Ban Mê Thuột, Trận Mở Đầu Cộng Sản Việt Nam Tổng Công Kích 1975

Vũ Thụy Hoàng

VTT-ZZNOV-11-SaiGonTuyenTrangLGT: Với sự chấp thuận của tác giả, chúng tôi đăng lại bài bút ký dưới đây, trích từ tác phẩm “Sài Gòn Tuyết Trắng” (ấn bản lần thứ tư, xuất bản năm 2000)  của Vũ Thụy Hoàng, một khuôn mặt quen thuộc trong số các nhà văn, nhà báo tên tuổi  ở Virginia. Vũ Thụy Hoàng từng ở trong ngành báo chí 49 năm, trong đó có 33 năm với Washington Post,  là tác giả của 4 tác phẩm: Rồng Vàng Vượt Biển, Sài Gòn Tuyết Trắng, Quê Hương Thương Ghét Múa Bút.

Vũ Thụy Hoàng cũng là một hội viên viễn cư của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ, hiện đang cư ngụ tại California.

anloc051

Ban Mê Thuột vào chập tối hôm 9 tháng 3, 1975 vẫn là địa đàng đối với cuộc sống cặp kè cạnh tử thần của Thiếu Úy Thám Báo Nguyễn Công Phúc. Ở đây Phúc có người tình say đắm ngóng chờ. Ở đây Phúc được thưởng thức hương vị thơm nóng của ly cà phê, ngồi phà nhẹ làn khói thuốc, ru lòng nghe tiếng hát ngọt ngào của những ca sĩ qua loa âm thanh nổi. Đó là những thứ Phúc thèm nhớ nhất trong những ngày lẩn lủi ở rừng sâu giữa lòng địch.
Trẻ tuổi, quả cảm, ưa thích văn nghệ, Phúc vừa trở lại Ban Mê Thuột lúc chiều. Mười ngày qua Phúc cùng đại đội thám báo được phái đến Bandon, một địa điểm heo hút cách Ban Mê Thuột chừng 40 cây số về phía tây bắc gần sát biên giới Kampuchia. Bandon trước kia là một căn cứ của Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu được Biệt Kích Mỹ huấn luyện, rồi sau đấy chuyển sang thành Biệt Động Quân Biên Phòng. Căn cứ nằm trấn ngang hành lang đường mòn Hồ Chí Minh của quân Bắc Việt xâm nhập vào nam.
Thám báo được coi là những binh sĩ thuộc loại ưu tú nhất, thiện chiến nhất và gan dạ nhất. Thiếu Úy Phúc là trung đội trưởng thuộc đại đội thám báo của Trung Đoàn 45, Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Hậu cứ của sư đoàn đặt tại Ban Mê Thuột.
Trong những đêm rải quân ra ngoài nằm giữa núi rừng vắng lặng, Phúc và đồng đội nghe thấy tiếng xe di chuyển, hoặc tiếng đốn cây sửa đường của Cộng quân. Không phải chỉ gần đây Cộng quân mới ồ ạt và gần như công khai di chuyển người và vũ khí trên đường mòn Hồ Chí Minh. Từ hơn một năm trước, Phúc và những toán thám báo đã khám phá nhịp độ gia tăng và xâm nhập rầm rộ của Cộng quân.
“Mình báo cáo hoài mà chẳng thấy cấp trên làm gì cả. Có lần thượng cấp còn bảo ‘báo cáo nhiều quá rồi, khỏi cần báo cáo nữa,'” Thiếu Úy Phúc kể lại những ngày lặn lội nguy hiểm ở hậu cứ địch để trinh sát. “Thế mà họ vẫn thảy mình vào chỗ chết như chơi. Nhảy vào sau tuyến địch. Ở giữa vùng địch, nếu bị lộ, khó chạy thoát. Chỉ có chết hoặc bị bắt. Chết thì còn đỡ. Bị bắt mới khổ. Nó tra tấn hành hạ. Mình là tai, là mắt của quân đội, nó có thể móc mắt, xẻo tai để trả thù. Trước kia đi công tác xong, có trực thăng đến đón về. Sau này trực thăng ít, có lần phải lội bộ mà về. Chỉ mới hơn tháng trước ngày Tết, tụi này mất sáu toán trinh sát ở gần Thuần Mẫn, một quận lỵ nằm trên đường 14 nối liền Ban Mê Thuột với Pleiku.
“Không có những vụ đi nhảy vào hậu cứ địch, thì lại đi tăng phái. Cứ chỗ nào gay cấn, khó khăn, đánh nhau dữ, thì họ lại đưa mình tới để tăng phái cho đơn vị khác. Tăng phái là đi làm rể với họ, mở đường cho họ đi hành quân. Mình đi đầu lãnh đủ.”
Đang ở Bandon, Phúc và đồng đội được lệnh đi tăng phái cho Đức Lập, một quận nằm về phía tây nam Ban Mê Thuột. Chưa kịp đến thì nghe tin Đức Lập mất, Phúc và đại đội được lệnh về Ban Mê Thuột. Nhưng đường bộ đi Ban Mê Thuột cũng đã bị cắt đứt, xe không đến được để chở đại đội. Một trực thăng Chinook được phái tới và phải bay hai chuyến mới chở hết đại đội có 70 người.
Đến Ban Mê Thuột, đại đội được cử tăng phái cho Trung Đoàn 53 đóng gần phi trường Phụng Dực. Vì đến bất ngờ, và vì doanh trại của trung đoàn không đủ chỗ, đại đội thám báo được chỉ định ra đóng quân ở địa điểm sát phi trường.
Đi rừng nhiều ngày về, lại không được thông báo về tình hình, binh sĩ thám báo như chim được xổ lồng, bay nhảy ra ngoài. Một số binh sĩ muốn về thăm thân nhân. Đại đội trưởng cùng Phúc và mấy sĩ quan khác lên xe Jeep vào thành phố. Chỉ còn đại đội phó và một số lính khác ở lại địa điểm đóng quân.
Phúc muốn ghé lại thăm người tình ở thành phố. Biết ý, đại đội trưởng bảo: “Mày cứ ở đây, Có gì tao cho xe lại bốc.” Phúc cũng không muốn để các bạn lẻ loi lâu, nên hẹn sẽ gặp các bạn ở quán cà phê đường Hai Bà Trưng.
Thành phố Ban Mê Thuột tối chủ nhật 9/3/1975 vẫn sinh hoạt như thường lệ. Tiệm ăn, quán nước, phòng trà, rạp chiếu bóng vẫn mở cửa.
Ban Mê Thuột là thành phố lớn của vùng cao nguyên với dân số chừng 150,000 người, trong đó có nhiều người Thượng. Thành phố đất đỏ này còn nổi tiếng về cà phê, và là nơi trước kia quốc trưởng Bảo Đại thường đến nghỉ ngơi và săn bắn. Với vị thế chính trị và kinh tế đó, Ban Mê Thuột còn là bản doanh của Sư Đoàn 23.
Trong kỳ tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, Cộng quân đã tấn công vào thành phố,và giao tranh ác liệt đã xảy ra trong ba ngày.
Từ đầu năm 1975 Ban Mê Thuột đã mấy lần được báo động là Cộng quân có thể tấn công. “Tin nói Việt Cộng sẽ tấn công đã xảy ra nhiều lần,” Nguyễn Ngọc Vỵ, phó tỉnh trưởng Darlac mà tỉnh lỵ là Ban Mê Thuột, nhớ lại tình hình hồi đó. “Trước Tết đã có tin nói Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, nên quân dân đều chuẩn bị. Một số người đã tản cư đi, không ăn Tết. Sau không thấy gì, họ trở về. Đến khi lại có tin Việt Cộng sẽ tấn công, tâm lý mọi người là nửa tin, nửa nghi. Ngày 8 tháng 3, đại tá tỉnh trưởng họp, cho biết tình hình nghiêm trọng, Cộng sản sẽ tấn công nhưng không biết ngày nào.”
Ban Mê Thuột vào tối ngày 9/3 như con nai còn thản nhiên nhấm búp non trên cành cây. Nghe tiếng động sột soạt ở gần, nai không biết có cọp dữ núp sau lùm cây sắp sửa nhảy ra vồ.
Từ một địa điểm trong rừng sâu cách Ban Mê Thuột mấy chục cây số, Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu đang nóng lòng ngồi chờ “giờ giao thừa,” (1) giờ nổ súng tiến đánh Ban Mê Thuột. Dũng là tổng tham mưu quân đội Bắc Việt được cử vào miền nam trước đó hơn một tháng để trực tiếp chỉ huy trận đánh Ban Mê Thuột, mở màn cuộc tấn công vùng cao nguyên trung phần.
Cuộc tấn công đã được quyết định dứt khoát vào ngày 9/1/1975 tại Hà Nội. Ý kiến đánh Ban Mê Thuột do Tướng Trần Văn Trà đề xướng, thúc đẩy và vận động, trong khi Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt dè dặt chưa muốn (2). Trà là tư lệnh chiến trường B2 bao gồm Nam Bộ và một phần của vùng II. Trước đó Bộ Chính Trị Bắc Việt trong một phiên họp 20 ngày từ 18/12/1974 tới 8/1/1975 đã chấp thuận kế hoạch chiến lược trong hai năm 1975-76, theo đó năm 1975 Cộng quân mở cuộc tấân công lớn và rộng khắp miền nam để tạo điều kiện mở cuộc tổng công kích vào năm 1976.(3) Sau khi phiên họp Bộ Chính Trị bế mạc, ban Thường Trực Quân Ủy Trung Ương họp bàn việc thi hành quyết nghị. Trà được sự tán đồng của Lê Đức Thọ, nhân vật quyền thế thứ hai sau Lê Duẩn. Khi Quân Ủy đang họp, Thọ tới dự, bảo “Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Ban Mê Thuột. Ta có gần năm sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được là thế nào”” (4)
Hà Nội chọn Tây Nguyên làm chiến trường chủ yếu, và Ban Mê Thuột làm điểm tấn công vì cho rằng chiếm được Ban Mê Thuột sẽ “tạo ra một thế trận hiểm và cơ động có thể làm thay đổi nhanh cục diện chiến trường” và “dẫn đến việc giải phóng miền Nam.” (5)
Ban Mê Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế và có vị trí chiến lược xung yếu ở vùng cao nguyên. Võ Nguyên Giáp, một chiến lược gia của Hà Nội đã từng nói chiếm được cao nguyên là kiểm soát được Đông Dương. Giáp ranh với Miên, Lào ở phía tây, vùng cao nguyên nối liền với duyên hải bằng quốc lộ 19 từ Pleiku đi Qui Nhơn, và quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột đi Ninh Hòa. Quốc lộ 14 bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam chạy xuyên cao nguyên qua những tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột xuống tới An Lộc và Tây Ninh. Vì vậy kiểm soát được Ban Mê Thuột là kiểm soát được những con đường ở phía tây đi xuống vùng Sài Gòn. Đã hai lần vào năm 1965 và năm 1972 Cộng quân đã tấn công mạnh ở cao nguyên, mưu toan tiến xuống duyên hải cắt Nam Việt Nam làm đôi.
Vùng cao nguyên này đất rộng, người thưa, nhiều rừng núi và Cộng quân đã dùng làm hành lang xâm nhập người và chiến cụ từ bắc vào nam. Để ngăn chặn những xâm nhập của Cộng quân, Mỹ Việt đã cho thiết lập nhiều căn cứ dọc theo biên giới. Những đoàn Dân Sự Chiến Đấu, trong đó hầu hết là người Thượng, đã được CIA và Biệt Kích Mỹ huấn luyện từ năm 1961. Vùng cao nguyên từng là nơi xảy ra nhiều cuộc giao tranh khốc liệt giữa Cộng quân và các lực lượng Việt Mỹ như trận đánh ở Ia Drang năm 1965 giữa bộ đội Bắc Việt và sư đoàn 1 Không Kỵ của Mỹ mới tới Việt Nam. Trong trận này Mỹ bị 305 người chết, cùng với hàng ngàn Cộng quân (6). Trận đánh dữ dội khác ở Dak To năm 1967 cũng gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên: 287 người Mỹ chết, 985 bị thương, cùng với 347 binh sĩ Nam Việt Nam thiệt mạng; phía Cộng quân 1.200 chết. (7)
Vùng cao nguyên vẫn thường được dự đoán là nơi Cộng quân nhắm vào mỗi khi mở cuộc tấn công lớn, nhưng đoán biết được điểm mà địch sẽ tấn công là điều không dễ.
Để thực hiện kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột, bộ tham mưu Hà Nội chọn phương châm “mạnh bạo, bí mật, bất ngờ và nghi binh rất nhiều.” (8)
Trong việc chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột, Cộng quân huy động tới năm sư đoàn và 15 trung đoàn thiết giáp, pháo binh, phòng không và công binh, với tổng số binh sĩ từ 75.000 đến 80.000.(9) Một phần lực lượng này được bố trí để bao vây, chia cắt và cô lập Ban Mê Thuột với các tỉnh lân cận và đồng bằng thuộc Quân Khu II, đồng thời chặn đánh quân tiếp viện đến giải tỏa cho Ban Mê Thuột. Quốc lộ 19 và quốc lộ 21 vì vậy bị Cộng quân cắt đứùt từ mấy ngày trước khi Ban Mê Thuột bị đánh.
Lực lượng quốc gia phòng thủ ở Ban Mê Thuột chỉ có Trung đoàn 53 thuộc sư đoàn 23, một liên đoàn Biệt Động Quân cùng những đơn vị cơ hữu của hậu cứ, và Địa Phương Quân, Nghĩa Quân.(10) Hai trung đoàn 44, 45 của sư đoàn được đưa đi tăng cường ở vùng Pleiku. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23, do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, chỉ huy cũng đã di chuyển lên đóng ở Hàm Rồng gần Pleiku. Tại Ban Mê Thuột chỉ còn bộ chỉ huy nhẹ của sư đoàn và do Đại Tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn, điều hành.
Cộng quân như vậy chiếm ưu thế cả về bộ binh, thiết giáp và trọng pháo trong trận đánh Ban Mê Thuột. Theo Văn Tiến Dũng, bộ binh Cộng quân gấp năm lần rưỡi, xe tăng và xe bọc thép gấp 1,2, pháo lớn gấp 2,1 (11)
Để bảo toàn bí mật, để trận đánh khởi tiến bất ngờ, Cộng quân tìm cách dấu kín lực lượng, bố trí kín đáo các đơn vị và tạo thế nghi binh, làm quân lực Việt Nam Cộng Hòa ước tính sai lầm hướng tấn công của đối phương. Làm như nhắm đánh vào Kontum và Pleiku, Văn Tiến Dũng cho gia tăng những cuộc quấy rối, pháo kích vào hai vùng đó, đánh chiếm đoạn đường trên quốc lộ 19 đi Qui Nhơn, và huy động dân đi làm đường, sửa đường ở vùng họ chiếm đóng. Dũng ra lệnh “đánh một la mười.” (12)
Trong lúc khoa trương khí thế ở phía bắc, Cộng quân âm thầm di chuyển quân xuống phía nam. Tình báo Mỹ cũng bị Cộng quân đánh lừa. Sư đoàn 320 của Bắc Việt kéo quân xuống vùng Ban Mê Thuột, nhưng vẫn để bộ tư lệnh giả ở vùng Đức Cơ gần Kontum và tiếp tục gửi các tín hiệu vô tuyến đi, làm ban kiểm báo của Mỹ và Việt đều tin là sư đoàn đó vẫn ở mạn bắc. (13)
Dũng có ý tập trung ba sư đoàn ở phía nam để bất ngờ đánh như “sét giáng” (14) vào Ban Mê Thuột..
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Khu 2, vẫn tin rằng mặt trận Kontum, Pleiku là mục tiêu chính của Cộng quân. Khi Cộng quân tấn công và pháo kích vùng Pleiku mấy ngày trước khi tấn công Ban Mê Thuột, Phú còn điều động trung đoàn 45 lên tăng viện cho Pleiku. Tướng Phú định xuống Ban Mê Thuột để xem xét tình hình hôm 8/3, nhưng sau lại hoãn chuyến đi. Cùng ngày đó, Cộng quân cô lập hẳn Ban Mê Thuột bằng cách cắt đứt nốt đường 14, đánh chiếm Thuần Mẫn ở phía bắc, Đức Lập và Dak Song ở phía nam. Chiều ngày 9/3 Tướng Phú mới đáp trực thăng xuống Ban Mê Thuột để họp bàn tình hình. Lúc ông rời đấy, thành phố đang là con mồi làm đích cho những đoàn Cộng quân sắp sửa xuất phát,
Khoảng 10 giờ tối Phúc cùng mấy sĩ quan còn ngồi ở quán cà phê nghe nhạc. Ngoài đường xe Quân Cảnh chạy qua khu thị tứ của Ban Mê Thuột để tìm kiếm quân nhân còn lai vãng ngoài doanh trại. Thấy mấy sĩ quan còn ở quán, quân cảnh đến chào và thông báo Ban Mê Thuột đã có lệnh báo động đỏ, các binh sĩ phải trở về ngay đơn vị, và Cộng quân có thể nổ súng bất cứ lúc nào. Phúc cùng đồng bạn vội nhảy lên xe Jeep, phóng ngay về Phụng Dực.
Phúc và đồng đội nhận lệnh bố phòng và phân chia vị trí phòng thủ. Phúc đốc thúc binh sĩ đào hố cá nhân. Đất cứng, trời lại tối, việc đào hố thật vất vả, lại phải làm gấp rút.
Đi kiểm soát và thanh sát ngoại vi phòng thủ, Phúc bắt gặp đường giây điện thoại dã chiến giăng mắc ở vài nơi. “Cộng quân như vậy đã ở xung quanh mình, có lẽ chỉ cách vài trăm thước. Chúng có thể thấy mình mà không nổ súng vì chưa có lệnh. Lúc ấy vào khoảng nửa đêm,” Phúc kể lại.
Đúng hai giờ sáng ngày 10/3 Cộng quân khai hỏa. Cuộc tấn công Ban Mê Thuột khởi đầu bằng những cuộc pháo kích “bão lửa,” đồng thời xe tăng, đại bác, cao xạ, bộ binh xuất quân, trong lúc những đội đặc công xâm nhập thành phố. Chiến xa địch ở cách Ban Mê Thuột 40 cây số lên đường, dùng phà vượt sông, tiến về Ban Mê Thuột. (15) Mấy mục tiêu chính lúc đầu là sân bay quân sự L19 ở trong thị xã, kho đạn Mai Hắc Đế, tiểu khu Darlac, tòa hành chánh tỉnh, bộ tư lệnh sư doàn 23, và hậu cứ của trung đoàn 53 sát phi trường Phụng Dực.
Tại phi trường L19 một trực thăng bay lên bị bắn rớt. Các máy bay khác bị tiêu hủy. Tại kho đạn đại úy chỉ huy bị nội công bắn chết khi vừa ở trong phòng bước ra.
Lúc Việt Cộng bắt đầu pháo kích, Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ đang ở tòa hành chánh tỉnh. Tòa tỉnh sau cũng bị pháo,Vỵ liền đưa gia đình, gồm vợ và sáu con nhỏ từ 2 đến 11 tuổi, ra khỏi tòa hành chánh, đến ở nhà một người dân ngoài phố, rồi quay trở lại tòa tỉnh. Sau đợt pháo, từ bốn giờ trở đi, Vỵ nghe có tiếng súng nhỏ ở mấy nơi xa xa. Vỵ ra thăm lại gia đình. Dọc đường Vỵ gặp mấy người Thượng chạy vào cho biết Việt Cộng đã kéo về đầy buôn của họ. Vỵ dặn gia đình nếu có bề gì thì trà trộn lẫn vào trong đám đông đồng bào.
Khoảng gần 7 giờ Vỵ chạy sang tiểu khu. Một trái đạn pháo của địch nổ cách Vỵ có mấy thước. Chiếc xe bị lật. Vỵ bị tung khỏi xe, lăn xuống đường. Lính đưa Vỵ vào trong tiểu khu và Vỵ liên lạc được với Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng.
Đến khoảng 9 giờ, tiểu khu cháy gần hết vì bị pháo, trừ khu truyền tin. Đại Tá Luật cùng Vỵ chạy sang bản doanh sư đoàn. Vừa ló ra khỏi tiểu khu, “thấy Việt Cộng đông như vịt,” Vỵ phải chạy trở lại tiểu khu và tòa hành chánh. Vỵ và một thiếu tá dùng súng bắn nhau với Việt Cộng. Mấy phút sau, một trái đạn pháo kích nổ cách chỗ hai người chừng năm sáu thước, Hai người thấy tình hình nguy hiểm, tìm lối rời bộ chỉ huy tiểu khu. Tiểâu khu lúc ấy không còn mấy ai. Hai người đến được bộ tư lệnh sư đoàn, lính canh không chịu mở cổng. Đại Tá Luật cũng tới nơi, phải xưng danh, sau đấy Đại Tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn phải ra nhận diện rồi cho lệnh, lính mới mở cửa.” Vỵ vào được bộ tư lệnh khoảng 11 giờ rưỡi.
Bộ tư lệnh sư đoàn đến lúc này vẫn chưa bị tấn công và vẫn tiếp tục liên lạc với sư đoàn, quân đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Qua máy truyền tin, Thiếu Tá Hy, trưởng phòng 3, còn báo cáo đã diệt được 12, 13 xe tăng của địch. Bộ tư lệnh cho rằng sớm muộn Cộng quân sẽ cho xe tăng đến tấn công, nên đã bố trí sẵn bốn khẩu súng bắn chiến xa 57 ly ở cổng chính và đặt chiến xa ở vòng ngoài. Ban Mê Thuột cũng xin Không Quân đến oanh kích những địa điểm tập trung của Cộng quân, và yểm trợ bộ binh để đánh lui các cuộc tấn công của địch.

Đêm đó, tình hình lắng đọng, “một thứ yên lặng ghê sợ,” theo lời Phó Tỉnh Vỵ. Mọi người đều hồi hộp chờ đợi cuộc tấn công nữa của Cộng quân. Lúc này Vỵ thấy đói. Lương thực cũng như đạn dược lại nằm ở ngoài vòng đai của Bộ Tư Lệnh.
Sáng ngày 11, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 phấn khởi khi được tin có những phi vụ bạn đến oanh kích Cộng quân. Máy bay tới liền bị súng phòng không địch bắn lên dữ dội. Phi cơ bay tít trên cao và thông báo không thấy rõ mục tiêu oanh kích. Ban Mê Thuột được biết nửa giờ sau sẽ có phi vụ khác.
“Lúc 7 giờ 5 phút, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 bị trúng ngay trái bom của phi cơ thả xuống. Máy truyền tin bị tê liệt, không liên lạc được với bên ngoài. Mọi người hoang mang, mất tinh thần, lo chạy ra khỏi hầm. Vừa lúc đó, một trái bom khác nổ, làm sập cửa hầm, bít kín mất lối ra. Ai nấy sợ hãi, tuyệt vọng, mò mẫm trong đường hầm tối thui để tìm lối thoát. Có người dẫm cả vào thương binh. Moi móc gạch vụn mất 15 phút sau mới tìm thấy lỗ để chui ra. Mới ngoi lên khỏi hầm thì thấy xe tăng Cộng quân ở phía xa. Dãy nhà tôn ở gần đấy đã bay mất mái có lẽ vì sức ép của hai trái bom. Lính cũng chạy ra theo Đại Tá Luật. Đại Tá Quang đứng ở trên, một tay cầm khẩu Colt, tay kia chống nạng sườn, hỏi ‘Đại Tá Luật đâu” PC (bộ chỉ huy) sập, phải tái lập.'”(16)
Đại Tá Quang chỉ lối chạy sang khu thiết giáp nằm khuất sau bệnh viện. Một số lính chạy theo. Khu thiết giáp còn hơn chục chiếc thiết vận xa M113 và một số lính. Thấy không thể ra lối trước vì sẽ đụng đầu với xe tăng của địch, Đại Tá Quang ra lệnh cho thiết giáp cán lên hàng rào kẽm gai ở phía sau mà đi.
Toán quân có chừng 200 người thoát xuống được thung lũng, đến suối Đốc Học là chỗ khuấât và hơi kín. Suối lúc này cạn vì là mùa khô. Tưởng là thoát nguy, nhưng rồi thấy Việt Cộng ở cách đó không xa. Lính được dàn ra, bố trí, mai phục sẵn. Đại Tá Quang định tử thủ tại đấy, nhưng Đại Tá Luật cho chỗ đó trống trải quá. Hai người bàn cách đến trung tâm huấn luyện binh sĩ của sư đoàn để từ đấy bắt liên lạc lại với các đơn vị. Trung tâm này lại nằm phía bên kia thị xã Ban Mê Thuột. Muốn đến đó, phải theo đường đi qua thị xã, hoặc băng rừng vòng quanh thị xã. Đại Tá Quang, từng ở Nhảy Dù, muốn liều dẫn quân xâm nhập qua thành phố vào lúc đêm tối để tới trung tâm. Ông cho rằng Cộng quân có thể chưa kịp nắm vững tình thế ở thị xã đêm đó. Đại Tá Luật thấy lối đó táo bạo và nguy hiểm, muốn đi đường vòng qua rừng để đến trung tâm. Bàn luận một hồi, hai ông quyết định phân tán, cho lính muốn theo ai thì chọn. Có chừng 50 người theo Đại Tá Luật. Số còn lại theo Đại Tá Quang. Hai toán chia tay nhau vào khoảng 11 giờ.
Vỵ là phó tỉnh nên theo Đại Tá Luật, tỉnh trưởng. Toán này lội bộ đến Buôn Ky gần đồn điền cà phê của cựu Trung Tướng Thái Quang Hoàng. Đi một lúc, Đại Tá Luật bảo mình đi lạc xa mục tiêu cả bảy cây số. Vừa vượt qua một ngọn đồi trọc, toán quân thấy xe tăng của Cộng quân. Cộng quân cũng nhìn thấy họ.
“Xe tăng quạt mấy loạt liên thanh. Đoàn người chạy trở lại phía sau đồi. Chạy mới được 10 thước, Đại Tá Luật té đánh bịch. Mọi người lo chạy cho lẹ. Cố theo nhau mà chạy. Lúc chạy trốn, mình không sợ chết, mà chỉ sợ lạc. Chạy được ba bốn cây số, sang tới một đồi khác, toán của Vỵ chỉ còn một thiếu tá, một đại úy và một trung úy. Ai nấy quần áo tơi tả, rách bươm. Có người chỉ còn may ô, quần đùi,” Vỵ kể lại.
Áo của Vỵ rách nát vì vướng cành cây, bụi rậm. Lẩn vào khu trồng cà phê, Vỵ tựa người vào gốc cây. Vừa đói, vừa mệt, Vỵ ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Vỵ chỉ giật mình thức dậy khi nghe nói “Chúng mày ngụy!” Vỵ mở mắt, thấy mấy mũi súng đang chĩa vào mình. Mấy thanh niên mặt trẻ măng nhìn chằm chặp vào Vỵ. Rồi chúng xông vào trói Vỵ, giải đi.
Ba ngày sau được đến chỗ mới, Vỵ gặp lại Đại Tá Luật bị giam cùng một chổ. Đại Tá Quang bị Việt Cộng bắt ở một địa điểm khác.
Được tin Ban Mê Thuột bị tấn công, Quân Đoàn II điều động lực lượng của sư đoàn 23 ở Pleiku về tiếp cứu. Bộ Tư Lệnh lúc đó đang ở Hàm Rồng. Binh sĩ sư đoàn rất nóng lòng về cứu Ban Mê Thuột vì nhiều người có gia đình tại thành phố hậu cứ của sư đoàn. Cả lính kèn cũng tình nguyện về, theo lời Trung Úy Trần Hùng thuộc phòng 3 của sư đoàn. Vì phải đợi có trực thăng, quân tiếp viện mãi hai ngày sau mới được đưa về Phước An, cách Ban Mê Thuột chừng 30 cây số về phía đông. Trên đường vào giải vây cho Ban Mê Thuột, quân tiếp viện mới đi chừng 10 cây số thì bị chặn đánh, tiến không nổi vì địch có chiến xa. Theo Philip B. Davidson, binh sĩ khi về đến Phước An lo đi tìm kiếm vợ con, và khi gặp vợ con thì bỏ hàng ngũ đưa gia đình đi. (16)
Những cơ sở đầu não ở Ban Mê Thuột bị đánh chiếm trong hai ngày đầu Việt Cộng tấn công vào thành phố. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì chiến trận còn tiếp diễn ở khu gần phi trường nằm phía ngoài thị xã. Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến là một đại đội chừng 70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn luyện đặc biệt và quyết tâm hăng say chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê Thuột ngay từ ngày đầu, và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là đại đội thám báo mà Thiếu Uý Nguyển Công Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và thiếu thốn súng đạn, lương thực. Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn chống trả lại những đợt tấn công mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa độ hướng dẫn pháo binh bạn bắn vào những vị trí địch.
Một trong những yếu tố để đại đội đạt được thành tích trên và tồn tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Ban Mê Thuột là Cộng quân không biết vị trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại đội. Cộng quân khi tấn công Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì không biết có đại đội thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy bay ở phi trường và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội mới nhận vị trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ bị phát hiện.
Trong những giờ đầu của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt trận qua máy truyền tin. Được trang bị hệ thống truyền tin tối tân hơn những đơn vị bộ binh thông thường khác, đại đội thám báo có thể liên lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả với mấy đơn vị theo hàng ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Nhờ vậy Phúc biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến. Trong đêm tối, giữa những tiếng gầm thét và những tia chớp lóe sáng của đạn pháo kích, Phúc nghe qua âm thanh hỗn loạn của máy truyền tin tiếng những đơn vị bạn gọi nhau ơi ới, báo cáo tình hình, yêu cầu bắn yểm trợ hoặc điều quân tiếp cứu.
Trung Đoàn 53 đêm đầu bị pháo kích mạnh. Đến 5 giờ sáng căn cứ bị địch tấn công từ hai phía đông bắc và đông nam. Địch chiếm được một phần căn cứ. Vào khoảng 8 giờ, quân trú phòng phản công, Cộng quân bị đánh dạt sang một bên. Một cánh quân Việt cộng đã chạy về phía tây nam qua khu đất trống của phi trường. Họ trở thành “những con mồi, những mục tiêu bắn bia,” theo lời Phúc, cho những tay súng thám báo nằm phục sẵn ở bìa rừng cao su gần phi đạo.
Thu dọn chiến trường vào buổi chiều, đại đội thám báo đếm được trên 40 xác Việt Cộng bỏ lại, cùng với hơn 100 nón cối, tịch thu một số vũ khí, đạn được và quân trang, trong đó có năm hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Một số súng đạn này sau được dùng để bắn lại Cộng quân trong mấy ngày sau.
Cuốn nhật ký tịch thu trên người một đại đội trưởng Việt Cộng cho biết anh ta thuộc tiểu đoàn K5 của sư đoàn 316 từ Bắc Việt xâm nhập. Đây là một sư đoàn cơ giới trên đường xâm nhập vào Nam đã sử dụng trên 500 chiếc xe lớn để chuyên chở binh lính, trong đó có cả chiến xa, xe bọc thép, đại bác tầm xa, cao xạ và những loại xe vận tải khác. (17) Nhiều xác lính Việt Cộng còn mang theo những khẩu hiệu “Mình Đồng, Vai Sắt.” “Ăn No, Đánh Thắng” “Bí Mật, Bất Ngờ.”
Hăng say với thắng lợi ngày đầu, Phúc và binh sĩ thám báo hôm sau càng thêm mừng rỡ, phấn khởi hơn nữa khi hay tin quân tiếp viện được đưa về giải vây cho Ban Mê Thuột. Trung Đoàn 44 được gửi tới gần Buôn Hồ ngày 11/3. Ngày hôm sau Trung Đoàn 45, là trung đoàn gốc của đại đội, được trực thăng vận xuống Phước An.
Nhưng niềm phấn khởi đó bị xẹp mau, khi được biết tiểu khu Darlac bị mất, bộ tư lệnh sư đoàn 23 bị chiếm, rồi quân tiếp viện không vô nổi và đã bỏ chạy lúc đụng đầu với xe tăng Việt Cộng.
Binh sĩ thám báo cũng thấy nao núng, mất bình tĩnh khi thấy trực thăng tản thương bị bắn rơi, thương binh không được di tản. Họ cũng tiếc xót nhìn những dù tiếp tế không rơi xuống phần đất của mình, mà nằm vật vờ trên mặt đất trống giữa mình với địch. Bên nào mon men định ra kéo dù vào liền bị bên kia bắn chặn. Những dù đó nằm suốt ngày ngoài nắng, chờ đêm tối mới có người liều lĩnh ra kéo.
Trong những ngày chiến đấu kế tiếp với Việt Cộng, Phúc và đồng đội còn trải qua nhiều nguy hiểm, gian lao, khổ cực. Không có đủ lương thực và súng đạn, họ phải dùng súng đạn và lương thực tịch thu được của Việt Cộng. “Lương khô của chúng được ép thành miếng như bánh đậu xanh. Ăn vào khát nước muốn chết. Anh em phải xuống con suối ở cạnh ngọn đồi cuối phi đạo để lấy nước. Quân mình đã dặn nhau đi lấy nước cũng phải mang súng theo. Thấy tên nào lấy nước mà không có súng, thì đó là địch, được quyền bắn.
“Đánh nhau, quần áo bị rách nát hết. Phải lấy quần áo tịch thu được trong túi đeo lưng của xác Việt Cộng. Mấy anh em mặc đồ Việt Cộng và dùng súng Việt Cộng đi đánh nhau, nên có lúc bị binh sĩ Trung Đoàn 53 tưởng là Việt Cộng, bắn chối chết. Mình phải la lên trong máy, họ mới thôi,” Phúc nhớ lại.
Trong cả tuần lễ liên tiếp giao tranh và bị địch pháo kích, Phúc và đồng đội mệt mỏi vì thiếu ăn thiếu ngủ. Phúc nói: “Đêm không được chợp mắt. Phải lo bố phòng, sợ địch xâm nhập. Sáng ra, chia nhau thành toán nhỏ, đi đánh giải tỏa vòng vây. Đánh theo kiểu những toán trinh sát, nhảy dù, di động luôn để giải tỏa áp lực, rồi tránh né, rút lẹ, chứ không theo kiểu dàn trận của tiểu đoàn bộ binh. Vì vậy địch không biết đơn vị có bao nhiêu người, không biết chiến tuyến chỗ nào. Lúc không đánh nhau thì núp trong hố cá nhân để địch không nhìn thấy. Hố được đào khoét trong những ụ đất có sẵn để bảo vệ máy bay. Cao bốn năm thước, bề dày hai ba thước, những ụ đất này là nơi ẩn nấp tốt cho mình và đồng đội.
“Vừa đói khát, lại không được nghỉ ngơi, anh em mệt mỏi cả thể chất lẫn tinh thần. Đầu óc căng thẳng, hồi hộp khi nhìn thấy đồng đội bị bắn banh xác, người bị thương kêu la rên rỉ, thật như sống trong cảnh địa ngục. Lúc chưa vào cuộc thì sợ, nhưng khi ở trong cuộc rồi, mất sợ hết trơn. Anh em giữ được tinh thần cũng nhờ kỷ luật nghiêm khắc. Tới lúc đó, bất tuân lệnh là có quyền bắn bỏ.”
“Đêm ngày 16/3, Việt Cộng pháo tàn bạo như địa chấn. Thám báo liên lạc với trung đoàn. Gọi trung đoàn mãi, không có trả lời. Chỉ có im lặng. Mình cảm thấy nỗi cô đơn ghê sợ. Cô đơn và tuyệt vọng. Đau đớn và chán chường. Muốn khóc. Muốn nổi khùng. Thế là hết. Thì ra họ đã rút chạy.
“Chỉ còn mấy chục anh em ở lại, lọt giữa lực lượng đông đảo của địch. Mình liên lạc được với quân đoàn, xin cho máy bay đến oanh kích địch sáng hôm sau để anh em mở đường máu chạy thoát. Quân đoàn đồng ý.
“Gần sáng Việt Cộng cho xe tăng tấn công căn cứ Trung Đoàn 53. Bộ binh Cộng quân theo xe tăng vào chiếm căn cứ. Chiếm xong, Cộng quân chuẩn bị tiến sang phía phi trường thanh toán nốt những ổ cuối cùng còn sót lại của đại đội thám báo. Đúng lúc Cộng quân đang tập trung quân, phi cơ được thám báo hướng dẫn đến dội bom xuống đầu địch. Nhờ những trái bom thả đúng lúc, chặn đứng đà tiến của xe tăng và quân địch, đại đội thám báo còn lại hơn năm chục người rút chạy, lẩn vào khu rừng cao su.
“Thoát khỏi trận chiến, đoàn thám báo lúc này tơi tả, hốc hác và kiệt sức mà vẫn phải cố lết đi, tìm đường xuống phía nam nhắm hướng về Đà Lạt. Đến gần chi khu Lạc Thiện, một quận thuộc tỉnh Darlac, đám quân còn chừng 30 người mừng rỡ bắt được liên lạc vô tuyến với chi khu. Họ vui sướng tìm mau chỗ nghỉ chân sau những ngày sống sát thần chết. Chi khu yêu cầu cho biết chỗ đang ở.
“Ít phút sau, đạn pháo rơi ào ào xuống toán thám báo còn đang nằm lăn ra nghỉ. Rồi địch nổ súng tấn công. Lại chạy tứ tán. Người chết, người bị thương.”(18)
Phúc chỉ còn 15 người chạy theo được. Thấy đường đi về phía Đà Lạt không thành, Phúc tìm đường đi về hướng đông, hy vọng tới những tỉnh vùng duyên hải. Qua một hai ngày băng rừng, vặt lá đào cây để ăn, nhóm của Phúc lại lọt vào một ổ phục kích của Cộng quân. Phúc và một y tá thoát ra khỏi ổ phục kích, nhưng rồi rút cục cũng bị bắt lúc đang vục mặt xuống vũng nước để uống. Hôm đó là ngày 22/3.
Sau này vào trại cải tạo, Phúc gặp một sĩ quan ở chi khu Lạc Thiện, liền trách cứ vụ bị pháo kích. Sĩ quan cho biết Cộng quân đã chiếm Lạc Thiện từ mấy ngày trước và vẫn dùng tần số cũ để liên lạc với những toán quân khác của quân đội Cộng Hòa. Lúc ấy Phúc mới biết mình mắc bẫy khi tiết lộ tọa độ đóng quân.

Vũ Thụy Hoàng

________________________________________________________________
Chú Thích
1. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 79
2. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 758-762
3. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 35
4. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 37
5. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 44-45
6. Moore, Harold G. & Galloway, Josepht L., We were Soldiers Once…and Young, trang xvi
7. Tucker, Spencer C., Vietnam, trang 135
8. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 37
9. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 768
10. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 770
11. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 57
12. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 69
13. Snepp, Frank , Decent Interval, trang 171
14. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 52, 91
15. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 81
16. Nguyễn Ngọc Vỵ, nói chuyện ngày 5/1/1980 và 1999
17. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 773; Hosmer, Stephen & Kellen, Konrad & Jenkins, Brian M., The Fall of Vietnam, trang 85.
18. Nguyễn Công Phúc, nói chuyện năm 1978 và 1999.

Visits: 1610

Còn Gì Để Lại

Nguyễn Quang Dũng

congidelai-nnb-image

 1.  Những tấm hình gần nhất trước ngày D…

Ngày chủ nhật 7 tháng 2, 2016 tôi gặp Thầy Nguyễn Ngọc Bích và Cô Đào Thị Hợi tại Chợ Tết Cộng Đồng Người Việt Vùng Hoa Thịnh Đốn. (Tôi gọi GS Nguyễn Ngọc Bích là Thầy vì Thầy Bích có thời gian giảng dạy ở Đại Học George Mason, Virginia:  Thầy phụ trách giảng dạy  lớp  Truyện Kiều, bằng tiếng Việt, tiếng của người mình).  Thầy Bích đang lui hui bày những cuốn sách của Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ trên bàn. Tôi đến chào Thầy và lấy xuống xem một cuốn sách sử ký của sử gia Lê Mạnh Hùng mà Thầy trưng bày ở chổ cao nhất trên giá đựng sách. Chắc Thầy nghĩ tôi chỉ đến xem cho vui, hay mua một cuốn “ủng hộ” gian hàng sách của  Thầy. Nhưng khi tôi thưa với thầy là tôi muốn mua trọn bộ 5 quyển “Nhìn Lại Sử Việt”  thì Thầy vui lắm. Thầy nói với tôi: “Lẽ ra trọn bộ giá $133, nhưng tôi sẽ “discount” cho anh và chỉ lấy $100”. Thầy cho 5 cuốn sách vào túi nylon xong thì tôi xin chụp Thầy và Cô một tấm hình kỷ niệm dưới đây:

DSC01095

Ngày thứ hai 8 tháng hai, 2016, mồng một Tết Bính Thân, tôi gặp lại Thầy Bích trong bộ quốc phục cổ truyền , áo dài, khăn đóng, với khăn quàng cổ màu vàng  ba sọc đỏ. Thầy cười vui trong buổi lễ Chào Cờ đầu năm mới  Bính Thân 2016 do Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức. Tôi đang đứng cạnh anh Nguyễn Kim Hương Hỏa, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông nên mời Thầy chụp chung một tấm hình với anh Hương Hỏa.  Thầy và Hội Hành Chánh vốn thân thiết với nhau đã lâu, năm nào Thầy Bích và Cô Hợi cũng là khách mời danh dự của buổi tiệc Hội Ngộ Tân Niên Quốc Gia Hành Chánh  đầu năm dương lịch.

DSC01309

Trong tấm hình tôi chụp hôm đó, Thầy Bích cười, tươi tắn.  Và sau này tôi nhận ra trên nhiều tấm hình chụp, Thầy lúc nào cũng có nụ cười hiền hòa cố hữu đó.

Ngày thứ bảy 20 tháng hai, 2016. Hội Người Việt Cao Niên vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức Lễ Tổ tiên và Chúc Thọ năm Bính Thân 2016. Buổi tối thứ sáu, tôi lo trình bày, in và chuẩn bị nhiều khung hình chúc thọ cho các vị Hội viên cao niên với tuổi thọ từ 70, 80, 90 đến 100. Ở xứ Hoa Kỳ này, tôi thấy các “cụ” 70 hay 80 của Hội Cao Niên vùng này rất mạnh khỏe và năng động. Bảy mươi như anh chị phóng viên Đào Hiếu Thảo thì không thể gọi là người “già” mà phải gọi là người trẻ của Hội Cao Niên. Tôi biết rất nhiều vị trên 70 từ chối gia nhập Hội “Cao Niên” chỉ vì họ nghĩ là họ chưa …già. Cho nên trên bản tin Cao niên tháng hai, 2016 tôi không “dám “ gọi các cụ 80 mà dùng chữ “quý vị 80”. Quả vậy, trong số các “cụ” 80  Hội Cao Niên chúc thọ năm nay, có GS Kim Oanh,  Bà Tuyết Ngọc…những vị cao niên năng động  này không thể gọi là người già được. Tôi  có thấy tên GS Nguyễn Ngọc  Bích trong số các “cụ” 80 (tính theo tuổi ta). Tôi nghĩ đến  Thầy Bích và nụ cười của Thầy trong Lễ Chúc Thọ vào ngày mai.congidelai-nnb-chuctho80

Tiếc thay thứ bảy hôm sau đó, Thầy và Cô Hợi bận lễ chùa nên đến trễ;  Lễ Tổ Tiên và Chúc Thọ đã xong, Nhưng Thầy cũng tham dự Lễ mừng sinh nhật chung, Thầy tham gia sinh hoạt văn nghệ. Anh Nguyễn Văn Đặng chụp tấm hình dưới đây, lúc Thầy Bích đang hát:

DSC01310

Ngày 2 tháng 3, 2016, giờ Hoa Thịnh Đốn,  sáng vào mở email từ anh Bùi Mạnh Hùng, tôi biết tin Thầy Nguyễn Ngọc Bích mất trên chuyến bay đến Manila, Phi Luật Tân dự Hội nghị về Biển Đông.  Trên vùng trời cách không xa lắm quê hương Việt Nam yêu dấu, lúc đó là ngày 3 tháng 3,  Thầy Bích bị nghẽn mạch máu cơ tim.  Theo lời Cô Hợi kể lại: Thầy nói với Cô Hợi là Thầy mệt lắm chưa bao giờ mệt như vậy. Và chỉ như vậy, Thầy đi.

Tin Thầy Bích mất làm tôi lặng người.  Mới vừa đây, hai tuần trước, Thầy còn đó.

Sống và Chết, quả tình chỉ cách nhau một hơi thở – tôi còn nhớ nhiều Phật tử thường hay nhắc nhau câu nói này. Từ lâu,  tôi cũng như nhiều người khác thường hay nghĩ rằng đời sống của mình hãy còn ngày rộng tháng dài. Rằng  mình – mới 60, 70 hay dầu đã 80- vẫn còn khỏe. Cái chết  là chuyện xa vời, không ai màng nghĩ  đến. Trong lúc,  thực ra, nỗi chết rình rập mọi lúc, mọi nơi và không kể trẻ hay già.

Sáng nay, tôi phải tự nhắc để tôi nhớ,  đừng quên, không được quên điều này: Chuyện gì làm được,  đừng chờ đến ngày D. vì đến lúc đó có hối tiếc thì mọi sự đã muộn màng.

Ngày Đi hay viết tắt là ngày D, chữ tôi dùng cho ngày chết, hay nói cho có vẻ văn chương chữ nghĩa hơn – ngày vĩnh biệt cõi đời, là cái ngày mà tôi và vài ông bạn già rất thân thiết – như  Cụ Hà Bỉnh Trung (đã đi) hay anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao (đã trên 70, vẫn còn nhất định chưa chịu nhận là mình già) -vẫn thường cười cười nói với nhau khi có dịp gặp mặt: “ Đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng, khi nào có “vé” là lập tức  lên đường “. Anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao còn chu đáo hơn nữa, anh sáng tác rất nhiều thơ lục bát về Phật giáo, in thành sách hơn mấy chục tập và biếu không đến người đọc. Anh nói, tôi làm vậy là để có “quỹ” mua vé trước nên tôi biết tôi sẽ “đi” về đâu.

2. Cơ Hội Không Còn…

Tôi vẫn tự trách tôi hoài, về cái tính lần lửa không kết thúc nhiều việc, nhiều chuyện có thể kết thúc được. Việc tôi tự trách tôi lần này khi biết tin Thầy Bích vĩnh viễn vắng bóng liên quan đến công việc tôi đang góp tay với Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn và Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền Đông Hoa Kỳ. Tôi thiết kế hay nói nôm na là “dựng lên” hai cái website ( tiếng Việt mình chưa có nhiều chữ diễn tả cho đúng quá nhiều thuật ngữ kỹ thuật của thế kỷ 21 nên tạm thời có nhiều chỗ tôi phải để nguyên chữ tiếng Anh ở đây.) Ở hai website này, ban chủ trương vẫn mong thực hiện được việc chia sẻ đến người đọc khắp nơi những tin tức, kiến thức, kinh nghiệm hay sáng tác từ những người viết tài tử hay chuyên nghiệp với điều kiện là những bài viết này là những bài viết nguyên thủy từ những người viết mà ban biên tập website biết được tác giả là ai. Nói khác đi, những người trong ban chủ trương muốn thực hiện một  website không cóp nhặt, sao chép tùy tiện.

Tháng trước, tôi có đọc mấy bài viết của Thầy Nguyễn Ngọc Bích, ký tên dưới bút hiệu Tâm Việt.  Và tôi vẫn thường hay gặp Thầy trong những buổi hội hàng tháng của Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn, mà Thầy Bích là Phó Hội Trưởng Ngoại Vụ của Hội. Tôi tự nhủ không có cơ hội nào tốt hơn nữa là gặp Thầy vào phiên hội đầu tháng tới; mời Thầy tham gia, giúp tay, và sau đó được phép chuyển tải các bài viết của Thầy lên  website caoniendc.com hay website quocgiahanhchanhmd.com và thử bàn với thầy về một hướng hợp tác giữa  nhà in của tôi và  Tổ hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ do Thầy chủ trương, nhất là tìm một giải pháp mới cho tình trạng bế tắc về việc phát hành sách báo tiếng Việt tại hải ngoại.

Vậy mà tất cả các dự trù, cơ hội và cái “lợi thế” thiên thời, địa lợi và nhân hòa để có sự hợp tác và giúp tay của Thầy Bích với Hội Cao Niên và Hội Hành Chánh về mặt báo chí và website bỗng nhiên tan biến trong chớp mắt.

Lúc đọc lại  tiểu sử của Thầy Bích về những trách vụ Thầy từng đảm trách lúc sinh tiền, tôi chợt nhớ ra rằng tôi đang đứng trước một  Thái Sơn của làng thông tin báo chí.

Từ 1971 đến 1975, Thầy Nguyễn Ngọc Bích từng là Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại thuộc Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi, Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã, sáng lập viên Viện Đại Học Cửu Long và là sứ giả đặc trách của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu trong cuộc vận động sau cùng với Quốc Hội Hoa Kỳ về viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam.

Năm 1975, Thầy Bích trở lại Hoa Kỳ, quê hương thứ hai của Thầy, từ đó mở ra  chuỗi dài của những hoạt động không ngưng nghỉ trong đủ mọi lĩnh vực  xã hội, chính trị, giáo dục, nhân quyền, dịch thuật, biên khảo, bảo tồn văn hóa Việt ở xứ người. Thầy Bích đã từng nắm giữ những trách vụ cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ như Phó và sau đó Quyền Giám đốc Office of Bilingual Education and Minority Languages Affairs thuộc Bộ Giáo Dục Liên Bang dưới thời Tổng Thống George W. Bush, Giám Đốc Ban Việt Ngữ  Đài Á Châu Tự Do (RFA)  từ  năm 1997 đến 2003.

3. Còn Gì Để Lại …

Quan trọng hơn hết là tinh thần dấn thân của Thầy Nguyễn Ngọc Bích trong rất nhiều công việc liên quan đến cộng đồng Người Việt hải ngoại và những công cuộc đấu tranh hướng về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và tiến bộ.  Người khen, kẻ chê Thầy cũng nhiều, nhưng không ai có thể phủ nhận được tấm lòng và tinh thần làm việc hướng về lợi ích chung cho cộng đồng người Việt của Thầy.

Dấn thân và phục vụ là hai nhân tố căn bản và trọng yếu nhất thể hiện trong đời sống của Thầy Bích. Cũng có thể vì cái gì Thầy cũng muốn làm, chỗ nào Thầy cũng tình nguyện, cho nên những công việc và mục tiêu Thầy theo đuổi cũng trải rộng và do vậy khó lòng nhìn thấy hay lượng định hết những thành tựu hay kết quả đạt tới. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người trong cộng đồng người Việt Hải ngoại đến tuổi 80 còn có được khả năng, sức làm việc và tinh thần hoạt động không ngừng nghỉ cho cộng đồng người Việt như Thầy Bích?

Đối với tôi, Thầy Bích lúc nào vẫn là một người Việt Nam khả kính, đa năng  và đáng quý. Thầy Bích dạy tôi được một bài học căn bản xuyên suốt qua đời sống phục vụ của Thầy cho đến hơi thở cuối cùng  là: Hãy sống bằng trái tim Việt Nam với tất cả tấm lòng dâng hiến.

Xin cảm ơn và vĩnh biệt Thầy Nguyễn Ngọc Bích.

Nguyễn Quang Dũng  (ĐS22)
VA Tháng 3/2016

(Xin bấm vào hình để xem hình ảnh tang lễ GS Nguyễn Ngọc Bích do Phóng Viên Quân Đội Trần Bửu Khánh ghi lại)

 nnb-phuco-web

Visits: 328

Trận Tuyết Mùa Xuân Bất Ngờ

Truyện Nhật Bản của SAE SHUICHI
 SƠN TÙNG dịch từ bản Anh ngữ của Miyamoto Noriko

snow_0

– 1 –

Trong suốt hai mươi năm Osugi làm chủ một trà thất, chưa bao giờ xảy ra một việc như vậy trước đây.

Hoàng hôn đang xuống. Những cơn gió lạnh mùa đông không ngừng thổi, bứt đi và tung rải ra những chiếc lá vàng cháy cuối cùng của cây zelkova ở bên hông trà thất. Người đàn bà đến từ hướng Futatsuya trên xa lộ Tôkaiđô, trông giống như đang bị cơn gió săn đuổi. Bà ta ngồi sụp xuống chiếc ghế dài dưới mái hiên trà thất.

– Chào bà. Mừng bà chiếu cố trà thất của chúng tôi.

Osugi đang nghĩ đến việc đóng cửa, nhưng bây giờ nàng sẵn sàng rời chỗ ngồi bên lò sưởi và hối hả bước ra cửa.

Vào khoảng thời gian này hàng năm, dòng người hành hương đến Enoshima và Ôyama đột ngột ngưng lại, và khung cảnh trở nên yên tĩnh cho đến cuối năm. Vào mùa bận rộn, những người có sức khỏe đều rời Edo vào sáng sớm, đến các quán trọ ởFujisawa trên xa lộ Tôkaiđô trước khi trời tối và nghỉ đêm ở đó. Sáng hôm sau, họ đi lễ tại đền thờ thần tài – Banzai-ten – trên Enoshima, và đi ngang Fujisawa lần nữa trước khi trực chỉ Ôyama.

Tương đối ít người chọn phía lề đường đi ngang Tsujiđô, nơi trà thất tọa lạc. Dầu sao thì trà thất chỉ cách Enoshima có nửa dặm, vì vậy những người đi từ Enoshima để hành lễ tại Ôyama có thói quen đi gấp mà không dừng lại. Những người dừng chân nghỉ là những người già yếu đến từ hướng khác, từ Ôyama đến Enoshima, họ hưởng vội đôi phút nghỉ ngơi trước khi rảo bước trên bờ Vịnh Sagami để sang Enoshima ở phía bên kia.

Cái quán trà nhỏ không có nhiều khách hàng, nhưng Osuji đã cai quản nó từ khi mười chín tuổi và kết hôn với Kumazô, một người vác kiệu tại những quán trọ ở Fujisawa. Trước kia còn có bà mẹ chồng phụ giúp, bây giờ chỉ còn một mình.

– Hôm nay gió quá. Trời lạnh thật bất ngờ. Hẳn là bà phải mệt lắm.

Nói với giọng ấm áp, Osugi bước tới gần người khách hàng và nhận ra người đàn bà gập mình khó chịu, bám lấy một cây gậy tre với hai vai nhô lên. Người đàn bà ăn vận theo cách đi đường xa: một chiếc khăn tay được cột quanh đầu để chống gió, một chiếc giỏ tre bọc trong một miếng vải buộc ở lưng, cuốn xà-cạp, và bọc kín cổ tay và cánh tay. Nhưng trông bà không có vẻ là một người đi hành hương đền thờ ở Enoshima. Osugi liếc nhìn khuôn mặt và thân hình gầy còm của người đàn bà, và nghĩ rằng bà ta trẻ hơn mình, có lẽ là một thiếu phụ ở giữa lứa tuổi ba mươi. Bà ta có vẻ hoàn toàn suy kiệt.

– Tôi sẽ bưng trà nóng mời bà ngay. Bà sẽ bị lạnh ở ngoài ấy, xin mời bà vào bên trong.

Osugi nói qua vai người đàn bà trong khi quay vào trong để rót nước trà đậm và bưng nhanh ra ngoài cho người khách lạ.

Người thiếu phụ vẫn ngồi trên chiếc ghế dưới mái hiên trà thất, ngửa mặt nhìn Osugi để cảm ơn. Mái tóc rối ướt đẫm mồ hôi, và xõa xuống mặt với hai xương gò má nhô lên. Mặt bà đỏ bừng và vẫn còn thở một cách khó khăn. Osugi đặt tách trà bên trong quán và bước ra để nắm tay thiếu phụ và giúp bà đứng dậy.

Osugi kêu lên trong nỗi ngạc nhiên.

– Trời, bà sốt thế này!

Dưới bàn tay của Osugi, vai người thiếu phụ nóng bỏng và xương bả vai sắc nhọn dưới lớp áo kimono bằng vải phủ bụi đường.

Người thiếu phụ chống chế, nói rằng sẽ lại sức sau một lúc nghỉ ngơi, và tỏ ra không muốn làm phiền Osugi. Nhưng, Osugi trải một chiếc nệm trong căn phòng nhỏ bên cạnh phòng chứa đồ, giúp thiếuphụ cởi đôi dép rơm và đặt bà nằm lên giường. Nàng làm mát trán người thiếu phụ với một chiếc khăn ướt.

– Tên tôi là Okiku. Tôi đến từ Gotemba và đang trên đường tới thủ đô. Tôi rất tiếc đã làm phiền bà như thế này.

– Không có gì phiền cả, bạn thân mến. Sao bà không nghỉ lại đây đêm nay?

– Nhưng tôi không thể…

– Hãy ngủ yên một đêm, và cơn sốt của bà sẽ hạ xuống. Sáng mai bà sẽ khoẻ lại. Chỉ có tôi và chồng tôi ở đây, vì vậy bà không cần phải bận tâm về bất cứ điều gì.

Okiku, như bà tự gọi, cảm ơn Osugi lần nữa. Đôi mắt bà không chỉ đẫm lệ, mà còn sưng lên vì cơn sốt. Bà có vẻ thư dãn và nhắm đôi mắt lại. Bà không đẹp, nhưng có khuôn mặt tươi tắn phúc hậu, giờ đây trở nên xanh xao đáng thương với hai quầng đen bên dưới cặp mắt. Okuki không có vẻ là bị đau ốm bất ngờ, và đã quyết định đi Edo mặc dù sức khỏe yếu kém.

Đàn bà không đi xa một mình, và Osugi thắc mắc về lý do cuộc hành trình của Okiku.

Osugi đóng những tấm cửa gỗ của trà thất, rồi bắt đầu sửa soạn bữa ăn tối cho chồng và một ít cháo cho Okiku. Khi trời tối, gió thổi mạnh hơn bao giờ. Căn phòng của Okiku yên lặng giữa tiếng lay chuyển của cây zelkova to lớn và tiếng rung đập từng hồi của những tấm cửa gỗ. Osugi nhìn đăm đăm vào những ngọn lửa đỏ trong lò sưởi, băn khoăn về người đàn bà đau yếu. Nàng vẫn thường nhìn sâu vào những ngọn lửa, thả hồn trong suy tư, nhưng bây giờ ngọn lửa có vẻ thật qúy và bình yên đến nỗi nước mắt Osugi ứa ra vì xúc động với vận may của chính mình.

Osugi có thể đã mất ba đứa con vì bệnh tật khi chúng còn nhỏ, nhưng nay con trai đầu lòng của nàng đã mười chín tuổi và làm việc tại một lữ quán ở Enoshima, đứa con gái mười lăm tuổi đang học việc tại một tiệm làm bánh đậu ở Fujisawa. Nàng thực sự không có gì để phải lo âu. Cho đến hai năm trước trước đây, Osugi vẫn còn săn sóc bà mẹ chồng khi bà phải nằm một chỗ vì bại liệt. Mẹ già Ofuku được đưa đến cho Osugi, và vui lòng có một nàng dâu để được chăm sóc. Bà là loại người không làm hại bất cứ cái gì, ngay cả khi bắt được một con rận bà cũng chỉ thích thả nó vào một thùng nước. Ngay trước khi chết, bà chắp hai tay co quắp trước ngực như thể đang cầu nguyện, và cảm ơn Osugi. Mùa xuân này là giỗ thứ hai của bà. Chồng của Osugi, Kumazô, lớn hơn nàng bảy tuổi. Anh thích uống rượu, và vẫn còn hay đấm nhau với những người vác kiệu khác. Nhưng, anh là một người tốt có cá tính mạnh, và chăm lo cho Osugi. Họ nghèo, nhưng cái quán bán nước trà đủ bảo đảm cuộc sống cho họ.

Mùa xuân tới đây, Osugi sẽ được bốn mươi tuổi. Nàng chưa bao giờ đi cúng chùa ở Ôyama, chưa tới Edo, nhưng thỉnh thoảng nàng cố thu xếp để đi viếng ngôi đền ở Enoshima. Như vậy là đủ cho Osugi, và nàng không bao giờ cảm thấy thôi thúc phải đi xa.

– Phải chăng tôi là một người đàn bà không ham muốn? – Nàng thắc mắc, tự hỏi.

Nàng mỉm cười với hình ảnh hài hước của mình trong khi nhìn đăm đăm vào những ngọn lửa bập bùng.

Khi cháo chín, Osugi bưng vào cho Okiku. Nhưng, Okiku không muốn ăn, và chỉ cố đưa đôi đũa lên môi một hay hai lần. Cơn sốt của bà còn cao. Osugi ăn tối một mình. Mãi khuya Kumazô mới trở về nhà trong cơn say rượu.

Nghe Osugi báo tin về người khách lạ, Kumazô liếc vào căn phòng nhỏ qua chỗ rách trên tấm cửa giấy. Mặt đỏ gay vì rượu, anh tặc lưỡi.

– Bà định làm gì đây, vác lấy một phế nhân à?

– Hạ cái giọng ông xuống!

Osugi kéo tay áo chồng và rít giọng.

– Tôi định hỏi, tôi có thể làm gì nữa?

– Ờ, tôi nghĩ là tốt hơn bà nên làm cái gì bà cảm thấy thích hợp. Còn tôi, tôi đi lên giường ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Kumazô rời nhà đi làm như thường lệ. Cơn gió đã ngưng thổi trong đêm, và một lớp sương giá trắng đã bám trên tấm thảm lá rải rác bên ngoài. Suốt đêm qua, Osugi đã thức dậy không biết bao nhiêu lần để chăm sóc Okiku, đem thuốc bắc sắc cho bà, thay nước trong chậu, làm mát trán bà với một chiếc khăn ướt. Nhưng, cho đến sáng cơn sốt không hạ giảm, và Okiku nằm liệt trên giường, suy kiệt. Xế trưa, Osugi mời một bác sĩ tới khám cho Okiku, nhưng ông ta chỉ lắc đầu. Trước khi ra về, ông ta bảo Osugi báo tin cho các viên chức trong tỉnh, hoặc tỉnh nhà của người bệnh. Quán trà có nhiều khách nên phải tới xế chiều Osugi mới lại quỳ một lần nữa bên chiếc gối của Okiku.

Okiku nhướng đôi mắt nửa nhắm nửa mở, với một tay tới cái giỏ tre nhỏ bọc vải bên cạnh chiếc gối và cố ngồi thẳng dậy trong khi thì thào những lời nói sảng:

– Tôi phải đi gặp Isuke.

– Không thể được đâu, bạn ạ, với tình trạng như thế này của bà.

– Osugi cúi mặt bên tai Okiku để hỏi – Isuke là một chàng trai ở Edo ư?

Okiku mở hai mắt và níu hai tay Osugi:

– Tôi biết tôi đang đau, nhưng tôi vẫn đi được! Tôi phải gặp Isuke khi tôi còn sống.

Okiku mỉm cười yếu ớt.

Bà khởi đầu kể về câu chuyện của mình, với giọng khỏe như đang vắt hết những giọt sức lực cuối cùng trong người. Và đây, nói một cách nôm na, những gì Okiku đã kể.

Tại Gotemba, một tỉnh nổi tiếng về nghề thủ công làm giỏ đan bằng tre, Okiku đã gắn bó sâu xa với Isuke, một thợ thủ công làm đồ bằng tre, khi anh ta hai mươi mốt tuổi và Okiku mười bảy. Họ thề thốt với nhau rằng một ngày kia họ sẽ trở thành vợ chồng, nhưng khi Okiku mười chín tuổi Isuke bỏ đi Edo, hứa hẹn sẽ lập gia đình với nàng một khi anh ta đạt tới đẳng cấp bậc thầy thủ công nghệ chuyên ngành về những giỏ tre hay những hộp sơn mài. Sau đó, họ viết thư cho nhau trong ba năm, nhưng rồi suốt mười lăm năm nàng không được tin gì về chàng. Dù vậy, Okiku vẫn tiếp tục chờ đợi.

Thế rồi, mới mười ngày trước đây, Okiku nghe tin đồn rằng Isuke vẫn còn ở Edo, làm việc trong một cửa hàng bán những hộp sơn mài tên là Yashuya tại Kyôbashi Yazaemonchô. Okiku quyết định làm một cuộc hành trình đơn độc dù đang đau yếu, và gạt sang một bên tất cả sự chống đối của những người chung quanh.

Một lần nữa Okiku xê dịch bàn tay gầy guộc về phía chiếc hộp bên cạnh gối. Osugi giúp gỡ bỏ lớp vải bọc bên ngoài.

– Chiếc giỏ tre nhỏ này – Okiku nói, mấy ngón tay vuốt ve cái giỏ – là của Isuke để lại cho tôi khi anh đi Edo. Anh tự làm nó đấy.

Khi nói như vậy, người đàn bà ở giữa lứa tuổi ba mươi mỉm cười như một cô gái nhỏ.

– Tôi là một con già khờ dại. Nhưng không sao. Bà quá tử tế với tôi, và nếu tôi phải chết trên đường đi, ít nhất tôi cũng có chiếc giỏ của anh ấy bên mình.

– Okiku, đừng nói dại.

– Tôi rất tiếc đã gây quá nhiều phiền nhiễu cho bà…

Okiku nhắm mắt lại, và một khoảnh khắc sau thở hơi cuối cùng. Bàn tay đặt trên chiếc giỏ tre buông lỏng xuống sàn, và bà nằm bất động.

Những tia nắng sớm của mặt trời vào đầu mùa đông chiếu sáng những tấm cửa lùa bằng giấy, nhuộm chúng thành màu đỏ như máu, và chói lọi trên gương mặt chết tái nhợt của người đàn bà.

– 2 –

Trong chiếc giỏ tre nhỏ có chiếc kimono may bằng tay cho đàn ông còn mới nguyên và bằng vải có nền sọc theo kiểu Komochijima. Trong chiếc giỏ cũng có vài món đồ trang sức và những đồ dùng cho chuyến đi xa của Okiku. Có lẽ Okiku đã may vội chiếc kimono cho Isuke mặc dù đang đau. Những đường kim mũi chỉ của chiếc kimono là những tình cảm của người đàn bà trong mười tám năm chờ đợi.

Người đàn bà quá vãng mang theo mình tờ giấy phép đi đường của một ngôi đền tại Gotemba nên Osugi quyết định giao trả mọi thứ cho vị trưởng giáo tại Honryuji, một ngôi đền kế cận. Khi một lữ khách chết trên đường đi, ngôi đền địa phương sẽ nhận lãnh thi thể, làm lễ cầu siêu, và báo tin cho giáo khu nơi cư trú của người chết. Osugi cũng yêu cầu gửi trả những vật tùy thân của Okiku, nhưng quyết định giữ lại chiếc giỏ tre và cái áo kimono của người đàn ông. Nàng cảm thấy muốn tự tay trao những di vật này cho Isuke, kẻ đang làm công tại một tiệm bán hộp sơn mài ở Edo, dựa theo tin tức đã được cung cấp.

Chiếc giỏ tre được nói là do Isuke làm là một món đồ đan bằng tre tầm thường. Nó không có vẻ gì là một tác phẩm xuất sắc, dù là dưới mắt Osugi. Nhưng, hình như Okiku đã dùng chiếc giỏ này rất cẩn thận trong nhiều năm, vì những góc cạnh vẫn còn nguyên không bị hư hại, và mặt tre lên nước do chất béo từ những ngón tay làm cho nó thành màu vàng hổ phách bóng láng như tình yêu của Okiku. Ít nhất một lần mỗi ngày, Isugi sờ vào chiếc giỏ tre một cách nhẹ nhàng, vuốt ve nó như chính nàng là Okiku đã mơn trớn nó mỗi ngày khi còn sống.

– Hồn vía bà hồi này có vẻ như ở đâu đâu. Quên người đàn bà ấy đi cho rồi. Bà đã đối xử tốt với bà ta. Không ai như bà, bận tâm đến một chuyện không đâu quá lâu như thế.

Kumazô nói như vậy. Nhưng vào lúc đêm khuya, trước khi Kumazô trở về nhà vào những lần công việc vác kiệu bắt phải đi xa, Osugi tự nhận ra mình đang lắng nghe ngọn gió bắc, tay vuốt ve cái giỏ tre và thì thầm trong lòng. “Chưa bao giờ trong suốt cuộc đời ta chỉ nghĩ đến một người đàn ông quá lâu như Okiku đã làm.”

Hình như Osugi có một mối ưu phiền lớn không nguôi – không phải vì nàng thiếu hạnh phúc với Kumazô về bất cứ phương diện nào.

“Tôi băn khoăn không hiểu Isuke là loại người như thế nào…Nhưng, đây là điều kỳ lạ đặc biệt. Tôi, sắp sửa bốn mươi tuổi, và đang có những ý nghĩ như vậy!” Osugi tự nhủ.

Những ngày mùa đông qua đi. Quán trà bận rộn vào cuối năm và đầu năm mới, với những lữ khách trên đường lui tới các ngôi đền ở Enoshima hay Ôyama. Công việc chỉ ổn định lại sau tuần lễ đầu tiên của năm mới.

Năm mới này cũng là sinh nhật thứ bốn mươi của Osugi, và nàng nói với Kumazô rằng nàng muốn đi Edo. Nàng bảo muốn ngắm cảnh thành phố và thăm đền Asakusa ít nhất một lần trong đời, và trong khi đó muốn giao trả cái giỏ tre và chiếc kimono. Kumazô đáp rằng nếu việc ấy đem lại sự bình ổn cho tâm trí nàng thì có thể đi một mình. Đây không phải là một cuộc hành trình thơ mộng. Nếu đi nhanh, nàng có thể tới đó và trở về trong đôi ngày, nghỉ đêm tại Edo.

Osugi ra khỏi nhà trước bình minh, với Kumazô tiễn chân vợ lên đường. Ăn vận thích hợp, Osugi đi dọc theo xa lộ Tôkaidô trong ánh nắng dịu dàng đầu xuân, băng qua những tỉnh lẻ Totsuka, Hodogaya và Kanagawa, và nhận ra đang vui hưởng chuyến du hành một mình đầu tiên chưa bao giờ trải qua trong đời. Nàng đã để chiếc kimono sọc do Okiku may vào trong cái giỏ tre do Ikuse đan, bọc bên ngoài bằng một tấm vải vuông và buộc vào lưng giống như Okiku đã làm. Điều đó khiến Osugi khích động, giống như chính nàng thay vì Okiku đang đi tới gặp một người đàn ông. Nhưng Isuke là một con người không tim đã bỏ rơi Okiku trong mười lăm năm dài. Có thể anh ta đã kết hôn với người đàn bà nào khác, và đang nuôi dưỡng một gia đình.

“Ta có nên nhân danh Okiku, nói cho anh ta biết cảm nghĩ của một phụ nữ bị bỏ rơi và thêm vài ý nghĩ của chính mình…”, Osugi tự hỏi.

Osugi ăn trưa với đồ hộp ở Kawasaki, và bầu trời trở nên u ám từ khi nàng đi trên cầu Rôkugô. Vào lúc nàng đi ngang Shinagawa, một trận tuyết nhẹ bắt đầu rơi. Phản ảnh sự thay đổi của thời tiết, tâm trí Osugi mang đầy nỗi oán hận Isuke. Nàng tiếp tục bứơc đi vào ngay khu vực thị tứ của Edo, không cả cảm thấy mệt mỏi, và bây giờ đang vui thích với chuyến đi một mình của nàng.

Trời đầy gió bụi, và tuyết bắt đầu rơi xuống thật sự khi Osugi tới Yashuya ở Yazaemonchô. Yashuya là một cửa hàng lớn, với nhiều rương hộp sơn mài, cả lớn lẫn nhỏ, được trưng bày bên trong. Có những hộp bằng tre lớn và dài, những hộp đan có ngăn kéo. Có rương và một cặp hộp bằng tre để buộc một đầu và khoác trên vai.

Có những hộp tre để vác. Có những chiếc hộp để ở góc nhà, loại hộp lớn để đựng quần áo, thùng đựng sách, và nhiều loại nữa.

Được một người học việc ra tiếp, Osugi cho biết lý do cuộc thăm viếng, một người đàn ông lớn tuổi trong đám thợ đan giỏ trong căn phòng lớn có sàn gỗ nhìn lên và nói:

– Nếu bà đi tìm Isuke, anh ta không có ở đây lúc này.

– Ơ…

– Anh ta là một thợ thủ công giang hồ. Hắn ở tiệm này một dạo vào mùa thu, nhưng không bao giờ tính chuyện ổn định. Thằng cha ấy là một tay thợ vụng, nhưng điều kỳ cục là dường như hắn lại có đầu óc của một bậc thầy.

– Vậy anh ấy không làm ở đây nữa à?

– Thỉnh thoảng hắn tới đây với những rương hộp do hắn làm.

– Bây giờ anh ấy ở đâu?

– Có thể ở dãy nhà trong con đường hẻm ở Shamisen Bori.

Chắc vì tội nghiệp Osugi đã tới cửa hàng trong cơn tuyết đổ, người thợ thủ công già bước ra cửa tiệm và chỉ dẫn đường đi tới Shamisen Bori.

Sau tám giờ tối Osugi mới tìm ra chỗ ở của Isuke trong con đường hẻm, chân nàng lội ngập trong tuyết giờ đã dày tới mười phân tây. Nàng có ý tới gặp Isuke và định sẽ đi tìm chỗ nghỉ đêm sau cuộc gặp mặt.

Nơi Isuke ở là một chỗ trọ hai phòng trong một dãy nhà hư hỏng, với ánh sáng chiếu qua những cánh cửa lùa ở lối vào.

– Xin lỗi, – Osugi gọi to, hạ chiếc nón tre phủ tuyết trên đầu.

Nàng khó nhận ra giọng nói của mình, nó như thật căng và sắc. Nàng bất chợt tự thấy hối tiếc đã đến đây đường đột như thế này. Và, đồng thời cũng cảm thấy sự hiện diện của nàng ở đây có thể an ủi linh hồn Okiku, và có thể giúp nàng xếp lại ký ức về người đàn bà ấy.

– Ai đấy? Ai thì cũng xin mời vào. – Một người đàn ông trả lời sau một thoáng yên lặng.

Osugi phủi tuyết bám trên chiếc kimono và bước vào cửa tiền bẩn thỉu chật hẹp, cúi gập mình và nói:

– Tôi từ Tsujimo đến, và tên là Osugi. Hẳn ông là Isuke.

– Ờ, vâng, chính tôi…

Isuke ngồi trên một chiếc chiếu rơm trải trên sàn gỗ. Hình như anh ta đang uống rượu, và một chai sakê rẻ tiền đang nằm trong tay khi anh nhìn Osugi một cách nghi ngại. Anh ta gầy như một cái gắp than, và hình như vào khoảng bốn mươi tuổi.

“Vậy ra đây là Isuke…Anh ta đang rung động!” – Osugi tự nhủ.

Anh ta có vẻ không giống một người đàn ông chải chuốt, hay vô tình, hoặc là cái gì khác như Osugi đã tưởng tượng. Tim nàng đập mạnh và nàng sợ Isuke, những cảm giác khiến nàng ngạc nhiên về chính mình. Qua tấm màn rách treo bên giường, nàng có thể nhìn thấy chiếc giường ngủ đã được xếp lại và một cái hộp đan dở dang bên cạnh ngọn đèn dầu. Có rất nhiều miếng tre róc và gỗ mỏng bỏ rải rác khắp phòng khiến Osugi khó mà tìm được một chỗ để đặt chân, và cũng nhận ra mùi sơn mài. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm vì không thấy dấu vết của sự hiện diện của một phụ nữ.

“Anh ta ở một mình trong căn nhà này và làm giỏ tre.” – Osugi tự nhủ thầm.

– Bà muốn gì đây, người đàn bà xa lạ này? – Isuke hỏi với nụ cười méo mó, trong lúc Osugi nhìn quanh mà chưa nói ngay nàng đến đây làm gì.

– Ồ, xin lỗi.

Osugi cũng mỉm cười để che giấu sự bối rối. Họ cười và nhìn vào mắt nhau.

“Anh ta có đôi mắt thật đẹp!” Osugi kêu thầm.

Trước đây, chưa bao giờ nàng thấy cặp mắt đẹp như vậy nơi một người đàn ông. Thân hình xương xảu của anh ta có vẻ suy yếu, nhưng nụ cười hóm hỉnh giống như của một thằng con trai vừa bắt được một con côn trùng và không biết có nên thả ra hay không.

Osugi thu góp sức lực và bắt đầu nói về Okiku. Isuke trông xúc động, và nói:

– Mời bà bước vào trong phòng. Xin lỗi vì tôi không đốt lửa sưởi.

Anh ta bước tới cái lò trong bếp, và đứng đó như sẵn sàng châm lửa. Osugi ngăn cản anh ta bằng cách nói nàng sẽ đi ngay, rồi đi vào câu chuyện của nàng trong lúc ngồi xuống bực cửa giữa lối vào và căn phòng. Isuke ngồi xuống sàn lần nữa với hai tay đặt trên đầu gối, lắng nghe trong yên lặng. Nhưng, khi Osugi đẩy tới trước cái giỏ tre đựng chiếc kimono bằng vải, Isuke liếc nhìn rồi quay đi chỗ khác và nói:

– Tôi hiểu rồi. Okiku là…

Anh nhắm mắt yên lặng một lúc rồi nói:

– Cảm ơn bà đã tới đây trong cơn tuyết đổ chỉ để đưa cho tôi vật này. Nhưng, bà phải tự nhìn nhận…là con người hơi đa sự một chút, phải không?

Anh ta phun ra phần cuối cùng của những lời thì thầm, hầu như đang nói với chính mình. Osugi cảm thấy bị xúc phạm. Vậy là cuối cùng anh ta đã để lộ nguyên hình. Máu dâng lên trong huyết quản, nàng cố dằn nén để đừng buông ra những lời buộc tội người đàn ông không trung thành. Nhưng, trong khi nhìn anh ta với sự phản đối trong mắt, nàng nhận ra người đàn ông này đã nói đúng: điều nàng đã làm quả là táo bạo, là hành động của một phụ nữ trung niên đã đi quá xa.

– Vâng, tôi cho rằng đã đến lúc phải đi…

Osugi nói với giọng dằn nén và nghe một cảm giác trống rỗng không diễn tả được. Và cũng khó mà chịu được cái nhìn thương hại của người đàn ông với một bên vai nhô cao và cái đầu treo lơ lửng một cách buồn thảm.

Nàng quay lưng lại người đàn ông và mở cánh cửa lùa. Trong bóng tối của con đường hẻm, những bông tuyết đang rơi xoáy xuống mạnh hơn trước.

– Xin bà đợi một chút.

Osugi nghe giọng Isuke khản đục.

– Trong cơn tuyết nặng như vầy, bà sẽ không kiếm được bất cứ chỗ nào để nghỉ đêm đâu. Mọi quán trọ giờ này đều đã đóng cửa hết rồi.

– Nhưng, tôi phải đi.

Isuke lại nói trong lúc Osugi vẫn quay lưng về phía anh ta:

– Tên bà là Osugi, phải không? Tôi không buộc bà phải ở lại nếu bà không muốn, nhưng xin nói cho tôi thêm một chút nữa về Okiku.

– 3 –

Isuke đốt lửa sưởi cho Osugi, xếp những lát tre vào chiếc thùng sắt rỗng. Osugi không có nhiều lắm để nói về Okiku. Isuke không uống thêm rượu sakê, và gần như hoàn toàn bật động trong yên lặng.

Nhưng rồi anh ta nói:

– Tôi sẽ thức suốt đêm nay để làm cho xong cái hộp đan này, vì vậy bà khỏi bận tâm về tôi và xin cứ vào giường nghỉ.

Isuke nhanh nhẹn dọn chiếc giường duy nhất, kéo tấm màn che quanh giường, rồi đi tới ngồi nơi một góc phòng quay lưng lại Osugi.

Âm thanh từ những phần khác của dãy nhà dài thỉnh thoảng có thể nghe được, nhưng đã trở nên yên lặng từ lâu. Trận tuyết mùa xuân tiếp tục rơi một cách ồ ạt không ngừng.

Osugi quyết định nằm xuống với tất cả quần áo trên người. Nàng không ăn tối và bắt đầu cảm thấy đói nhiều đến nỗi nghĩ chắc không thể ngủ được, nhưng định bụng sẽ nằm cho đến khi trời sáng.

– Thật tội nghiệp cho Okiku, nhưng tôi đã say mê tre như bà thấy đó.

Isuke nói, như đang chuyện trò với chính mình, phá vỡ sự im lặng với cái lưng vẫn quay về Osugi. Rồi, từng chút một, anh ta bắt đầu nói về chuyện của mình.

– Không phải không có những người đàn bà khác sau Okiku. Và đúng là tôi đã bỏ rơi nàng, không có gì thay đổi được điều đó. Nhưng, tôi lang thang từ nơi này tới nơi nọ, nhìn ngắm tre, sờ mó nó, và trở nên đam mê…Và càng đam mê bao nhiêu, nó càng trở nên khó hiểu cho tôi bấy nhiêu…Một khúc tre hay gỗ có một mặt hướng về mặt trời và một mặt ở trong bóng tối, bà biết chứ. Tôi biết điều đó từ khi còn là một đứa bé để mũi thò lò. Vậy mà khi đến Edo như một thợ thủ công, tôi khám phá ra là đã không biết một điều. Osugi, khi so sánh cái mặt có ánh nắng và mặt trong bóng tối, mặt nào bà nghĩ là mềm dẻo và mạnh?

Lời nói thật bất ngờ. Osugi cảm thấy cơ thể căng lên trong bóng tối vì Isuke nói với mình và đáp:

– Vâng, bây giờ tôi không rõ.

Giọng Osugi thật trẻ như của một cô gái khiến nàng ngạc nhiên. Sau một thoáng suy nghĩ, nàng nói:

– Mặt mạnh chắc là mặt trong bóng tối hướng về gió bắc. Và mặt mềm là mặt quay ra ánh mặt trời, phải không?

Thật ra, trước đây chưa bao giờ nàng nghĩ tới cái mặt hướng bắc và mặt hướng nam của cùng một khúc tre lại có những đặc tính khác nhau.

– Tại sao bà nghĩ như vậy?

– Ơ, lạnh và sự bất lợi trong bóng tối làm cho mặt tối cứng mạnh. Và mặt tiếp nhận ánh nắng phát triển dễ dàng. Có phải vậy không?

– Bà nói đúng đấy, Osugi.

– Một nửa.

– Mặt có ánh mặt trời mạnh và cũng mềm dẻo. Mặt tối trở nên cứng và dòn. Con người cũng vậy. Sống trong bóng tốt không tốt. Nó làm cho ta thành cứng khô và méo mó. Hãy nhìn tôi đây, đang ở tuổi bốn mươi và như thế này đây.

Isuke cười thành tiếng như một cách tự chứng minh.

Osugi chân thật nói:

– Không hẳn như vậy. Luồng gió bắc khắc nghiệt làm cho anh mạnh mẽ. Những người chỉ đi trong ánh mặt trời trở thành khô kiệt và kiêu căng, và tôi không thích họ.

– Điều ấy có thể đúng với loài người. Nhưng không đúng với tre hay gỗ. Đó là điều tôi thích ở chúng. Chúng có thể ở trong ánh mặt trời mà không trở thành kênh kiệu với sự quan trọng của chúng. Chúng tiếp nhận những tia nắng và lớn mạnh. Cây lớn lên đầy những cành và ngạnh làm cho chúng vững mạnh. Ta cần đối xử với cả tre và gỗ giống như khi chúng ở trong thiên nhiên. Nếu ta hạ một cái cây đã sống trên núi một ngàn năm và chỉ dùng để làm một cái cột nhà, cái nhà ấy cũng sẽ đứng vững trong một ngàn năm.

Mặc dù cai quản một trà thất có nghĩa là được nghe về đủ thứ chuyện, nhưng đây là lần đầu tiên Osugi được nghe về những điều này.

– Và tre cũng như vậy à?

– Với những cây tre già ba năm hay năm năm, vấn đề là ta đừng xáo trộn mặt có ánh nắng và mặt tối của những lát tre, một hộp sơn mài hay một giỏ đan có thể tồn tại hai trăm hay ngay cả ba trăm năm.

Isuke quay lại đối diện với Osugi và lần đầu tiên mỉm cười sung sướng. Anh ta có vẻ như là một người khác.

– Nhưng, Osugi ạ, để có thể cầm một lát tre lên và qua cảm giác mà nói được nó thuộc phiá mặt trời hay phía bóng tối, phải mất ít nhất là mười năm học hỏi. Rồi dựa vào cảm nhận ấy, ta phải làm nhiều phán định trong việc đan tre. Không ai có thể dạy ta điều đó, và ngay cả nếu ta có thể làm được điều đó cũng không phải như vậy là đã trở thành một tay thủ công bậc sư đâu. Sau khi được luyện nghề khoảng mươi năm, người ta sẽ ba hoa như là một tay thợ thủ công có đẳng cấp, nhưng mà không có bao nhiêu người có thể

đan tre như cách nó lớn lên. Và trong trường hợp những hộp sơn mài, ta che phủ tre bằng giấy và sơn mài làm cho nó khó thở. Điều đó mới lại càng khó khăn hơn.

– Anh đang nói rằng những giỏ tre và hộp sơn mài hít thở à?

– Đúng vậy, Osugi. Người ta nói một cây tre mềm không bị gãy dưới sức nặng của tuyết. Nhưng, ngay cả một thanh tre thoạt trông có vẻ tốt, đừng bị đánh lừa. Tre là vật sống động, và nó đặt loài người chúng ta vào cuộc xét nghiệm. Một thợ thủ công với hai bàn tay đẹp là điều ngu ngốc. Không có gã nào với bàn tay sạch sẽ lại là một thợ thủ công thật sự.

“Với phụ nữ cũng vậy. Một ngưoi đàn bà với hai bàn tay đẹp không bao giờ biết đến sự khó nhọc.” Osugi thầm nghĩ.

Isuke tiếp tục nói với vách tường:

– Một khi bà cầm lên một thanh tre, và sau khi biết nó được trồng ở đồng bằng hay trên sườn một ngọn núi, rồi bà đan nó giống như bà là ánh mặt trời chiếu xuống nó hay là ngọn gió thổi qua nó. Một thợ thủ công kiên trì sẽ đan nó theo cách kiên trì, và một kẻ xốc nổi sẽ đan nó theo kiểu xốc nổi. Tại Yashuya có một thợ thủ công già tên là Matsu-san. Lão khởi sự làm việc trước khi mặt trời mọc, và lúc những người khác trong tiệm thức dậy, lão đã hoàn tất phần lớn công việc, đi tắm, hớp nhanh ly rượu, và ăn điểm tâm. Lão ăn vội vã, và trở lại làm việc ngay. Kiểu cách của ông già ấy trông có vẻ là một tay thợ cần mẫn, được coi là xuất sắc. Nhưng, nếu bà hỏi tôi, cho dù bà có thể làm xong công việc của ba người khi mặt trời còn cao, đó chỉ là sự mau lẹ và làm xong công việc. Đó không phải là một tay thủ công bậc thầy.

Osugi cảm thấy vui thích nhìn Isuke trở nên phấn chấn và nói năng lưu loát như một chuyên gia.

– Ồ, tôi thắc mắc không biết có phải là ông già ấy không. Chính ông ta đã nói anh là một người vụng về và giả vờ như là một tay thủ công bậc sư đấy. – Nàng nói và cười, liếc nhìn Isuke qua chỗ rách trên tấm màn che giường ngủ.

– Vụng về và giả vờ như một thủ công bậc sư không phải là tôi.

– Isuke đáp một cách nghiêm chỉnh – Tôi đã bốn mươi tuổi, và vẫn chưa đan được một món đồ tôi thích. Tôi không thể kiếm được việc làm tại bất cứ tiệm nào, vì vậy phải trôi nổi hết nơi này tới nơi khác như một ngọn gió khô, làm việc như một thợ thủ công lang thang có chút tay nghề. Đó là cái loại người bất hạnh vô giá trị mà tôi tự nhận là mình.

Isuke có vẻ khích động vì những lời tự bôi đen chính mình và chợt im lặng. Rồi nói:

– Nhưng, bà nên ngủ đi một chút.

Bỗng, Isuke chạy ra con đường hẻm.

Trong tiếng tuyết rơi không ngừng, có tiếng người xối nước tắm từ phía cái giếng. Một lát sau, Isuke trở lại, làm như đã quên sự có mặt của Osugi, ngồi thẳng lưng trước cái hộp sơn mài đang làm dở, với cái khăn vắt chéo vòng quanh đầu. Chiếc hộp này dài khoảng một thước và rộng độ sáu mươi phân tây, được dùng như một cái rương để đựng quần áo.

Đã quá nửa đêm từ lâu, và căn phòng trở lại yên tĩnh. Cơn gió có vẻ đã ngưng thổi, tất cả những gì có thể nghe thấy là tiếng động nhẹ của những bông tuyết dày đập vào tấm cửa lùa phía trước. Rồi, từ chỗ Isuke ngồi, có tiếng động khác nữa.

Soạch soạch, soạch soạch…

Nó giống như tiếng một người nào đó thở ra thật mạnh, được tạo ra một cách vô tình khi Isuke đan cái hộp. Qua chỗ rách trên tấm màn che giường, Osugi có thể trông thấy cái lưng người đàn ông.

Hình như Isuke dùng tay phải lấy những lát tre để bên phải và đan nhanh chúng bằng cả hai tay. Phía sau chiếc áo khoác ngắn của anh ta ướt mồ hôi và di động với những rung chuyển nhỏ, rõ ràng phản ảnh sự vận động của những bắp thịt nhỏ, xăn chắc.

Soạch soạch, soạch soạch…

Tấm lưng của người đàn ông trong khi làm việc đã xâm chiếm một cách hoàn toàn vô thức tâm trí người đàn bà tới thăm viếng anh ta vào cái đêm tuyết đổ này và đang nằm ngay bên cạnh anh ta. Dường như nó còn làm phát sinh một sự căng thẳng cao độ như sức mạnh của một ngọn dáo, đồng thời cũng tạo ra trong tâm tưởng ánh sáng mặt trời êm dịu và một cơn gió nhẹ.

Osugi thầm nhủ: “Người đàn ông này đã dâng hiến cuộc đời để làm những chiếc hộp sơn mài kia. Đây không phải là một cơn gió khô, đây là một luồng gió êm ái thổi qua một khóm tre.”

Osugi nghe một cảm giác ấm áp kỳ lạ phát tỏa trong đáy lòng.

Nàng cố nhắm mắt. Trong khoảng đen sau đôi mí mắt, nàng vẫn có thể nhìn thấy cái lưng của Isuke. Soạch soạch, soạch soạch… Sâu trong hai tai, nàng vẫn có thể nghe thấy hơi thở dũng mãnh của người đàn ông. Thân thể nàng dường như trở nên ẩm ướt. Nàng chống cự lại, và cùng một lúc lại ôm giữ lấy nó. Nhưng, nàng mau chóng rơi vào giấc ngủ.

Và nằm mơ.

Chìm sâu giữa những bông tuyết dày mùa xuân đang lặng lẽ tuôn rơi không ngừng, nàng và Isuke, hai kẻ gặp nhau lần đầu tiên trong đời, ôm nhau trong vòng tay. Osugi cầm bàn tay Isuke lên và ép nhẹ vào trước ngực nàng. Có những cục chai thô kệch trên ngón tay anh và vô số sẹo nhỏ, vậy mà lòng bàn tay lại dịu như bột, và những ngón tay cũng mềm mại. “Mi không được, mi không được,” giọng nàng réo gọi từ đâu đó, “chồng của mi cũng có cục chai trên vai vì vác kiệu.” Nhưng, Osugi cảm thấy như cả thân thể và linh hồn nàng tan chảy, và nhìn lên một cách mơ mộng từng bông tuyết đang nhảy múa trong khi rơi xuống từ trời cao đen thẳm. Chỉ có hai người, Isuke và nàng, tràn đầy hoan lạc trong vòng tay của nhau…

Khi nàng thức giấc, mặt trời buổi sáng chiếu chói lọi trên những tấm cửa bằng giấy. Trận tuyết suốt đêm qua đã chấm dứt, và bầu trời trong xanh của buổi sáng đầu xuân làm thành một vòng cầu ở trên.

Có mùi thơm của cơm vừa chín trong không khí. Hơi đang bay ra từ chỗ hở giữa cái nắp và mép chiếc nồi đặt trên bếp lò. Không thấy Isuke đâu cả, nhưng chiếc rương sơn mài đã làm xong được đặt ngay ngắn gần đó, và ngọn đèn dầu vẫn còn sáng trên cái kệ nhỏ gắn nơi vách tường.

– A, bà thức dậy rồi à. Bà ngủ ngon chứ?

Isuke nói với một nụ cười tươi vui. Một bó củ cải trắng vừa rửa xong chĩu nặng trên tay cho thấy Isuke vừa mới ra giếng trở về.

– Tôi rất tiếc đã ngủ quá giấc. Bây giờ tôi sẽ làm việc này.- Osugi nói một cách e thẹn, nhưng gần như giựt mớ củ cải trên tay Isuke.

Nàng khởi sự nấu món xúp misô.

–   Bà là người mà tôi phải cảm ơn về việc đã làm điều tôi ưa thích đêm hôm qua.- Isuke nói trong lúc hút thuốc lá với vẻ vui tươi hiển hiện.

Isuke chăm chú ngắm chiếc rương sơn mài vừa làm xong. Nhưng anh ta lắc đầu nhè nhẹ như thể còn có vài chỗ chưa được hoàn toàn ưng ý.

Dưới mắt Osugi, đây có vẻ như là một tác phẩm tuyệt vời và hoàn toàn độc đáo. Nàng sẽ yêu thích nếu có cái rương sau khi nó được phủ giấy và tráng sơn mài.

Một lát sau, ngồi đối diện nhau trong khi ăn sáng, Osugi bật ra nói với giọng rụt rè:

– Isuke, anh không thể cho tôi coi bàn tay anh, phải không?

– Cái gì đây, một điều hoàn toàn bất ngờ hả?

Isuke đặt đôi đũa xuống với một cái nhìn bối rối, rồi e thẹn xòe cả hai bàn tay. Có những cục chai trên đầu những ngón tay, và những sẹo nhỏ, nhưng trông bàn tay mềm dịu, đen thâm như đã được ngâm trong dầu tre thấm vào những nếp nhăn nhỏ nhất.

– Hai bàn tay dơ bẩn, phải không? Nhưng, nếu tôi rửa sạch tay, chúng sẽ bị tre làm cho xước hay đứt. Bà không thể đan tre nếu không có dầu trên bàn tay. Ngay cả khi bị đứt tay, bà cũng không nên dùng bất cứ loại thuốc mỡ nào. Chỉ việc liếm ít cái và rồi nó sẽ tự lành.

– Vâng, chúng giống như tay của một vị Phật. Cảm ơn anh đã cho tôi xem những ngón tay của anh.

Đã đến lúc phải chia tay. Osugi quá thích cái rương đan sơn mài mà Isuke đã làm xong trong một đêm tuyết đổ. Nhưng, nàng chỉ xin Isuke một khúc tre mỏng và tròn để dùng làm gậy chống đi đường.

Những người ở trong dãy nhà dài đang xúc dọn tuyết đã ngập trong con đường hẻm đến ba mươi phân tây. Isuke đưa nàng tới đầu ngõ Shamisen Bori và nói:

– Đây là một trận tuyết lớn, nhưng tuyết mùa xuân sẽ mau tan. Bà nên cẩn thận trên đường về nhà.

– Tôi sẽ cẩn thận.

– Tôi lại sắp sửa ra đi nữa. Một ngày gần đây, tôi sẽ đi viếng ngôi đền ở Enoshima và chắc chắn sẽ thăm trà thất của bà. Và khi tôi đi, – Isuke nhìn vào mắt nàng và đặt hai bàn tay lên hai vai nàng một cách dịu dàng như cử chỉ của một thanh niên trai trẻ – tôi hứa sẽ đem tặng chiếc hộp sơn mài độc nhất trong đời, chiếc đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ làm được.

Kể từ ngày ấy, năm này sang năm khác, không biết bao nhiêu trận tuyết đã đổ xuống Tsujidô trên Tôkaidô, dù chúng có nhẹ hơn trận tuyết ở Edo.

Con trai của Osugi đã lấy vợ và nàng đã có cháu nội, con gái nàng cũng đã có chồng, Kumazô đã qua đời năm năm trước đây, và Osugi giờ đây đã ở tuổi sáu mươi.

Nhưng, trong suốt hai mươi năm qua, nàng không bao giờ quên Isuke, người đàn ông đã cùng nàng trải qua một đêm tuyết đổ. Đó không phải chỉ là một giấc mơ. Chiếc gậy tre nàng xin của Isuke giờ đây đã lên nước màu vàng hổ phách, được làm bóng bằng chất dầu từ bàn tay già nua của Osugi.

Vào lúc hoàng hôn một ngày tháng Chạp, khi trận tuyết đầu mùa nhẹ rơi lất phất, một ngưoi đàn ông ở lứa tuổi sáu mươi không biết từ đâu tới, ngồi xuống chiếc ghế dài dưới mái hiên trà thất. Osugi với mái tóc bạc bưng cho người lữ khách một tách nước trà đậm.

– Osugi đây, phải không? Cái này là của bà.

Người đàn ông có một cặp giỏ đan nối với nhau bằng một chiếc đai, một cái đeo phía trước và một cái ở đằng sau. Ông ta lấy từ trong một cái giỏ ra một chiếc hộp tre đan sơn mài để đựng sách và trao cho Osugi, nói:

– Một tháng trước đây, Isuke đã chết trên đường đi. Mấy năm sau này, anh ta không thể sử dụng tay một cách bình thường. Anh ta luôn luôn lăn một cặp hột bồ đào trong lòng bàn tay để làm mềm những ngón tay. Nhưng chiếc hộp sơn mài này…

Osugi không nghe gì nữa. Ép chiếc hộp sơn mài bóng láng vào ngực, nàng ngửi thấy mùi cơn gió nhẹ thổi qua bụi tre, và nghe tiếng động của hai hột bồ đào lúc lắc bên trong, va chạm vào nhau với những âm thanh sắc nhỏ. Có lẽ cùng những tiếng động phát ra khi chúng ở trong tay Isuke.

(Hết)

 Truyện Nhật Bản của SAE SHUICHI
 SƠN TÙNG dịch từ bản Anh ngữ của Miyamoto Noriko

Visits: 431

Vĩnh Biệt Đinh Cường

Phạm thành Châu

Họa sĩ Ðinh Cường không còn nữa. Ông đã vào cõi vĩnh hằng ngày 7 tháng 1 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi.

dinh_cuong

Tôi quen biết họa sĩ Ðinh Cường trước năm 1975. Ông dạy hội họa ở Huế, tôi cũng làm việc ở Huế, Sau nầy ông cùng gia đình định cư ở tiểu bang Virginia, tôi cũng định cư ở Virginia. Ông Ðinh Cường có rất nhiều bạn, toàn văn nhân, thi sĩ nhất là giới họa sĩ. Từ khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam, bạn bè thường tìm đến ông. Tôi thì quen ông với tư cách bạn già (cùng trên 70 tuổi). Ði uống cà phê, trò chuyện mà có văn nghệ sĩ thì tôi không đến. Tôi không biết gì về thơ văn, hội họa cả. Chỉ ngày chủ nhật, tôi và mấy người bạn “tay ngang” (không phải văn nghệ sĩ) rủ ông Ðinh Cường ra tiệm phở Xe Lửa của ông Toàn Bò, là nơi tụ tập nhiều ông bạn già vui tính ngồi đấu láo chuyện tào lao thiên địa. Mấy ông bà nghệ sĩ thường tìm đến các tiệm cà phê yên tĩnh hơn. Họ là người cõi trên. Ông Ðinh Cường thì đi đâu cũng được. Ông ít nói. Chọc ghẹo, mỉa mai, châm biếm, kể cả phịa chuyện, ông cũng làm thinh. Có lần, một buổi sáng ở tiệm phở Xe Lửa, ông nhà báo Nguyễn Minh Nữu hỏi ông Ðinh Cường “Hôm qua, lúc hai, ba giờ sáng, ông đi với cô nào ngoài DC.?” (thủ đô Washington DC) Ông trả lời yếu xìu “Làm gì có!” Tài hoa như ông thì ắt lắm cô dụ dỗ. Chuyện riêng đó thì trời cũng không biết được. Vậy mà có người biết, rất rõ. Ðó là bà xã ông Ðinh Cường. Một lần tôi đưa ông Ðinh Cường từ tiệm cà phê về nhà ông ta. Lúc đó bà xã ông ta đang tưới cây trước sân. Xuống xe, ông Ðinh Cường, chỉ chỏ mấy buị hoa, khoe rằng “Hoa nầy đẹp lắm, hoa kia cũng đẹp lắm!” Bà xã ông ta “phán” ngay một câu “Hoa gì? Hoa biết nói!” Ông ta im re, lặng lẽ, nhẹ bước vào nhà. Có tật giật mình. Ðàn bà có thể tha thứ nhưng không bao giờ quên! Chủ nhật sau, tôi ra tiệm phở kể chuyện đó, người ta cười rần rần. Ông vẫn làm thinh. Chúng tôi bảo “Ngậm miệng ăn tiền”. Nói ăn tiền thì oan cho ông ta. Tất cả nhà thơ, nhà văn trên thế giới, kể cả Việt Nam xin tranh bìa (hàng trăm, hàng nghìn) cho tác phẩm của họ, ông đều vui vẻ gửi cho, nhưng không ai trả cho ông một đồng. Họ tưởng văn, thơ của họ quá tuyệt vời, nên họ hạ cố cho họa sĩ Ðinh Cường cái hân hạnh được có tranh bìa của “đại tác phẩm” của họ là đủ mừng rồi, tiền bạc gì! Tôi thì không. Hàng chục năm nay, mỗi năm hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Ðông Bắc Hoa Kỳ ra tờ đặc san mừng Xuân, tôi thường lấy tranh Ðinh Cường (dù lấy trên Internet) tôi cũng bắt Lê Hữu Em (vui vẻ) ký cái check 100 USD cho Ðinh Cường. Trăm đô, chỉ đủ một bữa cà phê với dinhcuong hcmdbạn bè, nhưng là cách mà chúng tôi biểu lộ sự kính trọng và biết ơn họa sĩ Ðinh Cường, một tài hoa của Việt Nam, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm quí giá. Người làm báo ở hải ngoại thường vì lý tưởng và yêu nghề nên chẳng chẳng sung túc gì. Nhưng cũng có báo lưu ý chuyện đó, như báo Trẻ ở Texas và báo Doanh Nhân Cuối Tuần trả nhuận bút đầy đủ cho các bài thơ, bài viết về hội họa của họa sĩ Ðinh Cường. Ông ta ít nói. Có chọc ghẹo, mỉa mai thậm chí gọi ông ta là “Ðại Họa Gia”, ông ta chỉ cười. Có người nói xấu ông ta, nói xấu thậm tệ trên báo khiến nhiều người nổi giận, từ mặt, ông ta vẫn bỏ qua. “Ðại thiền sư” chưa chắc đã đạt được cái tâm bình thản, tự tại của Ðinh Cường. Ðinh Cường rất tốt với bạn. Bịnh hoạn, đi uống cà phê, bạn bè phải đón, đưa, vậy mà nghe bạn ở xa đến, đôi khi, ông tự lái xe đi đón, khiến gia đình lo lắng. Ông yếu người, mấy năm rồi. Một lần, đang lái xe, ông ngủ gục, khiến xe băng qua phần ngược chiều, chiếc xe bể nát, ông được đưa vô bịnh viện. Không sao cả! Lần khác, đang ăn uống với bạn bè, ông gục xuống. Xuất huyết não. Trực thăng đưa vô bịnh viện, mổ. Vẫn không sao. Chúng tôi bảo “Có bỏ ông vô cối giả, ông vẫn không sao cả!” Mới đây, trong một buổi cà phê, ông ta khoe, sắp triển lãm tranh. Tôi có bức tranh khỏa thân “Vũ nữ Kabuki” của Ðinh Cường, ông gạ tôi đổi một bức tranh khác “Tôi sắp triển lãm tranh khỏa thân”. Tôi lắc đầu “Cho mượn thì được. Sao không chép lại một bức giống như thế? Trước 1975, các phòng triển lãm tranh ở Sài Gòn. Hễ có khách hàng ngoại quốc đến mua bức tranh nào thì họa sĩ hẹn ít hôm sau đến lấy. Sau đó người họa sĩ chép lại bức tranh đó, giao cho khách hàng. Những tranh vẽ “Người đạp xích lô trên đường phố Sài Gòn dưới cơn mưa” được khách ngoại quốc ưa chuộng” Ông ta lắc đầu “Vẽ tranh là vẽ cái hồn, cái rung động, cao hứng của chính mình vào tranh. Làm sao vẽ lại lần nữa được?” Phòng khách nhà tôi nhỏ, nhưng đầy tranh Ðinh Cường, như một phòng triển lãm. “Tư cách” tôi chỉ chơi tranh cỡ nhỏ. Bức họa “Vũ Nữ Kabuki”, khỏa thân, khổ nhỏ. Tôi cắt một miếng giấy nhỏ, dán chỗ bụng, như chiếc váy. Bạn đến, tôi bảo “Thổi cho váy tốc lên. Sẽ thấy…” Vậy là ai cũng ngạc nhiên, thích thú khi chiêm ngưỡng đóa hải đường lồ lộ khoe sắc.

         Họa Sĩ Ðinh Cường bị ung thư. Những ngày cuối cùng, ông vẫn tỉnh táo, không lộ vẻ khó chịu hay đau đớn, nghe nói còn trả lời điện thoại, vẽ, làm thơ. Lúc ra đi, ông bình thản, thảnh thơi. Có lẽ không phải vì bịnh phác tác hay di căn mà vì “chemo” (hóa trị) quá mạnh, sức yếu, ông không chịu nỗi.

       Tôi ước được ra đi như Ðinh Cường. Nhẹ nhàng, nhanh chóng, không làm phiền người khác. Sống đến bảy mươi tuổi là quá đủ. Già cả, bịnh tật, lú lẫn…Sống thêm được gì?

Phạm Thành Châu

Visits: 463

Cô Gái Huế với Tranh Thiếu Nữ của họa sĩ Ðinh Cường

Phạm Thành Châu

dinh cuongthieunutrong thanhnoi-1984

Trí nhớ, khoảng năm 1970, sau khi tốt nghiệp trường Hành Chánh, tôi được bổ về Thừa thiên, Huế, làm việc.  Nhiệm sở là quận Quảng Ðiền, với chức vụ Phó Quận Hành chánh. Quảng Ðiền cách Huế vài chục cây số, có cái địa danh rất nhiều người biết là phá Tam Giang với hai câu thơ “Thương em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. Phá Tam Giang cách quận lỵ, là chợ Ngũ Xã, chừng một cây số.

Thỉnh thoảng tôi ra đứng nhìn cái đầm nước rộng mông mênh đó mà chẳng thấy một chút xúc động, mơ mộng nào. Phía bên kia mờ mịt bờ dương liễu xanh thẫm, xa đến nỗi thành một vạch dài, chia cắt nước với trời. Sau lưng tôi là bờ đất với những cây dại rải rác. Làng xóm ở tít đằng xa. Sau lũy tre xơ xác là những ngôi nhà tre lụp xụp bên cạnh những thửa ruộng, những con đường quê vắng vẻ. Chiến tranh đã tiêu diệt một số người, một số khác tìm về thành phố sống lây lất, chỉ còn lại những người liều chết, sống bám ruộng đồng để săn sóc mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ …

Không rõ thời phát sinh hai câu thơ trên, phá Tam Giang nguy hiểm ra làm sao, chứ lúc đứng nhìn mặt nước yên tĩnh, bao la, tôi chẳng thấy sóng gió gì cả. Vậy mà cái anh chàng bạc tình nào đó nỡ ngâm nga hai câu thơ trên để nại lý do không thể vào Huế gặp “em”. Hay là anh ta cũng có cố gắng vượt truông nhà Hồ vào đến phá Tam Giang, thấy cảnh vật quá đìu hiu, anh ta cụt hứng, tặc lưỡi một cái và quay về với cô hàng xóm?

Ðã vậy có người còn bày đặt, thêm hai câu “Phá Tam Giang giờ này đã cạn. Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm”. Cô nào mà thèm nói như thế ? Thứ con trai hèn nhát, “thiếu tư cách” cỡ đó mà người đẹp phải năn nỉ ? Cô gái Huế, từ bao đời nay, là tiểu thư khuê các, vương tôn công tử thiếu điều quỳ lạy, chắc gì được để mắt đến, chưa nói đến gia pháp nghiêm minh, kín cổng cao tường, làm sao có chuyện liên hệ nam nữ, dù là quen biết, với một người con trai ở xa đến độ phải vượt truông nhà Hồ, vượt phá Tam Giang?…

Ủa? Thế còn tranh thiếu nữ của hoạ sĩ Ðinh Cường đâu, sao không nói đến? Xin thưa, vì yêu cô gái Huế quá nên tôi lạc đề. Mà cái tình yêu đó có nguyên nhân sâu xa nên tôi xin được phép dài dòng thêm chút nữa.

Năm đó tôi khoảng 15 tuổi, ở Hội An. Nhân dịp nghỉ hè, tôi rủ thằng bạn hàng xóm (đó là thằng Ðỗ Ðình Tân), hiện nay ở Philadelphia, làm một chuyến phiêu lưu ra Huế. Hai đứa tôi chưa biết Huế bao giờ, không có bà con nào ở Huế, vậy mà cứ đón xe đi bừa. Trong túi chẳng có nhiều, chỉ đủ trả tiền xe đò, còn thừa chút đỉnh thì ăn bánh mì không (không có nhân), uống nước máy bên đường. Chúng tôi xuống xe ở bến An Cựu, bắt đầu lang thang khắp nơi. Ðến giốc Nam Giao, qua nhà ga, thăm trường Ðồng Khánh, trường Quốc Học, qua cầu trường Tiền, đến chợ Ðông  Ba, vào thăm Ðại Nội…  Nghĩa là đọc sách, rồi hỏi người ta nơi nào nổi tiếng ở Huế là đến. Buổi chiều, sau khi rã cẳng, hai đứa tôi đến bãi cỏ trên bờ sông Hương, ngay trước  nhà sách Ưng Hạ  nằm dài ra, vừa chuyện trò vừa đón gió mát… Khi đèn đường sáng lên thì trời cũng chạng vạng. Hai đứa tôi chợt thấy bên kia đường, một cô bé đi qua, tay ôm chiếc chiếu. Cô lớn hơn tụi tôi khoảng vài tuổi, người mảnh khảnh, tóc ngang vai, mặt trái xoan dài trông vừa yểu điệu vừa ngây thơ. Có lẽ cô xem hai đứa tôi như em nên cử chỉ, lời nói rất tự nhiên tuy trong lúc đối đáp cô không xưng chị mà cũng không gọi tụi tôi bằng em. Giọng vui mà dịu dàng, cô nói là cho tụi tôi mượn chiếc chiếu để ngủ, sáng mai đem trả lại. Cô chỉ nhà cô, bên kia đường. Có lẽ ba mẹ cô đứng trên lầu thấy hai thằng nhỏ vô gia cư nên sai con gái đem qua cho mượn chiếu. Chúng tôi rất cảm động, lí nhí cám ơn. Ðã tử tế cho mượn chiếu, cô còn ân cần hỏi thăm mấy câu “Nhà ở mô?” “Ở Hội An” “Hội An là ở mô?” “Ði vô Ðà Nẵng rồi đi vô Hội An, xa lắm” “Có đi học không?” “Có, học trường Trần Quý Cáp”. Cô cười, miệng rất đẹp, mắt cũng rất đẹp. “Con trai đi chơi sướng hỉ”. Cô đi qua đường, vô nhà rồi mà hai đứa vẫn còn ngẩn ngơ. Ðược người đẹp nói chuyện thân mật như thế, là lần đầu trong đời nên tôi cứ tưởng cô là cô tiên trong truyện cổ tích vậy. Và hình ảnh cô, lời cô nói, đôi mắt, miệng cười của cô, tôi nhớ mãi đến bây giờ … Buồn ngủ lại gặp chiếu hoa, lại là chiếu do người đẹp đưa, chúng tôi trải lên cỏ, êm như nằm nệm. Hai đứa tôi ngủ thẳng một giấc đến sáng. Tỉnh dậy mới biết là bị mất giày sandale (giày có quai) và cả mũ hướng đạo (mũ rộng vành) nữa. Thời đó, giày có quai và mũ rộng vành là thời trang của học trò. Ðành mua một đôi giép rẻ tiền đi tạm.

dinhcuong theo em ve hue

Chừng đó tuổi mà tôi đã biết mê gái, nên tôi giành phần đi trả chiếu. Lần này tôi thấy cô đẹp hơn hôm qua, nhưng không biết làm thế nào để kéo dài thời gian gặp gỡ, tôi đành hỏi “Xuống sông tắm có được không?” Cô nhìn tôi, mắt sáng trưng vẻ như ngạc nhiên và cô cười “Ðược.” Ðoán chừng cô sẽ lên lầu xem hai đứa tôi làm gì nên tôi nổi máu anh hùng, cởi đồ nhảy xuống sông biểu diễn bơi lội. Cái bờ sông Hương rất cao, đứng nhìn qua bên kia, thấy gần nhưng xuống nước tôi bơi hoài, mỏi nhừ cả chân tay mà vẫn chưa đến bờ. Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp thì sông Hương đâu phải hẹp. Khi đến bờ bên kia, tôi sợ quá không dám bơi trở lại nữa. Thế là tôi cứ mình trần, mặc chiếc quần đùi ướt mem, chạy dọc bờ sông, lên cầu Trường Tiền, chạy vòng về chỗ cũ. Xứ Huế, bấy giờ, các bà gánh hàng bán ngoài chợ còn mặc áo dài, thì cảnh một thằng nhỏ cứ trần trùng trục chạy ngờ ngờ qua cầu trên đường phố là một chuyện lạ. Có lẽ họ tưởng tôi điên. Khi về đến  nơi, tôi nhìn qua bên kia đường, thấy cô bé đứng trên lầu, tựa lan can, nhìn tôi cười. Tôi không nhớ mình có mắc cỡ không, nhưng tôi cũng nhìn cô cười. Và tôi yêu cô ta từ đấy. Tự nhiên mà yêu chứ chẳng có nguyên nhân nào cả. Vì yêu cô bé đó mà tôi yêu lây tất cả các cô gái Huế. Tôi yêu lòng tốt của cha mẹ cô và yêu thương luôn người dân Huế .

Thời đó còn nghỉ hè, trường học đóng cửa, nhưng tôi cũng có gặp được nhiều người đẹp trên các đường phố. Cô nào cũng đẹp dịu dàng và làm điệu khi được con trai nhìn. Dĩ nhiên hai thằng nhà quê, ngơ  ngáo như tụi tôi thì cô nào mà thèm làm điệu.

Sau này, khi vào Sài Gòn học, xem triển lãm tranh của họa sĩ Ðinh Cường, thấy tranh thiếu nữ của ông ta, tôi biết ngay là ông vẽ các cô gái Huế. Ðúng hơn, ông vẽ cô bé mà tôi yêu. Nếu Từ Bi Hồng của Trung Hoa ngày xưa nổi tiếng vẽ về ngựa thì họa sĩ Ðinh Cường vẽ tranh thiếu nữ là tuyệt vời. Vị nào đã sống ở Huế một thời gian, đã thấm được cái hồn của Huế, đã cảm nhận được những gì giấu kín sau gương mặt bình thản như lạnh lùng của cô gái Huế thì mới thấy tranh ông đã thể hiện được cái nội tâm bí ẩn đó Dòng sông Hương lặng lờ, những con đường yên tĩnh. Ðại nội, lăng tẩm, đền đài lúc nào cũng như ngủ say với thời gian, ngay cả con người trên đường phố, cũng di chuyển từ tốn, thong thả … Nhưng không ai biết rằng, trong những khu vườn tưởng chừng vắng vẻ, trong những ngôi nhà cổ kính im lìm, ngay cả trong những cửa hàng buôn bán, những cuộc gặp gỡ quen biết, bao giờ cũng xôn xao những tin đồn, những lời đàm tiếu khắt khe, có khi đến cay độc của những người đàn bà, những cô gái thì thầm về những người đàn bà, những cô gái khác. Và thế là, như một truyền thống tất cả đều được giấu kín. Các cô, từ bé, đã được dặn dò là phải đề phòng một thứ gió độc, vô hình nhưng nguy hiểm, đó là dư luận. Người lớn tuổi làm gương cho lớp trẻ thấy cách thức che giấu những ý nghĩ, những tình cảm của mình. Nhưng khổ nỗi, tuổi mới lớn nào mà không mơ mộng. Tâm hồn cô nào cũng như sợi tơ trước gió, chỉ một chút giao động là đã ngân lên biết bao âm điệu ngọt ngào, thánh thót. Nhưng biết làm sao? Chỉ có họa sĩ Ðinh Cường mới “vẽ ” được những bâng khuâng, những mơ mộng vẩn vơ đó ẩn dưới cái vẻ yểu điệu thục nữ, dưới gương mặt dịu dàng nhưng làm như vô tình  của các cô gái Huế.

Thời còn đi học ở Sài Gòn trước 75, xem tranh Ðinh Cường, bao nhiêu năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ hầu  hết các tranh thiếu nữ của ông, chân tay khẳng khiu, cổ cao, ngực chưa phát triển. Ðó là những cô bé điển hình trong những gia đình nền nếp ở Huế. Các cô được nuông chiều quá nên thành nhõng nhẽo, khó tính. Các bà mẹ thường kêu lên “Nó không chịu  ăn. Có ngon bao nhiêu, dỗ dành bao nhiêu, cũng chỉ ăn có chút xíu. Không biết tại sao nữa?” Thì tại sao! Tuổi đó phải ăn quà rong mới lớn được. Tuổi đó phải nô đùa, cười nói, chạy nhảy mới phát triển. Mà các bà mẹ Huế thì cấm tiệt. Thỉnh thoảng lắm, các cô mới lén rủ nhau đi ăn chè Cồn, ăn bánh bèo Vỹ Dạ. Bún mụ Rớt thì chỉ nghe người khác khen ngon hoặc họa hoằn lắm mới liều đi ăn thử, để biết với bạn bè . Ở nhà cũng có bún, có chè, nhưng các cô không thấy ngon vì không có bạn bè cùng sì sụp với nhau. Các cô không thấy ngon vì thiếu cái khung cảnh chộn rộn của quán ăn, thiếu làn gió mát sông Hương, thiếu cây cỏ, đường đất khó khăn khi chở nhau trên chiếc xe đạp và nhất là thiếu bóng dáng mấy cậu học trò cứ lởn vởn, lượn lờ chung quanh với những lời chọc ghẹo vu vơ, bóng gió …

Tôi nhớ mãi bức tranh ông vẽ một cô, giống cô bé đã cho hai đứa chúng tôi mượn chiếc chiếu. Cô choàng khăn nhiều màu rực rỡ. Có lẽ vào mùa thu, gió thổi tung chiếc khăn, thổi tung cả mái tóc, thổi tung cả tâm hồn mới lớn, yêu người, yêu đời của cô… Và những cành lá của hàng cây bên đường cũng lao xao, rung động. Nền là bầu trời xám nhưng vẫn còn sáng lên những tia nắng rực rỡ … Vẻ mặt cô điềm tĩnh, nhưng người xem vẫn cảm nhận được những xao xuyến trong lòng cô. Một bức khác, vẽ những cô gái đi chơi xuân. Hoa nở khắp nơi, hoa nở chung quanh các cô. Hàng cây bên đường cũng sáng lên như nở hoa. Vẫn những cô gái mới lớn nhưng trông các cô vui và bối rối, như đang túm tụm, quýnh quýu với nhau. Người xem tranh cứ tưởng vì mình ngắm các cô trong tranh khiến các cô mắc cỡ nhưng vui thích. Một bức khác vẽ một cô đi học, mắt nhìn thẳng, vẻ tự tin và “xem thường bọn con trai”. Bạn có khi nào ra Huế và đứng ngắm các cô nữ sinh Ðồng Khánh đi học về chưa? Nếu bạn gặp các cô về trên con đường nhỏ trong Thành Nội thì càng thú vị. Nên thơ vô cùng. Nhưng dù gặp bất cứ đâu, cũng chẳng có cô nào thèm nhìn bạn. Có điều bạn không ngờ, chỉ một cái liếc mắt, dáng người, vẻ mặt cử chỉ bạn đã được các cô nhận biết rất rõ ràng, tỉ mỉ. Các cô còn biết bạn nhìn cô nào nhiều nhất nữa. Nhưng tuyệt đối, không có cách nào bạn gợi chuyện mà các cô trả lời. Vì hễ trả lời là các cô bị dư luận đàm tiếu ngay. Ở Huế, hàng cây bên lối đi, ghế đá công viên, đèn đường buổi tối, bờ sông lộng gió … Chúng như có mắt có tai. Cô nào gặp ai ở đó, nói gì, làm gì, tức khắc, chúng kêu lên và cả thành phố đều biết. Các cô uất ức lắm, chỉ muốn phá vỡ, đạp tung ra, nhưng không được. Vậy là các cô làm cách mạng trong văn, thơ. Những chuyện tình nóng bỏng, những giao tiếp nam nữ nồng nàn, cuồng nhiệt… Các cô tung hê, rên rỉ, chửi rủa. Và chửi rủa thẳng vào cái nề nếp cổ hủ, khắt khe, lạc hậu của dư luận xứ Huế. Ða số các nữ sĩ nổi tiếng đều là người Huế. Có một cách giải thoát nữa là các cô theo gia đình ra khỏi Huế.  Lúc đó các cô như chim sổ lồng. Các cô vui tươi, thảnh thơi, thoải mái. Các cô cùng bạn bè thả rễu trên đường phố, liếng thoắng cười nói, cãi vã, sà vào hàng quà rong, chép miệng, hít hà vì cay, vì ngon, chẳng thèm nhìn chừng chung quanh như lúc còn ở Huế. Trong sân trường, các cô chạy nhảy, đuổi bắt nhau, rồi đốp chát, cả đến chọc ghẹo các bạn trai.

Thời còn trung học, ở trong Nam, lớp bạn có cô nào người Huế không? Thật tuyệt vời. Cả lớp như hân hạnh có được cô bạn tiểu thư đến học chung. Bạn vào lớp mà lòng cứ háo hức, muốn nổi bật trước người đẹp, nhất là khi được cô ta chuyện trò với bạn bằng thứ tiếng Huế pha giọng miền Nam, thì tim cứ mềm nhũn ra! Giọng cô vừ thánh thót  vừa ngập ngừng như nũng nịu .. Nũng nịu vì biết bạn bè, cả bạn gái nữa, thương yêu, nuông chìu.

Làm việc ở Huế, tôi thường lảng vảng trước nhà cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, trên đường Trần Hưng Ðạo, nhưng hình như nhà đã đổi chủ. Không thấy cô nhưng hễ đi ngang qua là tôi vẫn dòm chừng, vừa hy vọng vừa buồn vẩn vơ. Tôi  được biết họa sĩ Ðinh Cường cũng ở Huế, ông dạy Hội họa ở trường Mỹ thuật,  và các trường Ðồng Khánh, Quốc Học, Thành Nội (Hèn chi ông vẽ các cô nữ sinh Ðồng Khánh hay quá!), nhưng tôi không quan tâm đến ông, chỉ chờ ông triển lãm tranh để đi xem mà thôi. Vả lại, mình không phải văn nghệ sĩ, tiếp xúc với họ, mình thành lạc lõng ngay. Chuyện gặp gỡ sau đây, bạn sẽ thấy các ông văn nghệ sĩ, càng tài hoa càng không giống “người phàm” chút nào.

dinhcuong de nho hue

Một buổi tối, có người bạn đánh xe đến rủ tôi vào Ðại nội thăm họa sĩ Ðinh Cường. Xe chạy qua cửa Hiển Nhơn, vào các con đường hẹp, lát đá, hai bên là tường cao, cây cối um tùm, đèn đường tù mù, vàng vọt. Ðại Nội, tức hoàng cung là nơi gia đình nhà vua ở và làm việc, nay bỏ hoang. Ban ngày, vào Ðại Nội, đã thấy vắng vẻ, ban đêm lại càng âm u như cảnh liêu trai, người lẫn lộn với hồn ma, bóng quế. Nhà hoạ sĩ Ðinh Cường ở cạnh trường Mỹ Thuật Huế, trước đây là văn phòng của hoàng đế Bảo Ðại khi ngài còn làm Quốc trưởng. Khi chúng tôi xuống xe, đã thấy trước nhà ông mấy vị ngồi quanh một cái bàn nhỏ, tay cầm một ly rượu, im lặng như mấy pho tượng. Bạn tôi giới thiệu tôi với họ, chỉ thấy họ gục gặc đầu thay lời chào. Tôi cũng làm như vậy cho hợp cách. Tôi được biết đó là những họa sĩ Văn Ðen, Mai Chửng, Hiếu Ðệ, Bửu Chỉ, Trịnh Cung… và một số nhà văn nổi tiếng từ Sài Gòn ra. Rồi ông Ðinh Cường từ trong nhà đi ra. Ông rót cho chúng tôi ly rượu, tôi cũng cầm và ngồi xuống như họ. Ngồi một lát, tôi chán, đòi về. Lúc đó ông Ðinh Cường mới nhờ tôi sáng mai, chủ nhật, đưa dùm mấy người bạn từ Sài Gòn ra, đi xem lăng tẩm, chùa chiền. Tôi nhận lời nhưng báo trước là xe tôi tệ lắm, sợ mất uy tín mấy ông mà thôi. Nguyên nhân, là khi về nhận nhiệm sở thì không có phương tiện cho ông phó (là tôi) đi công tác. Tay Quận trưởng mới lôi chiếc xe Jeep phế thải từ thời Thế chiến thứ hai ra, kêu mấy tay thợ sử máy cày đến, đục đục, gõ gõ, lui cui mấ ngày thì xe nổ máy, nhưng cái trần thì mục rã, thành một lỗ trống hoác phía trên. Sáng hôm sau, khi tôi đưa chiếc xe cà tàng đó đến thì các ông đứng sẵn ở đấy cứ trố mắt ra mà trầm trồ, suýt soa, coi bộ khoái chí lắm. Khi xe chạy, các ông chen nhau đứng lên, thò đầu qua cái trần xe thủng, nhìn phố xá, nói cười hí hửng như trẻ con. Thiên hạ đi đường nhìn các ông mà kinh ngạc. Cả đến ông cảnh sát chỉ đường trước ty Thông tin cũng đứng nhìn sững, quên cả nhiệm vụ. Nhưng khi xe ra ngoại ô, đến chùa Từ Hiếu thì các ông trở lại yên lặng. Mỗi ông đứng riêng một góc. Ông thì nhì vô chùa, ông thì ngóng ra đồi thông, ông lại quay ra mấy cái mả … Chẳng biết các ông suy nghĩ gì mà không nói với nhau tiếng nào? Tôi chán nhưng cũng đành ngồi ngáp gió, chờ các ông chứ không bỏ về được. Xem thế đủ biết các ông văn nghệ sĩ không giống ai. Nhưng cũng có nhiều người lại thích giao thiệp với họ, kiểu dựa hơi để kiếm chút thơm lây. Giống như tên đánh xe cho quan Tể tướng ngày xưa bên Tàu vậy. Người ta chào quan Tể tướng mà tên đánh xe tưởng người ta chào hắn, mặt cứ vênh lên. Thì chính tôi cũng là tên đánh xe, đang khoe nhặng lên đây nè !

Nữa, lại lạc đề rồi! Xin lỗi, tôi xin trở lại chuyện tranh thiếu nữ của họa sĩ Ðinh Cường. Năm 75, sập tiệm. Tôi đi tù rồi đi HO qua Mỹ. Xui khiến sao tôi và hoạ sĩ Ðinh Cường ở cùng tiểu bang Virginia, nhà cũng gần nhau. Ông không nhớ ra tôi nhưng tôi thì nhận ra ông vì ông trông giống hình ông Tổng thống Mỹ trong tờ trăm Ðô la.

Tôi xin phép được đến nhà ông để xem tranh.  Tranh ông bây giờ tuyệt vời hơn trước, từ bố cục, đường nét đến màu sắc. Nhất là màu sắc, ông đi màu như ông đã “ngộ ” với màu, chìm đắm, hòa nhập với màu vào tranh. Ông vẽ tranh bằng cái tâm, cái hồn của ông chứ không bằng tay, bằng cọ … khiến người xem rung động, hạnh phúc… Nhiều nhà văn, nhà thơ hải ngoại ra sách đều nhờ ông cái tranh bìa. Thơ, truyện có hay có dở, nhưng rủi mua nhằm sách dở thì cái tranh bìa Ðinh Cường cũng an ủi rất nhiều. Cái bìa lộng lẫy, sang trọng đã đáng tiền rồi.

Có lần nghe đài RFI (Pháp) phỏng vấn, ông bảo có chịu ảnh hưởng của họa sĩ Modigliani, nhất là về tranh thiếu nữ, nhưng tôi vẫn thấy tranh ông có những nét độc đáo, rất Việt Nam, rất Huế.  Hình như ông đang mở ra một hướng mới cho tranh ông. Có những bức tranh, phải vừa thưởng thức vừa suy tư để tìm xem nhân vật trong tranh đang nghĩ gì, và sẽ làm gì ?… Tuyệt vời nhất là tranh khỏa thân. Chỉ vài đường cọ, tất cả hiện nguyên một cô gái. Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Nhưng trông cô ngây thơ, hoang dã và thánh thiện đến độ người xem không thấy ham muốn gì hơn là ao ước được ôm hôn cô và cảm thấy mình cũng thánh thiện như cô. Tôi nhớ cô bé ngày xưa, nhớ tranh thiếu nữ của ông quá. Tôi đến để tìm xem, nhưng ông không còn vẽ các cô  gái mới lớn nữa mà ông vẽ các cô đã trưởng thành, nẩy nở toàn vẹn, giống như tranh phụ nữ vài thế kỷ trước. Nhưng tranh cổ điển quá khêu gợi, quá dung tục. Tranh ông kín đáo hơn. Chỉ để lộ một phần quần trắng ở chỗ mông tròn lẳn, thơm tho, như mời gọi, mà tà áo dài không che hết được. Vẻ mặt cô gái như trầm ngâm, suy tư…

Tôi nghĩ đến cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, bây giờ có lẽ cô cũng đã lớn như thế Nhưng hiện nay cô ta ra sao? Cô ta ở đâu? Cô đâu có ngờ rằng, một lần cô vô tình nhìn tôi cười mà tôi nhớ đến cô mãi.

Họa sĩ Ðinh Cường không còn vẽ tranh thiếu nữ tuổi mới lớn nữa. Ông đã để những cô bé mới lớn đó và cả những mơ mộng, nhớ nhung vẩn vơ của tôi ở lại bên kia bờ đại dương xa xôi.

Phạm Thành Châu

Visits: 1385

Nhất Chi Mai

Phạm Thành Châu

“Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai”    

                    Thiền sư Mãn Giác

nhâchimai   

Lúc còn dưới tiểu học, bài tập làm văn nào cũng bắt đầu bằng hai chữ nhân dịp, kể chuyện nầy tôi cũng xin “nhân dịp”.

Nhân dịp được thất nghiệp, máu giang hồ nổi lên, tôi bèn rủ một người bạn làm một chuyến du lịch vòng quanh nước Mỹ để thăm bạn bè. Bạn tôi có số nhờ vợ. Vợ chồng hắn có một tiệm chạp phô bán gạo, mắm, ớt, tỏi đủ thứ bà rằng. Vợ hắn cưng hắn rất mực, hễ hắn làm gì có vẻ lao động chân tay là bị cự ngay “Không ai mượn làm chuyện đó, tránh ra!” Ðúng là hắn tốt nghiệp “ngạch cai trị”! Hắn muốn gì, vợ hắn đều răm rắp tuân lịnh một cách vui vẻ. Còn tôi thuộc loại tứ cố vô thân, chẳng có vợ con, nhà cửa gì nên rất thảnh thơi.

Chúng tôi ở miền Ðông Bắc Hoa Kỳ, dự định đi xuống miền Nam, vòng qua Cali, rồi lên phía Tây Bắc.

Lúc đó vào cuối năm âm lịch, khoảng tháng hai dương lịch mà tuyết và gió lạnh vẫn chưa bớt, nhưng càng về phương Nam, trời ấm dần. Trạm đầu tiên cũng là trạm chính mà tôi cố ý ghé là nhà Hùng ở tiểu bang Georgia. Vợ chồng Hùng đã chờ sẵn ở phi trường đón chúng tôi về nhà. Hôm đó đúng vào ngày ba mươi Tết, trời đã về chiều, gió hơi lạnh lại lất phất mưa, giống hệt những ngày giáp Tết ở miền Trung Việt Nam. Nhà Hùng không lớn lắm nhưng có vườn cây cảnh rất đẹp, đứng trên lầu nhìn ra giòng sông phía xa, bên kia là những đồi cây xanh, lờ mờ trong sương như một bức tranh Tàu. Hai đứa tôi được giành cho hai căn phòng nhỏ trên lầu. Tắm rửa xong thì đã sẵn một bàn đồ nhậu ở sân thượng mà Hùng gọi là tiệc đón Giao Thừa. Vợ Hùng làm đồ nhậu rất tuyệt. Nhớ lại sau ngày sập tiệm bảy lăm ở Sài Gòn, mấy tay hành chánh chạy được về cũng khá đông, thường được Hùng mời về nhà nhậu mấy bữa trước khi đun đầu vô rọ cải tạo. Hùng làm ở Bộ Kinh Tế nên thời gian đầu vẫn được “lưu dung”, sau khi mấy cậu việt cộng quen việc rồi thì được đuổi về, dù sao cũng thoát được nạn đi tù.

 Vợ Hùng, người Bắc, rất khéo chế biến món ăn. Cô ta vẫn như trước kia, thỉnh thoảng dưới bếp chạy lên canh chừng, xem thiếu món gì thì tiếp tế. Cô có một đức tính rất quí là chẳng bao giờ bỏ vào tai những gì chúng tôi nói với nhau. Bây giờ lớn cả rồi, chuyện lăng nhăng không còn thú vị nữa. Chúng tôi thích nói chuyện mĩa mai, thâm thúy hơn. Sau hơn hai mươi  năm chúng tôi mới gặp nhau, ôn lại bao kỷ niệm, từ những ngày sống trong ký túc xá ở đường Trần Quốc Toản cho đến khi ra trường mỗi đứa một nơi. Chúng tôi chỉ kể lại những chuyện vui, chuyện oái ăm thôi. Thực ra, ở tù rồi ra tù, đâu cũng vậy, chẳng có gì đáng buồn. Ngay cả việc tôi bị vợ bỏ cũng chẳng làm tôi quan tâm, tuy nhiên bạn bè thường rất ngại, không muốn nhắc đến chuyện đó, tưởng như thế là lấy cây mà chọt vào vết thương lòng của tôi khiến tôi đau đớn lắm. Ai cũng coi tôi như kẻ ngã ngựa, bỏ vợ thì được chứ vợ bỏ đúng là mất mặt nam nhi. Ngày tôi qua xứ Mỹ, có được số điện thoại, tôi gọi cho Hùng, vợ Hùng mừng lắm cứ giành điện thoại hỏi tôi đủ điều, nhưng khi nghe tôi bảo “Bị vợ bỏ rồi” là không hỏi nữa. Ðàn bà rất tò mò chuyện nầy, vợ Hùng coi bộ ấm ức muốn biết vì sao tôi bị vợ bỏ? Bây giờ vợ tôi ở đâu, có chồng khác là ai? Tôi biết tâm lý đó nên khi rượu đã ngà ngà, tôi bảo.

– Tôi biết bà Hùng muốn nghe chuyện tôi bị vợ bỏ ra sao. Bây giờ tôi kể, coi như món quà tôi tặng bà, để bà khỏi thắc mắc hoài tội nghiệp.

Cô ta làm bộ miễn cưỡng.

– Cái ông nầy! Ai lại đi nghe chuyện đời tư của người ta.

– Bộ bà không muốn nghe sao? Thì thôi, tôi kể nho nhỏ cho phe đàn ông nghe.

– Ông nầy… Cứ coi như chuyện đùa. Nhưng ông kể chứ không ai ép đâu nhé!

– Nhưng bà đã lo cho mấy đứa nhỏ ăn chưa, hay bắt chúng nhịn miệng đãi khách?

– Có cô chúng lo rồi. Ðáng lẽ cho cô ấy và các cháu lên chào hai bác, nhưng vì hai bác còn mệt nên để ngày mai.

– Ðược rồi ngồi xuống đấy, tôi kể, nhưng hơi dài dòng một chút. Tôi quen vợ tôi trong một tiệc cưới của một người bà con ở Ða Lạt. Lúc đó tôi học năm thứ hai Ðốc Sự Hành Chánh. Tiệc cưới nào cũng giống nhau, nhưng mình là người ở Sài Gòn náo nhiệt, lên Ða Lạt tự nhiên thấy khác liền, cảnh đẹp mà buổi tối thật yên tĩnh. Tôi được xếp ngồi cạnh một cô gái coi cũng đẹp, nhưng điều làm tôi chú ý là vẻ điềm đạm, chín chắn của cô. Cô thường yên lặng như chìm đắm vào một ý nghĩ nào đó. Tôi gợi chuyện thì được biết cô đang học luật ở Sài Gòn. Chúng tôi trao đổi nhau địa chỉ trước khi ra về, nhưng ngay lúc đó trời đổ mưa. Tôi hỏi cô ta về bằng gì, cô bảo có người nhà đem xe đến đón. Từ nhà hàng ra cổng phải qua một vườn hoa, tôi hỏi cô xe hiệu gì, màu gì để tôi ra xem chừng, hễ xe đến tôi sẽ báo, cô khỏi phải ra vào ướt át. Cô bảo nhà có ba chiếc xe nhỏ nên không biết xe nào sẽ đến đón. Thời đó, ai sắm được một chiếc xe du lịch đã là sang trọng rồi, đằng nầy gia đình cô có đến ba chiếc ắt phải giàu và đông người lắm. Hôm sau tôi đến thăm cô. Ðó là một ngôi biệt thự rất xinh, trên đồi thông trông ra hồ Xuân Hương thật nên thơ. Cô sống một mình, phía sau là gia đình người quản gia và nhà để xe. Cô bảo còn gia đình người chị nữa nhưng đã đi Ðức nghỉ hè rồi vì người chị có chồng dân Ðức. Sau đó về Sài Gòn cô hay đến ký túc xá trường Hành Chánh thăm tôi. Chúng tôi thường đưa nhau đi ăn quà rong, xem ciné giống như những cặp tình nhân khác. Tính cô ít nói, ít khi biểu lộ tình cảm. Vậy mà chúng tôi cưới nhau không phải do tôi ngõ ý mà là cô ta. Tôi nhớ năm đó, sau hôm thi tốt nghiệp xong tôi và cô đi xem phim ở rạp Rex. Phim dở quá, chúng tôi nói chuyện rì rầm với nhau. Ðột nhiên cô hỏi “Ra trường rồi anh có định lấy vợ không?” “Về các tỉnh buồn lắm, có lẽ phải kiếm một cô vợ” “Anh có định cưới em không?” “Không! Bồ bịch nhau thì được” “Sao vậy?” “Vì gia đình em giàu quá, người ta bảo anh đào mỏ, vả lại em dư sức lấy kỹ sư, bác sĩ, chọn anh làm gì” “Em không hiểu ý anh muốn nói gì!” “Em sung sướng quen rồi, nếu theo anh về tỉnh lẻ, có khi về các quận thôn quê, em chịu sao thấu” “Anh đừng lo chuyện đó. Hay là anh chê em, hay là anh đang yêu ai?” “Anh không chê em, anh cũng yêu em nữa, nhưng yêu ít hơn một người khác” Cô tò mò một cách bình tĩnh “Em có thể biết được người đó là ai không và chuyện hai người đi tới đâu rồi, có định cưới nhau không?” “Ðúng ra là chuyện một người chứ không phải hai người. Anh yêu cô ta hơn hai năm rồi, trước khi gặp em nữa kia, nhưng cô ta không đáp lại vì cô đang có người yêu. Thực ra anh được gặp và nói chuyện có một lần thôi, còn những lần khác chỉ ngồi trong quán bên đường nhìn cô ta . Anh tưởng quen với em sẽ quên được cô ta vì em đẹp hơn, nhưng rồi chẳng có gì thay đổi trong tình yêu của anh” “Anh yêu thì cứ yêu nhưng đừng hy vọng gì, đừng phá đám người ta. Ngoài ra còn có người nào anh có cảm tình nhất?” “Sau đó là em” “Không chê em, cũng có yêu em nữa, anh lại thấy cần một người vợ, vậy anh chọn ai?” Tôi ngạc nhiên trước lối lý luận thẳng thắn và thực tế của cô. Lúc bấy giờ tôi không có một chút ý niệm gì về gia đình cả vì giấc mơ của tôi về một ngày được sống với người con gái tôi yêu đơn phương kia chỉ là không tưởng.

Thế là chúng tôi cưới nhau. Hôm ra trường, chọn nhiệm sở ở Bộ Nội Vụ, vợ tôi dặn, cố chọn cho được tỉnh Lâm Ðồng. Chuyện đó quá dễ vì tôi đậu cao, nhiều ưu tiên hơn các bạn, nhưng tôi thắc mắc thì vợ tôi kể rằng. Chị cô có chồâng dân Ðức, họ đang thầu vận chuyển tất cả những gì của quân đội Ðồng Minh từ các hải cảng miền Trung lên Cao Nguyên, làm chủ hàng mấy chục chiếc xe tải. Họ còn có cả một hệ thống đại lý phân bón và thuốc sát trùng cho toàn miền Trung. Nay thấy cô em lập gia đình, cô chị nhường cho em các đại lý từ Dầu Dây, Long Khánh lên đến Di Linh, Ðức Trọng “Nhưng anh không quen hoạnh họe hay năn nỉ ai cả!” “Anh khỏi làm gì, chỉ cần các cán bộ xã, ấp biết anh là chồng em là đủ, còn mọi việc để em” Tôi nghe có lý nên làm theo như lời vợ tôi dặn. Tôi làm trưởng ty Hành Chánh tỉnh Lâm Ðồng. Những dịp tỉnh họp quận, xã tôi vui vẻ chào hỏi mọi người, có khi mời họ uống cà phê, ăn điểm tâm nhưng tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện làm ăn của vợ tôi. Chúng tôi dọn lên Ða Lạt, mỗi tuần tôi về nhà một lần. Vợ tôi sinh được một thằng con rất kháu khỉnh. Công việc kinh doanh của vợ tôi cũng chẳng có gì vất vả, thỉnh thoảng cô đi một vòng các đại lý để thăm viếng, tìm hiểu còn mọi việc có nhân viên lo cả.

Chúng tôi sống với nhau được ba năm thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm (1975). Trước vụ di tản chiến thuật từ Cao Nguyên về, tôi được thư của vợ tôi từ Sài Gòn nhắn tôi về gấp, tòa đại sứ Ðức sẽ đưa cả gia đình lên máy bay, tên tôi đã có trong danh sách chuyến bay rồi. Sau đó tôi lại được liên tiếp hai lá thư cầm tay nữa. Tôi viết trả lời vì bận việc, nếu không về kịp gia đình cứ đi trước, đừng lo cho tôi. Thực ra Ða Lạt, Lâm Ðồng đâu có bị địch tấn công, mà công việc các ty, sở tòa Hành Chánh lúc đó cũng chẳng ai cần nữa, nhưng tôi không rời nhiệm sở. Sau nầy tôi mới biết, không phải chỉ riêng tôi, biết bao đơn vị hành chánh, cảnh sát, quân đội…cấp chỉ huy bỏ đơn vị vì họ biết tình thế đã tuyệt vọng, Nhiều ông tướng đã tự sát, nhiều sĩ quan tự sát tập thể. Họ đã không làm tròn nhiệm vụ bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào. Riêng người lính cấp thấp, cả đến nhân dân tự vệ, vẫn không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì. Họ cảm thấy đất nước lâm nguy, bi đát đến độ chỉ biết đem thân ra chống đỡ một cách tuyệt vọng, quên cả bản thân, cha mẹ, vợ con. Khi tôi về thì tất cả đã đi rồi. Tôi đi tù, và bây giờ ngồi đây. Chuyện chỉ có thế.

Vợ Hùng có vẻ bất mãn.

– Nhưng ông phải tìm cho ra vợ con chứ. Ông không thương vợ con ông à?

– Thương chứ, nhưng tìm vợ con để làm gì. Mỗi người đã có một số phận. Cứ để cho vợ tôi coi như tôi đã chết rồi. Hơn hai mươi năm không có tin tức chồng, dù thương yêu bao nhiêu, cô ta cũng không thể làm hòn vọng phu được. Còn thằng con, có thể mẹ nó bảo rằng tôi đãõ chết hoặc người cha sau nầy là cha ruột của nó. Ở bên Ðức chắc chắn họ sung sướng, thế là tôi yên tâm. Làm xáo trộn sự yên tĩnh của họ chẳng có lợi cho ai cả.

 Mọi người yên lặng như đang tưởng niệm đến bao mối tình, bao gia đình tan nát vì chiến tranh. Và trong không khí yên bình của một đêm cuối năm nơi xứ người, bỗng xôn sao trong tâm tưởng hình ảnh đất nước thân yêu năm nào trong những ngày khói lửa tang thương…

Vợ Hùng chợt lên tiếng.

– Theo ông kể thì chẳng biết vợ ông có thương yêu ông không nữa?

– Lúc đầu tôi cũng phân vân như thế. Nhưng càng về sau, sống với nhau, tôi mới hiểu tấm lòng của vợ tôi. Người con gái dù có yêu ai bao nhiêu cũng không bao giờ tỏ tình trước, vậy mà cô ta dám gợi ý cho tôi cưới cô, nhưng khi biết được tim tôi đã gởi cho người khác, tuy tranh đấu được tôi trong vòng tay, nhưng cô không bao giờ biểu lộ tình cảm nữa. Cô đã dâng tôi cả trái tim, tâm hồn và cả cuộc đời, nhưng chỉ nhận được ở tôi cái bản năng, cái lương tri của một người chồng có học, đứng đắn thế thôi. Tôi thấy mình ở tù là đáng đời, chăúng phải vì việt cộng trả thù mà chính Trời phạt tôi đã phụ một tấm chân tình. Tôi không xứng đáng với tình yêu của cô ta. Hạnh phúc trong tay không chịu hưởng lại chỉ tơ tưởng đến một bóng hình xa xôi, vô vọng. Tôi vừa đau đớn vừa cầu mong cô yêu được người chồng sau nầy.

– Nhưng theo ông kể, ông chỉ gặp cô gái kia chỉ một lần mà lại yêu say mê, dai dẳng như thế, chuyện cũng khó tin.

– Chính tôi cũng không hiểu mình nữa. Có lẽ Trương Chi giải thích được vì sao anh ta chỉ gặp Mỵ Nương có một lần mà thất tình đến độ quả tim hóa đá luôn.

– Ông thử kể cô ta hương trời sắc nước ra sao và gặp trong trường hợp nào?

– Chuyện chẳng có gì ly kỳ nhưng hơi rắc rối. Tôi nhớ lễ Giáng Sinh năm đó, tôi cùng vài người bạn đi nhà thờ Ðức Bà xem người ta đi lễ. Tất cả các lối đến nhà thờ đều cấm xe cộ nên ngang chợ Bến Thành chúng tôi gửi xe đi bộ, chen lấn với mọi nguời tìm ngắm người đẹp. Một lúc sau tôi bị lạc mất bạn. Ðang nhướng cổ tìm kiếm, bỗng tôi thấy một cô gái cũng đang ngơ ngác nhìn quanh, có lẽ cô cũng lạc bạn như tôi. Trong mắt tôi, cô nổi bật như đóa hoa rực rỡ giữa đám cỏ dại. Chẳng phải cô đẹp nhưng có những nét đặc biệt mà tôi tưởng như quen biết, thân yêu từ lâu lắm. Da cô ngăm ngăm, hai mắt đen nhánh dưới đôi lông mày rậm, khi tôi đến gần, cô nhìn tôi với tia nhìn sáng rực như quật mạnh vào nơi sâu kín nhất tâm hồn khiến tôi ngất ngây. Tôi rung động cả thần trí lẫn thể xác, như chết chìm trong một hạnh phúc tái ngộ đâu từ kiếp trước. Giây phút bất chợt đó, tôi biết tôi đã yêu. Trang phục cô màu đen, tóc ngang vai, cô cài trên tóc một đóa hoa vàng, không rõ hoa giấy hay hoa nhựa, hai tai cô cũng có hai đóa hoa vàng nhỏ. Hình ảnh đầu tiên đó đến bây giờ vẫn còn nguyên trong trí tôi. Khi tôi đến gần cô thì giòng người như đặc cứng. Cô bị xô đẩy và muốn thoát ra khỏi đám đông một cách tuyệt vọng. Tôi đến phía sau cô đẩy những cậu thanh niên vừa la cười vừa giả vờ ngã vào người cô. Chúng tưởng tôi là người thân của cô nên lảng ra. Hai tay tôi giăng ra như một cái khung và cô ở giữa được an toàn. Chúng tôi trôi theo giòng người. Cô biết tôi bảo vệ cho cô nhưng không nói gì. Thỉnh thoảng cô khựng lại, ngã vào ngực tôi. Ðầu cô vừa tầm mũi tôi, tôi nhận được mùi thơm con gái ngọt ngào từ mái tóc, từ người cô toát ra. Giòng người càng chen lấn, cô càng như nằm trọn trong vòng tay tôi, nhưng tuyệt nhiên tôi không có một ý nghĩ vẫn đục nào. Cô thân yêu, qúi giá và cao sang đến độ tôi tưởng mình là tên nô lệ được hân hạnh bảo vệ cho một nữ hoàng. Buổi tối hỗn độn như thế mà tôi thấy thế gian vắng lặng chỉ còn mình tôi với cô ta mà thôi. Mùi thơm đó, làn da mềm mại của lưng cô, ngực cô, cánh tay cô cứ vương vấn mãi trong tôi thành một ước ao mãnh liệt đến bơ vơ vì tuyệt vọng.

Khi chúng tôi thoát ra khỏi đám đông, cô quay lại nhìn tôi mỉm cười. Ðời tôi chưa bao giờ thấy một nụ cười đẹp và làm tôi sung sướng đến như thế, và đó là lần duy nhất tôi được ân sủng tuyệt vời cô ban cho. Rồi cô bước nhanh hơn như muốn rời tôi. Tôi vẫn đi theo, cô quay lại nói “Cám ơn” Tôi cố đi song song với cô và hỏi “Cô đi nhà thờ phải không?” Cô gật đầu, tôi nói “Cho tôi đi theo với” “Ðể làm gì?” “Ðể cầu nguyện với Chúa” “Cầu nguyện gì?” “Cầu nguyện cho chúng mình yêu nhau” Cô quay nhìn tôi, lắc đầu “Không được đâu! Tôi có người yêu rồi” Tôi kêu lên “Thôi chết! Tôi làm sao sống nổi đây!” Cô làm thinh đi nhanh hơn nữa. Biết là cô chán tôi vì câu tán tỉnh rẻ tiền đó nên tôi đi chậm lại, tần ngần nhìn theo cô đang khuất dần vào đám đông.

Thế là tôi thành kẻ thất tình. Chiều nào tôi cũng ra đường Lê Lợi, quãng từ chợ Bến Thành đến đường Tự Do, đi lang thang lên xuống để hy vọng mong manh gặp lại cô. Trước kia tôi cũng có thói quen lang thang như thế, ghé nhà sách Khai Trí tìm một quyển sách, vô quán cà phê ngồi nhìn thiên hạ qua lại, bây giờ tôi được thêm cái thú nhớ cô và hi vọng. Ðôi khi tôi đến cả nhà thờ Ðức Bà, đứng dưới tượng Ðức Mẹ lầm thầm cầu nguyện “Lạy Mẹ cho con gặp lại nàng, chỉ một lần nữa thôi, con nhớ nàng lắm!”. Tôi không phải con chiên công giáo, nhưng hình như Ðức Mẹ nghe thấy và thế là tôi được gặp cô ta lần thứ hai. Hôm đó tôi ra chợ Bến Thành coi thiên hạ sắm Tết. Từ xa, chỉ thấy dáng người tôi biết ngay là cô ta rồi. Cô đi với bạn trai, cô mặc áo màu xanh nhưng vẫn đeo đôi hoa vàng. Lần nầy tôi quyết theo cô đến nhà. Cũng may, chỗ gửi xe của tôi và cô gần nhau nên tôi theo cô về đến quận Tư. Hóa ra là nhà người bạn học mà tôi có đến vài lần nhưng tôi chỉ đứng ngoài chờ hắn vào lấy gì đó trước khi đi chơi với nhau. Lẽ ra với người khác đó là dịp bằng vàng để được làm quen với cô ta, nhưng vì biết cô đã có người yêu lại thêm mặc cảm cô chẳng thèm để mắt đến tôi nên tôi không dám đến nhà người bạn ấy nữa, sợ cô ta gặp tôi, nhớ ra, rồi kể lại chuyện tán tỉnh lăng nhăng của tôi, chỉ thêm xấu hổ chứ chẳng được gì.

Thế rồi mỗi buổi chiều tôi vào một quán cà phê trước nhà cô chờ ngắm cô đi học về, khi thì với người yêu, khi thì một mình. Trong đời dù trai hay gái, ai cũng trải qua vài mối tình bất ngờ, đơn phương như thế nhưng rồi cũng sẽ quên đi vì đó chỉ là mối tình vô vọng. Duy với cô, tôi không bao giờ quên. Tôi có một buổi tối để bỗng nhiên yêu cô để rồi suốt đời mơ tưởng đến côâ. Sau nầy ra trường đi làm việc nơi xa nhưng có dịp về Sài Gòn tôi lại ghé quán cà phê ngồi nhìn qua nhà cô. Có lẽ cô đã theo chồng nhưng tôi vẫn tưởng tượng rằng cô vẫn còn ở trong đó, vẫn đi lại, nói năng, sinh hoạt bình thường. Ðó là cách để tôi đỡ nhớ cô, để mơ tưởng được nhìn thấy cô. Ngay cả khi đi tù về, tôi hành nghề đạp xích lô, mỗi khi ngang trước nhà cô là tôi gác xe ngồi nhìn vơ vẩn, làm như đang chờ khách. Dù tôi biết nhà đã đổi chủ từ lâu nhưng khi đến nơi thân yêu mơ hồ ấy tôi cảm thấy cuộc đời lẻ loi của mình như có một chút an ủi, một chút vui.

Nếu nói rằng mỗi người một định mệnh thì đúng là tôi sinh ra chỉ yêu có mình cô ta thôi.

Mọi người vẫn yên lặng. Vợ Hùng phê bình một câu.

– Tưởng ông kể chuyện tình lâm ly, gay cấn lắm, không ngờ chẳng có gì cả. Thế ông có biết bây giờ cô ta ở đâu, ra sao không?

– Câu đó tôi định hỏi vợ chồng bà.

– Cái ông nầy! Vợ chồng tôi có dính dáng gì đến người ông yêu đâu?

– Sao không? Ðó là cô Mai, em gái ông Hùng.

Vợ Hùng trợn mắt lên vì ngạc nhiên. Hùng gật gù bảo.

– Tớ nhớ ra rồi, lúc ở trường Hành Chánh, tớ có nghe hình như có cậu nào yêu em tớ, tớ không để ý, hóa ra là cậu.

– Tôi vượt cả nghìn cây số xuống đây chỉ cốt hỏi một câu là bây giờ cô Mai ra sao? Chiến tranh, ly loạn… Tôi chỉ sợ cô gặp chuyện không may.

– Chồng cô là thiếu tá nhảy dù, tự sát với các sĩ quan khác trong trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám ngày ba mươi tháng tư năm bảy lăm. Hai đứa con tốt nghiệp đại học, đã lập gia đình, hiện cô sống một mình.

Vợ Hùng bảo tôi “Chờ đấy!”, rồi vội vả xuống lầu. Một lúc sau, cô đi lên và nói lớn.

– Cô ấy đang ở bên Việt Nam, ông có dám về tỏ tình một lần nữa không?

– Tôi ước được gặp cô ta một lần nữa, cho đỡ nhớ. Lúc đó có lẽ tôi sẽ liều mạng bảo với cô rằng “Tôi yêu cô” Thế là tôi mãn nguyện rồi. Còn chuyện cô đáp lại, coi bộ khó vì lúc trai trẻ còn bị làm ngơ, bây giờ thì hi vọng gì.

– Nhưng cô ta cũng lớn tuổi rồi, sợ ông không nhận ra nữa đấy.

– Làm sao tôi quên được đôi mắt và miệng cười. Chỉ  cần thấy dáng người sau lưng, tôi tin mình sẽ nhận ra cô ngay.

Ðã hai mươi năm chúng tôi mới có dịp nhậu nhẹt, cười nói thoải mái với nhau. Tôi không biết uống rượu, chỉ một lon bia là đã mơ màng rồi, nhưng tối đó tôi uống hơn chục lon, quả là một kỷ lục. Có điều sau đó tôi phải chạy vào phòng vệ sinh ói thốc tháo ra. Tôi chỉ kịp giật nước, rửa mặt qua loa là mắt tối sầm lại, đứng không vững, các bạn vội dìu tôi lên giường. Người tôi toát mồ hôi, nằm bẹp, nhưng một lát sau cũng cảm thấy có bàn tay dịu dàng dùng khăn nóng lau mặt tôi rồi đắp mền cho tôi.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, người vẫn còn ngầy ngật, đầu nhức nhối khó chịu. Tôi nghe tiếng vợ Hùng dặn dò ai đó ở dưới nhà.

– Khi ông ấy dậy nhớ chỉ viên thuốc trên bàn rồi pha cho ông ấy một ly cà phê, hỏi có ăn cháo không thì nấu. Tụi nầy đi chợ độ một giờ sau sẽ về. Tôi giao ông ấy cho cô trách nhiệm đấy nhé!

Có tiếng đối đáp nho nhỏ rồi tiếng cười rộ lên, tiếng chân xa dần ra phía sân nhà.

Tôi dậy đánh răng, rửa mặt xong lần xuống bếp. Nhà vắng hoe, trên bàn ăn có ly nước lạnh và viên thuốc. Tôi ngồi xuống uống thuốc rồi dùng tay xoa xoa mặt, miết mấy ngón tay lên lông mày cho bớt nhức đầu. Bỗng tôi nghe tiếng nói.

– Anh uống cà phê nhé!

Tôi ngẩn lên thấy một người đàn bà quay lưng về phía tôi đang vặn bếp ga, tiếng lửa cháy phì phì nho nhỏ.

– Dạ, chị cho xin một ly.

– Anh ăn cháo nhé!

– Dạ không, cám ơn chị.

– Gớm, lúc tối các ông nhậu nhẹt… Sao mà lắm thế?

Tôi lừ nhừ trả lời.

– Bạn bè lâu ngày mới gặp nhau.

Người đàn bà mặc đồ đen, nhìn sau lưng dáng thon thả, tóc hơi ngắn, đôi vai nhỏ. Tôi chợt rúng động tâm thần, người run lên.

– Cô Mai!

Cô quay nhìn tôi, môi mím lại như đang dọa nạt một em bé, nhưng đôi mắt cô sáng lên một nụ cười trìu mến, long lanh niềm vui. Hai tai cô vẫn y nguyên hai đóa hoa vàng, giống như hoa mai, loại hoa chỉ nở vào dịp Tết ở quê nhà. Cô nói chậm rãi.

– Từ nay … Em cấm anh không được uống rượu nhiều nữa.

Sau nầy cô ta kể với tôi rằng cô đã khóc khi rình nghe tất cả.

Phạm Thành Châu

Visits: 451

Kén Chồng Cho Con

Phạm Thành Châu

chiec-nhan-cuoi

Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm, hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Ðẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ thêm tiêu chuẩn chống cộng vào đây vì trong các cuộc mít – ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẫn cô gái theo. Ðể tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

            Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái.

Năm 1973 hắn tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Có một chuyện thực. Một lần ông báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả hắn ra bãi đáp nghênh đón. Trực thăng hạ xuống, ông đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong ông lẳng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Ông đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Ðột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Ông đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện nầy – chỉ có sai về thời gian thôi- kẻ nào sáng tác, nói láo, sẽ bị trời đánh.

            Ông có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Ðưa quẹt cho ông, mồi thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Ðến ngày mất nước, ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại cải tạo Long Thành hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể… Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ rõ.

            Còn chuyện hắn biết cô gái út của ông cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là Tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo.

– Nhưng trong túi moa tài sản chừng mươi nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!

Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô học trường Ðồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, nơi cô ở, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Hắn ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại, nhưng hắn ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên hắn đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là hắn và em nói chuyện sa đà, đến chiều hắn lại ôm cái tô về. Sở dĩ hắn đến được nhiều lần như thế là vì hắn về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi nầy sai tài xế lấy xe jeep đưa hắn đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì. Tuy nhiên một lần ông tỉnh trưởng về sớm.

– Moa nghe mấy bữa nay toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con út Mai lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!

Dù sao thì em   cũng đã cho hắn hôn em một lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Ðể kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”.

            Ðáng lẽ chuyện tình của hắn với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Hắn đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán Mc Donald!

            Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe… và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ hắn thông dịch. Hắn nói.

– Sorry! He Chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!

Anh ta chán cả hắn nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỷ sư đẹp trai, đi xe đắt tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo.

– Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket.

– Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay.

Ông ta ngạc nhiên.

– Ủa, sao toa biết moa?

Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Ðàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác.

– Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình?

– Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gã con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa.

Ông ta xen vào.

– Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức.

– Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu.

            Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Ðó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái út của ông bà có pha trà mời hắn. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dững dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn nói lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà hắn đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay tầm mắt hắn. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại hắn và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn. Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như thắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân. Nhớ nhé!” Có câu hát “Khi cố quên lại càng nhớ thêm” hắn thì khác, hể cố quên là hắn quên bẵng. Hắn lại hay nản chí, thấy chẳng hy vọng gì nên cứ lơ là dần.

Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo.

– Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà.

Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại.

– Ba mạ cháu ở mô rứa?

– Dạ, ở nhà.

– Còn cháu ở mô?

– Dạ, cũng ở nhà.

– Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ.

Hắn phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất. Ðến khi giả từ ông bà lại hỏi.

– Bà cụ có mạnh khỏe không?

– Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia.

Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn.

– Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta.Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ.

Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Ðại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gã cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối hắn không tấn công. Hắn bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững. Thế nên hắn rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước thứ hai.

            Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi.

– Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?

– Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất.

– Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ.

– Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ.

Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn.

            Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Ðàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?

            Ðến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca… Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Thế nên hắn chỉ sợ mọi người thấy hắn khóc khi nghe bài quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ “Ðứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục” “Thấy người ta tử tế tưởng bở” Hắn yêu cô, ông bà tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu lại hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẩn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách “Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế nầy” Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà vềø sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ cô đồng ý ngay. Hắn nghe mà tưởng mình mơ. Ðời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!?.Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

            Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.

– Chào chú ạ!

– Chú đến thăm Mai.

– Dạ, mời chú vào.

Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thước tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì.

– Có ông bà cụ ở nhà không?

– Dạ không. Mời chú ngồi.

Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hộp bánh ra,

– Mời chú!

Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười.

– Trà còn nóng, cháu vừa mới pha.

Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin!

– Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?

– Dạ không.

– Thế mạ có nói chuyện nầy không?

– Dạ có.

Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn.

– Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui.

– Dạ.

– Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số… Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng.

Cô vẫn cúi đầu và nói.

– Chú thử lập gia đình, sẽ hết buồn ngay.

– Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn.

Cô ngước lên, nhìn thẳng vào mắt hắn.

– Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?

– Chú chưa lập gia đình, vì chú có yêu ai đâu.

– Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin.

– Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì. Khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất, nhà tan vui thú gì mà yêu với đương.

– Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?

– Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh, em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với.

– Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú, khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai.

– Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù.

– Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bị công an rượt chạy muốn chết.

Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Hắn biết cô đã hết bối rối rồi.

– Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù! Phải không?

– Ðâu có như chu,ù gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy cũng ở Sài Gòn, cháu đến thăm mấy lần.

– Gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ!

– Ảnh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên.

– Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay.

– Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao?! Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Ðến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi.

Rồi cô thở dài.

– Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được!

– Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?

– Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy…Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn.

– Ðể chú đoán có đúng không nghe. Ðó là một chàng sĩ quan Ðà Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn, loại mánh mung như thuốc tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề nầy mau giàu lắm. Anh ta đi xe dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?

– Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Sài Gòn

– Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay.

Cô cười bí mật.

– Ðố chú biết đó! Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Ðức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ.

– Chú có ngồi đó chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Ðại… Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà.

Hắn nhìn đồng hồ.

– Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều, mong Mai thông cảm. Thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên im lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao? Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú một thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau nầy hối cũng không kịp.

– Nói xong hắn định đứng dậy. Cô ngước nhìn hắn vẻ giận dữ.

– Thật, xin lỗi chú chứ chú…ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?

– Trời đất! Làm gì có chuyện đó… Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mời chú mà lại yêu chú được?!

– Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều nầy. Theo cháu. Ði ngã nầy.

Cô đi trước, hắn rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng, đi vào “Vô đây!” Hắn sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cỡ tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường.

– Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?

– Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai.

Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa hắn.

– Nhìn kỹ xem là ai?

Hắn không tin ở mắt mình. Ðó là hình hắn, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời” Tấm hình hắn tặng cô, qua bao năm với bao thăng trầm, cô vẫn còn giữ, hình cô tặng hắn thì hắn vất nơi nào, lúc nào không rõ.

– Ôi! Hình chú đây mà!

Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía hắn, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận hắn vô tình.

– Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay.

– Ðâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi… Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?

– Chú nhớ chứ nhưng chú mặc cảm. Chú đâu dám mơ đến giây phút nầy. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?

– Mặc kệ… Người ta tìm muốn chết!

Yên lặng một lát.

– Hôm nào đi?

– Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú…

Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe, cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.

– Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó? Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em , rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?

– Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả.

– Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!

Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.

Ðây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hoà. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Ðó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con dành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang chết dần mòn trong ngục tù cộng sản.

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè.

– Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con Út Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Phạm Thành Châu

Visits: 487

Ông Phó Xử Kiện

Phạm thành Châu

Trước bảy lăm (1975), vị nào thẩm phán, chắc cũng biết. Hễ xử án, nhất là về dân sự, thì phải có bên được bên thua, cùng lắm thì huề. Vậy cũng chưa hay. Tôi xử, hai bên đều (tưởng rằng mình) thắng mới tài. Tuy lúc đó, với cương vị phó quận hành chánh, tôi chỉ có quyền hòa giải là tối đa.
Tôi tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về tỉnh Thừa Thiên, tỉnh “sự vụ lệnh” cho tôi về làm phó quận hành chánh quận Quảng Ðiền, quận lỵ là chợ Sịa, còn được gọi là chợ Ngũ Xã. Ở Huế, hễ chê ai nhà quê thì cứ bảo “Thằng nớ Sịa lắm!”. Sịa là một cái chợ rất xưa, e cả trăm năm, nhà cửa cũ kỹ. Thời chúa Nguyễn mới vào phương Nam lập quốc, có đặt hành trạm gần đó (Làng Bát Vọng). Dân Sịa, nhất là mấy ông bà già, mà nói tiếng Huế, thì ngay đến dân Huế cũng không hiểu! Họ dùng những tiếng rất cổ. Ví dụ “tọt cui” là “đầu gối”, việc “bua quơn” là việc công, việc nhà nước (vua quan)…Bác sĩ Bùi Minh Ðức có soạn một quyển Tự Ðiển Tiếng Huế, gần nghìn trang, vị nào về vùng quê Thừa Thiên, nên mang theo quyển nầy, hễ không hiểu thì giở ra tìm.

ongphoxukien image
Muốn đến Sịa thì từ Huế, lấy quốc lộ 1, ra hướng Bắc, độ mười bảy cây số (cây số 17) qua khỏi cầu An Lỗ, quẹo phải, đi năm, bảy cây số nữa thì đến Sịa. Nếu đi tiếp khoảng một cây số sẽ đến một địa danh là Phá Tam Giang. Phá Tam Giang đã được đưa vào thi ca từ lâu rồi, sau nầy có mấy ông thi sĩ, nhạc sĩ còn làm thơ, viết nhạc về cái phá nầy. Vị nào đến Huế nên đón xe đò Huế-Sịa, đi coi Phá Tam Giang cho biết với người ta, kẻo nghe nhạc hát hoài mà không biết Phá Tam Giang nằm chỗ mô?
Nhưng khi quí vị đến nơi mới thấy chán. Giống như mấy ông nghe tên của cô nào đó rất đẹp, tưởng người cũng đẹp, nhưng thực tế thì ngược lại. Cô Bạch Tuyết thì đen thùi, cô Thúy Liễu mập nu, cô Tiểu Yến giống ông hộ pháp! Phá Tam Giang cũng vậy. Chỉ là một đầm nước rộng mênh mông. Chẳng núi cao soi bóng, chẳng sóng gió, chẳng liễu rũ, chẳng con thuyền neo bên bến nước trong chiều “thu lạnh”…Nghĩa là mộât cái đầm nước trụi lủi, vô duyên. Không một bóng người, không một chiếc thuyền, đến con chim cũng không thấy! Ðứng bên nầy bờ phá, nhìn qua bên bờ kia, thuộc quận Hương Ðiền, chỉ thấy một vạch xanh thẩm, có lẽ là dương liễu. Có thể mấy ông thi sĩ, nhạc sĩ chưa hề đến cái phá đó, tưởng tượng mà sáng tác ra, kiểu như ở Việt Nam mà làm thơ nhớ bến Tần Hoài hay bến Tầm Dương bên Tàu vậy.
Ðầu năm bảy ba (1973) tôi về làm ở Quảng Ðiền, như vậy là gần Tết âm lịch. Khí hậu Thừa Thiên rất khác xa khí hậu tỉnh Quảng Nam, tuy cách nhau chỉ một cái đèo Hải Vân. Về mùa Xuân, đứng trên đỉnh đèo Hải Vân, nhìn vô hướng Nam, thấy trời quang mây tạnh, nắng ấm khắp nơi, nhưng nhìn về hướng Bắc (Thừa Thiên) thì đầy trời mây ám, âm u, tối tăm, gió lạnh mưa phùn. Tuy vậy, sau tết, bão lụt coi như không còn nữa, nên đồng bào (Thừa Thiên) vẫn phải ra đồng, cày bừa, xuống giống cho kịp thời vụ.
Tết năm đó chúng tôi phải ở lại quận vì là thời chiến, chúng tôi là gồm tất cả mọi người từ quận trưởng, quận phó, cảnh sát và chi khu (quân sự), chỉ riêng nhân viên quận hành chánh (dân chính) được nghỉ ba ngày. Chúng tôi chẳng có thịt mở dưa hành, bánh tét, bánh chưng gì cả. Muốn xài sang thì xuống chợ Sịa, mà chợ Sịa cũng vắng tanh, chỉ còn một quán ăn duy nhất (quán Mụ Sương) mở cửa. Chúng tôi ăn cháo hay bún gì đó rồi về quận nằm chèo queo, không vui không buồn.

Một buổi sáng, trời còn sớm, một nghĩa quân vào đánh thức tôi dậy “Thiếu tá mời ông phó!”. Tôi đánh răng súc miệng qua loa rồi lên văn phòng quận. Cũng chừng đó vị. Quận trưởng, chi khu phó, cảnh sát trưởng… Thiếu tá quận trưởng cho tôi biết là có vụ tranh chấp ruộng đất gì đó giữa làng Thanh Hà (quận Quảng Ðiền) với làng Hương Xuân (quận Hương Thủy). Hai bên đem nghĩa quân và nhân dân tự vệ ra, nằm hai bên bờ ruộng, chĩa súng vào nhau. Tôi phải đi gấp xuống giải quyết, nếu trễ, hai bên đôi co rồi nổ súng thì phiền.
Tôi bèn cùng với tay thiếu tá cảnh sát trưởng quận cùng hai nghĩa quân lên xe chạy xuống làng Thanh Hà là nơi đang tranh chấp. Dọc đường, tay cảnh sát trưởng thuật lại nội vụ như sau.
Cách đây gần cả trăm năm, thời còn triều đình nhà Nguyễn, làng Thủy Xuân (quận Hương Thủy) bị trưng dụng một cuộc đất để xây lăng, có lẽ là lăng Tự Ðức. Triều đình lấy công điền của làng Thanh Hà (thuộc quận Quảng Ðiền) để bồi hoàn cho Thủy Xuân. Thủy Xuân cách Thanh Hà mấy chục cây số, lại đò giang cách trở nên Thủy Xuân đồng ý cho Thanh Hà canh tác và đóng tô cho Thủy Xuân. Ðến khi có luật Người Cày Có Ruộng (khoảng năm 1970) thì Thanh Hà không đóng tô nữa, viện dẫn luật Người Cày Có Ruộng có qui định rằng người nào đã canh tác trên thửa ruộng nào thì thành chủ thửa ruộng đó. Làng Thủy Xuân đòi tô mấy năm không được mới dẫn nghĩa quân với nhân dân tự vệ qua làng Thanh Hà, bắt thợ cày đang cày, trói vào máy cày, xong bố trí bên kia bờ ruộng chờ đối phương. Làng Thanh Hà báo động, cũng huy động nghĩa quân với nhân dân tự vệ ra nằm bên đối diện, chong súng về phía quân làng Thủy Xuân. Anh chàng thợ cày thì bị trói nằm giữa đồng, giữa hai dãy mũi súng. Nghĩa là hễ súng hai bên nổ thì anh ta lãnh đạn của cả hai phe.
Khi chúng tôi đến nơi thì thấy êm re, chỉ có mũi súng và mấy cái đầu lấp ló sau bờ ruộng. Ðúng ra, chuyện súng ống, lính tráng là vấn đề của chi khu là phía quân sự, sao lại giao cho hành chánh giải quyết? Thiếu tá quận trưởng chỉ cần nạt một tiếng là hai phe xếp re ngay, vậy mà lại giao cho tôi?! Sau nầy, khi nói chuyện, tay thiếu tá nầy vô tình cho tôi đoán biết là chàng ta sợ nhân dân tự vệ. Trước bảy lăm, nhân dân tự vệ là những cô cậu trẻ tuổi, đa số là học sinh, được luyện tập sơ sài về sử dụng vũ khí, nên hễ cầm đến khẩu súng là tò mò, táy máy, muốn bóp cò một phát xem nó nổ ra sao? Ngón trỏ cứ thò vô chỗ cò súng, cong nhẹ là nổ đùng ngay. Cái đó gọi là cướp cò, mà chuyện cướp cò của nhân dân tự vệ xảy ra thường xuyên, báo đăng hằng ngày, thường là dưới tiêu đề “Chuyện Dài Nhân Dân Tự Vệ”. Khi được dẫn đi với súng ống, đạn dược, mấy cậu nầy thích lắm, lại bị mấy tay đầu sỏ kích động càng thêm hăng tiết vịt. Chỉ cần một cậu cướp cò, nổ một phát thôi, là nhân dân tự vệ hai phe sẽ bắn thoải mái, bắn sướng tay. Chúng cứ bắn loạn xạ như vậy thì có ông thống tướng, đại tướng đứng đó cũng lãnh đạn, thiếu tá quận trưởng thì sá gì.
Giữa hai thửa ruộng là con đường liên tỉnh Sịa-Tây Thành. Khi xe chúng tôi dừng ngay giữa đường, tôi dòm qua hai bên thấy hai dãy mũi súng chĩa về mình nên cho lùi xe lại thật xa, lúc đó mới thấy mấy tay đại diện của hai phe kéo đến. Hai bên cứ tranh nhau “Thưa ông phó!” khiến tôi phải bảo họ, ai về chỗ nấy, khi nào tôi gọi mới được đến.
Vấn đề của tôi là làm sao cho hai phe dẹp súng ống đạn dược trước đã. Mà muốn cho họ dẹp thì phải làm vui lòng cả hai phe. Nhưng bằng cách nào? Ðem luật Người Cày Có Ruộng ra xử? Nếu theo luật thì phải có phe đúng phe sai. Nhưng luật đó như thế nào? Bốn năm học hành chánh, tôi lại có cử nhân luật (!), nên khi đi làm, tôi cũng biết luật lệ chút đỉnh, riêng luật Người Cày Có Ruộng, có gửi về quận cùng với bao văn bản giải thích, hướng dẫn thi hành, nhưng tôi chỉ đọc lướt qua rồi phê “Sao gửi các xã”, thư ký đánh máy bản sao, tôi ký chuyển, vậy là xong. Bấy giờ tôi chỉ nhớ mang máng là: Trừ công điền công thổ và ruộng đất hương hỏa, nông dân đang canh tác trên thửa ruộng nào thì sẽ được cấp bằng khoáng chủ quyền (làm chủ thửa ruộng), chủ cũ sẽ được chính phủ trả tiền bồi thường thửa ruộng đó. Việc nầy, bên ty Ðiền Ðịa rành hơn. Lúc đó tôi còn quá trẻ vẫn ham chơi như thời còn đi học. Tay quận trưởng là quân nhân, giữ gìn an ninh trong quận là chính, không quan tâm đến việc hành chánh. Mà hầu như những tay phó quận mới ra trường đều ham chơi như tôi cả. “Văn thư túi áo, thông cáo túi quần”! Ham chơi đây là chờ dịp là dọt về thành phố xem xi nê, đi uống cà phê với bạn bè, mua sách báo đem về quận đọc, chứ chuyện chọc ghẹo các cô nữ sinh hay lăng nhăng bậy bạ thì tuyệt đối không dám. Quan quyền mà làm kiểu đó, mất mặt nhà nước. Mấy ông sĩ quan tác chiến có chọc ghẹo ai, phá phách gì đó, dân chúng thông cảm, bỏ qua, nhưng “ông phó” mà làm bậy thì dư luận lên án ngay. Mất uy tín. Rồi khi tiếp xúc với dân trong quận, làm sao khuyên dân sống đạo đức, trọng lễ nghi, truyền thống?
Tôi cho người đi mượn một cái bàn với hai cái ghế đăït bên đường, để tôi ngồi xử và ông thiếu tá cảnh sát trưởng lập biên bản. Tôi cho đóng đường, cấm mọi người lai vãng, sợ rủi nổ súng lạc đạn. Tôi cũng cho đuổi tất cả mọi người tránh xa chỗ chúng tôi làm việc, chỉ có hai nghĩa quân trong tư thế tác chiến để lấy oai. Trước hết tôi cho gọi phe Thanh Hà, (thuộc quận Quảng Ðiền) đến. Mấy tay đại diện nầy đem luật Người Cày Có Ruộng ra trình bày. Tôi làm ra vẻ chăm chú nghe, ai nói tôi cũng đều nói “Ðúng rồi”. Nghe tôi nói đúng mãi, lại ông phó quận nhà nên ai cũng lên tinh thần, tưởng phe mình thắng chắc. Tôi còn bảo họ “Chính quyền quận đặt ra là để bảo vệ dân, chăm lo phúc lợi cho dân trong quận. Nếu không bảo vệ được dân quận mình thì đặt tôi ra để làm gì? Tuy nhiên tôi không phải quan tòa, tôi không thể phán quyết ai lỗi, ai phải. Mà làng Thủy Xuân có giành được ruộng, họ cũng không thể khiêng đám ruộng nầy về làng của họ để canh tác được. Họ dám đến làng của quí vị để cày bừa, gặt hái trên đám ruộng nầy không? Thành ra nó chẳng mất đi đâu cả. Tuy nhiên, khi cả hai phe đến đây, tôi có nạt nộ quí vị điều gì, xin quí vị vui lòng bỏ qua, vì không làm như thế thì Hương Xuân sẽ cho là tôi bênh dân quận nhà mà xử ép họ. Tôi sẽ bắt họ phải mở trói cho thợ cày, đuổi họ đi mà họ sẽ không dám cãi lại. Bây giờ quí vị đi về chỗ của mình, nhưng nhớ đừng vui cười mà người ta thấy” Rồi tôi làm bộ đứng dậy, đập bàn, ra dấu “cút đi!” Họ cũng làm bộ sợ hãi, lủi thủi quay về. Phe Hương Xuân nằm đằng xa, chỉ thấy sự kiện chứ không nghe được gì!
Tôi cho gọi phe Hương Xuân đến. Ðiều đầu tiên tôi nhận thấy là người nào cũng nồng nặc mùi rượu. Hóa ra họ biết “phủ binh phủ, huyện binh huyện”, từ quận Hương Thủy qua quận Quảng Ðiền cho ông phó Quảng Ðiền xử kiện thì có khác chi Kinh Kha vào đất Tần, mà đã vào đó thì chỉ còn cách duy nhất là rút dao chủy thủ ra, nghĩa là họ thua thấy rõ. Mà họ thua không chỉ nhục riêng họ mà nhục cả làng. Hôn nhân điền thổ, vạn cổ chi thù. Trách nhiệm đó đè nặng lên họ đến độ, nếu thua, họ chỉ còn nước quậy lên, nghĩa là cho nổ súng rồi thì ra sao thì ra. Nhưng họ cũng ngán chuyện súng đạn, đoàn quân ô hợp nhân dân tự vệ đó mà bóp cò thì có khi bắn vào cả phe ta cũng nên. Mà khi máu đã đổ thì người ta sẽ nắm cổ mấy tên đầu têu là họ. Có lẽ họ suy nghĩ, bàn cãi ghê lắm mới nghĩ ra giải pháp là nốc rượu vô (có khi ngậm rượu cho có mùi hèm rồi giả vờ say), để sau đó họ sẽ đổ thừa là họ say quá, không biết gì hết.
Tôi ngồi nghe hết người nầy đến người kia nói mà không tỏ thái độ gì rõ rệt khiến họ chột dạ. Ðại ý họ nói. Chuyện đong tô nhiều ít không phải là vấn đề mà chính vì thể diện của làng. Làng Thanh Hà chỉ cần cử người qua xin giảm hay miễn tô thì Hương Xuân sẽ xét cho, chứ không thể làm thinh cày cấy trên ruộng Hương Xuân mà không đóng tô mà cũng không nói tiếng nào. Thanh Hà đã sống nhờ ruộng của Hương Xuân bao đời rồi, nay lại có thái độ vong ơn đó, làng Hương Xuân không chấp nhận được, nay họ xin lấy lại ruộng để tự cày cấy. Tôi nghe họ nói xong mới hỏi họ “Quí vị có biết luật Người Cày Có Ruộng chưa?” Họ coi bộ mất tinh thần, định phát biểu nhưng tôi ngăn lại “Quí vị khỏi nói, tôi còn biết nhiều về luật Người Cày Có Ruộng hơn quí vị. Bây giờ tôi hỏi quí vị. Làng Hương Xuân quí vị có được chính phủ thông báo là ruộng của làng quí vị ở Thanh Hà đây bị truất hữu chưa?” “Thưa chưa” “Làng quí vị có nhận được tiền bồi thường truất hữu chưa?” “Thưa chưa” “Vậy thì ruộng của quí vị ở đây vẫn là ruộng của quí vị, có mất đi đâu mà quí vị sợ. Khi tôi xác nhận điều đó là quí vị hiểu ý tôi rồi, nhưng tôi không thể bảo làng Thanh Hà là họ không có quyền gì trên số ruộng đó, vì nói vậy thì họ cho là tôi bênh vực quí vị. Hơn nữa tôi không phải quan tòa để phán quyết điều gì cả. Tôi sẽ chuyển hồ sơ lên tòa án, quí vị sẽ thấy tôi không nói sai. Bây giờ quí vị phải mở trói cho thợ cày, người ta thưa quí vị chuyện nầy là quí vị lãnh đủ, sau nữa là quí vị về ra lệnh cho bọn nhỏ tháo đạn ra, khóa súng lại, rủi cướp cò, chỉ một tiếng súng thôi, quí vị cũng lãnh đủ. Một điều nữa, khi cả hai bên đến đây, tôi có la mắng quí vị điều gì, xin quí vị đừng để tâm. Có la hét như vậy, chuyện mới yên được”
Phe Hương Xuân vui lắm nhưng cũng làm bộ tiu nghỉu quay về.
Thế rồi tôi cho gọi hai phe đến. Tôi không nói về luật Người Cày Có Ruộng, không nói ai đúng ai sai, mà chỉ dọa (mà thực chứ không phải dọa) họ “Quí vị đem nghĩa quân với nhân dân tự vệ ra nằm hai bên đường, quí vị có báo cho quận biết chưa? Bên Hương Xuân cũng không báo cho Hương Thủy biết, bên Thanh Hà cũng không báo cho Quảng Ðiền biết. Nhất là bên Hương Xuân, quân không ra quân, dân không ra dân, áo quần, súng ống lôi thôi, lếch thếch, trời chưa sáng, quí vị đã tự động kéo quân qua Quảng Ðiền, nằm phục kích ở đây, rủi tình báo thấy được, họ hỏi Quảng Ðiền, Quảng Ðiền không xác nhận. Vậy là chỉ năm phút thôi, tiểu khu dộng pháo xuống, không quân đến dội bom, đố ai còn sống mà về với gia đình. May mà chúng tôi vừa biết được là báo cho tiểu khu ngay, nếu trễ, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho quí vị. Chuyện tranh chấp ruộng đất, tôi không có thẩm quyền xét xử ai đúng, ai sai. Ngay sáng nay hồ sơ sẽ chuyển lên tòa án, ngày mai chắc chắn quí vị sẽ được tòa mời lên xử cấp thẩm (xử khẩn cấp). Tôi cho quí vị mười lăm phút để rút quân về, khi tôi rời khỏi đây thì tôi không còn trách nhiệm gì nữa. Quí vị có muốn tiếp tục phục kích hai bên đường để cãi vả nhau, bắn nhau là tùy quí vị”.

Ðọc đến đây, có lẽ bạn đọc sẽ hỏi “Sau đó thì sao? Tòa xử bên nào thắng, bên nào thua? Hai bên có chịu nghe theo tòa hay cứ tranh chấp nhau nữa?” Thú thật, lúc đó tôi ham chơi, chuyện không còn liên hệ đến tôi, tôi không quan tâm. Nhưng dù bên nào thắng kiện, chỉ vài năm sau (năm 1975), tất cả ruộng vườn, đất đai, ao hồ sông núi, biển khơi gì cũng thuộc tài sản (riêng) của đảng và nhà nước Cộng Sản cả.

phamthanhchau

Visits: 2148