Hố Thẳm Trong Tôi

I have but one lamp by which my feet are guided, and that is the lamp of experience.

Patrick Henry

Lê Văn Bỉnh

Em nhắn tôi trở lại quê hương,

Thăm viếng láng giềng và họ hàng,

Gặp vài bạn cũ còn sót lại,

Chia sẻ buồn vui với xóm làng.

 

Bạn thư tôi bàn chuyện đời thường:

Văn hóa, giáo dục hay kinh thương–

Mấy vấn đề tôi còn nghĩ ngợi,

Biết đâu cùng thấy một con đường.

 

***

Lòng tôi xao xuyến tự bao năm,

Cuồng nhiệt ngày đêm những sóng ngầm,

Quê hương ai nỡ quên đi được–

Tất gang hay ngàn dặm xa xăm.

 

Nhưng tôi đã thấy xác trôi sông,

Đầu cắt lìa thân giữa cánh đồng,

Thây người quắp co trong áo trận,

Vẫn còn đây —  ký ức bềnh bồng.

 

Tàu xe chuyên chở sắp dài hàng

Từ khắp miền Nam bao kho tàng,

Chiến lợi phẩm cho miền thắng trận–

Thế kỷ nào thời đại động hang!

 

Miền Nam ơi, mi sẽ bần cùng,

Để rồi cả nước sẽ đi chung,

Đứng lên, ngả xuống theo cờ đỏ;

Ắt phải tuân theo lệnh lạnh lùng.

 

Guồng máy thi nhau chuyển ầm ầm,

Bay về tận láng trại xa xăm,

Đêm ngày thóa mạ –lời trau chuốt.

Tê tái này chết lịm trăm năm!

 

Tôi đã lê thân các trại tù,

Nghe dối gian: cách mạng mùa thu;

Đại ngôn: lịch sử ba giòng thác;

Ruột thịt: miền Nam bọn cựu thù.

 

Gian nan đói khát tháng năm dài;

Ói mửa gập người mùi tanh hôi.

Thối tha bẩn thỉu đành cam phận;

Ruộng dâu xưa, nay hóa biển rồi!

 

Ai chẳng nát lòng khi vượt biên,

Hãi hùng bao chết chóc triền miên.

Tìm sống với vài tia hy vọng.

Đại dương nào phải cảnh thần tiên.

 

Mỗi tin sang khoắng sâu vết hằn.

Đau đớn đâu còn chuyện cá nhân:

Cột mốc lùi xa biên giới Bắc,

Hải đảo lờ mờ sóng Biển Đông.

 

Thành phố sáng choang vang tiếng cười;

Vùng quê tăm tối lệ tuôn rơi.

Cội nguồn xưa … liệng bay nhắc nhở,

Cánh én trúng thương rớt giữa trời.

 

***

Biết nói gì đây với tri âm?

Bao nhiêu năm lặng lẽ âm thầm

H thm trong tôi là có tht:

Sâu trong tim – cùng tận trái tim.

 

Mơ một ngày kia ta gặp nhau,

Tay ấm tay, sóng mắt dạt dào,

Ta nói những gì ta muốn nói…

Hố thẳm năm nào sẽ bớt sâu.

Lê Văn Bỉnh 

Những ngày Tết Canh Dần 2010

 

Views: 139

Các Anh Có Còn Đủ Lửa Gửi Về

Lê Văn Bỉnh

 

Em nhắn anh gửi về chút lửa,

Anh hỏi em sẽ nấu nướng những gì?

Em trả lời cá chết hết ngoài biển trên sông,

Heo gà nhiễm độc ai dám ăn mà nấu;

Lúa rau cháy nắng đầy đồng,

Em không cần đốt thêm chi nữa!

 

Em lại nhắn anh gửi về em chút lửa,

Anh tò mò hỏi em muốn thiêu đốt những gì?

Em trả lời rừng trơ trụi lá;

Đồi đã trọc từ đỉnh xuống chân;

Lâu đài dinh thự của tân cường hào ác bá

Đều xây bằng cốt sắt bê tông,

Cổng kín tường cao nhiều tầng bảo vệ.

Họ có chết đi cũng chỉ thêm đen địa ngục!

 

Mau gửi lửa về, em đêm ngày thúc giục.

Anh nóng lòng muốn biết lửa để làm gì

Khi em không cần nấu nướng đốt thiêu?

Em trả lời không chút chi e ngại:

Để sưởi ấm trái tim em nhiều năm nay nguội lạnh,

Để sưởi ấm mấy chục triệu trái tim quanh đây

Ngỡ mình đang vô vàn hạnh phúc

Trước đất nước của ai đó sắp tiêu vong,

Khi đồng bào của ai đó tù đày gục ngã.

 

Em quả quyết  người ta có thể làm nên tất cả

Với trái tim ấm áp tình nước tình người.

Cuối cùng khi thấy anh  ngần ngại,

Em cũng tỏ ý e dè:

Các anh có còn đủ lửa gửi về?

Câu hỏi đó một mình anh trả lời không nỗi!

 

Lê Văn Bỉnh

tháng 7/2016

Views: 149

Bài Thi Kệ của Thiền Sư Mãn Giác (1052-1096)

Bài thi kệ của Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096)

春 去 百 花 落
Xuân khứ  bách hoa   lạc
春 到 百 花 開
Xuân đáo  bách  hoa khai
事 逐 眼 前 過
Sự   trục   nhãn  tiền   quá
老 從 頭 上 來
Lão  tòng   đầu thượng lai
莫 謂 春 殘 花 落 尽
Mạc   vị    xuân   tàn   hoa    lạc   tận
庭 前 昨 夜 一 枝 梅
Đình  tiền  tạc   dạ     nhất    chi   mai.

Bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ:

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai

 

Nguyễn N Ngọ (trình bày)

 

Views: 383

Biển, Cá Và Người

Trần Văn Lương

bien ca va nguoi

Đứng sững nhìn rừng cá chết nằm phơi,
Lửa uất hận nung mắt người rát bỏng.
Dãy thuyền gỗ kẹt trên bờ lóng ngóng,
Đoàn ngư dân tuyệt vọng ngước nhìn trời.

Đã mấy chục năm rồi,
Biển đã biến thành nơi chứa xác.
Với chế độ bạo tàn độc ác,
Đến trùng dương cũng tan tác tả tơi.

                          ****

Biển ngày xưa vốn là chốn vui chơi,
Nhưng từ buổi đổi đời đau thương đó,
Khi dân phải trốn chạy làn sóng đỏ,
Đã thành nơi máu lệ đổ tuôn dòng.

Tháng Tư đen, bao bất hạnh chất chồng,
Ách nô lệ đã tròng lên nước Việt.
Giặc Cộng giở trò trả thù khốc liệt,
Bao anh hùng gặp cái chết không may.

Vì tự do nên chấp nhận lưu đày,
Toàn dân Việt đêm ngày lo vượt biển.
Triệu người dấn thân vào nơi nguy biến,
Có mấy phần được đến bến bình an.

Nào biên phòng, nào hải tặc Thái lan,
Cái chết vẫn tham lam đeo từng bước.
Đem tính mạng trả treo cùng sóng nước,
Đáy biển đen chôn ước nguyện không thành.

                               ****

Biển ngày nay vẫn đậm máu dân lành,
Dù súng đạn chiến tranh không còn nữa.
Đất nước khổ hơn cả thời khói lửa,
Dân mỏi mòn đợi mãi chữ tự do.

Sống phập phồng trong hốt hoảng âu lo,
Vì lũ Vẹm luôn bày trò đốn mạt.
Với Tàu Cộng, chúng khom lưng hèn nhát,
Nhưng hung hăng tàn ác với dân mình.

Những ngư dân, vì sinh kế gia đình,
Phải hứng chịu khổ hình trên sóng cả.
Thuyền bè Chệt, chúng gọi là “tàu lạ”,
Giết dân lành, giành cá, lấn biển khơi.

Chúng thông đồng rải chất độc khắp nơi,
Sau chim cá, đến con người bị diệt.
Của độc hại, ai ai mà chẳng biết,
Nhưng đói đành liều chết nuốt qua cơn.

                              ****

Biển ngày mai rồi sẽ thảm thê hơn,
Khi dân Việt chịu thêm hờn mất nước,
Khi mảnh đất của tổ tiên ngày trước
Lọt vào tay bầy xâm lược Bắc phương.

Dân giờ đây đã đến lúc cùng đường,
Mất căn cước, quê hương cùng ngôn ngữ,
Mất luôn cả mấy ngàn năm lịch sử,
Trên đất nhà, làm lữ khách lưu vong.

Trong đau buồn, ngày ngày hướng biển Đông,
Thân nhiễm độc, ngóng trông giờ giải thoát,
Ôm bệnh hoạn, tật nguyền cùng đói khát,
Bất lực nhìn Tàu phá nát non sông.

Tự do không và tổ quốc cũng không,
Kẻ mất nước chợt đau lòng nhận thấy,
Đường giải thoát, sống chết gì cũng vậy,
Cuối cùng rồi chỉ còn đáy biển sâu.

Sau này ai có hỏi: – Nước anh đâu?
Kẻ sống sót đành cúi đầu lặng lẽ,
Thương khóc chốn xưa kia là quê mẹ,
Nay xót xa thành tỉnh lẻ của Tàu.

Nếu hỏi dồn : – Thế dân Việt anh đâu?
Sẽ được chỉ về biển sâu trước mặt,
Kèm theo tiếng trả lời trong nước mắt:
– Đấy là nơi người sẽ gặp dân tôi.

                         ****

Đêm đen dài, bối rối giọt sương rơi,
Trên bãi cạn, bóng ma Hời thấp thoáng.

Trần Văn Lương (CH8)
Cali, 5/2016

Views: 214

Nhắn Kẻ Trở Cờ

Trần Văn Lương

thangtuden

Hỡi người bạn trở cờ theo lũ giặc
Đang nắm quyền sinh sát ở quê tôi,
Đừng chỉ vì chút canh cặn cơm ôi,
Mà thay chúng nói rặt lời dối trá.

Chúng luôn mồm ra rả,
Đánh lừa thiên hạ khắp nơi.
Và chẳng may, đâu đâu cũng có người,
Vẫn nhẹ dạ tin trò chơi bịp bợm.

Này bạn hỡi, đừng đem lời chúng mớm,
Để qua đây luôn sớm tối kêu gào.
Bạn giết người mà chẳng dụng gươm dao,
Khi theo chúng rêu rao điều gian dối.

Đừng dẫn chứng đám cò mồi múa rối,
Bọn thầy tu giả mạo mới ra lò,
Rồi phùng mang trợn mắt hót líu lo,
Rằng đất nước có tự do tôn giáo.

Chúng tóm kẻ chức quyền cao trong đạo,
Cho xênh xang áo mão để reo hò,
Để thổi phồng chiếc bánh vẽ "xin cho",
Hoặc trình diễn lắm trò hề tương tự.

Chúng bắt chẹt tình cảm người xa xứ,
Dụ họ về bằng hai chữ "quê hương",
Bằng những câu giả dối ngọt như đường,
Bằng hình ảnh của "vườn" kia "trái" nọ.

Rồi hốt trọn bầy "cá hồi" vô rọ,
Vắt cạn tiền, xong vất bỏ thẳng tay.
Chuyện sờ sờ trước mắt chẳng chịu hay,
Sao bạn vẫn luôn cối chày ngụy biện?

Đừng núp bóng dưới chiêu bài "từ thiện",
Miệng oang oang toàn nói chuyện thương người,
Nhưng thực ra là về để ăn chơi,
Cùng đóng kịch mong được đời ca ngợi.

Đừng lợi dụng chuyện thiên tai lụt lội,
Để làm giàu trên nỗi khổ của dân.
Thiên hạ ai cũng biết rõ trăm phần,
Mà sao bạn vẫn trần thân lải nhải?

Đừng ong óng toàn những câu nhai lại,
Nào " giao lưu", nào "hòa giải", "thứ tha".
Sao bạn không dám bảo bọn tà ma,
Ngưng bách hại người sa cơ thất thế?

Đừng trâng tráo nói "không làm chính trị",
Khi chính mình xin tỵ nạn nơi đây,
Khóc sụt sùi khai với Mỹ, với Tây,
Vì sao phải đắng cay rời quê cũ.

                         *****

Thân nhược tiểu, mong manh quyền tự chủ,
Bị "đồng minh" bán cho lũ sài lang.
Nên chúng tôi phải đau đớn tan hàng,
Chua xót đứng nhìn giang san tơi tả.

Vì lương thiện, chúng tôi đà trả giá,
Bằng khăn tang của cả triệu người thân,
Bằng những dòng lệ ngập mắt cá chân,
Bằng sinh mạng ngàn quân dân cán chính.

Vì tưởng chúng còn mảy may nhân tính,
Nên bao người đã dính phải tai ương,
Kẻ bỏ mình trong núi thẳm mù sương,
Kẻ giũ kiếp giữa trùng dương sóng gió.

Cũng vì bởi những người như bạn đó,
Mà quê ta, giặc đỏ vẫn cầm quyền,
Sống giàu sang, phung phí những đồng tiền
Từ xa trút liên miên về chốn cũ.

Bạn hỡi bạn, sao đang tâm hưởng thụ,
Trên vết thương đầy máu mủ dân mình,
A tòng theo bọn bán nước cầu vinh,
Để tiếp tục làm điêu linh đất tổ.

Dân tộc Việt chỉ hoàn toàn hết khổ,
Khi lũ này không còn chỗ dung thân,
Khi Cờ Vàng phất phới giữa trời xuân
Theo nhịp bước đoàn quân Nam anh dũng.

                         *****

Bốn mươi mấy năm từ khi buông súng,
Quá khứ buồn giờ chắc cũng phôi pha.
Bao triệu người, còn mấy kẻ xót xa,
Khi nhớ đến một quê nhà đã mất.

Trần Văn Lương (CH 8)
Cali, đầu mùa Quốc Hận,
4/2016

thang tu den 3

Views: 363

Hương Nhớ

Luân Tâm

rose-557797

 

Giặc giã qua rồi hương cố nhân
Trắng tay vẫn lạnh bước phong trần
Thanh gươm cổ tích sầu chinh chiến
Vó ngựa già nua bước ngập ngừng

Mắt mỏi trăng sao mộng ước nào
Cũng đành trả sách lại nghìn sau
Con đường mơ ước xa gần mất
Màu áo thương yêu cũng bạc màu

Tóc rụng những đêm thổn thức sầu
Gió khuya sương sớm lắm bể dâu
Dấu chân thơ dại quên hò hẹn
Nửa giận nửa mừng buổi gặp nhau

Dòng sông thề hứa mộng xuân xanh
Áo gấm vinh qui tình trọn tình
Đồng quê mắc cỡ hoa em thẹn
Chiếc nón nghiêng nghiêng ngây ngất nhìn

Mấy kiếp phong sương  mấy dặn dò
Biển xa sông rộng vẫn buồn lo
Người yêu bé bỏng sầu muôn thuở
Khói lửa làm cho lỗi hẹn hò

Nhớ tiếng cười vui như gió xuân
Nhớ bàn tay nhỏ dáng thiên thần
Khói sương thơm tóc mơ tình sử
Giọng nói chim ca bước ngập ngừng

Xa cách muôn trùng tiếng võng trưa
Bờ tre già đổ lá hững hờ
Hè sang cánh phượng ve sầu nhớ
Lớp học thân quen vẫn đợi chờ

Tâm sự trắng đêm đầu bạc đầu
Rượu nào chung thuỷ ấm môi nhau
Tha hương tuyết lạnh vai gầy nhớ
Áo ngủ mong manh giọng ngọt ngào

Có phải hư không những cõi lòng
Vai kề má tựa vẫn xa xăm
Người xưa hận hải mang mang hận
Một kiếp phù sinh mấy nhánh rong

Phân vân lạc lối bướm về đâu
Đêm tối bơ vơ bỗng lệ trào
Thân sao lận đận đường tăm tối
Lỡ bước phong sương lạc áo màu

Nhớ những đêm trăng gác trọ buồn
Lang thang phố nhỏ bước mù sương
Thềm ga vắng đợi con tàu vắng
Gió lạnh đường khuya tủi mặt đường

Gặp gỡ mùa thu áo mộng nào
Hàm răng tình tứ nhớ thương sao
Về mơ sao rụng hôn dòng tóc
Đầm ấm vòng tay thơm má đào

Cười vui chưa trọn giấc mơ hoa
Tiếng quốc thâu canh lẫn tiếng gà
Đường cũ trăng xưa đêm ngại bóng
Thương nhớ điên cuồng nát thịt da

Chén cạn hương thề thơm tóc mai
Nhìn nhau nghi hoặc tiếng thở dài
Buâng khuâng trời nước xanh màu áo
Em vẫn là hoa mộng kiếp nầy

Năm tháng hững hờ đêm nhớ đêm
Hồn thơ tình sử cũng là em
Trời thương màu mắt hiền nguyên thủy
Ai nhớ trần ai ai nhớ tiên

Bồ đào mỹ tưủ nhớ người xưa
Ta cạn thời gian quên gió mưa
Tri âm vẫn đẹp trăng mười sáu
Mây khói bờ vai áo lụa đùa

Mộng thực thiên thu sầu nối sầu
Hẹn hò mấy kiếp nỡ xa nhau
Cải trời dang dở tình rau đắng
Phận bạc lênh đênh gửi chốn nào

Suối cạn khô rồi nước về đâu
Cành rong tiền sử chết phương nào
Xin cho một bóng chim tăm cá
Mang lệ nghìn xưa khóc nghìn sau

Vĩnh biệt lòng đau thực không đành
Hồn đau vương vấn áo em xanh
Xin cho một chút hương chăn gối
Kiếp khác tìm nhau sẵn để dành…

MD 01/01/03
LuânTâm

Views: 331

Hoàng Trường Sa

(Tưởng niệm 42 năm hải chiến Hoàng Sa 
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 
 19/01/1974 – 19/01/2016)

Cao Nguyên

hq4haichienhoangsaƠi Hoàng Sa! Hỡi Trường sa!
Bi thương tiếng gọi sơn hà Việt Nam
Đang còn bị giặc xâm lăng
Nước trào rỉ máu, Đất oằn xót đau!

Ơi Tổ Quốc! Hỡi Đồng Bào
Yêu thương tiếng gọi thắm màu quê hương
Âm vang trống giục sa trường
Bạch Đằng dậy sóng quật cường oai nghiêm!

Giơ tay cao thét lời nguyền
Hận thù Bắc Thuộc hịch truyền xuất quân
Đánh cho giặc Hán kinh hồn
Muôn đời khiếp sợ tinh thần Văn Lang!

Hoàng Trường Sa của Việt Nam
Đã trong sử sách ngàn năm lưu truyền
Trống đồng hào khí linh thiêng
Hãy vang lên khắp mọi miền núi sông!

Triệu con tim một tấm lòng
Quyết tâm tiêu diệt thù trong giặc ngoài
Việt Nam ơi! Tổ Quốc ơi!
Triệu con dân Việt sẽ khơi sử hồng!

Từ Trường Sơn tới Biển Đông
Thịt da xương máu con Rồng cháu Tiên
Núi Sông là một mạch liền
Không ai có thể đảo điên sơn hà!

Cao Nguyên
Đông Bắc Mỹ – Jan 17, 2015

Paracel-Spratly Islands

In remembrance of The 42-year
Paracel Islands Sea Battle of The Republic of Vietnam Military Forces
(Jan. 19, 1974 – Jan. 19, 2016)

O Paracel Islands! Spratly Islands!
What a moan it was, the call of Vietnam’s Mountains and Rivers
For still being invaded by enemies
Waters overflowed with blood; lands bent down with pain

O Spratly Islands! O Paracel Islands! O Homeland! O Countrymen!
Love, the call deeply painted with homeland’s color
Resounding, the battle field drums called to forward
Bạch Đằng River rising up solemnly unyielding waves!

Holding up hands high with the roaring vows
Hostility against China’s domination, proclamation launched for soldiers to go forth
Fighting the Hans made them scared to their soul
For thousands of years in fear of Van Lang’ spirit

Paracel and Spratly Islands are of Vietnam
Already inscribed in History for thousand years to pass on
The bronze drums of sacred heroics
Let them resound all over the mountains and rivers

Million hearts but only one will
Determined to destroy outer and inner foes
O Vietnam! O Father Land!
Millions of citizens will make Hồng’s History to start

From the Long Mountain to the East Sea
All are the flesh and skin of Dragon’s and Fairy’s descendants
Mountains and rivers are one continual vein
Nobody can make any topsy-turvy reverse to Mountains and Rivers

Cao Nguyen
(Translator: William Hoàng)

Views: 456

Em Lớn Lên

Lê Văn Bỉnh

peace

Bầy chim én bỗng bay về ồ ạt,
Hứa mùa xuân cho khắp xóm làng vui,
Cho bé thơ môi nở nụ cười tươi.
Đồng ruộng ơi đã qua thời giặc giã!

Rồi quê hương không mùa đông nghiệt ngã,
Mà cơ hàn lại hành hạ quanh năm.
Tiếng thở than, lời ai oán thì thầm.
Đời vật lộn với cái ăn cái mặc.

Cha mẹ em suốt tháng ngày tất bật,
Còn nghĩ gì đến thế hệ mai sau.
Tâm tư họ luôn sợ hãi một màu:
Màu máu phụt từ những vuông cờ đỏ.

Em bàng hoàng trước tương lai bỏ ngỏ.
Bụng đói cào, tai nghe chuyện rừng mơ.
Rừng bốc cháy khi em đợi em chờ,
Là lá khô ở những khu kế cận.

Em lớn lên theo dòng đời lận đận:
Bụi bặm phố phường, nước bẩn sông đen.
Ngày qua ngày … thêm một chút ươn hèn
Tích tụ lại … lớn dần … em oà khóc.

Thì ra bầy chim bay ngang bay dọc
Là giả hình của một lũ quạ đen.
Chúng sinh sôi thêm, giành giựt vang rền;
Em kiệt sức, chúng tưởng là đã chết.

Em thường tự nhủ: đời em chưa hết.
Sao đổi ngôi … em sẽ thấy tương lai.
Ước vọng kia em ấp ủ đêm ngày,
Dù bàn tay em rất gầy rất yếu.

Vì có điều giờ đây em đã hiểu:
Phù Đổng xưa lớn từ cái vươn vai,
Phù Đổng nay gom góp những bàn tay
Vung mạnh lên … sẽ làm ra huyền thoại.

Lê Văn Bỉnh
Virginia 01/2011

Views: 538