tại mỗi tiểu bang, quốc gia đều có Hội Chiến Sĩ QLVNCH; các Tổng Hội Chiến Sĩ các quân, binh chủng; các Tổng Hội Cựu sinh viên Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ của các quân trường Hải, Lục, Không quân mà quân số tổng cộng không dưới vài sư đoàn.

Như đã đề cập, vấn đề chung của chúng ta là vấn đề tranh thủ nhân tâm quốc tế để giành lại quyền “Dân Tộc Tự Quyết” cho dân tộc Việt Nam. Đây là một cuộc vận động của người Việt Quốc Gia trên toàn thế giới. Đừng nghĩ chỉ nên làm việc gì có lợi cho cá nhân mình hay đoàn thể của mình để rồi bôi bẩn các đoàn thể khác mà nên tranh đấu cho quyền lợi chung của cả dân tộc. Để giải phóng dân tộc khỏi ách độc tài đảng trị, giành lại quyền dân tộc tự quyết cho toàn thể  đồng bào có cơ hội tự chọn lấy thể chế chính trị mà đồng bào mong ước. Ai muốn sống nô lệ thì cứ chọn thể chế độc tài, ai muốn làm chủ thân phận mình, sống đời sống tự do thì chọn dân chủ.  Nói khác đi là thực thi quyền dân tộc tự quyết. Fair play!

Hiện nay, muốn giành lại quyền dân  tộc tự quyết cho Việt Nam,  không phải chỉ vận động  với các quốc gia tự do đã ký vào các văn kiện liên quan đến Việt Nam, mà phải vận động với tất cả các quốc gia tự do, thành viên của  Liên Hiệp Quốc, nơi có người Việt Quốc gia sinh sống để xin hỗ trợ trả lại quyền dân tộc tự quyết cho toàn dân Việt Nam. Đảng CS thì quyết tâm không muốn cho đồng bào Việt Nam hưởng quyền dân tộc tự quyết được thể hiện qua phương thức bầu cử tự do. Vì nếu có bầu cử tự do thì đảng CS sẽ thất cử và bị giải tán, không có cơ hội kềm kẹp, đục khoét tài sản của dân chúng. Tuy nhiên. những nước theo chủ nghĩa Cộng Sản quá ít so với các quốc gia dân chủ tự do, với tỷ số 4 nước độc tài so với trên 190 quốc gia dân chủ, nên không đáng ngại, nếu chúng ta làm việc có hệ  thống, liên tục trong tinh thần đoàn kết thì đại nghiệp cứu quốc ắt sẽ được chóng thành.

Ông Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng CS Hà Nội, đã tuyên bố là quân, công, cán. chính Cộng sản Hà Nội phải áo xiêm buộc trói lấy nhau để phò trợ đảng Cộng Sản, nếu không thì mất hết quyền lợi, giải giáp quy điền.   Đó là thái độ gà què ăn quẩn cối xay. “Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng. Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi “. Người Việt quốc gia trên toàn thế giới phải vận động với các quốc gia dân chủ bằng nhiều phương thức khác nhau như văn hoá, xã hôi, kinh tế, chính trị, tùy hoàn cảnh của mỗi địa phương.   Khi Việt Nam được tự do thì mọi công dân được hoan hỉ, hạnh phúc về tinh thần, đời sống vật chất sẽ được phong phú, tự do di chuyển tự do buôn bán,  tự do đóng góp nhân tài, vật lực, xã hội sẽ hưng thịnh. Vì vậy, ông Nguyễn Xuân Phúc không nên chỉ lo cho đảng viên mà nên lo cho quốc dân đồng bào. Ông nên bắt chước Yeltsin và Mikhail Gorbachev, thực thi sáng kiến giải thể chế độ CS để quân, cán, chính, khỏi trở thành tội đồ của dân tộc và để hưởng chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, và còn thời gian để hưởng hạnh phúc. Nếu không, lịch sử sẽ tiếp diễn, không chóng thì chầy, như chủ nghĩa CS Đông Âu đã sụp đổ do sự vận động của thế giới tự do vào cuối thập niên 1980. Từ năm 1950 đến 1980, chủ nghĩa CS chiếm gần ½ thế giới. Hiện nay chỉ còn lại 4 nước: Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn và Việt Nam là bằng chứng suy tàn của chủ nghĩa Cộng sản thế giới.

Quyền “Dân Tộc Tự Quyết” (Right of Self-Determination)

(1)Ý niệm DTTQ đã được đề cập đến từ thế kỷ thứ 16 “All nations have the right to govern themselves and can accept the political regime it wants, even if it is not the best “. Các dân tộc có quyền tự trị và chấp nhận chế độ chính trị theo ý muốn, dù chế độ đó chưa được hoàn mỹ.

Năm 1918, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson (1913-1921) đã từng tuyên bố “National aspirations must be respected, people may now be determined and governed only by their own consent. “Self-determination” is not a mere phrase; it is an imperative principle of action” Nguyện vọng của các quốc gia phải được tôn trọng, các dân tộc từ nay có thể tự quản theo ý muốn của mình. Dân tộc tự quyết không phải chỉ là một câu nói, mà là một nguyên tắc hướng dẫn hành động.

(2) Chương 1 , Điều 1, khoản 2 của bản Hiến  Chương Liên Hiệp Quốc (United Nations Charter- 1945) đã ấn định : “The purpose of the United Nations is to develop friendly relations among nations based on the respect for the people of equal rights and self-determination of peoples, and to take appropriate measures  to strengthen the universal peace”. Mục đích của bản HCLHQ là để phát triển liên hệ thân hữu giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc công bằng và quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp thích nghi để thăng tiến nền hoà  bình thế giới.  Chủ trương này còn được đề cập đến trong hai Công Ước về quyền chính trị (CCPR) và quyền kinh tế xã hội (FCESCR) do LHQ ban hành: “All peoples have the right of self-determination. By virtue of that right, they freely determine their political status and freely pursue their economic, social and cultural developments”.  Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Bằng vào quyền này, họ được tự do quyết định về thể chế chính trị và tự do theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của họ”.

(3) Chương 15 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ( Universal Declaration of Human Rights năm 1948) ấn định” Everyone has the right to self-determination and that no one should be arbitrarily deprived of a nationality or denied the right to change nationality”.  Mọi người đều có quyền tự quyết, không ai bị tước đoạt quốc tịch hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch.

Right of a people to self-determination is a cardinal principle in modern international law – Jus cogens-. The right to freely choose their sovereignty and international political status with no interference”.  Quyền dân tộc tự quyết là quyền căn bản trong luật quốc tế hiện đại. Quyền tự do chọn chủ quyền và vị thế chính trị trên chính trường quốc tế mà không bị can thiệp.

Quyền Dân Tộc Tự Quyết và các Hiệp Ước Quốc Tế về Việt Nam.

(1)-Hiệp định Geneva ngày 20 tháng 7 năm 1954 do Cộng sản và thực dân ký kết đã tước quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam khi quyết định chia cắt đất nước VN thành hai miền Nam Bắc trước sự phản đối của chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bày tỏ thái độ qua lời phát biểu “ Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở” và đến  năm 1956, chính phủ VNCH  bác bỏ đề nghị  hiệp  thương giữa hai Miền Nam Bắc vì  không thể có bầu  cử tự do tại Miền Bắc do CS kiểm soát. Hiệp định Geneva là một vết đen trong lịch sử ngoại giao của Pháp quốc vì đã vi phạm nguyên tắc “ Dân Tộc Tự Quyết” của nhân dân Việt Nam và lợi dụng “ la raison du plus fort” cưởng bức Quốc Gia Việt Nam phải chịu nỗi đoạn trường, khiến 30 triệu dân Miền Bắc phải đổi chủ từ chủ nghĩa thực dân Pháp qua chủ nghĩa thực dân Cộng sản. Không biết TT Pháp có ý thức được sự bất công này hay không.

(2)-Hiệp định Paris (Paris Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) ngày 21 tháng 1 năm 1973 công nhận quyền Dân Tộc Tự Quyết của Miền Nam Việt Nam:

Chương IV Điều 9 (a) Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam là quyền thiêng liêng, không thể chuyển nhượng và các quốc gia phải tôn trọng. (b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ quyết định chính phủ tương lai cho Nam Việt Nam qua cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế.  Trong thực tế CS Hà Nội đã vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài CS lên nhân dân miền Nam Việt Nam từ 1975 đến nay.  Chapter IV, Article 9 (a): The South Vietnamese People’s right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be respected by all countries. (b) The South Vietnamese People shall decide themselves the political future of South through genuinely free and democratic general elections under international supervision.”

Điều 19: Các quốc gia tham dự Hội nghị đồng ý triệu tập Hội Nghị quốc tế  trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký thỏa ước để công nhận thỏa ước đã được ký kết, bảo đảm chấm dứt chiến tranh, duy trì hòa bình cho Việt Nam, tôn trọng những quyền căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, đóng góp và bảo đảm hòa bình tại Đông Dương.

Article 19: The parties agree on the convening of an international conference with 30 days of the signing of this agreement to acknowledge the signed agreements, to guarantee the ending of the war, the maintenance of peace in Vietnam,  the respect of the Vietnamese people’s fundamental national rights, and the South Vietnamese people’s right to self-determination,  and to contribute to and guarantee peace Indo-China.

Thi hành điều 19 thượng dẫn, ngày 2 tháng 3 năm 1973, 12 quốc gia họp trước sự chứng kiến của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đã ký một văn kiện gọi là ACT of the Paris Agreement ending the War and restoring Peace for Vietnam.

(3)-  Định Ước (Act of the Paris Agreement on ending the War and Restoring Peace in Viet Nam), do 12 quốc gia ký ngày 2 tháng 3 năm 1973 được xem như là bản “Tông Đồ Công Vụ” của 12 vị  Bộ Trưởng Ngoại Giao của 12 thành viên tham gia vào Hòa Hội Paris, gồm có  Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Việt Nam Cộng Hòa, Canada, Nam Dương, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Trung Cộng, Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng.

Bản Định Ước này quy định biện pháp áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp Ước Ba Lê.  Định ước này có tính cách quan trọng trong vấn đề đòi lại quyền dân tộc tự quyết cho Việt Nam khi Việt cộng vi phạm Hiệp Định Ba Lê xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà, áp đặt chế độ CS lên toàn dân Việt từ 1975 đến nay.

Điều 2 Bản Định Ước xác định nguyện vọng và các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam phải được tôn trọng.  Article 2 The Agreement responds to the aspirations and fundamental national rights of the Vietnamese people, i.e.  the independence, sovereignty, unity, and territorial integrity of Viet-Nam, to the right of the South Vietnamese people to self-determination, and to the earnest desire for peace shared by all countries in the world. The Agreement constitutes a major contribution to peace, self-determination, national independence, and the improvement of relations among countries. The Agreement and the Protocols should be strictly respected and scrupulously implemented”.

Điều 7(a) Nếu có sự vi phạm Hiệp Định Ba Lê nguy hại đến nền hòa bình, một hay nhiều quốc gia có quyền tham khảo với các quốc gia khác để quyết định biện pháp giải quyết (b) Hội Nghị Quốc Tế sẽ được tái triệu tập khi Hoa Kỳ và CS Hà Nội yêu cầu, (c) hoặc theo lời yêu cầu của sáu hay nhiều hơn trong 12 quốc gia tham dự vào bản Định Ước”. Nếu chúng ta vận động mạnh mẽ với 9 quốc gia tự do trong 12 thành viên ký vào bản Định Ước thì chúng ta có cơ hội thành công.  Article 7 (a) In the event of a violation of the Agreement or the Protocols which threatens the peace, the independence, sovereignty, unity, or territorial integrity of Viet-Nam, or the right of the South Vietnamese people to self-determination, the parties signatory to the Agreement and the Protocols shall, either individually or jointly, consult with the other Parties to this Act with a view to determining necessary remedial measures. (b) The International Conference on Viet-Nam shall be reconvened upon a joint request by the Government of the United States of America and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam on behalf of the parties signatory to the Agreement or (c) upon a request by six or more of the Parties to this Act.”.

(4)- Sắc luật Public Law 93-559 do Tổng Thống Gerald Ford ban hành ngày 30 tháng 12 năm 1974.

Điều 34(b) ấn định vấn đề tái triệu tập Hội Nghị Ba Lê “ Để giảm thiểu sự đau khổ của nhân dân và mang lai hòa bình thực sự cho Đông Dương, Quốc hội khẩn thiết yêu cầu Tổng Thống và Bộ Trưởng Ngoại Giao áp dụng biện pháp sau đây (4) tái nhóm Hội Nghị Ba Lê để  tìm phương cách thực thi toàn vẹn  các điều khoản của Hội nghị ký ngày 27 tháng 1 năm 1973 về các thành viên liên hệ đến cuộc xung đột tại Việt Nam. Section 34(b) (4): “In order to lessen the human suffering in Indochina and to bring about a genuine peace there, the Congress urges and requests the President and the Secretary of State to undertake the following measure …(4) to reconvene the Paris Conference to seek full implementation of the provisions of the Agreement of January 27, 1973 on the part of the Vietnamese parties to the conflict”.

Sắc luật này chưa được thực hiện hay hủy bỏ, do đó còn có hiệu lực. Mặc dù nhân sự đã thay đổi trong các chính phủ, nhưng trách nhiệm thi hành các hiệp ước, sắc luật  không phải vì thế mà bị thời tiêu.

Phương cách thực thi quyền Dân Tộc Tự Quyết

Các quốc gia tự do thường tôn trọng những gì họ đã ký kết, tuy nhiên cũng cần sự khiếu nại của những nạn nhân. Do đó chúng ta không ngại phải yêu cầu các quốc gia tự do tái xét và thực thi những điều đã ký kết, trước sự hiện diện của đại diện Liên Hiệp Quốc, hoàn trả quyền dân tộc tự quyết cho nhân dân Việt Nam đã được quy định trong luật quốc tế và trong các văn kiện quốc tế đã được ký kết liên quan đến Việt Nam.

Kết quả nhanh hay chậm còn tùy hoàn cảnh, nhưng còn tốt hơn ngồi than thân trách phận, chê bai nhau hay nguyền rủa bóng tối. Chúng ta phải vận động tích cực trong tất cả các quốc gia có người Việt cư ngụ, vận động đồng loạt và liên tục. Nếu đã bắt đầu nhưng chưa thành công, thì phải bắt đầu lại, như Platon đã nói: “Hãy bắt đầu vì đó là ngưỡng cửa của sự thành công”.

Quyền dân tộc tự quyết có thể thực thi qua các cuộc tổng tuyển cử, trưng cầu dân ý, bầu cử tự do. Tổ chức bầu cử tự do tại Việt Nam là một trong những giải pháp mà các cộng đồng, đoàn thể đang chuẩn bị và vận động. Tập thể người Việt Quốc Gia còn yêu cầu LHQ, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do hỗ trợ giải pháp tổ chức bầu cử tự do.  Điều 9(b) Hoà Ước Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã quy định:

The South Vietnam shall decide themselves the political future of South Vietnam through genuinely free and democratic general elections under the international supervision – Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam bằng các cuộc bầu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”. Có như vậy mới thể hiện được tinh thần tự do, dân chủ như đã đươc ấn định trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tê`Nhân Quyền mà tất cả các nước hội viên  đã ký thuận khi gia nhập Liên Hiệp Quốc’

Điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ấn định:1) “Mọi người đều có quyền tham chính trực tiếp hoặc gián tiếp được tuyển chọn qua các cuộc bầu cử tự do.” Everyone has the right to take part in the government of his country, directly or through freely chosen representatives”. Cộng sản VN khủng bố và cấm đoán người Việt quốc gia ứng cử, các ứng cử viên do đảng Cộng Sản đề cử.. (2) “Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc sử dụng các tiện ích công cộng. “Everyone has the right of equal access to public service in his country”. Cộng Sản VN dành mọi tiện nghi, đặc quyền đặc lợi, dịch vụ công cộng cho cán bộ, đảng viên cộng sản, kỳ thị và kìm kẹp người Việt quốc gia trong mọi dịch vụ, sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục (3)  Chính quyền phải lấy ý chí chung của toàn dân làm căn bản, ý chí này sẽ được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự bằng thể thức phổ thông đầu phiếu, kín, hoặc bằng các phương thức bầu cử tự do tương đương.” The will of the people shall be the basis of the authority of government; this will shall be expressed in periodic and genuine elections which shall be by universal and equal suffrage and shall be held by secret vote or by equivalent free voting procedures”.  Suốt 45 năm thống trị toàn cõi Việt Nam sau 1975, cộng sản Hà nội tự biên tự diễn, không do ý chí của toàn dân Việt Nam tấn phong thể hiện qua các cuộc bầu cử tự do.

Đảng Cộng Sản xâm lăng Việt Nam đã hình thành một giai cấp tài phiệt mới và quyết tâm phân chia đặc quyền, đặc lợi giữa các đảng viên, để “áo xiêm buộc trói lấy nhau”, thống trị đất nước trong cảnh bần cùng hóa nhân dân, khiến cho Việt nam trở thành nghèo khổ nhất thế giới. Cộng sản rất sợ nhân dân giàu mạnh, vì phú quý sinh lễ nghĩa, đồng baò sẽ đòi hỏi tự do, dân chủ và mỗi khi giàu mạnh sẽ có đủ phương tiện lật đổ chế độ cộng sản.

Nếu giải quyết vấn đề chính trị cho Miền Nam Việt Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Ba Lê 1973 và bản Tuyên Ngôn QTNQ thì “Toàn quốc Việt Nam” sẽ được tự do, dân chủ, phú cường và độc lập khỏi bị Hán hoá. Chúng ta hãy dồn nỗ lực vào mục tiêu chính là “Dân Chủ cho Việt Nam” (Democracy for Vietnam) trong tinh thần đánh thức lương tâm nhân loại, gây áp lực với khối Cộng sản qua nhiều lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế, bang giao quốc tế từ các đơn vị sinh hoạt địa phương như thành phố, quận, tiểu bang, liên bang, đến cấp quốc gia, hoàn vũ.

Trong mọi tổ chức ái hữu dân, quân, cán, chính, xã hội, tôn giáo, cộng đồng Việt Nam hải ngoại nên có một cơ cấu tổ chức phụ trách chương trình bảo vệ nhân quyền với chương trình vận động đồng bào Việt nam tự do tại hải ngoại và các cộng đồng tự do quốc tế “Dân Chủ Hoá Việt Nam”. Có như thế thì chúng ta mời thể hiện thành tâm, thiện chí, thực sự lưu tâm đến quyền sống và nhân phẩm của đồng bào quốc nội một cách công khai, muôn người như một. Chỉ có những chính quyền do dân thực sự tự do tuyển chọn mới lưu tâm đến quyền lợi của dân chúng. Đây là vấn đề nhân đạo, là sứ mệnh thiêng liêng biểu lộ lương tâm chính trực. Chúng ta ở hải ngoại chỉ hưởng được hạnh phúc chân chính thực sự khi thấy đồng bào quốc nội được sống trong hạnh phúc.

Trong trường hợp giải pháp bầu cử tự do được thực hiện, để tránh vấn đề hợp thức hóa chế độ phi nhân CS hiện hữu, câu hỏi mà một số người quan tâm là liệu chúng ta có chuẩn bị đâỳ đủ các lực lượng quần chúng quốc nội và hải ngoại để hỗ trợ giải pháp bầu cử tự do nhằm bảo đảm tính cách công chính của cuộc bầu cử, ứng phó với tình thế biến chuyển và có đủ cán bộ quốc gia sẵn sàng hỗ trợ chính phủ dân cử nhiếp chính hay chưa?

Đây là một trong những vấn đề trọng yếu mà các đoàn thể cộng đồng, tôn giáo, xã hội, chính trị, dân, quân, cán, chính, phải lưu tâm. Trước hết phải kiện toàn cơ cấu tổ chức, thống nhất hành động, hợp quần gây sức mạnh, vận động nội công, ngoại hợp trong giai đoạn 2, sau 45 năm lưu vong ở hải ngoại.

Được như vậy thì đại nghiệp cứu quốc mới mong chóng được viên thành.

Trần Xuân Thời

Visits: 1119

Tiến Trình Bầu Cử Tổng Thống Hoa Kỳ

Trần Xuân Thời

Hầu hết chúng ta đã tham dự các cuộc bầu cử tự do tại Việt Nam trước 1975 và tại các quốc gia tự do mà chúng ta đang cư ngụ sau năm 1975. Trong các quốc gia tự do, dân chủ, phương thức bầu cử tự do được áp dụng trong các cơ chế công quyền và các hiệp hội tư nhân để chọn người đại diện.

Tại Hoa Kỳ, các chính quyền tiểu bang đảm trách công tác tổ chức bầu cử các viên chức công cử tiểu bang và liên bang. Thể thức bầu cử được quy định bởi các đạo luật do chính quyền tiểu bang ban hành, do đó có một số khác biệt về kỹ thuật tổ chức giữa các tiểu bang.

1. Quyền bầu cử

Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 không quy định quyền bầu cử cho mọi công dân Hoa Kỳ. Vì thế các Tu chính án thứ 15 ban hành năm 1870 quy định thêm quyền bầu cử cho người Mỹ thiểu số…Tu chính án thứ 19 ban hành năm 1920 công nhận quyền bầu cử cho cử tri nữ giới…..Hiến pháp quy định bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ cứ bốn năm một lần vào ngày Thứ Ba sau ngày thứ hai tuần thứ nhất tháng 11.

2. Ghi danh bầu cử

Mọi công dân hội đủ điều kiện đều được ghi danh bầu cử: Công dân Hoa Kỳ, 18 tuổi, không can án hay bị tước quyền bầu cử, phải là cư dân hợp lệ tại tiểu bang nơi bầu cử hay ứng cử, cử tri có thể ghi danh trước hoặc tại phòng phiếu trước khi bầu cử… hoặc theo thủ tục do tiểu bang ấn định.

Năm 1965, Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật “Voting Rights Act” bãi bỏ các điều kiện cử tri phải biết đọc, biết viết (literacy tests), đóng thuế bầu cử (poll taxes). Các điều kiện này thường được áp dụng tại các tiểu bang miền Nam Hoa kỳ gọi chung là “Jim Crow Laws”. Tuổi được bầu cử cũng thay đổi qua thời gian từ năm 1776 và Tu chính Án thứ 26 (1971) đã thống nhất tuổi được bầu cử là 18 tuổi cho công dân trên toàn quốc cho các cuộc bầu cử tiểu bang và liên bang.

3. Chứng Minh Thư (ID Card)

Đến năm 2016, khoảng 30 tiểu bang buộc phải xuất trình căn cước (ID) trước khi cho ghi danh bầu cử.  Khoảng 20 tiểu bang chưa có luật buộc phải xuất trình căn cước.  Hai đảng CH và DC có hai đường lối khác nhau về vấn đề này.

Đảng Cộng Hòa ủng hộ tiểu bang cấp căn cước cho cử tri nhằm tránh sự gian lận như bầu cử nhiều lần, không đủ điều kiện bầu cử vẫn được đi bầu cử, không phải là công dân Hoa Kỳ, di dân bất hợp pháp,, người chết đi bầu … Vấn đề gian lận bầu cử (election fraud) đã được nêu lên trong nhiều cuộc bầu cử.

Đảng Dân chủ chủ trương ngược lại để cho mọi người được bầu cử tự do không cần chứng minh thư (ID) vì lý do nhiều người không có giấy tờ tùy thân… (Phát biểu của ông Eric Holder, US Attorney General, Pres. Obama Administration).

Sự tranh chấp này khiến cho Tối Cao Pháp Viện (US Supreme Court) phải phân xử.   Năm 2008 Tối Cao Pháp Viện công nhận luật tiểu bang Indiana đòi hỏi cử tri phải có căn cước.  Các tiểu bang khác như Texas, Tennessee, Rhode Island, Kansas, Georgia… năm 2012 đã thông qua luật đòi hỏi cử tri phải có căn cước. Tuy nhiên một số tiểu bang khác còn lại vẫn còn tranh cãi về luật ID card. Trong năm 2016, 17 tiểu bang đã ban hành luật đòi hỏi phải xuất trình khai sinh, chứng chỉ nhập tịch… nhưng vẫn gặp khó khăn khi áp dụng.

4. Các chức vụ dân cử

Có rất nhiều loại chức vụ dân cử tiểu bang và liên bang tại mỗi tiểu bang.  Mỗi tiểu bang, như một tiểu quốc, có đầy đủ cơ chế dân cử:  Lập Pháp với lưỡng viện Quốc hội, Hành Pháp với Thống Đốc và các Bộ, Phủ  và Tư pháp với một  hệ thống tòa án.  Tiểu bang như Nebraska … chỉ có một viện (unicameral), không có lưỡng viện Quốc hội (bicameral) như các tiểu bang khác.

Nghị Sĩ Liên bang (US Senator): Mỗi Tiểu bang đồng đều có 2 Nghị Sĩ Liên bang, nhiệm kỳ 6 năm. Dân biểu Liên bang (US Representative): Có nhiều dân biểu Liên bang cho mỗi tiểu bang tùy theo dân số của tiểu bang, nhiệm kỳ 2 năm. Từ khi lập quốc, khoảng 30,000 dân được bầu một Dân biểu. Ngày nay số Dân biểu gia tăng theo dân số căn cứ trên bảng thống kê dân số cứ 10 năm một lần. Một dân biểu hiện nay có thể đại diện cho trên nửa triệu dân. Tiểu bang nhỏ nhất có 1 dân biểu và 2 Nghị Sĩ. Tiểu bang lớn nhất như CA có 52 Dân biểu và 2 Thượng Nghị Sĩ. Số Thượng Nghị Sĩ không thay thay đổi. Số Dân biểu có thể thay đổi tùy theo dân số gia tăng.

5. Phân khu bầu cử

Vì dân số gia tăng nên có vấn đề tái phân chia khu bầu cử (Congressional redistricting).  Khi tái phân khu như vậy có thể sẽ gây thất lợi cho một trong hai đảng Dân Chủ hay Công Hoà.  Sự tái phân cử tri là nhiệm vụ của chính quyền tiểu bang và có ảnh hưởng đến vấn đề bầu cử dân biểu liên bang và các viên chức công cử tiểu bang nên thường tạo nên các cuộc tranh luận sôi nổi trong quốc hội tiểu bang. Sự tranh dành vấn đề tái phân ranh giới và cử tri lợi cho khu bầu cử, có trường hợp phải nhờ Tối Cao Pháp Viện HK phân xử.

Trường hợp có nhiều cử tri cùng chung khuynh hướng chính trị được tái phân vào một khu bầu cử tạo nên hiện tượng “Vote packing”, có lợi cho vị dân biểu đương nhiệm (incumbent). Ngược lại vị dân biểu đương nhiệm có thể bị thất cử nếu có nhiều cử tri thuộc các khuynh hướng khác chiếm đa số hoặc cử tri thường hỗ trợ dân biểu đương nhiệm bị phân tán “Vote cracking”. Vấn đề tranh cãi là phải phân khu như thế nào để dung hòa các khuynh hướng chính trị trong địa phương liên hệ.

6. Vấn đề tài trợ các cuộc vận động bầu cử

Ứng cử mà thiếu tài chánh thì không có hy vọng đắc cử. Mặt trái của vấn đề vận động tài chánh là các ứng cử viên, sau khi đắc cử, có thể lo “ơn đền, nghĩa trả” cho những người đóng góp tài chính bằng cách thỏa mãn nhu cầu của những người tài trợ, những nhóm quyền lợi (interest groups) áp lực các  viên chức đắc cử. “Pay and play- tiền trao cháo múc”, thay vì dùng thì giờ hay công khố để phục vụ công ích.  Để giảm thiểu vấn đề thiên vị phục vụ cho phe phái đã giúp họ đắc cử. bằng nhiều mánh khóe khác nhau, năm 1907 đạo luật Tillman Act được ban hành để cấm các đại công ty đóng góp tài chính cho các cuộc vận động bầu cử các viên chức liên bang và ấn định mức chi tiêu tối đa cho mỗi ứng cử viên.  Luật Federal Corrupt Practices Act được ban hành năm 1925 ấn định mức đóng góp. Luật Federal Election Campaign Act được ban hành năm 1971 bắt buộc các ứng cử viên tường trình số tiền đóng góp nhận được trong thời gian vận động tranh cử.  Năm 1974, Quốc Hội thành lập cơ quan Federal Election Commission (FEC) do 3 Ủy viên Cộng Hoà và 3 Ủy Viên Dân Chủ kiểm soát tài chính của các cuộc tranh cử…. Dù luật lệ có quy định nhưng trong thực tế các nhóm áp lực vẫn đóng góp tài chính cho các ứng cử viên để được hưởng lợi lộc sau khi các ứng cử viên được đắc cử qua nhiều phương thức khác nhau.

7. Các Uỷ Ban Hoạt Động Chính Trị

Chúng ta thường nghe nói đến danh từ PAC. PAC là Political Action Committee. Các ủy ban vận động chính trị được thành lập tại các tổ chức, công ty, đảm trách vấn đề gây quỹ đóng góp cho các cuộc vận động tranh cử như GOPAC (Republican leadership PAC).  Nhiều đoàn thể chính trị tại các tiểu bang cũng thành hình các ủy ban vận động chính trị.  Những nhóm này được thành lập theo Section 527 của Internal Revenue Code/ IRS Code. Trong cuộc bầu cử năm 2004, cơ quan Swift Boat Veterans for Truth vận động tài chánh để ủng hộ George W. Bush và bài bác John Kerry. Ngược lại, cơ quan America Coming Together (ACT) ủng hộ Kerry chống Bush.  Cả hai cơ quan này đã bị phạt bạc triệu vì hoạt động ngoài sự kiểm soát của Federal Election Commission. (FEC)

Al Gore khi làm Phó Tổng Thống cũng bị khiếu nại vì dùng điện thoại của văn phòng Phó TT vận động tài chánh cho ứng cử viên của đảng DC và Tổng Thống Clinton cũng bị báo chí phanh phui khi mời các mạnh thường quân (donors) đến nghỉ ngơi tại Toà Bạch Ốc.  Thống Đốc Illinois Ron Blagojevich, đảng DC, bị tù vì bán ghế Thượng Nghị Sĩ của Barack Obama để trống của tiểu bang Illinois để lấy tiền tranh cử.

Trong vụ án Citizens United v. Federal Election Commission, (2011) Tối Cao Pháp viện cấm không được hạn chế sự đóng góp của các nghiệp đoàn, công ty thương mại cho các cơ quan bất vụ lợi. Đồng thời xác nhận các hiệp hội sinh lợi và bất vụ lợi có tư cách pháp nhân (không những là legal entity và cũng là legally persons) nên có quyền nhận đóng góp như quyền tự do ngôn luận dành cho mọi công dân! Phán quyết này cũng gây nên sự kinh ngạc cho một số người. Kết quả, các PAC có quyền nhận sự đóng góp vô giới hạn của tư nhân cũng như của các hiệp hội, các công ty  thương mãi và  được mệnh danh là Super PACs, rồi sau đó Super super PAC tha hồ nhận tiền đóng góp để hỗ trợ cho ứng cử  viên gà nhà …khiến cho Lawrence Lessig, giáo sư tại Trường Luật Harvard, viết sách “ Republic, Lost: How Money Corrupts Congress – and a Plan to Stop It ” để chống đối sự nhũng  lạm do tiền tài gây nên tại Washington DC, để cảnh giác  thành viên của chính quyền, Hành Pháp, Lập Pháp không nên chỉ lo vận động tài chánh để tranh cử mà lơ là quốc sự…

Nhiêm vụ của Tối Cao Pháp Viện rất quan trọng trong tiến trình hình thành hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Chánh nhất Hughes (1862- 1948) đã nhận xét rằng ý nghiã của Hiến pháp do Tối cao pháp viện giải thích. Tổng Thống Woodrow Wilson sánh Tối Cao Pháp Viện như là một “Quốc Hội Lập Hiến thường trực” vì vai trò của TCPV như là cơ  quan cuối cùng giải thích Hiến pháp, nói khác đi giải thích Hiến pháp của TCPV có tính cách chung thầm.

Theo Tổng Thống Thomas Jefferson, giao trọng trách giải thích Hiến pháp cho Tối Cao Pháp Viện là một tập tục nguy hiểm. TT Jefferson cho rằng quyền của nhân dân Hoa Kỳ phải để cho nhân dân Hoa Kỳ định đoạt hơn là chấp nhận sự giải thích có tính cách khống chế của riêng một cơ quan. Để cho công dân Hoa kỳ định đoạt qua lá phiếu cũng là một phương cách tốt.

Trước sự kiện  đảng Dân  chủ tấn công TT Trump từ khi đắc cử tháng 11, năm 2016 qua các chiến dịch như  “Russia collusion” tốn phí công khố hơn 30 triệu USD, không có kết quả,  đến “Abuse of Power, Obstruction of Congress” versus “ Executive power” của Tổng Thống.  Tuy nhiên, đảng Dân chỉ có 47 phiếu trên Thượng Viện, làm sao kiếm thêm 20 phiêú hầu có đủ 67/100 thượng Nghị Sĩ để bãi miễn TT Trump. Sau thời gian luận tối Thượng Viện đã phán quyết Trump vô tội.  Vì vậy, dù muốn, dù không, cuộc bầu cử tháng 11, 2020 sẽ có đáp số, xem thử quốc dân Hoa kỳ vẫn tín nhiệm TT Trump hay Dân chủ sẽ đắc cử.

Nhiều vấn đề khó khăn khác được bàn cãi hiện nay với ý kiến chống đổi nhau như vấn đề phá thai, đạo và đời, tự do cá nhân, vấn đề nhân quyền, vấn đề tự do kết liễu sinh mạng… Theo quan niệm của một số giới chức, Tối Cao Pháp Viện đi hơi xa trong vấn đề giải thích Hiến Pháp, do đó hai đảng cố gắng thay đổi chiều hướng giải thích Hiến pháp theo quan điểm của mỗi đảng.  Công Hoà chủ trương Hiến pháp phải được giải thích theo ý chỉ của những bậc khai quốc công thần đã đại diện nhân dân Hoa Kỳ soạn thảo Hiến pháp năm 1787.  Dân Chủ thì muốn thay đổi, cho nên hai đảng phải tranh cho được chức vụ Tổng Thống mới có thẩm quyền bổ nhiệm các vị Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện theo khuynh hướng của mỗi đảng.

8. Đề cử đại biểu

Thủ tục thông thường cho các đảng chính trị (1) tuyển chọn các đại biểu (delegate) từ các phiên hội sơ bộ (caucus) tại các precinct (khu tuyển cử) trong các thành phố. (2) Các đại biểu được các precinct bầu sẽ tham dự đại hội cấp County (County Convention) để bầu đại biểu tham dự đại hội cấp tiểu bang (State Convention) (3) Đại hội cấp tiểu bang sẽ họp để bầu đại biểu tham dự  đại hội đảng Toàn Quốc (National Convention). Tuy vậy, thủ tục có thể thay đổi tùy theo tiểu bang.

Đảng Dân Chủ chọn ứng viên từ các cuộc bầu cử sơ bộ tại cấp tiểu bang.  Các đại biểu cấp tiểu bang sẽ tham dự đại hội toàn quốc để chọn ứng cử viên đại diện cho đảng ra tranh cử Tổng Thống. Số đại biểu đảng Dân Chủ thay đổi trong mỗi kỳ bầu cử, khoảng trên dưới 4000 đại biểu được chọn để tham dự Đại hội đảng toàn quốc để bầu đại diện đảng ra ứng cử Tổng Thống. Các ứng cử viên chỉ cần đa số phiếu tương đối (simple majority) đã được định trước, số phiếu nầy là số đại biểu riêng của mỗi mỗi đảng, để được chọn làm đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống.  Các đại biểu này được gọi là đại biểu có cam kết “Pledged delegates”. Họ thường đã gặp các ứng cử viên tại các phiên hội tại các Precinct, County và State convention hay National Convention. Ngoài các đại biểu chọn từ cấp tiểu bang, cấp lãnh đạo đảng chọn thêm một số đại biểu khác làm “Superdelegates” trong số các Dân biểu, Nghị Sĩ, Thống Đốc của đảng. Trong cuộc vận động bầu cử TT năm 2016, bà Clinton có nhiều Superdelegates và Ông Sanders tỏ ra bất bình về vấn đề phe phái này.   Năm 2008, Đảng DC có đến 796 Superdelegates, là những người có chức vụ, quyền thế và có ngân qủy, có khả năng hỗ trợ cuộc bầu cử. Đa số là thành viên của nhóm Establishment, “Áo xiêm buộc trói lấy nhau”, tạo thành một thành trì bảo vệ quyền lợi của đảng.

Đảng Cộng hòa cũng chọn đại biểu từ cấp Precinct, County, State Conventions, để tham dự National Convention, nhưng chọn khoảng trên dưới 2000 đại biểu mỗi kỳ bầu cử. Đảng CH cũng chọn thêm các đại biểu từ các đại hội tại các tiểu bang và từ giới lãnh đạo đảng, nhưng không dùng danh xưng “superdelegates” mặc dù một số delegates được chọn từ trong giới lãnh đạo đảng CH, hay những thành viên của nhóm Establishment của đảng CH.

Các cuộc bầu cử sơ bộ thường được tổ chức qua ba hình thức: (1) Họp sơ bộ khoáng đại (open primary) trong đó không phân biệt Dân chủ hay Cộng hoà. Đảng viên CH có thể bầu cho ứng viên DC hoặc ngược lại. (2) Họp sơ bộ bán khoáng đại (semi-open system) trong đó các cử tri độc lập (independent voter) có thể bầu cho ứng viên DC hoặc CH. (3) Họp sơ bộ kín (closed primary) chỉ dành cho cử tri ghi danh vào đảng mới được tham dự bầu cử.

9. Vận động tranh cử

Trong tiến trình chọn ứng cử viên từ hàng chục người (contender) của các đảng ghi danh tranh cử cho đến khi chọn được ứng cử viên chính thức đại diện đảng ra tranh cử kéo dài khoảng 2 năm.  Trong cuộc bầu cử Tổng Thống HK, nhiệm kỳ 2016-2020, theo danh sách ứng viên ghi danh với Federal Election Committee có 37 người ghi danh dự tranh và trên phiếu bầu Tổng Thống Hoa Kỳ 2016, có ghi danh ứng cử Viên của chín (9) đảng ra tranh cử.

Trong cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc, đa số ứng viên đã lần lượt rút lui sau những lần vận động tại một số tiểu bang mẫu như Iowa, New Hampshire và South Carolina… và sau các cuộc tranh luận ”so tài” do các cơ quan ngôn luận tư nhân tổ chức và đặc biệt dựa trên kết quả của các cuộc bầu cử sơ bộ tại các tiểu bang.

Ngoài các tiểu bang đông dân cư, có một số tiểu bang không phải là những tiểu bang đông dân số, nhưng là những tiểu bang tiêu biểu cho các khuynh hướng của cử tri và có tính cách thử thách các ứng viên,  xem thử các ứng viên có được các tiểu bang nhỏ ủng hộ, như Iowa tiêu biểu cho cử tri ngành nông nghiệp.

Từ năm 1976, UCV Dân Chủ Jimmy Carter thắng hạng nhì tại cuộc bầu cử sơ bộ tại Iowa, sau đó đắc cử Tổng Thống. Đảng DC xem sự thành công sơ khởi tại Iowa một dấu hiệu tốt cho sự thành công trên toàn quốc. Thử thách thứ hai thường được thực hiện tại New Hampshire, nơi đây đa số cử tri không thuộc DC hay CH mà đa số là cử tri độc lập (independent voter). NH là một địa bàn tốt thử thách các ứng viên xem thử họ có khả năng thuyết phục các cử tri độc lập? Ngoài hai tiểu bang nêu trên, đảng CH cũng xem tiểu bang South Carolina là một thí điểm tốt để đo lường tâm lý của cử tri và khả năng của UCV.

Các đảng buộc lòng phải hỗ trợ những UCV được nhiều phiếu nhất đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống. Không có chuyện đảng cử những ƯCV không xứng đáng và buộc dân phải bấu như các chế độ độc tài đảng trị. Nhờ thế mà, dù muốn dù không, UCV naò đắc cử sẽ trở thành Tổng Thống của toàn dân.

Các đại hội sơ bộ thường do các tiểu bang tổ chức theo thời gian và địa điểm thuận tiện ấn định như California đã đổi đại hội sơ bộ từ tháng 6 qua ngày 5 tháng 2.  Michigan và Florida tổ chức vào tháng 1.  Các đại hội sơ bộ được tổ chức vào ngày thứ ba trong tuần của nhiều tiểu bang được mệnh danh: “Super Tuesday”. Trong trường hợp không có ứng viên được đa số phiếu cấp bầu cử sơ bộ ấn định để được đại diện đảng ra tranh cử TT, đại hội đảng toàn quốc sẽ bỏ phiếu quyết định theo phương thức “Brokered Convention” như đảng CH đã dự trù trước đây, nếu UCV Trump không đủ phiếu tín nhiệm theo luật định trong cuộc bầu cử  2016, nhưng trường hợp nầy đã không xảy ra.

Hiến pháp Hoa Kỳ ấn định cuộc bầu cử Tổng Thống được tổ chức vào NGÀY THỨ BA sau ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11. Các tiểu bang có tính cách phụ trợ quyết định thắng cử như New Hampshire, Iowa, Ohio, Michigan, Pennsylvania, Florida, New Mexico là những Swing states mà các ứng cử viên cần tranh thủ cử tri ngoài những tiểu bang có số cử tri tương đối cố định như các ”Green states” bầu cho ứng viên Dân chủ hay “Red states” thường bầu cho ứng viên Cộng hoà. Ứng viên đảng DC thường thắng phiếu tại các tiểu bang Minnesota, Washington State, Oregon, California, New York.  Đảng CH thường thắng phiếu tại các tiểu bang taị Trung và Đông Mỹ.  Có những tiểu bang “yellow” là những tiều bang có nhiều cử tri độc lập hay “swing state”mà các ứng cử viên Dân Chủ hay Cộng Hoà cần nỗ lực tranh thủ đế thắng.

10. Thể thức đầu phiếu

Bầu phiếu phổ thông được áp dụng cho hầu hết các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang theo thể thức bầu cử phổ thông (popular), đa số tương đối (simple majority), trực tiếp (direct) và kín (secret). Đa số tương đối có nghĩa là ứng cử viên nào được nhiều phiếu phổ thông thì được đắc cử.

Tuy nhiên, đắc cử vào chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ không chỉ căn cứ vào phiếu phổ thông (popular vote) mà còn căn cứ vào Phiếu của Cử Tri Đoàn (electoral vote). Thông thường, ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông tại một tiểu bang thì thắng luôn phiếu cử tri đoàn (Winner-take all). Nhưng thỉnh thoảng có những trường hợp thất cử dù thắng phiếu phổ thông nhưng thua phiếu cử tri đoàn. “Thi không ăn ớt thế mà cay”!

Trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ  năm 2000, ứng cử Viên Albert “AL” Gore có 600,000 phiếu phổ thông cao hơn phiếu phổ thông của ứng Cử Viên George  W. Bush. Tuy nhiên ứng cử viên George W. Bush thắng phiếu tại Florida nên số phiếu cử tri đoàn cao hơn Al Gore.  Al Gore khiếu nại và Tối Cao Pháp Viện tuyên bố George W. Bush đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2000-2004. UCV Bush không phải vì thắng phiếu phổ thông mà nhờ được thắng phiếu cử tri đoàn. Muốn hiểu rõ thêm trường hợp này xin đọc thêm án lệ (Bush v. Gore, 531 US 98 (2000).  Sự kiện này cũng cho chúng ta thấy vai trò của Tối Cao Pháp Viện quan trọng như thế nào.  Tân Tổng Thống nhiệm kỳ 2016-2020 …đã  có cơ hội bổ nhiệm các thẩm phán Tối Cao Pháp Viện có cùng  khuynh hướng chính trị trong thời gian 4 hay 8 năm tới vì hiện nay có 3 vị thẩm phán Tối Cao pháp Viện trên 78 tuổi.

11. Phiếu Phổ Thông và Phiếu Cử Tri Đoàn (Popular vote & Electoral vote)

Mỗi tiểu bang có một số “cử tri đoàn” (electoral college) gồm 2 Nghị Sĩ Liên bang và một số Dân biểu Liên bang tuỳ theo dân số.

Hoa Kỳ có 538 phiếu cử tri đoàn gồm có: 100 Nghị Sĩ Liên bang (US Senator) và 438 Dân biểu Liên bang (US House of Representatives). Số dân biểu có thể được điều chỉnh tuỳ theo dân số…  Muốn đắc cử Tổng Thống, ứng cử viên phải hội đủ 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu. Nghĩa là ít nhất phải hơn đối thủ 2 phiếu. Ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông tại tiểu bang sẽ thắng luôn phiếu của cử tri đoàn tạị tiểu bang đó.

 Bản đồ Phiếu Cử Tri Đoàn theo tiểu bang

Trong lịch sử bầu cử Tổng Thống Hoa kỳ có vài trường hợp bất thường xảy ra. Năm 1787 Quốc Hội Hoa Kỳ đã tranh luận về vấn đề bầu cử Tổng Thống và để dung hoà hai ý kiến: Tổng thống do Quốc hội bầu hay do dân chúng bầu?  Quốc hội đã biểu quyết dùng cả hai phương thức. Ngoài phiếu phổ thông, Tiểu bang có nhiệm vụ chọn đại biểu với Cử tri đoàn (electoral college) cho mỗi tiểu bang. Tổng số đại biểu của cử trì đoàn tại mỗi tiểu bang bằng tổng số dân biểu liên bang và 2 nghị sĩ liên bang. Ví dụ: Tiển bang X có 8 dân biểu liên bang và 2 nghi sĩ liên bang: Tổng số cử tri đoàn là 10 người (10 phiếu).  Cử tri đoàn của 50 tiểu bang gốm.  (100 US nghị sĩ + 438 US dân biểu=538)

Lịch sử bầu Tổng Thống Hoa Kỳ cũng đã ghi lại năm 1800, ứng cử viên Thomas Jefferson và ứng cử viên AAron Burr mỗi người nhận 73 phiếu. Sự kiện này đã được trình Hạ Nghị Viện, chiếu Hiến Pháp Hoa Kỳ để quyết định và UCV Jefferson đã đắc cử.  Cuộc bầu cử năm 1824 và 1876 cũng do Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ quyết định mặc dù ứng cử viên trong hai cuộc bầu cử này không nhận được đa số phiếu phổ thông.

Năm 2000, Tối Cao Pháp Viện phán xét cho George W.  Bush đắc cử chức vụ Tổng Thống nhờ có phiếu cử tri đoàn cao hơn phiếu cử tri đoàn của Al Gore, nhưng phiếu phổ thông của Al Gore cao hơn phiếu phổ thông của George W. Bush.   Hiện nay, có khuynh hướng vận động bãi bỏ phiếu phiếu cử tri đoàn. Nếu khuynh hướng này thắng thế thì những tiểu bang đông dân số sẽ đè bẹp các tiểu bang có dân số thấp, tạo nên sự bất công giữa các tiểu bang.

12. Bầu Cử Tổng Thống nhiệm kỳ 2020-2024           

Năm 2020, dân số Hoa Kỳ được phỏng định là 332,528,000 (US population). Trong đó khoảng 235,097,000. công dân đủ điều kiện đi bầu (population eligible to vote). Cử tri đi bấu  khoảng 60%  = 141.000.000. (Source: Weldon Cooper Center, University of Virginia). Dân số người Mỹ gốc Á Châu, gồm 21 sắc tộc. : 22,500.000. Dân số người Mỹ gốc Viêt : 2,100,000, Công dân Viêt Mỹ đủ điếu kiện đi bầu khoảng  1,500,000. Cử tri đi bầu 60% hay khoảng 900,000..

Trên phiếu bầu năm 2020 có ứng cử viên của 9 đoàn thể chính trị ra tranh cử: (1) Republican: Donald J. Trump & Michael Pence; (2) Democratic-Farmer-Labor: Joseph R. Biden & Kamala Harris; (3) Independence-Alliance: Roque De La Fuente  & Darcy Richardson; (4) Green Party:  Howie Hawkins & Angela Walker; (5) Independent: Kanye West& Michelle Tidball ; (6) Independent: Brock Pierce & Karla Ballard; ( 7) Socialism and Liberation: Gloria La Riva & Leonard Peltier; (8) Socialist Worker Party: Alyson Kennedy & Malcolm Jarret; (9) Libertarian Party: Jo Jorgenson & Jeremy “Spike” Cohen.

Ứng cử Tổng Thống nào thắng đa số phiếu phổ thông (popular vote) sẽ thắng (winner-take all) phiếu cử tri đoàn (electoral vote) tại tiểu bang đó.  Muốn thắng cử UCV Tổng Thống phải đạt được ít nhất 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu.  Trong kỳ bầu cử năm 2016, UCV Trump, đảng CH đạt được 309 phiếu cử tri đoàn và đã đánh bại bà Clinton chỉ có 229 phiếu.

Vấn đề sai biệt giữa phiếu cử tri đoàn và phiếu phổ thông có thể xảy ra vì sự sai biệt dân số và số cử tri đoàn giữa các tiểu bang. Tiểu bang không thể quân phân dân số chính xác khi ấn định số dân biểu Liên bang. Do đó đã xảy ra trường hợp, một ứng viên có đa số phiếu phổ thông nhưng lại không có đủ số phiếu cử tri đoàn như trường hợp Al Gore năm 2000 và trường hợp của bà Clinton năm 2016.

Tất cả các khiếu nại, nếu có, về bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ sẽ được chung quyết bởi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) nếu các biện pháp giải hóa hành chính (administrative mediation) không đạt được kết quả.

Trần Xuân Thời

Visits: 214