Chia sẻ vài kỷ niệm với GS Nguyễn quốc Trị.

Triệu Huỳnh Võ (ĐS 6)

Vào mùa hè năm 1966, khi tôi sắp hoàn tất chương trình Cao học Hành Chánh Công Quyền (HCCQ) tại phân khoa School of Public Administration của University of Southern California (USC) thì anh Nguyễn quốc Trị và sau đó chị Trương hoàng Lem cũng  được học bổng của USAID theo học ngành HCCQ  tại đây nhưng để lấy bằng Tiến sĩ.

Rất may vừa lúc sinh viên người Thái Lan share phòng với tôi  dọn ra, nên tôi và anh Trị trở thành roommates của một apartment khá tiện nghi, được gần trường và thư viện.

Vào lúc này tôi có mua được một chiếc xe hơi cũ nên việc đi lại của cả hai cũng đỡ vất vả .Xin nói thêm ở Cali lúc đó cho phép dùng home driver license.

Vừa ổn định việc move in xong, khi bước qua tuần lễ thứ hai thì anh Trị cho tôi biết ý định là sẽ tìm cách trở về Việt Nam ngay càng sớm càng tốt , vì lo ngại sức khoẻ của chị Trị có vấn đề, bởi hơn một tuần qua anh chưa nhận thư của chị.

Trước dự tính quyết liệt và đột ngột này, tôi đã hết sức khuyên can anh bằng cách đưa kinh nghiệm bản thân từng gặp phải vấn đề tương tự lúc mới qua tới đây. Nhưng anh vẫn lo lắng lắm vì anh cho biết sức khoẻ của chị ấy vốn đã không được tốt từ nhỏ rồi.

Chừng ấy biểu hiện đã nói lên lòng thương yêu và lo lắng cao độ của anh dành cho chị Trị.
Cũng may là vài hôm sau thì anh nhận được tin nhà.

Qua trao đổi tâm tư, lúc đó tôi mới biết anh nguyên là Công Cán Ủy Viên phục vụ tại Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương ( tên gọi mới của Phủ Thủ Tướng) do ông Nguyễn cao Kỳ làm Chủ Tịch. Anh còn cho biết, trước khi qua Mỹ, anh cũng có xúc tiến việc trình Luận án Tiến sĩ Công Pháp  sau khi anh lấy được hai Chứng chỉ Cao Học Công Pháp, nhưng điều đó bị bế tắc ngay từ đầu. Lý do là anh có trình bản đề cương luận án cho GS bảo trợ VQT để ông phê duyệt trước, sau đó mới khai triển tiếp nội dung, nhưng đã không được phản hồi. Mãi về sau anh ấy được cho biết nó đã bị thất lạc.

Ngoài việc chia sẻ tâm sự ,tôi và anh Trị còn chia sẻ khẩu vị ăn uống nữa.  Đó là vì không biết công thức kho cá , chiên cá , nên tôi chỉ biết làm và ăn các món ăn của thịt bò hay thịt heo thôi. Trái lại anh Trị rất thích các món ăn quen thuộc chế biến từ cá,và chịu khó thực hiện qua thư hướng dẫn của chị Trị. Nhờ vậy mà từ đó bữa cơm hằng ngày được thay đổi khi thì với thức ăn của thịt, khi thì của cá.

Cuối tháng 9 năm 1966 tôi tạm thời chia tay với anh Trị để về lại Việt Nam sau khi đã hoàn tất chương trình của mình. Mối liên lạc của tôi với anh vẫn tiếp nối khi anh về Việt Nam, nhất là qua các buổi gặp gỡ, các trận đấu giao hữu tại sân Tennis của Học viện.

Sau ngày 30-4 -1975, mãi tới năm 1990 tôi và gia đình mới  được định cư ở Mỹ sau hơn 12 năm tôi bị đi tù Cộng sản, và nhờ có tham dự Đại Hội Thể Giới QGHC năm 1999 tại DC nên tôi mới gặp lại anh Trị,và lần đó anh có mời tôi về nhà và gặp gỡ chị Trị.

Từ đó về sau, mọi liên lạc được tiếp diễn qua điện thoại hoặc e-mail. Cũng qua các lần trao đổi này, được biết gia đình anh đã đi tản được vào phút chót, đầy cam go và vất vã lắm mới lên được Tàu Trường Xuân hay Việt Nam Thương Tín (tôi không nhớ rõ lắm). Và trên đường đi ra Vũng Tàu thì con Tàu này bị Việt Cộng bắn đuổi có gây thương tích cho người di tản trên Tàu trong đó có thân nhân của anh nữa, (lâu rồi tôi chỉ nhớ mang máng như vậy)

Chỉ vài năm sau Đại Hội QGHC năm 1999  vừa để cập bên trên thì sức khỏe của chị Trị sút giảm và trở nên trầm trọng  và anh Trị lúc đó đã dành toàn thời gian để chăm sóc cho chị cho tới khi chị ra đi vào năm 2001.

Mới gần đây, nhân dịp dự Đại Hội QGHC được tổ chức lần thứ 2 cũng tại DC năm 2019, tôi và anh Trị lại được gặp gỡ nhau. Qua Tiếp xúc và trao đổi ý kiến tôi nhận thấy thần thái và phong độ  anh vẫn còn đầy đủ. Nay trước tin anh vừa qua đời, tôi vô cùng bồi hồi và xúc động khi ký ức về thời gian sinh hoạt chung với anh thời còn theo học ở USC đã ùa về.

Về tài năng, đức độ, thành tích nổi bật của anh đã được cố đại huynh Bữu Viên vinh danh trong buổi lễ ra mắt cuốn sách của anh,”Nguyễn văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của nhà Nguyễn”, tổ chức tại DC các năm trước, và mới đây được post lên lại trên diễn đàn QGHC.

Tại đây tôi chỉ muốn nêu lên điểm son nồi bật ở anh mà tôi đã cảm nhận rõ nét nhất, đó là lòng thương yêu và lo lắng sâu đậm của anh đã dành cho chị Trị.

Điều đó đã được thể hiện lần thứ nhất, vào mùa Hè năm 1966, khi anh vì lo cho sức khoẻ của chị Trị bên nhà bị trục trặc sao đó nên không gởi thư cho anh, khiến anh sẵn sàng muốn bỏ học quay về nhà để săn sóc cho chị.

Điều đó được thể hiện lần thứ hai vào các năm 2000 và 2001 khi chị Trị lâm trọng bệnh và lòng thương yêu cao độ của anh dành cho chị đã được thể hiện qua việc anh  bỏ toàn thời gian của anh  để chăm sóc chị cho tới lúc chị trút hơi thở cuối cùng.

Giờ đây tôi thiết nghĩ quí anh chị cũng như tôi tin rằng anh Trị đã đề huề gặp lại chị ấy nơi cõi Vĩnh Hằng.

Elk Grove ngày 20 tháng 10 năm 2024

Triệu huỳnh Võ, ĐS 6

Views: 117

Một Chuyện Rất Việt Nam

Đỗ Tiến Đức

Năm 1994 tình cờ tôi dính vào một chuyện tình của một người đàn bà ở trong nước có người yêu vượt biển định cư tại Nam Cali. Tôi không biết phụ nữ đó bao nhiêu tuổi, xấu đẹp thế nào, giàu hay nghèo, sang hay hèn, Bắc hay Trung hay Nam và Phật giáo hay Thiên Chúa Giáo. Tôi chỉ biết tên người đó là Thanh.
Như tôi vừa nói, đây chỉ là sự tình cờ. Hôm ấy, hình như đầu tháng 5, tôi đang trông chiếc máy CNC chạy giữa một cơ xưởng rộng mênh mông, bên hàng trăm chiếc máy khác trong một cơ xưởng tiện, thì một đồng nghiệp người Ba Tây tên là Washington đi tới. Anh ta chìa tay về phía tôi, đưa cho tôi một miếng giấy nhỏ, nói :
– Hello, Nguyễn, tao nghĩ cái thư này viết bằng tiếng Việt Nam của mày. Mày xem có phải không ?
Liếc nhìn miếng giấy trong lúc tôi đón lấy từ tay Washington, tôi đã nhận ra ngay chữ Việt rồi. Tôi gật đầu và tò mò đọc ngay vì tổng cộng chỉ có ít dòng :

“Gửi người bạn phương xa,
Tôi tên là Thanh, công nhân viên của xí nghiệp may xuất khẩu Thành Công ở số 1955 đường Lê nin, huyện Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Người mà tôi yêu, chồng tôi, tên là Nguyễn Ngọc Luận, tốt nghiệp Đại học Y Khoa Sài Gòn, vượt biên năm 1988, từ đó mất tích luôn. Gần đây gặp một Việt kiều về, tôi hỏi thăm thì người ấy nói ở Mỹ có một bác sĩ tên là Nguyễn Ngọc Luận nhưng không biết điạ chỉ. Ai nhận được lá thư này là ân nhân của tôi, xin tìm giúp tôi chồng tôi, người mà tôi thương yêu suốt đời. Ngày đêm tôi chờ đợi tin của ân nhân…
Thanh

Đọc xong thư, tôi mỉm cười hỏi Washington :
– Bạn có thân nhân mới tới Việt Nam du lịch chăng ?
– Không ? Sao mày hỏi điều đó ?
– Vậy chứ từ đâu mà bạn có lá thư này ?
Washington thích thú kể :
– À, ngày birthday của tao, vợ tao mua tặng tao chiếc sơ mi. Mở áo ra mặc thử, tao thấy mảnh giấy nào trong túi áo…
Tôi ngạc nhiên :
– Thế nghĩa là sao ? Bạn mua phải áo cũ ?
– Tao không nghĩ vậy. Theo vợ tao đoán thì có thể là một người thợ may để thư vào chiếc áo này, bắt chước kiểu người ta hay bỏ thư vào chai rồi thả xuống biển xem nó trôi dạt tới tay ai… Nhưng có phải là chữ Việt Nam không ?
– Phải.
– Vậy thì tao không hiểu điều này, mày giải thích cho tao nghe. Label của chiếc áo này là một nhãn hiệu nổi tiếng của Mỹ, đề là may ở Nam Hàn, sao lại có lá thư của người Việt Nam trong túi ?
– Giản dị thôi. Tụi Mỹ nó thuê mấy thằng Nam Hàn may cho rẻ. Mấy thằng Nam Hàn lại thuê thợ Việt Nam cho rẻ hơn vì lương công nhân viên Sài gòn chỉ cỡ ba mươi đô la một tháng.
Washington kết luận :
– Câu chuyện thú vị đấy chứ ! Mày nói cho tao nghe bức thư viết cái gì.
Tôi lẩm nhẩm :
– Thư của một người đàn bà nhờ kiếm chồng …
Rồi tôi nói cho Washington nghe những điều viết trong thư. Nghe xong, Washington còn hăm hở hơn tôi :
– Nhất định phải giúp bà ta rồi. Mày kiếm cái tên bác sĩ này hẳn không khó, phải không ? Và mày có thể viết ngay cho bà ta cái thơ báo tin cho bà ta biết mày, à quên, tao chứ, đã nhận được cái thơ của bà ta. Mày nhớ làm nhá, Chúa sẽ trả ơn mày…
Tôi gật đầu cho Washington vui lòng :
– Ô kê. Tôi có thể cho bạn biết kết quả ngay là tôi đã tìm ra ông chồng của thiếu phụ này rồi. Ông ta có phòng mạch ở Los Angeles và ông ta cũng là một nhà tranh đấu chống cộng rất quyết liệt.
– Ông ta đang hành nghề bác sĩ ? Thế tại sao lại không liên lạc với vợ ?
– Làm sao tôi biết ? Bạn nên nhớ là mười chín năm qua, dân tộc tôi bất hạnh lắm, chuyện gì cũng có thể xẩy ra cả.
– Thí dụ như ông này đã có vợ mới thì sao ?
– Có thể.
– Nếu thế thì thôi, đừng cho người đàn bà này biết.
– Tôi mới nói “có thể” chứ đã chắc chắn đâu. Tại sao không nghĩ tốt hơn là khi ông ta vượt biên rồi thì ở nhà, vợ ông ta bị Việt cộng tịch thu nhà, bắt bà ta đi tù vì tội đồng lõa giúp người vượt biên. Cho nên hai vợ chồng này mất tin tức địa chỉ của nhau. Tưởng tượng hôm nào mình tới nhà ông ta, thấy ông ta sống một mình trong một căn nhà năm trăm ngàn đô la ở Beverly Hills và phòng nào cũng có treo ảnh của người đàn bà tác giả lá thư này…
Washington hồn nhiên reo vui :
– Hay quá! Vậy hôm nào mày đi gặp ông bác sĩ đó, nhớ hú cho tao đi cùng, nhé.

Buổi chiều hôm đó, trên đường tan sở trở về nhà tôi cứ bâng khuâng với lá thư của thiếu phụ tên Thanh có người chồng là bác sĩ Luận. Tới bữa ăn, tôi đem câu chuyện này nói với vợ tôi thì vợ tôi kêu lên :
– Ông ta có vợ rồi mà. Bà này đi chiếc Mercedes trắng, nghe nói bà này giầu lắm, đã nuôi ông này ăn học cho tới khi lấy được bằng tương đương để được hành nghề lại đấy.
Tôi khựng lại, tự nhiên tôi đứng về phía người thiếu phụ tên Thanh :
– Sao em biết?
– Thì thỉnh thoảng đi dự ba cái vụ khiêu vũ gây quỹ đó, người này chỉ chỏ người kia, ai đeo hột soàn mấy ca ra, vuông hay tròn, giá bao nhiêu, mặc áo bốn số hay ba số hay hai số cũng còn biết…
– Em nói gì mà áo bốn số, ba số ?
– Tiền. Bốn số là áo mắc tiền, trên một ngàn, ba số là áo bạc trăm còn hai số như em là đồ on sale ở Loehmanns hay Northrom Rack…
Tôi hỏi một câu hơi ngơ ngẩn :
– Như vậy thì làm sao ? Có nên gặp cái ông bác sĩ này nữa không ?
– Người ta nhờ thì mình làm. Anh bỏ lá thư vào phong bì, dán 29 cent tem, mail đi…
– Không được đâu. Sợ bà vợ ông ta trông coi văn phòng, gặp lá thư này thì ông ta đã không bao giờ được đọc những hàng chữ của vợ ông ta viết, và chẳng những thế, gia đình ông ta còn xào xáo từ nay nữa, đâu có lợi gì.
Tối hôm ấy, tôi ngồi cặm cụi viết thư cho người đàn bà tên Thanh. Dường như đã vài năm nay tôi không viết thư cho ai nên trong lòng dạt dào ý tưởng mà viết không ra chữ. Đời sống xứ Mỹ đã phát sinh ra trong tôi tính lười biếng kỳ cục này. Nhớ lại hồi sống ở quê nhà, gần như ngày nào tôi cũng có ít nhất một phong bì gửi đi vì tôi rất đông bạn bè và gia đình nội ngoại. Ấy là không kể tới hồi còn trẻ, “khi đã yêu thì mơ mộng nhiều”, viết thư cho “nàng” bất kể giờ giấc, ngay cả lúc ngồi trong nhà thờ nghe cha giảng. Nhưng ở Mỹ, mọi việc giao thiệp đều qua đường dây điện thoại. Chẳng hạn bà vợ tôi hễ về đến nhà là y như cái ống điện thoại không dây đã áp dính vô tai, dù làm bếp hay coi ti vi và đôi khi cả lúc vào trong phòng vệ sinh. Ba đứa con tôi cũng không kém, thành ra gia đình tôi chẳng buôn bán gì mà cũng đã có hai đường dây điện thoại, máy chính máy phụ giăng mắc từ phòng này sang phòng kia cứ y như trung tâm hành quân của một tiểu khu ngày xưa. Cái thói quen viết thư mất dần cho đến bây giờ, nhìn hàng chữ trên giấy, tôi thấy vừa xấu lại vừa vô duyên chi lạ. “Phấn đấu” tới hai giờ sáng, tôi mới hoàn thành một lá thư dài khoảng hai chục giòng để gửi về xí nghiệp may xuất khẩu Thống Nhất cho người đàn bà tên Thanh.

Sáng hôm sau, vừa tới sở thì Washington đã chặn hỏi tôi :
– Mày liên lạc với ông bác sĩ kia chưa ?
– Để cuối tuần này.
– Mày không có quyền chậm trễ. Mày hãy nhớ tới người đàn bà kia, bà ta giống như thằng cha nào mà tao quên tên rồi, hình như là Robinson thì phải, thằng cha bị đắm tàu dạt vào hoang đảo, hàng ngày ngóng ra ngoài khơi xem có tàu nào tới vớt không sau khi thằng cha này thả xuống biển vài cái chai mang thơ cầu cứu.
– Nhưng mà thì giờ đâu ? Hàng ngày phải vô đây từ sáng tới chiều rồi …
– Thì mày gọi điện thoại.
Tôi trả lời cho qua là chưa kiếm ra số điện thoại vì thấy anh chàng Ba Tây này ồn ào qúa khiến tôi nghĩ rằng anh chàng đang giải trí với câu chuyện tình chia cách của một cặp vợ chồng Việt Nam, anh chàng tò mò muốn biết thêm chi tiết để tối về, kể cho vợ nghe và vợ anh ta bốc điện thoại kể cho bạn nghe tùm lum một cách rất khoan khoái. Thấy tôi lạnh nhạt bước tới dàn máy CNC thì Washington nhún vai bỏ đi.
Không ngờ đến lúc nghỉ giải lao, Washington hớn hở trở lại chỗ tôi, đập mạnh vào vai tôi y như khi anh ta thắng cuộc đánh đề football :
– Tao cho mày số điện thoại của ông bác sĩ Luận.
Washington chìa vào mặt tôi mảnh giấy tèm lem vết dầu nhớt, tôi lại ngạc nhiên :
– Làm sao bạn có?
Washington cười hề hề :
– Mày ở Mỹ gần chục năm mà dở tệ. Nhắc cái điện thoại lên, gặp con tổng đài, đọc tên thành phố và tên bác sĩ Luận rồi hỏi số điện thoại là một giây nó trả lời mày.
Washington nắm tay tôi lôi đi :
– Bây giờ còn mười phút, mày ra máy điện thoại công cộng này, tao bỏ 25 cent cho mày gọi ông bác sĩ Luận.
Thực sự là tôi không đồng ý cái lối hành động nóng nẩy của Washington, vì không hiểu sao tôi cứ nghĩ anh chàng Ba Tây này làm chỉ vì tò mò, tìm hứng thú cho bản thân anh ta hơn là cho người đàn bà Việt Nam tên Thanh. Nhưng nếu tôi không gọi điện thoại thì anh chàng này sẽ hiểu qua tôi là người Việt thiếu tình cảm, lạnh lùng, không thương ngay cả đồng bào mình. Với lại, tôi biết, nếu tôi không nói chuyện với bác sĩ Luận lúc này thì Washington sẽ nói. Vì thế, tôi đành miễn cưỡng theo Washington tới máy điện thoại. Chính anh chàng to con rềnh rang này bỏ tiền vào máy rồi quay số, chỉ khi nghe tiếng chuông reo rồi mới chuyển máy cho tôi.
Tôi nghe bên kia đầu giây là giọng đàn bà :
– Phòng mạch bác sĩ Luận, tôi nghe.
– Thưa chị, tôi xin được nói chuyện với bác sĩ Luận.
– Xin lỗi, ông muốn lấy hẹn khám bệnh phải không ? Ông cho tôi biết tên, số điện thoại để tôi ghi vào sổ cho ông. Ông có medical, bảo hiểm hay trả tiền mặt ?
– Thưa không, tôi muốn nói chuyện riêng ?
– Thế hả ? Bác sĩ đang bận khám bệnh nhá. Ông cho tôi số điện thoại rồi bác sĩ gọi lại. Mà xin lỗi ông, chuyện riêng là chuyện gì ?
– Thưa chị, đã bảo là chuyện riêng mà…
– Không sao, tôi là vợ bác sĩ Luận đây, ông cứ nói…
– Dạ, thưa bà bác sĩ, bà có thể ghi số điện thoại của tôi, nếu bác sĩ muốn thì gọi cho tôi sau..
Tôi xưng tên, đọc số điện thoại xong rồi gác máy. Washington bồn chồn ra mặt, anh chàng muốn tôi kể cho nghe ngay cuộc đối thoại vừa rồi. Khi tôi nói chưa hết thì chợt nghe chuông điện thoại reo, Washington tò mò nhấc lên. Tôi thấy Washington nhìn tôi, nhướng cao đôi lông mày và nghe hắn trả lời :
– Vâng. Đây là sở làm của nó.
– …
– Vâng. Tôi biết nó mới gọi cho phòng mạch.
– …
– Vâng. Nó cho bà số điện thoại ở nhà.
Cúp máy xong, Washington cười :
– Con mẹ này đáo để thật. Nó kiểm soát mày là ai đấy ?
Tôi hỏi Washington :
– Sao bà ấy biết được số điện thoại này ? Chắc chắn là ban nãy tôi không có nói.
– Mày ngu qúa. Ở Mỹ mấy năm rồi ? Nó có máy ghi lại những số điện thoại gọi vào văn phòng nó để nếu mày tống tiền thì nó trình FBI, hiểu chưa.
Từ đó, câu chuyện của người đàn bà tên Thanh trở thành một ám ảnh khiến tôi lúc nào cũng bận tâm suy nghĩ. Chắc chắn là bác sĩ Luận giờ đây đã lập gia đình mới. Vậy thì tôi có nên chuyển lá thư của người đàn bà tên Thanh cho ông ta nữa không ? Ông ta còn thương yêu còn nhớ người đàn bà tên Thanh đó không ?
Nếu ông ta còn yêu bà Thanh thì liệu ông ta sẽ phản ứng thế nào ? Và, người đàn bà đang chung sống với ông ta có biết mối tình của ông ta với bà Thanh không ?
Nếu ông ta nói dối chưa yêu ai, chưa gọi ai bằng vợ, nay bà ta biết được lá thư này thì gia đình đó sẽ ra sao ?
Ông bác sĩ Luận không hề gọi điện thoại lại cho tôi. Tính tò mò đã thúc đẩy tôi vào một buổi sáng cuối tuần lái xe kiếm phòng mạch của bác sĩ Luận. Ông bác sĩ này rất đông khách, hàng chục bệnh nhân dáng điệu mỏi mệt ngồi chân co chân duỗi trước bức tường treo lá cờ vàng ba sọc đỏ và la liệt hình ảnh sinh hoạt của cộng đồng mà tấm hình nào cũng có bác sĩ Luận là vai chính. Thấp thoáng phía sau ô cửa sổ là hai phụ nữ, một người mặt hoa da phấn và một người da dẻ đơn sơ, áo quần giản dị, như thế chỉ nhìn qua cũng biết ngay một người là bà chủ và một người làm công với đồng lương tối thiểu.
Quan sát bà bác sĩ Luận một hồi, tự nhiên tôi thấy người đàn bà này đang hưởng hạnh phúc mà bà ta đã gây dựng nên, nếu như lời vợ tôi nói đúng, là bà ta đã nuôi ông Luận ăn học để lấy lại được giấy phép hành nghề. Thế thì lá thư của người đàn bà tên Thanh chẳng nên để thêm một người khác biết nữa. Tôi sẽ cất giữ lá thư đó làm kỷ niệm hoặc sẽ bôi tên ông bác sĩ rồi gửi lên đại học Yale cho giáo sư Huỳnh Sanh Thông cất vào thư viện Việt Nam.

*

Nhưng ba tuần sau thì tôi nhận được thư của người đàn bà tên Thanh từ Việt Nam gửi sang. Bức thư viết :

Thành phố Hồ chí Minh, ngày 25 tháng 6, 1994
Thưa ông Nguyễn,
Tôi là Triệu Thị Thanh, 35 tuổi, vợ của bác sĩ Nguyễn Ngọc Luận, từ nay xin được gọi ông là ân nhân. Tôi không ngờ lá thư của tôi lại tới tay ông, thật là may mắn. Thế thì hẳn phải có trời có phật thật, ông nhỉ.
Tôi đang là công nhân viên xí nghiệp may xuất khẩu Thành Công, làm gia công cho thương gia Nam Triều Tiên. Hàng ngày chúng tôi đóng thùng đưa xuống tàu chở ra nước ngoài hàng chục ngàn cái áo sơ mi đấy. Thế mà cái thơ tôi bỏ vội vào túi một chiếc áo, lại tới ông mới là đặc biệt, ông nhỉ.
Bây giờ, tôi kể cho ông nghe câu chuyện của tôi nhé. Tôi là gái Hà nội đấy. Hồi Mỹ đánh bom Hà nội 12 ngày, tôi mới có 13 tuổi, đã phải chạy tản cư lên Sơn Tây đấy. Thế rồi năm 1975, giải phóng được miền Nam, bố tôi vào trong đó tiếp quản. Thấy Sài gòn dễ sống hơn Hà nội, bố tôi đưa cả nhà vào. Tôi trở thành nữ sinh trường Nguyễn Thị Minh Khai. Tốt nghiệp Trung học Phổ thông cấp 2 xong, bố tôi đưa tôi vào làm công an.
Năm 1980, có một ngụy quân được trại cải tạo tạm tha, giao về cho phường quản lý, đến công an phường trình diện. Tên anh ta là Nguyễn Ngọc Luận, đại úy quân y trong quân đội ngụy. Tôi là người quản lý hồ sơ những người bị quản chế, chưa có quyền công dân nên anh Nguyễn Ngọc Luận phải trình diện tôi và làm việc với tôi.
Thoạt đầu, tôi thấy anh ta cũng như những ngụy quân ngụy quyền khác thôi. Tôi giao cho anh ta nhiệm vụ theo dõi các hoạt động phản động chống cách mạng trong khu phố, phải báo cáo với tôi những dấu hiệu khả nghi như người lạ mặt tới lui và phải gặp tôi làm việc một tuần ba lần vào thứ hai thứ tư và thứ sáu. Theo hồ sơ khai báo của anh ta thì trong lúc anh ta đi cải tạo, vợ anh ta đã đi lấy chồng khác, là một cán bộ ngành Hải quan. Hai đứa con anh ta được người chị gái ở kinh tế mới Gia Ray nuôi.
Một hôm, anh ta tới gặp tôi, xin tôi cấp giấy phép di chuyển để đi thăm con. Tôi trả lời là theo nguyên tắc thì khi còn quản chế, anh ta không được ra khỏi khu vực. Thế là anh ta khóc ngay trước mặt tôi, nói là nhớ con vì mới nhận được thư của người chị gởi về nói là đứa con nhỏ của anh trong lúc làm rẫy đã bị bọ cạp cắn. Tôi nói với anh ta là sao không đưa hai đứa con về đây thì anh ta trả lời là anh ta không có công ăn việc làm nên không nuôi con nổi. Tôi hỏi thế sao anh ta không đi kinh tế mới với con anh ta thì anh ta nói anh ta là bác sĩ, nếu đi kinh tế mới thì chỉ là nông dân thôi, còn nếu ở lại thành phố, hết thời gian quản chế, có thể xin phép cách mạng mở phòng mạch, chừng đó sẽ đưa con về.
Thấy hoàn cảnh anh ta rất tội nghiệp, tôi đã cấp giấy đi đường cho anh ta. Khi trao tờ giấy, tôi nói : “Thông cảm hoàn cảnh của anh nên tôi đã làm sai nguyên tắc đây. Mong anh trở về đúng hạn, nếu không thì tôi bị kỷ luật”. Anh Nguyễn Ngọc Luận đã xúc động tới mức khi anh nhận tờ giấy phép trên tay tôi, anh đã nắm cả bàn tay tôi. Và, chính lúc bất ngờ bị anh ấy nắm tay, tôi cũng đã chợt thấy toàn thân tôi như bị luồng điện giật, ông ạ.
Thế nên trong một tuần lễ anh Luận đi xa, tôi là người duy nhất mong đợi anh ấy trở về. Không phải chỉ vì tôi sợ anh ấy đi mất luôn khiến tôi bị kỷ luật đâu, tôi còn thấy một điều khác, đó là sự vắng vẻ, sự thiếu thốn kỳ lạ lắm. Chắc tôi không nói thì ông cũng biết, tôi đã có cảm tình với anh Luận rồi, phải không ?
Đúng bảy ngày sau, anh Luận tới trụ sở công an phường trình diện tôi, tôi mừng không thể tả, khiến mấy bạn tôi phát hiện được tình cảm của tôi. Họ bắt tôi kiểm điểm. Họ mách với bố tôi là tôi yêu một tên ngụy. Bố tôi giận lắm, chửi mắng tôi là mất tác phong cách mạng. Chẳng ngờ lòng tôi như giòng nước, gặp vách núi chặn thì thành thác đổ. Tôi đã ngã vào vòng tay anh Luận. Lúc đó thì tôi không cần gì nữa. Tôi chấp nhận mất tất cả để được tình yêu của anh Luận. Bố mẹ tôi từ tôi, đảng sa thải tôi, tôi bị khai trừ khỏi công an vì tôi không nhận lệnh di chuyển về Hải Dương. Tôi trở thành thợ may và buôn bán linh tinh để nuôi anh Luận.
Để trả thù tôi, công an đã không trả quyền công dân cho anh Luận sau một năm quản chế. Chúng tôi xin di chuyển đi nơi khác, công an không chứng giấy. Hy vọng được mở phòng khám bệnh của anh Luận coi như hết, anh buồn lắm. Anh xin vào làm ở một xưởng đóng bàn ghế với chân đánh vẹc ni. Nhiều đêm thấy anh không ngủ, cứ nằm hút thuốc, tôi nghĩ vì tôi mà anh ấy khổ. Gía như tôi không lấy anh ấy thì sau một năm quản chế, anh ấy được trả quyền công dân và mở phòng khám bệnh, có tiền thì mang hai con anh ấy về cha con sống chung. Nay chỉ vì có tôi mà anh Luận bí đường tắc lối.
Cuộc sống điêu đứng như thế cứ ngày qua ngày, cuối cùng, vì yêu anh Luận nên tôi điều đình với bố tôi là tôi chấp nhận về Bắc với điều kiện anh Luận được trả quyền công dân và được giấy phép mở phòng khám bệnh. Bố tôi đồng ý. Tôi không cho chồng tôi biết chuyện này, một mình tôi, tôi lén chuẩn bị cho chồng tôi những thứ cần thiết, phần tôi, tôi chỉ có một cái túi xách tay với hai bộ quần áo của tôi, một bộ quần áo của chồng tôi mà tôi sẽ không bao giờ giặt để giữ lại chút hơi ngàn đời tôi thương mến, và một tấm hình mà tôi và anh Luận chụp chung, để trở về Bắc.
Đến ngày phải xa chồng vĩnh viễn, tôi cố cầm nước mắt, làm tiết canh vịt cho chồng tôi ăn, mua bia ngoại cho chồng tôi uống và ở với chồng tôi lần chót.
Chẳng ngờ khi ân ái, tôi đã không còn giữ nổi nữa, tôi òa khóc. Chồng tôi kinh ngạc ôm lấy tôi, an ủi tôi, hỏi tôi chuyện gì. Tôi vừa khóc vừa kể cho chồng tôi rồi bảo chồng tôi đã đến giờ ra bến xe hỏa rồi, để tôi đi kẻo trễ chuyến tàu Thống Nhất. Nhưng chồng tôi không buông tôi ra. Anh ấy bảo : “Anh không cần quyền công dân. Anh không cần phòng mạch. Anh cần em. Không, em không đi đâu hết”.
Hai vợ chồng tôi lại tiếp tục sống cảnh “một mái nhà tranh hai trái tim vàng” ở trong con hẻm đường Minh Mạng, phường Minh Mạng, quận 10. Thêm một năm rồi hai năm, đảng vẫn tiếp tục hành hạ chồng tôi và lần này ra tay trừng phạt bằng lệnh đuổi vợ chồng tôi đi Kinh tế mới Kà tum ở Tây Ninh.
Chúng tôi rời thành phố một cách bình thản, có lẽ chồng tôi không thể còn chuyện gì để xúc động hơn, để làm cho anh ấy buồn hơn nữa. Anh ấy nói với tôi :
“Nghĩ cho cùng thì cái xã hội này cũng chẳng có gì đáng tiếc nếu phải chết. Và nếu chết mà hai chúng mình có nhau thì chết còn vui hơn sống”.
Khu kinh tế mới Kà Tum nằm sát biên giới Miên Việt. Tôi nghe những người ở đây nói rằng Kà Tum cũng là nơi dừng chân của bọn buôn lậu, bọn đưa người vượt biên sang Thái Lan. Qủa thật, ít tháng sau, chúng tôi gặp một toán bộ đội đưa khoảng hai chục người từ thành phố Hồ Chí Minh lên, chuẩn bị quần áo Miên để qua biên giới. Chuyến ấy đi xong, vài ba tuần sau lại có chuyến khác. Nhìn người ta đi, chồng tôi thở dài ao ước : “Giá mình có vàng, em nhỉ, vợ chồng mình xin họ cho đi. Sang tới Thái Lan, anh sẽ được Mỹ nhận ngay. Khi đó mình mới hết khổ”.
Thấy chồng tôi muốn thì tôi làm. Tôi dò hỏi toán vượt biên, được biết mỗi đầu người phải đóng hai lượng vàng mà gia tài chúng tôi chỉ có hai chiếc nhẫn cưới mà anh Luận và tôi mua của một người bán vàng rồi đeo vào tay nhau ở ngoài vỉa hè để kỷ niệm, để tôi được hãnh diện là đã có chồng. Tôi bèn ngỏ lời với anh Luận cho tôi về thành phố một chuyến. Và tôi đã xin, đã mượn, đã vay của bạn bè, em tôi, anh tôi, chị tôi, cô tôi, đồng chí cũ của tôi, được đúng hai lượng vàng mang lên Kà Tum cho chồng tôi. Chồng tôi hỏi : “Em tính thế nào ?”. Tôi trả lời : “Em lo vàng cho anh vượt biên mà”. Chồng tôi nói : “Còn em ?”. Tôi lại cố giữ bình tĩnh : “Em đâu dám đi. Anh không thấy người ta nói các phụ nữ vượt biên qua đất Miên là khi thì bị Khmer Đỏ hiếp, khi thì bị lính Hun Sen hiếp. Thôi, anh cứ đi mình, rồi sau này lo cho em sang với anh”.
Chồng tôi đã nhập được vào nhóm người vượt biên giới đi tìm tự do sau khi tôi cài vào túi áo chồng tôi chiếc kim băng để giữ khỏi rớt tất cả những đồng bạc mà tôi có, và địa chỉ của một người bạn thân ở thành phố Hồ chí Minh để mai sau anh ấy gửi thư về. Tôi chỉ giữ lại cho tôi duy nhất một chiếc nhẫn một chỉ trên ngón tay để tôi nhớ về anh Luận, người mà tôi thương yêu suốt đời.
Nhưng tôi mất tin chồng tôi từ đó. Không biết anh ấy có thoát tới Thái Lan hay bị hại giữa những làn đạn của bọn Miên bắn giết nhau ? Tôi đã dò hỏi, tìm kiếm mọi nơi mọi cách mà vẫn không thấy chút tin nào của chồng tôi. Tôi chỉ mong anh ấy sống thôi.
Một hôm, ngồi xếp những chiếc áo sơ mi vào thùng sau khi kiểm phẩm xong để xuất khẩu, tự nhiên tôi có ý nghĩ, tại sao không gửi một lá thư vào một trong những chiếc áo này, biết đâu nếu qủa thực có ông Trời thì chồng tôi sẽ mua trúng cái áo đó ? Không ngờ lá thư lại tới tay ông cũng là may cho tôi, chứ nếu chiếc áo đó bán ở nước khác như Nam Triều Tiên, Nhật Bản thì tôi sẽ chẳng bao giờ được cái hy vọng qua ông rồi tôi sẽ nhận được tin về chồng tôi…
Bây giờ tôi là người rất tin rằng có ông Trời đấy, ông ạ. Một lần nữa, tôi xin gọi ông là ân nhân, và mong ông giúp tôi tìm gặp anh Nguyễn Ngọc Luận, cho anh ấy địa chỉ của tôi để anh ấy làm hồ sơ đoàn tụ cho tôi ngay.
Kính thư
Triệu Thị Thanh

Lá thư càng làm tôi lẩn quẩn hơn về câu chuyện tình của chị Triệu Thị Thanh. Tôi nghĩ mọi suy đóan của tôi đều có thể chủ quan và sai. Điều tốt nhất là tôi phải gặp bác sĩ Luận một lần. Vả lại, thông báo cho ông ta là trách nhiệm của tôi mà chị Thanh đã hết lòng nhờ cậy.
Quyết định như thế nên vào một sáng thứ bẩy, tôi đóng vai người bệnh tới phòng mạch bác sĩ Luận. Sau khi làm phiếu, đóng tiền mặt bốn mươi đô la xong, tôi ngồi chờ khoảng nửa giờ thì được y tá gọi đi cân đo trước khi gặp bác sĩ.
Ông bác sĩ là người trắng trẻo, nét mặt rất nhân ái, đôi mắt nhiệt tình và đôi môi lúc nào cũng như cười. Tôi nằm trên giường, quan sát ông ngồi đọc hồ sơ của tôi, tôi nghĩ, không biết trong cái đầu kia có còn chút hình ảnh nào của chị Thanh, của những ngày gian khổ ở Kà tum không ? Nếu tôi không đọc thơ chị Thanh, làm sao tôi biết con người này đã từng trải qua biết bao ngày tháng đắng cay, đã có ít nhất ba người đàn bà trong đời, và không hiểu hai đứa con ông ở khu Kinh tế mới Gia Ray đã được ông bảo lãnh sang đây chưa ?
Tôi chợt nghe bác sĩ Luận hỏi tôi :
– Chào anh, anh đau gì ?
Tôi nhìn quanh, thấy cô y tá đứng khá xa, mới nói nhỏ :
– Tôi có bệnh kín muốn nhờ bác sĩ xem. Ông có thể khép cửa, đừng cho y tá hay bà nhà vô được không ?
Bác sĩ Luận gật đầu ngay :
– Được, được…
Chờ cánh cửa khép xong, tôi mới nói :
– Bác sĩ có còn nhớ một người đàn bà tên là Triệu Thị Thanh ?
Lập tức ông ta như bị điện giật. Đôi mắt ông ta hớt hải liếc nhanh ra phía cửa, miệng lúng búng như muốn nói mà lại như không nói được. Tôi thì thầm tiếp :
– Bà Thanh có gửi cho tôi một lá thư để nhờ chuyển cho bác sĩ. Tôi xin giao lại cho bác sĩ…
Bác sĩ Luận run run đón nhận lá thư, miệng vẫn không nói một câu nào. Tôi không biết ông ta nghĩ gì ? Xúc động vì bất ngờ được tin người vợ cũ đã lạc nhau ?
Hay lo sợ bà vợ mới chợt đẩy cửa vào bắt gặp lá thư của chị Thanh ? Nhìn mặt ông ta tái nhợt như người bị cảm, trán lại nhơm nhớp mồ hôi, tôi hơi khôi hài nghĩ rằng giờ này ông ta chính là kẻ phải leo lên nằm trên cái giường này và tôi chẩn mạch cho ông ta mới đúng.
*

Bẵng đi khoảng ba tuần lễ, vào chiều chủ nhật, vợ con tôi chở nhau đi shopping, tôi ở nhà coi đánh bốc. Hồi ở Việt Nam tôi rất ghét môn này vì thấy nó chả có vẻ thể thao chút nào, tàn bạo là khác. Thể thao là cách thể hiện ba tiêu chuẩn cao hơn, nhanh hơn, xa hơn, đằng này đánh đấm nát mặt nhau, nói theo thời thượng là “vi phạm nhân quyền” qúa. Chính phủ Tân Gia Ba mới chỉ dùng roi đét vào đít một thanh niên Mỹ mà thế giới làm ồn lên, chỉ trích hình phạt này là dã man, thế mà công khai đánh tét mắt tét môi nhau công khai thì được ti vi trực tiếp truyền hình và càng thấy máu đổ càng ăn khách, càng cho là nghệ thuật.
Nhưng từ khi sang sống ở Mỹ, tự nhiên tôi lại thích xem đánh bốc. Tôi chưa tìm hiểu tại sao tôi thay đổi cách giải trí, có phải ở bầu thì tròn ở ống thì dài, tôi đã ảnh hưởng nhân sinh quan người Mỹ, hay thực tế chỉ là bây giờ tôi gìa yếu thì tôi thích vay mượn sức mạnh của kẻ khác?
Tôi đang ngồi xem hai ông võ sĩ đấm nhau thì điện thoại reo. Bên kia đầu giây là người mà tôi vẫn có ý chờ, đó là bác sĩ Luận. Ông chào tôi xong rồi nói :
– Tôi rất cảm ơn anh đã chuyển cho tôi thơ của Thanh…
– Không có chi. Chị ấy nhờ thì tôi làm.
– Nhưng cũng bởi vì mình có duyên với nhau chứ.
Tôi thăm dò :
– Vâng, tôi cũng nghĩ thế. Tôi mong bác sĩ không phiền tôi.
– Ồ, ồ, không bao giờ. Tôi đề nghị mình gọi nhau thân mật hơn, bỏ cái danh xưng bác sĩ đi, tôi đang gọi anh là anh mà. Hôm nào anh có thể đi ăn với tôi một bữa không ?
– Dạ, thế thì còn gì bằng.
Bác sĩ Luận hỏi ngay :
– Tối nay anh có rảnh không ?
– Cũng được.
Bác sĩ Luận hẹn tôi tới quán The Ambassador tại Pasadena, một quán ăn nổi tiếng với đầu bếp Thụy Điển lúc bẩy giờ rưỡi tối. Khi gặp nhau, ông bắt tay tôi rất thân mật và vào đề ngay :
– Tôi biết ơn anh đã nhận lời dù tôi mời anh qúa đột ngột.
Tôi pha trò :
– Nếu thế thì tôi cũng cám ơn anh vì tôi rất thích ăn ngon, với lại tôi cũng thích nghe chuyện lạ…
Bác sĩ Luận vui vẻ :
– Anh biết tại sao tôi mời anh ngay tối nay không ?
– Vì bà nhà mắc bận ?
– Anh thông minh qúa. Tại tôi có buổi họp về công việc làm ăn với tụi Mỹ, nhưng tôi không ăn với chúng nó mà gọi điện thoại mời anh. Vâng, thường thì tôi khó có dịp đi một mình, bà ấy đeo qúa.
Tôi thành thật nói :
– Sau khi đóng bốn mươi đô la để được gặp anh, trao thư của chị Thanh cho anh, mà hai ba tuần sau không nghe anh điện thoại, thú thực tôi hơi thất vọng.
– Anh không hiểu, xin lỗi anh không hiểu. Ngay lúc anh vừa ra khỏi phòng mạch là nhà tôi lột mất mấy cái thư đó ngay.
– Sao bà biết?
– Tại tôi không dấu được tình cảm. Nhìn mặt tôi bà ấy sinh nghi, chặn hỏi tôi. Tôi vội dấu thư của Thanh vào thùng rác mà bà ấy cũng khám phá ra.
– Như vậy là anh không còn yêu chị Thanh?
– Yêu chứ. Nhưng mà anh cũng hiểu, mình đâu có giải quyết được gì.
Tôi hỏi :
– Vậy là anh chưa được đọc thơ chị Thanh?
– Chưa. Bà ấy đốt ngay trước mắt tôi.
Tôi cười :
– Không sao, nếu anh muốn thì tôi sẽ cho anh bản khác, vì tôi có photo giữ kỷ niệm.
Chẳng ngờ khi nghe tôi nói thế, bác sĩ Luận năn nỉ cho ông ta được đọc ngay. Thấy lòng thiết tha của ông ta, tôi không thể từ chối, rốt cuộc hai chúng tôi rời quán án, lên xe về nhà tôi. Ngồi trên xe, tôi kể sơ sơ cho Luận nghe đầu đuôi câu chuyện một cách vô tư mà không kết luận vì chưa biết tình cảm của Luận thế nào ngoài tính sợ vợ qúa đáng của ông ta. Luận nói :
– Người chứ đâu phải chó mà quên được mối tình chung thủy như Thanh đối với tôi, anh ? Lúc gần bà Hoan, tên bà vợ tôi bây giờ, thành thật mà nói với anh là chẳng có ai nói yêu ai cả. Cảnh đàn ông đàn bà sáp vô nhau là chơi thôi. Không ngờ bà ấy chịu tôi, giúp tôi tiền bạc học lại và có với tôi đứa con. Anh biết không, tôi đã từng mua vé du lịch Việt Nam để tìm kiếm Thanh …
– Tôi nghe nói anh là Chủ tịch Ủy ban chống du lịch Việt nam mà lại về du lịch Việt Nam ?
– Vâng. Tình cảm con người mà anh. Mình về nước đâu có nghĩa là mình theo Việt cộng.
– Thế tại sao anh chống ?
– Bà vợ tôi đó. Bà đẩy tôi tới cái thế chống du lịch Việt Nam để cắt đường về của tôi mà. Hễ chỗ nào biểu tình chống du lịch là bà ấy chở tôi tới, bà ấy ủng hộ ban tổ chức ít tiền, bà ấy bảo tôi cầm cái bảng “Du lịch Việt Nam là cộng sản” để cho mấy tờ báo có chạy quảng cáo phòng mạch tôi chụp hình rồi đăng lên…
Tự nhiên tôi nói với Luận :
– Thôi, theo tôi thì anh chẳng nên đọc thư của chị Thanh làm gì.
Luận kêu lên nhè nhẹ :
– Không ! Anh cứ cho tôi mấy lá thư của Thanh đi. Ban này tôi đã nói với anh là tôi đâu phải là chó mà quên được tình yêu của Thanh. Nhưng anh hiểu cho tôi mà, hoàn cảnh này tôi làm gì được cho Thanh chứ ?

*

Ngày 10 tháng 8, 1994, tôi viết cho chị Triệu Thị Thanh một lá thư và kèm một phiếu gửi tiền về cho chị hai ngàn đô la tiền của bác sĩ Luận nhưng nói là tiền của tôi. Đầu tháng 9, tôi nhận được thư của chị Thanh. Chị viết :

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 8, 1994
Ông Nguyễn kính mến,
Thưa ông, tôi đã nhận được thư và số tiền hai ngàn US đô của ông gửi về. Trong thư ông cho tôi nhiều lời khuyên, an ủi tôi nên quên người chồng mà tôi yêu thương nhất đời là anh Nguyễn Ngọc Luận. Nhưng, thưa ông, lá thư của ông khiến tôi không thể quên chồng tôi mà còn làm niềm tin trong tim tôi sống lại mãnh liệt hơn.
Ông biết sao không, ông Nguyễn ? Bởi vì ông với tôi là hai người xa lạ, vì vậy dù là triệu phú ông cũng không dễ dàng gửi tặng tôi khơi khơi hai ngàn US đô. Tôi chắc chắn rằng tiền này là của anh Luận. Ông đã gặp anh Luận mà vì một lý do gì ông không tiện nói cho tôi biết mà thôi.
Vậy, để tìm hiểu sự thực, tôi sẽ dùng tiền này và tiền tôi dành dụm được đem đăng ký với công ty du lịch Bến Thành theo đoàn thương mại thành phố sang triển lãm công nghệ ở Los Angeles vào tháng 10, 1994. Theo báo đăng quảng cáo thì mỗi người tham dự phải đóng bốn ngàn tám trăm đô la, bao gồm tiền máy bay đi và về, tiền khách sạn và ăn ở hai tuần, được đi chơi DisneyLand, Las Vegas, sở thú San Diego và Hoa Thịnh Đốn.
Để hồ sơ được thông qua nhanh, tôi sẽ đăng ký là công nhân viên xí nghiệp may xuất khẩu Thành Công. Tôi rất mong được gặp ông trong dịp này. Ông cứ tới cửa hàng của xí nghiệp Thành Công trong khu triển lãm là thấy tôi. Hoặc ông gửi về cho tôi sớm số điện thoại của ông, khi nào tới Los Angeles, tôi sẽ gọi cho ông hay.
Kính thư
Triệu Thị Thanh

Đọc xong thư tôi không khỏi khen thầm là người đàn bà qủa nhiên thường có giác quan thứ sáu. Lá thư của chị Thanh lại khiến tôi cứ lẩn quẩn suy nghĩ, chiếm thì giờ của tôi còn nhiều hơn thì giờ tôi dành cho chiếc máy CNC.
Tôi tìm cách thông báo tin này cho bác sĩ Luận vì chỉ còn có ba tuần là chị Thanh đã có mặt ở Mỹ. Đã hai lần tôi điện thoại tới phòng mạch của Luận đều gặp người nghe là vợ ông ta. Và như lần trước, sau khi tôi cúp máy thì bà vợ ông ta gọi lại để kiểm soát. Tới cuối tuần, tôi đọc báo Việt ngữ, thấy tin cộng đồng sẽ họp vào chiều chủ nhật ở Little Saigon để thành lập ban tổ chức biểu tình chống phái đoàn của Việt cộng tới Los Angeles chiêu dụ đầu tư, tìm cách đi với Mỹ để dùng Mỹ chống áp lực của Tầu đang lấn chiếm quần đảo Trường Sa. Tôi nghĩ thế nào bác sĩ Luận cũng có mặt ở buổi họp này nên tôi trở thành người hưởng ứng cuộc biểu tình, hiện diện tại đó.
Qủa nhiên, bác sĩ Luận đang ngồi cùng với hai vị nũa chủ tọa buổi họp với khoảng năm sáu chục mái đầu bạc nhiều hoặc bạc ít. Nhiều ý kiến phát biểu chém đinh chặt sắt hô hào phải bằng mọi cách phá tan kế hoạch chiêu dụ tư bản Mỹ tới đầu tư ở Việt Nam, bảo bọn tư bản này hãy tới Trung cộng hay Phi Luật Tân mà làm ăn, đừng có mà tiếp tay Việt cộng. Khoảng một giờ trôi qua thì bác sĩ Luận đề nghị nghĩ giải lao trước khi đúc kết bản tuyên cáo chống phái đoàn giao thương của cộng sản Hà nội.
Bác sĩ Luận nheo mắt cười với tôi rồi tới gần, nói nhỏ, giọng hồi hộp :
– Chắc có tin của Thanh phải không, anh ?
– Giỏi. Không lẽ thần giao cách cảm nhỉ ?
– Tại anh đâu có phải là khuôn mặt của những buổi họp này ? Sự xuất hiện của anh là phải có chuyện đặc biệt cho tôi, tức chỉ là chuyện của Thanh.
– Vâng, tôi nói ngay kẻo và vợ anh bà ấy để ý rồi khổ cho anh. Chị Thanh mới gửi thư cho tôi đây này. Chị ấy nói sẽ theo phái đoàn thương mại Việt cộng sang dự triển lãm hội chợ tháng 9 tới. Chị ấy làm việc trong gian hàng may xuất khẩu Thành Công.
Qủa là bác sĩ Luận không chờ đợi một tin tức như thế. Mặt ông ngẩn ngơ đến tội nghiệp. Tôi dúi vào tay Luận lá thư của chị Thanh :
– Anh cầm lấy thư của chị ấy để biết là số tiền anh nhờ, tôi đã gửi tới tay chị Thanh.

*

Gần đến ngày có cuộc triển lãm hội chợ thương mại của cộng sản Việt nam, các cơ quan truyền thông của cộng đồng người Việt đồng loạt đả kích rất dữ dội. Tuyệt nhiên không thấy ý kiến nào ngược lại được phát biểu trong vùng này. Phần tôi, câu chuyện của chị Thanh cũng bắt tôi cứ phải nghĩ tới cái hội chợ đó một cách dai dẳng. Người đàn bà vì tình yêu đã tìm mọi cách sang Los Angeles, đã hẹn gặp tôi mà chả lẽ tôi không tới. Mà tới thì sẽ có khối người chửi tôi là thân cộng, là trở cờ đón gió, là đủ mọi thứ xấu xa tội lỗi.
Chỉ quyết định tới hội chợ hay không tới hội chợ của Việt cộng tổ chức mà tôi bị dằn vặt cả nửa tháng, đầu óc bị xâu xé rốt cuộc chỉ thêm rối bời. Vào ngày mở cửa đầu tiên của hội chợ, tôi kiếm Washington vào giờ nghỉ buổi sáng và nói với anh ta :
– Ê bạn, bạn còn nhớ lá thư bạn nhận được từ người đàn bà Việt Nam bữa trước không ?
– Ồ làm sao quên được ? Bà ta giờ ra sao ?
– Bà ta đang ở Los Angeles.
– Ông bác sĩ gì đó đón bà ta sang đoàn tụ hả ? Hoan hô !
– Chưa. Bạn có muốn gặp bà ta không ?
– Cũng hay.
– Vậy thì trưa nay, tôi mua hamburger cho bạn ăn trên xe tranh thủ thì giờ, tôi chở bạn tới gặp bà ta nhé.
– Ô kê.
Cuộc triển lãm mở ở Phòng Thương Mại Los Angeles, nơi khó kiếm ra chỗ đậu xe. Nhưng đó chính là điểm tốt cho tôi vì tôi chỉ muốn Washington xuống xe và vào hội chợ một mình. Tôi viết tên chị Thanh, tên gian hàng Thành Công và đưa luôn tờ giấy mười đồng để Washington mua vé vô cửa. Tôi dặn :
– Bạn vô một mình cũng được, khi gặp bà ta thì đưa số điện thoại của tôi cho bà ta. Nói với bà ta điện thoại cho tôi.
Washington cũng tự hiểu ra sự do dự của tôi :
– Mày ngại những người Việt Nam của mày đang biểu tình chửi mày, phải không ?
Tôi gật đầu thú nhận, táp xe vào lề đường chỗ sơn đỏ, đạp thắng xe cho Washington xuống :
– Tôi chạy vòng vòng chờ bạn. Ô kê.
Đoàn biểu tình đông khoảng hai ba trăm người với nhiều quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa và những tấm biểu ngữ đả đảo Việt cộng, đòi Việt cộng thực thi nhân quyền, thả nốt những tù binh Mỹ bị bắt trong cuộc chiến tranh trước 1975. Tôi không khó khăn gì mà không thấy bác sĩ Luận. Ông ta đứng trên lề đường, có vài người ở phía sau cầm cờ vàng ba sọc đỏ, trông ông ta hùng dũng như vị nguyên soái. Bà vợ ông ta đeo kính mát, tóc bới cao, mặc váy đầm hở mạng ngực trắng như kem đang đi qua đi lại phân phát truyền đơn. Tôi quay kính xe kín mít, chạy tà tà quanh khu phố để chờ Washington. Mãi chừng hai chục phút sau thì anh chàng mới lơn tơn bước dọc hè phố kiếm tôi.
Lên xe, chưa kịp đóng cửa, Washington đã ồm ồm :
– Không gặp bà ta. Mẹ kiếp ! Mất thì giờ mà không hiểu cái gì hết. Tụi nó không biết nói tiếng Mỹ. Tất cả chỉ có một thằng thông dịch thôi nên phải chờ. Đến phiên mình, hỏi nói về bà Thanh đâu, nó trả lời cộc lốc : Tôi không biết. Hỏi thêm, nó không nói vì bận tiếp mấy thằng Mỹ khác.
Rồi Washington hỏi tôi :
– Cộng đồng mày chống cái gì vậy ?
– Chống cộng sản.
– Tao không thấy cộng sản trong đó. Chỉ có hàng hóa thôi.
– Thì hàng hóa của cộng sản. Chúng nó mang sang đây triển lãm kiếm thị trường.
– Tao không hiểu. Tụi Ba Tây tao mong kiếm thị trường mà không được. Còn… tại sao mày vô thì không được, tao vô thì được ?
– Bạn đã nói bạn không hiểu mà còn hỏi thêm làm gì.
Suốt buổi chiều hôm đó, và cả buổi tối nữa, tôi sinh ra gắt gỏng, người gây gây mệt như mắc bệnh ăn không tiêu. Đầu óc tôi cứ lẩn quẩn hình bóng một thiếu phụ mà tôi chưa bao giờ thấy mặt, chưa một lần nghe giọng nói. Không biét ngày hôm nay, đứng trong phòng triển lãm nhìn ra đoàn người Việt biểu tình ở phía ngoài, bà Thanh có nhận ra hình bóng người mà bà thương yêu nhất mà bà đi tìm kiếm là bác sĩ Luận đang đứng trước khu triển lãm, cách bà có vài trăm mét không ? Trời ơi ! Tôi chợt kêu lên kinh hoàng khi tưởng tượng bà ta có chiếc ống dòm, qua ống dòm bà ta thấy chồng bà, thế là bà ta lao ra cửa, chạy nhào tới bác sĩ Luận.
Sáng hôm sau, tôi quyết định bề gì thì cũng phải tới gặp người đàn bà bất hạnh này. Tôi cũng biết nếu có gặp, tôi chẳng mang tới cho bà ta niềm vui nào, trái lại là khác, nhưng nếu tôi không gặp bà ta, tôi sẽ ân hận vì trong tôi đã không còn tình người. Khi tôi tới phòng triển lãm, vài người tóc đã ngả màu sương chặn tôi lại :
– Anh vô đây làm gì ?
– Anh muốn tiếp xúc với bọn Việt cộng hả ?
Tôi đã có câu trả lời gian dối sẵn :
– Người xưa nói biết địch biết mình thì trăm trận trăm thắng. Các ông để tôi vô coi xem chúng nó ra sao.
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Lâm bước tới, ông nhìn tôi thật dài và thật dịu dàng như gửi gấm hàng trăm lời nhưng đôi môi ông mím lại. Ông làm như không quen biết tôi, thản nhiên quay đi.
Vào trong khu triển lãm, cảm giác đầu tiên của tôi là sự trống vắng. Căn phòng qúa rộng, trần nhà qúa cao mà người thì ít và hàng hóa thì nghèo nàn, trình bầy vụng về như một cô gái quê bắt đầu làm quen với son phấn. Thế này mà cũng mang đi triển lãm làm gì, có thể họ không biết rằng khả năng của họ nếu chỉ có thế này thì còn thua những chợ trời ở xứ Mỹ. Tôi kiếm tìm và thấy ngay gian hàng Thành Công với khoảng vài chục cái áo sơ mi bầy trên mặt một chiếc bàn nhỏ và một cô gái mặc áo dài đứng tiếp khách.
Tôi bước tới trước mặt cô này :
– Xin hỏi thăm cô, ai là chị Thanh ?
Cô gái đứng im lặng quan sát tôi từ nãy tới giờ, chưa biết tôi là hạng người nào, đến đây làm gì, nên nghe tôi hỏi thăm một người bạn của cô, nét mặt cô thay đổi hẳn. Cô mừng rỡ y như cảnh đón họ hàng cách xa nhau hàng chục năm ngoài sân ga. Giọng cô ta ríu rít :
– Anh kiếm chị Thanh hả ? Anh là anh Luận hả ? Trời ơi, chị Thanh nhắc tới anh hoài à.
– Nhưng chị Thanh đâu ?
– Trời ơi, anh diễm phúc lắm đấy nhé. Chị Thanh yêu anh hết xẩy. Lúc nào cũng nói tới anh thôi à.
– Nhưng chị Thanh đâu ?
– Chị ấy bị gạch tên rồi. An ninh nghi chị ấy sang Mỹ sẽ bỏ trốn theo anh đấy.
– Sao chị ấy viết thư nói là đóng bốn ngàn tám đô la tiền vé máy bay rồi ?
– Vâng, đúng thế. Lúc ra phi trường, sắp vào phòng cách ly thì an ninh mới mời chị ở lại. Anh biết tại sao không ? Tại chị ấy mừng qúa, cứ liến thoắng nói về chồng chị ấy ở bên Mỹ sẽ tới phòng triển lãm đón chị ấy đi chơi. Có người trong đoàn nghe được mật báo cho an ninh. Thế là cúp. Trời ơi, tội nghiệp qúa, gía chị ấy được đi, được gặp anh chắc chị ấy mừng mà khóc hết nước mắt đấy…
Tôi không buồn cải chính tôi là ai nữa. Tôi chào cô gái mà cũng chẳng hỏi họ tên cô ta là gì. Tôi không nhắn gửi một lời nào cho chị Thanh. Tôi bước ra cửa bằng đôi chân của người say rượu. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Luận thấy tôi vội quay mặt nhìn đi nơi khác dường như sợ mọi người biết ông ta quen tôi khi tôi gọi tên ông ta giữa đám đông đang đứng dưới bóng cờ vàng ba sọc đỏ.
Sáng hôm sau, tôi tới xưởng máy qúa trễ. Mọi chiếc máy đã reo hò ầm ĩ với những vòng quay hối hả chung quanh chiếc CNC của tôi còn nằm ụ như một nấm mồ.
Washington dường như chờ tôi đã lâu nên nhào ngay lại, hỏi :
– Sao ? Mày gặp bà Thanh rồi chứ ? Bà ta thế nào ?
Tôi ủ ê cười nhếch mép :
– Việt cộng không cho bà ta sang Mỹ nữa.
Washington trố mắt :
– Cái gì kỳ cục vậy ? Đi thăm chồng mà cũng cấm à ?
Rồi chẳng cần tôi trả lời, anh chàng Ba Tây thất vọng vừa bỏ đi vừa nói :
– Tao đếch hiểu cái nước Việt Nam của mày. Sao mày khoe với tao là nước mày có tới bốn năm ngàn năm văn hiến gì đó, hả ?

Đỗ Tiến Đức

Lời BBT:

Truyện ngắn ” Một Chuyện Rất Việt Nam” của Nhà Văn Đỗ Tiến Đức đã đăng tải trên Báo Thời Luận số ra ngày Thứ Bảy, 13/7/2024.

BBT HCMĐ xin cảm ơn nhà văn Đỗ Tiến Đức đã cho phép đăng tải truyện ngắn này trên website QGHC Miền Đông.

Views: 124

Tiếng Nói Vì Dân Đã Tắt

Trần Bạch Thu

Năm 1967 sau khi thi đậu Tú Tài I, tôi đến văn phòng quận Châu Thành, tỉnh Đinh Tường (Mỹ Tho) để khai “Lược Giải Cá Nhân”, một giấy chứng nhận rất quan trọng để sau nầy đình kèm theo đơn xin dự tuyển vào các trường cao đẳng hay đại học. Cô nhân viên văn phòng quận giải thích đơn giản và thực tế  hơn “em thuộc tài nguyên sĩ quan”, cô bảo chờ chút xíu, đợi ông Phó quận ký tên. Đó là lần đầu tiên tôi biết anh Lê Tấn Trạng.

Từ sau đó, tôi mới bắt đầu tìm hiểu và biết về ông Phó Quận, còn rất trẻ với những hoạt động gây chú ý trong giới học sinh, ông là người đã vận động thành lập đoàn “Văn Sinh Đất Lành” qui tụ hầu hết các học sinh Trung học trong tỉnh để phát động các phong trào dọn vệ sinh đường phố Mỹ Tho vào những dịp nghĩ lễ hay cuối tuần, thành lập ban văn nghệ trình diễn trong các buổi cắm trại của học sinh …

Hầu như giới trẻ ở Mỹ Tho lúc bấy giờ rất ngưỡng mộ ông Phó Trạng, rất bình dân và gần gủi với mọi thành phần trong xã hội. Đăc biệt là hiếm khi sử dụng công xa, anh thường di chuyển, đi lại bằng chiếc xe gắn máy đàn ông hiệu Honda, đời cũ màu đen.

Ngoài các sinh hoạt văn nghệ, xã hội, đoàn Văn Sinh Đất Lành còn là một tổ chức khuyến học duy nhất tại Mỹ Tho có thuyết trình, hướng dẫn chi tiết cho học sinh biết về các trường cao đẳng và đại học ở Sài Gòn, có những điều kiện như thế nào để thi tuyển nhập học. Lần đầu tiên tôi mới biết, muốn làm Phó Quận thì học ở trường nào, thời gian mấy năm và có gì hay hơn so với Bác Sĩ, Dược Sĩ hay Kỹ Sư v..v… Anh nói:

– Học ngành nào cũng được, miễn mình thích là tốt nhất.

Hai năm sau, tôi thi đậu vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, ban Đốc sự khóa 17 và gặp lại anh Trạng vừa mới thất cử Nghị viên Hội đồng tỉnh Định Tường bèn về trường ghi danh theo học Cao Học khóa 6. Xin được nói thêm về điều nầy, anh Trạng tốt nghiệp Đốc Sự khóa 11 với thứ hạng cao nên được quyền ưu tiên, khỏi thi, về học Ban Cao học kể từ sau 2 năm ra trường.

Tuy là Phó Quận nhưng khi ra ứng cử chức Nghị viên anh đã thua 2 ứng cử viên khác là ông xã Huỳnh, rất khôn ngoan trong chiến dịch tranh cử, ông lấy dấu hiệu tranh cử là chiếc nón lá và kín đáo phát cho dân chúng trong địa phương, ngay ngày bỏ phiếu ông còn cho rãi nón lá hai bên đường ở địa điểm bầu cử để nhắc nhở cử tri. Người thứ hai là chỉ huy trưởng Thám sát tỉnh, Huỳnh Hoa. Điều nầy nói lên sự công bằng và giá trị thật sự của lá phiếu bầu cử.

Tuy về trường học lại, nhưng hình như là anh đang chuẩn bị cho một cuộc bầu cử khác, chúng tôi ở chung với nhau trong “Ký Túc Xá” của Học Viện, chưa đầy 6 tháng theo học lớp Cao học 6, anh nói với tôi là sẽ trở về Mỹ Tho ra tranh cử chức Dân biểu đơn vị Thị xã Mỹ Tho. Tôi im lặng vì thấy hơi khó, vì vừa mới thất cử Nghị viên chưa đủ thời gian chuẩn bị lấy lại tinh thần, hơn nữa ứng cử viên tranh chức Dân biểu thị xã Mỹ Tho lại là người bà con của Bà Thiệu (Phu nhân của Tổng Thống), hiện đang là Chánh Sở Học Chánh tỉnh Định Tường. Anh nói:

– Hai phương diện bầu cử khác nhau, hai thành phần cử tri cũng khác nhau, một là vùng dân cư hỗn hợp và một là vùng dân cư tương đối có trình độ chọn lọc. Thị xã Mỹ Tho có truyền thống chuộng người trí thức và cử tri biết đến các hoạt động của một ông Phó Quận nhiều hơn.

Thật vậy, năm 1971 anh Trạng đắc cử chức Dân biểu đơn vị Thị xã Mỹ Tho một cách vẻ vang, mặc dù đối phương được sự ủng hộ tối đa của chính quyền, cụ thể là nhân viên công lực vận động đến gõ cửa từng nhà trong thị xã. Nhưng anh Trạng có các đoàn thể học sinh (Văn Sinh Đất Lành), nghiệp đoàn lao động, nhất là đảng phái đang lên lúc bấy giờ (Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến) nhiệt tình ủng hộ, các em học sinh đi gõ cửa từng nhà, mang biểu ngữ vận động tranh cử dán khắp thị xã.

Tại diễn đàn Hạ Nghị Viện, anh Trạng có tài hùng biện và được bầu làm Tổng Thư Ký khối Dân Quyền (đối lập) mà đa số trong đó là thành viên của Phong trào Quốc Gia Cấp Tiến. Anh là tiếng nói mạnh mẽ về các chương trình dân sinh và tranh đấu cho người dân bị ức hiếp. Điển hình qua vụ kiện tham nhũng nổi tiếng trên cả nước được mệnh danh là “Ông già Bến Tranh.”

Vụ án như thế nầy, ông già Bến Tranh tên thật là Lê văn Duyên, người dân xã Tân Lý Tây, Bến Tranh (Định Tường) khởi kiện ông Quận trưởng tham nhũng và hối mại quyền thế, bức hại dân lành có chứng cớ, nhưng cấp trên không xét xử thỏa đáng nên ông đã lên tận Sài Gòn nhờ các cơ quan công quyền giúp đỡ. Lúc bấy giờ phong trào chống tham nhũng đang rầm rộ qua các phương tiện truyền thông, báo chí nên đã làm lung lay chiếc ghế của ông Quận trưởng. Để bảo vệ, ông Quận cho người ngầm cảnh cáo ông Duyên, nhưng không có kết quả. Sau cùng, ông Duyên bị ám sát chết tại nhà, không bắt được thủ phạm.

Sự việc gây chấn động trong cả nước và anh Trạng vào cuộc đòi công lý cho ông Duyên, mặc dù cũng có lời hăm dọa của kẻ thủ ác. Thời gian kéo dài, có lúc gần như vô vọng vì các thế lực yểm trợ cho ông Quận trưởng rất lớn, nhưng Dân biểu Lê Tấn Trạng đã kiên trì tranh đấu bằng nhiều phương tiện hợp pháp để đưa vụ kiện ra ánh sáng. Cuối năm 1974 sự thật được phanh phui, bắt được hai kẻ sát nhân và ông Quận trưởng đã bị giáng cấp, bị bắt giam vào Quân Lao ở Cần Thơ chờ ngày ra tòa lãnh án.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhóm Dân biểu thuộc thành phần thứ ba, thân cộng như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba đã tiếp xúc và can thiệp với chính quyền mới cho một số đồng viện được cải tạo tại chỗ, ngắn ngày trong đó có dân biểu Lê Tấn Trạng. Mặc dù được chính Mai Chí Thọ ngưỡng mộ qua vụ án ông già Bến Tranh gợi ý nên tham gia vào tổ chức Mặt trận Tổ quốc cùng với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, nhưng anh đã từ chối và trở về quê sinh sống như người dân thường.

Cho đến tháng 10 năm 1976 anh Trạng bị bắt trong đêm tại nhà, làng Tân Hòa Thành, Bến Tranh vì tội tham gia tổ chức “Sư Đoàn Tiền Giang” chống lại cộng sản đương thời.

Tháng 8 năm 1977 cộng sản mở một phiên tòa tại Mỹ Tho xử một vụ án âm mưu lật đổ chính quyền, tổ chức có danh xưng là “Sư Đoàn Tiền Giang.” Tuy luôn luôn nói là công khai nhưng không có thân nhân bị cáo tham dự, cũng như không có phóng viên báo chí theo dõi hay tường thuật, kể cả báo chí trong nước. Phiên tòa chỉ đọc cáo trạng trong khoảng hơn 2 giờ đồng hồ. Không có Luật sư bào chữa, nhân viên pháp lý cũng như bồi thẩm nhân dân đều do chính quyền chỉ định.

Tất cả bị can không có kháng án. Hoàng văn Ngãi, Tư lệnh sư đoàn, tử hình. Hai anh em Trương văn Thân (Bí danh Trần Minh Dũng), Tham Mưu Trưởng và Trương văn Dậy (Mười Dậy) Chỉ Huy Trưởng khu căn cứ Long An, mỗi người lãnh án 10 và 20 năm tù khổ sai. Khoảng hơn 20 người khác bị kết tội phản động và lãnh án từ 5 đến 10 năm tù giam. Tất cả đều bị bắt tại nhà Trần Minh Dũng vào buổi chiều tối ngày 10 tháng 10 năm 1976 đem về Trung tâm Thẩm vấn (Tân Mỹ Chánh) nhốt vào xà lim hay biệt giam. Sau đó từng đợt được chuyển lên khám đường cũ ở số 2 đường Lãnh Binh Cẩn, thành phố Mỹ Tho.

Riêng anh Trạng bị biệt giam ở Trại chấp pháp cả năm trời và bị xử kín không có ra tòa cùng với một số người khác, có người cho đến nay không biết còn sống hay đã bị thủ tiêu.

Sau đó, anh được chuyển xuống trại giam mới xây để tiếp tục tạm giam vì cho đến lúc nầy, công an cũng chưa bắt hết các thành viên của sư đoàn cũng như các cảm tình viên vẫn còn lẫn trốn. Cộng sản qui cho anh là chính ủy của sư đoàn nên canh chừng rất nghiêm ngặt.

Cho đến một ngày, nhờ gia đình lo lót cho cán bộ trại giam, anh được ra ngoài lao động làm cỏ, dọn vệ sinh xung quanh trại giam. Anh có người chị ruột trông duyên dáng và lanh lợi luôn thăm anh ở trại giam, lợi dụng sự tín cẩn của cán bộ, có hôm còn cho phép anh về thăm nhà trong ngày, chị Ba đã nhanh chóng tổ chức cho anh vượt biển thành công.

Anh không có lập gia đình, sống độc thân cho đến khi qua đời. Ước nguyện của anh, sống không về Việt Nam khi còn cộng sản, chết đem tro cốt về quê cũ làng Tân Hòa Thành, Bến Tranh chôn bên cạnh mồ mã của song thân. Chỉ vậy thôi.

Nhớ đến anh tôi viết ít dòng về anh trong niềm thương tiếc khôn nguôi. Chúc anh thượng lộ bình an và cám ơn anh đã để lại cho đời tiếng nói vì dân thật mạnh mẽ của một con người yêu nước chân chính.

Trần Bạch Thu

Lời BBT: Trong bài viết anh Trần Bạch Thu có nhắc việc anh Lê Tấn Trạng tham gia “Sư Đoàn Tiền Giang”. Mời theo dõi bài viết  “Sư Đoàn Tiền Giang” của cùng tác giả, ở link dưới đây:

Sư Đoàn Tiền Giang

Views: 122

Xã Tắc Tiêu Vong

Phạm Thành Châu

Năm 1981, tôi đi tù cải tạo về. Tôi không về với gia đình ở ngoài Trung mà sống chui nhủi ở Sài Gòn. Tù “ngụy” ra khỏi nhà tù vẫn bị công an theo dõi, hạch sách. Mỗi tuần phải đến công an trình diện, nộp báo cáo trong tuần làm gì? tiếp xúc với những ai?… Nhưng tôi là “dân lậu” (không giấy tờ) không phải làm chuyện đó. Công an khu vực biết nhưng người bà con biết cách “giao thiệp” nên anh ta làm lơ. Tôi sống bình thường như những người khác, miễn thấy công an thì tránh xa. Nhờ người quen giới thiệu, tôi làm thư ký cho một “hợp tác xã cơ khí”. Nhân cô kế toán của hợp tác xã nghỉ đẻ, lại nghe tôi tự xưng “Biết đủ thứ. Làm gì cũng được’ ông chủ nhiệm hợp tác xã nhận tôi vô làm thay ít lâu. Vì cần người gấp trong vài tháng chứ chẳng ai dám nhận tù cải tạo vào làm việc. Tôi còn xưng mình tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh để thêm uy tín. Ông chủ nhiệm nghe vậy thì biết vậy chứ ông ta chỉ biết đọc theo kiểu đánh vần và ký tên bằng cách vẽ hình “một con chim đang tung cách lên bầu trời xanh” (Trước 1975 ông ta là võ sĩ nổi danh Phi Ðiểu, có cú đá bay rất nguy hiểm). Ông ta mở tủ lôi ra một đống giấy tờ cao hơn gang tay “Anh xem lại tất cả hồ sơ, sắp xếp cho tử tế, đâu ra đấy. Cô Nguyệt (kế toán, tài vụ?) để lôn xộn quá, khi cần hồ sơ, chứng từ, tìm không ra”.

Tôi bỏ ra hai ngày, chỉ để sắp xếp hai thứ riêng biệt. Chứng từ “Chi” để riêng, vô một cuốn sổ. Chứng từ “Thu” vô một sổ khác. Mỗi mục chi, thu tôi ghi ngày giờ, số chứng từ, mục đích chi, thu theo thứ tự thời gian, nghĩa là đúng “sách vở” của một tay tốt nghiệp Ðốc Sự Hành Chánh. Tiền thì ông chủ nhiệm để trong túi, nhiều quá thì đem về nhà cất giữ. Khách hàng đưa ông chủ nhiệm bao nhiêu, chẳng ai biết. Ông chỉ bảo tôi ghi vào mục thu một con số nào đó. Chi cũng vậy, ông ta chỉ nói miệng, bảo tôi ghi vào. Tôi bắt ông ta phải viết mấy chữ, ký tên vào để tôi giữ làm chứng từ. Ðược vài tuần, tôi hí hửng trình ông ta xem cách làm sổ sách đúng kiểu “kế toán thương mại”. Chiều lòng tôi, ông ta đeo kiếng vào, nheo mắt đánh vần phần chi. Mới một trang, ông ta la trời “Tôi đi nhậu với đối tác, đổ xăng, phong bì “bôi trơn”…… anh đều ghi rõ thì chết tôi. Anh phải tư duy, sáng kiến ra thành những chi phí công tác quan trọng, nhất là hồ sơ, chứng từ phải để lộn xộn, sao cho trên quận xuống kiểm tra không biết được chi, thu như thế nào, lúc đó tôi sẽ giải thích với họ. Quận xuống kiểm tra mục đích là để đi nhậu và được bồi dưỡng phong bì… Kiểm tra cho có lệ chứ hợp tác xã nầy đâu phải là tài sản của quận hay nhà nước. Anh làm qua loa cho có là được rồi”

Hợp tác xã cơ khí nầy chỉ do một người là ông chủ nhiệm bỏ vốn, thỉnh thoảng tìm được một hợp đồng gia công cho nhà nước là đủ sống. Ví dụ, ký hợp đồng gia công kềm, búa, đinh… cho thương nghiệp thành phố để bày bán trong các cửa hàng quốc doanh. Ông ta vô Chợ Lớn giao cho mấy chú ba Tầu làm. Sau đó chở đến cho sở thương nghiệp, sở phân phối đến các cửa hàng bán cho dân chúng. Tiền trao cháo múc. Sau khi “lại quả” từ xếp lớn đến thư ký, ông ta mang chi phiếu về giao cho tôi đi lãnh tiền. Ông chủ nhiệm báo trước là ngân hàng nầy hay làm khó thiên hạ đến lãnh tiền. Trưa đó, khoảng hai giờ, tôi đến ngân hàng, xin gặp ông phó giám đốc, trình giấy tờ và nói “Ông chủ nhiệm hợp tác xã bảo với tôi rằng. Nếu ông phó giám đốc mà không ký thì sẽ đuổi tôi. Nghĩa là tôi có bị đuổi việc hay không là quyền của ông phó giám đốc”. Có lẽ vừa đi ăn trưa về, lại có chút hơi men, ông ta cười hề hề, chả thèm xem giấy tờ, ký ngay. Nhận tiền của thương nghiệp thành phố xong, trong vòng một tuần (sau đó), ông ta cho người đi vét hết các thứ kềm, búa, đinh…ở các cửa hàng “mậu dịch quốc doanh” (dĩ nhiên đã móc ngoặc với cửa hàng trưởng), đem về cất giấu. Các cửa hàng không còn những thứ đó nữa. Coi như dân đã mua hết. Nhà nước lại cần kềm, búa, đinh… để phục vụ “nhân dân, quần chúng”. Thế là ông ta lại làm hợp đồng “gia công” với giá cao hơn vì mọi thứ đều lên giá bởi lạm phát. Hợp đồng lại được ký, lại chia chác nhau và ông ta chở kềm, búa, đinh (đã thu gom)… đến giao cho sở thương nghiệp thành phố. Nhờ “chu kì khép kín” đó cứ lặp đi lặp lại mãi nên cán bộ và chủ nhiệm làm giàu.

Nhưng hợp tác xã của ông ta chỉ là loại cò con. Người Tàu Chợ Lớn móc nối với thương nghiệp thành phố trong những vụ làm ăn lớn hơn, ngon hơn nhiều, chẳng hạn cung cấp xe đạp Cửu Long, sườn xe làm bằng thùng phi (vấp cục đá là gãy), ruột xe, vỏ xe đi ít bữa thì bể, nổ… thì tiền chia chác mới nhiều. Thời thập niên 1980, cán bộ, đảng viên nào có chỗ ngồi ngon lành nghĩa là chức vụ hái ra tiền thì vẫn làm như trong sạch vì sợ ganh tị, soi mói nên ông, bà nào cũng nuôi heo trong nhà để ra vẻ ta đây giàu có nhờ nuôi heo. Vài con heo, mướn người nuôi nấng, chăm sóc… trả lương thì làm sao lời được nhưng vào sở làm cứ khoe nhặng lên là bán heo lời rất nhiều. Thế nên khoảng thập niên 1980, nhà cán bộ nào cũng nuôi heo. Nuôi trong biệt thự, nuôi trên lầu, nuôi trước sân (để cho thiên hạ thấy)… Cứt heo thúi nồng nực, hàng xóm không dám phàn nàn. Quan cán bộ đi làm về, đứng dòm vô chuồng heo, hỏi han người nuôi heo vài câu, đốc thúc dọn cứt heo, tắm heo cho bớt hôi rồi vung vẫy chùm chìa khóa đi vô nhà. Một cách biện minh khác cho sự giàu có của mình là mua lại vé số của người khác trúng. Trả tiền nhiều hơn số tiền trúng, nhất là trúng độc đắc rồi vào sở khoe tờ vé số đó cho thiên hạ thấy, khỏi dị nghị mình giàu. Thời đó, hễ xổ số là chỉ có quí ông cán bộ gộc trúng độc đắc. Nhân viên biết rõ nhưng vẫn cứ xuýt xoa với xếp là “Anh Tư (Năm, Sáu… gì đó)         thật là người có số hên”. Từ năm 1986, sau chính sách mở cửa của đảng Cộng Sản Việt Nam thì cán bộ, đảng viên nào không làm giàu, không khoe xe hơi, nhà lầu thì bị coi khinh là bất tài.

Ít lâu sau, tôi xin nghỉ việc. Thư ký kế toán kiểu nầy có ngày đi tù, vì đổ bể ra họ sẽ trút hết trách nhiệm cho tôi là tên ngụy, CIA gài lại để phá hoại “sự nghiệp xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa của đảng, nhà nước và nhân dân ta”.

Tôi nghĩ đến cách kiếm ăn khác. Tôi bán bánh mì. Tôi học nghề từ một anh chàng có xe bánh mì trên đường Tô Hiến Thành, quận mười, Sài Gòn, là nơi tôi trú ngụ nhà người bà con. Nguyên do là sáng nào ngồi uống cà phê với mấy thằng em bà con trước hẻm, tôi cũng tặng anh chàng bán bánh mì một li cà phê để làm quen rồi lân la hỏi chuyện bán buôn. Anh ta truyền nghề. Hóa ra cũng rất đơn giản. Mua một xe bánh mì đóng sẵn chỗ ngã bảy, tìm nơi bán rồi cứ đến lò bánh mì lấy bánh, đến chỗ cung cấp pâté, sauce, chả, thịt … đem về bày ra, chỉ phải tự mình làm đồ chua, dưa leo, hành ngò.  Vậy thôi. Thời đó, tù về chỉ làm những nghề thấp kém như bán vé số, đạp xích lô, bán thuốc tây (chợ Tân Ðịnh), sửa xe đạp, bỏ mối kẹo bánh… kiếm chút tiền, đủ bỏ mồm. Sở dĩ tôi chọn nghề bán bánh mì vì thời còn là sinh viên ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, trước trường, góc Cao Thắng-Phan Thanh Giản có xe bánh mì Tám Cẩu chỉ bán buổi tối mà rất đông khách. Tối nào chúng tôi cũng ra đó mua một ổ về ký túc xá, nằm gặm. Xe bánh mì Tám Cẩu có nhiều người phụ giúp nên khách không phải chờ lâu. Nghe nói mấy cô “phụ tá” ông chủ gồm vợ ông ta và mấy cô em vợ. Một mình ông ta “xơi” hết mấy cô em vợ. Các cô đứng một dãy, hình thành “hệ thống dây chuyền” bán bánh mì. Xe bánh mì rộng hơn nửa thước, dài hai thước, ba mặt bằng kính. Người mua đứng sắp hàng. “Nàng” thứ nhất xẻ bánh mì, chuyền cho “chàng”, chàng trét pâté, sauce, thịt thà… xong chuyền cho nàng bên cạnh, nàng nầy bỏ đồ chua, rắc tiêu muối, gói lại đưa cho nàng kế tiếp. Nàng kế tiếp trao bánh cho khách, thu tiền. Bán đến gần khuya, hết bánh, dẹp tiệm, về “ngủ”. Không biết mỗi nàng một phòng riêng hay nằm chung theo thứ tự như chỗ bán bánh mì? Mà ở Việt Nam, dân lao động, nhà có vài phòng riêng đã là hiếm rồi.

Chúng ta ở Mỹ, bánh làm bằng bột mì nguyên chất mà không ngon bằng thời “bao cấp” (trước năm 1986) của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ấy là nhờ vào sáng kiến của dân miền Nam. Số bột mì nhà nước bán ra rất giới hạn, người làm bánh mì phải thêm đủ thứ bột (bột khoai mì, bột gạo, bột dong…), họ còn đánh trứng vịt vào, bỏ thêm một mớ thuốc bổ, vitamine A, B gì đó vào thau nước trước khi đổ bột vào nhồi để ủ men. Ổ bánh làm ra thơm phức, xốp và ngon. Chiều nào đến lò bánh mì lấy bánh (ở đường Hai Bà Trưng) để bán, tôi cũng xơi ngay một ổ nóng giòn, coi như bữa cơm chiều. Bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn thèm, ước được một ổ như thế mà thưởng thức. Nói vậy cho ra vẻ lãng mạn, chứ ở Mỹ, thứ gì chẳng có. Tôi đặt xe bánh mì ở góc đường Hiền Vương-Duy Tân, bán rất rẻû nên đông khách, đa số là giới bình dân, lời lãi không bao nhiêu. Vậy mà thiên hạ thấy khách sắp hàng chờ mua bánh mì, tưởng tôi lời nhiều nên đua nhau đặt xe bán bánh mì quanh đó để giành khách. Có hai xe bánh mì. Một chiếc bên phải, bên kia đường cách chỗ tôi vài trăm mét, một chiếc bên trái, cũng cách vài trăm mét. Coi như chận đầu, chận đuôi. Mà xe nào cũng đèn đóm sáng trưng, bánh mì để đầy, năm ba đòn chả lụa to đùng, pâté, sauce, thịt thà trình bày phong phú, hấp dẫn. Có điều họ không biết là thời điểm sau 1975 dân miền Nam rất nghèo, cơm không có mà ăn nên ăn uống lề đường, quán chồm hổm… rẻ tiền đã quen, nay thấy hai xe bánh mì sang trọng đó, họ không dám đến, sợ bị “chặt đẹp”. Thế nên, khi hai đối thủ hùng hậu xuất hiện, tôi “cạnh tranh bất chính” bằng cách bán rất rẻ, coi như bán lỗ vốn. Tôi cứ trét pâté, sauce, bỏ thịt, chả đầy ổ bánh mà vẫn lấy giá cũ, lại còn dặn lũ nhỏ vào xóm  kêu lên “Ông bánh mì bán rẻ lắm!”. Ðối phương (s) chịu đựng độ một tuần là đủ chết. Bánh mì không thể để bán qua ngày hôm sau, pâté, thịt, chả… có để tủ lạnh cũng độ năm ngày là bốc mùi, đổ nhớt, ăn vô tiêu chảy ngay. Tôi không có tủ lạnh nên mua hàng đủ bán một bữa, hôm sau mua tiếp. Bánh mì bán không hết, tôi đem tặng cho dân kinh tế mới ngủ đầy lề đường Hai Bà Trưng. Khoảng chín, mười giờ tối, đắc, ế gì tôi cũng “dẹp tiệm”. Nếu còn bánh mì (không thể để ngày mai vì bánh sẽ cứng như đá) tôi bỏ vào giỏ, đạp xe ra đường Hai Bà Trưng rao lên “Bánh mì ế đây!” Vậy là họ tốc mùng chạy ra. Tặng mỗi người một ổ, đỡ đói lòng. “Dân kinh tế mới” là dân Sài Gòn, bị chính quyền tịch thu tài sản (đánh tư sản mại bản) tống lên vùng cao nguyên, tự khai phá, trồng trọt lấy mà sống. Họ không biết làm rẫy nên đói, bịnh chết dần. Họ bỏ về Sài Gòn, ngủ đầy lề đường. Khoảng năm 1980, ở Sài Gòn, có khoảng vài trăm nghìn dân kinh tế mới sống “đầu đường, xó chợ”. Hằng ngày, người lớn tản mác đến các hố rác móc ve chai, đến các chợ, ai sai gì làm nấy. Trẻ con đi bụi đời. Mấy đứa con gái, có đứa làm “gái”, buổi tối, lang thang chỗ “Ngã Ba Sung Sướng” góc đường Hồng Thập Tự-Lê Văn Duyệt, trước bộ Y Tế cũ, đón khách. Hôm nào bị công an bố ráp (tìm bắt đưa đi tù cải tạo) thì đói. Nhiều buổi tối, đói quá, các cô sai một con bé đến nói “Bán cho chị tôi bốn ổ bánh mì” Tôi hỏi “Có tiền không?” “Không. Mai chị tôi trả” “Mầy có mấy chị?” “Nhiều lắm. Bốn chị” “Chị nào? Sao không thấy?” Nó quay đi mấy bước. Thì ra các cô nấp sau góc tường. Nghe con nhỏ báo, các cô chỉ thò đầu ra (vì mắc cỡ), nhìn tôi cười cầu tài. Tôi hỏi “Mua bánh mì, khi nào trả?” Một cô nói “Mai em trả” Tôi hỏi “Trả bằng gì?” “Gì cũng được. Tụi em đói quá!” “Tối nay trả được không?”  Mấy cô hết mắc cỡ nhưng vẫn lấp ló sau tường, vui cười “Ðược. Tụi em chờ anh bán xong thì đi chơi” “Chơi với mấy người?” “Cả tụi em. Càng đông càng vui” “Vui chơi xong có đi mét với thiên hạ không?” Các cô long trọng thề “Tụi nầy mà mét với người khác thì xe tung chết ngay. Cho bánh mi ăn đi. Ðói quá!” Một số bánh mì tôi để trên lò than nhỏ, sưởi cho bánh dòn, nếu bán không kịp, cứng ngắt. Tôi lấy loại bánh đó, trét chút pâté, sauce, chút thịt, rau dưa, xịt nước tương, gói lại. Các cô mừng rỡ, cám ơn rối rít. Tôi biết, các cô chẳng phải con cháu gì ông Khổng Tử mà phải giữ chữ tín. Chỉ ba mươi giây sau, các cô vào xóm kinh tế mới, sẽ nói rùm lên ngay. Quả nhiên hôm sau, có bà ra mua bánh mì vừa cười vừa nói “Ông cho mấy đứa ăn bánh mì “chùa” chúng còn vô xóm nói “Ông bánh mì đòi chơi cả bốn đứa”. Tôi cũng cười “Tôi coi tụi nó như em út. Nói giỡn cho vui. Ðụng tới tụi nó là tối nào tụi nó cũng ra ăn “chùa” cho mà sập tiệm luôn” “Tụi nó “trây” lắm. Nói bậy mà không biết mắc cỡ” Tôi thở dài “Khổ quá, làm nghề đó thì còn gì xấu hổ để mà giữ gìn mồm miệng”. Giờ đây, nhớ lại, Tôi mềm lòng vì cảm thương cho các cô. Sau 1975 dân Miền Nam gặp đại họa. Tài sản bị tịch thu, gia đình tan nát. Người con gái nào cũng có quyền ước mơ được đi học, được làm vợ, làm mẹ, nhưng chế độ đã đẩy họ vào đường cùng còn tìm cách loại trừ, cách ly họ khỏi xã hội, cho họ chết dần trong các trại tù cải tạo nơi rừng thiêng nước độc. Tôi nghĩ, giá mà tôi là “Việt kiều” như bây giờ, tôi sẽ tặng hết xe bánh mì cho các cô, nhưng lúc đó tôi cũng nghèo như họ.

Buôn bán, cũng vui vì được chuyện trò với khách. Ðôi khi, có ông đạp xe đến, mua một ổ bánh đứng ăn, nói chuyện cả buổi. Ðó là những ông đi tù cải tạo về. Chuyện trò thường là hỏi thăm ở tù trại nào? về ngày nào? vợ con ra sao? trước kia làm việc ở đâu? Chỉ vài câu thì thấy thông cảm như thân thiết từ lâu. Có ông trung úy Hiếu, cảnh sát đặc biệt, trước 1975, cùng làm việc với tôi ở quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên. Ông ta đi tù về, vào Sài Gòn, ở trong xóm, sau nhà thờ Tân Ðịnh, tối nào cũng đem một xị đế với cái ly nhỏ ra ngồi với tôi. Tôi để một ít thịt chả, pâté… bên cạnh để ông ta “đưa cay”. Tôi uống một chút lấy có, chỉ ngồi nghe ông ta tâm sự. Ông ta kể “Sau tám năm tù về, mới được vài bữa thì công an huyện Quảng Ðiền có giấy “mời” lên. Tôi lên công an huyện với cái bị áo quần, thuốc men…sẵn sàng vào nhà tù lần nữa. Không ngờ, mới bước vào thì tay trưởng công an huyện đích thân ra bắt tay, mời vào văn phòng với tất cả thân tình, vui vẻ như tôi là anh em ruột thịt của anh ta, lâu ngày không gặp. Tôi lại được mời uống cà phê sữa với thuốc “có cán” (đầu lọc, sang lắm) do đích thân một cô thư ký trẻ đẹp mang đến. Sau khi hỏi thăm gia cảnh, anh ta nói qua chính trị, rằng tất cả ai đã làm việc cho chính quyền miền Nam đều là tay sai của đế quốc Mỹ, đều có nợ máu với nhân dân, đáng tội chết, nhưng nhờ chính sách khoan hồng của “đảng và nhà nước ta” cho tập trung cải tạo để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa… Nay được đảng và nhà nước cho về sum họp với gia đình thì phải tuân thủ luật pháp, chính sách nhà nước, khi chính quyền cần thì phải xung phong góp sức xây dựng xã hội chủ nghĩa. Anh ta nói y như cán bộ trong tù đã nói vì họ học cùng một sách, nói như vẹt, sau đó anh ta kêu gọi sự cộng tác của tôi với công an huyện để “lập công chuộc tội” bằng cách xử dụng (điều hành) lại mạng lưới tình báo của cảnh sát đặc biệt Việt Nam Cộng Hòa thuộc quận Quảng Ðiền trước 1975 (mạng lưới gồm nhân viên, cộng tác viên, cảm tình viên…) Tôi ngạc nhiên “Trước đây, tình báo là để tìm hiểu, theo dõi Việt Cộng các ông, nay mấy ông sờ sờ ra đó mà chế độ cũ không còn, quân đội, cảnh sát tan rã hết rồi, theo dõi ai? Tôi mà tiếp xúc với họ là họ báo với công an ngay vì chính họ cũng đang bị theo dõi” Anh ta nói “Những người của anh sẽ hoạt động bình thường như trước 1975. Họ báo cáo tất cả những việc của chính quyền xã, ấp trong huyện, nhất là báo cáo việc làm của công an chúng tôi trong huyện. Anh thu thập và báo cáo thẳng cho tôi, không qua bất cứ người nào. Anh hoạt động tình báo thì anh đã rõ. Kỹ thuật nghiệp vụ bên nào cũng giống nhau, nếu sai phạm, kỷ luật, hậu quả cũng giống nhau” Tôi biết, nếu không làm theo lịnh anh ta thì sẽ mục xương trong tù. Tôi đành hứa sẽ cố gắng xem sao. Anh ta dặn không được tiết lộ nội dung buổi gặp mặt nầy. Sau khi ra về tôi thông báo cho tất cả các cộng tác viên trong mạng lưới của tôi (trước đây) đề phòng, rồi tôi đi gặp và nói huỵch toẹt với trưởng công an các xã trong quận để cảnh giác rồi vô đây (Sài Gòn) sống chui nhủi với người bà con”

Vì trước đây, chúng tôi làm việc với nhau mấy năm ở quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên, nên gặp tôi, ông ta quen miệng gọi tôi là “Ông phó” (phó quận), tôi dặn đừng gọi như vậy, nhưng khi đã xỉn, ông ta lại “Ông phó”. Rượu đế thường pha thêm thuốc trừ sâu cho “lên độ”, uống mau “phê”. Tôi có nói cho ông ta biết đó là rượu độc, nhưng ông ta bảo “Chết càng sớm càng tốt” Rượu đế pha thuốc trừ sâu, ruột gan nào chịu thấu nên chỉ mấy tháng sau, ông ta bị sưng gan chết.

Trong số khách mua bánh mì của tôi có hai ông bán vé số. Buổi tối, họ đến mua bánh mì rồi ngồi nhai bánh ngay trên lềà đường. Một ông là cựu “lính ngụy”, khoảng trên bốn mươi, trước 1975, bị thương thành thương phế binh, về với vợ con ở Củ Chi, làm phó trưởng ấp an ninh, đêm nào cũng dẫn nhân dân tự vệ đi phục kích Việt Cộng từ các hầm hố trong rừng mò về ấp tuyên truyền, thu thuế, kiếm ăn. Thỉnh thoảng bắn được vài Việt Cộng nên ấp được bình yên. Sau 1975, mất nước, bị Việt Cộng truy lùng trả thù, anh ta trốn về Sài Gòn, gia đình lập bàn thờ, nói rằng anh ta vượt biên, chìm tàu chết rồi. Ông bán vé số thứ hai, gia đình ở Mỹ Tho, được gọi là Bắc Kỳ chín nút (di cư vào Nam 1954, để phân biệt với Bắc Kỳ 75 vào chiếm miền Nam 1975) lớn tuổi hơn, là cựu giáo viên, vì Việt Cộng bắt ông ta giảng bài “Mỹ Diệm Ăn Thịt Người” (Trong tập “Từ Tuyến Ðầu Tổ Quốc”), ông ta nói “Tôi không thấy lính Mỹ Diệm nào ăn thịt người cả. Họ có đói đâu. Họ to mập như trâu” Ông ta bị ghép tội phản động, cần phải đưa đi “học tập cải tạo”, bèn bỏ trốn lên Sài Gòn, đi bán vé số. Ðó là con mọt sách lại có trí nhớ phi thường. Tôi rất thích nghe, thích hỏi ông ta đủ thứ. Hai ông bán vé số ăn bờ ngủ bụi, lang thang khắp Sài Gòn. Tích góp được chút đỉnh thì gửi lén về nuôi vợ con. Hai ông đúng là yêu đời, lúc nào cũng vui cười. Buổi tối, họ hẹn nhau đến chỗ xe bánh mì của tôi ngồi nhai bánh mì, trò chuyện. Thời ông Hiếu còn sống, thì có thêm sự góp mặt của ông cựu trung úy cảnh sát đặc biệt nầy. Khi ông Hiếu chết, hai ông vẫn giữ thói quen đến chỗ tôi.

Một buổi tối, hai ông vé số đến xe bánh mì của tôi, miệng cười toe toét “Bữa nay, tụi này “zdô mánh” (có tiền). Một ông khách mua vé số tụi nầy. Lúc đó ông ta mua vé số của cả hai đứa nên không biết vé trúng đó ai bán. Cũng không biết ông ta trúng bao nhiêu mà tìm tụi này cho một mớ. Tụi nầy mời ông đi nhậu một bữa” “Chà. Chơi sang thiệt. Ði nhà hàng phải không?” Hai ông vé số biết tôi nói đùa “Tụi nầy mua sẵn mồi rồi. Mời ông, lát nữa ra lề đường Hai Bà Trưng, phía nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, làm mấy li cho vui”.

Tôi “dẹp tiệm”, đẩy xe bánh mì, gửi ở nhà người ta rồi đạp xe ra đường Hai Bà Trưng. Lúc đó khoảng chín giờ tối (tôi còn nhớ, mùa hè năm 1983). Nhờ lúc chiều trời mưa nên không khí mát mẻ. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng là hai dãy mùng của dân kinh tế mới. Hai ông vé số đã ngồi chờ sẵn ở khoảng trống giữa hai chiếc mùng của người ngủ lề đường. Một tờ báo trải xuống làm khăn bàn, một gói thịt quay cỡ một lí lô cùng với rau dưa. Một con vịt luộc được chặt nhỏ để bên cạnh. Hai chai rượu đế với cái li nhỏ sẵn sàng chờ đợi. Tôi lôi trong bị cói ra mấy ổ bánh mì, gói patê, đồ chua… bày ra. Ông thầy giáo già lịch sự mời hai ông “chủ nhà” hai chiếc mùng bên cạnh ra tham dự. Hai gia đình nầy chưa ngủ, nhưng thấy tụi tôi bày đồ nhậu thì nằm yên, sợ bị hiểu lầm, đến khi nghe mời mới ngồi lên, chui ra khỏi mùng. Tôi mổ mấy ổ bánh mì, bỏ thịt quay với rau dưa, mời đàn bà và trẻ con hai gia đình đó. Họ ngồi trong mùng nhai bánh mì rào rào (vì bánh mì ế, đã nướng, nguội và cứng, cắn rộp rộp). Hai ông khách được mời, nói mấy câu lấy lệ rồi ăn uống tận tình vì đã bao nhiêu năm rồi có biết thịt quay, vịt luộc bao giờ! Chúng tôi mời nhau. Tôi không biết uống rượu nên chỉ vài ly đã thấm. Rượu cũng như ma túy đã “phê” rồi thì vui thì quá vui, buồn thì buồn thêm. Thấy tôi trầm ngâm, ông thầy giáo hỏi vì sao? Tôi kể rằng “Lúc trong tù, có ông bạn tù nằm bên cạnh bị bịnh kiết lỵ. Biết mình không qua khỏi mới ghi địa chỉ vợ con, nhờ khi nào được thả về thì đến báo cho biết ngày mất để mà giỗ quãi. Mấy năm sau, ra tù tôi tìm đến địa chỉ, hỏi dò, biết được chị vợ vẫn chưa biết chồng mình đã chết, mấy năm mà nhà tù không thông báo, vì khi ngồi ở quán cà phê gần nhà chị ta, nghe chị ta rầy thằng con, độ mười tuổi rằng “Ba con về sẽ dạy con chứ mẹ thì hết cách rồi” Tôi không còn can đảm mà đem tin buồn đến cho gia đình đó. Bây giờ vẫn cứ phân vân. Báo cho họ biết hay cứ để cho mẹ con chị ta hi vọng trong đợi chờ? Xin quí vị cho biết ý kiến” Chẳng ai biết nói sao! Ông thầy giáo thở dài, nhìn vào khoảng không, đọc hai câu thơ “Khả liên Vô Ðịnh hà biên cốt. Do thị Xuân Khê mộng lý nhân” (Nắm xương bên sông Vô Ðịnh đã tàn rồi mà người thiếu phụ chốn khuê phòng vẫn còn chờ đợi) rồi bảo “Anh viết thư báo cho chị ta biết. Viết sao cho khéo. Cứ bảo rằng. Anh ta vẫn mạnh khỏe, vui vẻ. Không hiểu sao buổi sáng không thức dậy. Lay gọi mới biết anh ta đã đi rồi. Chôn cất tử tế. Anh cho biết tên trại tù, ngày mất, nơi chôn cất để gia đình ra dời di cốt về quê… Thôi đổi qua chuyện tầm phào cho vui đi” Hai ông khách kinh tế mới, chẳng biết văn chương thi phú là gì, chỉ quan tâm tới chai rượu “Tụi nầy bị lùa đi kinh tế mới cũng giống như mấy ông đi tù. Dân thành phố, biết phá rừng làm rẫy là gì? Ðói, bịnh, chết liệt địa. Nhất là mấy ông bà già và con nít… Mấy tuần nay tụi nầy đập mồ, đập mả rả rời chân tay, nay vô li rượu, máu chạy “thông suốt”. Khỏe sao đâu!” Tôi ngạc nhiên “Ðập mồ, đập mả ai?” “Bộ anh không biết nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi bị cào sao? Cả tháng nay rồi” “Người ta thuê mấy anh vô đập mồ hả?” “Ai mà thuê. Trên thành phố xuống nói. Ai muốn đập mồ mả cứ vào mà đập” “Bộ khùng sao đi làm công không cho mệt xác?” “Ðập nắp mộ để kiếm sắt vụn bán ve chai. Ðập rả tay một nắp mộ bia bằng bê tông cũng được năm, bảy ký sắt, đủ mua gạo” “Rêm mình chịu chi thấu” “Chưa xong đâu. Mở huyệt xong còn phải hốt xương lên. Những mộ có thân nhân đến dời đi thì bỏ vô tiểu sành cho họ đem đi” “Họ trả tiền công có khá không?” “Ai mà biết. Thân nhân người dưới mộ phải liên hệ với chính quyền, đóng tiền bốc mộ rồi mang xương cốt đi đâu thì đi. Tụi nầy chỉ được chút tiền chủ mộ “bồi dưỡng” để tìm cho đủ bộ xương, sắp ngay ngắn vào tiểu sành. Họ dọa nếu không tìm đủ thì hồn ma về đòi người bốc mộ. Thiếu một lóng tay cũng phải tìm cho ra. Tụi nầy đâu có ngán. Quỉ còn sợ tụi nầy. Sá gì hồn ma” “Nếu không có thân nhân người dưới mộ thì làm sao?” “Thì cứ bỏ xương cốt dồn đống, chính quyền đưa đi đâu đó, đào hố trút xuống, lấp lại, cho ở tập thể luôn” Ông thầy giáo Bắc Kỳ thở dài “Xương cốt vất bỏ, mồ mả san bằng. Ðã chết rồi mà cũng không yên. Nghĩa tử nghĩa tận. Mồ mả tổ tiên, cha mẹ họ mà bị đối xử như vậy, họ có chịu được không?” Lúc đầu, hai ông kinh tế mới không hăng hái chuyện trò vì bận thưởng thức các món nhậu, sau đó đã lửng dạ lại được phụ trợ bởi mấy li ‘ba xi đế” nên cao hứng nói lung tung, kiểu “rượu nói” chứ không phải người nói. Tôi hỏi “Hốt xương như vậy có ngán không?” “Giết người mới ngán chứ hốt xương là hốt của, ngán nỗi gì” “Sao hốt xương là hốt của?” “Nó như thế nầy. Mấy người chết mà gia đình giàu có thường chôn theo vàng ngọc, châu báu. Ít ra cũng có mấy cái răng vàng, chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, trong miệng ngậm một viên ngọc. Tụi nầy nhờ vậy cũng đỡ khổ” Tôi nói đùa “Giàu chứ đỡ khổ gì?” “Tụi nó ngu lắm. Móc được trong quan tài thứ gì thì khoe rùm lên. Công an biết được. Vậy là sau đó, mỗi khi mở nắp quan tài, công an đứng sẵn, tịch thu hết. Trơ mỏ!” Ông thầy bán vé số lại thở dài “Ðất đai, nhà cửa, ruộng vườn, sông núi, biển đảo… đều là tài sản riêng của đảng và nhà nước ta. Nhân dân làm chủ nhưng nhà nước quản lý. Xương cốt nhà nước cũng quản lý luôn. Trơ mỏ cũng đúng thôi” “Tụi nó biết mình ngu nên khôn ra. Hễ vàng ngọc, cà rá, hột xoàn… cái gì nuốt được thì chúng lén bỏ vô miệng nuốt trộng. Lớn hơn, nuốt không được thì nhét trong quần xì. Làm bộ lom khom, ai thấy được” Tôi lo ngại “Coi chừng có ngày thủng ruột, mất mạng” “Không có đâu. Chúng mua rau muống già, để nguyên cây, luộc rồi nuốt trộng. Sau đó đi cầu. Rau muống lôi hết ra ngoài, lấy đi rửa rồi đem ra tiệm vàng bán. Có đứa trúng mánh, mua nhà rồi” “Có chén dĩa, đồ gia dụng chôn theo không? Mấy thứ đó là đồ cổ, quí lắm, bán được tiền lắm” “Tụi nó đập bỏ, công an có tịch thu cũng chẳng bán được” Tôi tò mò “Mấy ông hốt cốt người ta, có gì lạ không? Bên Châu Âu, thời trung cổ, có người chết bị đóng đinh chỗ trái tim trước khi đem chôn để phòng ngừa xác chết sống lại thành Dracula, chuyên hút máu người. Nghe nói trong nghĩa trang đó có chôn người Châu Âu nữa?” Ông kinh tế mới thứ hai, nãy giờ cứ tì tì uống rượu, nay mới lè nhè “Tôi không thấy đinh chỗ ngực, nhưng bị một lần hoảng vía, té đái trong quần” “Chắc là gặp Dracula rồi” Ông ta lắc đầu “ Có cái mả Tây chôn đứng. Không phải chôn xuống đất mà để cái quan tài dựng đứng như cái tháp trên mặt đất, bên ngoài xây bê tông. Mấy người Pháp đến nhờ phá cái tháp, lấy hài cốt đem về Pháp. Tụi nầy đập bê tông phía trước cho lòi nấp quan tài ra rồi nạy nắp quan tài. Không biết họ bỏ chất gì mà bay mùi thơm phức. Mấy đứa đang phá mồ bỏ việc xúm đến coi đông như kiến. Xác người còn nguyên, như đứng trong cái tủ đứng. Tôi sớn sác bước tới gỡ mớ cây gì như rong màu vàng, tấp trên tấm vải liệm. Mấy cây rong đó với tấm vải liệm thơm còn hơn nước hoa. Tôi vừa kéo tấm vải liệm xuống thì lòi mặt một bà đầm, xám đen, khô đét. Mắt nhắm, thụt vô, môi teo lại, hàm răng trắng nhởn, nhe ra. Tóc còn nguyên, phủ xuống mặt. Ðúng là con ma. Tôi sợ quá, bước lui. Ngay lúc đó, xác bà đầm ngã ụp lên người tôi như nhào đến ôm tôi. Tôi sợ đến cứng người, ngã ngửa. Cái xác đè lên tôi. Tôi vùng chạy. Người ta chạy tán loạn. Tôi vừa chạy vừa nhìn lui, sợ nó đuổi theo. Mấy ông biết sao không? Chỉ nửa giờ sau, cái xác đó bốc mùi thúi khủng khiếp, hít một chút là ngộp thở, đau đầu chịu hết nỗi. Cái xác lúc đầu còn nguyên. Thân thể, chân tay như vừa mới chết, cứng ngắt. Một lúc sau thì rả ra, thúi rum ra tới ngoài đường Hai Bà Trưng, Hiền Vương. Người đi đường hít phải chóng mặt, ói mửa. Nhà nào cũng đóng cửa vì mùi thúi bay vô nhà, không cách chi cho hết thúi. Người ta đem vôi với chất gì đó đổ lên xác con ma rồi tưới xăng đốt. Tôi ra sông, tắm ngày năm lần, xài hết một cục xà bông đá to, tắm xong bôi dầu thơm lên mà người cứ thúi. Bữa nay đỡ thúi nên tôi ngủ chung với vợ con. Mọi khi tôi giăng mùng ngủ riêng, ai đến gần, nghe mùi là né đi chỗ khác” Ông thầy giáo hỏi “Nghe nói tổng thống Ngô Ðình Diệm với ông cố vấn Ngô Ðình Nhu cũng chôn trong nầy. Bây giờ ra sao?” “Có người đến xin dời hài cốt. Hình như đem lên Gò Dưa, Thủ Ðức cải táng, nhưng công an không cho để tên trên mộ bia mà chỉ được ghi chữ Huynh trên mộ bia tổng thống Ngô Ðình Diệm và chữ Ðệ trên mộ bia ông cố vấn Ngô Ðình Nhu mà thôi”                   Ðúng ra, tôi còn có thể kể nhiều chuyện về cái nghĩa trang nầy, nhưng sợ mất thì giờ người đọc, vả lại, bữa đó, làm vài ly, tôi đã “gật gù” nên không nhớ được nhiều và chính xác. Mà không chỉ riêng tôi, mọi người đều “xỉn”. Hai ông vé số và tôi cứ nhường rượu cho hai ông kinh tế mới “Làm giùm tụi nầy cho hết hai xị. Bỏ lại, phí của” Một ông lè nhè “Bỏ đi đâu? Mười xị nữa cũng chưa “xi nhê” (xỉn) tụi nầy”. Thấy mồi đã hết, rượu cũng cạn, hai ông kinh tế mới chui vào mùng ngủ, còn lại ba người tụi tôi cũng quá say, không đứng dậy nỗi, nằm dài ra đó. Tôi chóng mặt, thở không được nhưng cũng đủ tỉnh trí mà xỏ chân vào khung xe đạp để đề phòng bị ăn cắp (xe) rồi mê man, chẳng biết trời trăng gì nữa.

               Có lẽ trời lạnh nên tôi tỉnh dậy. Lúc đó khoảng một, hai giờ sáng. Cả thành phố bị cúp điện, tối thui, chỉ trên bầu trời cao có mấy vì sao lấp lánh. Một chiếc xe gắn máy chạy từ bờ sông Sài Gòn về chợ Tân Ðịnh. Ánh đèn loang loáng dọc theo hai dãy nhà rồi mất hút. Thành phố yên lìm như chết chìm trong bóng tối tràn ngập, đặc cứng. Tôi thấy mờ mờ hai ông vé số nằm ngửa, chân tay giang ra như đứa bé nằm ngủ.

Thình lình, ông vé số Bắc Kỳ la lên, giọng Nam Kỳ rõ ràng “Xã tắc tiêu vong. Hồn phách phiêu bạt, biết đi về đâu!?” Tôi lạnh người, tưởng như những hồn ma trong nghĩa trang, không tìm thấy mồ mả, xương cốt mình, không còn nơi trú ngụ, đành đi lang thang rồi nhập vào ông thầy giáo bán vé số mà kêu lên. Tôi đứng lên, dựng xe đạp, định về nhà trọ, nhưng chóng mặt quá, trời lại tối thui, đâu thấy đường mà đi, đành nằm xuống, gát chân lên xe đạp, ngủ tiếp.

Views: 43

Kén Chồng Cho Con

Phạm Thành Châu

Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường, không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng rồi, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm (1975), hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi…? Tất cả chỉ là giả thiết. và vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ trẻ đến lớn tuổi đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái. Năm 1973 hắn tốt nghiệp đốc sự Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Ông có một thói quen buồn cười. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho ông, đốt thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại đốt điếu khác, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Đến ngày mất nước (1975), ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại tù cải tạo Long Thành 15 NV hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể. Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ kể rõ.

Còn chuyện hắn biết cô con gái của ông đại tá tỉnh trưởng (trước 1975) cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo. – Nhưng trong túi “moa” (tôi) tài sản chỉ mấy nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì “hẻo” (tệ) quá! Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội (thành phố Huế) mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà vì là giờ hành chánh, chỉ có cô gái ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô như nụ hồng hé nở, ngây thơ, tinh khiết. Cô học trường Đồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Chiều đó hắn ngồi tán tỉnh tía lia, khi ra về, em cho hắn ôm hôn lên má, rồi ôm cái tô ra về. Hắn hẹn với em vài hôm sau sẽ đến nữa. Đến hẹn, hắn lại ôm cái tô đến. Lính gác cổng thấy xe quận quen thuộc, không bận tâm. Em tươi cười, mừng rỡ chờ đón hắn. Gặp em được mấy lần thì ông tỉnh trưởng về sớm. – “Moa” (ta) nghe mấy bữa nay “toa” (cậu) cứ ôm cái tô đến trò chuyện với con bé Mai của moi mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con bé lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe! Dù sao thì hắn cũng được em cho ôm hôn mấy lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”. Một lần, ôm hôn em, hắn thì thầm “Em làm vợ anh nghe!” Có lẽ em không biết rõ “làm vợ” là làm gì, nhưng em vẫn ngước nhìn hắn cười và gật đầu. Đáng lẽ chuyện tình của hắn với em sẽ còn dài, nhưng sau đó sập tiệm (miền Nam bị đô hộ 1975). Hắn đi tù, ông (đại tá) bố em, cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng, hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ, hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán McDonald! Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe, hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe, và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông không biết tiếng Mỹ, lại già cả, nên lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỹ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo. – Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket. – Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay. Ông ta ngạc nhiên. – Ủa, sao toa biết moa? Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác. – Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình? – Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm (1975) sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO (tù cải tạo đi Mỹ) thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gả con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa. Ông ta bảo. – Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức. – Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu. Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái của ông bà bưng trà ra mời khách. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà, chững chạc hơn trước. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dửng dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn kể lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô con gái của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích lắm nhưng có cô gái ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường, hắn đâm ra mong được nghe cô mời trà để ngắm hai bàn tay búp măng, trắng tinh, dịu dàng. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như rằng, cô đăm đăm nhìn lại và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Một nụ cười đẹp hơn tất cả các nụ cười trên thế gian. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn. Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như hắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân. Nhớ nhé!”” Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo. – Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà. Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại. – Chớ ba mạ cháu ở mô rứa? – Dạ, ở nhà. – Còn cháu ở mô? – Dạ, cũng ở nhà. – Rứa là biết rồi hỉ. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ. Hắn tự hỏi, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất với ông bà. Khi giả từ, bà lại hỏi. – Bà cụ có mạnh khỏe không? – Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia. Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn. – Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta. Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ. Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ thêm mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô con gái đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới gợi ý gã cô con gái xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô ta, nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng, họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá. Vì không biết ý định của ông bà, nên một lần được mời đến uống trà, hắn đánh nước cờ cầu may bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước cờ “tiếp chiến”. Hôm đó, chủ nhật đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ (Việt Nam Cộng Hòa) trước chợ Eden (tiểu bang Virginia) Tối thứ bảy, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi. – Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không? – Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất. – Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden, sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ. – Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ. Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành (cô gái) đến trước miệng con chốt (là hắn), nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn. Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý gì với nhau bao giờ? Đến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Thời đi học, mỗi đầu tuần đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca… Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Kẻ mất nước như người mất hồn, như người thất tình. Thế nên hắn sợ mọi người thấy hắn ứa nước mắt khi hát quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ. Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục. Ông bà có tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẩn gì đó nhưng hồn vía để cả vào người đẹp ngoài kia. Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định lò dò theo trò chuyện với cô gái nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi? Đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô con gái hiếu thảo của bà vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố trong tù. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ, cô tỏ ý vâng lời. Hắn nghe mà tưởng mình nằm mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!? Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui. – Chào chú ạ! – Chú đến thăm Mai. – Dạ, mời chú vào. Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thước tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì. – Có ông bà cụ ở nhà không? – Dạ không. Mời chú ngồi. Cô ngồi đối diện. Cô rót trà rồi mở hộp bánh ra. – Mời chú! Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười. – Trà còn nóng, cháu vừa mới pha. Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin! – Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không? – Dạ không. – Thế mạ có nói chuyện nầy với Mai không? – Dạ có. Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn. – Chú xin lỗi đã làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui. – Dạ. – Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số… Qua đây chú đi làm trong tiệm McDonald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng, qua Mỹ, cũng chẳng khá hơn. (Hắn rào đón trước) Một mình, kiếm sống còn vất vả, họa chăng có cô nào điên mới chấp nhận sống với chú. – Cháu thấy, ở đây, có nhiều cặp vợ chồng cũng lao động chân tay mà vẫn sống đầy đủ, hạnh phúc. – Mai nói vậy, sao Mai vẫn sống độc thân? – Sau năm bảy lăm (1975), cháu chưa đến tuổi trưởng thành thì bị họa mất nước. Tảo tần vì đời sống, lo thăm nuôi ba trong tù hơn chục năm, tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện yêu đương. Qua Mỹ, vì cuộc sống, cháu cũng phải đi làm. Sáng đi, chiều về, chẳng có thì giờ tiếp xúc với ai mà nói chuyện lập gia đình. Rồi cô lắc đầu, trầm ngâm. – Thực ra, lòng cháu đã nguội lạnh từ lâu rồi, chẳng có ai làm cháu xao xuyến. – Chú đoán. Hoặc Mai đang mang một mối tình câm, hoặc đã bị phụ tình. Đúng không? Cô ngước nhìn hắn vẻ bí mật. – Cháu bị cả hai, nhưng không bị phụ tình. Bị người ta vô tình thì đúng hơn. Hắn làm bộ bất mãn. – Tay vô tình nầy thật đáng trách, và cũng đáng tiếc nữa. Mai có thể cho cho chú tên người đó không? Cô nhìn hắn, buồn buồn. – Cháu đã gọi đó là người vô tình rồi mà! – Vẻ buồn rầu của Mai làm chú nhớ lại ánh mắt của một cô bạn nhỏ ngày xưa, cũng nhìn chú lưu luyến khi chú từ giả cô ta để ra về. Chuyện đã lâu. Nay thì cô ta đã quên chú rồi! Thấy buổi trò chuyện kéo dài mà không đi đến đâu, hắn quyết định từ giả. – Chú đến thăm Mai, có lẽ là lần cuối. Ít hôm nữa, chú sẽ đi sang tiểu bang khác. Cô nhìn hắn, vừa ngạc nhiên vừa tức giận. – Vậy chứ mạ cháu dặn chú đến gặp cháu vì chuyện gì? Hắn bối rối. – Mạ Mai bảo chú đến gặp Mai để biết rõ tình cảm của Mai đối với chú? Nhưng thấy Mai chuyện trò, tâm sự với chú như với người bạn nên chú không dám hỏi. Điều chú phân vân vì sao Mai để ý đến chú, có cảm tình với chú? Trẻ và đẹp như Mai, biết bao người xứng đáng với Mai. Sao Mai lại chọn chú? Vì không rõ lý do, nên chú không dám nhận những cảm tình của Mai ban cho chú. – Cháu đã nói từ lúc nãy đến giờ mà chú vẫn không hiểu cháu. Cháu đã nói. Từ nhỏ đến lớn, cháu chỉ yêu một người thôi. Nếu không có vụ mất nước, cháu và người ấy đã nên vợ chồng từ lâu rồi. Đâu đến nỗi gần như suốt đời cháu phải đi khắp nơi tìm người ta. Nước Mỹ mênh mông.. . Rồi cô úp mặt vào hai bàn tay khóc nức nở, đôi vai rung lên… Hắn ngồi chết sững. – Cho chú xin lỗi Mai. Thú thật. Đời chú quá vất vả. Chú không còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện tình cảm với ai. Tình yêu của Mai dành cho chú thật kỳ lạ. Giống như là một chuyện cổ tích. Cô lau nước mắt. – Cổ tích sao được. Chú chờ cháu. Cô đứng lên, vào phòng một lúc rồi đi ra, tay cầm một tấm hình, trao cho hắn. – Chú xem đi! Hình ai trong đó? Hắn ngạc nhiên kêu lên. – Ôi. Hình chú đây mà! Đó là tấm hình hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh hôm tốt nghiệp. Sau tấm hình là câu (thề non hẹn biển) “Anh hứa yêu em suốt một đời” Cô hằn học. – Chú chú, cháu cháu! Bộ xưng “anh” sợ bị lính bắt hay sao?

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng, cám ơn quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rể phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè. – Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con bé Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô hắn cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp để tìm cho ra cụ mi. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình cụ mi chụp tặng hắn, đã mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô cỡ tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Cũng may! Hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Đáng lẽ, chuyện tôi kể còn dài, nhưng phải tạm ngưng ở đây, vì tôi nghe vợ tôi nôn ọe, ói mữa gì trong phòng tắm. Trăng mật cho cố, bây giờ ói mật xanh, mật vàng! Tôi phải vào với cô ấy, xem sao?

Phạm Thành Châu

Views: 59

Năm Thìn Nói Chuyện Con Rồng

Phạm Thành Châu

Năm 2024 - Giáp Thìn Ảnh: AI tạo hình

Năm 2024 – Giáp Thìn (Ảnh: AI tạo hình)

Năm nay là năm Thìn, cầm tinh con rồng. Chẳng ai thấy dung nhan con rồng ra sao. Nó là sản phẩm của tưởng tượng. Có điều, không hiểu ai đã đồng hóa con rồng của châu Á với con dragon của châu Âu. Một bên là con rắn (long), bên kia là con kỳ nhông, kỳ đà (dragon). Con rồng Á Châu tượng trưng cho cao quí, quyền năng (nhà vua) và nhân hậu (rồng hút nước, phun nước làm mưa giúp mùa màng xanh tốt) trong khi con dragon Âu châu vừa giống con khủng long vừa giống con hải mã (các ông thường ngâm rượu để uống cho mạnh gân cốt), là con ác thú, chuyên phun lửa đốt người ta. Bài nầy sẽ nói đại khái về con Dragon Châu Âu trước sau đó sẽ nói về con rồng Á Châu.

Con dragon, trong thực tế, có thật. Ðó là con vật ăn thịt, giống như con kỳ đà, rắn mối của ta. Bạn mở Google rồi đánh chữ “Dragon” thì thấy đủ loại Dragon. Con Dragon tiếng La Tinh: Draco, tiếng Anh, Pháp: Dragon, tiếng Ý: Dragone… Dragon nhỏ cỡ con thằn lằn, to lớn thì có con Dragon Komodo ở đảo Komodo, Indonesia, tên khoa học là Varamuo Komodoensi, dài 2 mét, nặng 150 ki lô. Tôi xem trong TV. thấy chúng ở chung với người trên đảo Komodo. Dân trên đảo phơi cá, chúng bò tới ăn, phải đánh đuổi. Hình như chính phủ nuôi chúng để hấp dẫn khách du lịch, nhưng cũng khá tốn kém, có mấy con trâu già chết, người ta mang cho chúng, chúng nhai sạch cả xương, lông. Không hiểu khi đói chúng có ăn thịt trẻ con không? chứ tôi thấy mấy đứa nhỏ lấy roi đuổi đánh chúng chạy vô rừng. Khi giành ăn, giành con mái, chúng đánh nhau rất hăng, máu me tùm lum mà vẫn cứ lăn xả vào nhau. Nhỏ hơn có con Dragon Volan mà ta gọi là thằn lằn bay, tên khoa học là Physignathus Cocinan. Miền thượng du Bắc Việt cũng có loại nầy. Có một loại tương tự lớn hơn, tên là rồng đất, người Tày gọi là Turong Ðang, người Mường gọi là Rềnh, dài khoảng 50 cm. Con chuồn chuồn không giống con dragon mà cũng được gọi là Dragon Fly? Có con cá dưới biển, màu sắc sặc sỡ, đầu dẹp cũng được gọi là con Dragonet. Ở Mỹ, có nhiều con dragon nhỏ được bày bán trong các tiệm bán thú nhỏ (pet). Mấy con nầy chẳng làm được tích sự gì, chỉ thấy bò tới , bò lui như con kỳ nhông vậy thôi (con tắc kè còn kêu được vài tiếng vào ban đêm). Tôi xem phim (vẽ) truyện cổ tích cho trẻ con Châu Âu, con Dragon được thêm vây, cánh, móng vuốt dữ dằn. Có con năm bảy đầu. Nó to như cái nhà, hiệp sĩ đến gần để chiến đấu thì nó phun lửa, chặt đầu, nó mọc lại đầu khác, phun lửa tiếp. Có khi nó bay trên trời, dùng móng vuốt bắt người. Cuối cùng chàng hiệp sĩ cũng giết được nó (hoặc bắn tên cho nó rớt xuống đất) để vào hang cứu công chúa (và để vui lòng lũ trẻ), tương tự chuyện Thạch Sanh, Lý Thông của ta vậy. Dragon là con ác thú, các ông gọi mấy bà dữ dằn, ác phụ là Dragon lady.

Bây giờ qua chuyện con rồng của ta.

Chưa ai thấy con rồng thật, tôi cũng chưa thấy, nên tôi chỉ dựa vào sách báo, truyền thuyết, tranh vẽ, hình tượng để để trình bày với hi vọng quí độc giả có được những giây phút giải trí thoải mái trong mấy ngày xuân.

Hình tượng con rồng có từ khi nào? Có thể khẳng định, rồng có từ thời lập quốc nước Việt Nam ta. Sử Trung Hoa có nhắc đến con Giao Long, là con rồng của người Giao Chỉ. Các di chỉ lịch sử của Trung Hoa không thấy hình tượng con rồng (chỉ có con lân), mãi đến đời Tuyên Ðức (1426-1435) mới thấy rồng xuất hiện trên các đồ đồng, đồ gốm, đồ sành (ông vua nầy chỉ thích đá dế, sao lại thích con rồng?). Ðến đời Thành Hóa (1465-1487) mới thấy xuất hiện Long Phụng Hòa Minh rồi Phụng Mao Lân Giác… Ngay cả đến con Phụng Tàu cũng chỉ xuất hiện sau Phụng Việt ít ra cũng 400 năm. Ðời Lý, thế kỷ 11, phụng đã thấy xuất hiện trên đồ gốm, đồ đồng rồi. Con phụng Việt dáng uy nghi nhưng nặng nề, người Trung Hoa “chế biến” con phụng Việt thành bay bướm, rực rỡ, thanh thoát ra vẻ mẫu nghi thiên hạ (phụng tượng trưng cho hoàng hậu). Xem thế từ thời thượng cổ, người Lạc Việt đã vẽ hình giao long trên người để tránh bị giao long làm hại, thuyền bè cũng vẽ con mắt phía trước mũi thuyền, mục đích đồng hóa với giao long. Người Mường (gốc người Việt cổ) gọi con rồng là Prudồng và con thuồng luồng là Tu Luông. Con rồng ở Việt Nam không chỉ dành riêng cho vua chúa mà dân gian cũng có thể dùng hình tượng rồng, chỉ khác biệt là con rồng, tượng trưng cho nhà vua thì mỗi chân có năm (5) móng, rồng của các quan bốn (4) móng, dân chúng (các đình chùa, miếu đền) chỉ được làm hình con rồng ba (3) móng thôi. Ra Huế, bạn thăm cung điện, lăng tẩm các vua đều thấy rồng năm móng, Ðồ cổ, có hình vẽ rồng năm móng là biết đó là đồ ngự dụng (vua dùng), rất có giá trị. Nếu có lên Ða Lạt, nhớ ghé thăm biệt điện Bảo Ðại, bạn xem trong tủ triển lãm đồ ngự dụng, có một bình trà (cho vua dùng) vẽ hình con rồng sẽ biết. Thời các vua nhà Nguyễn, có lịnh cấm dân chúng dùng hình tượng con rồng. Theo Khâm định Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ , quyển 186 về luật lễ thì “Nếu thêu vẽ con rồng, con phượng, giao long thì quan hay dân đều bị phạt 100 trượng (đánh bằng gậy) và lưu đầy 3 năm. Quan thì cách chức, thợ làm bị phạt 100 trượng”. Ðến thời Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn nên chẳng ai sợ lệnh vua mà phải tuân hành nên đình chùa, miếu võ, các đồ dân dụng (ấm, tách, đĩa, chén) vẫn vẽ con rồng, có khi rồng năm móng!

Huyền sử Việt Nam có kể rằng chúng ta là con Rồng cháu Tiên (các cháu gặp người “ngoại quốc” có thể tự giới thiệu “We are children of the Dragon and the Fairy” nhưng nhớ chỉ rõ hình con rồng chứ không phải con dragon, khủng long hay ác thú phun lửa giết người, và cô Tiên của chúng ta là người đẹp bằng người thật, nhân hậu và có phép tiên, chứ không phải cô tiên có cánh, bé tí xíu như con ong, tay cầm chiếc đũa thần, nhấp nháy như pháo cầm tay thường xuất hiện trong các hình vẽ và phim cổ tích cho trẻ em ở Châu Âu).

Sách xưa có ghi rõ về các loại rồng như sau: Rồng có cánh gọi là Ứng Long, rồng có sừng gọi là Cù Long, không có sừng gọi là Ly Long, rồng có vảy gọi là Giao Long (con rồng ở xứ Giao Chỉ. Giao Long thường xuất hiện ở bến sông thành Ðại La và Long Biên). Rồng 500 tuổi thì có sừng, 1000 tuổi thì có cánh, rồng chưa bay lên được thì gọi là Bàn Long. Trung Hoa đem con Giao Long (của xứ Giao Chỉ) ra “vẽ rắn thêm chân” (đầu lạc đà có sừng, tai bò, bốn chân, râu ria, móng vuốt trông rất hùng vĩ, dữ tợn) phổ biến đến các nước chung quanh nên nước Nhật chọn con rồng đen là rồng thiêng của họ (trước 1945, có đảng Hắc Long của Nhật), và con Thanh Long là rồng thiêng của dân tộc Triều Tiên.

Trở lại tục xăm mình của người Việt mà đến đời Trần vẫn còn giữ và con rồng đời nhà Lý chỉ là con rắn có vảy, có chân đến đời nhà Trần mới dùng hình tượng con rồng (có vây, kỳ) như của người Trung Hoa. Nhưng con rồng có thật hay không? hay biến dạng từ con vật nào? Theo các nhà nghiên cứu về tục xâm mình và con rồng Việt Nam thì có lẽ đó là hình ảnh con thủy quái. Họ suy luận rằng: Thời thượng cổ, đồng bằng sông Hồng và vùng bờ biển vịnh Hạ Long (vịnh rồng đáp xuống) còn rất hoang vu, thú dữ đầy dẫy. Người Việt đánh cá thường bị loại thủy quái nầy sát hại. Họ sợ hãi và nghĩ cách xâm hình con thủy quái lên toàn thân, hi vọng chúng tưởng đồng loại mà không ăn thịt. Loài thủy quái nầy rất to lớn, chúng thường băng qua sông hoặc lội từ đảo nầy qua đảo kia ở vịnh Hạ Long để săn mồi. Vì là ác thú hại người nên con người phải chiến đầu, tiêu diệt chúng để sống còn, giống như đã tiêu diệt hổ báo, cá sấu ở nam bộ thời người Việt mới đến khai phá. Tuy vậy đến thời Pháp thuộc, loài thủy quái nầy vẫn còn. Xin trích sau đây một số tài liệu liên quan đến con thủy quái mà người ta gọi là rồng biển, có ghi nhận trong các “Nhật Ký Hải Trình” của hải quân Pháp trên vịnh Hạ Long như sau. Theo Oudemans người ta đã trông thấy rồng hiện ra 134 lần từ năm 1802 đến năm1890. Ông Oudemans đã được trông thấy rồng hiện lên ở vịnh Hạ Long (bai d ùAlong) nên ông có tả rõ hình con rồng dài từ 15 đến 30 thước, đầu nhỏ có râu, đuôi dài lắm, có 4 vây to, lúc ngoi dưới nước mình như con rắn. Vị chỉ huy tàu Avalanche là Lagrisill có kể chuyện rằng: Năm 1897, hồi tháng 7, tàu ông đang đi ở vịnh Hạ Long, thình lình, ở đằng xa, xuất hiện một vật đen đen, chiếu ống dòm thì thấy con rồng đang rẽ nước, ông liền cho tàu chạy đến gần độ 600 thước rồi ra lịnh lấy súng đại bác bắn một phát, nhưng không trúng, rồng lặn xuống nước. Rồng thở phì phào như con trâu đầm nước và phun nước lên cao như cá ông voi. Ngày 15 tháng 2 năm 1898 rồng lại hiện lên gần Faist-si-long, trên tàu bắn nhiều phát súng, cách rồng 3, 4 trăm thước, hình như có hai phát trúng nên thấy rồng cuộn khúc lên khỏi mặt nước và phun nước lên trên không. Chín ngày sau, từ tàu Bayard, một sĩ quan (quan năm) hải quân và tám hạ sỹ quan đang đứng chơi trên tàu cũng lại thấy rồng hiện lên, đầu nó nhỏ như đầu chó bể (phoque), lưng có gai như răng cưa”. Mới đây, vào năm 2009, ở vịnh Bristol (Alaska) người ta quay video được một sinh vật to lớn, dài khoảng 6 – 9 mét, di chuyển trong nước với cổ dài, đầu giống đầu ngựa. Giáo sư Paul LeBlond, trưởng khoa Khoa Học Trái Ðất Và Ðại Dương, đại học British Columbia cho biết, sinh vật trong video dao động lên xuống theo chiều dọc chứ không di chuyển sang hai bên như cá. Có thể đó là loài rắn biển khổng lồ, được gọi là Cadborosaurus, là động vật bò sát biển, thường xuất hiện ở các bờ biển Bắc. Như vậy, con Giao Long (con rồng của người Giao Chỉ) là có thật, đến thế kỷ 19 còn sống sót vài con và bị người Pháp tiêu diệt. Có phải con thủy quái ở hồ Loch Ness (xứ Scottland) cũng là bà con giòng họ gì với con giao long của ta chăng?

Năm 1925, giáo sư Gruvel xuất bản một cuốn sách nói về nghề đánh cá cũng có kể chuyện về con rồng biển. Theo lời ông bác sĩ Kremp, nguyên quản đốc viện Ðông Dương Hải Học đã nghe một người Nam phần, 56 tuổi, chủ thuyền ở sở Thương Chánh Sài Gòn thuật lại rằng, năm 1883, có trông thấy trên bể một con rắn biển to bị sóng đánh giạt vào. Con rắn bể nầy dài 19 thước, lưng rộng 1 thước và có nhiều đốt. Da nó xám, cứng, gõ kêu như sắt tây (Theo Nguyễn Công Huân, Văn Hóa Nguyệt San, T. XIII, Q I, Sài Gòn 1964, tr. 26-30).

Trở lại chuyện con rồng. Vì là con vật được tượng trưng cho cao quí, sang trọng, quyền năng và nhân hậu nên các vua tự xem mình là rồng, những gì thuộc về nhà vua đều thêm chữ long vào. Long nhan (mặt rồng), long sàn (giường vua nằm), long xa (xe vua)… Trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung có “Ðồ Long Ðao” (đồ long là giết rồng) là cây đao sẽ dùng để giết vua Mông Cổ giành lại nước Trung Hoa cho người Hán. Người Việt mình rất thích dùng chữ “long” để chỉ các công trình, địa danh. Long Biên, Hàm Rồng, Long Hải, sông Cửu Long, thành Thăng Long… ngoài ra còn có Long Beach (bãi biển rồng), Long Island (đảo rồng) ở xứ Mỹ, và Longine (con rồng nằm trong đồng hồ?) của Thụy Sĩ nữa!

Chùa Cầu – Hội An, Quảng Nam (Ảnh: Internet)

Hiện nay người ta thích vẽ, tạc tượng con rồng ở các đình chùa, miếu đền và cả các công viên, khu giải trí. Dài nhất Việt Nam là 2 con rồng bằng xi măng trước đền thờ Ngọc Hân công chúa và vua Trần Nhân Tông, cách đàn Nam Giao 6 km trên núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, thành phố Huế. Con rồng xi măng nầy dài 105 mét, thân cao 2,5 mét, đầu cao 3,5 mét. Trong truyền thuyết, có con rồng dài gần chục nghìn cây số, từ thành phố cổ Hội An đến nước Nhật. Người ta kể rằng. Nước Nhật thường hay động đất vì có con rồng nằm dưới đó, thỉnh thoảng cựa mình là đất đai rung chuyển, cây đổ, nhà sập. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, mình con rồng ở Nhật nhưng đầu nó ở tận xứ Việt Nam. Vậy nên, vào đầu thế kỷ 15, thầy địa lý Nhật đến xứ Ðàng Trong (của chúa Nguyễn), tìm long mạch thì thấy ở Phố Hội có đầu con rồng nằm dưới một rạch nước, họ bèn xây đè lên (đầu rồng) một cây cầu, xây thêm trên cầu một ngôi chùa, có tượng ông (thần) tướng cầm cây gươm, ghìm ngay đầu con rồng để kềm chế, không cho nó cục cựa, vậy là nước Nhật bớt động đất. Ðó là Chùa Cầu, tỉnh Quảng Nam, đến nay vẫn còn, như một kỷ niệm của người Nhật tặng cho dân Hội An, nhiều người gọi đó là cầu Nhật Bản, có ghi công trình nầy ở các bia đá trên cầu. Ðến Hội An xem Chùa Cầu, bạn nhớ vô chùa (ngay trên cầu) sẽ thấy rõ tượng ông (thần) tướng cầm gươm. Có lẽ người dân Hội An thêm thắt vô cho bọn trẻ chúng tôi tin là thật, sau nầy, đọc sách chúng tôi mới biết là khoảng thế kỷ 15, 16, người Trung Hoa và người Nhật đến phố Hội lập thương cục buôn bán. Phía bắc phố Hội bên kia con rạch là nơi cư ngụ của người Nhật, phía nam của người Tàu. Người Nhật xây cây cầu để tiện đi lại, nhưng sách vở không nói về chuyện ngôi chùa (miếu) thờ ông thần nào đó, tướng tá, võ phục trông giống của người Nhật.

Tượng (ảnh trái) và bàn thờ Bắc Đế Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An. Ảnh: V.V.H

Bây giờ, để chấm dứt bài con rồng, tôi xin hiến quí vị tuổi Thìn (con rồng) một quẻ bói. (Xin lỗi, tôi không có quẻ tuổi Thìn cho quí bà). Ðàn ông tuổi con rồng thường gặp may mắn. Năm nay lại càng may mắn hơn vì là năm Giap Thìn. Người tuổi Rồng có thừa sức khỏe, năng nổ nhưng dễ bị kích động và mất thăng bằng. Cực kỳ ương ngạnh nhưng ăn ở có đức độ, không biết đạo đức giả. Ðược thiên hạ kính nể, có thế lực. Tuổi Rồng hăng hái ít ai sánh kịp. Thời trẻ hay gặp trắc trở, lớn lên vùng vẫy như rồng có cánh tuy cũng lắm thăng trầm, về già nhàn nhã. Tuổi Rồng hợp với tuổi chuột, rắn, khỉ, gà. Kị nhất với tuổi trâu, chó. Năm nay, tuổi Rồng khá giả, yên thân, miễn là đừng giao dịch, tiếp xúc với người cùng tuổi Thìn (con rồng) vì là năm Rồng lại nằm ở cái thế “lưỡng long tranh châu”, chưa biết thắng bại ra sao?

Bài con Rồng xin chấm dứt, sang năm xin hầu quí vị chuyện con Rắn, năm Tỵ.

Phạm Thành Châu

Views: 60

Có Quê Hương Trong Giọng Nói Người Mình

Nguyễn Quang Dũng

Cửa Tùng – Vĩnh Linh, Quảng Trị

Tôi rời quê nhà, vượt biển với vợ con tìm tự do, năm 1981. Lúc đó tôi 27 tuổi. Đến nay như vậy đã hơn 43 năm xa xứ. Và Tết vẫn là khoảng thời gian nhắc nhớ nhiều nhất trong tôi về quê hương khốn khó Việt Nam.

Năm đầu tiên xa nhà, tôi ăn Tết ở trại tỵ nạn Bataan.
Tối giao thừa, tôi nghe bà con trong trại tỵ nạn xách nồi niêu, soong chảo, thùng thiếc lên mái nhà khua gõ ầm ĩ… thay cho tiếng pháo mừng xuân. Trong bóng đêm của trại tỵ nạn không có khung cảnh quen thuộc, ấm cúng mà trang nghiêm, của Ba tôi thắp đèn cầy, đốt nén nhang trên bàn thờ tổ tiên đã chưng đầy hoa quả, khấn vái cầu nguyện cho một năm mới bình yên, tôi bỗng thấy nhớ nhà vô hạn.
Nhớ nhà và buồn muốn khóc.

Tới Mỹ năm 1982, vất vả với những lo toan cho đời sống mới trước mặt, tất bật với ngày đêm và công việc mưu sinh, nhiều khi quên bẵng đi chuyện nhớ nhà, thì vẫn là ngày Tết nhắc nhớ trong tôi đến Ông-Bà-Cha-Mẹ-Anh-Em. Vậy mới biết những gì tôi lớn-lên-và-sống-với từ thuở nhỏ ở quê nhà đã ăn sâu trong tiềm thức tôi.

Tôi và vợ tôi lui hui dựng lại cái bàn thờ Tổ Tiên trong căn nhà mình ở Mỹ theo trí nhớ.
Tượng Phật Bà Quan Thế Âm thì bọn tôi xin được từ lúc đi lau chùi nhà bếp và cắt cỏ ở nhà một Ông Tướng người Mỹ từng chỉ huy lực lượng quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Bức tượng Phật Bà bằng đá Non Nước Đà Nẵng rất đẹp nhưng bị đặt nằm dưới đất trong một góc vườn của vợ chồng ông tướng. Với mớ tiếng Anh rất còn lơ mơ của tôi lúc đó, tôi hỏi bà Tướng là tại sao bà lại để lăn lóc tượng Phật Bà như thế này? Bà ấy rất ngạc nhiên, nhưng cuối cùng thì cũng hiểu ra và giải thích với tôi là bà ấy không hiểu về Phật giáo và không biết bức tượng là một biểu tượng thiêng liêng đối với chúng tôi như vậy. Và bà bèn tặng vợ chồng tôi tượng ấy. Tôi không bao giờ quên ông bà Tướng người Mỹ rất tốt bụng này.
Những thứ còn lại là chân đèn cầy, bình thắp hương, bình cắm hoa, dĩa chưng hoa quả và hình ảnh những người thân đã khuất. Vậy là tạm đủ cho Bàn Thờ Ông Bà, theo những gì bọn tôi còn nhớ.

Giao Thừa những năm đó, khoảng thập niên 90, chỉ có tôi và vợ tôi loay hoay chưng hoa quả nhang đèn trên bàn thờ Tổ Tiên. Đúng giao thừa, tôi đốt nén nhang khấn vái Ông Bà – cũng giống như Ba tôi vẫn khấn vái như vậy vào Lễ Giao Thừa.
Trong giây phút cuối năm ấy, trước bàn thờ Tổ Tiên, hình như tôi vẫn muốn được trở về, sống lại cái khung cảnh quay quần với Ba Má anh em tôi trong phút Giao Thừa.
Tôi vẫn thấy nhớ nhà và nghèn nghẹn muốn khóc.

Ở những khoảnh khắc chuyển giao của cũ và mới, của kết thúc và bắt đầu, của năm cũ và năm mới tôi nhận ra quê hương không phải là những gì trừu tượng, xa vời trong trí tưởng mà đó là những tình cảm rất rõ nét tự lúc nào đã bám chặt trong tôi. Là Ba tôi. Là Má tôi. Là Anh Em tôi. Là Nơi Chốn tôi sinh ra và lớn lên.

Dần dà, tôi tiếp xúc và tham gia sinh hoạt với những người đồng hương trong vùng tôi ở và quen dần với những cái tết xa quê.
Sinh sống giữa nơi chốn của người Mỹ và những người nói tiếng Mỹ, tôi vẫn khựng lại khi nghe tiếng người đàn ông hay đàn bà la rầy con bằng tiếng Việt, tiếng người mình, ở những siêu thị hay ở những nơi mà tôi không nghĩ là nghe được tiếng Việt.
Thì ra tự trong giọng nói người Việt mình tôi nhận ra trong tôi một sợi dây liền lạc, một nỗi gắn bó với quê nhà giờ đã xa tít nửa vòng trái đất.

Và tôi cũng nhận ra ở cộng đồng người Việt ở đây có rất nhiều Hội Ái Hữu mang tên những vùng đất ở Việt Nam. Hội Gò Công. Hội Long Xuyên. Hội Nha Trang. Hội Huế. Hội Quảng Đà. Hội Đà Lạt. Hội Quảng Trị….Gần gũi và thân tình nảy sinh một cách tự nhiên khi người mình gặp nhau, nghe lại được những giọng nói rất đặc thù Việt Nam – rất “Quảng Nam”, rất “Huế”, rất “Sàigòn”, rất “Nha Trang”, rất “Quảng Trị”…

Ba Má tôi gốc Quảng Trị – chánh quán làng An Du Nam, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Trước 1975, An Du Nam nằm bên kia vĩ tuyến 17, bên kia sông Bến Hải, thuộc miền Bắc.
Ba tôi, một công chức trung cấp của chính quyền miền Nam, trôi nổi theo vận nước từ Quảng Trị xuôi về miệt miền Nam. Cư sở cuối cùng của ông là Sài Gòn. Tôi dĩ nhiên cũng đi theo ông. Từ Phan Rang ra Nha Trang, rồi Kontum, về lại Nha Trang, và trước 1972, tới ở Sàigòn cho đến ngày mất nước. Vì di chuyển theo Ba tôi đó đây như vậy nên tôi dường như không gắn bó với vùng đất nào của quê nhà.
Nhưng có một điều theo tôi suốt từ nhỏ tới lớn, không rời: Đó là giọng nói Quảng Trị của Ba Má tôi. Tôi nghe và rất quen thuộc giọng Quảng Trị của Ba Má tôi từ nhỏ, nhưng không nói được giọng Quảng Trị, có lẽ là do tôi sinh tại Phan Rang và lớn lên trong Nam.
Tôi gặp lại các anh Lê Quyền, Phan Khâm, Nguyễn Bồng trong Hội Quảng Trị vùng Hoa Thịnh Đốn trong các sinh hoạt cộng đồng người Việt vùng Thủ Đô. Tôi được nghe lại giọng nói quê mình.
Giọng nói của các anh giống như giọng nói của Ba tôi. Rất Quảng Trị. Không lầm lẫn đâu được. Đó là giọng nói của nằng nặng, triũ buồn trong âm hưởng. Tôi nhớ Má tôi nói với tôi là – “ngoài quê mình sống cực lắm con ơi.” Có phải chăng là cuộc sống kham khổ trên mảnh đất Quảng Trị quê nhà làm giọng nói người Quảng Trị mình cũng bị trĩu nặng vì những lo toan?

Tết lại gần tới, khi viết những dòng này, tôi lại thấy nhớ quê nhà. Và nhớ hình ảnh Ba tôi lui hui khấn vái trước bàn thờ tổ tiên đêm Giao Thừa.
Ba tôi mất tháng 8 năm 2010, tại Sàigòn.

Tôi đang rất nhớ giọng nói Quảng Trị của Ba tôi. Hình như quê nhà đang vương vương trong ánh mắt.

Tôi lại thấy lòng buồn. Muốn khóc.

Nguyễn Quang Dũng

VA, những ngày gần Tết

Views: 89

Hoạn Thư Tập Sự

Phạm Thành Châu

Ghen đến trình độ "thượng thừa" như người đàn bà này: Từng bước đều cao ngạo và đánh thẳng mục tiêu, người đời sau đọc xong chỉ biết "tấm tắc" - Ảnh 1.Tứ nghiện thuốc lá. Bỏ được ít lâu, lại hút tiếp. Lan bực lắm, thường bảo.

– Anh chỉ được chọn một thôi, hoặc em hoặc thuốc lá.

Tứ thề thốt, coi bộ hăng hái lắm, được ít lâu, sau bữa ăn, Tứ biến đâu mất. Lan mở cửa đi tìm, thấy Tứ ngồi trước thềm phì phà điếu thuốc. Tứ hít một hơi thuốc, thở khói ra, ngón trỏ gõ gõ trên điếu thuốc, mắt đăm chiêu mơ màng. Lan đâm bực.

– Chà sướng quá há! Trốn ra ngoài hút thuốc. Ôm gói thuốc đi luôn đi, đừng vô nhà nữa nghe!

Tứ nhe răng cười.

– Anh sẽ súc miệng, đánh răng cho hết hôi. Em mà nghiện thuốc, em mới thấy được cái thú hút thuốc. Sau bữa ăn mà không có điếu thuốc thì cuộc đời mất hết một nửa thú vị.

– Thôi, đủ rồi, có vứt điếu thuốc đi không, hay là tôi khóa cửa lại?

Tứ hít một hơi dài rồi mới chịu dí dép lên điếu thuốc. Chuyện Lan nổi cơn ghen sau đây cũng vì Tứ ra ngoài sân hút thuốc. Một tối thứ bảy, vợ chồng đi dự đám cưới của một người đồng hương tại một nhà hàng. Theo truyền thống trong lúc thực khách thưởng thức các món ăn thì cô dâu, chú rễ và phái đoàn hai họ đến từng bàn tiệc ngỏ lời cám ơn tấm thạnh tình đã bỏ chút thì giờ quí báu… Rồi đại diện bàn tiệc sẽ đứng lên đáp từ và trao những phong bì tiền lì xì. Khi sắp đến bàn của vợ chồng Lan thì Tứ bỏ ra ngoài hút thuốc, Lan dặn với theo.

– Lẹ lên nghe, sắp đến bàn mình rồi.

Lan muốn khi cô dâu, chú rễ đứng chụp hình kỷ niệm phải có Tứ ngồi bên cạnh. Vậy mà chờ mãi, cô dâu chú rễ đã qua bàn khác vẫn không thấy Tứ vào. Lan bực mình đứng dậy đi tìm. Vừa bước ra khỏi cửa nhà hàng, Lan bỗng khựng lại nép người vào tường: Tứ đang nói chuyện với một cô gái trước một cửa tiệm bên cạnh. Tuy không xa lắm, nhưng Lan không nhìn rõ được cô gái vì cả hai đứng khuất ánh đèn dưới mái hiên. Lan thấy họ coi bộ vui vẻ, thân thiết lắm. Cô gái nói gì đó, Tứ đáp lại, rồi cả hai cười phá lên, cô ta còn đập tay vào người Tứ nữa. Lan như chết sững, tim đập thình thịch, người run lên. Cô muốn ra chỗ hai người, nhưng không hiểu sao chân tay không cử động được. Lối đập tay vào người Tứ của cô gái và cách nói chuyện tự nhiên vui vẻ đó chứng tỏ hai người quen biết, thân thương nhau coi bộ hơn cả Lan với Tứ nữa. Cô gái mở bóp, đưa Tứ tờ giấy nhỏ, Tứ nhanh nhẹn xé đôi tờ giấy viết gì đấy và trả lại cô ta nửa tờ, nửa kia bỏ vào bóp. Rồi Tứ ném điếu thuốc xuống đất và dí nát nó. Lan hiểu rằng Tứ sắp quay vào, cô vội vã trở vào nhà hàng, cố giữ vẻ bình tĩnh. Chờ một lúc, vẫn không thấy Tứ đâu, cô lại định ra tìm thì thấy Tứ đang cụng ly với mấy người bạn ở bàn phía xa kia. Cô muốn gọi Tứ để hỏi cho ra lẽ nhưng chợt nghĩ lại làm gì Tứ cũng bảo đó là người bạn cùng sở hay gì gì đó và chắc chắn sẽ có một câu: Đừng nghĩ bậy bạ, người ta có chồng rồi, anh chỉ là người quen thôi. Nếu nghe thế chắc chắn Lan sẽ nổi giận ngay: Quen, quen mà vỗ vai, vỗ vế, giống như mấy con đĩ. Lan biết hễ nổi nóng lên là cô không chịu giữ ý gì cả, và như thế mọi người trong tiệc cưới sẽ chú ý đến ngay. Lan nghĩ: Ai lại nổi ghen trước mặt người khác, người ta đồn đãi nhau xấu hổ chết, người bản lĩnh phải che dấu ý nghĩ. Mà nếu hắn trả lời như thế thì mình cũng chịu, giỏi lắm lầu bầu mấy câu, rồi hắn nịnh nịnh, cười cười là mình quên ngay như mấy lần trước, mà lại chẳng khác gì báo động tụi hắn sẽ dè dặt kín đáo hơn. Cho nên Lan quyết định làm như không biết gì hết. Lúc Tứ trở về chỗ ngồi, nghe nồng nặc mùi rượu, cô lại nghĩ Chà, uống mừng tái ngộ cố nhân đây! Lan thấy tức đến nghẹt thở nhưng cố nén giận, đứng lên.

– Say quá rồi! Thôi, về sớm!

Tứ lè nhè gì đấy, cô không thèm nghe, xin lỗi những người cùng bàn. Cô biết Tứ say, nếu lái xe mà cảnh sát hỏi thăm sức khỏe thì rắc rối to ngay, nhưng cô làm thinh, để mặc. Trước giờ đâu có uống đến say tí bỉ như thế, phải có lý do, đó là gặp con nhỏ kia, vui quá nên tự thưởng cho mình mấy ly chứ gì, lăng nhăng đi, gặp chuyện thì ráng chịu, đáng kiếp! Lúc về nhà, đáng lẽ như thói quen Lan phải ôm chồng mới ngủ được, lần nầy cô nằm xây mặt vào sát vách yên lặng. Tứ kéo tay, cô cưỡng lại, cô muốn nói mấy câu cho hả giận nhưng nhớ lại là cần giữ bí mật nên chỉ bảo.

– Hôi quá, tránh ra!

Tứ thấy bất thường nên hỏi.

– Có chuyện gì vậy?

– Đau đầu quá. Để tôi yên!

Thực sự Lan muốn bể cái đầu khi tưởng tượng lại cảnh lúc nãy, tưởng tượng sau nầy “hai đứa” lén lút hò hẹn, đưa nhau đi nhà hàng, cinê, có khi đi phòng ngủ nữa. Lan chỉ muốn hét to lên “Đồ phản bội!”, muốn đấm, muốn ngắt véo Tứ cho hả giận nhưng vì mưu kế nên đành yên lặng. Cô cứ thao thức mãi, trong khi Tứ đã ngáy khò khò, Lan giận mình dại, tại sao không đến ngay lúc đó cho con nhỏ kia biết điều mà buông tha Tứ, hay ít ra cô sẽ làm bộ vui vẻ hỏi tên, hỏi chỗ ở, sở làm của “con kia” để có thể theo dõi cho chính xác. Bây giờ thì mù tịt, hỏi hắn cũng vô ích, hắn sẽ nói láo ngay. À, hai đứa đã cho nhau số điện thoại rồi, như thế số điện thoại con nhỏ kia đang nằm trong bóp Tứ. Quần dài lúc nãy Tứ treo trong tủ áo quần, Lan quyết định sẽ lấy cái bóp trong túi quần Tứ, vào phòng vệ sinh, khóa cửa lại, mặc sức lục lọi. Nghĩ thế nên cô chồm dậy, định bước xuống giường, nhưng kẹt là phải làm sao bò qua người Tứ mà không đụng đến hắn. Tứ rất tỉnh ngủ, chỉ cần đụng nhẹ là hắn mở mắt ra ngay. Hai đầu giường thì kẹt cái vách và cái bàn. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng, Tứ vẫn ngáy đều, cô nhẹ nhàng lần xuống phía chân, cố chống hai tay, hai chân thật cao sao cho không đụng đến người Tứ, nhưng chợt Tứ ngừng ngáy, Lan thất vọng, có lẽ tà áo của cô đụng vào người Tứ. Đúng ra người say rượu thường ngủ li bì, giờ nầy có lẽ rượu không còn tác dụng nữa. Lan lại giận mình, biết vậy, lúc tối thay vì đi ngủ Lan làm bộ làm gì đấy để khỏi lên giường, hễ nghe Tứ ngáy là lấy bóp Tứ ra kiểm tra. Giờ thì đã lỡ rồi, không thể đến mở tủ được, sợ Tứ biết, cô đành đi xuống bếp, mở tủ lạnh lấy nước uống. Lan làm thong thả cố kéo dài thời gian. Một lúc sau, cô nhẹ nhàng về phòng. Tứ đang ngáy, bỗng trở mình và không ngáy nữa, Lan đoán Tứ vẫn ngủ say, cô kéo nhẹ cánh cửa tủ. Bỗng cô nghĩ Khi mình lấy bóp của hắn và tìm thấy số điện thoại hoặc địa chỉ con kia, mình phải chép ra và để lại chỗ cũ mới không bị nghi ngờ, vậy phải tìm một cây bút và một mãnh giấy. Nghĩ vậy, Lan tiến về phía chiếc bàn ở góc phòng. Cô nhớ có một cây bút để cạnh TV, nhưng ánh đèn đường chiếu qua cửa sổ không đủ sáng để cô phân biệt các vật trên bàn, Lan đành dùng tay mò mẫm, bỗng tay cô đụng cái ly, ngã nghe cạch một tiếng, cô giật mình đứng yên, sợ Tứ tỉnh dậy. Nhưng Tứ đã hỏi giọng tỉnh rụi.

– Làm gì mà đứng lù lù như ma vậy?

Lan tức quá trả lời.

– Kệ chó tui!

Rồi cô vùng vằng leo lên giường, tiện chân cô đạp cho Tứ một đạp vào lưng nghe đánh hự một tiếng.

– Làm gì zdậy? – Ai vẽ! (Ai bảo)

– Vẽ gì?

Lan định nói “Ai vẽ theo con đĩ ngựa kia chi!” nhưng cô giữ kịp miệng. Nói vậy thì lộ bí mật hết còn gì!

– Ngủ đi. Cứ lục đục hoài không cho người ta ngủ!

Thì ra hình như Tứ biết tất cả những gì Lan làm từ nãy giờ. May mà cô chưa lấy được cái bóp nếu không Tứ sẽ biết được, chúng nó sẽ kín đáo hơn, khó theo dõi. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn bốn giờ, vậy là gần như trắng đêm cô không ngủ với bao ý nghĩ ngổn ngang. Lan phân vân không biết những người có chồng ngoại tình xử trí ra sao? Cô nhớ lúc nhỏ đọc báo, ở Sài Gòn có người tạt acít tình nhân của chồng. Cô tưởng tượng lúc bắt gặp hai đứa trong phòng ngủ, cô dám tạt acít cả hai lắm, nhưng ở Mỹ acít đâu dễ tìm. Hay là khi tìm được con kia, Lan sẽ nhẹ nhàng bảo Biết chuyện cô Cẩm Nhung, (bị tạt acit) báo có đăng ở Sài Gòn trước đây không? Nếu nó không biết tất sẽ hỏi thằng tình nhân (là Tứ). Lúc đó Tứ sẽ về tìm cách dọa nạt cho Lan không làm điều đó, thế là cô sẽ bảo Tứ Hỏi bà Phương bên Vancouver Canada đã làm gì biết không? Và Tứ sẽ nhớ lại chuyện báo đăng một người đàn bà Việt Nam ở Canada cắt chim chồng bỏ vô cầu tiêu giật nước cho trôi mất tiêu, không hy vọng chắp vá gì được cả. Như thế Lan đã cảnh cáo cả hai. Nghĩ vậy Lan hơi yên tâm, nhưng lại tự nhủ, phải làm gấp, cho hai đứa xa nhau sớm, chứ để chúng hẹn hò, ôm nhau rồi thì khó mà dứt ra. Lối cho nhau số điện thoại như thế chứng tỏ chúng nó đã lâu không gặp nhau. Tình cũ không rũ cũng đến, lúc tái ngộ sẽ mùi dữ! Nghĩ đến đó trong đầu Lan lại hiện ra cảnh Tứ ôm con kia hôn hít như đã từng ôm cô, Lan càng sôi gan, tưởng như chuyện đó đã xảy ra rồi, cô lại đạp cho Tứ một cái thật mạnh, Tứ lại hự một tiếng, la lên. – Làm gì zdậy? Điên hả?! Lần nầy Lan không thèm trả lời nhưng thấy cơn giận tạm nguôi, cô trùm mền ngủ. Đến khi nghe đồng hồ reo Lan mới tỉnh dậy, thấy đã mười giờ sáng. Quái lạ, lúc nào cô cũng để bảy giờ, dậy sửa soạn ăn uống cho chồng con rồi đi làm là vừa, sao đồng hồ lại reo lúc mười giờ?. Đúng rồi, Tứ sợ cô dậy cùng lúc có thể sẽ theo dõi hắn, nên vặn cho đồng hồ reo trễ. Sáng nay làm gì hắn cũng hẹn với con kia đi ăn điểm tâm đây, có thể Tứ dậy lúc bảy giờ rủ nhau (ăn, ngủ) cho đã rồi tới sở làm cũng còn kịp chán. Lan thấy buồn đến rã rời người. Vậy là Tứ đã phản bội cô thật rồi. Tự nhiên nước mắt trào ra, và cô ngồi khóc. Lan nghĩ đến mấy câu thường hát ru con, trước kia thấy bình thường, bây giờ nghe thảm não quá. Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh ham vợ bé bỏ bè con thơ. Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Nghĩ đến mấy câu ru em đó, Lan tủi thân khóc nức nở. Khóc chán, cô điện thoại vào sở làm báo đi làm trễ vì bịnh phải đi bác sĩ. Công việc của Lan làm tại sở là xếp lại một số hồ sơ cũ, cô làm giờ nào, ngày nào cũng không ai quan tâm, có khi báo nghỉ vài ba hôm cũng không cần người thay thế và cũng chẳng trở ngại gì cho ai cả. Lan đi rửa mặt, cô soi gương thấy mắt mình mọng và đỏ lên. Bỗng cô chú ý đến nhan sắc của mình và tự hỏi có phải con kia đẹp hơn cô hay nó có gì đặc biệt mà quyến rũ được chồng mình? Hay là Tứ bị nó bỏ bùa?! Kiểu nầy thì tán gia bại sản ngay! Cô hoảng kinh với ý nghĩ đó. Buổi sáng yên tĩnh, các con đã đi học từ sáng sớm, chồng đi làm, Lan ít khi phải đối diện với cảnh trống vắng nầy, vì giờ cô đi làm về cũng là giờ cả nhà đều có mặt, tiếng TV trong phòng các con vọng ra, tiếng nhạc Tứ mở trong phòng khách, và tiếng nồi niêu, chén bát va chạm trong bếp là những âm thanh vui vẻ, hạnh phúc. Lan bỗng có cảm tưởng sự trống vắng hôm nay là bắt đầu cho những ngày tương tự sẽ xảy ra. Biết đâu Tứ lăng nhăng rồi về tìm cách gây gổ, rồi sẽ đưa đến tan vỡ, ly dị. Lan sợ hãi hai tiếng đó. Rồi cô sẽ không được ở trong ngôi nhà nầy nữa. Lan từng nghe những cặp vợ chồng ly dị, thường người chồng có nhiều tiền hơn, nhất là có con tình nhân hỗ trợ sẽ trả một số tiền cho người vợ ly dị coi như chia của để lấy căn nhà và người vợ phải ra đi. Rồi con kia và Tứ sẽ ôm nhau trên giường của cô, sẽ nấu nướng trong bếp của cô. Ý nghĩ đó làm Lan chỉ muốn chết quách cho xong, cô lại ngồi khóc tiếp. Khóc một lúc, cô bình tĩnh lại và tự trấn an mình Đàn ông ai mà chẳng lăng nhăng, coi như chơi qua đường, con nào dại ráng chịu, ăn thua người vợ biết giữ chồng hay không? Nhưng cô không biết giữ chồng cách nào. Lan đọc báo thấy nào là phải dịu dàng, chiều chuộng chồng, nào phải để ý đến bản thân, son phấn, ăn diện cho đẹp, nào là phải quyến rũ, hấp dẫn chồng trong phòng the. Hai tiếng phòng the lại làm Lan lại tưởng tượng đến chồng và con kia sẽ ôm ấp nhau ngay trên giường của mình, máu nóng lại xông lên đầu, cô nghiến răng “Gian phu dâm phụ, cho chết cả hai!”. Bỗng Lan tự hỏi, tại sao mình không mua lấy một khẩu súng, rình theo, hễ thấy hai đứa với nhau mình đến cảnh cáo “Lần sau bắt gặp sẽ bắn chết cả hai!” Có cho vàng chúng cũng phải khiếp vía. Rồi cô tự hỏi. Nhưng rủi chúng không khiếp vía thì sao, có dám bắn không? Cô nghiến răng “Dám bắn! Bắn chết tươi!” Cứ một câu hỏi hiện ra trong đầu Lan thì lập tức có câu trả lời, như thế một lúc thì cô bí lối. Lan thở dài, trang điểm sơ sài và lên xe đi làm. Vừa mệt vưà đói bụng, cô bơ phờ, chỉ muốn nằm lăn ra ngũ giấc nghìn thu cho quên hết sự đời. Chợt cô có sáng kiến cứ giả giọng con kia gọi đến sở làm của Tứ, làm gì Tứ cũng vọt miệng hỏi. “Em Hồng, Cúc, Ngọc, Ngà gì đó phải không?” Thế là cô biết tên đối phương. Lan còn nghĩ ra một sáng kiến nữa là sẽ cho Tứ uống thuốc ngủ, bằng cách hòa thuốc chữa bịnh dị ứng vào nước ngọt, Tứ uống vào sẽ ngủ như chết ngay, cô sẽ mặc sức lục lọi bóp của Tứ, ngửi áo xem có mùi nước hoa, tìm có sợi tóc nào, vết son nào không? Khi đã có chứng cớ rõ ràng thì Tứ không có cách nào chối cãi được. Lúc đó Lan sẽ nói thẳng vào mặt Tứ Nếu không sớm từ nó ra thì tôi sẽ bắn chết cả hai. Ôi đơn giản thế mà cô nghĩ không ra. Nhưng phải nói trúng tên con kia mới chứng tỏ mình biết hết, đừng hòng chối cãi. Vậy phải giả giọng con kia gọi đến Tứ ngay. Nhưng giọng gì? Bắc, Trung hay Nam? Theo Lan thấy, thái độ con nhỏ kia không phải là của người Bắc, người Bắc ăn nói điềm đạm và rất giữ ý, người Nam bộc trực hơn, đúng nó là người Nam rồi. Lan quay số, gọi đến sở làm của Tứ, giả giọng Nam.

– Cho gặp anh Tứ ạ!

– Tứ tôi nghe đây. Xin lỗi, ai ở đầu dây ạ?

– Em đây, anh không nhớ à?

– Tôi có nghe quen quen, nhưng thực tình chưa nhận ra là ai cả!

Lan cúp ngay điện thoại, sợ Tứ nhận ra giọng mình. Vợ chồng bao nhiêu năm, dù giả giọng, nói tiếp vài câu Tứ sẽ biết ngay. Cô hơi yên tâm, Tứ không tưởng là con kia nên không vọt miệng hỏi tên chứng tỏ cả hai chưa liên hệ nhau nhiều. Nhưng tại sao Tứ vặn đồng hồ cho cô dậy trễ? Nhất định phải có nguyên do. Cô phải cho Tứ ngủ say để tìm cho ra chứng cớ để buộc tội Tứ cố tình cho cô dậy trễ để đi với con kia mà không bị nghi ngờ. Lan đã lấy lại bình tĩnh. Khi về nhà cô vẫn làm bổn phận thường ngày là chuẩn bị bữa cơm tối và không quên pha sẵn một ly nước ngọt với thuốc dị ứng để khi Tứ uống vào là ngủ say ngay. Hai cô con gái ra than đói bụng, Lan bảo chúng chờ ba về ăn luôn, nhưng đứa lớn nói.

– Ba gọi về nói sẽ về trễ vì bận việc.

– Mẹ nấu chưa xong, các con chờ một chút!

Tuy nói bình tĩnh nhưng cô đã nghi ngờ. Hẹn hò với nhau đi đâu đây, nhưng đừng hòng qua mặt con nầy. Lan gọi ngay điện thoại vào sở làm của Tứ, nếu không có Tứ ở đó, tức đã đi với con kia. Nhưng chỉ mới reng một tiếng là đầu dây kia đã nghe Tứ nói.

– A lô, Tứ nghe đây.

Lần nầy cô giả giọng Bắc vì giọng Nam gọi lần trước Tứ nhận không ra.

– Em đây, anh không nhớ ra em à?

– Xin lỗi cô tên gì, tôi không nhận ra.

– Anh đoán xem, mới gặp đấy mà, người đâu mau quên thế!

– Ai hè?

Lan cúp ngay điện thoại, cô thấy hơi vui vì mưu kế kiểm soát của mình. Nhưng con nhỏ kia là ai? Thân mật đến độ đó thì ôm nhau lúc nào chẳng được. Trong lúc đang suy nghĩ thì cô con gái đưa cho Lan điện thoại.

– Mạ, có điện thoại.

– A lô Lan đây!

– Lan đó hả, mi? Có biết ai đang gọi mi không?

– Ai rứa hè? Nghe như giọng con Tiểu Hoa!

– Đúng rồi, giỏi lắm! Tao qua đây mấy năm mới có được số điện thoại của mi. Răng mi? Làm ăn ra răng? Nghe nói vợ chồng tụi mi mua nhà rồi hả? Làm chi giàu rứa hè?

– Giàu cái khỉ khô chi mi ơi! Thuê nhà cũng trả chừng đó tiền. Chừ mi đang ở mô, tiểu bang mô?

– Tụi tao mu (move) qua Maryland rồi.

Thế là hai chị đàn bà Huế gặp nhau trên điện thoại, nói chuyện sa đà, linh tinh suốt buổi, cứ líu lo như chim hót, người xứ khác chẳng hiểu được bao nhiêu. Lan và Tiểu Hoa là bạn học lại là hàng xóm, từ trường tiểu học Gia Hội cho đến trường Đồng Khánh đều chung một lớp, lớn lên lấy chồng, các ông chồng cũng là bạn thân với nhau. Thành ra khi có gia đình vẫn cứ rủ nhau đi chợ, ăn quà rong.

– Tao đâu biết mi ở Virginia, hôm qua ăn đám cưới bên tiểu bang mi, nửa chừng ông xã tao say quá, tao phải đưa về nhà gấp, lúc ra gặp ông xã mi đang đứng hút thuốc. Lúc đầu, tao không biết là ai, sau ổng tới phụ đẩy ông xã tao vô xe mới nhận ra, tụi tao mừng quá.

Lan lặng người một lúc lâu.

– Bữa mô mời cả nhà mi qua tao, lâu quá!

– Tao cũng định rứa, nhưng để coi, lâu lâu gọi nhau cũng vui rồi.

– Nhưng răng mi biết số điện thoại của tao?

– Thì bữa đó, ông xã mi cho tao chớ ai.

– À, tao biết rồi. Mệ tổ mi. Rứa mà tao tưởng ổng nói chuyện với con mô, tao nổi ghen, tối về tao đạp cho ổng mấy đạp thất kinh luôn.

– Răng ổng không nói cho mi biết?

– Rứa mới đáng đời ổng. Say quá, ổng quên. Lúc ra, tao thấy, nhưng đâu biết mi! Biết, tao đã chạy tới rồi. Thôi, rứa cái đã hỉ, tao sẽ gọi lại.

Lan tắt điện thoại, quay lại thì Tứ đã đứng sau lưng từ lúc nào rồi.

– À, khi hôm đạp tôi! Nhớ nghe! tối nay phải để tôi đạp lại. Hai lần nghe!

Lan mắc cỡ.

– Ông ni, ăn nói nham nhở!

Rồi cô la lên khi thấy Tứ bưng ly nước.

– Ly nước cam. Đừng uống nghe, có thuốc độc trong đó!

– Cô muốn giết tôi phải không?

– Ừ đó! Răng?

Tứ lầu bầu.

– Có mụ vợ ác ôn như ri thì cũng nên uống ly thuốc độc đó, chết sướng hơn!

– Chơ răng ông vặn đồng hồ cho tôi dậy trễ?

– Uả. Thấy cô lục đục cả đêm, sợ cô mất ngủ sinh bịnh, tôi phải vặn trễ.

Bỗng Tứ ôm cứng vợ và cười mãi. Lan vùng vẫy.

– Buông ra! Điên hả?

– Bộ tôi không biết cô giả giọng người khác gọi tôi sao? Số điện thoại cô gọi hiện rõ trong điện thoại sở làm.

Lan vừa giận vừa tức vì bị Tứ chọc quê nhưng cô vẫn nhìn Tứ cười cười rồi ôm Tứ, tay sờ soạn người Tứ. Tứ cảnh giác nhưng không biết sẽ bị gì? Đột nhiên Lan dùng hai ngón tay kẹp một miếng da hông của Tứ, vặn tréo, răng nghiến lại “Chọc quê tôi! Cho biết thế nào là lễ độ!” Tứ nhảy dựng lên “Ui da! Đau quá! Buông ra!”.

 

Phạm Thành Châu

Views: 66

Một năm nhìn lại: MI – Mission Impossible và HNLK 5

Nguyễn Quang Dũng

Ở  picnic Hè 2018 của Hội Miền Đông có một buổi trưng cầu ý kiến Hội Viên tham dự: Hội Miền Đông có nên đảm nhận tổ chức Hôi Ngộ Liên Khóa QGHC kỳ 5 theo đề nghị của Hội QGHC Úc Châu không?  Dĩ nhiên, có phiếu thuận, có phiếu chống, nhưng tôi nhớ có khoảng 20 cánh tay dơ cao: đồng ý. Và như vậy cái tôi gọi là “Mission Impossible- HNLK5 ” bắt đầu.

Hồi nhỏ còn ở Việt Nam tôi rất thích loại phim hành động, hay ”action movie”, nói theo tiếng Mỹ. Có lẽ là do tôi còm nhom như cây tăm tre, không dám đánh đấm ai, thường bỏ chạy khi bị ăn hiếp nên hiệu ứng tâm lý nghịch là thích phim hành động võ thuật kiểu Lý Tiểu Long như “Đường Sơn Đại Huynh” hay “Mãnh Long Quá Giang” chăng? Nhưng có một loại phim của Mỹ tôi rất thich là loạt phim “Mission Impossible”. Hồi còn ở Việt Nam, loạt phim này là loại phim đen trắng trên TV, tôi chỉ nhớ được nhạc phim mở đầu, rất hay,  với sợi dây dẫn ngòi nổ đang cháy. Sau này, qua Mỹ, tôi lại được dịp xem lại loạt phim Mission Impossible hay MI trên màn ảnh lớn với chàng tài tử đẹp trai Tom Cruise…

Nhưng liên quan giữa Hội Ngộ Liên Khóa QGHC kỳ 5, “code name”: HNLK5MI là thế nào? Ở đâu? Sẽ có người đọc mất kiên nhẫn, vì lối viết cà kê dê ngỗng của tôi,  cắt ngang ở đây và hỏi. Xin thưa:

Hai điểm cốt lõi của MI:

  1. Tổ hành động
  2. Sự hiệp lực của tổ hành động với một kế hoạch hành động chặt chẽ để thực hiện thành công các mục tiêu “không tưởng” đã định

Tôi sẽ trình bày những điểm  tương đồng  giữa HNLK5MI  dưới đây:

Tổ Hành Động… The Team

Gọi là “Tổ Hành Động” hay “The Team” cho có vẻ “action movie” kiểu Mỹ một chút, chứ cái tên gọi thông thường ai cũng biết là Ban Tổ Chức  (BTC). Và “Tom Cruise” của Hội Miền Đông không ai khác hơn là anh Hội Trưởng Nguyễn Kim Hương Hỏa.

Từ trái: Lê Hữu Em, Lê Văn Quan, Trần Hồng,Lê Văn Bỉnh, NguyễnTrường Phát, GS Cao thị Lễ, Hương Hỏa, Vũ Bá Hoan, Tạ Cự Nguyên

Vào tháng 3 năm 2019, ba phiên họp ở tư gia anh chị Trần Nhựt Thăng xác định sơ khởi về kế hoạch thực hiện và  nhiệm vụ  mỗi thành viên của BTC. Phiên họp nào cũng ồn ào, sôi nỗi tranh cãi với nhiều ý kiến khác biệt về cách thức tổ chức HNLK 5. Từ các phiên họp sơ khởi này, một BTC được thành lập với thành phần nhân sự cốt cán cho các sinh hoạt chính của HNLK5 như sau:

Trưởng BanTổ Chức (tổng quát): Anh Nguyễn Kim Hương Hỏa.

Trưởng Ban Phụ Trách Ngày Du Ngoan Washington D.C.: Anh Tạ Cự Nguyên

Trưởng Ban Phụ trách Ngày HNLK tại Marriott: Anh Đỗ Quang Tỏa

Trưởng Ban Phụ trách Tiệc Đêm Chia Tay tại Harvest Moon: Anh Nguyễn Trường Phát

Trưởng Ban Phụ Trách Chuyến Du Lịch Xuyên Bang: Anh Nguyễn Trường Phát.

Ban Thực Hiện Đặc San HNLK: Anh Lê Hữu Em, Anh Trần Nhựt Thăng và Anh Lê Văn Bỉnh.

Thủ Quỹ: Anh Vũ Bá Hoan và anh Lê Văn Quan.

Ban Ấn Loát- Thiết Kế Đồ Họa –  Sân Khấu – Website – Tiếp Liệu & Hỗ Trợ:  Nguyễn Quang Dũng  & Trần Thị Tụ (là …tôi, người viết bài & …bà xã của tôi )

Ban Cố Vấn: Cô Cao Thị Lễ, Anh Trần Hồng, Anh Lê Hữu Em.

Gần như mọi người đến dự phiên họp đều được phân công, phân nhiệm cho các “ngày hành động”, trừ chị Kim Dzung, sau này mới nhận nhiệm vụ (xin xem ở phần sau )

Mọi người đều …xăn tay áo, bắt đầu lên kế hoạch hành động và từng bước  thực hiện kế hoạch được giao.

 

Hàng đứng từ trái: Nguyễn Q Dũng, Hương Hỏa, Tạ Cự Nguyên, GS Cao thị Lễ, Chị Trẩn Nhựt Thăng, Lê văn Quan. Hàng ngồi từ trái: Đỗ Quang Tỏa, Lâm Kim Dung, Trần Thị Tụ, Trần Nhựt Thăng, Lê Hữu Em, Lê Văn Bỉnh.

Mission Impossible: Đặc San HNLK 5 và Ban Hợp Ca Miền Đông

Trong sự thẩm định của BTC, với nhiều năm kinh nghiệm tổ chức và khả năng của các  Trưởng Ban Phụ Trách các ngày sinh hoạt HNLK 5, việc tổ chức, kế hoạch, và thực hiện HNLK 5 đều nằm trong tầm tay. Các công tác ghi danh, khách sạn, đón tiếp và các dự trù diễn tiến cho các ngày sinh hoạt đều được kế hoạch  hóa, phân công phân nhiệm giữa các thành viên của BTC một cách chi tiết. Và quả tình là với sự hợp tác chặt chẽ, tích cực và quyết tâm của mọi thành viên BTC, tất cả các diễn tiến  của 4 sinh hoạt chính yếu của các ngày HNLK 5 đều đã được hoàn thành tốt đẹp, vượt quá kỳ vọng của quý đồng môn QGHC từ khắp nơi trên Hoa Kỳ và  thế giới về Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn  tham dự HNLK 5.

Nhưng có hai phần hành công tác của HNLK 5 trước đó không ai biết kết quả sẽ xảy ra như thế nào và chưa bao giờ Hội Miền Đông thực hiện: Đó là một phần hành liên quan đến Đặc San HNLK 5 và việc thành lập một Ban Hợp Ca Miền Đông hát các bài hùng ca cho các ngày đại hội QGHC.

Xin được tường thuật các diễn tiến của hai vụ việc này như sau:

Đặc San HNLK 5 có gì lạ?

Khi BTC đề nghị thực hiện đặc san cho  Hôi Ngộ Liên Khóa kỳ 5 và  kêu gọi đồng môn đóng góp bài vở thì tôi nghĩ  việc thực hiện Đặc San HNLK5  cũng sẽ giống như mọi Đặc San của nhiều Hội Đoàn khác với nhiều bài vở kỷ niệm và  hình ảnh xưa 2,3 chục năm cũ.

Do vậy, có  lẽ là do ảnh hưởng …mê xem phim MI, tôi đề nghị một mục tiêu “không tưởng” cho tờ Đặc San: Đó là Đặc San HNLK5 sẽ bao gồm một loạt các trang hình ảnh “nóng” của HNLK 5, có nghĩa là vừa xong HNLK tại Mariott Hotel là sẽ có ngay các hình ảnh Hội Ngộ Hành Chánh in vào Đặc San HNLK5 để quý đồng môn khắp nơi  có thể mang về làm hành trang kỷ niệm.

Các anh trong BTC lo ngại hỏi: “Hmm…Có làm được không đó? Làm thế nào để thực hiện việc này?” Kế hoạch “hành động” của tôi, dĩ nhiên là với sự đồng ý, tiếp trợ, và phối hợp của BTC, như sau:

  • Việc thu thập bài vở cho Đặc san, đọc và chọn bài được đăng, trình bày (layout) bìa và bài vở cần được kết thúc 3 tuần trước ngày đại hội.
  • Nhà in sẽ lo in xong trước trang bìa và các trang cho phần bài vở. ráp thành từng cuốn 1 tuần trước ngày đại hội.
  • Tối ngày 29/9/2019 sau khi đã tổ chức xong Du Ngoạn Washington D.C.và Tiệc HNLK tại Marriott, anh Phát sẽ phải thức khuya tập trung, chọn lọc các hình ảnh chụp được, đưa lên (upload) một “Google Album” trên mạng Internet.
  • Sáng ngày 30/9/2019, tôi và Tụ sẽ lên mạng chọn lựa các hình ảnh tiêu biểu, tải xuống (download) và trình bày (layout) cho các trang hình ảnh Đặc San HNLK5.
  • Ngay sau đó, “nhà in” sẽ in chỉ riêng các trang cho phần hình ảnh HNLK5.
  • Các trang phần hình ảnh được ráp với các trang phần bài vở (đã in xong). Đóng bìa, cắt xén thành tập: Mission accomplished!

Đặc San Hội Ngộ Liên Khóa QGHC Kỳ 5

Kế hoạnh có vẻ …ngon ăn. nhưng thực ra để nói được “Mission accomplished!” là do công sức và sự phối hợp chặt chẽ của nhiều người trong đó có:

Nhiếp Ảnh Gia  “Grand Master” Trần Thụy Định, với ống kính chuyên nghiệp của anh, đi theo đoàn QGHC Du Ngoạn D.C., tham dự tiệc HNLK 5 tại Marriott Hotel, chụp gần cả ngàn tấm hình kỷ niệm rất đẹp và rõ nét cho HNLK QGHC thế giới năm 2019. Anh Trần Thụy Định đã giao tay cho anh Phát cái “memory chip” chứa toàn bộ các hình ảnh HNLK  ngay sau khi tiệc HNLK5 bế mạc tại đại sảnh  Marriott Hotel như đã hứa.

Anh Nguyễn Trường Phát đã chọn lọc từ gần cả ngàn các hình ảnh chụp được, upload vào “Google Album” như kế hoạch đã định. Album này vẫn còn trên mạng Internet (link:https://quocgiahanhchanhmd.com/hnlk5)

Trần Thị Tụ, người được BTC giao khoán 100% công việc trình bày tờ ĐS HNLK5. Kết quả rất mỹ mãn: ĐS HNLK5 được thiết kế, trình bày rất đẹp từ trang bìa cho đến các trang bài vở và các trang hình ảnh. Căng thẳng nhất vẫn là ngày Chủ nhật phải thức từ 3 g sáng để làm việc liên tục đến 7 giờ tối layout cho các trang hình ảnh và giúp tay đóng bìa hoàn thành tờ đặc san.

“Nhà in” Focus Digital Publishing, do Nguyễn Quang Dũng làm chủ và đảm trách việc in ấn ĐS HNLK5. Xin không nói thêm nhiều về “nhà in” ở đây.

Ban Biên Tập ĐS (anh Trần Nhựt Thăng, GS Cao Thị Lễ, anh Lê Hữu Em) đã chọn lọc bài vở, phối hợp với “nhà in” hoàn tất phần bài vở cho đặc san đúng theo thời biểu kế hoạch trù liệu.

Anh Lê Hữu Em đã vận động các Mạnh Thường Quân ủng hộ tài chánh cho việc thực hiện ĐS.  Số tiền ủng hộ từ anh LHE vận động lên tới $2000 cộng thêm các ủng hộ tài chánh từ quý Giáo Sư và nhiều CSV đồng môn khắp nơi (trong đó anh Đặng Quốc Tuấn (FL) là người đầu tiên gởi tiền ủng hộ ĐS về BTC, khai mào cho việc ủng hộ tài chánh in ĐS HNLK từ phía CSV). Với tổng số tài chánh ủng hộ lên đến $4240.00, BTC đã không phải xin và in các trang “quảng cáo tài trợ”. Nhờ vậy, tờ ĐS HNLK 5 trông rất chuyên nghiệp… hành chánh và được biếu tặng, không bán, đến các CSV và thân hữu! (Trang tri ân các MTQ và CSV ủng hộ tài chánh ĐS HNLK 5 in ở trang 4 và trang bìa sau của ĐS)

Nhìn lại việc thực hiện hoàn chỉnh tờ Đặc San HNLK5, tôi vẫn còn nhớ những nụ cười rất vui của các anh chị, các huynh trưởng đồng môn, quý Giáo sư trong Đêm Chia Tay tại nhà hàng Harvest Moon khi nhận được ấn bản rất đặc biệt ĐS HNLK5, với số phát  hành hạn chế, trong đó có các hình ảnh hội ngộ mới ngày hôm qua. Một huynh trưởng QGHC từ Nam Cali, nắm tay tôi lúc tôi đang phân phối Đặc San, nói “Rất thich, rất phục và rất cảm ơn về những việc làm rất tận tình của BTC”. Chị Lâm Kim Dzung và các anh chị ĐS khóa 18 cũng rất vui khi nhìn thấy hình ảnh họp khóa ĐS 18 tại tư gia là hình ảnh họp khóa duy nhất  đã “có hình” trong ĐS HNLK5 hôm đó.

 Và sau đây là một công tác khác của HNLK5 cũng thuộc loại “mission impossible”, đó là:

Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông:

Tôi biết có người sẽ thắc mắc tại sao chuyện Ban Hợp Ca lại thuộc loại “MI”? Có gì ghê gớm lắm đâu! Nhưng quả tình nếu nhìn lại “lịch sử” mấy chục năm của Hội Miền Đông thì Hội chưa bao giờ thành lập một Ban Hợp Ca Hành Chánh.

Thành ra có những việc nhìn thì dễ, mà  lại khó làm. Năm nào Hội HCMĐ cũng tổ chức một buổi hội ngộ tân niên và trong đó màn “văn nghệ” đầu tiên là hợp ca “Ly Rượu Mừng” của cố Nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Năm nào anh Hội Trưởng Hương Hỏa cũng làm một vòng “vận động” các chị hội nhà,  thân hữu ở các hội bạn để cùng lên sân khấu hát. Và năm nào cũng vậy, cái bài hát quen thuộc mừng xuân này ai nghe cũng biết, tưởng là dễ hát, nhưng khi tập hợp mười lăm hay hai chục chị để cùng hát thì thực là không …dễ chút nào. Người vô trật nhịp, người hát trật …”tông”, người cầm micro hát thì to mà nhiều khi hát không lên nổi ở những nốt nhạc cao. Lúc hát xong đi xuống lại chỗ ngồi, bà con vỗ tay hoan hô, khuyến khích “Hát hay không bằng hay hát”, vậy là ai nấy vui cười hỉ hả. Đầu năm mà, vui là chính, hát hay hát dở  là chuyện …nhỏ.

Hợp ca “Ly Rượu Mừng” trong Hội Ngộ Tân Niên QGHC MĐ năm 2019

Kinh nghiệm hợp ca nhìn dễ mà khó thực hiện này là lý do thành lập Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông, với mục tiêu: Trình bày các bài hợp ca thuộc loại hùng ca mang tính tranh đấu một cách nghiêm chỉnh thích hợp với tính cách quan trọng và tầm vóc thế giới của Hội Ngộ Liên Khóa  QGHC 2019 tại Thủ Đô Hoa Kỳ.

BTC đứng trước một công tác chưa  thực hiện được suốt hơn 30 năm qua kể từ ngày thành lập Hội, đơn giản là vì anh em Hành Chánh Miền Đông rất giỏi về quản trị, tổ chức hành chánh, vốn là nghề của chàng, nhưng còn chuyện hát hò thì hầu hết  lắc đầu, không phải là chuyện của …tui.

Đến lúc đụng việc thì có chị Lâm Kim Dung (ĐS 18) đứng ra nhận lãnh trách nhiệm vận động thành lập Ban Hợp Ca MĐ. Chị Kim Dung liên lạc email, hẹn ngày giờ hội họp.  Buổi họp đầu tiên của Ban Hợp Ca chỉ bao gồm hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc của các thành viên BTC, có thêm sự tham dự của anh Duy, là đồng môn thích hát và thường góp tiếng hát trong các mục đơn ca của Hội Ngộ Tân Niên. Những buổi họp ban đầu này chính yếu  là …bàn cãi và ăn uống. Nhiều đề tài thảo luận được đặt ra: Hát bài gì? Hát “live” hay hát “nhép”? Ai sẽ là người đứng ra tập dợt? Lúc đó, Anh Hương Hỏa trông có vẻ lo lắng về “điểm yếu” này của BTC.

Những buổi họp mặt sau đó của Ban Hợp Ca (BHC) có sự tham gia chị Phương Mỹ, là phu nhân của anh Trần Hữu Triết ĐS 13 (đã mất). Chị Phương Mỹ -là người tốt nghiệp ca hát Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, từng tổ chức tại vùng thủ đô các buổi trình diễn nhạc cụ Việt cổ truyền “Hương Xưa” – đồng ý sẽ đảm nhận tập dợt cho BHC MĐ. Những buổi hội họp tập hát, ăn uống các món ăn ngon, hay bàn cãi rất thân tình, rất vui vẻ  dần dà lôi cuốn thêm được nhiều anh chị khác trong Hội tham gia.

Phải nhận ra các điểm mạnh sau đây từ hoạt động thành lập Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông:

  • Tinh thần tập thể rất mạnh của các anh chị Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền đông: Khi ngồi lại với nhau, tất cả làm việc với tinh thần vì danh dự của tập thể QGHC.
  • Tinh thần quyết tâm, nỗ lực của BHC khi tập hát: Hát chưa được, chưa đúng thì cố gắng tập hát cho đúng, cho được yêu cầu.
  • Tinh thần kỷ luật và hợp tác rất cao của các anh chị trong BHC: lúc đó BHC nhóm họp và tập hát 2 ngày mỗi tuần, vào thứ năm và thứ bảy. Hầu hết thành viên BHC đều có mặt đông đủ liên tục tập dợt cho đến ngày đại hội.
  • Tinh thần tham gia ý kiến và sáng kiến: Nhiều sáng kiến và ý kiến rất hay được đề nghị và nhanh chóng thực hiện.

Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông

Các ý kiến và sáng kiến  Ban Hợp Ca HCMĐ thực hiện được trong HNLK5:

  • Đảm nhận hát “trực tiếp” quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Cộng Hòa (không dùng băng nhạc thâu sẵn)
  • Anh Hương Hỏa đề nghị BHC hát bài “Phải Lên Tiếng” của nhạc sĩ Anh Bằng, Anh Tỏa đề nghị BHC phối hợp trình bày bài hát này ngay sau khi anh Quan đọc “Bản Lên Tiếngcủa Tập Thể CSV QGHC trong ngày HNLK. Sự phối hợp rất ăn khớp cả nội dung và hình thức trình bày này trong ngày đại hội đã để lại hình tượng rất sâu sắc về tinh thần quốc gia của anh chị em QGHC.
  • Các chị trong BHC đều đồng phục áo dài từ sáng kiến và thiết kế áo dài của Trần Thị Tụ: Chiếc áo dài đồng phục của các chị trong BHC nói lên được vẻ trang trọng mà vẫn duyên dáng yêu kiều của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời nêu bật được tinh thần đồng tâm của Ban Hợp Ca HCMĐ.
  • Các bài hát BHC trình bày, tuy quen thuộc nhưng dễ đi vào lòng người nghe như bài “Việt Nam Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Duy, bài “Việt Nam Quê hương Ngạo Nghễ” của Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang…
  • Với tất cả nỗ lực và kỷ luật BHC đã trình bày nghiêm chỉnh các bài hát, đạt được yêu cầu tối thiểu của một Ban Hợp Ca trình diễn trước công chúng.

Như vậy từ tay không, Hội Hành Chánh Miền Đông bây giờ rất… “nổi tiếng” với Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông.

“Mission accomplished! Again.”

Một Năm Nhìn Lại …

Bây giờ là tháng 10 năm 2020. Tôi dự trù viết xong bài này vào cuối tháng 9, để góp bài viết kỷ niệm về HNLK5, trên bản tin MĐ, nhưng  những biến động của thời cuộc và đời sống thật không lường. Cuối tháng 3 năm 2020, Hội phải hủy bỏ buổi Hội Ngộ Tân Niên 2020 dự trù tổ chức vào đầu tháng 4,trong lúc Ban Hợp Ca MĐ vừa tái động các buổi tập dợt văn nghệ cho Hội Ngộ Tân Niên. Đến tháng 4 thì tình hình dịch bệnh trở nên nghiêm trọng cho đến nay. Hầu hết mọi sinh hoạt thường nhật đều bị ảnh hưởng.

Nhìn lại những hình ảnh của Hội Ngộ Liên Khóa QGHC thế giới Kỳ 5 năm 2019…Mới vừa đây, mà tôi ngỡ như một giấc mơ.

Có những anh chị huynh trưởng tôi quen biết, còn gặp trong kỳ đại hội giờ đã vĩnh viễn rời xa… Anh La Quốc Chánh tôi còn nhớ bắt tay anh – lần cuối – ở đại sãnh Marriott HNLK5, “mừng quá, nghe tin anh bệnh mà vẫn đến được tham dự với anh em”. Huynh Trưởng Bửu Viên, sau ngày HNLK đông đảo anh chị đồng môn HC miền đông ghé nhà viếng thăm huynh trưởng, tặng anh cái nón HNLK. Sau đó không lâu anh cũng ra đi. Chị Nguyễn Cửu Quý (ĐS18) người mà chị Lâm Kim Dung vẫn thường nhắc đến là “chị ấy đang bệnh nhưng vẫn cố gắng về tham dự HNLK5” cũng vừa vĩnh viễn giã từ đồng môn …

Còn lại nhiều, thật nhiều hình ảnh quý Giáo sư, quý huynh trưởng, quý anh chị đồng môn, quý thân hữu xa gần: Tay trong tay, vai kề vai. Tay bắt, mặt mừng, cười vui bên nhau trong kỳ Hội Ngộ Hành Chánh 2019. Hình như với tôi, điều quan trọng rốt ráo còn lại sau cùng Tình Nghĩa Quốc Gia Hành Chánh, là chất keo gắn bó giữa những người cán bộ Quốc Gia, chung một mái trường, dưới một ngọn cờ.

Cuộc gặp nhau nào cũng đến lúc chia tay, nhưng Tình Nghĩa Quốc Gia Hành Chánh thì mãi sẽ còn, khó lòng nhạt phai.

Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22)

10/2020

Mời xem lại các hình ảnh HNLK 5:

  1. HNLK Kỳ 5 Tour DC và Đại Hội tại Marriott Hotel Sep 20-21, 2019:
    https://photos.google.com/share/AF1QipN2LkHwS-4_MsnwTQxQFs-V7F1jobids7cdlZDIfo2chs6fTgebjnyQ6dkAXW_wLw?key=T1RaZ1pDZFc0WFFTaUJRRlV5dGVYc1pheE5ub1B3
  2. Đêm Chia Tay HNLK Kỳ 5 (Sep 22): https://photos.google.com/share/AF1QipMKTAb7HXfXfWB4mDkWAi0Fsj6MEXdNi0YZmbc4kfJpwm_OUcG9kMUIF0fJvRilvQ?key=clZENl9McGVMZFdoZFdBQ0FxRVJTRm5oeTNqTHR3            

Lời BBT:

Bài viết này đã đăng tải trên Bản Tin HCMĐ tháng 10/2020 nhân kỷ niệm 1 năm Hội Ngộ Liên Khóa QGHC Thế Giới kỳ 5 tổ chức vào tháng 9 năm 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.

Đến tháng 9 năm 2023 thì đã 4 năm trôi qua và tập thể QGHC vẫn chưa tổ chức được một Hội Ngộ Liên Khóa Thế Giới kỳ 6.

BBT website HCMĐ xin được đăng tải lại bài viết này như một kỷ niệm đẹp với mong mỏi sẽ có một Hội Ngộ Liên Khóa Thế Giới mới cho đại gia đình QGHC chúng ta.

Trân trọng.

 

Views: 367

Duyên Tu

Nguyễn Đắc Điều

“Nụ hoa phát triển” huy hiệu của Trung tâm Hội thảo Quốc gia

“Duyên tu” đây không phải là việc tu hành thành linh mục hay thượng tọa, mà cái duyên của tôi với ngành tu nghiệp và huấn luyện. Trong nền hành chánh của VNCH chúng ta, có lẽ không có ngành nào bạc bẽo bằng ngành huấn luyện, nhưng tôi yêu nó. Suốt đời công chức, lăn đi đâu rồi tôi cũng lăn về chỗ viết bài, giảng dậy, khảo sát về huấn luyện.  Vì thế tôi coi là duyên.

Khởi duyên

Nhằm cải tiến việc quản trị hành chánh tại trung ương cũng như địa phương, từ năm 1968 Chính phủ đã cho tiến hành một dự án huấn luyện qui mô có tên là “Quản trị Hành chánh Căn bản”. Chủ xướng dự án là Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Tổng Nha Công Vụ và Tiến sĩ Jack Von Dornum (International Training Consultant Co.)

Sau Tết Mậu Thân, tôi được gọi tham gia dự án này. Đó là đầu mối duyên huấn luyện của tôi. Lần đầu tiên, một quản đốc tu nghiệp tỉnh Tuyên Đức được ngồi chung với các chức sắc cao cấp và đàn anh trong ngành huấn luyện tại trung ương. Tôi nhớ trong đó có giáo sư Phạm Đình Thắng, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin, Anh Hoàng Giao (khóa 3), Giám Đốc Nha Du Học Bộ QGGD, Chị Nguyễn Thị Bạch (khóa 3), Viện Giám Sát, Anh Nguyễn Minh Ty (Cao Học 1) Ban giảng huấn Học Viện, Đại Tá Cảnh Sát Đàm Trung Mộc, Trung tá Cảnh Sát Lê Thanh Sơn Chánh Sở Huấn Luyện Tổng Nha CS, Ông Nguyễn Ngọc Nê, thuộc Usaid.
Khóa hội thảo được tổ chức tại Học viện Quốc gia Hành Chánh
Chúng tôi có hai nhiệm vụ: một, thảo luận để hoàn chỉnh tài liệu giảng huấn (do anh Lê Phú Nhạn và hãng Westinghouse biên soạn). Hai, chính chúng tôi tiếp nhận một số kỹ thuật huấn luyện mới. Cấp trên nhắm là chúng tôi sẽ trở thành giảng viên hoặc quản trị viên cho dự án tại địa phương cũng như trung ương.
Nhưng sau khóa học, tôi nhận được lệnh gọi tái ngũ. Giáo sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông, gọi tôi lên văn phòng ngỏ ý muốn xin hoãn dịch cho tôi để tôi tiếp tục tham gia dự án. Tôi cám ơn đề nghị của Giáo sư Viện Trưởng và xin được nhập ngũ. Tôi nghĩ đằng nào cũng phải đi lính thì đi sớm còn hơn đi trễ. Kỷ niệm sau cùng với Giáo sư là cái bắt tay trước thềm Học viện. Chưa có bàn tay ai mềm mại như tay Giáo sư Bông.
Mối duyên tạm gián đoạn ở đây, cho tới khi tôi được lệnh biệt phái về Bộ Nội Vụ.

Chuyên viên huấn luyện Bộ Nội vụ

Vào Trung Tâm 3 Tuyển mộ nhập ngũ Quang trung, tôi lần lượt gặp các anh Bùi vân Cao,Võ văn Hoàn, Trần Hồng, Nguyễn ngọc Liên, Nguyễn đại Thành, Trần minh Giao và Lê vũ Tạo. Sau một thời gian nằm chờ đợi, Bộ Quốc Phòng quyết định biệt phái chúng tôi về Bộ Nội Vụ để làm Phó Quận Trưởng.
Tại Bộ Nội Vụ, tôi đang chờ sự vụ lệnh biệt phái thì gặp Ông Nguyễn Ngọc Nê. Tôi có duyên với ông vì khi tôi làm Quản đốc Tu nghiệp tại Tuyên Đức, ông đã cùng một cố vấn Mỹ lên quan sát công tác huấn luyện, và tôi đã hướng dẫn hai ông đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong tỉnh.
Ông Nê kéo tôi lại bảo ông đang cần một tay… như Điều!
Số là bên Usaid cấp cho Bộ Nội Vụ một ngân khoản lớn để huấn luyện viên chức xã ấp trong chương trình tấn công bình định thuộc chiến dịch Phượng Hoàng. Ngân khoản sắp hết hạn, phải làm gấp. Xét không có nhân sự viết tài liệu huấn luyện trong thời gian cấp bách như vậy, Bộ Nội Vụ chê tiền!
Ông Nê trình với Ông Tổng Thư Ký Trần Hữu Đức xin giữ tôi tại Bộ để làm việc này, thay vì trả tôi về Tuyên Đức. Ông TTK Đức chấp thuận, nhưng đòi tôi làm đơn xin. Tôi thì ngang, tuy gặp đúng việc mình thích, cũng không thích xin, ai đẩy thì tôi lăn thôi. Sau ông Nê lobby đâu đó mà sự vụ lệnh giữ tôi lại Bộ “vì lý do công vụ” (tôi tránh được ba chữ “theo đơn xin”). Chức vụ: chuyên viên huấn luyện thuộc Sở Huấn Luyện, phụ cấp chức vụ “ngang hàng chánh sở”. Lần đầu tiên tôi biết có cái chức như thế.

Soạn thảo tài liệu “Huấn luyện viên chức xã ấp”

Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam và việc tranh thủ nhân tâm, canh tân xã hội ở hạ tầng, tôi thấy cái nhìn của Juspao về công tác huấn luyện viên chức xã ấp, thật là đứng đắn, đúng sách vở. Trong đóng góp lớn của gia đình QGHC vào công trình này, nếu tôi có góp một viên gạch nhỏ nào, cũng là nhờ duyên.
Tôi trình diện Ông Chánh sở Lê Duy Đức (khóa 2) tại trụ sở trên đường Thống Nhất. Ông để tôi làm việc trong một văn phòng rất rộng lớn, nguyên là đại giảng đường huấn luyện, nhưng nay sử dụng như một nhà kho chứa tài liệu.
Với số vốn huấn luyện xã ấp khi còn làm Quản đốc Tu Nghiệp tại 2 tỉnh Quảng Đức và Tuyên Đức cộng thêm 2 tài liệu căn bản của hai huynh trưởng Nguyễn Trung Trương và Trương Văn Nam thuộc khóa Đà-Lạt, tôi tự biên tự diễn ra tài liệu huấn luyện viết theo lối mô tả công việc và cách điều hành (job description và job analysis) cho các chức vụ từ Chủ tịch Xã cho tới từng Ủy viên của Hội đồng Xã. Một vài đề tài tôi viết theo thể huấn luyện mới như diễn tập (role playing), thảo luận nhóm (group discussion), trường hợp điển hình (case study).
Ngoài những đề tài thuộc hành chánh chuyên môn, còn có 4 bài liên quan đến tổ chức an ninh tình báo, thông tin dân vận, kỹ thuật thanh lọc trong màng lưới tình báo. Những đề tài thuộc loại này, tôi dùng tài liệu của Chiến Dịch Phượng Hoàng do Juspao cung cấp. Mỗi bài đều có trợ huấn cụ như các flipchart khổ 100 x 65cm và bảng dàn bài tóm lược.
Để kịp chỉ tiêu, Bộ đã cung cấp cho tôi một dàn thư ký đánh máy giỏi của Bộ để đánh cho nhanh những tài liệu tôi vừa viết xong. Trong số thư ký đánh máy này có Ông Đỗ Trọng Tuyển, sau làm Chủ sự Phòng Nhân viên dưới thời Chánh Sở Nhân viên Nguyễn Quý Thành. Ngoài ra, tôi còn được Bộ Nội vụ tăng phái anh Nguyễn văn Đặng (ĐS 8), từ tỉnh Gò Công đến phụ giúp viết tài liệu với tôi. Khi công tác hoàn tất, anh Đặng được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh trưởng Khánh Hoà dưới thời Trung tá Tỉnh trưởng Lý Bá Phẩm. Khi tỉnh Khánh Hoà thành lập thêm thị xã thì anh Nguyễn văn Đặng giũ chức vụ Phó Thị trưởng Nha Trang và anh Phó Tỉnh trưởng Phú Bổn Nguyễn văn Sanh (ĐS 8) thay thế anh giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng Khánh Hoà.

Chưa bao giờ trong đời công chức tôi được làm việc trong một môi trường độc lập, tự tin và được sự tín nhiệm cùng sự tin cậy lẫn nhau của cấp chỉ huy và các bạn đồng nghiệp như vậy. Tôi hoàn tất công tác trước cả thời gian Ông Nê ước muốn. Tài liệu được Juspao chuyên chở bằng máy bay của Quân đội Mỹ sang in tại Nhật, flipchart được in bằng một thứ giấy đặc biệt nếu dùng băng keo dán, khi bóc không rách giấy. In xong, máy bay quân sự lại chở về ngay. Đây là tài liệu huấn luyện xã ấp, duy nhất được in tại nước ngoài.

Bắt duyên với bằng hữu

Một hôm, tôi dẫn “người duyên nợ” là vợ chưa cưới vào ăn cháo lòng trên đường Hồng Thập Tự. Tôi thấy ba ông Đặng Huyền Thanh (ĐS 7), Đỗ Tiến Đức (ĐS 7), Nguyễn Quốc Thụy (ĐS 5) [hai anh Thụy và Đức vừa mới mãn khóa 1 Cao đẳng Quốc Phòng] ở bàn bên cạnh, toàn đồng môn đồng khóa cả.
Tay bắt mặt mừng xong, Thanh sang nói chuyện riêng với tôi. Chàng than đã bỏ rừng thiêng nước độc Kontum và đi lính rồi, nay được biệt phái, Bộ bắt phải về lại Kontum.Thanh muốn về Bộ hay một tỉnh gạo trắng nước trong nào khác. “Cứ để đấy xem sao” tôi nói với người bạn thân, biệt danh Khủng Long.
Quả là Thanh cũng có duyên tu. Vì đúng lúc đó, ông Nê bên Usaid cần kiểm tra công tác huấn luyện viên chức xã ấp. Tôi ngỏ ý cần thêm nhân sự. Ít ngày sau, Thanh về Bộ trong bộ quân phục trung úy. Tôi dẫn Thanh sang ngồi uống cà phê trên lề đường trước cửa Bộ Xã Hội để ăn mừng.
Sau đó ít lâu, Ông Nê xuất ngoại làm giảng viên tiếng Việt cho quân đội Hoa kỳ tại San Antonio.
Từ đó chúng tôi như cặp bài trùng, đi công tác địa phương, huấn luyện, đều sát cánh trong nhiều năm. Sau khi mất nước, khi Thanh đi tù cải tạo về, sang Mỹ, chúng tôi còn được gần nhau (Thanh làm Tổng Thư Ký khi tôi làm Chủ tịch Tổng Hội CSV/QGHC), cho đến ngày anh qua đời. Nhưng chuyện về duyên tu của Thanh tôi sẽ còn kể tiếp.

Các chuyến đi công tác được mệnh danh “hai chuyên viên huấn luyện và một cố vấn Hoa kỳ” này chỉ là cái cớ để chúng tôi gặp gỡ các Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh, để hâm nóng tình bạn, tình đồng nghiệp, đồng môn. Trong vòng đồng nghiệp lại có một vòng thu hẹp là lòng đam mê – hay là sự tin tưởng ngây thơ – của số ít người cho rằng huấn luyện là bước đầu một cái gì tốt đẹp.
Chúng tôi đi Quảng Nam để gặp Nguyễn Khánh, người cùng làm với Thanh ở Kontum. Chúng tôi đi Quảng Đức gặp Nguyễn Thế Chu. Phạm Gia Định ở Kontum. Nguyễn Ngọc Vỵ ở Darlac. Đặng Huy Túc ở Cà Mau. Nguyễn Hữu Kế ở Ba Xuyên. Đặng Văn Thạnh ở Pleiku. Lên Đà Lạt, tưởng gặp ai, lại là Phạm Gia Định mới chuyển từ Kontum về. Nguyễn Chí Thiệp ở Quảng Nam…
Nhờ đi một vòng lớn như thế, ngoài kinh nghiệm nghề nghiệp, chúng tôi kết bạn tâm giao với một số người mới như Thạnh và Thiệp.
Chuyện vui có thật – chúng tôi kết hợp công vụ với giải trí! Tôi cùng với Thanh áp dụng kỹ thuật giảng huấn để viết 2 tài liệu “Nghệ thuật đánh mã tước” và “Cách đánh tứ sắc khỏi thường”.

Ngoài các chuyến công tác địa phương nói trên, tại trung ương, tôi đã cộng tác với Tổng nha Công vụ  [có anh Giám đốc Nha Huấn luyện Nguyễn Đức Phụng Sơn (ĐS 1) và anh đứng đầu chương trình Lê Phú Nhạn (khoá Đà Lạt)] trong các khoá Quản trị Hành Chánh Căn Bản. Ngoài những lớp cho cấp Chủ sự và Chánh sở, còn có những lớp cho cấp Giám đốc.

Duyên du: Hoa Kỳ và Đài Loan

Ý thức tầm quan trọng của huấn luyện và do hậu thuẫn của các chuyên gia Mỹ, năm 1970 Chính phủ đã cho thành lập một chương trình mệnh danh là “Chương trình Quản đốc Tu nghiệp” (Training Administrators Project). Người thiết kế chương trình là Ross Thomas, nhưng Ban Phối Trí gồm: Tổng Giám Đốc Công Vụ (Chủ tịch) và hai ủy viên là Viện Trưởng Học Viện QGHC và Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ.

Từ trái: Đức, Thanh, Điều, Dr. Dornum, Tâm, Hùng, Cụ Chí (Sacramento, mùa Xuân 1971)

Cán bộ nòng cốt cho chương trình là một nhóm hỗn hợp Việt-Mỹ. Đoàn chuyên viên Việt Nam có ông Lê Duy Đức, Chánh sở Huấn luyện BNV (trưởng đoàn), ông Nguyễn Thượng Chí, Chánh Sở Huấn Luyện Tổng Nha Thuế Vụ, Đặng Huyền Thanh và Nguyễn Đắc Điều thuộc Bộ Nội Vụ, Đặng Mạnh Hùng, Bộ Chiêu Hồi, Ngô Thanh Tâm, Tổng Nha Công Vụ. Phía Hoa Kỳ có Dr Von Dornum thuộc International Training Consultant (ITC) và một đoàn chuyên viên từ Hoa Kỳ qua.

Nhắc đến các tên tuổi trên đây và nhiều nơi khác trong bài này một cách tham lam, không phải tôi không biết có thể làm cho độc giả nhàm chán, nhưng tôi xin lỗi phải nhắc, vì các bạn hay huynh trưởng (đa số cùng trường) là một phần của quãng thời gian vàng son trong đời tôi.

Trước khách sạn Biltmore (LA) chờ đi “du khảo” Từ trái: Điều, Tâm, Thanh, Đức

Phái đoàn đi quan sát công tác huấn luyện tại Hoa Kỳ từ ngày 6 đến 26 tháng 2 năm 1971 và tại Đài Loan từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 3, 1971.

“Đạo diễn” chuyến du hành (Dr. Von Dornum) đã khéo chấm những nơi điển hình nhất về công tác huấn luyện trong lãnh vực công cũng như tư tại Mỹ. Lý thuyết thì có trường Public Administration School (PAS) thuộc USC, nơi chúng tôi phải “đến lớp” mỗi ngày. Ứng dụng chúng tôi phải đi “field trip” nhiều nơi như Tòa Thị Chính Los Angeles, Tòa Thị Chính Pasadena, Trường Huấn Luyện Lính Cứu Hỏa và Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Los Angeles, Trường Huấn Luyện Nhân Viên Disneyland tại Anaheim, Trường USC, địa điểm xây cất trường UCI, Trường Berkeley, Trường Caltech., Nha Nhân Dụng Tiểu Bang California tại Sacramento v.v.

Nhưng chưa chắc mọi nguyên tắc lý thuyết và ứng dụng huấn luyện tại Mỹ thích hợp cho Việt Nam. Vì thế một tuần du khảo Đài Loan có mục đích để chúng tôi học hỏi kinh nghiệm thích nghi các lý thuyết “tân tiến” vào xã hội Á Đông như thế nào.

Trung tâm Hội thảo Quốc gia

Trở về, chúng tôi làm việc tại một cơ sở mới cất trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh, dưới một tấm biển rất oai “Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia”.
Chúng tôi làm việc chung với một đoàn chuyên viên Mỹ gồm Dr Melvin Le Baron, Dr Barbara Pennington, Dr Jack Von Dornum, ông Finn Loginotto và George Eimer, họa sĩ.
Theo kế hoạch vết dầu loang, muốn cải tiến nền huấn luyện nhân viên và công chức cả nước, phải bắt đầu bằng chính các viên chức đang phụ trách việc huấn luyện. Chúng tôi bắt đầu với các Quản đốc Tu nghiệp Tỉnh (ngay từ đầu, dự án đã mang tên “Chương trình Quản đốc Tu nghiệp” là vì vậy).
Họ cần trang bị kiến thức và kỹ năng gì để làm tròn nhiệm vụ? Phái đoàn Việt- Mỹ đã tới khảo sát một vài thí điểm, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nhân thể thăm Trương Minh Nhuệ), tỉnh Thừa Thiên và thảo luận với Giáo Sư Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu tại Viện Đại Học Huế.

Quản đốc Tu nghiệp, từ bạc bẽo tới tự tin

Các vị chỉ huy cao cấp, tuy trước mặt đoàn khảo sát, có cho rằng huấn luyện là dụng cụ quan trọng để gia tăng hiệu năng công vụ, nhưng lại coi nhẹ người phụ trách việc huấn luyện : Quản đốc Tu nghiệp!
Tương tự Thanh tra, Quản đốc TN là chức vụ “ngồi chơi xơi nước”. Còn hẩm hiu hơn Thanh tra, Quản đốc Tu nghiệp có một vai vế rất thấp so với các Trưởng Ty nội ngoại thuộc khác trong Tỉnh. Một người “nói không ai nghe” mà phải giữ nhiệm vụ nói. Đó là một nhiệm vụ bạc bẽo!

Từ những nhận xét trên, Đoàn Chuyên viên Huấn luyện cho rằng song song với vận động quy chế ở cấp cao (có vận động này không, đến nay tôi không biết, tôi chỉ biết người Mỹ rất quan tâm), nhất thời cần nâng uy tín của QĐTN bằng cách nâng cao lòng tự tin và khả năng chuyên môn của họ.
– Họ phải được trang bị các phương pháp huấn luyện: từ cổ điển như “4-steps”, kịch, brainstorming, điều khiển hội nghị, case study v.v. đến tân tiến như participative learning (tham gia học chế), simulation (giả cảnh).
– Họ phải am tường tâm lý nhóm, tâm lý học tập, nghệ thuật khích lệ, kỹ thuật thông đạt, trình độ và nhu cầu của học viên tương lai
– Họ phải biết các phương pháp: xác định nhu cầu và mục tiêu huấn luyện, thiết lập chương trình, soạn bài, các bước giảng dạy cho từng bài, và cuối cùng lượng giá kết quả huấn luyện.
– Quan trọng hơn hết họ cần thay đổi thái độ, theo định nghĩa “Học tập là sự thay đổi tác phong một cách tương đối bền vững, qua sự thay đổi thái độ, kiến thức và kỹ năng” (Định nghĩa này tới nay vẫn không thay đổi trong ngành giáo dục, ngay tại Mỹ và các nước tân tiến).
Trong số những người vững tin vào khả năng thay đổi của huấn luyện, nhiều nhất có lẽ là Đặng Huyền Thanh, Nguyễn Đắc Điều, Đặng Mạnh Hùng và Ngô Thanh Tâm. Họ đùa tự gọi nhau là “Bốn chàng ngự lâm pháo thủ”. Họ là cán bộ nòng cốt phụ trách các khóa QĐTN.

Các khóa huấn luyện QĐTN được tổ chức rất chu đáo và khoa học:

– Trước khi về TTHTQG, các QĐTN nhận được một tập hướng dẫn để chuẩn bị trước, như làm thống kê và phỏng vấn thượng cấp và đồng nghiệp.
– Sau đó họ tựu tập về TTHTQG, dành một tuần để hội thảo, học và thử các phương pháp huấn luyện. Trong phương pháp giả cảnh, ban chuyên viên đã mánh lới mời các vị chỉ huy cao cấp và có ảnh hưởng tới “thủ vai” chung với các QĐTN. Kết quả bất ngờ là chính các vị cũng thay đổi thái độ, có cái nhìn khác về công tác huấn luyện và vai trò QĐTN.
– Học viên trở về đơn vị của mình có 2 tháng để thực hiện những điều vừa mới học hỏi và soạn thảo chương trình và tổ chức các khóa huấn luyện. Trong giai đoạn này, QĐTN mời Đoàn Chuyên Viên Huấn Luyện tới địa phương để quan sát kết quả.
– Các học viên sẽ trở về TTHTQG để tham dự khóa học 3 ngày. Các học viên sẽ chia sẻ những kinh nghiệm soạn thảo chương trình huấn luyện, soạn thảo tài liệu huấn luyện, tổ chức khóa học, giải quyết những khó khăn trở ngại với cấp chỉ huy hay với cấp ngang hàng.

Khi tị nạn tại Mỹ, tôi may mắn gặp lại ông Ross Thomas. Như món quà tái ngộ, ông đã tặng tôi cuốn “The Training Administrators Project”, một phúc trình chi tiết về Chương trình Huấn luyện QĐTN. Tôi cảm động vô cùng, vì được đọc lại về một “thời đam mê”, và cũng cảm động vì Ông Thomas còn giữ tập sách như một kỷ vật. Tôi cũng cảm động khi đọc lại những lời phê bình sau của các tham dự viên (được dịch sang tiếng Anh):

Tấm hình khơi mào cho cuộc thảo luận về “Tâm lý nhóm”

– “Đây là khóa Hội thảo đầu tiên tôi tham dự được yểm trợ cả về vật chất lẫn tinh thần.”
– “Một khóa Hội Thảo hoàn hảo; đề nghị các cấp chỉ huy khác phải tham dự.”
– “Các Chuyên Viên Huấn Luyện là những giảng viên ưu tú nhất mà tôi được gặp”
– “Tôi đề nghị các tham dự viên được tính thêm điểm khi xét thăng thưởng hàng năm”.
– “Tôi đề nghị Chính Quyền Trung Ương cần phải quan tâm hơn nữa cho các khóa huấn luyện tương tự trong tương lai.”
– “Tôi cảm thấy thoải mái và dễ chịu khi tham gia thảo luận vì sự nhiệt thành của giảng viên và sự trang bị đầy đủ của Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia.”
– “Giảng viên Thanh lanh lợi tháo vát, giảng viên Tâm nắm vững kỹ thuật sư phạm, giảng viên Hùng người rất nhiều tình cảm còn giảng viên Điều mang đến những sảng khoái cho lớp học.”
– “Lần đầu tiên một khóa học có phương châm hành động, có một huy hiệu rất ý nghĩa.” (xin xem huy hiệu ở đầu bài này)

Vị Quản đốc Tu nghiệp này muốn nói tới phương châm “Tri Hành hợp nhất”. Chúng tôi biết nghề huấn luyện còn nhiều thử thách, và châm ngôn “Tri hành hợp nhất” mà TTHTQG đưa ra còn quá lý tưởng trong bối cảnh chung của Đất Nước, nhưng việc làm của chúng tôi quả được khích lệ.

Duyên mới với biên soạn “Kỹ Thuật Huấn Luyện”

Đặng Huyền Thanh và tôi vừa làm bên Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia nhưng vẫn còn phụ trách công tác huấn luyện bên Bộ Nội Vụ. Nhân có các sinh viên khóa 3 ban Cao học đang thực tập tại Sở Huấn Luyện như Nguyễn Phụng, Thái Văn Khị, Hứa Văn Kiển… chúng tôi đã nhờ những sinh viên này dịch một số tài liệu từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Thanh nhuận sắc những tài liệu này và tôi viết thêm một số đề tài khác để trở thành một cuốn sách, nhan đề “Kỹ Thuật Huấn Luyện”. Tài liệu này được Usaid in thành từng bài một, sau đóng gồm lại thành một tập.

Tôi còn phụ trách một số lớp cho các viên chức Cảnh sát từ Trưởng Ban đến Chủ sự tham dự khóa “Quản Trị HC Căn Bản” và khóa huấn luyện “ Thuế ĐiềnThổ ”do chuyên viên Tài Thâu Nguyễn Quí Thành soạn thảo cho các Trưởng Ty HC tổ chức tại Sở Huấn Luyện Bộ Nội Vụ.
Khi hai anh Lê Quan Diêm và Trần Công Hàm về Nha Hành Chánh Địa Phương dưới quyền Ông Giám Đốc Lê Văn Để (khóa Đà Lạt) thì Thanh và tôi được chuyển thành Chuyên Viên Hành Chánh Địa Phương cùng với hai anh. Tuy vậy, Thanh và tôi vẫn còn tiếp tục kiêm nhiệm phần vụ chuyên viên Huấn Luyện. Trong thời gian này bốn CV/HCĐP lo soạn dự thảo Luật cải tổ cơ cấu tổ chức Tỉnh, Thị Xã và Thành Phố và dự thảo Luật tổ chức bầu cử Quốc Hội.
Ông Giám Đốc Lê Văn Để thường phải ra thuyết trình tại Trung Tâm Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn của Trung Tá Nguyễn Bé ở Vũng Tàu vào cuối tuần. Mỗi lần đi thuyết trình Ông Giám Đốc Để thường dùng Thanh làm tài xế lái xe jeep, Hàm và tôi đi cùng để đủ tay đánh mà chược khi ngủ qua đêm tại biệt thự Anh Đào Vũng Tàu.


Một lần, Ông Giám Đốc Để bị Thủ Tướng gọi về gấp để trình bày hệ thống thiết lập danh sách cử tri mới bằng điện toán. Tôi phải thay thế Ông Giám Đốc thuyết trình tại Trung Tâm CB/XDNT. Đây là đề tài tôi soạn thảo cho Ông Giám Đốc nên đã nắm vững từng chi tiết.
Như thường lệ, trước khi chấm dứt, tôi hỏi có ai thắc mắc gì không. Chỉ có một học viên nêu thắc mắc. Khi nghe xong câu hỏi, tôi thấy học viên này tỏ ra am hiểu đề tài và đặt câu hỏi chỉ cốt “truy” xem tôi có nắm vững đề tài hay không. Trong giờ nghỉ giải lao, tôi tìm hiểu học viên này thì được biết anh là Đào Việt Giang (k9) hiện làm Trưởng Ty Hành Chánh tại Kiến Phong. Cảm phục về sự hiểu biết, tôi hỏi anh có muốn về Bộ không. Anh trả lời cũng có ý định, nhưng chưa phải lúc này. Khi tôi phụ trách khóa “Thuế Điền Thổ”, anh Đào Việt Giang tham dự và lần này, anh ngỏ ý muốn về Bộ vì ở Kiến Phong cũng đã lâu năm rồi. Tôi trình lên Ông Lê Duy Đức, và nhân dịp Sở Huấn Luyện được nâng lên thành Nha Huấn Luyện, Ông Đức đang cần một người làm Chánh Sở. Thanh và tôi chỉ thích làm Chuyên Viên, nên “đùn” cho Giang lãnh một Sở, còn Sở kia Ông Đức đôn một Tham Sự Chủ Sự lên đảm nhiệm.
Tuy Thanh và tôi làm việc rất thoải mái ở Bộ Nội Vụ, nhưng lại thích thú công tác huấn luyện bên Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia, mặt khác Đoàn Chuyên Viên Huấn Luyện “đã bén hơi nhau”, nên chúng tôi muốn tạo một tổ chức thường trực để thỏa cái chí “tu”.

Sự ra đời của Viện Tu Nghiệp Quốc Gia

Với sự thành công vượt bực của Chương trình Huấn Luyện QĐTN, các học viên rất hăng say, các cấp chỉ huy phía VN cũng như bên Usaid rất thích thú lề lối làm việc “không mệt nghỉ”của chúng tôi, ý tưởng thành lập Viện Tu Nghiệp Quốc Gia được nẩy sinh.
Chúng tôi muốn có một cơ quan “hậu Học Viện Quốc Gia Hành Chánh” để Huấn Luyện các viên chức của Chính Phủ về các lãnh vực mà Học Viện chưa có đủ thời gian trang bị kỹ năng cho sinh viên.
Thanh và tôi cặm cụi viết “dự thảo Nghị Định thành lập Viện Tu Nghiệp Quốc Gia”. Một chức vụ mà bốn chuyên viên Huấn Luyện tự vẽ cho mình là chức Cố Vấn Huấn Luyện. Phụ cấp chức vụ ngang hàng Giám Đốc, được hưởng phụ cấp giảng dạy, và được đi ngoại quốc học lấy bằng Master hay Ph. D cho tương đương với Ban Giảng Huấn thuộc Học Viện QGHC. Khi dự thảo Nghị Định trình lên Nha Quản Trị Công Sở, Ông Giám Đốc Vũ Trọng Cảnh đã chấp thuận không sửa chữa, nhưng yêu cầu Thanh và tôi đích thân lên Phủ trình bày trực tiếp với Ông Bộ Trưởng Nguyễn Văn Vàng.
Trong một buổi chiều mưa gió, tôi lái xe Lambretta, Thanh ôm đồ biểu ngồi sau xe từ Nha Huấn Luyện Bộ Nội Vụ lên Phủ Thủ Tướng. Ông Đốc Phủ Sứ sau khi nghe chúng tôi thuyết trình đã chấp thuận toàn bộ Nghị Định. Khi ra về, tôi lại kéo Thanh sang lề đường Bộ Xã Hội nhâm nhi cà phê mừng ngày thành công.
Sau một thời gian thuyết phục, Ông Vũ Trọng Cảnh đồng ý sẽ làm Viện Trưởng đầu tiên của Viện Tu Nghiệp. Ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng cũng viết văn thư xin Bộ Nội Vụ cho Đặng Huyền Thanh và tôi sang làm việc tại Viện Tu Nghiệp. Chúng tôi đều tin chắc 100% là sẽ được chuyển cơ quan vì Ông Lê Công Chất, Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ, là “đàn em” của Đốc Phủ Vàng. Nhưng Bộ Nội Vụ trả lời Phủ Thủ Tướng chỉ chấp thuận cho một trong 2 chúng tôi thuyên chuyển mà thôi. Trong một quán ăn tại Chợ Cũ, chúng tôi ngồi uống bia 33. Tôi thuyết phục Thanh nên sang Viện Tu Nghiệp thay vì tôi. Thanh có đầy đủ khả năng để đứng mũi chịu sào trong việc tổ chức một cơ quan tân lập, còn tôi chỉ có khả năng giảng dạy và viết Nghị Định , hơn nữa tính tôi hơi tình cảm không thích hợp cho việc chỉ huy. Thanh miễn cưỡng, đành phải chấp thuận vì thật ra cũng chẳng có cách nào khác. Ông Vũ Trọng Cảnh an ủi tôi sẽ cố gắng vận động thêm cho đến khi tôi phải qua được Viện Tu Nghiệp mới thôi.

Thời gian trôi nhanh qua công việc. Nhóm nhân sự đầu tiên của Viện Tu Nghiệp tiếp tục lo tổ chức các khóa “Kỹ thuật Huấn Luyện” và “Phân tích viên Quản Trị” cùng một vài khóa học có tính cách chuyên môn phối hợp với các Bộ khác, ngoài Bộ Nội Vụ. Cá nhân tôi, tham gia vào ban giảng huấn của những khóa huấn luyện tổ chức tại Bộ Nội Vụ, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH (Trường Huấn Luyện Tiếp Vận Cao Cấp), hay tại Viện Tu Nghiệp.

Đoàn chuyên viên đã vô cùng hứng khởi làm việc và mang tất cả hoài bão của mình trong công việc, những mong thổi một luồng gió mới vào công tác tu nghiệp và đào tạo. Đồng thời đoàn chuyên viên cũng đưa được một cái nhìn mới về tu nghiệp và trả lại giá trị thật của nó như đã có trong các nước tiên tiến, mở đường cho một “chương” mới trong việc cải tổ hành chánh và công vụ sau này.

Điều nói chuyện với ông Vũ trọng Cảnh (Giám đốc nha Quản trị Công sở, thủ vai Quốc vương Perfecto) đứng cạnh là Thanh và Tâm

Đoạn Duyên

Nhằm khởi đầu cuộc cách mạng hành chánh, cải tổ cơ cấu tổ chức và giản dị hóa thủ tục, tôi được Ông Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ Lê Công Chất chỉ thị soạn thảo một đề án cải tổ việc điều hành Sở Xuất Nhập Di Trú thuộc Bộ. Sau khi trình kết quả cuộc nghiên cứu, Ông Tổng Trưởng đã chỉ định tôi trông coi sở này luôn, một chức vụ tôi hoàn toàn không muốn. Tôi trình bày, tôi chỉ có khả năng nghiên cứu mà không có khả năng điều hành.Nếu Ông Tổng Trưởng nhất quyết, tôi xin Ông Tổng Trưởng bổ nhiệm Ông Chánh Sở Huấn Luyện Đào Việt Giang làm phụ tá cho tôi và được hưởng phụ cấp chức vụ ngang hàng chánh sở.Tôi nghĩ, đòi hỏi “không tưởng” như vậy là một cớ dễ “thoát” nhất, nhưng Ông Tổng Trưởng lại chấp thuận đề nghị của tôi.
Khi biết không thể làm gì khác hơn được nữa, tôi dẫn nhà tôi đến thăm Ông Vũ Trọng Cảnh trong cư xá công chức tại đường Đoàn Thị Điểm để cám ơn Ông cố ý chờ đợi xin tôi qua Viện Tu Nghiệp, nay thì “số phận đã an bài”.
Sau đó Đặng Huyền Thanh được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng Viện Tu nghiệp Quốc gia.

Tiếp Duyên: Libochu

Năm 2003, Đặng Huyền Thanh, Ông Nguyễn Công Hiệu (khóa 2) và tôi đang đi picnic với các bạn QGHC, nghe tin Ngô Thanh Tâm (CH2) và vợ Khánh Hà (CH3) ký sách tại Thư quán Văn Mới, chúng tôi bỏ dở cuộc chơi, tới thăm hai bạn từ Na Uy. Tâm quá cảm động, chỉ thốt được một chữ “LIBOCHU”.

Bốn người làm trong Viện Tu nghiệp QG đều nhớ đây là tên của nhân vật chính trong những đề tài huấn luyện QĐTN. Libochu là ghép tên ba vị trong Ủy ban Phối trí, những vị có ảnh hưởng quyết định trong việc huấn luyện công chức: Ông Tổng giám đốc Công vụ Nguyễn Xuân Liêm, Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Văn Bông và Ông Tổng Thư ký Bộ Nội Vụ Tôn Thất Chước. Trong buổi học giả cảnh (simulation) Libochu (tức QĐTN) có nhiệm vụ thuyết phục “Quốc Vương Perfecto” (do chính các vị trong UBPT thủ vai) cải tiến nền công vụ bằng huấn luyện trong “Vương Quốc Utopiana”. Màn giả cảnh này đã gây ấn tượng sâu sắc cho mọi tham dự viên, kể cả quốc vương giả. Gần 30 năm chưa quên, Libochu thành một câu chào tái ngộ

Giải thích thành phần “nội các”: -Thủ tướng: Thanieu (Đặng Huyền Thanh/ Nguyễn đắc Điều) -Bộ Xã hội: Huchi (Đặng mạnh Hùng-Nguyễn thượng Chí) -Bộ Nội vụ : Finpen (Finn Longigotto-dr Barbara Pennington) -Bộ Cải tiến Thái độ: Leum (dr Le Baron-dr Von Dornum)
-Bộ Quốc phòng: Duclan (Lê duy Đức-Lan “thư ký”). -Bộ Thương mại: Tamers (Ngô thanh Tâm-George Eimers “họa sĩ”) -Quản đốc Tu nghiệp: Libochu (Nguyễn Xuân Liêm-Nguyễn văn Bông-Tôn thất Chước).

Sau bao năm tháng lăn lộn trong ngành hành chánh công quyền, tôi ngộ ra được vài điều. Có những chức vụ, mình không hề mong đợi mà tự nhiên đến một cách tình cờ, dù cương quyết chối từ vẫn cứ “dính”. Nhưng có một chức vụ tôi cố gắng tạo ra, tưởng như chắc chắn nằm trong tầm tay như Cố Vấn Huấn Luyện tại Viện Tu Nghiệp thì chỉ là một giấc mơ.

Mối “giao tình huấn luyện tu nghiệp” là một liên hệ bền chặt vô vị lợi giữa học viên và giảng viên.Những bạn bè thân thiết gắn bó với tôi trong suốt cuộc đời, nhất là quãng đời còn lại đều bắt nguồn từ “duyên tu”. Nhờ Viện Tu Nghiệp Quốc Gia, chúng tôi đã quy tụ được một  số bạn hữu có cùng chí hướng tạo thành một mái nhà êm ấm để tự do thi thố  những  khả năng thường bị “lấn ép” tại các cơ quan khác.

“Viện Tu nghiệp Quốc gia” thu nhỏ tại Little Saigon Từ trái: Nguyễn Xuân Hiệu (ĐS 2), Nguyễn đắc Điều (ĐS 6), Ngô thanh Tâm (CH 2), Bùi Bích Hà (thân hữu), Khánh Hà (CH 3), Thu Thuỷ (trưởng nữ của Tâm/Hà).

Có điều, bốn chàng thời vang bóng ngày xưa, nay chỉ còn lại “ba chàng ngự lâm pháo thủ không gươm”: Ngô Thanh Tâm, Nguyễn Đắc Điều và Đặng Mạnh Hùng.

Nguyễn Đắc Điều

(Viết với sự góp ý của Ngô Thanh Tâm và Đặng Mạnh Hùng)

___________________________________________________________________________

Hậu Libochu

Vào năm 2013, trong số “ba chàng pháo thủ không gươm”, Ngô thanh Tâm được bác sĩ chẩn đoán ung thư tụy tạng. Sau một thời gian mổ và hóa trị, bệnh tình không thuyên giảm, sức khỏe yếu bác sĩ khuyên nên đi du lịch để thay đổi không khí; nhưng sau chuyến đi Nhật Bản về vào đầu năm 2014 sức khỏe của anh càng suy giảm. Nghe được tin xấu, giữa tháng 7-2014, vợ chồng tôi cùng anh chị giáo sư Phạm kế Viêm, cư ngụ tại Paris, tổ chức chuyến đi thăm Ngô thanh Tâm. Anh chị nhà văn Phạm tín An Ninh được anh Tâm ủy thác lo tiếp đón “phái đoàn ủy lạo”. Phút chót, vợ tôi không thể đi cùng chuyến vì chuyện riêng.

Hàng đứng: Ngô thanh Tâm, Nguyễn đắc Điều, Phạm kế Viêm, Phạm tín An Ninh Hàng ngồi: Khánh Hà- Trần Diệu Tâm- chị Thức, vợ PTAN

Trong buổi hội ngộ, Ngô thanh Tâm dù vừa trải qua một cuộc tiểu giải phẫu vào buổi trưa vẫn hào hứng hàn huyên đủ mọi chuyện: từ chuyện Thụ Nhân của viện đại học Đà Lạt với đồng môn nhà văn Trần Diệu Tâm, phu nhân giáo sư Viêm, tới chuyện giảng dạy tại Viện Quốc gia Tu nghiệp với tôi. Kết thúc câu chuyện, anh Tâm đề nghị chúng tôi chụp chung một tấm hình tại vườn sau nhà do chính anh Tâm “đạo diễn” để chụp hình tự động. Không ngờ đó là bức hình ghi dấu lần gặp gỡ cuối cùng vì năm sau, ngày mùng 9 tháng 4 năm 2015,  anh Ngô thanh Tâm đã từ giã vợ con và bạn bè về nước Thiên Đàng.

Nhà tôi rất tiếc đã không đi theo tôi sang thăm anh Tâm kỳ trước nên đúng 3 năm sau, vào tháng 7 năm 2017, dắt theo vợ chồng thứ nam sang Na Uy thăm chị Khánh Hà; và chụp một tấm ảnh ngồi đúng vào chiếc ghế mà anh Tâm đã chụp hình trước đây.

Vợ chồng Nguyễn đắc Điều và vợ chồng thứ nam

Nhân dịp này tôi cũng ghé thăm tượng đài Hoa Biển, tri ân nhân dân Na Uy đã đón tiếp người tỵ nạn cộng sản Việt Nam tới định cư, mà anh Ngô thanh Tâm đã bỏ nhiều công sức trong vai trò Cố vấn của Uỷ ban Xây dựng Tượng đài Thuyền Nhân. Chính vì tấm bảng không ghi được chữ tiếng Anh “communist” vào bảng Tưởng Niệm làm Cộng đồng Người Việt tại Na Uy cho rằng anh Tâm có tinh thần chao đảo. Anh đã ôm niềm “nghi kỵ” này mang sang thế giới bên kia không một lời phản biện.

Hình trái: Tượng đài Hoa Biển Hình phải: Bảng Tưởng Niệm – Ghi chú trên Bảng Tưởng Niệm: “Thank you Norway for the Freedom From Vietnamese boat refugees and their families. Tri ân Na Uy đã cứu giúp chúng tôi đến đất Tự Do. Thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn cộng sản và thân nhân”

Vợ chồng Nguyễn đắc Điều tại Tượng đài Hoa Biển và Bảng Tưởng Niệm (Na Uy)

Tôi đứng ngắm nhìn tấm Tưởng Niệm mà nghe phảng phất đâu đây câu nói ước mơ của anh “Giấc mơ một nước Việt Nam tự do no ấm, có lẽ là giấc mơ duy nhất tan vỡ, bạn nhắm mắt trước khi thấy một tia sáng (văn trích trong “Lệnh triệu ban rồi” tác giả Tâm Thanh).

Ôi những chàng ngự lâm pháo thủ muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ!!!

Nguyễn Đắc Điều

(San Diego, California 14-5-2023)

Views: 1170