Hình Ảnh Dòng Sông Trong Thơ Phùng Minh Tiến

Minh Tâm Xuân Đỗ

Tôi biết đến thơ Phùng Minh Tiến khá lâu, có đến trên ba chục năm của thập niên sau năm 1975, khi làm kẻ tha hương trốn chạy quê hương. Sau này nhận ra nhau là bạn có nhiều cái “đồng” với nhau: đồng hương Quảng nam, đồng song từ thuở học sinh từ trường Tiểu học Chùa Bà Mụ, qua trường Công lập Trần Quí Cáp Hội An và cùng đồng song từ Học Viện Quốc gia Hành Chánh, trước khi bước chân vào đời và bây giờ trong tuổi lớn, gặp nhau trễ xứ tự do Hoa Kỳ.
Đầu khoảng năm 1980 hay 1981 gì đó, anh Lôi Tam, một nhà văn cũng có nhiều cái “đồng” khác, trên tờ Đặc san Quê hương từ Thủ đô Hoa Kỳ, Washington DC, giới thiệu một bài thơ tiêu biểu của Phùng Minh Tiến, bài “Dòng Sông Cát Lở”:

Tôi đưa em về dòng sông cát lở
Dòng sông ba mươi năm chảy xiết một đời
Này cánh hoa xanh soi trên hồn nước cạn
Em tìm thấy gì trong sỏi đá không vui...

Bài thơ ngắn 12 câu thơ, trong ba đoạn ngắt rời, trong một hơi thở đầy thi vị, xúc động về quê hương và những kỷ niệm một thời trẻ trung. Thời đó tôi như đang làm kẻ “lưu đày” trên xứ người Da Đỏ Oklahoma, sau khi thoát chạy từ thành phố miền biển Vũng Tàu, nơi tôi làm việc, với một gia đình nhỏ, vợ và ba con thơ, khi miền Nam, vùng đất tự do cuối cùng rơi vào tay Cộng sản.

Trong cái ngột ngạt về thông tin từ quê nhà, quê hương một ốc đảo như cắt lìa với thế giới bên ngoài. Tôi tìm quên ưu sầu trong viết lách. Viết như một cách thế hoá giải nỗi bất lực đang vây bủa chung quanh. Viết để tìm lại mình trong các kỷ niệm mông lung đổ về. Viết để tìm lấy lại mình của một quê hương đã mất. Viết như một gợi nhớ trong tâm thức, khơi lại các kỷ niệm từ thuở ấu thơ đến ngày trưởng thành vào đời. Những dòng thơ của Phùng Minh Tiến đến với tôi như những hành trang thiếu sót trong nỗi nhớ bỏng cháy:

Tôi đưa em qua ven bờ cát lậm
Năm tháng phôi pha nay lở, mai bồi
Dấu điêu linh còn ghi trên trán mỏi
Bàn chân ngoan cát cũng ngẩn ngơ lời.
Cát một đời nằm nghe sóng vỗ
Sông một đời chảy mãi khôn nguôi
Em là mây tình cờ qua đó
Một tháng, một năm rồi cũng ngậm ngùi.

Tôi sinh ra ở thôn quê, làng Ái Nghĩa, Quận Đại Lộc, nhưng lớn lên may mắn được gởi đi học hành và trưởng thành ở phố thị. Một kỷ niệm tôi nhớ mãi trong đời, gắn liền với dòng sông, khi tôi lên năm hay sáu tuổi: Một buổi trưa hè nóng bức, tôi theo người anh cả ra con sông Đào (dòng sông Ái Nghĩa, Đại Lộc) trước mặt nhà, để tắm mát. Anh tôi bước xuống nước, tôi đeo theo anh bên vai. Anh hụp mạnh xuống dòng sông, sãi tay bơi. Tôi sút tay, chìm lỉm, có lẽ uống khá nhiều nước vào bụng. Anh vói tay kéo tôi lên, xách vào bờ. Tôi điếng hồn, khóc nức nở. Anh đã không dỗ dành mà còn đe doạ sẽ ném tôi xuống nước, cho uống nước nữa, đến khi nào tự quơ tay, quơ chân, biết bơi. Anh chỉ tay vào tôi, hét lớn:
– Con trai không được khóc. Con trai phải biết bơi để tự cứu mình. Muốn biết bơi, phải chịu sặc nước, uống nước đầy bụng, nhiều lần, cho đến khi bơi giỏi.

Từ đó chắc tôi đã phải uống nhiều nước sông lắm, nhiều lần chìm lỉm trong dòng sông, để biết bơi và bơi giỏi. Và dòng sông gắn bó với tôi như một phần của đời sống. Và cũng từ nguyên do tiềm ẩn trên, khi đọc bài thơ “Dòng sông Cát Lở“ của Phùng Minh Tiến, tôi say sưa thích thú với kỷ niệm nằm sâu trong tiềm thức, trỗi dậy.

Phùng Minh Tiến làm thơ khá nhiều, từ khi còn là một học sinh ở trường Trần Quí Cáp Hội An, nhưng anh lại không gom góp lại, để in thành sách, nên đã thất lạc thật nhiều. Thơ Phùng Minh Tiến trải dài nhiều đề tài, nhiều lãnh vực, nhưng hình ảnh dòng sông sâu đậm nhất và mang nhiều ẩn dụ về cuộc đời trong kiếp sống vô thường. Dòng sông không những là biểu tượng đẹp trong văn chương, trong thơ nhạc mà còn là hình ảnh huy hoàng, bi hùng, lưu lại trong lịch sử oai hùng của từng quốc gia, từng dân tộc qua nhiều thời đại.

Với tôi, dòng sông gắn liền với những kỷ niệm từ thuở ấu thơ, rồi đến những ngày tản cư năm 1947 theo dòng sông Thu Bồn, chạy giặc Pháp , đặt lại nền độc lập lên xứ sở. Tôi biết thêm được các địa danh mới của quê hương: đập Vĩnh Trinh, thác Phường Rạnh, bến sông Trung Phước, đẹp như một bức tranh thủy mặc ngày xưa. Những ngày hồi cư, trở về ngôi nhà cũ bị giặc Pháp đốt cháy, tôi ngày ngày bơi lôi trên dòng sông Đào trước nhà, trước khi được gởi xuống Hội An trọ học, lại làm quen, bơi lội với bạn bè, trên dòng sông Thu Bồn, đổ về phố Hội.
Từ những kỷ niệm gắn chặt trong tâm thức tôi như vậy, đọc lại thơ Phùng Minh Tiến, tôi cảm nhận ra rằng, dòng sông trong thơ anh là biểu tượng siêu hình về cuộc đời, như một chiếc cầu nối vào suy tưởng tâm linh như Vũ Hoàng Chương:

Ta còn để lại gì không
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.

Đọc lại mấy câu thơ Phùng Minh Tiến:

Tôi đưa em qua ven bờ cát lậm
Năm tháng phôi pha, nay lở, mai bồi
Dấu điêu linh còn ghi trên trán mỏi
Bàn chân ngoan, cát cũng ngẩn ngơ lời.
Cát một đời nằm nghe sóng vỗ
Sông một đời, chảy mãi khôn nguôi
Em là mây tình cờ qua đó
Một tháng, một năm, rồi cũng ngậm ngùi.

Những câu thơ đẹp vô cùng, thoát tục và đầy thiền vị. Và từ đó đọc lại các bài thơ của anh tôi đang có trong tay, gần như đa số các bài thơ nằm trong dòng thơ tâm linh, như vang lên từ tiếng chuông, tiếng mỏ đẫm màu sắc không.
Cuốn tiểu thuyết Siddhartha của nhà văn Đức Hermann Hesse mà Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch tuyệt vời qua tiếng Việt, “Câu Chuyện Dòng Sông”, nói về một nhân vật tên Siddhartha, người Ấn Độ, cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa tâm linh của cuộc sống, đã trải qua biết bao thăng trầm, sung sướng, hạnh phúc lẫn khổ nạn. Cuối cùng nhìn thấy dòng sông lững lờ chảy, ngộ ra rằng cuộc sống chẳng khác nào dòng sông, vô thường như dòng nước chảy.
Sau khi đọc cuốn sách “Câu Chuyện Dòng Sông” mỗi lần từ Huế về quê thăm gia đình ở Ái Nghĩa, Đại Lộc, tôi đi xe đạp hoặc đi bộ, theo dọc bờ sông Đào về nhà, tôi nhận thấy các đổi thay về cây cối, nhà cửa hai bên bờ sông, và những lần mưa lụt lớn trước đó gây đất lở, làm thay đổi hẳn cả một thôn xóm, trông xa lạ như một nơi nào tôi mới đến lần đầu…
Hình ảnh đó còn trong tâm thức tôi, khi đọc thơ Phùng Minh Tiến, tôi như thấy lại trước mắt và đọc thầm câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Kìa non đá lở, này sông cát bồi.”

Thơ Phùng Minh Tiến nặng về suy tưởng tâm linh. Ngoài hình ảnh dòng sông, biểu tượng của cuộc đời, Phùng Minh Tiến còn nói đến “Đôi Nẻo Có Không”:

Có cũng về
Không cũng về
Sao còn đứng đợi bến sông mê
Bốn phương gió nổi mùa hư ảo
Ngỏanh lại hoa xuân rụng não nề.
Có cũng về
Không cũng về
Về đâu non nước về đâu nhỉ?
Chảy xiết cuồng lưu, vọng khứ hề
Có cũng về
Không cũng về
Sáu bảy mươi năm làm lữ khách
Một chiều tuyết phủ với sương che .
Có cũng về
Không cũng về
Thanh xuân giờ đã xa biền biệt
Dừng lại bên sông lạnh bốn bề.

Thật sự, Phùng Minh Tiến cảm nhận cuộc đời qua nhiều khía cạnh, góc độ và thế nhìn, chứ nếu chỉ trích dẫn thơ anh qua các bài tâm linh, siêu hình về cuộc đời thì cũng cưỡng ép oan uổng. Đọc bài thơ “Vầng Trăng Hạnh Ngộ”, thấy thoải mái, nhẹ nhàng vô cùng:

Trăng của ngày xưa vẫn còn đây
Từ trong tiền kiếp đến nơi này
Biển dâu đã mấy lần dâu biển
Mùa đến, mùa đi, khuyết lại đầy
Trăng thuở thanh xuân, mùa hạnh ngộ
Trăng thời chinh chiến, khóc thương ai …
Nỗi trôi vẫn một vầng trăng cũ
Cũng đành đá nát với vàng phai .
…….
Chiều nay đi giữa rừng thay lá
Còn chút keo sơn buổi chuyển mùa
Tóc tơ ai đợi nghìn năm trước
Trăng về quạnh quẽ bến sông xưa

Hãy nghe anh nhìn qua bài thơ tự phát hoạ “Nụ Cười Chiêm Bao:”

Bây giờ tôi lại thương tôi
Bản lai diện mục nụ cười hư hao
Quê xưa chìm khuất nơi nao
Bước chân khổ hạnh lao xao bụi hồng
Tiền thân lạc cõi hư không
Em đi xa dấu ngựa hồng tìm đâu
Bao mùa nước chảy qua cầu
Sao còn đứng đợi đêm thâu mơ màng
Bây giờ tôi lại xa tôi
Biển xưa đã cạn, sông bồi đã xanh
Trăm năm hạt bụi viên thành
Trôi trong vô lượng, mong manh phận người
Bây giờ tôi bỏ luôn tôi
Bỏ xuân xanh, bỏ luân hồi, xưa, sau
Bỏ quê, bỏ xứ, bỏ chùa
“Giày rơm, áo vải”, chào thua cuộc đời
Ừ thôi cũng thế mà thôi
Được thua, hơn thiệt, nụ cười chiêm bao .

Ngay cả trong thơ tình cũng mang âm hưởng từ bi, như bài “Theo Em:”

Theo em dưới bóng Bồ Đề
Yêu em độ lượng vỗ về trong ta
Đông về buốt lạnh lời ca
Mùa xuân chợt đến tôi xa vội người
Hoang vu từ độ Em cười
Đôi tà khép mở áo vui thuở nào
Đường xưa trắng cả chiêm bao
Vang vang guốc mộc, lao xao bụi hồng
Ai ngờ rồi cũng hư không
Chim bay biển bắc, tìm mong biển nào
Dáng xưa giờ đã hư hao
Áo xưa chắc cũng phai màu còn đâu
Bao mùa nước chảy qua cầu
Ta giờ đã thất lạc nhau muôn trùng.

Một dịp anh về lại phố Hội, chốn xưa, một thời trai trẻ yêu thương tràn đầy trong tim, bài thơ “Tôi Về”:

Tôi về phố cũ đìu hiu
Sương pha núi dựng, mây chiều đầu non
Bến xưa khói sóng vẫn còn
Sông Thu chạnh nhớ đò ngang năm nào
Nửa đời chưa hết lao đao
Trăng mùa thu cũ, giờ sao úa màu
Sóng dồn lớp lớp, xưa, sau
Góc sân hoang lạnh, hương cau nhạt nhòa
Biển dâu mấy độ quan hà
Xa Em mùi tóc hiên sau vẫn còn.

Dòng sông “định mệnh” vẫn ám ảnh anh suốt đời. Cũng chính nơi cây đa, bến cũ, con đò xưa đó, khi anh về, đã biển dâu mấy độ, mộng thuở đầu đời đã vỗ cánh bay xa, nhưng dòng sông tâm thức vẫn chảy mãi trong anh không ngừng:

Tôi về thăm bến sông xưa
Còn đâu bến cũ mà đưa tiễn người …
Sông xưa nay lở, mai bồi
Bèo tan Cửa Đại, mây trôi phương nào?…
Biển trùng còn mãi lao xao
Bốn mươi năm lẻ làm sao quên người
Trời ơi chỉ một nụ cười
Theo nhau chỉ để luỵ người núi sông..

Chúng tôi bên ly cà phê ở quán đông bạn bè, hay đùa Phùng Minh Tiến chắc kiếp trước Anh là một thiền sư đạo hạnh, nhưng say mê nét đẹp của một thiện nữ, nên bị đọa, nay sống đời độc thân, làm thơ đầy thiền vị, và cuộc đời “sắc không” trong tình thương của từ bi, bác ái …

Thơ Phùng Minh Tiến làm đẹp cuộc đời!

Quận Cam, California
Minh Tâm Xuân Đỗ

Visits: 42

Chu Lynh và “Mảnh Da Vàng”

Nguyễn Quang Dũng

Bìa “Mảnh Da Vàng”, trải rộng

Ở bài viết này, tôi sẽ là người đọc và viết về  tập sách “Mảnh Da Vàng” của Chu Lynh ở một góc cạnh không giống với một độc giả bình thường vì tôi là một trong những người bạn ở chặng đường cuối cùng với tác giả lo việc trình bày từ trong ra ngoài, kiểm lỗi đánh máy, và  giúp tay cho “đứa con tinh thần” của Chu Lynh đã “thai nghén” hơn 30 chục năm qua được “ra đời”.

Chu Lynh đến với  cơ sở ấn loát của tôi cách đây đã hơn 20 năm với công trình sưu khảo của anh trong một tập sách dầy hơn 400 trang về Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy. Anh là một trong những người rất kính trọng Giáo Sư Huy và tôi cũng vậy. trước 1975, tôi đã là một môn sinh của GS Huy ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Tôi đã sốt sắng giúp tay Chu Lynh trong việc trình  bày và ấn loát tác phẩm sưu khảo của anh.

Và lần này, vào  cuối tháng 2 năm 2022, Chu Lynh  lại gỏ cửa “nhà in” của tôi,  nói với tôi rằng anh muốn in tập sách “Mảnh Da Vàng”. Tập sách Chu Lynh mang theo trong đời sống nổi trôi theo vận nước của anh suốt hơn ba mươi năm.

Tôi và Chu Lynh đều là những người “cầu toàn“ do vậy đã tốn nhiều thì giờ cho việc chuẩn bị cho ra đời Mảnh Da Vàng. Chúng tôi làm việc, thảo luận qua lại với nhau hơn hai tháng trường để trình bày cái bìa sách, đọc và sửa lỗi đánh máy, trình bày các trang trong của tập sách  với nhiều hình ảnh tư liệu do tác giả cung cấp và đồng ý với nhau về kế hoạch và trình tự thời gian hoàn thành.

Nhưng cả hai chúng tôi đều không biết rằng vào tháng 3/2022, tác giả Chu Lynh đã trải qua một biến cố “thập tử nhất sinh” khi đang trên đường cho những cuộc phỏng vấn làm phim tài liệu. Chu Lynh thuật lại:

“Tôi đang qua đêm ở nhà một người bạn trẻ. Buổi sáng, bất ngờ tim tôi đập mạnh, khó thở, tiếng nói ú ớ không thành lời. Người bạn gọi xe cấp cứu vào bệnh viện Fountain Valley. Áp huyết lên 221.

Qua một đêm, bác sĩ cho biết ống dẫn máu vào tim bị vỡ, …” (Mảnh Da Vàng, tr 368)  

Chu Lynh trong phòng ICU Bệnh viện Keck Medical Center of USC, Los Angeles, California. (Ảnh: Mảnh Da Vàng, Trang 369)

May mắn, Chu Lynh vượt qua cuộc giải phẩu tim ở California. Còn sống. Còn thở. Chỉ yếu sức so với trước kia. Và lên máy bay về lại được Virginia.

Do vậy chương trình làm việc với nhà in của tôi dự trù 2 tháng phải được nới dài ra, mãi cho đến tháng 8/2022 thì mới in xong tác phẩm Mảnh Da Vàng

Ở trên, tôi không nói và viết gì về Mảnh Da Vàng có lẽ là vì tôi không muốn là người thêm vào trong số những nhà văn, nhà báo đã viết nhiều lời khen tặng hay  đã trích dẫn những đoạn văn  mang nhiều tâm tình về một thời trôi nỗi thăng trầm trên quê hương Việt Nam của Chu Lynh.

Ở đây, tôi muốn nói với Chu Lynh rằng  anh đã chọn cái tựa sách rất hay và rất đúng với những gì anh chuyên chở trong  400 trang sách của Mảnh Da Vàng.

Những gì Chu Lynh viết xuống, ghi lại khi  trong trại tù cộng sản, hay khi được thả ra ngoài – trong một nhà tù lớn hơn, trong thân phận một người lính bại trận sau 1975 ở quê hương Việt Nam khốn khó, không là những điều gì mới mẻ hay lạ lùng đối với tôi.

Nhưng có một cảm giác kỳ lạ từ những mảnh tâm tình rời rạc, những mảnh ký ức lộn xộn, từ một tập sách với nhiều đoản văn, bài viết, bút ký, xen lẫn với những hình ảnh tư liệu của tác giả: Những mảnh đời sống của Chu Lynh trong Mảnh Da Vàng làm tôi liên tưởng đến những tâm tình vụn vỡ của hàng triệu người Việt miền Nam Việt Nam sau 1975, bỏ nước ra đi, tìm đến một mảnh đất tự do. Trong đó có những người lính thất trận, những người dân với thân phận “ngụy quân, ngụy quyền” …những người không còn đất sống trên chính quê hương mình. Mà tôi cũng ở trong số đó, những người Việt được thế giới gọi là “Boat People”, một phần của đội ngũ những người Việt vong quốc.

Sau những năm dài mở ra hàng triệu mảnh đời sinh tồn của người Việt trên xứ người, dường như đời sống của Chu Lynh, của tôi, hay của nhiều người Việt đồng cảnh ngộ là đời sống của nhịp đôi. Nửa Mỹ, nửa Việt. Hay nửa Úc, nửa Việt. Hay nửa Pháp, nửa Việt…là đời sống của bên này, bên nhà. Dường như có cái gì phân đoạn, ngắt quãng, không liền lạc, trong tâm thức của những người Việt lưu vong.

Đó là những cảm nhận rất thực trong  tôi khi gấp lại tập sách  Mảnh Da Vàng của Chu Lynh: Những mảnh đời vụn vỡ sau 1975. Những tâm tình của bèo dạt hoa trôi. Những mệt mỏi của ngày này, tháng nọ trên con đường tìm lại quê hương đã xa. Những thất vọng khi thấy lũ tà quyền, ác nhân, cho đến nay, vẫn toàn quyền trên xứ sở Việt Nam thân yêu. Những chua xót từ sự mất mát những nhân tài Việt Nam lưu vong như Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy mà không tìm thấy người kế tục.

Nhưng ít nhất Chu Lynh cũng đã “tận nhân lực” khi lao mình vào việc thực hiện những cuốn phim tài liệu của Vietnam Film Club hay VFC, một tổ chức do anh sáng lập cùng với GS Nguyễn Ngọc Bích năm 2010. Chu Lynh “đơn thương, độc mã”, đi xuyên bang nước Mỹ, tới tận trời Âu, vượt ngàn dặm tới Úc và nhiều quốc gia khác trên  thế giới để thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn những nhân chứng lịch sử của tập thể người Việt lưu vong và cho ra mắt hàng chục tập phim tài liệu chưa ai làm được.

Và điều quan trọng là Mảnh Da Vàng (*) đã ghi lại được gần hết những nỗ lực vượt mức của Chu Lynh:

  • Để tồn sinh vượt thoát những nghiệt ngã tàn bạo nhất của cộng sản Việt Nam
  • Để đấu tranh, bằng mọi phương tiện tự lực của chính mình, nói lên tiếng nói của chính nghĩa và nhân bản Việt Nam Cộng Hòa.
  • Và để tiếp tục là Trái Tim Lửa trong tập hợp hàng vạn Trái Tim Lửa của những người Việt Nam lưu vong yêu quê hương, vẫn còn đang trên đường tìm về, với hy vọng tìm thấy lại Quê Hương Việt Nam Tự Do Dấu Yêu.

Nguyễn Quang Dũng

Focus Digital Publishing

Tháng 1/2023

 

(*) Mảnh Da Vàng, 400 trang, Tác giả tự xuất bản, phát hành tháng 9/2022. Liên lạc tác giả: CHULYNH@GMAIL.COM

Visits: 72

Thực Lực Của Người Việt Tỵ Nạn Tại Hải Ngoại

TS LS Lưu Nguyễn Đạt

Từ 1975, hơn bốn triệu người Việt Tỵ Nạn định cư và sinh sống tại hải ngoại, trên khắp thế giới tự do, đều chia sẻ cùng một thân phận khắc nghiệt, trầm bổng, hồi sinh.  Đa số đã mất tất cả — tài sản, nhà cửa, địa vị, danh dự, hạnh phúc, liên hệ gia đình, ân tình làng xóm để bơ vơ nơi đất khách quê người và tại đó cố gắng tạo dựng lại từ đầu một đời sống mới, nhiều thách thức trở ngại, nhiều thương đau, đổ vỡ: chính khách mất chính thể; sĩ tướng mất quân quyền; chủ nhân ông trắng tay, đổi đời; chuyên viên giải nghiệp; trí thức mất thế; gia đình, tập thể, cộng đồng lo âu tái lập truyền thống, lý tưởng, tình người.

Có một điều họ không mất, đó là niềm tin vào thực lực tồn tại của họ, vào lẽ sống trong thế hội nhập của ba khả năng chọn lựa:

  1. Tồn giữ Nhân phẩm, Chia sẻ Giá Trị Việt Tính;
  2. Yêu Chuộng Tự do, Công Lý, Dân Chủ chân chính;
  3. Gắn bó Đại Nghĩa với Chí Nhân.

Các đặc tính và khả năng trên thụ hình ít hay nhiều, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cá biệt, đa dạng, nhưng hiển nhiên đều là những thành tích tiếp nối  tới ngày nay, sau 47 năm phấn đấu.

I. THỰC LỰC TỒN GIỮ NHÂN PHẨM, CHIA SẺ GIÁ TRỊ VIỆT TÍNH

Người Việt Tỵ Nạn bỏ nước ra đi vì họ quyết tâm khước từ thân phận tù đày, vô nhân cách. Họ từng bị “điều kiện hoá”, nhồi sọ; hạ nhục thành loài vật, thành dụng cụ khai thác đoản kỳ; thành kẻ tiêu thụ hạ cấp, lỗi thời, ươn hèn, vô thức.

Họ quyết tâm thoát ly cảnh tù túng, đày đoạ, bất nhân, bất nghĩa trong nước là vì họ còn đủ nghị lực kiên trì bảo trọng giá trị làm người tử tế, tự trọng, biết nhận, biết hưởng và biết cho lại.

Phẩm giá làm người chân chính đó có tính cách bẩm sinh, bất khả tước đoạt, mà con người chỉ từ bỏ khi lìa đời.  Nhân phẩm và lòng tự trọng không cho phép mình hạ thấp, quỵ lụy hơn những gì cần thiết; không cho phép con người sống còn trong nhục nhã, sợ hãi, hèn mọn.  Con giun xéo lắm cũng quằn, huống chi là con người?

Do đó, quyết tâm ra khỏi địa ngục CSVN là vì con người chưa vô cảm, còn biết quằn quại, vùng vẫy, đứng dậy và chạy thoát cảnh nô lệ, thoái hoá và thú hoá vậy.

Ngoài ra, khả năng “vượt thoát” ra khỏi bế tắc, sa lầy và sai lầm cũng như khả năng “vượt thắng” đều chiết tự ngay từ “Việt tính”, mà ông cha chúng ta ra công gắn liền với “siêu việt”, vì “Việt” (越, bính âm: yuè) là một từ gốc Hán-Việt có nghĩa là “vượt qua”.  Hy sinh của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản dám liều lĩnh thách đố cái chết trăm hình vạn trạng để đổi lấy hy vọng sống thực, sống trọn vẹn có đáng gọi là hành động “siêu việt”, vượt bực hay không?

Người Việt còn lại trong nước chưa “vượt ngục” CSVN, không hẳn vì hèn nhát, thiếu can đảm, mà chỉ vì họ chưa hồi hướng đúng mức, đúng độ, hay chưa gặp đúng thời, đúng cuộc. Người dân trong nước sẽ tụ tập đứng lên khởi nghĩa khi vỡ lẽ CSVN chỉ là quân bịp bợm, phá hoại, bất tài, vô luân; khi toàn dân thấy rõ xã hội họ đang sống chỉ là “nhà tù tập thể” không còn tầm vóc và mánh khoé bao vây, kìm hãm, doạ nạt họ được nữa.

II. THỰC LỰC CỦA NGƯỜI VIỆT YÊU CHUỘNG TỰ DO DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH

Bên cạnh một thiểu số nạn nhân bị thời cuộc rày vò điêu đứng, bị phá hủy nhân vị đến kiết sức phân tâm, nên không sao hội nhập toàn vẹn cuộc sống phấn khởi, rộng lượng hài hoà nơi đất khách quê người, thì may mắn hơn, đa số người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản trên thế giới tự do đã biết hoàn chỉnh, cải sinh đời sống và thân phận mình từng bị CSVN ngược đãi, hủy hoại.

Sau 47 năm gắn bó với nếp sống đáng sống, đa số người Việt Tỵ Nạn và nhất là hậu duệ, con cháu họ đều ý thức rõ rệt phạm vi định chế nhân quyền, dân quyền và trách nhiệm công dân là một thoả ước xã hội chính trực, kết sinh đa thể, linh động và hiển nhiên, luôn luôn cần bảo trọng, tu bổ cho thêm vẹn toàn, siêu thoát.

Sức mạnh của người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản chỉ hội đủ khi đa số

  • thực thi dân chủ chân chính, pháp trị, hài hoà, tử tế, nhân đạo;
  • tôn trọng tự do và nhân phẩm của chính mình và tha nhân;
  • ý thức về quyền sở hữu, quyền hành chính trị và trách nhiệm công dân.

Như vậy, người Việt Quốc Gia chúng ta cần thi hành và bảo trọng đúng mức tôn chỉ dân chủ tự do, chứ không thể ỷ lại vào “căn cước” dân chủ tự do vừa được cung cấp để làm ngược lại.  Đó là trường hợp của một thiểu số cá nhân cố vị, bị lây thói võ đoán hàm hồ, thường khôi phục thủ đoạn võ đoán, mánh mung, bằng cách chụp mũ, chửi-rủa, phá phách bất cứ ai không vừa ý họ, thì chắc chắn họ không thể “thắng cuộc”, vì không sao sánh kịp ma phiệt CSVN, vốn nổi tiếng về các thủ đoạn rừng rú, hèn mọn; ném đá giấu tay, phun máu hại người.

Nếu giả thử tất cả người Việt Tỵ Nạn chúng ta tiếp tục long đong, sai quấy, thiệt thòi, thất thế, thất thểu, thì con cái họ và người dân trong nước lấy gì để trông mong, nhờ vả, noi theo?

May thay, người Việt Tỵ Nạn đi trước đã từng vượt thoát và thành công chính trực, thì những đợt tỵ nạn sau này cũng có bề vượt thoát và thành tựu như chúng ta mong muốn.  Đó là trách nhiệm quy tụ, bao bọc bằng nghĩa cử dấn thân gương mẫu, bằng thực hành đối chiếu.

Chúng ta hãy cố hành động đúng nhân cách của người Việt tự do, tự trọng đề thẳng tiến và đem lại hy vọng cho hậu duệ, cho người “tới” sau.  Chúng ta không thể tự hủy bằng cách đi ngược đường hay dùng ngõ tắt thủ lợi sáo mòn, do địch gài bẫy kết dụ, ám hại như theo “nghị quyết 36” chẳng hạn.[1]

III.  ĐẠI NGHĨA & CHÍ NHÂN

Thế lực của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản là khả năng dấn thân theo đại nghĩa, đại cuộc: biết cưu mang lẽ phải, bảo trọng công lý; trợ lực nghĩa sống và phúc lợi nhân loại. Đó là cách ứng dụng “chính nghĩa siêu việt” của Ông Cha chúng ta vào đời sống hiện đại:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”[2]

Nguyên văn “Bình Ngô đại cáo” 

 ĐEM ĐẠI NGHĨA ĐỂ THẮNG HUNG TÀN

Đại Nghĩa là Lẽ Sống Chính Đáng, Toàn Diện; là Trào lực Chỉ đạo lấy phẩm giá con người làm trọng tâm cho mọi sinh hoạt hiện hữu.  Do đó, luật pháp công minh và công lý đạo đức phải căn cứ vào nhân phẩm để định chế hoá và hướng dẫn đời sống toàn vẹn.

Phẩm giá làm người chân chính có tính cách bẩm sinh, bất khả tước đoạt. Nhân phẩm phải được kết tạo bằng nguồn gốc nhân sinh và truyền thống văn hoá của một dân tộc hài hoà, phân minh, hướng thượng; bằng kích thước và vị trí địa-chính của một lãnh thổ; bằng tầm vóc môi sinh và dưỡng khí bao bọc liên hệ.

Nhân phẩm đòi hỏi một hiện tượng tổng hợp, mà bất cứ kết tố nào khiếm khuyết đều làm nhân phẩm chao đảo, thất tung, bất toàn.

Do đó, con người sẽ mất nhân phẩm khi phải sống cảnh nô lệ, đói khát, bệnh hoạn, ngu xuẩn, tù đày, đe doạ, khinh miệt, kỳ thị, bóc lột, lợi dụng, quên lãng.  Như toàn dân Việt đang sống lây lất dưới ách cộng sản Việt Nam, trừ thiểu số đại gia, băng đảng của chúng.

Hiển nhiên công dân mất nhân phẩm khi đất nước họ bị ngoại bang xâm lấn; khi lãnh thổ họ bị tháo ranh, cắt đất; khi lãnh hải, hải đảo, núi rừng, nguồn lợi thiên nhiên bị tài phiệt đại gia tham ô trục lợi, bị ngoại nhân bất chính cưỡng đoạt, phá hủy; khi dân oan thấy mình thất lạc, hắt hủi ngay nơi chôn nhau cắt rốn, ngay nơi thờ phụng tổ tiên.

Công dân cũng bị tước đoạt nhân phẩm khi tiếng mẹ đẻ thuần túy mỗi lúc trở nên pha tạp, hổ lốn, ngọng ngịu, sai lạc, bôi bác, sa đoạ.

Vậy “Đại Nghĩa”, song song với công minh chính đại, đòi hỏi:

  1. người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do phải dứt khoát “Tr Cộng”
  • không chỉ để “chống đỡ, chống cự, phòng thủ, tự vệ” một cách tiêu cực, yếm thế;
  • mà thực sự để vạch rõ làn ranh giữa chính nghĩa nhân bản và ý thức hệ của tội ác;
  • để sáng suốt thu thập tài liệu vạch trần hành động và thủ đoạn của kể hung tàn diệt chủng; bá quyền, bá đạo, vô nhân, thất đức;
  • để xác định lập trường cảnh tỉnh, minh mẫn trong việc chuẩn bị đối phó và ngăn ngừa kẻ trọng tội tái phạm.  Ngăn ngừa đã là thực hiện nửa đường của điều trị.
  1. người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do phải dứt khoát “Thắng Cộng”
  • không bằng thế quân sự, vì lúc này chiến tranh ở ngoài tầm tay “bất bạo động” của người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do; hơn nữa, quân sự chỉ là giải pháp ngoại vi, cục diện, tạm bợ, không thể giải quyết toàn thể quốc nạn, tai ương nhân tạo dưới ách cộng sản;
  • cũng không áp dụng chính sách hung tàn để trả đũa trừng phạt, khai trừ, thủ tiêu con người cộng sản, khi họ chỉ là những thành phần mù quáng, lỗi thời, bất tài, bệnh hoạn;
  • mà thực sự để “khử trùng cộng sản”; để điều trị, tảy trừ tận gốc căn bệnh cộng sản hiểm nghèo, ngu xuẩn, điên cuồng bằng cách [a] nâng cao dân trí, [b] phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người dân, [c] bảo trọng công lý thượng tôn luật pháp, v.v.
  • “Thắng Cộng” vắn tắt là nỗ lực trừ ác tính để trọng sinh, khi dõng dạc, công minh bảo đảm quyền lợi và phẩm giá toàn diện của người dân, tại học đường; trong xã hội mở rộng; tại thương trường; nơi công quyền, pháp quyền, chính quyền; dưới mọi hình thức chọn lựa tín ngưỡng, phát biểu tư tưởng sáng tạo, bảo trọng môi sinh, đời sống căn bản.

 LẤY CHÍ NHÂN ĐỂ THAY CƯỜNG BẠO

Nhưng “Đại Nghĩa” tức lẽ sống chân chính đó phải được thực hiện và bảo trọng một cách ôn hoà, nhân từ, bác ái. Quyền sống phải được thực hiện đúng mức và bảo vệ đúng nghĩa, một cách công bằng, đạo đức, trách nhiệm.

Trong quan niệm “Chí Nhân”, nhân từ là căn bản.  Khi nhân từ được tôn trọng và thực hiện ở mức cao đẹp, thì mẫu mực nhân từ trở thành chí nhân, ở mức độ toàn hảo, cao vượt.  Do đó:

  • người chiến sĩ tự do phải luôn luôn tố cáo, khai trừ mọi vi phạm nhân quyền;[3] đồng thời cổ võ các biện pháp ôn hoà “phục hồi công lý”; ứng dụng pháp lý công bình[4] thay vì công lý trừng phạt, trả thù.[5]
  • người chiến sĩ tự do chủ trương hoàn trả, bồi thường, bù đắp tương xứng mọi thiệt hại trong quá khứ giao tranh; mặt khác chỉ trừng phạt những trọng tội, sai phạm quá đáng như tàn bạo, lạm quyền, tham nhũng bất chính; còn các tội danh khác đều được hưởng miễn trách[6] hay ân xá [7] nếu nghi can chỉ thi hành nhiệm vụ giao phó.  Điều này không có gì khó hiểu, vì trước đây, chính thể Việt Nam Cộng Hoà đã từng áp dụng chính sách “chiêu hồi”.  Dù sao, chính sách “Chí Nhân” không nhằm phục vụ mục tiêu chính trị của “chiêu hồi”, mà thực sự nhằm chấn hưng đạo đức; tái phục nhân phẩm; cải thiện nhân tính công dân.

Với quyết tâm đem đại nghĩa để thắng hung tàn cộng phỉ, lấy chí nhân để thay tận gốc căn bệnh cộng sản, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản và người chiến sĩ tự do đã rõ rệt “vượt cộng” hay vượt thắng CSVN khi dồn sức tạo dựng một nhân sinh quan trong sáng, phồn thịnh, tử tế, khả trọng.

ĐỂ TẠM KẾT:

Thắng lợi là điều hay nếu chúng ta không đánh mất liêm khiết trong lúc thi hành.[8] Vậy, muốn có thế lực đối phó với chính mình, với đối tác và đối thủ, và muốn thực sự “thắng cuộc” một cách chân chính, nhân hậu, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản cần

  • có can đảm đối mặt với sự thật, để bổ túc lẽ phải hay kịp thời sửa sai;
  • sống ngay thẳng, làm điều tốt lành, vì như thế sẽ giúp chúng ta sống một cách chính trực, làm gương mẫu cho hậu duệ và đồng bào trong nước;
  • chủ trương công minhbất bạo động vì cách đó sẽ đưa tới trình độ đạo đức cao nhất, vốn là cứu cánh của mọi tiến hoá;
  • thương xót tất cả những gì thuộc về đời sống, vì đạo đức không khác gì hơn là sự kính cẩn đời sống.[9]

Phẩm chất của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, của người chiến sĩ tự do còn lại sau khi gạt bỏ mọi hư danh, ảo tưởng; mọi mánh mung, thiển cận; mọi mặc cảm tự hủy. Thực lực của họ chỉ đáng kể khi đo lường bằng kinh nghiệm sống chính trực, can đảm; bằng trí tuệ và viễn kiến trong giai đoạn liên kết phục hồi sự vẹn toàn cho đất nước; an sinh, phúc lợi và phẩm giá cho toàn dân, cho tha nhân, cho chính mình.

Trân trọng,

LƯU NGUYỄN ĐẠT, PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University

CHÚ THÍCH

[1] Nghị Quyết số 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm Công tác chính vận “kết dụ” cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

[2] “Bình Ngô đại cáo” (平吳大誥) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
[3] human rights violations
[4] equity justice
[5] penal repression, vengeance & retaliation justice
[6] excuse
[7] amnesty
[8] “Winning is nice if you don’t lose your integrity in the process.” Arnold Horsham
[9] “I can do no other than be reverent before everything that is called life. I can do no other than have compassion for all that is called life. That is the beginning and the foundation of all ethics.” — “Ethics is nothing else than reverence for life.” Albert Schweitzer [1952 Nobel Peace Prize]

Visits: 55

Năm Mão

Phạm Thành Châu

ăm nay là năm Mão, cầm tinh con Mèo. Các báo Xuân làm gì cũng có một bài về mèo. Lịch thì có hình con mèo. Nhà nào cũng có mèo, ai cũng biết rõ về nó, chẳng có gì lạ, nên viết sao cho độc giả mới đọc nửa chừng thì không thèm đọc nữa mới thật là khó. Thông thường, người ta viết nhiều nhất là về những nhân vật (đúng ra là những danh nhân đã chết) có tuổi con mèo, cũng có người viết về những năm Mão trong lịch sử. Cứ lôi bài cũ (báo xuân) từ mười hai năm trước ra xào nấu, thêm chút gia vị vào là thành bài của mình. Hoặc cứ lấy quyển mười Hai Con Giáp ra chép lại. Tôi cũng chẳng hơn gì những vị đó, nhưng có để tâm sưu tập những bài về mèo từ các báo đã đăng, dành dụm những tài liệu, tin tức liên quan đến con mèo, nay kể ra, để bạn đọc giải trí trong mấy ngày xuân. Người ta nói Chữ Mão, tiếng Tàu nghĩa là thỏ, tiếng Việt nghĩa là mèo (?) Tôi không biết chắc nhưng lịch Tàu thì để hình con thỏ vào năm Mão. Người miền Trung và miền Nam gọi mão là mẹo (tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị…) Tiếng Anh gọi mèo là cat, tiếng Pháp là chat, tiếng Đức katze, tiếng Tây Ban Nha gato, tiếng Nhật neko, tiếng Ả Rập kitte… Con mèo có thể kêu khoảng sáu mươi thứ tiếng khác nhau để bày tỏ cảm nghĩ của mình, đặc biệt nó gào thét khi làm tình, nhưng đối thoại với người, nó chỉ kêu meo, meo để xin ăn mà thôi. Cũng có khi nó kêu rù rù nho nhỏ lúc bạn âu yếm nó hoặc lúc nó dụi đầu vào người bạn để chờ được vuốt ve. Có lẽ vì các cô bồ nhí của mấy ông già cũng nũng nịu kiểu đó nên được gọi là mèo. Chính mắt tôi thấy trong TV, một con mèo nói tiếng Mỹ. Bà chủ nói gì, nó nói theo (độ năm ba tiếng thôi). Bác sĩ thú y nói trong thanh quản con mèo đó có dị tật. Hình như chuyện Ba Giai Tú Xuất có kể, Ba Giai đánh cuộc với cô hàng nước rằng con mèo cô ta biết tiếng người. Cô hàng nhận lời, Ba Giai xách tai con mèo lên, bấm móng tay vào tai mèo và hỏi “Của cô hàng tròn hay méo?”, con mèo đau quá kêu lên: “Méo, méo!”. Có vài chuyện vui về mèo. Một ông quá lười biếng nên chết đói. Xuống âm phủ, Diêm Vương phán: “Nhà ngươi lười quá nên ta cho ngươi đầu thai làm con mèo, phải tự mình bắt chuột mà ăn.” Anh ta năn nỉ Diêm Vương: “Xin ngài cho con làm con mèo đen có chấm trắng trên mũi.” Diêm Vương ngạc nhiên “Để làm gì?” “Thưa, ban đêm con nằm trong bóng tối, bọn chuột thấy chắm trắng tưởng hột cơm, mò đến, con bắt ăn thịt, khỏi phải đi đâu cả.” Một con mèo khác rình hoài mà không bắt được chuột, nó giả giọng chuột kêu chít, chít! Bọn chuột tưởng đồng loại, bò ra khỏi hang, bị mèo bắt ăn thịt. Ăn xong mèo gật gù. Biết ngoại ngữ cũng dễ sống hơn bọn không chịu đến trường sinh ngữ để học thêm. Một chuyện vui khác. Cô giáo bảo học trò tả con mèo. Một cậu viết: “Nhà em có một con mèo, nhưng em chưa thấy nó, mẹ em cũng chưa thấy nó. Mẹ em nói -Ba mầy có mèo, nhưng tao chưa bắt được. Trước sau gì tao cũng tìm ra.”Một lần khác, cô giáo bảo tả con khỉ, cũng cậu học trò đó, viết “Nhà em có nuôi một con khỉ. Một buổi sáng chủ nhật, có một cô đến nhà em, ba em chạy ra bảo -Đừng vô nhà, có con khỉ già ngồi trong đó!”
Mèo bự nhất, có thể nặng từ sáu đến mười kí lô, đó là giống Main Coon, lai tạo từ mèo rừng Bắc Mỹ với mèo hoang tiểu bang Maine. Một ông bạn, gặp tôi, khoe rằng sắp lập một xí nghiệp nuôi mèo và chuột. Ông bạn giải thích: Giai đoạn đầu, tôi nuôi một mớ chuột, khi chuột sinh sôi nẩy nở nhiều rồi, tôi nuôi mèo, lấy chuột cho mèo ăn. Khi mèo lớn, sinh con đẻ cháu, tôi giết mèo, lấy da đem thuộc, làm áo ấm, ví, xách tay… cho quí bà, thịt mèo đem nuôi chuột. Vậy là vòng tròn khép kín, chỉ tốn công, khỏi tốn thực phẩm nuôi mèo và chuột. Anh ta nhờ tôi nghiên cứu giùm về con số chính xác, mèo sinh sản ra sao? Tôi tìm đọc về mèo và cho anh ta những số liệu sau: Mèo đẻ hai lứa một năm. Trong năm năm sống sót được hai mươi tám con, với mười lứa đẻ. Mèo mẹ sinh con, con sinh cháu, cháu sinh chắt, chút, chít … sau ba năm có được ba trăm tám mươi hai con, sau bốn năm, hai nghìn hai trăm con, sau năm năm, mười hai nghìn sáu trăm tám chục con… sau mười năm có hơn tám mươi triệu con. Anh bạn tôi sáng mắt lên. Giàu thấy rõ mà chẳng ai biết ! Sau đó tôi không còn gặp anh bạn đó nữa, cũng không nghe về Xí nghiệp mèo chuột của anh ta.

Toàn thế giới có sáu trăm triệu con mèo, riêng nước Mỹ có hơn bảy chục triệu con. Các bà thích nuôi mèo vì nó giúp các bà đỡ buồn chán (depress), coi như người bạn hiền lành. Nuôi mèo ở các nước Âu Mỹ phiền phức lắm, phải có bảng tên đeo vào cổ mèo, phải đi bác sĩ chích ngừa, khám bịnh, phải cho ăn đúng thực phẩm, phải tắm rửa, dọn vệ sinh cho nó (hốt phân), vì nhà luôn đóng cửa, mèo không ra ngoài phóng uế được, không như ở xứ ta, chút xương cá với mấy muỗng cơm là xong. Mèo, chó Âu Mỹ mà cho ăn như thế nó sẽ bị tiêu chảy, rụng lông rồi chết. Mấy ông bà Âu Mỹ thường chụp hình chó, mèo của mình, để rủi chó, mèo có đi lạc thì làm một bảng cáo thị, có đủ tên tuổi con vật với hình ảnh, số điện thoại của chủ rồi đem treo ở các ngã tư trong xóm. Ai tìm thấy thì cho chủ biết, nhận về. Có người nuôi mèo chung với chuột, vì mèo (Âu Mỹ) không ăn thịt chuột, và chó cũng không ruợt cắn mèo bao giờ. Nhưng mèo hoang thì cũng giống như mèo ở xứ ta. Chúng đi hoang vì chủ nó dọn nhà mà không mang chúng theo, chủ nhà mới không cho vô nhà. Mỗi năm ở Mỹ có cả triệu con mèo bị bỏ hoang. Xóm tôi ở, có mấy con mèo hoang, khuya nào chúng cũng đi lùng sục chuột bọ trong các vườn nhà người ta. Chúng thích nhất là trèo cây bắt tổ chim. Ở Âu Mỹ, bắt giết súc vật là phạm pháp, thế nên chim chóc sinh sôi nay nở khắp trong vườn, trong rừng. Vườn nhà tôi có rất nhiều chim đến làm tổ, khi thấy có trứng trong tổ (chúng làm tổ trong các buội cây rất thấp) tôi phải lấy thuốc trừ sâu bọ xịt dưới gốc cây, cành lá chung quang để mèo không đánh hơi được, nhờ vậy lũ chim non được sống sót. Có một bà Mỹ già, tối nào cũng đem thực phẩm mèo ra sau vướn nuôi lũ mèo hoang, có đến mấy chục con tụ tập, giành ăn, meo meo ồn ào, hàng xóm kêu cảnh sát. Không hiểu sao, cảnh sát lại cấm bà ta cho mèo ăn? Ở Âu Mỹ, mấy người già thích sống một mình, không muốn con cháu đến quấy rầy, thế nên có một bà cụ chết, mấy ngày sau, nghe mùi hôi, hàng xóm gọi cảnh sát đến. Mở cửa ra, có đến hàng trăm con mèo đang vây quanh xác chết, kêu gào vì đói. Sở Mục Súc phải đóng cửa, vây bắt từng con. TV chiếu, mèo lớn, mèo nhỏ chạy lung tung, trên lầu, trong bếp, trong kẹt tủ … Thông thường, sở bắt súc vật đi lạc về, nhốt vô chuồng, ai muốn nuôi thì đến xin. Mèo, chó nhiều quá, không ai xin thì phải giết bớt. Ở Việt Nam mà có mấy dịp đó thì các quán nhậu đặc sản phát tài. Một bà cụ Mỹ, có con mèo bịnh chết, bà ta sắm cho nó một quan tài giá năm trăm đô la, lại tốn một mớ tiền mua đất ở nghĩa trang súc vật để xây mộ cho nó. Thỉnh thoảng bà cụ đi thăm mộ, chuyện trò với vong linh con mèo thân yêu. Ở các xứ văn minh, con cái không có cái tình với cha mẹ như người Á Đông. Cha mẹ nuôi con như làm bổn phận, con đến tuổi trưởng thành là rời nhà cha mẹ, đi thẳng, họa hoằn lắm mới gọi điện thoại hỏi thăm. Mà cha mẹ cũng thích sống một mình trong nhà hoặc gửi thân nơi các nhà dưỡng lão, chờ ngày nhắm mắt xuôi tay. Họ không thích con cháu đến làm phiền. Thế nên, con mèo, con chó là bạn thân nhất của người già. Có mấy chuyện (cũ và mới) về mèo, kể ra đây để bạn đọc cho vui. Nursing Home (nhà già) tên là Steere ở Providence, Rhode Island có nuôi một con mèo đen trắng (có hình trên báo) tên là Oscar. Nó rất hiền và ngoan, các cụ thích vuốt ve, âu yếm. Nhưng nó có tật lạ là hễ tối nào nó nhảy lên giường người nào nằm thì làm gì người đó, hôm sau sẽ chết. Có lần, người ta đem bỏ nó lên giường một người hấp hối, nó nhảy xuống chạy qua phòng một người mạnh khỏe mà nằm. Quả nhiên, hôm sau, người hấp hối hồi tỉnh còn người mạnh khỏe kia, tối ngủ rồi ngủ luôn, không dậy nữa (chết). Đảo Peratjio ở Ấn Độ Dương, không có người nhưng lại có hàng nghìn con mèo. Số là năm 1850, có một chiếc tàu biển bị đắm vì đá ngầm, những người sống sót lên được đảo nhưng cũng chết sau đó vì bịnh dịch, chỉ còn vài con mèo, chúng sống nhờ bắt cá ven bờ biển. Đến nay, ghé vào đảo đó, vẫn thấy đầy mèo. Đảo Ishima ở Nhật có quá nhiều chuột, người ta bèn đem mèo các nơi khác đến bắt chuột, ít lâu sau, chuột hết sạch mà mèo thì đông hơn chuột trước đây, mà lại không có gì ăn, chúng vào bếp ăn vụng, ra chợ rình vồ thịt cá, tha chạy đi, người ta đi chợ, chúng cũng nhảy vô giỏ cướp thịt cá. Bài báo không nói cách giải quyết nạn mão mãn ra sao?

Năm 1902, Walter William, một nha sĩ đến Tahiti hành nghề ở thủ đô Papeete, ông ta chữa răng cho quốc vương Pomare giỏi quá nên quốc vương tặng ông ta một hòn đảo, chỉ có dừa chứ không có người. Đến nơi thì thấy toàn chuột. Ông ta quay về thủ đô Papeete treo bảng mua mèo, được hơn hai trăm con, đem qua đảo cho bắt chuột. Chuột không còn, mà dân số mèo lại tăng lên, nhưng mèo không phá hại như chuột, không đục khoét dừa non và mèo cũng biết ra bờ biển rình bắt cá sống qua ngày. Ngày 2 tháng 9 năm 2009, ở tiểu bang Texas, ông Gil Smith lái xe từ thị xã Gilbert đến thành phố Kearny, trên quãng đường một trăm hai mươi cây số. Ông ta không biết có con mèo của mình đang ôm cứng cái bánh xe dự phòng dưới gầm xe. Nếu nó buông chân, ắt bị xe sau cán chết. Khi đến nơi, nghe mèo kêu, ông ta đem nó ra rồi gọi báo chí, truyền hình đến khoe con mèo khôn ngoan. Ngày 26 tháng 8 năm 2010, bà quả phụ Monika Hoppert, sáu mươi tuổi ở Studthgen, nước Đức, kêu thợ đến thay bồn tắm. Ông thợ đặt bồn tắm mà không biết có con mèo dưới đó. Hàng xóm nghe mèo kêu mà không biết từ đâu, qua hỏi, bà Monika Hoppert bèn cho người dở bồn tắm lên. Con mèo nằm trong đó mấy tuần mà không chết. Trước đây, nó nặng gần sáu kí lô, đem ra chỉ còn một kí sáu. Vậy mà nó sống được ! Năm 2008 cô bé Kirstas Hicks ở Adelaide, Úc châu, đi du lịch với gia đình, nhân tiện ghé thăm ông bà ngoại, cô đem con mèo gửi cho ông bà ngoại (ở cách nhà cô một nghìn sáu trăm cây số). Đi nghỉ hè về thì ông bà ngoại báo con mèo đi đâu mất rồi, tìm không ra. Một năm sau, một buổi sáng, mẹ cô bé Kirstas Hicks thấy một con mèo ốm trơ xương, trụi lông, sút móng, khắp mình đầy vết thương lở loét nằm trước cửa. Thấy tội nghiệp, bà ta đem vào nhà cho ăn. Khi cô bé Kirstas Hicks đi học về thấy thì kêu lên -Con Howie của con đây mà! Thì ra con mèo đã vượt một nghìn sáu trăm cây số, băng qua sa mạc, rừng rậm, sông hồ, chiến đấu với thú dữ để sống còn mà về với cô chủ nhỏ. Ở Việt Nam, trước đây, người ta bảo ăn thịt mèo xui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang), về sau, thịt mèo, thịt rắn được xếp vào đặc sản. Thế nên, ở thôn quê, các tay buôn thu mua rồi chuyển hết mèo với rắn lên thành thị để cung cấp cho các quán nhậu. Không có mèo và rắn bắt chuột nên chuột sinh sôi, nẩy nở đầy đồng, phá hại mùa màng, cũng may, sau đó, lại dấy lên phong trào nhậu chuột đồng, người ta lại đổ xô đi bắt chuột để cung phụng cho mấy ông thần ve chai. Thế là cân bằng sinh thái !

Bây giờ kể chuyện đời xưa về con mèo. Đó là chuyện Linh Miêu Hoán Chúa đời Tống bên Tàu. Chuyện hơi dài dòng, xin kiên nhẫn và cũng xin hiểu rằng. Chuyện đã được tiểu thuyết hóa thành dã sử (Vạn Huê Lầu?) thành tuồng hát, với tình tiết gay cấn, lâm ly và bao giờ kết thúc cũng có hậu. Vị nào trên sáu mươi tuổi ắt đã từng xem sách hoặc xem hát bộ (Bao Công Tra Án Quách Hòe) xem cải lương (Linh Miêu Hoán Chúa) ắt còn nhớ.

Chuyện xảy ra thời Ngũ Đại Tàn Đường, khoảng thế kỷ thứ 10. Lúc bấy giờ, bên Tàu, giặc giả khắp nơi, mỗi người hùng cứ một phương. Có Quách Ngạn Oai, là nguyên soái Phàn Châu, tự xưng làm vua, lập nên nhà Hậu Châu. Ngạn Oai chết, Sài Vinh, xuất thân bán dù, là cháu vợ Ngạn Oai, nối ngôi, hiệu là Châu Thái Tôn. Bấy giờ Triệu Khuôn Dẫn, em kết nghĩa với Sài Vinh, làm chức Kiểm Điểm Sứ, nắm binh quyền. Châu Thái Tôn (Sài Vinh) chết, con là Tông Huấn, mới bảy tuổi lên nối ngôi. Nhân giặc Khiết Đơn quấy phá biên cương, Khuôn Dẫn đem quân tiểu trừ. Khi kéo binh đến Trần Kiều thì các tướng bàn nhau tôn Khuân Dẫn làm vua, truất phế Tông Tuấn. Khuôn Dẫn lập nên nhà Tống. Sử Tàu gọi vụ đảo chánh nầy là Binh Biến Trần Kiều, năm 960. Nhà Tống truyền ngôi mấy đời, đến đời Tống Chơn Tông thì xảy ra vụ án Linh Miêu Hoán Chúa.

Chuyện như thế nầy. Tống Chơn Tông có hoàng hậu họ Lưu, không có con, vua lại yêu thương một quí phi tên là Lý Thần Phi. Khi Tống Chơn Tông xuất chinh đi đánh Khiết Đơn thì Lý Thần Phi có bầu và sinh con trai. Lưu hoàng hậu đến thăm Lý Thần Phi, thấy Lý Thần Phi đang hôn mê, bèn sai thái giám Quách Hòe đem một con mèo thay vào và đưa đứa bé cho cung nữ Thể Vân đem giết đi. Thể Vân đem đứa bé giao cho thái giám Trần Lâm rồi nhảy xuống hồ tự tử. Trần Lâm trao đứa bé cho Lộ Huê Vương là anh em chú bác với Tống Chơn Tông. Lấy lý do Lý Thần Phi sinh quái thai, Lưu hoàng hậu bắt nhốt Lý Thần Phi vào Bích Vân Cung (Tống Chơn Tông đi đánh giặc chưa về), sau đó sai thái giám Quách Hòe đốt Bích Vân Cung, cố ý giết Lý Thần Phi. Âm mưu bị cung nữ Khấu Thừa Ngự biết, bèn báo cho Lý Thần Phi trốn thoát, còn mình giả làm Lý Thần Phi chịu chết cháy. Như vậy, coi như Tống Chơn Tông không có con nối dõi. Khi Tống Chơn Tông chết, triều đình đề nghị cho con Lộ Huê Vương lên nối ngôi, đó là Triệu (?) Trinh (con Lý Thần Phi nhưng không ai biết). Triệu Trinh làm vua tức Tống Nhân Tông. Thời Tống Nhân Tông được xem là cực thịnh của vương triều nhà Tống. Tống Nhân Tông có nhiều nhân tài như Vương An Thạch, Âu Dương Tu, Phạm Trọng Yếm… (Nhân vật tể tướng Vương An Thạch nầy đã làm một việc có liên quan đến Việt Nam thời bấy giờ. Vương An Thạch chủ trương đánh chiếm Việt Nam nên cho dự trữ lương thực, khí giới ở các tỉnh sát biên giới với Việt Nam. Ung Châu là nơi tập trung quân đánh đường bộ vào Việt Nam, Khâm Châu, Liêm Châu là cánh quân đường thủy. Biết được âm mưu của kẻ thù, vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đánh vào các nơi đó, tịch thu và phá hủy tất cả lương thực, khí giới, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng vạn quân địch. Tướng Tàu là Trương Thủ Tiết và Tô Giám bị chém đầu). Đứng đầu bên văn có đại thần Bao Công, bên võ có Tống Địch Thanh. Bao Công tên là Bao Chửng, đậu tiến sĩ đời Tống Thái Tông, làm quan đến chức phủ doãn (đô trưởng) phủ Khai Phong, là kinh đô nhà Tống. Bao Công nổi tiếng là người xét án giỏi và công minh. Đọc truyện Tàu “Thất Hiệp Ngũ Nghĩa kể chuyện về bao Công rất hấp dẫn. Một lần đi phát chẩn cho nạn nhân bão lụt sông Hoàng Hà, đến phủ Đại Danh, Bao Công bị gió thổi bay mất mũ, bèn nghi ngờ có điều gì oan khuất trong thiên hạ đây, nên cho dừng quân, viết trát, sai hai thuộc tướng là Trương Long, Triệu Hổ đi bắt Lạc Mạo Phong (gió thổi bay mũ). Hai tướng lên đường mà không biết đi đâu để bắt Lạc Mạo Phong. Gió lại nổi lên, thổi bay cái trát vào thúng cải của Quách Hải Thọ, là tên bán cải kiếm tiền nuôi mẹ bị mù. Thế là hai tướng bắt Quách Hải Thọ về nộp cho Bao Công. Bao Công thấy bắt người vô tội mới đền tiền và thả về. Quách Hải Thọ mang tiền về lò gạch, là nơi cư ngụ, khoe với mẹ. Người mẹ mù đó chính là Lý Thần Phi và Quách Hải Thọ là con nuôi của bà ta. Nghe rõ sự tình, Lý Thần Phi sai Hải Thọ đến gặp Bao Công và bảo Mẹ tôi truyền ngài đến cho mẹ tôi dạy việc. Bao Công sinh nghi, bèn đích thân đến lò gạch, là nơi cư ngụ của Lý Thần Phi. Bao Công phải chui vào lò gạch còn bị bà già mù dõng dạc. Nếu phải Bao Long Đồ sao chưa quì xuống mà ra mắt ta? Bao Công không biết đó là Lý Thần Phi, nhưng là quan xử án nên phải chịu nhục để tìm cho ra oan khuất của người dân. Bà già mù (Lý Thần Phi) tra hỏi Bao Công đủ điều. Sau khi biết chắc đó là Bao Công, bà ta mới kể lại mọi chuyện. Xác nhận được bà già mù là Lý Thần Phi, Bao Công về triều tâu lại với Tống Nhân Tông (là con của bà Lý Thần Phi, được thái giám Trần Lâm giao cho Lộ Huê Vương làm con nuôi, sau được tôn làm vua). Tống Nhân Tông cho bắt Quách Hòe, tra khảo. Đánh đập đến gần chết, Quách Hòe cũng không chịu khai vì sợ liên lụy đến Lưu thái hậu (trước là Lưu hoàng hậu, chủ mưu). Quách Hòe nói -Có đánh tao chết thì xuống âm phủ, họa may tao mới khai với Diêm Vương. Bao Công bèn thiết trí một nơi âm u, lạnh lẽo, giả làm âm phủ, có diêm vương, có ngưu đầu mã diện, có hồn ma kêu khóc… rồi đánh cho Quách Hòe bất tỉnh và đem đến nơi âm cảnh giả đó. Quách Hòe tỉnh dậy, tưởng mình chết thật, mới khai ra mọi chuyện. Cuối cùng, kẻ ác đền tội, Lý Thần Phi được trời cho sáng mắt, đoàn tụ với con (là vua Tống Nhân Tông), Quách Hải Thọ được phong làm quan nhưng chỉ xin lãnh lương, nằm nhà chứ không chịu đi nhận việc.

Chuyện con mèo của năm Mão đến đây là hết.

Phạm Thành Châu

(chaupham3276@gmail.com)

Visits: 32

Tiếng Anh Ở Mỹ

Truyện vui Phạm Thành Châu

Người đời thường “Tốt khoe, xấu che”, hắn thì xin kể mấy cái dốt của mình để bạn, đọc giải trí. Một thứ dốt tầm thường chứ chẳng văn chương, triết lý gì đáng để hắn làm bộ “Khiêm nhưòng cũng là cách tự cao”. Đó là dốt tiếng Anh của hắn.

Trước khi nói về tiếng Anh ở Mỹ, xin có mấy dòng về tiếng Anh của hắn khi còn ở Việt Nam. Nói đúng ra, cái dốt tiếng Anh của hắn kéo dài từ Việt Nam qua đến Mỹ, cho đến cả chục năm sau, dốt vẫn hoàn dốt! Chuyện nầy vắn tắt thôi, sau đó là những chuyện vui để bạn đọc giết thì giờ.

Sau khi tốt nghiệp trung học, khoảng thập niên 1960, hắn vào Sài Gòn để theo nghiệp đèn sách. Việc đầu tiên của một cậu học trò du học (nội địa) là phải tìm việc làm để sống. Lúc đó, đài phát thanh ra thông cáo. Nha Viễn Thông Bộ Nội Vụ VNCH. tuyển chuyên viên sửa chữa máy viễn thông, sẽ được huấn luyện trong 9 tháng sau đó được học thêm tiếng Anh (6 tháng nữa) để qua Mỹ học về máy truyền tin mới, sẽ viện trợ cho Việt Nam. Các bài học tiếng Anh chuyên môn, nếu dịch ra tiếng Việt cũng ít người biết rõ, như “biến điệu biên độ, biến điệu tần số, chùm tia, cộng hưởng, cảm ứng điện từ…” Sau hai khóa học tiếng Anh về chuyên môn, (trong lúc chờ đợi du học Mỹ), hắn được điều về khu Viễn Thông Biên Hòa để sửa chữa máy viễn thông của các tỉnh thuộc vùng 3 Chiến Thuật VNCH (Biên Hòa, Phước Long, Long Khánh, Bình Long, Hậu Nghĩa…)             Khu Viễn Thông Biên Hòa, là một tòa nhà hai tầng nằm trong thành phố Biên Hòa, gần bờ sông Đồng Nai. Trên lầu là chỗ để máy Teletype và chỗ là việc của một cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng từ Sài gòn lên một buổi rồi đi. Tuy trong khu viễn thông có nhiều chuyên viên nhưng họ là thợ sửa radio ngoài đời tuyển vô, nên chỉ mình hắn biết chút ít về tiếng Anh (về viễn thông) nên hắn thường cùng với các chuyên viên Philippines đi thiết trí trụ antenna, sửa chữa các máy viễn thông trong vùng 3 chiến thuật. Hắn còn phải  làm thông dịch cho mấy cậu Philippines nầy với chính quyền địa phương. Những tưởng với chút vốn tiếng Anh đó, khi qua Mỹ hắn sẽ được dễ dàng phần nào trong giao tiếp với người bản xứ. Không ngờ mấy cậu Philippines nầy nói tiếng Anh theo giọng Spanish, như mấy cậu Mễ ở Mỹ, cứ nhấn mạnh tiếng nào có chữ “r” “năm bờ rờ, pho rờ” (number four) còn thêm tiếng Tagalog (tiếng mẹ đẻ của người Philippine), làm hắn muốn điên cái đầu.

Có một chuyện vui về anh chàng cố vấn Mỹ của nha Viễn Thông, Bộ Nội Vụ. Anh ta thỉnh thoảng từ Sài Gòn lên khu Viễn Thông Biên Hòa, làm việc trên lầu Nhân viên thường lên đó làm việc, đôi khi bình luận vui về anh chàng cố vấn Mỹ nầy, anh ta tỉnh bơ như người điếc nặng. Vậy mà, một buổi chiều thứ sáu, hắn xin quá giang xe anh ta về Sài Gòn. Trên xa lộ, trời mưa mà anh ta lái chạy ào ào. Lúc đó, có một chiếc xe đò Traction đen cứ chàng ràng trước xe khiến anh ta bực mình. Lúc qua mặt, anh ta thò đầu ra chửi thề ông tài xế “ĐM. mầy! Mầy chạy kiểu gì vậy?”. Hắn về nha Viễn Thông kể lại, ai cũng cười bảo “CIA thứ dữ đó! Nghe tiếng Việt tài lắm! Phiden Castro treo giá cái đầu anh ta một triệu Mỹ kim” (nước Cu Ba nghèo, thời giá đó là rất lớn).

Sau hơn hai năm làm việc với toán chuyên viên Philippines, thì có tin, việc đi Mỹ du học bị bãi bỏ. Cả bọn tan hàng, đứa thì vô Hải quân, Không quân, Võ bị Đa Lạt… Hắn thi vào trường Hành Chánh, hành nghề cạo giấy (công chức).

Bây giờ kể qua chuyện miền Nam bị Bắc thuộc năm 1975, hắn đi tù khổ sai hơn sáu năm. Khoảng thập niên 1990, hắn cùng gia đình qua Mỹ theo chương trình HO.

Trong lúc được trợ cấp xã hội, hắn đi kiếm việc làm. Một người bạn (Vũ bá Hoan) giới thiệu hắn đến một văn phòng, gặp người phỏng vấn. Sau vài câu hỏi vớ vẩn về gia đình, tuổi tác… bà người Mỹ hỏi hắn “Có xe đi làm không?” Hắn trả lời “Có!” Rồi bà hỏi tiếp “How about your “mêphs?” Bà ta nói nhanh nên hắn nghĩ đó là chữ “map” (bản đồ. Lái xe thì phải biết đường đi, phải có bản đồ) Nên hắn trả lời “Rất tiếc. Tôi không biết gì về map (bản đồ)!” Bà ta lắc đầu. Hóa ra đó là chữ Maths. (Mathematics, toán) Như thế hắn đã trả lời là không biết gì về toán học! Nếu viết lên giấy thì mọi chuyện sẽ dễ dàng, nhưng họ cần người nghe và trả lời trong công việc. Một lần khác, đến xin việc ở một cây xăng, hắn gặp may. Ông chủ cây xăng hỏi linh tinh vài chuyện. Nghe hắn mới đến Mỹ, ông ta bỏ ra một nắm bạc cắc (coins) gồm quarters, dimes, nickels,  pennies… và bảo “Sắp lại thành mỗi đô la riêng xem sao?” Hắn loay hoay một lúc thì làm được. Từ đó, hắn làm nghề bán xăng (cashier) cho đến khi về hưu.

Ở Mỹ lúc nào cũng có các lớp tiếng Anh ESL (English as a Second Language), học buổi tối, hoàn toàn miễn phí, có bà không chịu học, đi đâu dẫn con theo, nhờ nó thông dịch. Cũng có ông không cho vợ đi học tiếng Anh, đó là những ông già về Việt Nam cưới vợ trẻ, đem qua Mỹ, nhốt trong nhà, sợ sổng ra, nó theo trai! (mà nó theo trai thiệt!). Hắn có ông bạn (P.Đ.Th.), khi còn ở Việt Nam, chuyên dịch những sách tiếng Anh cao cấp như khoa học, kỹ thuật, âm nhạc, kiến trúc… Anh ta còn ra sách “Tiếng Anh Đàm Thoại”, bán đắc như tôm tươi, vậy mà khi qua Mỹ, đi xin việc, anh ta thú nhận với hắn rằng “Con Mỹ phỏng vấn chỉ mới hỏi một câu đầu tiên là tao té ngửa, bò càng. Tao không hiểu gì cả!”. Một ông, lớn tuổi, kể. Ông ta đến trường cộng đồng ghi tên học tiếng Mỹ. Để xếp lớp, học viên phải viết một bài ngắn bằng tiếng Anh, rồi nghe (A, B, C quẹt) cũng bằng tiếng Anh để xem trình độ. Sau đó, mọi người đều có giấy gọi đi học, riêng anh ta thì không. Bèn đến trường hỏi. Nhà trường giải thích rằng. Bài viết bằng tiếng Anh của anh ta quá hay nhưng khi nghe máy thì chẳng trả lời được gì cả. Trường không biết phải xếp anh ta vào lớp học nào? Nghe nói, ông Nguyễn Hiến Lê, nổi tiếng dịch sách Anh, Tây, Tàu. Có một tác giả Mỹ, đến thăm, phải bút đàm, vì nghe không hiểu, nói không được. Một ông khác người gốc Hungary, đã tốt nghiệp đại học về tâm lý và hành nghề trong nước (Hung) rồi. Giữa năm 1970, gia đình được sang Mỹ sống đời tị nạn, ông lấy lại bằng cao học tâm lý và may mắn tìm ngay được việc làm nhưng năm nào người ta cũng buộc ông ta phải theo học mãi mấy lớp (nghe, đọc, nói tiếng Mỹ) nầy từ năm, sáu năm nay rồi, với lý do là ông vẫn nói “sượng” tiếng Mỹ nên bệnh nhân đa số không chịu thổ lộ tâm sự của họ. Trên TV, đôi khi người Ấn Độ nói tiếng Anh phải có phụ đề tiếng Anh, người Mỹ mới hiểu.

Hóa ra, đọc và viết ngoại ngữ là một việc, nghe và nói lại là một việc khác. Nếu (ở quê nhà) học tiếng Anh theo như sách vở mà không đàm thoại, sẽ lâm vào tình trạng sau đây. Khi người đối diện hỏi một câu tiếng Anh. Câu đó sẽ hiện ra trong trí của người nghe, tự giải nghĩa, khi hiểu rồi mới xuất hiện câu trả lời để (đọc) cho người kia biết! Đó là thất bại của người không có dịp thực hành.

Những đứa trẻ Việt Nam, lớn lên ở Mỹ, tiếp xúc thường xuyên với bạn bè người bản xứ ở lớp học, ngoài xã hội, chúng nói y chang dân Mỹ. Chúng nói nhanh, đôi khi cha mẹ không hiểu! Người Mỹ đen, ở Mỹ đã mấy đời, nói tiếng Anh, giọng vẫn khác Mỹ trắng! Nghe radio, giọng Mỹ đen biết liền.

Hắn không có khiếu về nghe và nói. Ngay trong tiếng Việt, hắn viết được chút đỉnh, nhưng khi nói (tiếng Việt) lại không thành câu, ngọng nghịu như người mất lưỡi! Thời trước, có giáo sư Phan Thiện Giới, cũng bị “bịnh” ấy. khi giảng bài thì cứ lắp bắp, nhưng có đọc các bài viết của giáo sư mới biết ông ta rất giỏi. (Hắn không có ý so sánh mình với giáo sư Phan Thiện Giới)

Xin kể vài cái dốt của hắn trong tiếng Anh cho bạn nghe chơi. Một lần, (là cashier) hắn gọi cho một khách hàng, báo tin “Your credit card is expired” Bà khách “What?” liền. Rõ ràng, giấy tờ nào cũng ghi Expired là hết hạn. Hóa ra, chữ đó để chỉ cái chết. Phải dùng expiration date. Một lần khác, hắn gọi đến trường xin phép cho thằng con nghỉ bịnh. Hắn nói “My son is sick” Cô ta “Happy birthday…” Chúc mừng sinh nhật con mầy (six years old)” Đúng ra phải nói get sick (bịnh). Nhiều ông lớn tuổi, thời trẻ, có học Pháp văn. Qua Mỹ, biết được nhiều chữ hơi giống tiếng Pháp rồi đọc thành tiếng Pháp! Kinh nghiệm, trong giao tiếp có câu chào “How are you?” (Ông (bà) mạnh khỏe không?). Một bà Việt Nam, đi làm, người ta hỏi vậy, bà ta bảo rằng có đau đầu hoặc mất ngủ gì đó. Ít lâu sau người ta cho nghỉ việc (bịnh hoài!). Thực ra đó là câu xã giao thôi. Mình có sắp chết cũng chỉ nên trả lời “I am fine. Thank you!”.                                                                          Sau đây là vài chuyện vui về tiếng Anh.

Ở Mỹ, nhiều người (Mỹ) có con được nhà trường gửi về nhà giấy khen học giỏi. Cha mẹ thường dán cản sau xe mình sticker câu “My son is honor student at X. school” Có người (có lẽ con không học giỏi), dán sau xe mình câu “Your son is an honor student, but my son can beat the shit out of your son” (Con ông học giỏi, nhưng con tôi có thể đánh con ông vãi cứt) hoặc “Your kid may be an honor student, but you are still an idiot” (Con ông có thể là học sinh danh dự nhưng ông vẫn là thằng ngu xuẩn). Có người dán ở cản xe câu “My Westie is smarter than your honor student” (Westie, (là tên con mèo, con chó gì đó), thông minh hơn đứa học giỏi của mầy).

Ở Tiệp Khắc, trước một văn phòng du lịch có câu “Take one of our horse driven city tours. We guarantee no miscarriages” (Ý nói, mời khách du lịch thành phố bằng xe ngựa, không bao giờ lỡ xe. Nhưng chữ “miscarriage” là sẩy thai. Chữ lỡ xe là “miss the carriage”). Một khách sạn ở Bắc Kinh có câu tiếng Anh “The manager passed the water” (Quản lý đã đái…) Ý muốn nói “Quản lý xác nhận là nước (sạch) đạt tiêu chuẩn”.

Bây giờ qua chuyện bên Tàu. Người Việt mình nhờ dùng chữ La tinh nên các danh từ riêng (tên người, địa danh…) của Âu Mỹ có thể phiên âm dễ dàng hoặc để nguyên ta vẫn đọc được. Nhưng người Tàu phiên dịch tiếng Anh theo chữ Hán, kiểu Montesquieu, mình đọc theo chữ Nho (Hán-Việt) thành “Mạnh Đức Tư Cưu”, Washington thành “Hoa Thịnh Đốn” rất khó hiểu!

Sau đây mời bạn đọc một bản tin chữ Tàu được chuyển qua  tiếng Việt bằng tiếng Phổ thông. Để bạn thấy được cái rắc rối là tại sao một danh từ riêng của tiếng Tây, tiếng Mỹ lại biến dạng thành tiếng Việt mà khi đọc lên người Âu, Mỹ cũng mù tịt? Và người Việt cứ theo tiếng Tàu mà đọc, qua lối chữ Nôm (?), cũng không biết tên thật Mạnh Đức Tư Cưu hay Hoa Thịnh Đốn gốc tiếng Tây, tiếng Mỹ là gì?

Ví dụ tiếng Mạnh Đức Tư Cư u? Đâu ra?

Nó đây! Montesquieu  孟德斯鳩 Mengdesijiu.                       

Còn Hoa Thịnh Đốn? Có ngay! Washington  華盛頓 Huashengdun.                                 

          Sau đây là một bản tin của chú Ba (tàu), không ghi ngày tháng nào, được chúng tôi sưu tầm, đối chiếu để bạn đọc “Điên Cái Đầu” chơi! (Cám ơn “ông đồ trẻ” Nguyễn Thụy Đan đã giúp đỡ)

Thượng nghị sĩ Ước Hàn Khắc Lý (John Kerry) 約翰克里 Yuehan Keli của tiểu bang Mã Tát Chư Tắc (Massachussetts) 麻薩諸塞 Masazhusei  có thể ra tranh cử tổng thống vào năm 2008. Ông bắt đầu vận động từ tỉnh nhà là Ba Thổ Đốn (Boston) 波士頓 Poshidun. Ông Ước Hàn Khắc Lý học tại đại học Da Lỗ (Yale) 耶魯 Yelu.

Tổng thống Kiều Thị Bố Thập (George Bush), 喬治布什 Qiaozhi Bushi có vợ là Lao Lạp Bố Thập (Laura Bush), 勞拉布什 Laola Bushi, cũng học ở Da Lỗ, và học cao học ở đại học Cáp Phật (Harvard). Ông Bố Thập (Bush) ở tiểu bang Đắc Khắc Tát Tư (Texas), lên làm tổng thống năm 2.000, sau khi ông Khắc Lâm Đốn (Clinton), 克林頓 Kelindun rời chính trường. Ông Bố Thập mất nhiều đồng minh trong cuộc chiến tại Y Lạp Khắc (Iraq) 伊拉克 Yilake.

Thủ tướng Anh, Bố Lai Nhĩ (Blair) 布萊爾 Bulaier, Khắc-lâm-đốn 克林頓 Kelindun cũng không tán thành lập trường của ông Bố Thập, nhất là sau vụ tấn công Phí Lư Kiệt (Falluja) 費盧傑 Feilujie

Tình cờ tôi tìm thấy trên Internet một bản văn của một bác sĩ Việt viết tiếng Việt, hướng dẫn điều trị cho đồng hương, vì sợ họ không rành tiếng Mỹ. Đáng lẽ, chỉ nhờ người nào đó dịch ra tiếng Việt từ tiếng Anh là xong, nhưng anh ta, vì tự tin ở trình độ tiếng Việt (level: Cái book nó té!) của mình, đã tra tự điển và cứ thế mà điền vào.

Mời bạn thử làm thầy bói, đoán xem vị bác sĩ muốn nói gì?

 

Phạm Thành Châu

 

Visits: 18

Một Ngày Sinh Hoạt với Ủy Ban Bầu Cử Cộng Đồng Vùng Hoa Thịnh Đốn

Trần Thị Tụ

Từ sáng sớm, trời đã mưa mau hột.

Bàn của UBBC đã được chuyển trước cánh cửa cổng phụ của Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo từ lúc 7 giờ sáng. 8 giờ 30 phút, tôi và anh Phạm Thành Châu chuyển từ xe, những vật liệu lỉnh kỉnh của trạm phiếu: thùng phiếu, phiếu bầu, sổ ghi danh, bút, tờ truyền đơn giới thiệu những liên danh ứng cử… có bị ướt, nhưng không sao… tuy rằng khi Trưởng trạm Dương Hòa Hiệp dán banner trên tường thì thật là vất vả, do bị ướt nên keo không dính được vào banner. Cuối cùng cũng hoàn tất. Cả ba chờ sau khi tan lễ, cử tri sẽ ghé qua bầu…

Ơ kìa, sao giáo dân với ô, dù lại đi thẳng ra xe! Tôi bạo gan đón ngay cửa, chỗ đoàn người đang túa ra.

– Mời ông, mời bà ghé trạm phiếu để bầu cử Cộng Đồng ạ! Mời, dạ mời…

Vài người lắc đầu. Vài người như không nghe. Trưởng trạm gọi:

– Chị Tụ, thôi!

Tôi quay về bàn phiếu với sổ ghi danh đã để sẵn, cả bút viết. Một bà độ trên dưới 40, ghé vào bàn.

– Bầu gì vậy chị?

– Dạ bầu đại biểu Cộng Đồng.

– Không phải bầu Chủ Tịch Cộng Đồng hả chị?

– Dạ không ạ!

– Rồi biết bầu cho ai đây?

– Quảng đại thì bầu cả 7 LD, chọn lọc thì bầu LD nào xem đẹp mắt!! Hi, hi! Tôi cười cười.

– Ồ sao toàn là phụ nữ không thôi vậy? Một bà khác hỏi.

Anh trưởng trạm lên tiếng: LD4 có 2 đàn ông nè!

Lại giọng một nữ cử tri:

– Không nghe trạm phiếu chỉ dẫn đâu, toàn là gò cho đội nhà thôi!

-!!!

Buổi rước lễ khác lại bắt đầu. Có khoảng 15 cử tri đã bầu phiếu.

Ba người chúng tôi được tiếp tế lương thực từ ông Trưởng Ban Bầu Cử Nguyễn Quang Dũng. Mỗi người một ổ bánh mì thịt và 1 chai nước lọc.

Tan lễ, lại một loạt cử tri đến bầu. Đa số là đứng tuổi. Trú sở của họ ở nhiều nơi khác nhau: Arlington, Falls Church, Springfield, Fairfax, cả McLean nữa. Lần tan lễ này, tôi kéo được bà bạn, tóc bạc trắng. Bà Mai, vợ của một Võ Bị Đà Lạt, anh Tiến. Mai nhìn vào sổ ghi danh và trách:

– Lễ ở Giáo Xứ đông vầy mà chỉ có mươi mạng đi bầu thôi à?

– Tại vì vận động bầu cử dở ẹt, phải không Bà? Tôi hỏi lại Mai.

May thay, có một ông hơi tròn người mặc áo polo ngắn tay, giọng oang oang:

– Lại đây bầu đi quý vị. Nhiều người đẹp lắm. Có bảy liên danh, thêm tôi là liên danh tám. 21 vị này nặng lòng với Cộng Đồng lắm đây. Đắc cử, làm được việc, không biết có được khen không, chứ làm không được việc thì bị chưởi, bị xài xể dữ à! Dầu gì họ cũng can đảm và xứng đáng để được cử làm đại biểu cho đồng hương mình.

Giọng ông nói to và động tới trái tim VN của cử tri. Một số đông chờ ghi danh.

Ngẩng lên sau mải miết ghi danh, tôi chợt thấy chị Vũ Bá Hoan, nàng dâu trẻ nhất của Hành Chánh.

– Lâu quá không gặp. Cho xin Photo ID. Và phiếu bầu đây! Chị Hoan cười, trông chị trẻ đẹp hơn xưa!

Thình lình, anh Hiệp, đồng hương Quảng Trị, với áo chemise có thắt cà vạt, tiến đến trước mặt tôi:

– Anh chị làm việc dữ hè. Tôi đi bầu ủng hộ tinh thần dấn thân của anh chị. Tìm đâu ra 7 liên danh ứng cử vừa đúng với quy định vậy? Giỏi lắm. Mọi chuyện đã đổi thay so với thời trước Covid-19 đấy! Được thế này là may rồi. Còn Washington DC không tìm ra được liên danh nào sao?

Tôi cười, không nói, thầm nghĩ rằng: Sao anh chạm đúng chỗ UBBC gặp khó khăn vì thời gian gấp rút mà lại không có Văn Phòng Thường Trực giải quyết, đành làm cho kịp để có Tân Hội Đồng Đại Diện rồi nhờ thẩm quyền của Tân Hội Đồng Đại Diện giải đáp cho.

Như đọc được suy nghĩ của tôi, anh vừa bỏ phiếu vừa cười nói:

– Làm với thiện tâm, Chúa sẽ trả công bội hậu cho.

– Cảm ơn anh.

Số người đi bầu trên 30 người. Tới giờ rước lễ lại vắng hoe. Một giờ trưa, chúng tôi thu xếp ra về. Bỗng trong số người tan lễ có một cô bé, mặc áo dài trắng, chạy theo tôi, gọi với:

– Cô ơi, cô nhớ con không?

– Dạ, không.

– Con là Nguyễn Thanh Tâm, bạn của Thứ (tên con gái tôi) đây Cô.

– Ồ nhớ rồi.

– Con bầu phiếu còn được không Cô?

– Được, được chứ, được chứ!

– Cô cho con bầu cho Liên Danh có cô Nguyễn Bích Duyên Day.

Không hiểu sao tôi nhanh nhẩu thế? Phá vỡ nguyên tắc nhanh thế! Tại vì Bé là người trẻ duy nhất trong buổi bầu phiếu mà tôi tham gia sinh hoạt với UBBC hôm nay, 11 tháng 9 năm 2022. Bé đã cho tôi một niềm tin, một hy vọng, một sức mạnh để sinh hoạt và yêu thương Cộng Đồng.

Tất cả các cử tri của phòng phiếu Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo mà tôi được phục vụ hôm nay, dù ít ỏi, đều là các CỬ TRI VÀNG đối với tôi, với các ứng cử viên, và với tổ chức Cộng Đồng.

Chúng tôi, vẫn ba người như trên, lại phụ trách một địa điểm đầu phiếu khác: Nhà già Woodland Hill Apartments, ở Carlin Spring, Arlington.

Ở đây nhờ sự giúp đỡ của Bà Trần thị Na, người đại diện cho các cụ già Việt Nam trú ngụ tại đây. Bàn đầu phiếu có sẵn trong phòng sinh hoạt của Nhà Già. Bà Na giúp chúng tôi rất nhiều: Bà gọi các Cụ, từng phòng, xuống trạm bầu phiếu. Nghe đâu bà giúp các Cụ rất nhiều việc, liên lạc với nơi thiện nguyện chương trình cung cấp thực phẩm cho các Cụ già, neo đơn. Giúp thư viện cung cấp sách đọc… Nhiệm kỳ nào Cộng Đồng tổ chức bầu cử đều nhờ Bà vận động. Bà quả thật tốt, âm thầm trong công tác phục vụ.

Hai tiếng đồng hồ chúng tôi thâu được 16 phiếu. Cử tri nào cũng hỏi liên danh Bà Phích số mấy để bầu, hỏi liên danh Văn Phòng Luật Sư Bích Duyên Day. Các Cụ ông đa số bầu cho các liên danh trẻ, liên danh có phái nam. Có cụ sinh năm 1929 vẫn đi bầu. Các cụ nói, có một số đã đi bầu ngoài Eden. Quý cụ cao niên theo dõi rất sát và áp dụng đúng thể thức bầu cử, không bầu hai lần. Tinh thần quá cao, các Cụ cử tri ơi! Lại là các cử tri vàng, đối với tôi. Phục các cụ sát đất.

Tôi về chỗ đã hẹn đếm phiếu, sớm nhất, 4 giờ 30 chiều. Anh Dương Hòa Hiệp trưởng trạm làm rất đúng nguyên tắc, các thùng phiếu do chính anh niêm và ký tên. Để sẵn chờ trưởng ban đếm. Rồi tới anh Tạ Cự Nguyên (trạm phiếu Phở 75, Falls Church). Anh Hoàng Đức Long, trưởng hai trạm Maryland về tiếp liền. Trạm Eden thu dọn lâu, về sau cùng, nhất là trưởng trạm cũng là Trưởng Ban Bầu Cử Nguyễn Quang Dũng còn ghé mua gà chiên, khoai tây chiên.

Chúng tôi ăn chút chè lạnh, ăn gà chiên (fried chicken) tỉnh người lại và bắt đầu huyên thuyên.

Trạm Phở 75 khoe chỗ anh toàn nhân vật tai to mặt lớn đến bầu: Vợ chồng cựu chủ tịch Đinh Hùng Cường, Hội trưởng Quốc-Gia-Hành-Chánh Nguyễn Kim Hương Hỏa, Bà Khúc Minh Thơ, Nguyễn Văn Tần, ứng cử viên Trần Đại Bản, Mary Chi Ray, Diệp Vương.. Lại còn xảy ra vụ anh Thế Linh khiếu nại sao không đề nghề nghiệp hay bằng cấp của các ứng cử viên giúp cử tri tin tưởng và dễ chọn lựa hơn. Nghe thì hợp lý nhưng áp dụng thì gây hậu quả “phán xử phân biệt” trong khi bầu cử cần bình đẳng để dễ hợp tác hơn. Ý kiến của anh Thế Linh nếu đưa ra với Văn Phòng Thường Trực thì đúng hơn. UBBC chỉ lo các thể thức thôi.

Tôi quan tâm đến số phiếu bầu hơn. Hỏi anh Nguyên được bao nhiêu. Anh đáp gọn lỏn 34 phiếu và anh đổ tại trời mưa! Bên Maryland 2 địa điểm được 42 phiếu (15 +27), và thêm 6 phiếu bầu MD có được ở trạm Eden. Tổng cộng MD được 48 phiếu. Trạm VA-3 và VA-4 của anh Hiệp được 53 phiếu (37+16). Tưởng là trạm Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo (VA-3) vận động bầu cử yếu nên phải mời chào cử tri. Ai ngờ Eden cũng vận dụng “chiêu” này. Bích Phượng ra chiêu nhiều nhất. Thật dễ thương làm sao, Bích Phượng ơi! Trưởng trạm Dũng kể Hội Hành Chánh có Giáo sư Cao Thị Lễ, anh chị Nguyễn Đình Thụy, anh chị Trương Vĩnh Tiền, anh Lê Văn Quan… hưởng ứng bầu cử Cộng Đồng làm anh rất cảm động. Giáo Sư Kim Oanh ra Eden bầu còn lì xì 2 đồng cho từng nhân viên trạm phiếu.

Anh Thái hỏi:

– Liên Hội có ủng hộ Bầu Cử Cộng Đồng không ta?

Anh Hoàng Đức Long lên tiếng:

– Ở Maryland các anh Hội Trưởng GĐ Nhảy Dù Trần Hồng Minh, Hội Trưởng Không Quân Nguyễn Minh Toàn, Hội Trưởng Hội Cao Niên Việt Mỹ Maryland + Ban Đại Diện CĐ Bùi Mạnh Hùng đều có ra bầu cử. Trạm phiếu Maryland đặt ở hai chợ LA Mart và Angkor nên chúng tôi được mời giải khát… cà phê. (Sao không là bia nhỉ?! Anh Long cười cười hỏi.)

Anh Dũng, trạm Eden nói:

– Hội Trưởng Võ Bị Đà Lạt Võ Nhẫn, mới bị vấp té ngã cũng chống gậy ra Eden bầu, VB Lân và vợ; Phó Hòa, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức; Gia Đình Thiết Giáp Nguyễn Kháng lặn lội từ Hay Market ra Eden bầu,… nhiều.. nhiều lắm. Hội trưởng Gia Long Duyên Phan; Hội Quảng Trị: anh chị Thương; Hội Trưởng Hội Tình Thương anh chị Lê Tống Mộng Hoa; Gia Đình Nữ Quân Nhân Nguyễn thị Bé Bảy và con trai. Ông Nguyễn Mậu Trinh, Đại Diện Cộng Đồng, 8 giờ sáng đã có mặt ở Eden. Cựu Hội Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ dù đã 90, anh chị vẫn ra Eden sớm để bầu, và anh chị Dân. Hội Trưởng Hội Cảnh Sát Hồ Văn Tâm, anh Hà Văn Sang; Trưởng Đoàn Thanh Thiếu Niên Đa Hiệu Đỗ Anh Tú, Hậu Duệ Võ Bị Đà Lạt, cùng con trai đi bầu ở Eden. Hội Cao Niên: anh chị Paul Vân + Tuyết Lê dù tận Frederick đã đến bầu ở Eden, ông Bùi Hữu Thư, anh Cao Nguyên, anh Nguyễn Thìn, Lapha Hà Vân, anh chị Đào Hiếu Thảo + Thuận…

Truyền thông, Báo Chí đa số bỏ phiếu ở Eden (đất săn tin rất tốt): Trần Việt Tân – Nguyễn Hữu Điển (báo Đời Nay), anh chị Võ Thành Nhơn (VATV), Đào Hiếu Thảo, Phúc Nguyễn (THVN HTĐ), Vũ Doanh (VIETV), Vũ Đình Trường (TMMĐ). Truyền thông và Báo chí đã tích cực phổ biến bầu cử và kêu gọi cử tri.

Đa số các ứng cử viên đại biểu đi bầu tại Eden: Nguyễn Bích Duyên Day, Nguyễn Hồng Vân, Võ Phích, Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Trần Thủy Tiên, Vũ Thị Mến… Lúc nào Eden Center cũng vẫn là nơi quy tụ người Việt đông nhất, như trạm bầu cử Eden có tới 146 phiếu bầu.

Anh Thái, thủ quỹ của UBBC, lên tiếng về thù lao. Mọi người im lặng nghe anh Thái nói:

– Trạm Eden, anh Thái và anh Dũng trưởng trạm: không lương. 3 nhân viên trạm phiếu, 100 đô /1 người

– Trạm Phở 75, anh Nguyên trưởng trạm: không lương. 2 nhân viên trạm phiếu, 100 đô /1 người

– Trạm Giáo Xứ và Nhà Già, anh Hiệp trưởng trạm: không lương, 2 nhân viên trạm phiếu, 100 đô/1 người

– 2 chợ ở Maryland, Hoàng Đức Long trưởng trạm: không lương, 3 nhân viên trạm phiếu 100 đô/1 người

Nhân viên trạm phiếu kỳ này ăn lương 100 đô/1người thật nhàn hạ; bởi không cần xử dụng máy điện toán, hệ thống ngăn ngừa bầu cử hai lần, ba lần! Bản chất trong sạch cuộc bầu cử kỳ này vốn tự có, nên phẳng lặng như mặt hồ Thu!

Chả bù với những lần bầu cử trước Covid-19. Lần cựu chủ tịch Đinh Hùng Cường (2016-2018), liên danh quy định cần tuyển là 24 mà liên danh ứng cử lên đến 48. Tranh cử sôi nổi! Thời cựu chủ tịch Lý Bảo (2018-2020) liên danh cần tuyển là 17, số liên danh tranh cử là 34. Thư Hùng! Vất vả nhất vẫn là các trưởng trạm. Hai lần đó, số cử tri đi bầu mỗi lần xấp xỉ 1200. Việc kiểm soát phiếu bầu, mở phiếu và đếm phiếu, và để đi đến kết quả tạm thời cũng phải làm việc từ 6 giờ chiều đến tận 6 giờ sáng hôm sau, 5 trưởng trạm và phóng viên truyền hình làm việc trong điềm tĩnh, cũng phải phờ phạc!

Ủa, sao trưởng trạm làm cực và trách nhiệm quá nặng trước tổ chức Cộng Đồng mà không có chút thù lao nào vậy? Lỡ lúc cần kíp, hãnh diện và danh dự đâu đổi ra tiền được?

Không biết cảm ơn các ủy viên Bầu Cử Cộng Đồng (BCCĐ) như thế nào đây?

Tất cả đồng ý cùng nhau đếm phiếu và Trưởng Ban BCCĐ sẽ công bố kết quả vào Thứ Hai, ngày mai đúng như quy định của Hiến Chương.

Tất cả thùng phiếu được 5 Ủy Viên đếm công khai, và rất khớp với số ghi danh tại từng trạm.

Đang khui thùng phiếu và đếm phiếu thì anh Phúc, Truyền Hình Việt Nam, đến. Bích Phượng cũng tự động ghé qua. Các thành quả được máy camera của anh Phúc ghi nhận. Bích Phượng, anh Phúc và UBBC có với nhau những tấm hình đẹp, những giây phút thoải mái sau một ngày phục vụ, thật khó quên.

5 ủy viên thành thạo này hoàn tất kết quả bầu cử một cái vèo, khoảng hai tiếng đồng hồ.

Lòng thoáng buồn trước kết quả nhỏ nhoi này, so với nỗ lực không ngưng nghỉ của UBBC. Nhưng khi xuyên qua những phản hồi của các CỬ TRI VÀNG (theo ý riêng tôi), những tham gia nhiệt thành của các ứng cử viên dấn thân, vào một tổ chức vốn trì trệ, lại vừa trải qua thời kỳ Covid-19 èo uột, cho nên dù kết quả khiêm nhường đến đâu, tôi vẫn hy vọng và đặt tin tưởng vào đứa con so của một vận hội mới sau cơn ngủ vùi mùa Đông (Covid-19). Lần đầu tiên số liên danh ứng cử lại trùng khớp với số liên danh cần tuyển. Gian lận không còn là âu lo. Số ứng cử viên nữ có phần đông hơn nhưng hai lớp già trẻ vẫn đề huề. Các Hội Đoàn và Nhóm đã hình thành nó. Các cử tri đã tiến cử nó. Văn hóa Việt Nam đã chân chất tạo ra nó. Chúng ta có cơ sở để trao gửi niềm tin: Tân Hội Đồng Đại Diện nhiệm kỳ 2022-2024 gồm 70 thành viên sẽ tạo kỳ tích.

Cạnh những dân tộc thiểu số khác cùng sống trong hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, phát huy bản gốc CỘI NGUỒN từng dân tộc là điều tất yếu.  Điều đó rất phù hạp với bản chất Nhớ Nguồn (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và Dễ Thích Ứng (thiên thời –lẽ trời, địa lợi –lẽ tự nhiên, nhân hòa -hòa là quý nhất trong đời sống) thường có ở người Việt. Với mẫu số chung ấy, chúng ta tham gia Cộng Đồng, chứ chẳng phải Cộng Đồng hay Chủ Tịch Cộng Đồng, hay Đại Biểu Cộng Đồng là đại diện cho mấy chục ngàn cư dân Việt nơi thủ đô này. Chẳng chút nào!

Nghĩ như thế cho nên tôi vẫn tích cực hy vọng, không còn bận tâm đến số phiếu bầu khiêm nhường!

Xin tất cả chờ nhau tại Phiên họp Tân Hội Đồng Đại Diện Bầu Thành Phần Lãnh Đạo vào Chủ Nhật 25 tháng 9 năm 2022 để cống hiến tâm trí, ý nguyện phục vụ Cộng Đồng.

* Hình ảnh do UBBC cung cấp.  

 Trần Thị Tụ (*)

  (* ) phu nhân anh Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22) 

Visits: 40

Picnic mùa hè 2022 của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông

Đào Hiếu Thảo

Hội cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông tổ chức buổi pinic vào ngày chủ nhật 28 tháng 8 năm 2022 từ 11 giờ sáng đến 3 giờ trưa tại Mason District Park, Annandale, Virginia với sự tham dự của quý vị cựu giáo sư, các cựu sinh viên, thân hữu và gia đình.

Ngoài ra có sự hiện diện của đại diện Cộng Đồng vùng Washington DC, Maryland, Virginia, các hội đoàn quốc gia và cơ quan truyền thông, báo chí.

Được biết, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là cơ sở giáo dục của chính thể Cộng Hòa, tiền thân là Trường Quốc Gia Hành Chánh thành lập năm 1952 tại Đà Lạt đến năm 1955 chuyển về thủ đô Saigon. Mục tiêu của Học Viện là đào tạo cấp chỉ huy hành chánh có trình độ đại học và cao học để phục vụ các cơ quan công quyền tại trung ương và địa phương.

Ô. Nguyễn Kim Hương Hỏa, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành

Khai mạc buổi họp mặt, ông Nguyễn Kim Hương Hỏa, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành chào mừng quý vị giáo sư, quan khách, đồng môn, bằng hữu đến hội ngộ, gặp gỡ, chung vui, hàn huyên sau hơn hai năm xa cách vì đại dịch Covid 19 khiến mọi sinh hoạt bị đình chỉ. Ông Hương Hỏa giới thiệu quý vị giáo sư và các huynh trưởng, đồng môn từ khóa Đốc Sự 1 đến 22 và khóa Cao Học 1 đến 10.

Ô. Nguyễn Quang Dũng, Phó Chủ Tịch Nội Vụ

Ông Nguyễn Quang Dũng, Phó Chủ Tịch Nội Vụ giới thiệu quý quan khách, đại diện hội đoàn và cơ quan truyền thông, báo chí.  Ông nói đây là dịp để chuyện trò thân mật, tạo tình thân ái trong đại gia đình Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông và bằng hữu gần xa.

Ô. Lê Văn Quan, Tổng Thư Ký

Ông Lê Văn Quan, Tổng Thư Ký thông báo quyết định lưu nhiệm thành phần nhân sự trong Hội Đồng Quản Trị và Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2021-2023 được bầu từ mùa hè 2019.

Theo đúng Nội Quy của Hội,  picnic mùa thu tháng chín năm 2021,  là thời điểm tổ chức bầu lại hai Hội Đồng kể trên, tuy nhiên vì sự lây lan ngu

y hiểm của dịch bệnh nên rất tiếc vào giờ chót sinh hoạt này được dời lại đến khi tình thế cho phép. Sang năm 2023, Hội sẽ tiến hành bầu cử nhân sự mới cho nhiệm kỳ 2023-2025.

Nhân sự được lưu nhiệm trong Hội Đồng Quản Trị có: ông Lê Hữu Em, Chủ Tịch, quý Thành Viên là Giáo Sư Cao Thị Lễ, ông Trần Hồng, bà Lâm Kim Dzung, ông Đỗ Quang Tỏa.

Ban Chấp Hành có: ông Nguyễn Kim Hương Hỏa, Chủ Tịch, ông Trương Đình Thăng, Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ & Văn Nghệ, ông Tạ Cự Nguyên,  Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ & Cộng Đồng, ông Nguyễn Quang Dũng, Phó Chủ Tịch Nội Vụ & Webmaster của Hội, ông Phạm Thành Châu, Trưởng Ban Báo Chí, ông Lê Văn Quan, Tổng Thư Ký, ông Vũ Bá Hoan, Thủ Quỹ.

Trong buổi tiệc, có phần cắt bánh và chúc mừng sinh nhật các đồng môn “tám bó” trở lên.

Quan khách và hội viên cùng thưởng thức thực đơn đặc sắc, đa dạng, độc đáo do Hội đài thọ rất dồi dào, thân hữu còn đóng góp thêm hàng chục món nữa, nên bà con được “ăn, được nói và được gói mang về”.

Đại Huynh Cao Toàn cắt bánh mừng sinh nhật

Ai ai cũng đều bày tỏ niềm vui trọn vẹn vì khá lâu rồi mới lại có một buổi họp mặt đông đủ, mừng rở như thế, “ăn uống no nê” nói chưa hết chuyện “thế sự thăng trầm”, “trong nhà, ngoài ngõ…” thì đã đến lúc tạm biệt sau khi chụp chung tấm hình lưu niệm buổi hội ngộ picnic 2022 đáng ghi nhớ.

Đào Hiếu Thảo/ Th2  

 

Visits: 32