Thảm Họa Kinh Tế Việt Nam Bị Lệ Thuộc Trung Cộng

Nguyễn Bá Lộc

Giữa tháng 12 vừa rồi, Chủ tịch Trung cộng (TC) Tập cận Bình đến VN, trong một bối cảnh thế giới nhiều biến động nguy hiểm hơn, và trong khi đó hiện nền kinh tế Trung cộng (TC) suy sụp có nhiều khó khăn khó giải quyết được trong thời gian ngắn. Hai lãnh đạo cao cấp nhất của “hai nước CS anh em”, Tập cận Bình (TCB) và Nguyễn phú Trọng (NPT) đã có nhiều lần và khá thường gặp nhau, lần nầy thì có vẽ dồn dập hơn, cho nên có thể nghĩ có chuyện gì khác thường. Thực sự, cái căn cơ gốc rễ của mối bang giao của hai nước thâm sâu đặc biệt, và khá bền chặt. Chỉ trong vòng hai năm mà hai Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng gặp rất thường như chúng ta biết. Đó có thể vài sự kiện mới liên hệ tới thế tam giác Mỹ, Trung và Việt nam. Có thể trước tình thế mới, lãnh tụ TC nay cần phải nhắc nhở CSVN phải kiên định lập trường và giữ vững niềm tin cậy, và sáng suốt trước các hành động của Hoa kỳ và đồng minh. Mặt khác, có thể TCB cũng muốn cho dân chúng VN và thế giới thấy VNCS vẫn còn trong vòng kềm kẹp của TC, và VN vẫn còn sát cánh bên TC.
VNCS từ lâu lệ thuộc TC cách khác biệt và sâu đậm về các phương diện chánh trị, kinh tế, và an ninh. Trong bài viết nầy, tôi xin trình bày sự lệ thuộc đó về kinh tế trong thời gian gần đây.

I. Con đường dẫn kinh tế VN tới sự lệ thuộc TC

1. Khái quát ý niệm Lệ Thuộc Kinh Tế

Theo nghĩa thông thường lệ thuộc kinh tế (economic dependence) của một quốc gia khi có tình trạng kinh tế yếu về một mặt nào đó, cần phải dựa vào quốc gia khác để phát triển khá hơn. Ví dụ: Tây Âu phải lệ thuộc dầu khí vào Nga, Hoa kỳ trước 2020 lệ thuộc chuổi cung ứng linh kiện điện tử và nguyên liệu dược phẩm của TC. Hàng hóa chế biến của VN lệ thuộc mạnh có tính cách sanh tử vào thị trường Mỹ và Âu châu..
Khi phong trào toàn cầu hóa mở rộng trên thế giới sau chiến tranh lạnh, sự cạnh tranh kinh tế càng quyết liệt, thì sự lệ thuộc kinh tế với nhau càng lớn mạnh. Trong trường hợp thế giới ổn định, thương mại và đầu tư giao lưu bình thường, thì sự lệ thuộc thường hay phụ thuộc kinh tế vào nước kia, thì đó là chuyện bình thường, không có vấn đề nghiêm trọng được đặt ra.
Song, nếu một nước lệ thuộc vượt qua mức độ và tính chất bình thường nói trên một cách quá đáng, thì tình trạng nầy có trục trặc, bất công, và thiệt hại cho một bên. Có thể chánh quyền một nước ở thế mạnh áp bức nước kia, hoặc chánh quyền nước yếu cầu cạnh hay tự dâng hiến quyền lợi đất nước mình, để trao đổi bất chánh một cái gì. Trường hơp này đã xảy ra cho một số nước. Cụ thể là trường hợp VN bị lệ thuộc TC cách bất thường, bất công, và bất chánh.

2. Con đường đưa tới kinh tế VN lệ thuộc TC

Nhu cầu hợp tác kinh tế VN-TC. Từ khi tái lập bang giao (1991), cả VNCS lẫn TC đều có nhu cầu dựa sát lại để tồn tại và phát triển. Tình trạng càng lớn mạnh hơn khi TCB ôm giấc mộng lên lãnh tụ thế giới và cũng từ khi tranh chấp Mỹ Trung càng căng thẳng thêm.
Với TC, thì nhu cầu trên mặt kinh tế phải kềm chặt VN là vì: VNCS và TC có mô hình và sách lược kinh tế giống nhau. TC là thầy của VNCS, nên mọi bàn thảo hợp tác dễ nói dễ bàn và thi hành ít có khác biệt. Thứ hai TC rất cần tài nguyên khoáng sản nhất là dầu lửa, cho phát triển mà trong nước rất thiếu, trong khi đó VN có tiềm năng nầy khá, mà VN thì muốn giao cho TC khai thác, TC dễ ép buộc VN thầu khai thác cũng như về giá cả. Thứ ba, hai nước ở cạnh nhau, nên ngoại thương rất thuận lợi. Thứ tư, kinh tế VN đang phát triển khá, lợi tức dân chúng tăng, TC đưa vô mọi hàng, và người Hoa tràn vô mở cửa hàng khắp nơi nhứt là các tỉnh ở biên giới.
Với CSVN, thì cần phải dựa vào TC là vì sau khi kinh tế CS sụp đổ năm 1985, VN không có lối thoát, nên dựa được TC là may rồi. Thứ hai, TC là thị trường rất lớn cho nông sản VN. Thứ ba, VN rất thiếu mọi thứ nhất là nguyên liệu, phân bón… mà TC có nhiều. Thứ tư, TC có chương trình cho vay ra các nước khá rộng rãi, VN cần vay mượn nhiều từ bên ngoài. Thứ tư, Bộ máy công quyền VN-TC giống nhau, nên khi thực hiện các dự án dễ dàng thương thảo về các điều thỏa mãn cả hai bên, kể cả tham nhũng lớn để chia chác nhau.
Dù một vài chuyển biến mới gần đây, nhưng mối tương quan kinh tế hai bên Việt Trung không thay đổi, mà còn tăng rất nhanh trong khoảng 5 năm nay. Vì vậy, hệ quả tai hại cho VN càng ngày càng lớn, và nay CSVN rất khó thoát ra được, dù VN đạt một số thành quả tốt trong hợp tác với Tây phương.

3.Thực tế “cái thế” yếu của VNCS trong lệ thuộc TC.

Thực tế, VNCS bị cưỡng bức và tự dâng cho TC trong cái gọi là hợp tác chiến lược toàn diện. Chúng ta có thể thấy được cái yếu thế của VNCS qua thực tế, qua cả dự án kinh tế lớn mà VN đưa cho TC không qua thầu công khai, và qua các phái đoàn VN-TC qua lại khai triển các dự án , các kế hoạch và các mưu mô thầm kín. Chúng ta cũng có thể hiểu qua rất nhiều Hiệp ước kinh tế mà hai bên đã ký. Và cũng có thể hiểu qua thái độ gần như sợ sệt của CSVN về sự vi phạm lãnh hải VN, hoặc các sự kiện quốc tế VNCS theo y như TC về lập trường và sự kiện thế giới.
Có thể tóm tắt những thỏa ước toàn diện và chiến lược VN-TC. Kể từ khi TC-VN nối lại bang giao (1991), hai bên ký rất nhiều thỏa ước về kinh tế, trong đó có các cam kết kín. VN bị đặt vào cái “tròng”phải tuân theo ý của TC. Không kể các Thỏa ước về an ninh, và chánh trị, các thỏa ước kinh tế gồm đủ mọi lãnh vực kinh tế. Một số thỏa ước quan trọng như: Thỏa ước hợp tác xây dựng “Hành lang kinh tế Việt Trung” (2008), “Thăm dò dầu khí và tài nguyên khác dưới biển” (2011), năm 2013 hai bên ký Thỏa ước Mậu dịch, hạ tầng cơ sở, và năm 2017 khi Tập cận Bình đến dự Hội nghị APEC, VN-TC ký thỏa hiệp về kinh tế trong đó có xây dựng đường xe lửa, kiểm soát quyền lợi lãnh hải. Sau chuyến đi đó của Tập, hai bên ký một loạt 83 thỏa ước chi tiết hóa thực hiện các cam kết. Sau cùng trong lần Tập đến vừa rồi, hai bên có 36 thỏa hiệp gồm nhiều lãnh vực từ chánh trị, an ninh và kinh tế.
Sau khi ký các thỏa ước, nhiều phái đoàn chánh phủ hai bên gặp nhau thường xuyên để lập kế hoạch thực hiện các thỏa ước. Tiến trình thi hành các cam kết các phương án hai bên đã hứa.
Ngoài sự gặp gỡ rất thường xuyên của các lãnh đạo cao cấp hai bên, tình trạng chưa thấy có quốc gia nào gắn bó với siêu cường TC như vậy trong độ chục năm gần đây. Cũng như VN chưa bao giờ đi ngược lại quyết định hay biểu quyết vấn đề quốc tế của TC.

II. Những lãnh vực kinh tế VN bị TC xâm lấn

Sau đây là những lãnh vực kinh tế bị TC ép buộc bị lệ thuộc hay tự CSVN muốn đưa tới sự lệ thuộc đó:

Tài nguyên khoáng sản, dầu mỏ. TC phát triển mạnh, nhu cầu nguyên liệu và khoáng sản nói chung TC phải nhập từ 40-50%. VN dâng cho TC (Công ty quốc doanh Chalco) khai thác hai quặng nhôm Giá rai và Nhân cơ (Trung nguyên) bằng đấu thầu giả (2015) hai gói thầu trị giá 980 triệu mỹ kim trong số dự trù các dự án khoáng sản trong 10 năm lên tới 15 tỷ mỹ kim. TC cho VN vay, và một đấu thầu giả cho TC trúng thầu, trong lúc có những công ty Mỹ, Anh, Úc có trình độ cao hơn công ty TC nhiều. VN phải số quặng nhôm đào được bán hết cho TC với giá rẽ. Lúc đầu chánh quyền VN ước tính mỗi năm thu về ít nhứt 200 triệu đô, nhưng sau khi khai thác (2018), mỗi năm lỗ gần 200 triệu đô. TC và VN còn hợp tác khai thác quặng sắt và sản xuất thép, công ty thép Thái nguyên, đầu tư hàng trăm triệu rồi bỏ đi sau 8 năm.
Quan trọng nhất là dầu khí. Theo khảo sát ước lượng tiềm năng dầu khí, VN có tiềm năng 4,4 ngàn tỷ thùng dầu thô, và 24,7 ngàn tỷ mét khối khí đốt. VN đã cho một số công ty ngoại quốc dò tìm trong nhiều năm qua. Nhưng TC tìm cách ngăn cản, cho là vùng lãnh hải của TC và xua đuổi các giàn khoan ngoại quốc. Một mặt, TC đem giàn khoan Hải dương HQ 981 vào lãnh hải VN ở Trường sa. Chỗ HQ 981 tìm kiếm dầu cách Nam hải 180 dặm, và cách đảo Lý sơn (Quảng ngải) 120 dặm, mà TC cho là vùng của họ. Dù HQ 981 rút đi, nhưng tranh chấp vẫn còn đó. Ngoài ra, số dầu khai thác được trong những năm qua phải bán cho TC, trong đó có việc bán lậu để chia chác, ước lượng tới 20-30% tổng số dầu thô VN khai thác được.
Gần đây VN khám phá có mõ đất hiếm, một loại khoáng sản rất cần thiết cho một số ngành kỹ nghệ quan trọng. VN có thể có trữ lượng đứng hạng nhì sau TC. TC muốn khai thác loại nầy, loại mà TC đã độc quyền từ lâu, nên Tập có đề cập trong lần qua VN kỳ nầy.

Xuất nhập cảng: Thương mại hai chiều, TC là đối tác lớn nhứt của VN. Nhưng VN phải nhập hàng TC quá nhiều thứ với số lượng trị giá gấp 3 lần hàng VN xuất qua TC. VN nhập siêu trong 10 năm qua trung bình 35-40 tỷ mỹ kim/năm, và mỗi năm mỗi tăng thêm. Con số nầy tương đương với số xuất siêu của VN qua Mỹ, tức là ngoại tệ từ Mỹ đưa qua cho Tàu gần hết.
Vài chi tiết, năm 2000 (tỷ mỹ kim) VN xuất $1,536, nhập vào $1,401, nhưng đến 2015 thì VN xuất $16,563, nhưng nhập tới $65,573, VN nhập siêu -$32,891, sang 2020 xuất $48,905 nhập $84,186 nhập siêu -$35,281, và trong 11 tháng 2023 VN xuất $61,4 nhập $140,8, nhập siêu -$69.8, nhập siêu tăng 3 lần từ 2015 tới nay, (Tân hoa xã 12/12/23).
Khi một nền kinh tế có sự chênh lệch nhập siêu quá cao, khi có một số hàng không thiết yếu mà nền kinh tế còn yếu, thì phải xem lại và cố cân bằng cân ngoại thương.

Đầu tư TC (FDI) tại VN: TC đầu tư ở VN tăng một cách nhanh chóng và bất thường trong 10 năm qua. Các lý do TC đầu tư nhiều và nhanh ở VN: Thứ nhứt, Chánh sách TC trong thập niên qua bung ra ngoại quốc, Thứ hai, VN có nhiều điều kiện kinh tế, chánh trị, văn hóa rất thuận lợi cho TC. Thứ ba, Mỹ và nhiều nước Âu châu gia tăng hợp tác kinh tế với VN. Thứ tư, TC bị cấm vận trong chiến tranh lạnh mới đẩy TC phải tìm con đường lách né bám sát sát về kinh tế và chánh trị. Tình hình FDI của TC ở VN được tóm tắt :
Trước năm 2000 FDI của TC không đáng kể, tới 2011 có một số dự án, nhưng còn nhỏ chỉ có $700 triệu mỹ kim, Năm 2018 lên $2.400 triệu, được hạng 9 trong các nước ngoài đầu tư ở VN. Nhưng đến 2019, FDI TC nhảy vọt lên hạng 3 với $7.100 triệu (Yosof Isank Intitute 4/2019), và 2022 FDI của TC lên hạng nhứt với $23.5 triệu. (VN Express Internatioal 9/2023).
Trong vòng 12 năm FDI của TC tăng hơn 7 lần. FDI của TC đủ mọi thứ mọi ngành, từ khai thác dầu và khoáng sản tới tơ sợi, sắt thép, máy móc điện tử, khu nghĩ dưỡng nhà đất, đến tiệm tạp hóa , tiệm thuốc Bắc, tình hình tràn ngập khắp nước.
Nhứt là từ khi VN mở rộng cho Hoa kỳ và Tây Âu, Hiệp định CPTPP, EUFTA, và nhiều nữa..
Vay nợ và thầu công trình: Chương trình này mở rộng từ khi TCB lên làm Chủ tịch TC. Viện trợ kinh tế và thầu thi công các dự án nước ngoài là hai mặt của đại kế hoạch vừa có tính cách kinh tế vừa quân sự vừa ngoại giao, nó có liên hệ tới mục tiêu đại bá TC.
Mục đích chánh là đem tiền có dư thừa nhiều cho các nước nghèo vay phần lớn là xây dựng hạ tầng cơ sở. Khi cho vay, với các điều kiện là phải để TC thầu thực hiện phương án, bán vật liệu và đem đến nhiều công nhân viên người Hoa. Có thể kể ở đây:
Dự án đường sắt Cát Linh – Đông Hà, Công ty Gang thép Thái nguyên, một số xa lộ, phi trường và hải cảng như Vân đồn ở Quảng ninh, các nhà máy nhiệt điện ở Bình thuận và Vĩnh Bình (tổng số vốn đầu tư tới 6 tỷ mỹ kim).
TC cho VN vay khá lớn, từ 2000-2017 VN vay $16.3 tỷ mỹ kim (The Diplomat 2010). Lãi suất rất cao (4%) gấp đôi lãi suất vay của Nhựt, Âu châu. TC đòi thế chấp rất cao. Mục đích không trả nợ nỗi sẽ bị TC quản lý tài sản thế chấp. Các dự án lớn vay nói trên nằm trong đại kế hoạch Belt & Road (BRI) của TC.
Phương án đặc biệt: TC dùng nhiều phương án và kế hoạch lớn để ép VN trên nhiều mặt vừa kinh tế, vừa an ninh, và văn hóa. Xin tóm tắt các phương án:
Hành lang kinh tế Việt Trung, nối TC với các tỉnh miền Bắc VN, qua bốn đường bộ và một đường sắt nối Côn minh (Vân nam) đến Hải phòng. Chi phí chung 4 tỷ (2 tỷ do Ngân hàng Á châu viện trợ). Thực hiện từ 1992 và đã xong. Trong chuyến đi qua VN vừa rồi của TCB ký 36 dự án về an ninh, kinh tế, .. trong đó có nói tới xây dựng đường xe lửa thứ hai, Quảng tây – Hải phòng .
Hiệp ước VN- TC thăm dò dầu khí khu vực lãnh hải VN (2013). VN hợp tác TC tìm kiếm và khai thác dầu khí ở vùng lãnh hải VN và cà vùng lãnh hải mà TC tự cho là của mình, cho nên có xảy ra sư tranh chấp, nhưng tới nay tình trạng chưa giải quyết, vì áp đảo của TC.
Đặc khu hành chánh kinh tế (2017) Vân đồn (Quảng ninh), Vân phong (Phú khánh), và Phú quốc (Kiên giang). Đây là các khu vực đặc biệt nó thích hợp cho sự chiếm đóng của TC về đất đai, về di dân Tàu theo truyền thống, và căn cứ quân sự tương lai trong vùng. Vì sự chống đối mạnh của dân chúng, chánh quyền VN tạm không ban hành luật nầy. Nhưng thực tế, các công ty TC đã qua xây dựng một số hải cảng, phi trường ở Vân đồn dựa theo cam kết trước và theo luật trước hay đôi khi bất cần luật lệ gì.
Phương án Vành đai & Con đường (BRI) 2013, đây là kế hoạch lớn trên khắp thế giới, nó nằm trong tham vọng bá quyền của TCB.
VN còn là thành viên của Hiệp định đa phương qui mô rất lớn của TC thiết lập, Hiệp ước hợp tác thương mại, RCEP (2020), chánh yếu là TC muốn kết hợp và nắm các nước ASEAN.
Trên đây là các phương án hay hợp tác kinh tế giữa TC và VN nó vừa mang mục tiêu kinh tế vừa an ninh. Hầu hết phương án nầy mang lợi cho TC nhiều hơn cho VN.

III. Những thiệt hại nghiêm trọng và vấn nạn tồn tại

VN là một điển hình về mức độ phát triển, về mục tiêu, nhứt là về cách vận hành guồng máy chánh quyền, cho nên sự gian xảo, cách độc ác với dân, cách dối trá với quốc tế, hai nước CS thực hiện sự “hợp tác” cách nhịp nhàng. Nhưng VN, đứng về phương diện quần chúng thì chịu quá nhiều thiệt hại về tinh thần lẫn vật chất. Cũng có phần nào có lợi cho VN, trong đó lợi cho đảng và đảng viên dính líu tới các hoạt động kinh tế TC, nhưng cái lợi cho TC nhiều hơn. Có thể tóm tắt các tai hại lớn cho VN như dưới đây:

1. Thiệt hại về mặt xã hội và chánh trị:

Chủ quyền quốc gia và sự độc lập của dân tộc bị mất hay ít nhứt bị xoáy mòn. Điều nầy là một đau thương lớn nhứt cho dân tộc VN.
Nạn tham nhũng do hai bên cấu kết trầm trọng thêm và không cứu chữa nỗi. Những tham nhũng kinh tế lớn có liên quan với sự vay nợ hay thầu thi công với TC. Hoặc các vụ tham nhũng liên hệ nhà đất, ngân hàng, hầu hết có dính đến người Hoa ở VN hay người Hoa từ ngoài vào.
TC dẫn VN theo con đường phi dân chủ, phi tự do trong kinh tế. Nền “kinh tế thị trường XHCN” không phải là kinh tế tự do thực sự, điều nầy có hại theo Thỏa hiệp kinh tế với Tây phương.
VN và TC không có thực hiện tôn trọng về nhân quyền trong kinh tế mà hai nước có cam kết với quốc tế, trong đó quyền công nhân là quan trọng nhứt.
Trong kinh tế đối ngoại, VN có giả dối trong các Hiệp ước Thương mại và đầu tư quốc tế với Tây âu mà VN rất cần, qua những vụ đấu thầu công khai. Nhưng với TC thì VN và TC không bao giờ đặt ra những vấn đề nầy về mặt Dân chủ và Nhân quyền, TC và VN còn dối quốc tế bằng cách hàng TC chuyển qua VN, dán nhản xuất xứ lại và tái xuất đến Âu Mỹ để tránh thuế cao do bị cấm vận.
Sự gian xảo trong thương mại theo con đường chánh hay theo con đường tiểu ngạch càng ngày càng khủng khiếp, hàng lậu , hàng trốn thuế, trốn kiểm soát, hàng hóa giả, thiệt hại hàng tỷ đô.
Các khu casino TC đã và sẽ, có một số tạm ngưng, đầu tư ở VN là nơi sản sinh đủ loại tệ trạng xã hội. Casino và khu nhà ở cho di dân là kế hoạch lớn cho TC.

2.Thiệt hại về kinh tế trực tiếp:

Tài nguyên kinh tế VN bị khai thác mạnh và thiệt hại với giá rẽ. Nhứt là dầu khí là tài sản quí giá.
TC ép VN nhập cảng quá nhiều hàng hóa, trong đó có nhiều món VN có thể tự làm ra được, với chánh sách giá rẽ, tràn ngập khắp nước, làm kỹ nghệ trong nước bị khó khăn và trình độ phát triển kinh tế khó đạt mức tự lực tự cường.
Kỹ nghệ trong nước bị hai khó khăn là hàng TC mọi thứ quá rẽ và tràn ngập, kể cả trang bị máy móc mua của TC với phẩm chất kém. Phần lớn kỹ nghệ VN chỉ là ráp nối hay kỹ nghệ sơ đẳng chế biến nông hải sản.
Chuyên viên và công nhân đi theo các công ty TC trúng thầu, làm thất nghiệp của VN càng cao
VN phải nhập quá nhiều nguyên liệu cho các ngành rất quan trọng như 80% tơ sợi cho ngành may mặc, ngành giày dép. Sau khi VN ký Thỏa hiệp thương mại CPTPP và EUFTA, hàng may mặc phải sử dụng nguyên liệu VN hay nước thành viên, TC nhào qua lập nhà máy sản xuất tơ sợi.
Nông nghiệp VN bị khó khăn không nhỏ, do chánh sách nhập phân bón thuốc sát trùng từ TC chiếm trên 75% nhu cầu, phải chi hàng tỷ đô cho loại mà VN có thể sản xuất được.
Nông sản VN có thể bị khó khăn vì sự thay đổi bất thường của TC .
Cách thức viện trợ kiểu TC đễ đưa tới cái kẹt cho nước đi vay, nó như “cái bẩy”, không trả nợ nỗi, thì bị chủ nợ siết tài sản thế chấp, đàng nào TC cũng có lợi.
Sau cùng, sư mở rộng du lịch và các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa ồ ạt tới VN định cư lâu dài là chiến thuật tạo ảnh hưởng chánh trị và hỗn tạp văn hóa của chánh sách “cộng đồng người Hoa hải ngoại”.

3.Vấn nạn tồn tại.

Trong ba mươi năm dưới sự áp đảo và chiếm đoạt kinh tế cách bất công. Giữa hai đảng thì là “đồng chí tốt”. Nhưng với hai “dân tộc”, hai “láng giềng” và hai “đối tác”, là không tốt. Sự thiệt hai rất nhiều. Tương lai, hãy còn nhiều khó khăn thiệt hại tồn tại. Có thể là:
Sách lược và con đường phát triển giống nhau. Kinh tế đang xuống và chưa có dấu hiệu chấm dứt, TC phải bung ra ngoài để tìm lợi ích kinh tế bù đắp vào, và bị đính thêm chương trình BRI.
VN còn phải nhập nhiều hàng TC, nhất là máy móc và phân bón, đồ gia dụng cho nên nhập siêu phải tiếp tục tăng lên cao nữa. Đó là bất lợi cho một nước đang phát triển.
Dầu khí sẽ còn là sự tranh chấp quan trọng trong tương lai, khi VN TC chưa giải quyết rõ ràng lãnh hải, nhứt là khi Mỹ có dự định tham gia khai thác khí đốt, hay tiếp tục hơp đồng với Exxon.
Kỹ nghệ VN sẽ còn gặp khó khăn do FDI TC tràn vào đầu tư mọi thứ mọi ngành, lợi dụng ngoại thương VN để tranh bớt hệ quả do cấm vận của Tây phương.
Nông sản bán cho TC sẽ còn những lúc khó khăn về số lượng hay giá cả.
VN còn phải vay nợ TC nhiều cho các dự án lớn xa lộ, đường hỏa xa, cảng. Khi nhờ TC phải gánh nặng trả nợ hay bị điều kiện bất lợi khác, kể cả vấn đề an ninh.

IV. Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”, và trong “thế cân bằng” vùng Á châu Thái bình dương

Nhân kiểm lại và cập nhựt bang giao kinh tế Việt Trung trong tình hình thế giới có diễn biến mới trong bang giao của “tam giác Mỹ Trung Việt”. Ở đây có hai vấn đề liên hệ.

1.Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”

Tuyên cáo chung của hai lãnh đạo VN- TC trong cuộc gặp hai lãnh đạo ngày 12-12-23, có đề cập “tiêu đề ngoại giao” trong một nhóm hợp tác với TC, đó là “Cộng đồng chung vận mạng” (Community of common destiny). Tuyên cáo nầy viết bằng ba thứ tiếng: Anh, Trung và Việt. Báo ngoại quốc xử dụng bản tiếng Anh có câu “Community of destiny” hay “Community of common destiny”, báo Trung hoa thì dùng chữ “ Công đồng chung vận mạng” (Community of common destiny) , còn báo chí VN thì nói “Cộng đồng chia sẻ tương lai” (Community of shared future” . Như vậy có sự khác biệt phần bản tiếng Việt, mà theo tin báo ngoại quốc thì Nguyễn Phú Trọng có “endorsed” trong bản tiếng Anh.
Theo như trên thì “tư cách thành viên” của VNCS với một số thanh viên của loại Cộng đồng chặc chẽ của TC. Thực sự các tên Cộng đồng nói trên hãy mơ hồ, quan trọng là những chi tiết cam kết giữa hai bên, mà thường với CS đó là vấn đề “mật”.
Dù giải thích cách nào, đối với dân chúng Việt nam, gần như không quan tâm. Đó chỉ cho những người ngoài cuộc.
Các tiêu đề hay thuật ngữ chánh trị kiểu Tàu (từ xưa tới nay các triết gia chánh trị Tàu thường ưa dùng chữ rất kêu, nhưng thường là rỗng) đã đươc đặt ra và xử dụng trong hơn 10 năm qua, trong nhiều lần tuyên bố hay diễn từ của Tập cận Bình .
Trước hết chữ “common destiny” được nói ra đầu tiên từ Chủ tịch Hồ cẩm Đào (2012). Sau đó Tập cận Bình lập lại nhiều lần trong các buổi họp ngoại giao quốc tế, kể cả những lần ông gặp NPTrọng (2017), và ông Hunsen của Cambodia và lãnh tụ Lào.
TCB đưa ra ý niệm “Cộng đồng chung vận mạng” là từ khi ông đưa ra mô hình và sách lược ngoại giao mới là: “XHCN trong thời đại mới”, và “mộng bá quyền toàn cầu”, hay ý kiến về “Trật tự thế giới mới”. Như vậy, lúc đó TCB đã định hình thế giới, phân ra các cực quyền lực, hay các khối mà bước đầu tiên TC muốn thay đổi “độc bá quyền” thế giới do Mỹ lãnh đạo từ sau thế chiến II.
Năm 2013, TCB dùng câu”common destiny” khi nói chuyện ở Viện bang giao quốc tế của Nga, và một lần nữa trong buổi họp với các nước Trung Á (2015), Tập cũng dùng “common destiny” trong thỏa ước chung với Cambodia và Lào trước kia.
Sau đó vài năm thì Tập cận Bình dùng “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trong những buổi nói chuyện với các Cộng đồng tương đối mở rộng hơn. Trong đó có tại đại Hội đồng Liên Hiệp quốc 2017 (Asian Journal of Middle Eastern 2017), Tập nói: “mọi quốc gia trên thế giới cần hợp tác xây dựng một tương lai chung cho nhân loại”, ông dùng tiêu đề “Cộng đồng chia sẻ tương lai của nhân loại” (Community of shared future for mankind).
Qua chút diễn đạt trên, chúng ta có thể hiểu TC muốn kết hợp và tạo đồng minh qua hai mức gắn bó. Một là loại Cộng đồng có vận mạng chung, nó chặc chẽ, sống chết có nhau, có thể như một “khối”, có thể hiểu đó là một “Liên minh” theo quan điểm Tây phương. Cái Cộng đồng thứ hai (chia sẻ tương lai) rộng lớn hơn, lỏng lẽo, có nhiều khác biệt nhưng cũng có một số mục tiêu chung với TC. Thành viên của Cộng đồng nầy đa số là các nước đang phát triển mà TC nhắm tới và lôi kéo từ hàng chục năm nay.

Thực tế, Cộng đồng thế giới theo ý niệm hay theo kiểu TC, có thể tóm tắt thành 4 loại, hay 4 mức độ về thành viên liên hệ dưới trướng TC:
A.”Cộng đồng của nước Trung hoa”. Gồm nước Trung hoa vĩ đại và các “khu vực tự trị” không có chủ quyền hoàn toàn như Tân cương, Tây tạng. Và các cộng đồng nhỏ ở hải ngoại trên thế giới, có liên kết với tổ quốc chánh là Trung hoa lục địa, đó là Cộng dồng người Hoa kiều ở hải ngoại, dù loại cộng đồngnhỏ, nhưng có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế, văn hóa và tình báo. Chúng ta biết khá nhiều các cộng đồng Hoa kiều hải ngoại rất mạnh nó chẳng những nắm rất lớn kinh tế mà cả chánh trị trong nhiều nước, đặc biệt ở Á châu như Cambodia, Lào, Thái lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Miền Nam Việt Nam trước 1975, và cả nước VN hiện nay. Dĩ nhiên không phải người Hoa nào cũng theo Trung hoa CS. Nhưng về kinh tế, những người Hoa hải ngoại khá hữu ích cho Trung hoa lục đia, có thể gọi là “cộng đồng A+”
B.”Cộng đồng chung vận mạng”, như nói ở trên, đó là tập hợp của một số nước đàn em hay bạn bè chí cốt. Có cùng mục tiêu, cùng con đường, sống chết có nhau.
C.”Cộng đồng chia sẻ tương lai”. Sự kết hợp lỏng lẽo, có một số mục tiêu chung, và một số quyền lợi chung. TC vận dụng trong các nước đang phát triển, một nhóm quốc gia rất đông và khá phức tạp “Cộng đồng C”. Trong loại Cộng đồng này có gồm một số cộng đồng nhỏ, nghĩa là số nước tập hợp do TC có vai trò quan trọng nhứt. Có thể gọi “Cộng đồng C+”. Nhóm nhỏ nhưng mạnh, có thể kể Liên minh TC, Nga và Iran . Nhóm lớn nói trên thì TC kết hơp trước hết là viện trợ, là đại dự án Belt & Road (150 thành viên).Thực sự “Cộng đồng chia sẻ tránh nhiệm” còn nhiều bất đồng và khác biệt, thứ hai là những nước nầy còn bị dao động bởi sự vận động lôi kéo của Tây phương trong những năm gần đây.
D.”Cộng đồng toàn thế giới”. Đó là tất cả mọi quốc gia trên quả địa cầu nầy, không phân biệt lớn nhỏ, không phân biệt mức độ kinh tế hay thể chế chánh trị. Cái nầy thì hãy còn rất mơ hồ. Nó chút gì gần ý niệm của triết lý Trung hoa xưa, Khổng Tử thường dùng từ “thiên hạ” , và thêm một chút triết lý Các Mác, ông nầy thường nói là “Global society” hay “Human society” để chỉ cái gọi là “Thế giới đại đồng” của CS.
Vậy VN ở trong loại Cộng đồng nào do TC vẽ ra và lãnh đạo ? VN hiện tại có thể đính vào các công đồng kiểu TC hay “made in China” nói ở trên.
Loại A+, Vì Hoa kiều ở VN nắm các ngành kinh tế trọng yếu như nhà đất, trong kỹ nghệ chế biến, trong các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa lục địa , hành lang kinh tế Việt Trung. Hoa kiều ở VN còn là đường dây tình báo quan trọng.
Loại B, VN chắc chắn ở trong cộng đồng loại nầy của TC về thực tế , “Chung vận mạng”, dù bề ngoài chánh quyền hay báo chí VNCS có đồng ý hay không .
Và VN cũng ở trong cộng đồng loại C (Chia sẻ tương lai) về nguyên tắc trong một số trường hợp, mà VNCS muốn nói với dân và quốc tế rằng VN không bị TC kềm kẹp.
Với mức độ lệ thuộc chặc chẽ tai hại như vậy, không phải chỉ VN mà tất cả các nước bị TC kềm kẹp như một loại “thực dân đỏ”, quốc gia nào cũng muốn thoát Trung hay giảm bớt lệ thuộc TC.
Trong mối tương quan Việt nam- TC hiện nay, khi nói đến “thoát Trung “ phải biết ai muốn thoát Trung, CSVN hay người dân Việt nam? Người dân thì đã nhiều lần tỏ thái độ và mong ước này. Chánh quyền phải không bỏ tù dân khi dân phản đối sự áp bức thô bạo từ TC.
Còn CSVN không muốn và không thể, vì vấn đề sinh tồn và quyền lợi của đảng CS. Hơn nữa TC đâu có muốn để VN thoát ra khỏi cái gọng kềm, nhứt là trong Chiến tranh lạnh mới hiện nay.

2.Vị thế VN trong “thế cân bằng Mỹ Trung”.

Việt Nam trong thế cân bằng Mỹ-Trung: Ngoại giao kiểu “Cây Tre”?

Trong mấy lần trước, tôi có nói qua cái thế kẹt của VN trong sự xung đột Mỹ Trung, nhứt là tại vùng Á châu Thái bình dương.Tình trạng càng ngày càng căng thêm. Trong phần cuối của bài này, tôi xin ít bổ xung và cập nhựt với một vài diễn biến mới trong năm qua.
Về chánh tri và ngoại giao, Cả Mỹ và TC đều đến sát VN, qua việc TT Biden và TCB đến VN . Nhưng Mỹ thì có vẻ tới nhiều hơn vì VN-Hoa kỳ nâng cấp ngoại giao lên Chiến lươc toàn diện. Lại thêm Nhật, đồng minh với Mỹ, cũng được lên cấp ngoại giao cao nhứt này. TCB qua VN rà soát và xác minh VN TC phải nắm chặt tay hơn về các lãnh vực, nhứt là về kinh tế và an ninh.
Về kinh tế, Mỹ hứa sẽ có những món đầu tư lớn cho VN trong khí đốt, đất hiếm, đường xe lửa, môi trường, kỹ nghệ kỹ thuật cao (Quan hệ Việt Mỹ là một trong bang giao quan trong nhứt, (VOA, 5/2023) .. Mỹ hứa sẽ mang đến hàng chục tỷ cho tương lai gần. Công ty Mỹ ở TC chuyển sang VN nhiều hơn, nhứt là công nghệ chip. Mặt khác, để đối trọng lại đại kế hoạch Belt & Road của TC, Hoa kỳ và khối G7 tung ra $1000 tỷ cho các nước đang mở mang vay xây dựng hạ tầng cơ sở. Còn TC thì mở rộng đầu tư tại VN rất nhanh trong hai năm qua, gia tăng ngoại thương .. như trình bày phần trước.
Năm qua, có sự bất lợi cho chính TC về kinh tế do khủng hoảng địa ốc và ngân hàng. Tình trạng nầy làm cho TC giảm bớt đầu tư và cho vay cho các nước Đông nam Á, trong đó có VN.
Về an ninh và quân sự, đối với Mỹ vùng Á châu Thái bình dương có mức quan trọng hàng đầu. TC đã ảnh hưởng khá nhiều ở đây, Mỹ và đồng minh không có cách nào khác là phải bao vây và đụng độ với TC.
Tình hình có thể trở thành nóng vì vấn đề Đài loan, nên hai năm qua, Mỹ và đồng minh kết hợp lớn hơn và chặt hơn bao giờ hết kể từ sau Chiến tranh lạnh I. Mỹ đã liên minh được hầu hết với các đồng minh quan trọng như Nhật, Úc, Anh, Tân tây Lan, Ấn độ, Singapore. Cũng cố Liên minh Mỹ, Nhật và Nam hàn. Đặc biệt sự quay lại của Phi luật tân, và sự đi gần thêm về an ninh của Mỹ và VN.
Như vậy nhìn chung trong bước mới nầy: VN đi nhiều với Mỹ hơn. Nhưng từ đầu tới nay thì VNCS vẫn phải lệ thuộc mạnh với TC về phần hồn lẫn xác hơn với Mỹ. Và cách thức VN tiếp xúc hay làm việc với lãnh đạo TC, và cả thái độ ngoại giao của VN với TC trên bình diện quốc tế, chúng có thể thấy phần nào CSVN có thái độ “đu giây” giữa Mỹ và TC.
Nhưng dù có vài điều mới, nhưng cách giao dịch giữa TC và Mỹ, chưa có thay đổi tình trạng cũ bao nhiêu, chánh yếu là vì quyền lợi kinh tế của hai bên và kinh tế thế giới mà chưa có đụng độ mạnh hơn, nhưng hai bên tiếp tục vận động kết hợp bạn bè, đồng minh giống như chuẩn bị cho một trật tự thế giới mới, nhưng lần nầy có nhiều cái khác, so với thời Chiến tranh lạnh I, về bạn và thù, về đối tác và đối nghịch, hai lằn ranh địa lý và địa chánh trị cũng lộn xộn, không minh bạch, không nhứt quán. Như vậy, CSVN vẫn phải kẹt với TC rất nhiều, dù trong cái thế mềm dẽo, linh động nào. Còn VN với Mỹ chỉ có lẽ là kinh tế, hay đúng hơn VN lợi dụng thời cơ khi Mỹ và Âu châu và một số nước giàu khác chỉ về kinh tế, và không phải là “đồng minh” hay “liên minh”. Cái sách lược ngoại giao mà nay VNCS gọi là “ngoại giao cây tre” là hợp lý trong hoàn cảnh hiện nay. Tình hình thế giới còn thay đổi và phức tạp.
Lịch sử VN cũng như lịch sử thế giới cho chúng ta nhiều bài học. Cái mối “bang giao nghiệt ngã” với TC, và cái gọi là “tình bằng hữu” với Hoa kỳ, thực tế có những lúc gặp đau thương. Khi nào dân tộc và đảng cầm quyền có cùng đi chung một con đường, thì lúc đó VN mới hy vọng có những buổi bình minh lâu dài.

Nguyễn Bá Lộc

Cali, January/ 01/2024

Views: 51

Có Quê Hương Trong Giọng Nói Người Mình

Nguyễn Quang Dũng

Cửa Tùng – Vĩnh Linh, Quảng Trị

Tôi rời quê nhà, vượt biển với vợ con tìm tự do, năm 1981. Lúc đó tôi 27 tuổi. Đến nay như vậy đã hơn 43 năm xa xứ. Và Tết vẫn là khoảng thời gian nhắc nhớ nhiều nhất trong tôi về quê hương khốn khó Việt Nam.

Năm đầu tiên xa nhà, tôi ăn Tết ở trại tỵ nạn Bataan.
Tối giao thừa, tôi nghe bà con trong trại tỵ nạn xách nồi niêu, soong chảo, thùng thiếc lên mái nhà khua gõ ầm ĩ… thay cho tiếng pháo mừng xuân. Trong bóng đêm của trại tỵ nạn không có khung cảnh quen thuộc, ấm cúng mà trang nghiêm, của Ba tôi thắp đèn cầy, đốt nén nhang trên bàn thờ tổ tiên đã chưng đầy hoa quả, khấn vái cầu nguyện cho một năm mới bình yên, tôi bỗng thấy nhớ nhà vô hạn.
Nhớ nhà và buồn muốn khóc.

Tới Mỹ năm 1982, vất vả với những lo toan cho đời sống mới trước mặt, tất bật với ngày đêm và công việc mưu sinh, nhiều khi quên bẵng đi chuyện nhớ nhà, thì vẫn là ngày Tết nhắc nhớ trong tôi đến Ông-Bà-Cha-Mẹ-Anh-Em. Vậy mới biết những gì tôi lớn-lên-và-sống-với từ thuở nhỏ ở quê nhà đã ăn sâu trong tiềm thức tôi.

Tôi và vợ tôi lui hui dựng lại cái bàn thờ Tổ Tiên trong căn nhà mình ở Mỹ theo trí nhớ.
Tượng Phật Bà Quan Thế Âm thì bọn tôi xin được từ lúc đi lau chùi nhà bếp và cắt cỏ ở nhà một Ông Tướng người Mỹ từng chỉ huy lực lượng quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Bức tượng Phật Bà bằng đá Non Nước Đà Nẵng rất đẹp nhưng bị đặt nằm dưới đất trong một góc vườn của vợ chồng ông tướng. Với mớ tiếng Anh rất còn lơ mơ của tôi lúc đó, tôi hỏi bà Tướng là tại sao bà lại để lăn lóc tượng Phật Bà như thế này? Bà ấy rất ngạc nhiên, nhưng cuối cùng thì cũng hiểu ra và giải thích với tôi là bà ấy không hiểu về Phật giáo và không biết bức tượng là một biểu tượng thiêng liêng đối với chúng tôi như vậy. Và bà bèn tặng vợ chồng tôi tượng ấy. Tôi không bao giờ quên ông bà Tướng người Mỹ rất tốt bụng này.
Những thứ còn lại là chân đèn cầy, bình thắp hương, bình cắm hoa, dĩa chưng hoa quả và hình ảnh những người thân đã khuất. Vậy là tạm đủ cho Bàn Thờ Ông Bà, theo những gì bọn tôi còn nhớ.

Giao Thừa những năm đó, khoảng thập niên 90, chỉ có tôi và vợ tôi loay hoay chưng hoa quả nhang đèn trên bàn thờ Tổ Tiên. Đúng giao thừa, tôi đốt nén nhang khấn vái Ông Bà – cũng giống như Ba tôi vẫn khấn vái như vậy vào Lễ Giao Thừa.
Trong giây phút cuối năm ấy, trước bàn thờ Tổ Tiên, hình như tôi vẫn muốn được trở về, sống lại cái khung cảnh quay quần với Ba Má anh em tôi trong phút Giao Thừa.
Tôi vẫn thấy nhớ nhà và nghèn nghẹn muốn khóc.

Ở những khoảnh khắc chuyển giao của cũ và mới, của kết thúc và bắt đầu, của năm cũ và năm mới tôi nhận ra quê hương không phải là những gì trừu tượng, xa vời trong trí tưởng mà đó là những tình cảm rất rõ nét tự lúc nào đã bám chặt trong tôi. Là Ba tôi. Là Má tôi. Là Anh Em tôi. Là Nơi Chốn tôi sinh ra và lớn lên.

Dần dà, tôi tiếp xúc và tham gia sinh hoạt với những người đồng hương trong vùng tôi ở và quen dần với những cái tết xa quê.
Sinh sống giữa nơi chốn của người Mỹ và những người nói tiếng Mỹ, tôi vẫn khựng lại khi nghe tiếng người đàn ông hay đàn bà la rầy con bằng tiếng Việt, tiếng người mình, ở những siêu thị hay ở những nơi mà tôi không nghĩ là nghe được tiếng Việt.
Thì ra tự trong giọng nói người Việt mình tôi nhận ra trong tôi một sợi dây liền lạc, một nỗi gắn bó với quê nhà giờ đã xa tít nửa vòng trái đất.

Và tôi cũng nhận ra ở cộng đồng người Việt ở đây có rất nhiều Hội Ái Hữu mang tên những vùng đất ở Việt Nam. Hội Gò Công. Hội Long Xuyên. Hội Nha Trang. Hội Huế. Hội Quảng Đà. Hội Đà Lạt. Hội Quảng Trị….Gần gũi và thân tình nảy sinh một cách tự nhiên khi người mình gặp nhau, nghe lại được những giọng nói rất đặc thù Việt Nam – rất “Quảng Nam”, rất “Huế”, rất “Sàigòn”, rất “Nha Trang”, rất “Quảng Trị”…

Ba Má tôi gốc Quảng Trị – chánh quán làng An Du Nam, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Trước 1975, An Du Nam nằm bên kia vĩ tuyến 17, bên kia sông Bến Hải, thuộc miền Bắc.
Ba tôi, một công chức trung cấp của chính quyền miền Nam, trôi nổi theo vận nước từ Quảng Trị xuôi về miệt miền Nam. Cư sở cuối cùng của ông là Sài Gòn. Tôi dĩ nhiên cũng đi theo ông. Từ Phan Rang ra Nha Trang, rồi Kontum, về lại Nha Trang, và trước 1972, tới ở Sàigòn cho đến ngày mất nước. Vì di chuyển theo Ba tôi đó đây như vậy nên tôi dường như không gắn bó với vùng đất nào của quê nhà.
Nhưng có một điều theo tôi suốt từ nhỏ tới lớn, không rời: Đó là giọng nói Quảng Trị của Ba Má tôi. Tôi nghe và rất quen thuộc giọng Quảng Trị của Ba Má tôi từ nhỏ, nhưng không nói được giọng Quảng Trị, có lẽ là do tôi sinh tại Phan Rang và lớn lên trong Nam.
Tôi gặp lại các anh Lê Quyền, Phan Khâm, Nguyễn Bồng trong Hội Quảng Trị vùng Hoa Thịnh Đốn trong các sinh hoạt cộng đồng người Việt vùng Thủ Đô. Tôi được nghe lại giọng nói quê mình.
Giọng nói của các anh giống như giọng nói của Ba tôi. Rất Quảng Trị. Không lầm lẫn đâu được. Đó là giọng nói của nằng nặng, triũ buồn trong âm hưởng. Tôi nhớ Má tôi nói với tôi là – “ngoài quê mình sống cực lắm con ơi.” Có phải chăng là cuộc sống kham khổ trên mảnh đất Quảng Trị quê nhà làm giọng nói người Quảng Trị mình cũng bị trĩu nặng vì những lo toan?

Tết lại gần tới, khi viết những dòng này, tôi lại thấy nhớ quê nhà. Và nhớ hình ảnh Ba tôi lui hui khấn vái trước bàn thờ tổ tiên đêm Giao Thừa.
Ba tôi mất tháng 8 năm 2010, tại Sàigòn.

Tôi đang rất nhớ giọng nói Quảng Trị của Ba tôi. Hình như quê nhà đang vương vương trong ánh mắt.

Tôi lại thấy lòng buồn. Muốn khóc.

Nguyễn Quang Dũng

VA, những ngày gần Tết

Views: 94

Hoạn Thư Tập Sự

Phạm Thành Châu

Ghen đến trình độ "thượng thừa" như người đàn bà này: Từng bước đều cao ngạo và đánh thẳng mục tiêu, người đời sau đọc xong chỉ biết "tấm tắc" - Ảnh 1.Tứ nghiện thuốc lá. Bỏ được ít lâu, lại hút tiếp. Lan bực lắm, thường bảo.

– Anh chỉ được chọn một thôi, hoặc em hoặc thuốc lá.

Tứ thề thốt, coi bộ hăng hái lắm, được ít lâu, sau bữa ăn, Tứ biến đâu mất. Lan mở cửa đi tìm, thấy Tứ ngồi trước thềm phì phà điếu thuốc. Tứ hít một hơi thuốc, thở khói ra, ngón trỏ gõ gõ trên điếu thuốc, mắt đăm chiêu mơ màng. Lan đâm bực.

– Chà sướng quá há! Trốn ra ngoài hút thuốc. Ôm gói thuốc đi luôn đi, đừng vô nhà nữa nghe!

Tứ nhe răng cười.

– Anh sẽ súc miệng, đánh răng cho hết hôi. Em mà nghiện thuốc, em mới thấy được cái thú hút thuốc. Sau bữa ăn mà không có điếu thuốc thì cuộc đời mất hết một nửa thú vị.

– Thôi, đủ rồi, có vứt điếu thuốc đi không, hay là tôi khóa cửa lại?

Tứ hít một hơi dài rồi mới chịu dí dép lên điếu thuốc. Chuyện Lan nổi cơn ghen sau đây cũng vì Tứ ra ngoài sân hút thuốc. Một tối thứ bảy, vợ chồng đi dự đám cưới của một người đồng hương tại một nhà hàng. Theo truyền thống trong lúc thực khách thưởng thức các món ăn thì cô dâu, chú rễ và phái đoàn hai họ đến từng bàn tiệc ngỏ lời cám ơn tấm thạnh tình đã bỏ chút thì giờ quí báu… Rồi đại diện bàn tiệc sẽ đứng lên đáp từ và trao những phong bì tiền lì xì. Khi sắp đến bàn của vợ chồng Lan thì Tứ bỏ ra ngoài hút thuốc, Lan dặn với theo.

– Lẹ lên nghe, sắp đến bàn mình rồi.

Lan muốn khi cô dâu, chú rễ đứng chụp hình kỷ niệm phải có Tứ ngồi bên cạnh. Vậy mà chờ mãi, cô dâu chú rễ đã qua bàn khác vẫn không thấy Tứ vào. Lan bực mình đứng dậy đi tìm. Vừa bước ra khỏi cửa nhà hàng, Lan bỗng khựng lại nép người vào tường: Tứ đang nói chuyện với một cô gái trước một cửa tiệm bên cạnh. Tuy không xa lắm, nhưng Lan không nhìn rõ được cô gái vì cả hai đứng khuất ánh đèn dưới mái hiên. Lan thấy họ coi bộ vui vẻ, thân thiết lắm. Cô gái nói gì đó, Tứ đáp lại, rồi cả hai cười phá lên, cô ta còn đập tay vào người Tứ nữa. Lan như chết sững, tim đập thình thịch, người run lên. Cô muốn ra chỗ hai người, nhưng không hiểu sao chân tay không cử động được. Lối đập tay vào người Tứ của cô gái và cách nói chuyện tự nhiên vui vẻ đó chứng tỏ hai người quen biết, thân thương nhau coi bộ hơn cả Lan với Tứ nữa. Cô gái mở bóp, đưa Tứ tờ giấy nhỏ, Tứ nhanh nhẹn xé đôi tờ giấy viết gì đấy và trả lại cô ta nửa tờ, nửa kia bỏ vào bóp. Rồi Tứ ném điếu thuốc xuống đất và dí nát nó. Lan hiểu rằng Tứ sắp quay vào, cô vội vã trở vào nhà hàng, cố giữ vẻ bình tĩnh. Chờ một lúc, vẫn không thấy Tứ đâu, cô lại định ra tìm thì thấy Tứ đang cụng ly với mấy người bạn ở bàn phía xa kia. Cô muốn gọi Tứ để hỏi cho ra lẽ nhưng chợt nghĩ lại làm gì Tứ cũng bảo đó là người bạn cùng sở hay gì gì đó và chắc chắn sẽ có một câu: Đừng nghĩ bậy bạ, người ta có chồng rồi, anh chỉ là người quen thôi. Nếu nghe thế chắc chắn Lan sẽ nổi giận ngay: Quen, quen mà vỗ vai, vỗ vế, giống như mấy con đĩ. Lan biết hễ nổi nóng lên là cô không chịu giữ ý gì cả, và như thế mọi người trong tiệc cưới sẽ chú ý đến ngay. Lan nghĩ: Ai lại nổi ghen trước mặt người khác, người ta đồn đãi nhau xấu hổ chết, người bản lĩnh phải che dấu ý nghĩ. Mà nếu hắn trả lời như thế thì mình cũng chịu, giỏi lắm lầu bầu mấy câu, rồi hắn nịnh nịnh, cười cười là mình quên ngay như mấy lần trước, mà lại chẳng khác gì báo động tụi hắn sẽ dè dặt kín đáo hơn. Cho nên Lan quyết định làm như không biết gì hết. Lúc Tứ trở về chỗ ngồi, nghe nồng nặc mùi rượu, cô lại nghĩ Chà, uống mừng tái ngộ cố nhân đây! Lan thấy tức đến nghẹt thở nhưng cố nén giận, đứng lên.

– Say quá rồi! Thôi, về sớm!

Tứ lè nhè gì đấy, cô không thèm nghe, xin lỗi những người cùng bàn. Cô biết Tứ say, nếu lái xe mà cảnh sát hỏi thăm sức khỏe thì rắc rối to ngay, nhưng cô làm thinh, để mặc. Trước giờ đâu có uống đến say tí bỉ như thế, phải có lý do, đó là gặp con nhỏ kia, vui quá nên tự thưởng cho mình mấy ly chứ gì, lăng nhăng đi, gặp chuyện thì ráng chịu, đáng kiếp! Lúc về nhà, đáng lẽ như thói quen Lan phải ôm chồng mới ngủ được, lần nầy cô nằm xây mặt vào sát vách yên lặng. Tứ kéo tay, cô cưỡng lại, cô muốn nói mấy câu cho hả giận nhưng nhớ lại là cần giữ bí mật nên chỉ bảo.

– Hôi quá, tránh ra!

Tứ thấy bất thường nên hỏi.

– Có chuyện gì vậy?

– Đau đầu quá. Để tôi yên!

Thực sự Lan muốn bể cái đầu khi tưởng tượng lại cảnh lúc nãy, tưởng tượng sau nầy “hai đứa” lén lút hò hẹn, đưa nhau đi nhà hàng, cinê, có khi đi phòng ngủ nữa. Lan chỉ muốn hét to lên “Đồ phản bội!”, muốn đấm, muốn ngắt véo Tứ cho hả giận nhưng vì mưu kế nên đành yên lặng. Cô cứ thao thức mãi, trong khi Tứ đã ngáy khò khò, Lan giận mình dại, tại sao không đến ngay lúc đó cho con nhỏ kia biết điều mà buông tha Tứ, hay ít ra cô sẽ làm bộ vui vẻ hỏi tên, hỏi chỗ ở, sở làm của “con kia” để có thể theo dõi cho chính xác. Bây giờ thì mù tịt, hỏi hắn cũng vô ích, hắn sẽ nói láo ngay. À, hai đứa đã cho nhau số điện thoại rồi, như thế số điện thoại con nhỏ kia đang nằm trong bóp Tứ. Quần dài lúc nãy Tứ treo trong tủ áo quần, Lan quyết định sẽ lấy cái bóp trong túi quần Tứ, vào phòng vệ sinh, khóa cửa lại, mặc sức lục lọi. Nghĩ thế nên cô chồm dậy, định bước xuống giường, nhưng kẹt là phải làm sao bò qua người Tứ mà không đụng đến hắn. Tứ rất tỉnh ngủ, chỉ cần đụng nhẹ là hắn mở mắt ra ngay. Hai đầu giường thì kẹt cái vách và cái bàn. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng, Tứ vẫn ngáy đều, cô nhẹ nhàng lần xuống phía chân, cố chống hai tay, hai chân thật cao sao cho không đụng đến người Tứ, nhưng chợt Tứ ngừng ngáy, Lan thất vọng, có lẽ tà áo của cô đụng vào người Tứ. Đúng ra người say rượu thường ngủ li bì, giờ nầy có lẽ rượu không còn tác dụng nữa. Lan lại giận mình, biết vậy, lúc tối thay vì đi ngủ Lan làm bộ làm gì đấy để khỏi lên giường, hễ nghe Tứ ngáy là lấy bóp Tứ ra kiểm tra. Giờ thì đã lỡ rồi, không thể đến mở tủ được, sợ Tứ biết, cô đành đi xuống bếp, mở tủ lạnh lấy nước uống. Lan làm thong thả cố kéo dài thời gian. Một lúc sau, cô nhẹ nhàng về phòng. Tứ đang ngáy, bỗng trở mình và không ngáy nữa, Lan đoán Tứ vẫn ngủ say, cô kéo nhẹ cánh cửa tủ. Bỗng cô nghĩ Khi mình lấy bóp của hắn và tìm thấy số điện thoại hoặc địa chỉ con kia, mình phải chép ra và để lại chỗ cũ mới không bị nghi ngờ, vậy phải tìm một cây bút và một mãnh giấy. Nghĩ vậy, Lan tiến về phía chiếc bàn ở góc phòng. Cô nhớ có một cây bút để cạnh TV, nhưng ánh đèn đường chiếu qua cửa sổ không đủ sáng để cô phân biệt các vật trên bàn, Lan đành dùng tay mò mẫm, bỗng tay cô đụng cái ly, ngã nghe cạch một tiếng, cô giật mình đứng yên, sợ Tứ tỉnh dậy. Nhưng Tứ đã hỏi giọng tỉnh rụi.

– Làm gì mà đứng lù lù như ma vậy?

Lan tức quá trả lời.

– Kệ chó tui!

Rồi cô vùng vằng leo lên giường, tiện chân cô đạp cho Tứ một đạp vào lưng nghe đánh hự một tiếng.

– Làm gì zdậy? – Ai vẽ! (Ai bảo)

– Vẽ gì?

Lan định nói “Ai vẽ theo con đĩ ngựa kia chi!” nhưng cô giữ kịp miệng. Nói vậy thì lộ bí mật hết còn gì!

– Ngủ đi. Cứ lục đục hoài không cho người ta ngủ!

Thì ra hình như Tứ biết tất cả những gì Lan làm từ nãy giờ. May mà cô chưa lấy được cái bóp nếu không Tứ sẽ biết được, chúng nó sẽ kín đáo hơn, khó theo dõi. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn bốn giờ, vậy là gần như trắng đêm cô không ngủ với bao ý nghĩ ngổn ngang. Lan phân vân không biết những người có chồng ngoại tình xử trí ra sao? Cô nhớ lúc nhỏ đọc báo, ở Sài Gòn có người tạt acít tình nhân của chồng. Cô tưởng tượng lúc bắt gặp hai đứa trong phòng ngủ, cô dám tạt acít cả hai lắm, nhưng ở Mỹ acít đâu dễ tìm. Hay là khi tìm được con kia, Lan sẽ nhẹ nhàng bảo Biết chuyện cô Cẩm Nhung, (bị tạt acit) báo có đăng ở Sài Gòn trước đây không? Nếu nó không biết tất sẽ hỏi thằng tình nhân (là Tứ). Lúc đó Tứ sẽ về tìm cách dọa nạt cho Lan không làm điều đó, thế là cô sẽ bảo Tứ Hỏi bà Phương bên Vancouver Canada đã làm gì biết không? Và Tứ sẽ nhớ lại chuyện báo đăng một người đàn bà Việt Nam ở Canada cắt chim chồng bỏ vô cầu tiêu giật nước cho trôi mất tiêu, không hy vọng chắp vá gì được cả. Như thế Lan đã cảnh cáo cả hai. Nghĩ vậy Lan hơi yên tâm, nhưng lại tự nhủ, phải làm gấp, cho hai đứa xa nhau sớm, chứ để chúng hẹn hò, ôm nhau rồi thì khó mà dứt ra. Lối cho nhau số điện thoại như thế chứng tỏ chúng nó đã lâu không gặp nhau. Tình cũ không rũ cũng đến, lúc tái ngộ sẽ mùi dữ! Nghĩ đến đó trong đầu Lan lại hiện ra cảnh Tứ ôm con kia hôn hít như đã từng ôm cô, Lan càng sôi gan, tưởng như chuyện đó đã xảy ra rồi, cô lại đạp cho Tứ một cái thật mạnh, Tứ lại hự một tiếng, la lên. – Làm gì zdậy? Điên hả?! Lần nầy Lan không thèm trả lời nhưng thấy cơn giận tạm nguôi, cô trùm mền ngủ. Đến khi nghe đồng hồ reo Lan mới tỉnh dậy, thấy đã mười giờ sáng. Quái lạ, lúc nào cô cũng để bảy giờ, dậy sửa soạn ăn uống cho chồng con rồi đi làm là vừa, sao đồng hồ lại reo lúc mười giờ?. Đúng rồi, Tứ sợ cô dậy cùng lúc có thể sẽ theo dõi hắn, nên vặn cho đồng hồ reo trễ. Sáng nay làm gì hắn cũng hẹn với con kia đi ăn điểm tâm đây, có thể Tứ dậy lúc bảy giờ rủ nhau (ăn, ngủ) cho đã rồi tới sở làm cũng còn kịp chán. Lan thấy buồn đến rã rời người. Vậy là Tứ đã phản bội cô thật rồi. Tự nhiên nước mắt trào ra, và cô ngồi khóc. Lan nghĩ đến mấy câu thường hát ru con, trước kia thấy bình thường, bây giờ nghe thảm não quá. Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh ham vợ bé bỏ bè con thơ. Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Nghĩ đến mấy câu ru em đó, Lan tủi thân khóc nức nở. Khóc chán, cô điện thoại vào sở làm báo đi làm trễ vì bịnh phải đi bác sĩ. Công việc của Lan làm tại sở là xếp lại một số hồ sơ cũ, cô làm giờ nào, ngày nào cũng không ai quan tâm, có khi báo nghỉ vài ba hôm cũng không cần người thay thế và cũng chẳng trở ngại gì cho ai cả. Lan đi rửa mặt, cô soi gương thấy mắt mình mọng và đỏ lên. Bỗng cô chú ý đến nhan sắc của mình và tự hỏi có phải con kia đẹp hơn cô hay nó có gì đặc biệt mà quyến rũ được chồng mình? Hay là Tứ bị nó bỏ bùa?! Kiểu nầy thì tán gia bại sản ngay! Cô hoảng kinh với ý nghĩ đó. Buổi sáng yên tĩnh, các con đã đi học từ sáng sớm, chồng đi làm, Lan ít khi phải đối diện với cảnh trống vắng nầy, vì giờ cô đi làm về cũng là giờ cả nhà đều có mặt, tiếng TV trong phòng các con vọng ra, tiếng nhạc Tứ mở trong phòng khách, và tiếng nồi niêu, chén bát va chạm trong bếp là những âm thanh vui vẻ, hạnh phúc. Lan bỗng có cảm tưởng sự trống vắng hôm nay là bắt đầu cho những ngày tương tự sẽ xảy ra. Biết đâu Tứ lăng nhăng rồi về tìm cách gây gổ, rồi sẽ đưa đến tan vỡ, ly dị. Lan sợ hãi hai tiếng đó. Rồi cô sẽ không được ở trong ngôi nhà nầy nữa. Lan từng nghe những cặp vợ chồng ly dị, thường người chồng có nhiều tiền hơn, nhất là có con tình nhân hỗ trợ sẽ trả một số tiền cho người vợ ly dị coi như chia của để lấy căn nhà và người vợ phải ra đi. Rồi con kia và Tứ sẽ ôm nhau trên giường của cô, sẽ nấu nướng trong bếp của cô. Ý nghĩ đó làm Lan chỉ muốn chết quách cho xong, cô lại ngồi khóc tiếp. Khóc một lúc, cô bình tĩnh lại và tự trấn an mình Đàn ông ai mà chẳng lăng nhăng, coi như chơi qua đường, con nào dại ráng chịu, ăn thua người vợ biết giữ chồng hay không? Nhưng cô không biết giữ chồng cách nào. Lan đọc báo thấy nào là phải dịu dàng, chiều chuộng chồng, nào phải để ý đến bản thân, son phấn, ăn diện cho đẹp, nào là phải quyến rũ, hấp dẫn chồng trong phòng the. Hai tiếng phòng the lại làm Lan lại tưởng tượng đến chồng và con kia sẽ ôm ấp nhau ngay trên giường của mình, máu nóng lại xông lên đầu, cô nghiến răng “Gian phu dâm phụ, cho chết cả hai!”. Bỗng Lan tự hỏi, tại sao mình không mua lấy một khẩu súng, rình theo, hễ thấy hai đứa với nhau mình đến cảnh cáo “Lần sau bắt gặp sẽ bắn chết cả hai!” Có cho vàng chúng cũng phải khiếp vía. Rồi cô tự hỏi. Nhưng rủi chúng không khiếp vía thì sao, có dám bắn không? Cô nghiến răng “Dám bắn! Bắn chết tươi!” Cứ một câu hỏi hiện ra trong đầu Lan thì lập tức có câu trả lời, như thế một lúc thì cô bí lối. Lan thở dài, trang điểm sơ sài và lên xe đi làm. Vừa mệt vưà đói bụng, cô bơ phờ, chỉ muốn nằm lăn ra ngũ giấc nghìn thu cho quên hết sự đời. Chợt cô có sáng kiến cứ giả giọng con kia gọi đến sở làm của Tứ, làm gì Tứ cũng vọt miệng hỏi. “Em Hồng, Cúc, Ngọc, Ngà gì đó phải không?” Thế là cô biết tên đối phương. Lan còn nghĩ ra một sáng kiến nữa là sẽ cho Tứ uống thuốc ngủ, bằng cách hòa thuốc chữa bịnh dị ứng vào nước ngọt, Tứ uống vào sẽ ngủ như chết ngay, cô sẽ mặc sức lục lọi bóp của Tứ, ngửi áo xem có mùi nước hoa, tìm có sợi tóc nào, vết son nào không? Khi đã có chứng cớ rõ ràng thì Tứ không có cách nào chối cãi được. Lúc đó Lan sẽ nói thẳng vào mặt Tứ Nếu không sớm từ nó ra thì tôi sẽ bắn chết cả hai. Ôi đơn giản thế mà cô nghĩ không ra. Nhưng phải nói trúng tên con kia mới chứng tỏ mình biết hết, đừng hòng chối cãi. Vậy phải giả giọng con kia gọi đến Tứ ngay. Nhưng giọng gì? Bắc, Trung hay Nam? Theo Lan thấy, thái độ con nhỏ kia không phải là của người Bắc, người Bắc ăn nói điềm đạm và rất giữ ý, người Nam bộc trực hơn, đúng nó là người Nam rồi. Lan quay số, gọi đến sở làm của Tứ, giả giọng Nam.

– Cho gặp anh Tứ ạ!

– Tứ tôi nghe đây. Xin lỗi, ai ở đầu dây ạ?

– Em đây, anh không nhớ à?

– Tôi có nghe quen quen, nhưng thực tình chưa nhận ra là ai cả!

Lan cúp ngay điện thoại, sợ Tứ nhận ra giọng mình. Vợ chồng bao nhiêu năm, dù giả giọng, nói tiếp vài câu Tứ sẽ biết ngay. Cô hơi yên tâm, Tứ không tưởng là con kia nên không vọt miệng hỏi tên chứng tỏ cả hai chưa liên hệ nhau nhiều. Nhưng tại sao Tứ vặn đồng hồ cho cô dậy trễ? Nhất định phải có nguyên do. Cô phải cho Tứ ngủ say để tìm cho ra chứng cớ để buộc tội Tứ cố tình cho cô dậy trễ để đi với con kia mà không bị nghi ngờ. Lan đã lấy lại bình tĩnh. Khi về nhà cô vẫn làm bổn phận thường ngày là chuẩn bị bữa cơm tối và không quên pha sẵn một ly nước ngọt với thuốc dị ứng để khi Tứ uống vào là ngủ say ngay. Hai cô con gái ra than đói bụng, Lan bảo chúng chờ ba về ăn luôn, nhưng đứa lớn nói.

– Ba gọi về nói sẽ về trễ vì bận việc.

– Mẹ nấu chưa xong, các con chờ một chút!

Tuy nói bình tĩnh nhưng cô đã nghi ngờ. Hẹn hò với nhau đi đâu đây, nhưng đừng hòng qua mặt con nầy. Lan gọi ngay điện thoại vào sở làm của Tứ, nếu không có Tứ ở đó, tức đã đi với con kia. Nhưng chỉ mới reng một tiếng là đầu dây kia đã nghe Tứ nói.

– A lô, Tứ nghe đây.

Lần nầy cô giả giọng Bắc vì giọng Nam gọi lần trước Tứ nhận không ra.

– Em đây, anh không nhớ ra em à?

– Xin lỗi cô tên gì, tôi không nhận ra.

– Anh đoán xem, mới gặp đấy mà, người đâu mau quên thế!

– Ai hè?

Lan cúp ngay điện thoại, cô thấy hơi vui vì mưu kế kiểm soát của mình. Nhưng con nhỏ kia là ai? Thân mật đến độ đó thì ôm nhau lúc nào chẳng được. Trong lúc đang suy nghĩ thì cô con gái đưa cho Lan điện thoại.

– Mạ, có điện thoại.

– A lô Lan đây!

– Lan đó hả, mi? Có biết ai đang gọi mi không?

– Ai rứa hè? Nghe như giọng con Tiểu Hoa!

– Đúng rồi, giỏi lắm! Tao qua đây mấy năm mới có được số điện thoại của mi. Răng mi? Làm ăn ra răng? Nghe nói vợ chồng tụi mi mua nhà rồi hả? Làm chi giàu rứa hè?

– Giàu cái khỉ khô chi mi ơi! Thuê nhà cũng trả chừng đó tiền. Chừ mi đang ở mô, tiểu bang mô?

– Tụi tao mu (move) qua Maryland rồi.

Thế là hai chị đàn bà Huế gặp nhau trên điện thoại, nói chuyện sa đà, linh tinh suốt buổi, cứ líu lo như chim hót, người xứ khác chẳng hiểu được bao nhiêu. Lan và Tiểu Hoa là bạn học lại là hàng xóm, từ trường tiểu học Gia Hội cho đến trường Đồng Khánh đều chung một lớp, lớn lên lấy chồng, các ông chồng cũng là bạn thân với nhau. Thành ra khi có gia đình vẫn cứ rủ nhau đi chợ, ăn quà rong.

– Tao đâu biết mi ở Virginia, hôm qua ăn đám cưới bên tiểu bang mi, nửa chừng ông xã tao say quá, tao phải đưa về nhà gấp, lúc ra gặp ông xã mi đang đứng hút thuốc. Lúc đầu, tao không biết là ai, sau ổng tới phụ đẩy ông xã tao vô xe mới nhận ra, tụi tao mừng quá.

Lan lặng người một lúc lâu.

– Bữa mô mời cả nhà mi qua tao, lâu quá!

– Tao cũng định rứa, nhưng để coi, lâu lâu gọi nhau cũng vui rồi.

– Nhưng răng mi biết số điện thoại của tao?

– Thì bữa đó, ông xã mi cho tao chớ ai.

– À, tao biết rồi. Mệ tổ mi. Rứa mà tao tưởng ổng nói chuyện với con mô, tao nổi ghen, tối về tao đạp cho ổng mấy đạp thất kinh luôn.

– Răng ổng không nói cho mi biết?

– Rứa mới đáng đời ổng. Say quá, ổng quên. Lúc ra, tao thấy, nhưng đâu biết mi! Biết, tao đã chạy tới rồi. Thôi, rứa cái đã hỉ, tao sẽ gọi lại.

Lan tắt điện thoại, quay lại thì Tứ đã đứng sau lưng từ lúc nào rồi.

– À, khi hôm đạp tôi! Nhớ nghe! tối nay phải để tôi đạp lại. Hai lần nghe!

Lan mắc cỡ.

– Ông ni, ăn nói nham nhở!

Rồi cô la lên khi thấy Tứ bưng ly nước.

– Ly nước cam. Đừng uống nghe, có thuốc độc trong đó!

– Cô muốn giết tôi phải không?

– Ừ đó! Răng?

Tứ lầu bầu.

– Có mụ vợ ác ôn như ri thì cũng nên uống ly thuốc độc đó, chết sướng hơn!

– Chơ răng ông vặn đồng hồ cho tôi dậy trễ?

– Uả. Thấy cô lục đục cả đêm, sợ cô mất ngủ sinh bịnh, tôi phải vặn trễ.

Bỗng Tứ ôm cứng vợ và cười mãi. Lan vùng vẫy.

– Buông ra! Điên hả?

– Bộ tôi không biết cô giả giọng người khác gọi tôi sao? Số điện thoại cô gọi hiện rõ trong điện thoại sở làm.

Lan vừa giận vừa tức vì bị Tứ chọc quê nhưng cô vẫn nhìn Tứ cười cười rồi ôm Tứ, tay sờ soạn người Tứ. Tứ cảnh giác nhưng không biết sẽ bị gì? Đột nhiên Lan dùng hai ngón tay kẹp một miếng da hông của Tứ, vặn tréo, răng nghiến lại “Chọc quê tôi! Cho biết thế nào là lễ độ!” Tứ nhảy dựng lên “Ui da! Đau quá! Buông ra!”.

 

Phạm Thành Châu

Views: 71

Khủng Hoảng Kinh Tế Trung Cộng Hiện Nay Và Những Hệ Lụy Nghiêm Trọng

Nguyễn Bá Lộc 

Như nhiều người biết, Trung cộng (TC) đã làm được sự phát triển kinh tế “thần kỳ” trong vòng 40 năm. Từ một nước Cộng sản (CS) nghèo nàn, kinh tế TC sau khi “đổi mới” tiến rất nhanh lên hạng nhì thế giới về mặt Tổng sản lượng quốc gia (GDP), đã giải thoát 800 triệu dân vượt qua được mức nghèo đói (The Week, Sept/23/23), và đóng góp lớn cho kinh tế thế giới. Điều đặc biệt TC không phải chỉ đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, mà TC còn có những tiến bộ về khoa học kỹ thuật.

Nhưng dù có mức phát triển tốt, nhưng bản chất nền kinh tế nầy không bền vững và không có phẩm chất vì được vận hành trong một chế độ độc tài toàn trị, lại có tham vọng lãnh đạo thế giới, nền kinh tế TC đã đi xuống, và gần đây đang bị khủng hoảng.

Trong hoàn cảnh và bối cảnh của TC và thế giới hiện nay, cuộc khủng hoảng kinh tế rất phức tạp, nhiều thử thách cho TC. Nguyên nhân gần và rõ ràng là sự sụp đổ ngành địa ốc, nhưng sâu xa bên trong là từ chế độ, từ bộ máy công quyền, và từ tác động quốc tế.  Đây có thể là một bài học, một suy nghĩ, một kinh nghiệm, cho một số nước, trong đó có Hoa kỳ là quốc gia đang đối đầu với TC, cho Việt Nam, một nước có mô hình chánh trị kinh tế giống TC, và cho một số quốc gia đang phát triển chạy theo TC chánh yếu là vì tiền.

Để hiểu phần nào tình hình phức tạp của thế giới nhiều biến động hiện nay, tôi xin góp ý kiến tóm tắt về vấn đề được nêu ra, và đây cũng là phần bài để cập nhựt khảo luận trước kia về  Chiến tranh lạnh Mỹ-Trung.

I. Hiện tình Khủng hoảng Kinh tế Trung cộng

Cuộc khủng hoảng kinh tế của TC hiện bắt đầu mạnh mẽ từ chỉ độ vài tháng nay, chánh yếu là do sự sụp đổ nhà đất và ngân hàng. Nhưng vấn nạn không phải chỉ giới hạn trong lãnh vực nầy, mà còn lan rộng hơn, sâu hơn tới nhiều lãnh vực kinh tế khác. Cho nên sự khủng hoảng kinh tế tại TC hiện nay phức tạp hơn so với những nước khác. Trong phần nầy có hai mục: Tóm lược tiến trình kinh tế TC và những lãnh vực kinh tế bị sụp đổ hiện nay.

1. Tóm lược tiến trình kinh tế TC từ khi “đổi mới” đến khủng hoảng hiện nay

Trước hết, để hiểu sự khủng hoảng hiện nay của TC, thiết nghĩ cần biết rất tóm tắt các điểm chánh từ khi nước nầy có sự chuyển đổi kinh tế quan trọng. (Chi tiết tôi đã trình bày trước kia).

Tóm tắt hai giai đoạn phát triển:

Giai đoạn thứ nhứt, thời Đặng tiểu Bình và hai Chủ tịch kế tiếp trước Tập cận Bình

Bước 1: Đặng Tiểu Bình (ĐTB) thay đổi mô hình kinh tế chỉ huy qua mô hình kinh tế hỗn hợp tư bản và XHCN (1978). Chủ trương phát triển kinh tế bằng mọi cách để thoát khỏi nghèo đói của chế độ CS. Ý tưởng thực tế của Đặng tiểu Bình điều hướng suốt cả thời kỳ ông và các người kế vị ông trước Tập cận Bình (TCB) là Giang trạch Dân và Hồ cẩm Đào. Hai “huấn thị” sách lược của ĐTB nhiều người còn nhớ là “mèo trắng mèo đen, mèo nào bắt được chuột là tốt”, hay “ẩn mình chờ thời”. ĐTB đã thành công, nhờ ba yếu tố chánh thuận lợi là: thứ nhứt, áp dụng phần“kinh tế thị trường”, thứ hai là nhờ công nhân rẻ, thứ ba là nhờ phong trào Toàn cầu hóa (Globalization) lúc đó phát triển rất mạnh. TC đã đạt mức phát triển cao, 12-14%. Nước Tàu mạnh dần, và cuộc sống người dân khá hơn nhiều.  TC chẳng những được tồn tại và chế độ đứng vững, mà từ đó phát triển các lãnh vực khác như khoa học kỹ thuật, quân sự, khoa học không gian, văn hóa, mà còn có địa vị cao về kinh tế và bang giao quốc tế.

Bước 2: Sau khi ĐTB chết, các người thừa kế ông, Giang trạch Dân , Hồ cẩm Đào, cách tổng quát vẫn theo chánh sách của ĐTB . Tiếp tục chiêu dụ và hợp tác với tư bản khắp nơi, gồm sức mạnh tư bản làm “nội lực” để chờ thời cơ. Trong nước xây dựng nhiều hạ tầng, cơ sở kinh tế qui mô lớn, và ngành địa ốc bùng phát mạnh từ đó. Về tâm lý chiến, TC đem văn hóa cổ truyền phổ biến tại nhiều quốc gia, tạo cho thế giới hiểu mơ hồ về chế độ, và có cảm tình về một nước Tàu mới, sẵn sàng hợp tác với bất cứ quốc gia nào trong tinh thần lưỡng lợi. Kinh tế lúc nầy vẫn tiếp tục mạnh mẽ và ảnh hưởng quốc tế gia tăng.

Giai đoạn thứ hai,  thời kỳ Tập cận Bình (TCB)

Bước 1: Nhiệm kỳ đầu của TCB (2013-2018), TCB thừa kế một tình trạng kinh tế khá tốt và mạnh của một siêu cường thứ hai thế giới. Tuy nhiên, sau đó ít năm, kinh tế TC bị suy giảm, tỷ lệ phát triển xuống chỉ còn trung bình 7%.

TCB bắt đầu nuôi dưỡng cho kế hoạch “bá quyền toàn cầu”, ông tạo một bè phái và củng cố sự độc tôn độc tài.  Theo ông ngày nay TC có đủ sức mạnh, và tiếp theo là khởi dầu cho những đại kế hoạch để đương đầu và thay thế Hoa kỳ trong tương lai. Về phía Hoa kỳ và các nước tự do dân chủ thức tỉnh.

Sách lược TCB có các điểm chánh: Trong nước, khơi lại niềm tự hào dân tộc với “mô hình XHCN có sắc thái Trung hoa”. Đầu tư bung ra ngoài tại nhiều nước trên thế giới. Gia tăng mạnh ngân sách cho kỹ thuật và quốc phòng. TCB nêu rõ mục tiêu đến năm 2035 TC sẽ ngang hàng bằng Mỹ về mọi phương diện.  Viện trợ và khai thác tài nguyên ở nhiều nước từ Á qua Phi và Âu châu, với đại kế hoạch “Belt and Road” (2013, với dự chi $1000 tỷ ), gồm tụ một số nước phát triển mới nổi trong liên minh BRICS  gồm TC, Nga, Ấn độ, Ba tây và Nam phi nhằm muốn tiến tới sự cân bằng với khối G7.  TC tuyên truyền vận động cho mô hình mới “kinh tế XHCN trong thời đại mới” tự cho là đã rất thành công, tốt đẹp hơn mô hình của Tây phương từ lâu nay.

Về đối nội, một mặt có biện pháp kích thích tiêu thụ trong nước gia tăng thêm trong hy vọng kinh tế sẽ bền vững hơn, (hiện tiêu thụ trong nước chỉ có 38% GDP, Hoa kỳ tới 68%). Mặt khác, thì siết chặc an ninh nội chính, đẩy độc tài mạnh hơn nữa bằng nhiều biện pháp cứng rắn.

Qua bước 2 (2017-nay), TCB công khai tiến mạnh thực hiện “mộng bá quyền”. TCB tuyên bố tại Thiên An Môn 2017 rằng sẽ đưa “TC thành một siêu cường và nó sẽ là một mô hình mới cho các nước đang phát triển”, (Telegragh, 08/23/2023). Giai đoạn này có mấy điểm cần lưu ý: TC đầu tư nhiều ở Mỹ và Âu châu trong một số ngành quan trọng, nhứt là kỹ thuật cao. TC xây được một số cảng quan trọng, nhiều tuyến đường xe lửa, xa lộ, ở Á châu và Phi châu. Nhiều nước nghèo, vay TC hàng tỷ mỹ kim xây dựng hạ tầng trong đại kế hoạch Belt & Road. Nhưng 3- 4 năm sau, nhiều nước thất bại (như Sri Lanka, Pakistan, Lào , Miên, Nigeria..) không trả nổi nợ, TC siết nợ bằng cách chiếm khai thác nhiều công trình ở đấy.

Khi TC công khai với thái độ thách thức, Hoa kỳ và đồng minh thức tỉnh, thấy được sự nguy hiểm của TC, đánh trả trên nhiều trên nhiều mặt: kinh tế, kỹ thuật, tình báo, tuyên vận, kết hợp đồng minh cũ và mới trên khắp thế giới, thay đổi kế hoạch viện trợ… Chiến tranh lạnh mới càng ngày càng tăng cường độ, và khởi đầu bằng thương chiến Mỹ Trung (2018). Nhưng sự đương đầu của hai siêu cường tới nay, đã hơn bốn năm, hãy còn dằng co vì quyền lợi kinh tế gắn với nhau của hai bên. Rồi thế giới có biến động mới, vụ TC đòi giải phóng Đài loan, chiến tranh Ukraine, và gần đây là chiến tranh Israel- Hamas.

Những sự kiện biến động nêu trên, từ trong nước và trên thế giới trong những năm qua, có tác động làm cho TC và Hoa kỳ yếu đi. Và chuyện phải đến đã đến, TC bị khủng hoảng kinh tế như hiện nay.

2. Những lãnh vực kinh tế bị sụp đổ hiện nay 

Cuộc khủng hoảng kinh tế dù từ lãnh vực chánh thì rồi cũng ảnh hưởng tới các lãnh vực khác, nhứt là tại quốc gia độc tài có cách vận hành cứng rắn, thì sự giải quyết rất khó khăn. Tóm tắt các lãnh vực đang bị suy sụp:   

Tổng thể .  Tỷ suất phát triển: Tam cá nguyệt 1/2023: 2.2%, tam cá nguyệt 2/2023: 0.88%, trong khi đó chỉ tiêu nguyên năm là 5% , ước lượng năm nay chỉ có thể đạt 3% (UPI Sept/7/23). Nhìn lùi lại quá khứ, tỷ suất phát triển kinh tế 20-30 năm trước rất cao 12-14%, từ 1990-2012, rồi giảm xuống còn 8% từ sau 2015, các năm tiếp theo chỉ còn 6%, 2022 chỉ còn 3%, 2023 về sau theo đà nầy có lẽ nhỏ hơn 3%.

Một khó khăn khác của TC hiện nay là nền kinh tế bị giảm phát (deflation), có tác dụng làm trì trệ thêm sản xuất và tiêu thụ. Hiệu suất đầu tư nội địa rất thấp, tỷ lệ 9/1, nghĩa là phải bỏ ra $9 mới thu về $1, trong khi tỷ lệ trung bình của đa số nước là 4/1 (The Telegragh Sept/23).

Địa ốc và ngân hàng.  Đây là lãnh vực bị sụp đổ mạnh nhứt, nó bị lung lay từ 3 năm nay. Gần đây sụp đổ rất nặng, hiện có 80 triệu căn nhà chung cư bị bỏ trống (The Week 9/2023), và hàng triệu căn nhà đang xây cất còn dang dỡ không có hy vọng bán được trong tương lai. Tình trạng nầy trầm trọng hơn sụp đổ về nhà đất của bất cứ nước nào. Trị giá địa ốc TC chiếm tới 25% tổng sản lượng quốc gia (GDP), một tỷ lệ quá cao, nên khi nó bị suy sụp là ảnh hưởng mạnh đến toàn bộ nền kinh tế (CNN 8/2023). Công ty địa ốc lớn nhứt nhì là Evergrande hiện có số nợ vay ở ngân hàng là $332 tỷ mỹ kim, đã khai phá sản (Wall Steet Journal, June/2023), một công ty lớn khác là Country Garden đang được tái cấu trúc nợ $11 tỷ mỹ kim. Và còn hàng trăm công ty địa ốc khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Ngành này bị suy yếu từ 2021, càng ngày càng xấu hơn . Yếu tố là vì số cung nhà đất quá cao so với cầu. Chắc các công ty địa ốc và nhà đất tư nhà đất lẻ đã biết trước. Nhưng cung và cầu dưới cái nhìn và quan điểm TC có nhiều điểm khác. Và cứ xây thêm. Trong khi đó kinh tế từ 2020, có nhiều khó khăn từ sản xuất trong nước lẫn xuất cảng . Đa số dân không đủ khả năng mua nhà mới để ở, còn những người mua nhà để đầu tư thì khựng lại trong cảnh u ám chung nầy.

Sự sụp đổ thị trường nhà đất kéo theo sự sụp đổ ngân hàng. Vì các công ty địa ốc khai phá sản vì nợ cũ không thu được từ người mua nhà, mà nợ mới vay ở ngân hàng xây cất thêm bán nhà mới không có người mua. Số nhà mới bán ra giảm 22% trong quí 1/2023 so với cùng thời kỳ năm ngoái (The Economist Sept/23).

Trong kinh tế vĩ mô, địa ốc là ngành chủ lực của TC, vì nó dễ đầu tư (chớ không phải dễ bán), tiền bạc đất đai chánh phủ nắm cả, thực hiện thì có “tư sản đỏ”, hơn nữa ngành này đóng góp tới 25% GDP. Về kinh tế chánh trị, tăng GDP nhanh chóng, tạo ra kích thích dân chúng và cho nhiều nhà đầu tư ngoại quốc. Mặt khác quan trọng hơn, trong chế độ độc tài toàn trị thì ngành địa ốc đem lại cơ hội to lớn nhứt để đảng viên cán bộ tham nhũng. Vì vậy, chánh quyền yểm trợ mạnh ngành này.  Cho nên khi ngành địa ốc sụp, ngân hàng đổ theo, nợ của các công ty địa ốc lên tới $29 ngàn tỷ mỹ kim. Mà tình trạng nợ tại TC vốn đã quá cao (300%/GDP)(The Diplomat 8/2023), nay sự sụp đổ tài chánh ngân hàng làm khối nợ xấu tăng quá nhanh. Không phải chỉ trong ngành địa ốc và hạ tầng cơ sở mà ảnh hưởng xấu qua nhiều lãnh vực kinh tế khác.

Tình hình nhà đất và ngân hàng ở TC nay rất u ám, thiệt hại nhiều cho kinh tế. Chánh quyền có gần đây có gói cứu trợ tạm thời $585 tỷ, chánh yếu là bôm tiền để tăng tín dụng, và hạ lãi suất để kích thích tiêu thụ. Nhưng giải quyết nầy chưa đủ, khó khăn lớn còn đó.

Về đầu tư ngoại quốc và nhân dụng . Đầu tư ngoại quốc (FDI) là một bước căn bản và thành công của TC trong mấy thập niên trước khi phong trào toàn cầu hóa mở rộng. Nay tình hình va chạm giữa TC và nhiều nước, FDI giảm nay chỉ còn $20 tỷ trong quí 1/2023, cùng thời kỳ này năm 2022 là $100 tỷ (The Week), một số công ty ngoại quốc rút ra khỏi TC trở về cố hương hoặc đến các nước Đông Nam Á do tình hình kinh tế và do luật lệ TC ngày càng khó, FDI giảm 22% so với năm rồi, một phần do Mỹ cấm một số công ty giao dịch với công ty TC vì có liên hệ an ninh. Tới nay có tới 9000 công ty TC bị Tây phương không còn giao dịch (Telegragh Sept/23).

Thất nghiệp tăng, 21% lao động trẻ thất nghiệp. Về nhân dụng TC còn gặp khó khăn khác là sau 40 năm số lao động trẻ bây giờ già đi, là một trở ngại cho đầu tư nói chung và cho gánh nặng an sinh xã hội.

Về xuất cảng và thị trường quốc tế. Xuất cảng là lãnh vực quan trọng quan trọng nhứt của kinh tế TC để giải quyết lao động dư thừa của những thập niên trước. TC thu vào số ngoại tệ rất lớn và là sức mạnh cho kinh tế TC sau nầy. Xuất cảng là một cột trụ chánh của TC (40% GDP).

Xuất cảng TC gần đây bị giảm liên tục 4 tháng liền, và còn tiếp tục xuống nữa, xuất cảng chung bị giảm 27.5% trong  tháng 7/2023 so với tháng 7/22 (Reuters Sept/7/23). Xuất cảng qua Mỹ giảm 9.5% trong tháng 4/23 ((UPI 9/7/23). Cách tổng quát hàng TC bị giảm trong mấy năm qua, vì tiêu thụ giảm và một số chuỗi cung ứng TC nắm gần như độc quyền bị thay thế dần.

Trong nội địa, thị trường hàng hóa và dịch vụ từ thành thị tới thôn quê ở TC ngày nay bị suy giảm khá mạnh vì tình hình chung, đặc biệt vì biện pháp đóng cửa để kiểm soát đại dịch. TC hiện gặp phải tình trạng ngược là bị giảm phát (deflation). Mãi lực giảm phần vì thu nhập ít đi, và niềm tin của dân chúng giảm, khoảng cách giàu nghèo càng ngày càng lớn, bất công xã hội càng nhiều.

II. Nguyên do Khủng hoảng Kinh tế TC hiện nay

Lịch sử kinh tế thế giới cho biết nguyên do khủng hoảng và hậu quả tại mỗi nước có nhiều khác biệt. Tại TC hiện nay khủng hoảng như trình bày tóm tắt trên có những nguyên nhân phức tạp,  có thể tóm tắt gộp chung lại thành ba loại nguyên do chánh yếu. Đó là:

1. Từ yếu tố kinh tế khách quan.

Là những yếu tố kinh tế có tính nguyên tắc tác động gây ra bất quân bình về vĩ mô, hay làm guồng máy kinh tế chạy không bình thường, làm kinh tế bị khủng hoảng. Các nguyên nhân có tính nhứt thời và cũng có nguyên nhân căn cơ có từ lâu .

TC không đi theo đúng nguyên tắc kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường là phần quan trọng của mô hình đổi mới kinh tế TC. Đó là nguyên tắc quân bình tự động cung cầu. Về nhà đất nêu trên, cung quá cao trong khi cầu thấp và thu nhập không gia tăng nhanh như mức độ xây nhà mới. Nếu theo đúng kinh tế thị trường thì các công ty bất động sản phải luôn luôn theo dõi cân bằng cung cầu. Chớ không phải để tình trạng kéo dài hàng chục năm. Khi áp dụng mô hình kinh tế thị trường XHCN, TC cũng như VN chỉ cho tự do các hoạt động kinh tế cấp thấp, nhỏ, và không quan trọng, còn phần chánh phần gốc của nền kinh tế vẫn phải chịu sự hoạch định và chỉ huy của đảng và nhà nước.

Sự quản lý tài chánh công bừa bãi, kém hiệu quả, và mất mát nhiều.

Trong chế độ độc tài CS thì khối tài sản công đủ loại rất lớn. Nhứt là ở các khâu: phần phân bổ, xử dụng và in tiền thêm khi cần, người dân không có quyền tham dự. Nhà nước chi tiêu quá lớn cho ngân hàng hay cho đầu tư công, khi bị khủng hoảng tài chánh thì công nợ lên cao và khả năng cứu vãn càng khó hơn. Một phần cũng do sự kiểm soát công chi không hữu hiệu, từ khâu chuẩn chi, tới khâu thực hiện công tác, đến hậu kiểm. Bộ máy độc tài toàn trị, chẳng những yếu kém mà còn cấu kết nhau để tham nhũng.

Hiệu quả đầu tư quốc nội yếu kém.

 Sau một thời gian phát triển nhanh nhờ kinh tế đối ngoại, thì thông thường, để có tình trạng bền vững và có chất lượng, thì sự chấn chỉnh cải thiện đầu tư trong nước là rất cần thiết. Ở TC trong nhiều thập niên nay, dù có chút ít tiến bộ, nhưng nói chung hiệu quả đầu tư của tư sản nội địa và quốc doanh còn rất yếu, trừ một số ít đại công ty của tư sản đỏ hay quốc doanh trá hình. Vì nhiều lý do, hiệu suất đầu tư trong nước gần đây là 9/1, nghĩa là phải bỏ ra $9 mới thu về được $1, trong khi hiệu suất trung bình tại nhiều nước là 4/1. Hiệu suất đầu tư yếu làm cho mức độ tái phát triển yếu.

Hoạch định vĩ mô không xác thực .  

Ở đây muốn nói đến kế hoạch quốc gia. Xin nêu ra hai đại kế hoạch: Hạ tầng cơ sở và kế hoạch nhân dụng.

Xây dựng hạ tầng cơ sở là nhu cầu thiết yếu cho phát triển. Nhưng nếu chánh quyền lạm dụng quá sẽ thành tai hại hay không cần thiết. Ở TC có rất nhiều cầu cống, cảng, đường xe lửa, khu đô thị rất vĩ đại, dĩ nhiên rất thu hút rất đáng ca ngợi. Ở đây muốn nói cái quá đáng, tổn phí quá cao, mà thực tế hữu dụng còn thấp, ví vụ cầu dài ngoài biển, đảo nhân tạo, cầu treo rất dài qua núi…trong lúc đất nước còn có nhiều nhu cầu xây dựng khác ở vùng xa xôi. Ví dụ khác như đại kế hoạch Belt & Road, TC bỏ ra $1000 tỷ mỹ kim viện trợ, cho vay và đầu tư tại hơn 150 nước thành viên ở Á châu, Phi châu, Âu châu, trong đó có mục tiêu bành trướng bá quyền toàn cầu của TCB. Nay kế hoạch nầy bị thất bại tại nhiều nơi, chánh yếu là các nước nghèo và tham nhận quá nhiều viện trợ, sau đó không có khả năng trả nợ. TC bị mất một số không nhỏ tiền bạc đã bỏ ra. Đại hội Belt & Road kiểm điểm 10 năm sẽ họp vào 17 tháng 10 này.

Kế hoạch nhân dụng là phần quan trọng khác. TC ngày nay thiếu công nhân trẻ vì cái “chánh sách một con”. Và sau khi đất nước phát triển, không điều chỉnh kịp thời.

Mãi lực và niềm tin dân chúng thấp .

Lợi tức đầu người ở TC nói chung có khá so với 30 năm trước ($12,000/ đầu người, 2022), nhưng nó vẫn còn rất thấp so với các nước phát triển, trong khi đó nhu cầu của mỗi người dân nhiều hơn theo tiến bộ kinh tế, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng. Mãi lực dân chúng nay thấp xuống vì kinh tế khó khăn. Một mặt chánh quyền luôn hạ giá đồng yuan để tăng xuất cảng.Tình hình kinh tế xấu đi, dân không có niềm tin ở chánh sách đường lối của chánh quyền, như biện pháp zero- covid có quá nhiều tai hại cho mỗi người. Người dân bây giờ phải tự lo, tự liệu, tự hạn chế tiêu thụ, nhứt là mua nhà cửa quá lớn lao, thường chiếm tới 70% thu nhập gia đình.

Tóm lại, từ yếu tố kinh tế khách quan có rất nhiều nguyên nhân tác động tạm thời cũng như về lâu dài cho cuộc khủng hoảng hiện nay.

2. Từ bản chất độc tài XHCN

Từ nguyên tắc “công hữu”,

tức là đất đai, tài nguyên thiên nhiên đều thuộc quyền sở hữu nhà nước. Chính nguyên tắc nầy cho phép chánh quyền từ trung ương tới địa phương, quyền tuyệt đối phân chia, thu hồi đất đai tại những khu vực rất có giá và giao cho tư sản đỏ để cấu kết với cán bộ có quyền rồi xây nhà bán cho dân. Thực tế, chúng đã xây cất quá nhiều vì lòng tham hơn vì cung cầu, nên không cần quan tâm đến số cầu và hệ quả đầu tư.

Từ chế độ độc tài,

người dân không có quyền trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào sự phân bổ và quản lý tài chánh công, gồm mọi nguồn: thu thuế, viện trợ, bán tài sản, tiền lời quốc doanh, công trái. Tích sản càng ngày càng lớn, dân đâu có biết và không có quyền biết. Nhà nước cứ chia cho các cơ quan từ trung ương tới địạ phương. Đầu tư và lãnh vực nào có lợi nhứt cho sự giàu có đảng viên là cứ hoạch định và thực hiện. Địa ốc và hạ tầng cơ sở là lãnh vực ngon nhứt.  Kế đó là thành lập nhiều ngân hàng công cũng như hợp doanh, từ đó bày ra nhiều chương trình kinh doanh khác. Nợ nần tăng nhanh, không cần biết. Khi bị khó khăn, nhiều công trình dang dở, nợ xấu tăng, rồi khai phá sản. Tiền nhà nước và tiền dân bị mất. Đâu có đảng viên nào thua lỗ cả, họ còn chuyển tiền ra ngoại quốc nhiều hơn, khi kinh tế trong nước có khó khăn.

Từ bộ máy công quyền.

Trong chế độ XHCN bộ máy công quyền là công cụ của chế độ. Ở đây chỉ nói riêng mặt nhân sự của bộ máy đó là một sai trái và tệ hại cho mọi thứ tài sản quốc gia. Cách tuyển dụng, đào luyện và bổ nhiệm viên chức cán bộ trung ương tới địa phương theo một chiều cùng một cách, chỉ có đảng viên leo lần lên chức cao, bằng lo lót ngay trong nội bộ. Cho nên đảng viên cấu kết là chuyện dễ dàng, và rất tự nhiên, mục đích không phải phục vụ mà là để tham nhũng. Một phần tiền lớn tham nhũng chuyển lậu ra ngoại quốc, số tiền nầy không đem lại lợi ích kinh tế cho TC. TC là nước rửa tiền bất hợp pháp lớn nhứt.

3. Từ sự tranh chấp quốc tế  

Nguyên nhân thứ ba này làm cho TC khó khăn hơn nhiều. TC chỉ có thể áp dụng chế độ độc tài trong xứ mình, chớ đâu có thể xử dụng nhiều chiêu trò ma giáo đó với các nước. Hơn nữa, có nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, không có nghĩa TC ngày nay đương nhiên là siêu cường thứ hai trên thế giới về mọi lãnh vực. Để bảo vệ quyền lợi trước hết cho chính mình và sau đó cho cả khối dân chủ tự do. Sau khi TCB công khai chống Hoa kỳ và Tây phương thì TC nhận sự phản ứng khá mạnh. Những đương đầu lại TC mà chúng ta đã biết trong bốn năm qua trên các mặt trận mậu dịch, đầu tư, kỹ thuật, quân sự, văn hóa, ngoại giao. Trừ sự đụng độ quân sự, các mặt trận kia có tác dụng, dù chưa đủ mạnh, nhưng cũng đã gây khó khăn và cảnh báo cho TC .

Bây giờ kiểm điểm sơ qua kết quả những phản công của Hoa kỳ và đồng minh có tác dụng gây thêm suy yếu cho TC trong vài năm gần đây.

Cán mậu dịch chưa cải thiện bao nhiêu, nhưng cụ thể xuất cảng TC giảm sụt. Đặc biệt các chuỗi cung ứng công nghệ cao và nguyên liệu dược, Hoa kỳ và đồng minh dần dần chủ động

Các công ty Hoa kỳ, Nhựt.. đã và sẽ rút một phần về cố quốc hay chuyển sang các quốc gia Đông nam Á.

Hoa kỳ và gần đây Cộng đồng Âu châu phát hiện và cấm công ty Mỹ làm ăn với một số khá lớn công ty TC vì lý do an ninh.

Hoa kỳ kết hợp được nhiều đồng minh mạnh hơn bao giờ hết, trong mục tiêu và chiến lược kinh tế, ngoại giao và an ninh nhằm bao vây và đánh trả TC trên khắp thế giới nhứt là ở Á châu Thái bình dương.

Về phương diện tâm lý chiến, ngày nay chánh quyền, dân chúng và truyền thông Hoa kỳ và đồng minh coi TC là thù địch, là mối đe dọa lớn cho dân chủ tự do và nhân quyền trên thế giới.

Dĩ nhiên, TC là một cường quốc, nó có nhiều chiêu trò để vừa thủ vừa tấn công lại Tây phương.

Chiến tranh lạnh có chiều hướng căng thẳng hơn, nhứt là qua một số biến cố mới trên quốc tế như đã trình bày ở phần trên. Cả hai bên đều có thiệt hại. Sự tranh chấp quốc tế là một trong những nguyên nhân, và một yếu tố, làm kinh tế TC bị khủng hoảng hiện nay. Vì kinh tế đối ngoại của TC hết sức quan trọng, chiếm 40% GDP. Mặt khác nhờ kinh tế đối ngoại mạnh mà TC có những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhanh chóng, có tầm cở quốc tế, từ đó phát triển quân sự, một điều rất cần thiết để thực hiện “Giấc mộng Trung hoa”.

III. Những Hệ lụy nghiêm trọng từ Khủng hoảng kinh tế TC

Cuộc khủng hoảng kinh tế nào cũng có hậu quả xấu cho kinh tế, chánh trị và xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở TC chỉ mới xảy ra, nên có thể chưa thấy hết được mọi hệ lụy của nó. Nhưng với mô hình kinh tế khá đặc biệt, với chế độ chuyên chính, và trong khung cảnh thế giới đầy bất ổn hiện nay, chúng ta có thể nhận ra được phần nào các hệ lụy nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng nầy. Có hai điểm xin tóm tắt ở phần này: Các Hệ lụy chánh yếu và Vài nhận định.

1. Những Hệ lụy nghiêm trọng

Cho chính TC:   Theo tin tức từ ngoại quốc, thì cuộc khủng khủng hoảng có hệ lụy khá nghiêm trọng cho TC. Về đối nội, sự mất mát cả ngàn tỷ mỹ kim từ sự sụp đổ địa ốc và ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế quốc nội, vì địa ốc chiếm hơn 25% GDP. Nhứt là ngành ngân hàng, sự mất mát xáo trộn ngân hàng ảnh hưởng ngay tới mọi lãnh vực, từ sản xuất đến tiêu thụ trong nước cũng như ngoài nước.

Cuộc khủng hoảng này làm cho những kế hoạch lớn của TC như Belt & Road, BRICS, Kế hoạch 2025, kế hoạch 2035 gặp trở ngại nhiều hơn trong tương lai.

Về mặt đối ngoại, sự khủng hoảng cho thế giới, nhứt là các nước đang phát triển, hiểu biết cụ thể mô hình kinh tế TC không phải ưu việt, cần phải suy nghĩ . Những điều TCB nói rất nhiều lần TC là một mẫu mực cho các nước đang phát triển, giờ đây phải xem lại. Hơn thế nữa, dân chúng tại nhiều quốc gia, ngày nay xem TC là đối lực nguy hiểm, không còn là bạn tốt, nếu điều này lâu dài, sẽ là một mất mát lớn nhứt cho dân tộc Trung hoa. Về phương diện cạnh tranh kinh tế, TC đang gặp các khó khăn càng ngày càng lớn từ tác động bên ngoài. Và vì sự đầu tư và hợp tác TC với các công ty kỹ thuật cao nước ngoài nay bị bể hay bị thu hẹp, có phần nào ảnh hưởng không tốt cho nền kỹ thuật TC.

Cho Hoa kỳ :   Dù khủng hoảng kinh tế của TC hiện nay chưa sâu đậm, chưa tỏa rộng mạnh trên toàn cầu, nhưng vì TC là cường quốc số hai về kinh tế, lại là đối thủ vừa là đối tác lớn với Hoa kỳ, trên cả ba mặt : kinh tế, giá trị học thuyết chánh trị và bang giao quốc tế. Cho nên Hoa kỳ vừa vui vừa lo. Vui là đối thủ bị trúng đòn phần nào, nghĩa là sự phản công của Hoa kỳ và đồng minh là đúng.  Dù tương lai chưa biết ai thắng ai. Nếu không đi tới một thỏa thuận cho hai bên, thì cả Hoa kỳ và TC đều có những thiệt hại. Và mặt khác, khi kinh tế TC suy giảm thì kinh tế thế giới yếu đi, và tác dụng ngược cho kinh tế Hoa kỳ và các nước có thể đi tới suy thoái khác. Khi TC có khó khăn lớn trong nước thì nó sẽ gia tăng gây tác động quậy phá an ninh chánh trị quốc tế nhiều hơn.  Trật tự thế giới đang có khó khăn sẽ có biến động nhiều hơn nữa .

Cho Việt Nam.     Những tiêu cực và khó khăn của TC hiện nay là vấn nạn cho VN trong tương lai không xa. Vì VN rất giống TC từ kinh tế đến chánh trị và văn hóa. Nền kinh tế VN vốn không bền vững, yếu kém và bấp bênh hơn TC nhiều. Hướng đi và cách thức giống như TC trong ba mươi năm qua nằm dưới sự chỉ đạo và kèm kẹp mọi thứ mọi mặt kinh tế tài chánh ngoại giao, an ninh, làm cho CSVN rất khó thoát khỏi bàn tay độc ác của TC. CSVN cần suy nghĩ nhiều hơn về sự thoát ra phần nào sự lệ thuộc TC. Mấy năm gần đây, CSVN có nghiêng phần nào qua Hoa kỳ tìm chút cân bằng và gở chút thế kẹt với TC. Nay, sự khủng hoảng kinh tế TC có hệ lụy lớn đến VN về mọi mặt ngoại thương, công ty Tàu tràn qua VN nhiều hơn, VN kẹt nợ nhiều hơn, nhứt là an ninh ở biển đông VN bị Tàu siết chặt và bị rắc rối hơn.

CSVN hơn ai hết hiểu rõ các khuyết điểm của mô hình kinh tế TC mà VN đi theo như bóng với hình. Nhứt là các mưu tính, các tệ hại mà viên chức cán bộ chỉ vì sự sống còn của đảng và sự giàu có của đảng viên. Sự suy sụp kinh tế TC có thể làm cho đảng viên CSVN tham nhũng nhiều hơn để nhanh chóng gởi tiền ra nước ngoài.

Đối với dân chúng VN, thì đa số quá nghèo, nếu một cuộc khủng hoảng như TC xảy ra thì họ sẽ có khó khăn thêm về cuộc sống, giá cả gia tăng, thất nghiệp nhiều hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh các khó khăn , VN có một hy vọng là nhờ bên Tàu có khó khăn , và sự tranh chấp quốc tế, VN sẽ có cơ hội đón nhận đầu tư ngoại quốc nhiều hơn.

ChoThế giới.   Như chúng ta biết trong mấy thập niên qua, nhứt là trong thời kỳ toàn cầu hóa phát triển cao độ, TC đóng góp nhiều cho kinh tế thế giới gia tăng và ổn định, trung bình cũng 4-4.2%/năm. Nay TC bị suy yếu kinh tế nó tác dụng mạnh lên đầu tư, xuất cảng và tiêu thụ của hầu hết mọi quốc gia. Đối với một số quốc gia đang phát triển trong nhiều thập niên, cũng có nhiều cái lợi là tiêu thụ nhiều loại hàng hóa giá rẽ, và thực hiện được nhiều công trình lớn do TC bỏ tiền cho vay hoặc đầu tư trực tiếp, tạo ra nhiều việc làm ở những nơi đó. Dĩ nhiên là bên cạnh đó, các nước đang phát triển theo TC phải chịu một số thiệt hại khác như chủ quyền quốc gia, bị TC khai thác tài nguyên cạn kiệt, và bị kẹt những món nợ to lớn không cách nào trả nỗi, và tham nhũng mà TC “xuất cảng”làm ung thối xã hội.

 Nay kinh tế TC bị khủng hoảng mức độ phát triển trên thế giới năm nay và năm tới, theo ước tính của các chuyên viên, chỉ còn khoảng 2.5%- 2.7%. Mà khi thế giới có suy thoái kinh tế thì loạn lạc, tệ trạng xã hội, suy thoái đạo đức chánh trị, có nhiều cơ hội và điều kiện nẩy nở thêm.

2. Vài suy nghĩ và nhận xét

Tình trạng khủng khoảng kinh tế TC hiện nay có thể cho chúng ta một vài suy nghĩ và từ đó có thể rút ra một số bài học, có thể là bài học cũ nhưng với một số dữ kiện và hoàn cảnh mới, hầu cố gắng xây dựng một cộng đồng thế giới an bình hơn. Sau đây là vài suy nghĩ trong hiểu biết hạn chế, tôi xin có mấy điểm sau đây:

Về Mô hình kinh tế TC  . Có tên gọi “Kinh tế XHCN Thị trường tự do” (Socialist Free Market Economy hay Socialist Market Economy), hình thành từ 1978, là sự kết hợp hai nền kinh tế tự do và XHCN. Tự nó đã có nhiều mâu thuẩn, vì nửa tự do nửa thì hoạch định. Nó là một mô hình hoàn toàn mới. Nhưng TC đã thành công trong thời gian khá dài. Cho nên có nhiều thắc mắc, có một số nhà nghiên cứu có nhận định là phát triển kinh tế vẫn có kết quả tốt đâu cần tới môi trường Dân chủ.

Mặt khác TCB luôn hô hào ca ngợi mô hình kinh tế mới của TC là tốt nhứt. Kinh tế phát triển nhanh, bền vững, thực tế và công bằng.

Bây giờ, qua khủng hoảng kinh tế nầy là nhiều người xem xét lại, suy nghĩ lại mô hình kinh tế TC. Nó không phải là tốt mà nó thành công trong thời gian nào đó trên một số lãnh vực nào đó. Các thành phần kinh tế tư doanh chỉ có được tự do ở những hoạt động nhỏ và cấp thấp, cấp trên cao, và phần quan trọng của nền kinh tế, thì đảng và nhà nước độc quyền nắm hết. Các thành phần và tác nhân kinh tế rời rạc, thiếu kết nối chặc chẽ, cho nên khi bị bể dễ bị đỗ nát hay ít nhứt hỗ trợ nhau kém hiệu quả. Mặt khác mô hình kinh tế đó bị phí phạm mất mát quá nhiều, phần lớn do sự cố ý của cán bộ viên chức và sự bất lực của người dân.

 Về Chế độ độc tài và phát triển quốc gia. Chế độ độc tài không phải mới mẻ, nó có từ lâu, tại nhiều nước. Nhưng các “chế độ độc tài kiểu cũ” thì không thành công về kinh tế và tạo nhiều bất công xã hội. Nhưng khi TC vẫn duy trì một chế độ độc tài toàn trị mà lại thành công về kinh tế khá tốt, dù chưa biết đường dài ra sao, thì có rất nhiều nhà ngiên cứu ngạc nhiên, trong đó người cho rằng: “kinh tế phát triển tốt đâu cần phải có dân chủ”. Điều nầy đi ngược lại với các lý thuyết của những nhà kinh tế khá nổi tiếng khoảng 50 năm trước là “tự do dân chủ kinh tế có tác dụng hỗ tương và thuận chiều với tự do dân chủ chánh trị”. Chẳng hạn qua nhận định: “ Cách tổng quát Dân chủ tạo ra cơ hội tốt hơn cho phát triển”(United nation, Chronicle, Dân chủ và Phát triển), ở bài khác  “Dân chủ đem tới sự phát triển lâu dài và bền vững”(North 1093).

Về Niềm tin của dân chúng và ổn định kinh tế. Trên thế giới đã có rất nhiều nước bị khủng hoảng kinh tế, có khi là đơn độc, có khi là dây chuyền trên thế giới, có khi do chính mình gây ra, có khi do từ bên ngoài tác động. Nhưng dù mức độ khủng hoảng cở nào , dù do nguyên nhân nào, dù có phục hồi được bình thường hay không, thì niềm tin của dân chúng với chánh sách kinh tế quốc gia, với chế độ cụ thể, luôn là yếu tố cần thiết quan trọng cho sự phát triển bền vững, trong mọi giai đoạn khởi dầu sơ khai , hay lúc lúc mở rộng thật tốt đệp và nhứt là lúc có khó khăn. Niềm tin đó, một là của quần chúng với chánh trong nước, và một thứ niềm tin rộng hơn là của dân chúng một nước đối với chánh sách một nước khác.

Sự suy thoái kinh tế cách rõ rệt hiện nay của TC là một xác nhận rằng chế độ độc tài độc đảng nhận gặp phải hai sự mất niềm tin. Một là từ dân chúng trong nước. Hai là từ người tiêu thụ và nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy mà khó khăn nhiều hơn lên.

Về trật tự thế giới mới (New World Order).  Như nhiều người nghĩ sự đương đầu Mỹ – Trung hiện nay, có thể dẫn tới một sự thay đổi trật tự thế giới hiện nay do Hoa kỳ là “độc bá quyền”. TC và đồng minh cho rằng mô hình hiện nay có nhiều bất công và không hữu hiệu cần phải thay thế bằng mô hình mới tốt hơn hợp lý hơn. Trong diễn văn chấp nhận nhiệm kỳ II (2017), TCB nói “Mô hình TC đem lại một hệ thống điều hành xã hội tốt hơn cho các nước muốn tăng tốc độ phát triển mà vẫn được độc lập”, “Bốn mươi năm thực thi đã đạt thành công hoàn toàn TC muốn chia sẻ kinh nghiệm về phát triển  cho đa số các nước đang mở mang hầu canh tân xứ sở”(Council on Foreign Relations, 3/2023).

Nhưng công việc thay đổi một Trật tự thế giới không phải dễ. Muốn lên “độc bá”  “lưỡng bá” thì quốc gia đó phải có ưu điểm trội yếu ít nhứt về bốn mặt: sức mạnh kinh tế, giá trị chánh trị, giá trị văn hóa văn minh, và sức mạnh quân sự. Hiện nay thì TC chỉ có sức mạnh về kinh tế và quân sự. Mà nay kinh tế bị lung lay. TC vẫn còn muốn hướng tới thay thế hay cân bằng với Hoa kỳ thì phải một là tích trữ thêm sức mạnh, hai là kết hợp thêm đồng minh cách vững chắc và đàng hoàng hơn, mà tới nay chỉ là một số nước độc tài hay nước chạy theo độc tài vì quyền lợi cá nhân lãnh tụ .

Chính vì vậy chưa biết Trật tự thế giới sẽ biến đổi thế nào, nhưng thực tế có nhiều xáo trộn hỗn loạn trong khu vực hay trong các tổ chức thế giới.  Trong tương lai gần, thế giới chắc sẽ còn nhiều tranh giành, những đụng độ trên nhiều lãnh vực, có khi đầy máu lửa như ở Ukraine hơn năm qua, và ở Israel trong gần đây.

Một thế giới hòa bình, không hận thù, hòa hợp và tiến bộ luôn là ước mơ của mọi người mà đường đi không trọn vẹn.

Nguyễn Bá Lộc

(Email: locba9999@yahoo.com)

Cali 15/10/2023

Views: 58

Tưởng Nhớ Một Trí Thức Miền Nam Việt Nam Giáo Sư Nguyễn Duy Xuân, Tổng Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục Kiêm Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ.

Triệu Huỳnh Võ (ĐS 6)

Vào mùa Xuân năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội phá bỏ Hiệp Định Ba Lê, đã được ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973, xua quân tổng tấn công xâm chiếm miền Nam Việt Nam, giữa lúc miền Nam Việt Nam bị Mỹ chấm dứt viện trợ quân sự và rút hết binh sĩ Mỹ về nước, trong khi họ vẫn được Nga Tàu chi viện mạnh mẽ. Hậu quả là sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam sụp đổ, toàn thể đất nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau đều nằm dưới quyền cai trị của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội.

Chỉ một thời gian ngắn sau khi tiếp thu Miền Nam, họ ra lệnh cho tất cả viên chức từ trung cấp trở lên trong guồng máy hành chánh, quân sự, và đảng phái đi trình diện tại các trung tâm được chỉ định, để rồi sau đó sẽ tiếp chuyển đến các trại tù khổ sai lao động, dưới ngụy danh là trại “Học Tập Cải Tạo”, được thiết lập ở những nơi rừng sâu nước độc, từ trong nam ra bắc đến tận biên giới Việt Trung. Thông cáo kêu gọi những thành phần phải ra trình diện trại “Học Tập Cải Tạo” có yêu cầu mỗi ngườiphải mang theo tiền đủ trả chi phí ăn uống trong một tháng với dụng ý để mọi người lầm tưởng thời gian họ bị bắt buộc “Học Tập Cải Tạo” chỉ kéo dài một tháng thôi.

Trong thực tế, thời gian bị “Học Tập Cải Tạo” kéo dài vô tận đã khiến cho vô số người phải bỏ mạng vì đói rét, kiệt sức, thiếu thuốc men, bịnh tật, và trong số các nạn nhân đó đã bao gồm Giáo sư Nguyễn duy Xuân, một Trí Thức mẫu mực ở Đồng Bằng Sông Cữu Long miền Nam Việt Nam.

GS Xuân sinh năm 1925 tại quận Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ và là cựu học sinh College de Cantho, tiền thân của trường Trung học Phan thanh Giản. Sau khi đậu bằng Thành chung (Diplôme), ông sang Pháp du học, tốt nghiệp Cử Nhân Kinh Tế. Ông tiếp tục học chương trình Hậu Đại Học ở Anh và đậu bằng Cao Học về Kinh Tế. Sau đó ông theo học tiếp tại Đại Học Vanderbilt, ở Tiểu bang Tennessee của Hoa Kỳ để lấy bằng Master và PhD về Kinh Tế. Đề tài Luận án Tiến sĩ của ông là Tín Dụng Nông Nghiệp.

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, GS Xuân đã giữ các chức vụ:
-Tùy viên Báo chí, Phủ Thủ Tướng kiêm Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã trong Nội Các của Thủ Tướng Nguyễn ngọc Thơ.
– Tổng Ủy Trưởng Phủ Tổng Ủy Hợp Tác Xã và Nông Tín.
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, ông là:
-Tổng Trưởng Kinh Tế trong Nội Các của Thủ Tướng Nguyễn văn Lộc.
– Cố vấn Kinh Tế cho Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu trong chức vụ Phụ Tá Đặc Biệt.
– Viện Trưởng Viện Đại Học (VĐH) Cần Thơ từ năm 1971-1975.
– Tổng Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục kiêm nhiệm Viện Trưởng VĐH Cần Thơ trong Nội Các của Thủ Tướng Nguyễn bá Cẩn, được thành lập vào ngày 14 tháng 4 năm 1975, thay cho Thủ Tướng Trần thiện Khiêm vừa từ chức.

Vào những ngày cuối cùng của tháng Tư năm 1975, vị Tùy Viên Văn Hóa của Tòa Đại sứ Mỹ có đến gặp GS. Xuân, đề nghị đưa ông rời Việt Nam, nhưng ông đã từ chối vì không muốn bị qui trách là đã rời bỏ nhiệm sở trong khi thi hành nhiệm vụ.

Sau đó, cũng như mọi cấp chỉ huy trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, GS Xuân đến trình diện tại Trường Nữ Trung Học Gia Long ở Sài Gòn để vài ngày sau được chuyển đến Làng Cô Nhi Long Thành thuộc Tỉnh Biên Hòa.Đây là nơi giam giữ tất cả những người ra trình diện, tại các địa điểm được chỉ định trong vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định và phụ cận. Tại đây họ được phân loại theo mức độ tội phạm nặng nhẹ để được chuyển tiếp đến trại giam khác, nên chỉ vài tháng sau GS. Xuân lại bị chuyển tiếp về Trại giam Thủ Đức chung với những người từng giữ các chức vụ cao cấp trong các Phủ Bộ của chính phủ, các lãnh tụ đảng phái chính trị, Dân biểu Nghị sĩ Quốc Hội, chỉ huy cao cấp của cơ quan Cảnh sát và Tình báo.

Vào giữa năm1976, GS. Xuân cùng toàn thể tù nhân ở trại giam Thủ Đức được cho chuyển hết ra Bắc. Tù nhân, từng cặp được còng tay đưa lên xe bít bùng chở ra phi trường Tân Sơn Nhất, để sau đó được chuyển thẳng đến phi trường Gia Lâm ở Hà Nội trên hai chíếc máy bay vận tải C130 của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Toàn thể tù nhân sau đó được di chuyển bằng xe chở khách đến trại tù Hà Tây, thuộc Tỉnh Hà Sơn Bình và trại tù Nam Hà thuộc Tỉnh Hà Nam Ninh. GS Xuân được về trại Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 20 cây số.

Trong thời gian bị giam cầm ở Miền Bắc, người tù Miền Nam bị buộc phải lao động khổ sai, và GS Xuân bị xếp vào đội Sản Xuất Gạch. Đây là đội cực nhọc nhất trong các đội lao động của trại tù Hà Tây. Người tù trong đội nầy phải xuống ao lấy đất sét, ngay cả những ngày giá buốt nhất của mùa đông, đem lên nhào nặn cho nhuyễn để nén vào máy ép thành gạch sống, rồi dùng xe cút kít chuyển ra sân phơi khô. Tiếp đến, họ phải gánh vào lò để nung bằng than đá, rồi sau đó phải gánh ra với tiêu chuẩn mỗi người phải đạt được từ 1200 đến 1500 viên gạch trong ngày (mỗi viên nặng hơn một kí lô vì là gạch đặc, không phải gạch ống của miền Nam, và nếu không đạt mức tiêu chuẩn thì khẩu phần ăn trong ngày của tù nhân sẽ bị cắt giảm). GS Xuân, tuy là người cao tuổi nhất trong đội, vẫn phải còng lưng lao động khổ sai như những người tù trẻ mà đa số, nguyên là các sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bị giam từ các trại tù gần biên giới Hoa Việt mới được chuyển về đây trước tin Tàu cộng sắp tấn công vào sáu tỉnh ở biên giới.

Mùa đông của năm 1977 và các năm sau đó ờ miền Bắc quá khắc nghiệt, khi nhiệt độ ban đêm ở trại tù có lúc xuống gần 0 độ C. Dù thời tiết lạnh nhưng mỗi buổi sáng, khi cửa buồng giam được mở để cho người tù có một thời gian ngắn ra hồ nước làm vệ sinh cá nhân trước khi đi lao động khổ sai, thì GS Xuân và Luật sư Trần văn Tuyên, nguyên là Chủ tịch khối Dân Biểu thuộc nhóm Dân Chủ Xã Hội trong Hạ Viện, dùng giây phút ngắn ngủi nầy đề tắm giặt. (Luật sư Tuyên đã mất tại Trại tù Hà Tây nầy vì bị đứt mạch máu ở não). Ngoài việc chịu đựng sự giá rét của mùa Đông, GS Xuân cùng với những người tù khác, còn phải chống chọi với việc ăn uống thiếu thốn và bịnh tật vì thiếu thuốc men. Kỷ sư Hóa học Phan thông Thảo, nguyên Chủ tịch đảng Tân Đại Việt và là người tù cùng buồng giam, đã chua xót than thở: “chúng ta đã trở thành loài thú ăn thịt sống rồi,vì lúc nầy chúng ta tự ăn thịt chúng ta để được sống còn .”

Khoảng tháng 9 năm 1979, thân nhân người tù miền Nam được phép cho gửi quà tiếp tế và đi thăm nuôi. Lúc đó, GS Xuân chưa nhận được quà của gia đình từ bên Pháp gửi mà chỉ nhận được quà của bà chị ruột ở Ô môn gửi vào. Chính nhờ nhận được sự tiếp tế hoặc thăm nuôi kịp thời của gia đình mà những người tù miền Nam, trong đó có GS Xuân, được tiếp tục sống sót.

Kiếp sống lao động khổ sai trong đội Sản Xuất Gạch của GS Xuân tiếp tục kéo dài cho tới khoảng năm 1981 thì ông được bổ sung vào Tổ Dịch Thuật của trại. Tổ Dịch Thuật cũng gồm các tù nhân gốc quân đội giỏi tiếng Anh và tiếng Pháp, có nhiệm vụ dịch các tài liệu và sách tiếng Anh hoặc tiếng Pháp nói về Chiến tranh Việt Nam, cung ứng cho giới lãnh đạo quân sự ở Hà nội. Đây cũng là một dạng khai thác tinh vi khác của bọn cai tù, họ khai thác tiếp chất xám của trí tuệ thay vì sức lao động của người tù.

Đến năm 1983, toàn bộ tù nhân ở trại Hà Tây được chuyển về trại Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. GS Xuân vẫn tiếp tục ở trong Tổ Dịch Thuật. Các năm sau đó, GS Xuân bắt đầu nhận được quà và thuốc men của gia đình bên Pháp cũng như được ngưởi em trai, cựu dân biểu Nguyễn long Giao, thăm nuôi và tiếp tế sau khi ông em nầy được ra khỏi tù. Nhưng cũng trong khoảng thời gian nầy, đặc biệt là vào mùa đông năm 1986, GS Xuân bắt đầu bị nổi những chấm đỏ trong người và trên mặt mà các thuốc uống và thoa ngoài da đều không kết quả. GS Xuân quay qua tự trị theo thuốc Nam bằng cách nhờ tù nhân lao động bên ngoài trại tìm và nhổ nguyên rễ rau dền gai để ông phơi khô rồi nấu nước uống.

Chứng phong ngứa của GS Xuân vẫn không thuyên giảm. Chung quanh cổ của ông bắt đầu xuất hiện vài cục bướu nhỏ sờ vào thấy cứng như hạt gạo. Theo sự chẩn đoán của bác sĩ Trương như Quýnh, nguỵên giám đốc bịnh viện Đô Thành Sàigòn, trông coi bệnh xá ở đây, dưới quyền một bác sĩ của trại tù Nam Hà, thì GS Xuân đã bị bịnh Hodgkins, một loại ung thư về các hạch tuyến phát triển bất bình thường. GS Xuân có được trại tù cho chuyển ra bệnh viện Phủ Lý để khám nghiệm. Họ cũng xác nhận ông bị bịnh Hodgkins, rồi sau đó lại cho về trại tù trong ngày. Bịnh tình của ông mỗi ngày một nặng thêm khi các hạch ở cổ bắt đầu di căn xuống bao tử và gan khiến ông nhiều lần bị ngất xỉu phải đưa xuống bệnh xá cấp cứu. Sau cùng trại phải chuyển ông xuống nằm hẳn ở bệnh xá để tiện việc cấp cứu.

Trong thời gian GS Xuân trở bịnh nặng ở bệnh xá, tù nhân Phạm hữu Trung, nguyên là Thiếu Tá Cảnh sát, tình nguyện xuống bệnh xá chăm sóc suốt ngày đêm cho ông và được ban giám thị Trại đồng ý, sau khi họ nhận được quà biếu xén của anh em tù trong trại. Khoảng tháng 10 năm 1986, theo sở nguyện của ông, GS Xuân được Thượng tọa Thích thanh Long, nguyên Giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo cũng đang bị giam giữ tại đây, làm lễ quy y cho ông với pháp danh Thanh Lương Địa. Cũng vào lúc đó, trước tin GS Xuân đuối sức vì không thể ăn hoặc uống nước được nữa, bà GS Phạm hoàng Hộ (vợ của vị Viện Trưởng Viện Đại Học tiền nhiệm) đã gửi ra hai lọ nước biển, Morin Amin, chứa dinh dưỡng đậm đặc để truyền qua máu vào cơ thể thay thế thức ăn. Lúc đầu, bác sĩ cộng sản của trại không cho phép dùng, nhưng vài ngày sau đó, khi thấy GS Xuân sắp bắt đầu đi vào tình trạng hôn mê, thì bác sĩ nầy mới đồng ý cho dùng. GS Xuân hồi tỉnh lại được một ngày, nhưng đến 4 giờ khuya ngày 17 tháng 12 năm Bính Dần, tức là ngày 16 tháng 1 năm 1987, GS Xuân trút hơi thở cuối cùng.

Sáng hôm sau, cũng qua hình thức quà cáp cho bọn cai tù, vị tù Tuyên úy Phật giáo Sư đòan 7, thầy Ngự cùng hai vị Thượng tọa Thích thanh Long và Thích thiện Chính đã xuống được bệnh xá tụng kinh tiễn đưa ông theo đúng nghi thức của Phật giáo.Thi thể của ông lúc lâm chung, sau gần hai tháng không ăn không uống được, đã bị co rút lại và toàn thân ông đen sạm như pho tượng đồng đen.

Việc chôn cất GS Xuân được trại giao cho đội tù hình sự phụ trách, và các tù chính trị miền Nam không được phép tiễn đưa. Họ chỉ có thể đứng tại cổng khu buồng giam, nhìn cảnh hai tù hình sự khiêng quan tài GS. Xuân đem chôn trên đồi hoang mà lòng ngậm ngùi thương xót cho sự ra đi thầm lặng và chua xót của GS. Xuân, một Trí Thức ưu tú và mẫu mực đã bỏ mạng vì sự trấn áp triệt để và chế độ giam cầm khắc nghiệt của bạo quyền cộng sản Hà Nội đã giành cho những người tù Miền Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Đến năm 2015, ái nữ của GS Xuân, từ bên Pháp về, mới thực hiện được việc bốc mộ cho cha, rồi hỏa táng và đem tro cốt của ông về thờ tại chùa Thiên Hương tại Quận Bình Thạnh, Sài Gòn.

Sacramento, ngày 15 tháng 2 năm 2023.
Triệu huỳnh Võ
(Một người tù, sinh năm 1937 ở Cần Thơ, tốt nghiệp Thủ Khoa khóa 6 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn năm 1962, chức vụ sau cùng trước năm 1975 là Phụ Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng Bộ Dân Vận-Chiêu Hồi Việt Nam Cộng Hòa, đã từng bị giam cầm chung với GS.Xuân trên 12 năm qua các trại Cải Tạo Long Thành, Thủ Đức, Hà Tây, và Nam Hà.) 

Arc of Memory, National Monument, Canada – Memorial to the Victims of Communism.

Remembering An Intellectual Of South Viet Nam Professor Nguyễn Duy Xuân, Minister Of Culture And Education And Concurrently Dean Of The University Of Cần Thơ

In the Spring of 1975 the Communist authorities in Ha Noi decided to shred the Agreement on Ending theWar and Restoring Peace in Viet Nam that was formally signed by all the parties in Paris, France on January 27, 1973 and sent a massive military force to invade South Viet Nam in direct violation of the Accords. It happened at a time when the Republic of Viet Nam (RVN) was being abandoned by the United States of America having already withdrawn all its troops and fast ending all assistance to the country and while North Viet Nam (NVN) was continually receiving massive assistance from Russia and China. This brought about the collapse of the Government of the RVN on April 30, 1975, and the entire country from Nam Quang Pass to the Cape of Cà Mau was under the control of the Communist authorities in Hà Nội.

Shortly after they occupied South Viet Nam the Hà Nội authorities ordered all officials from mid-level and up in the government, armed forces and political parties to report to designated centers. Those officials were then sent to hard labor camps disguised as “re-education” camps. Those camps were set up in remote and inhospitable locations from the south all the way to the north, even in the border area between Viet Nam and China. The announcement ordering those officials to report and later sent to the reeducation camps informed them to only take with them enough money to pay for one month’s expenses for food, thus leading them to believe that the re-education period would be only one month.

In reality the re-education period lasted much, much longer, causing many prisoners to die of starvation, poor health, diseases due to lack of medicine. Among those prisoners was Professor Nguyễn Duy Xuân an exemplary intellectual from the Mekong River Delta of South Viet Nam. Professor Xuân was born in 1925 in the district of Ô Môn, province of Cần Thơ. He studied at a high school named Collège de Cần Thơ, subsequently renamed Phan Thanh Giản High School. After graduating with his Diplôme he went to France and graduated with a License (Bachelor) in Economics. He then went to study the UK and obtained a Masters in Economics, after which he went to Vanderbilt University in Tennessee, USA from which he graduated with a Masters and a Ph D in Economics. His Ph D thesis was about Agricultural Credit.

He went back to South Viet Nam and served in various capacities in the government of the First Republic (1955-1963), namely – Press Attaché at the Office of Prime Minister Nguyễn Ngọc Thơ, and concurrently Director General of Viet Nam Press, the official news agency of the Government; – General Commissioner, General Commission of Cooperatives and Agricultural Credit In the Second Republic he was -Minister for Economy under Prime Minister Nguyễn Văn Lộc, the first government of the Second Republic; – Special Assistant for Economic Affairs to President Nguyễn Văn Thiệu; – Dean of Cần Thơ University from 1971 to April 1975 – concurrently Minister for Culture and Education in the Cabinet of Prime Minister Nguyễn Bá Cần from April 14 to April 28, 1975 having replaced Prime Minister Trần Thiện Khiêm.

Towards the end of April 1975 the Cultural Attaché of the US Embassy in Saigon had approached Professor Xuân and invited him to leave the country. Professor Xuân refused to leave because he did not want to be accused of abandoning his post. After the Communist takeover, like many officials, Professor Xuân reported to the center at Gia Long Girls High School in Saigon and was sent to another center at the Long Thành Orphanage in Biên Hòa province. This is the internment center for all officials who had reported at the various designated centers in the Greater Saigon-Chơ Lớn-Gia Định area. Here they were grouped in categories according to their “crime activity level” from high to low, and then sent to various hard labor camps. Professor Xuân was subsequently sent to the Thủ Đức Detention Center along with other officials who had held high level positions in the government, leaders of political parties, Deputies and Senators in the National Assembly, and commanding officers in the Police and Intelligence organizations.

In mid-1976 Professor Xuân and the entire population at the Thủ Đức Detention Center were sent to North Viet Nam. The prisoners, shackled in pairs, were transported in fully covered military trucks to Tân Sơn Nhất airport and then flown in two former RVN Air Force C 130 planes directly to Gia Lâm airport, in Hà Nội. All the prisoners were then transported in public buses to the Hà Tây Hard Labor Camp in Hà Sơn Bình province and the Nam Hà Hard Labor Camp in Hà Nam Ninh province. Professor Xuân was sent to the Hà Tây Hard Labor Camp, about 20 kilometers (12 miles) from Hà Nội.

In their time of incarceration at those prisoners’ camps in North Viet Nam the prisoners from the South were doing hard labor, and Professor Xuân was included in a unit responsible to make bricks. This is the harshest work unit in the Hà Tây Hard Labor Camp. Here the prisoners had to go the pond to get the clay, even on extremely cold days in the winter. Then they had to mold the clay till it becomes pliable to be pressed into soft bricks by machines, and then taken in wheelbarrows to dry out in another area. The prisoners then had to carry the bricks to coal-fired ovens, then take them out once dried, with each prisoner meeting the production target of 1200 to 1500 bricks a day. A brick as produced in North Viet Nam weighed then more than one kilogram (more than 2 pounds) because it was a solid brick instead of the lighter “hollow” brick made in South Viet Nam. If a prisoner did not meet his assigned production quota then his food ration for the day will be reduced! Professor Xuân, though the oldest person in his work unit, had to do the same back-breaking hard labor like his much younger fellow prisoners, the majority of them being former officers in the RVN Armed Forces who had been interned at the hard labor camps along the China – Viet Nam border and had to be relocated because the Chinese were going to attack the six provinces along the border.

The 1977 winter and subsequent ones in North Viet Nam were very harsh, with temperatures at the hard labor camps as low as zero degrees Celsius (32 F). Each morning, in extreme cold weather, as soon as the door of the cell was opened the prisoners had a short time to wash and do personal hygiene in the pond area before doing the hard labor. Professor Xuân and Lawyer Trần Văn Tuyên, formerly Head of the Social Democrat group in the House of Deputies, took advantage of the short time allowed to wash. (Lawyer Tuyên died at the Hà Tây Hard Labor Camp of a ruptured blood vessel in the brain). Besides enduring the harsh winter Professor Xuân and his fellow prisoners also had to put up with scarce food rations and diseases due to lack of medicament. Chemical Engineer Phan Thông Thảo, Head of the New Đại Việt party, and Professor Xuân’s cell mate, had bitterly complained that “we have become animals that have to eat meat to survive because at this time we eat ourselves in order that we may survive”.

At the beginning of 1979 family members of the prisoners were allowed to send gifts packages and to visit the prisoners. At that time Professor Xuân did not receive any gifts packages from his own family in France but from his older sister then living in Ô Môn District. Prisoners from the South, including Professor Xuân, managed to survive thanks to those gifts packages and the visits by family members who also brought food and other necessities. Life as a laborer in Professor Xuân’s Bricks Production work unit continued until 1981 when he got transferred to the Translation Unit of the hard labor camp. The Translation Unit had former military officers of the RVN Armed Forces who were very proficient in English and French. They were charged with translating documents and books in English or French about the Viet Nam War to send to the Communist military leaders in Hà Nội. This was another clever exploitation by the prison wardens as they leveraged the intellectual capability and prowess in lieu of the labor capability of the prisoners. In early 1983 all the prisoners at the Hà Tây Hard Labor Camp were transferred to the Hà Nam camp in Hà Nam Ninh province where Professor Xuân continued working in the Translation Unit. In the following years Professor Xuân received gifts and medicament packages from his family in France and was visited by his younger brother, Deputy Nguyễn Long Giao when the latter was released from the hard labor camp.

However, it was at that time, particularly beginning in the winter of 1986, that Professor Xuân began to develop eczema and have red dots on his body and on his face that oral medicine and topical ointment could not cure. Professor Xuân turned to oriental medicine and asked prisoners having work details outside the hard labor camp to pick the amaranth plants, roots and all, so that he could dry them out then make infusion to drink. Professor Xuân’s eczema and rash did not disappear. Around his neck began to appear a number of tumors as hard as grains of rice. A fellow prisoner, Dr Trương Như Quýnh, former Head of the Saigon Hospital and working under a doctor from North Viet Nam in charge of the hospital at the hard labor camp, diagnosed that Professor had contacted Dr Hodgkin’s Disease, a type of cancer due to the abnormal growth of ganglions, The labor camp authorities allowed Professor to be examined at the Phủ Lý city hospital, and there the medical staff also confirmed that Professor Xuân had Hodgkin’s Disease and immediately sent him back on the same day to the hard labor camp. Professor Xuân’s condition worsened as the ganglions metastasized to the stomach and liver causing him to faint many times and had to be rushed to the camp’s infirmary for emergency treatment. Finally, the prison authorities had to admit Professor Xuân to the camp’s hospital for better treatment.

During Professor Xuân’s stay at the camp’s hospital, fellow prisoner Phạm Hữu Trung, a former Major in the RVN Police Force volunteered to be at the hospital to care for him day and night. The prison wardens agreed to that request only after they received “gifts bribes” from the prisoners at the camp. By October 1986, per his wish Professor Xuân got the Reverend Thích Thanh Long, a fellow prisoner and former Chief of the Buddhist Chaplains in the RVN Armed Forces, to perform the rites for him to become a Buddhist monk with the name of Thanh Lương Địa. At that same time, upon learning of Professor Xuân’s deteriorating health and the fact that he could not eat or drink. Mrs. Phạm Hoàng Hộ, the wife of Professor Phạm Hoàng Hộ who had been Dean of Cần Thơ University before Professor Xuân, sent him two bottles of saline solution, Morin Amin, that contained concentrated nutrients to be injected into his blood system in lieu of food. In the beginning the Communist doctors at the hard labor camp did not allow this type of treatment, and only relented a few days later when they saw that Professor Xuân was comatose. Professor Xuân recovered for one days; however, at 04:00 am on January 16, 1987 he gave his last breath. The next morning, after giving some more gifts bribes to the prison wardens, Buddhist Reverend Ngự , former Buddhist Chaplain of RVN Armed Forces 7th Division, with the assistance of two other Buddhist Reverends, Thích Thanh Long and Thích Thiện Chính performed the last Buddhist rites for Professor Xuân at the hard labor camp’s infirmary. On his death and having not eaten or drunk any water for two months Professor Xuân’s body had shrunk considerably and was as black as a bronze statue.

The burial of Professor Xuân was done by a team of common criminals at the hard labor camp and the political prisoners from the South were not allowed to witness and say their final good goodbye to a fellow prisoner. They could only line up at the door of the cell where Professor Xuân had been incarcerated and watch with deep sorrow as two common criminals carried Professor Xuân’s coffin to be buried on a remote hill outside the hard labor camp. They could not contain their tears at the silent yet bitter death of Professor Xuân, a superb and exemplary intellectual from the South who died because of the brutal suppression and harsh incarceration which the tyrannical communist authorities in Hà Nộ i had reserved for the political prisoners from South Viet Nam after April 30, 1975.

It was not until 2015 that Professor Xuân’s daughter could return to Viet Nam from France to exhume her father’s bones, had then cremated and took the ashes for veneration to the Thiên Hương Buddhist temple in Bình Thạnh district of Saigon.

Sacramento February 15, 2023
Triệu Huỳnh Võ
A political prisoner, born in 1937 in Cần Thơ, graduated in 1962 as valedictorian of the 6th Class of the RVN National Institute of Administration, with the last position in the RVN Government as Special Assistant, with rank of Vice Minister, to the Minister for Mass Mobilization and Open Arms, and had been incarcerated with Professor Xuân for 12 years successively at the so called Re-Education Camps of Long Thành, Thủ Đức, Hà Tây and Nam Hà.

Arc of Memory (cận cảnh- công trình kiến trúc đang xây dựng) Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản tại Ottawa, Canada

À La Mémoire D’un Érudit De La République Du Viêt Nam Le Professeur Nguyễn Duy Xuân, Ministre De L’éducation Nationale, De Concours Avec Les Fonctions De Recteur De L’université De Cần Thơ

 
Au printemps de l’année 1975, les dirigeants communistes du Nord Việt Nam, avec l’intention d’annulerle traité de Paix qu’ils ont signé le 27 Janvier 1973, et avec le plein support de leurs alliés Russo Chinois,ont donné l’ordre à leurs Forces Armées d’envahir, par un déferlement torrentiel, la République du Sud Việt Nam, abandonnée à elle seule, privée de l’aide financielle – militaire américaine; les États Unis d’Amérique ont déjà fait rapatrier leurs troupes.

En conséquence, la République du Sud Việt Nam s’écroule come un Château de Cartes le 30 Avril 1975.Tous les habitants du pays, du poste de la frontière septentrionale de “Ải Nam Quan” jusqu’à la Pointe de Cà Mau, limitant l’extrême mérional du pays, toute la population du Sud Việt Nam se rétrouvait sous les verroux. Les dirigeants du Nord communiste de Hà-nội, dans un laps de temps, après avoir pris les rênes du pouvoir, donnent l’ordre aux officiels du Sud Việt-Nam, civiles (du rang de Chef de Service jusqu’au rang de Ministre) et militaires (du grade d’officier sulbaterne jusqu’au grade de Général) de se présenter aux autorités communistes pour être envoyés de force, par la suite, dans des camps de rééducation (alias des bagnes pour les prisonniers des travaux forcés ou prisonniers intemporels pour les prisonniers de moindre importance), localisés du Sud au Nord du pays, jusqu’à la frontière entre le Việt-Nam et la Chine, et dans tous les recoins du pays, d’ordinaire au fond des forêts ou dans des lieux malsains òu sévissent des maladies contagieuses ou mortelles.

Selon l’annonce officielle du nouveau Régime communiste, postée pour le public, tous les officiels de la République du Sud Việt Nam, doivent se présenter aux autorités communistes, nantis d’une somme d’argent équivalente au prix de la nourriture individuelle pour un mois. C’est une sorte de truchement de mots que les sournois communistes du Nord Việt Nam ont voulu réserver une surprise aux gens crédules du Sud Việt Nam qui croient ferme que la durée de la rééducation ne dure qu’un mois. En réalité, la durée de la rééducation n’a pas de limite. Ce qui fait que beaucoup de prisonniers ont péri dans cet enfer, souffrant de la faim et du froid, épuisés par manque de médicaments et de soins médicaux. Profeseur Nguyễn duy Xuân, un examplaire érudit du delta du Sud du Mekong, se trouvait parmi ces victimes.

Né en 1925, de la Province de Cần Thơ, district de Ô Môn, Professeur Xuân est un ancien élève du Collège de Cần Thơ, une ancienne appellation du Lycée Phan Thanh Giản. Ayant reçu son Diplôme, il a été envoyé en France et en Angleterre pour continuer ses études où il a reçu une License Française en Économie et une Maitrise en Économie. Après cette période Professeur Xuân a décidé de s’inscrire à l’Université de Vanderbilt, en Tennessee (aux États Unis d’Amérique) où il a reçu la Maitrise et le titre de PhD en Économie. La thèse qu’il soutenait était “Crédit Agricol”.
Sous la Première République du Président Ngô đình Diệm, Professeur Xuân a assumé les fonctions de:
Attaché de Presse du Premier Ministre Nguyễn ngọc Thơ, de concours avec les fonctions de Directeur Général du Viêt Nam Presse; Haut Commissaire pour les Coopératives et le Crédit Agricol.

Sous la Deuxième République du Président Nguyễn văn Thiệu, Professeur Xuân a assumé des fonctions suivantes:
Ministre de l’Économie Nationale du Premier Ministre Nguyễn văn Lộc,  Conseiller particulier du Président Nguyễn văn Thiệu pour les Affaires Économiques, Recteur de l’Université de Cần Thơ depuis 1971 à 1975, Ministre de l’Éducation Nationale, de concours avec les fonctions de Recteur de l’Univesité de Cần Thơ dans le Cabinet du Premier Ministre Nguyễn bá Cẩn, en remplacement du Ministère de Trần thiện Khiêm, à partir du 14 d’Avril 1975.

Aux derniers jours d’Avril 1975, l’Attaché pour les Affaires Culturelles de l’Ambassade Américaine est venu inviter Professeur Xuân à quitter Việt Nam; mais ce dernier a refusé, parce qu’il n’a pas voulu d’ être accusé d’abandon de poste. C’était la malchance ou le destin qui a envoyé Professeur Xuân dans le bagne des travaux forcés à perpétuité des communistes du Nord.

Après la chute de la République du Sud Việt Nam, Professeur Xuân devait se présenter aux nouveaux gouvernants communistes comme d’autres de ses collègues. La première étape de leur “ Chemin de la Croix” est Le “Collège de Gia Long”, une institution pour l’éducation des jeunes filles au Sud Việt Nam à Saigon. Cette étape ne dure que de quelques jours où les internés se préparent à être dirigés peu après à l’ancien Orphelinat de Long Thành, un grand camp de rééducation nouvellement établi, à 30 kilomètres de Saigon, pour un triage de tous les internés politiques. C’est là que sont regroupés tous les détenus politiques.

Après un triage minutieux au camp de rééducation de Long Thành, Professeur Xuân et certains autres considérés comme des prisonniers de haute trahison étaient transférés dans un autre camp de rééducation aux environs de Thủ Đức, District de Saigon, où ils étaient rejoint par d’autres contingents d’internés composés d’anciens officiers de la police, des gens venus d’anciennes organisations chargées des Services d’espionage et de contre-espionage, des representatives et des sénateurs du Parlement, des chefs des Partis Politiques… etc de la République du Sud Việt Nam.

Vers le milieu de l’année 1976, tous ces prisonniers sont convoyés au Nord Việt Nam par des avions cargos C130. Ils sont d’abord poussés, menottes aux poignets, dans des camions hermétiques, faits pour le transport des prisonniers dangereux pour l’International Communiste. Ces malheureux sont amenés à l’aéroport de Tân Sơn Nhứt où des avions cargos C130 sont déjà alignés sur la piste d’envole, prêts à décoller avec ces deportés de choix qui sont liés ensemble deux par deux, avec menottes aux poignets, jusqu’à leur arrivée à l’aéroport de Gia Lâm, à Hà-nội. À Gia Lâm, les déportés étaient amassés dans des autocars et transportés au camp de rééducation de Hà Tây, province de Hà Sơn Bình et au camp de rééducation de Nam Hà, Province de Hà Nam Ninh, pour purger leurs peines, tout en performant des travaux forcés. Professeur Xuân était muté au Camp de Hà Tây, à 20 kilomètres de Hà-nội.

Le temps qu’ils étaient détenus au Nord Việt Nam communiste, les détenus politiques de la République du Sud Việt Nam devaient se conformer aux règlements très stricts. Professeur Xuân était assigné dans la section de fabrication de briques. C’est une des sections la plus laborieuse et la plus acharnée de travaux forcés dans le camp de Hà Tây. Selon le standard de production imposé par les dirigeants du camp de Hà Tây, chaque prisonnier devait produire chaque jour un grand nombre de briques, y compris le temps qu’il avait à patauger, de bon matin, dans la boue glacée des fosses bourbeuses pour en extraire des blocs d’argile, les pétrir et en faire des morceaux de briques (de plus d’un kilogramme pour chaque brique), d’après un mule de bois du camp, les faire sécher au soleil et les faire cuire au four. Toute violation concernant le rendement de la production des briques de chaque jour est sujetté à une réduction de la ration alimentaire quotidienne du prisonnier fautif. Professeur Xuân, le plus âgé dans la section, devait accomplir son travail forcé comme d’autres de ses collègues. Ils étaient des jeunes officiers de l’Armée du Sud Việt Nam, nouvellement repliés des autres camps de réeducation localisés trop près de la frontière septentrionale, en risque d’une délivrance venue du côté des communistes chinois.

L’hiver de l’année 1977 comme celui des années suivantes, était pour les prisonniers déportés venant du Sud Việt Nam (d’une région de climat tempéré) une perturbation physique catastrophique, sans compter la pénurie d’aliments et le manque de médicaments et de vêtements qui pouvaient aider ces prisonniers dépaysés d’être au chaud, dans une ambiance de température de moins de zéro degré centigrade. Tous ces facteurs contribuaient à la décimation du nombre considérable des prisonniers politiques de la République du Sud Việt Nam.

Chaque jour, Professeur Xuân aimait avoir un brin de conversation avec l’avocat Trần văn Tuyên, pendant quelques minutes de leur toilette matinale malgré la température glacée d’hiver. L’avocat Tuyên était le chef du Parti Social-Démocrate au Parlement de la République du Sud Việt Nam. Il succombait d’un coup de sang au cerveau (stroke), au camp de Hà Tây quelque temps après. En dehors du froid rigoureux, les déportés devaient combattre la famine, le manque de médicaments et de vêtements appropriés pour lutter contre le froid. Un ingénieur de Chimie Phan thông Thảo, chef du Parti “Tân Đại Việt”, un déporté lui même, a dit piteusement : “nous sommes devenus des carnivores parce que nous sommes en train de manger notre propre chair pour survivre”.
Aux environs de Septembre 1979, les prisonniers du Sud Việt Nam étaient permis de recevoir des colis postaux de ravitaillement de leurs familles. Professeur Xuân ne pouvait en recevoir de sa famille en France, mais seulement quelques uns de sa soeur, habitant à la délégation d’Ô Môn, province de Cần Thơ. C’est grâce à ces colis de ravitaillements que les prisonniers déportés au Nord Việt Nam, pouvaient encore survivre dans des bagnes atroces du Nord Việt Nam communiste.

Professeur Xuân continuait ce labeur de fabrication de briques jusqu’en 1981, date où il était assigné au groupe de traducteurs du camp. C’était un regroupement d’anciens officiers de l’Armée de la République du Sud Việt Nam ayant une grande connaissance de langues étrangères (en Anglais et en Français) capable de traduire des livres en anglais ou en français concernant la guerre au Việt Nam, recherchés par les autorités militaires de Hà-nội. C’était là une sorte d’exploitation de la matière grise, au lieu de l’exploitation de la force physique des prisonniers déracinés venant du Sud.

Vers l’année 1983, la totalité des prisonniers déportés du Sud Việt Nam du camp de Hà Tây devait être transférée au camp de rééducation de Nam Hà. Professeur Xuân commencait à recevoir du ravitaillement en vivre et en médicament de sa famille de France. En plus, l’ancien député du Parlement de la République du Sud Việt Nam, Nguyễn long Giao, son propre frère qui venait d’être libéré d’un autre camp de réeducation est venu le voir.

C’était pendant cette période de l’hiver de 1986 que Professeur Xuân a commencé à avoir des éruptions des petits furoncles rouges sur le visage et sur tout le corps, dont aucune sorte de pommade ou de médicament ne pouvait guérir. Le Docteur en Médecine Trương như Quýnh, ancien Médecin Chef de l’Hôpital Central de Saigon, un déporté lui même, a diagnostiqué Professeur Xuân et a déclaré que c’était une maladie au nom de Hodgkins, une sorte Cancer relatif au dévelopement anormal des glandes cancéreuses autour du cou qui s’étaient propagés dans tout le corps du malade, en particulier dans l’estomac, dans le foie etc…Professeur Xuân a dû s’évanouir plusieurs fois avant d’être envoyé à l’hôpital de Phủ Lý, près du Camp de Nam Hà, pour une contre visite; mais le résultat était le même. De retour au camp de Nam Hà, Professeur Xuân devait vivre en permanence à l’infirmerie du camp, pour être surveillé de près. Un autre détenu, au nom de Phạm hữu Trung, un ancien officier de la Police du Sud Việt Nam, s’engageait à servir comme garde malade pour Professeur Xuân.

Vers le mois d’Otobre 1986, selon le désir du Professeur Xuân, l’Aumônier Supérieur bouddhique de l’Armée du Sud Việt Nam, “ Thích thanh Long”, lui même un interné politique du camp, a procédé à une cérémonie d’ initiation au bouddhisme pour Professeur Xuân et lui a donné un nom religieux bouddhique de “ Thanh lương Địa”. Comme Professeur Xuân ne pouvait pas manger depuis deux mois, Madame Hộ, la femme du Docteur Phạm hoàng Hộ, le prédécesseur du Professeur Xuân aux fonctions de Recteur de l’Université de Cần Thơ, a envoyée deux bouteilles de Morin Amin, composées de substances nutritives très élevées qui, introduites dans le corps par voie intraveineuse, auraient pu sauver Professeur Xuân, mais le docteur communiste du camp n’a pas donné l’autorisation de les employer. Cependant quelques jours après, quand Professeur Xuân a donné des signes de Coma, ce docteur a changé d’idée et a permis à Professeur Xuân de les employer. Professeur Xuân a repris ses sens pendant un jour, mais il a dû rendre son dernier soupir à 4 heures du matin, le 16 Janvier de l’année 1987 (correspondant au 17 Décembre, de l’Année Lunaire du Tigre). Après deux mois sans nourriture, le corps du Professeur Xuân s’est rétréci un peu et le teint de la peau a quelque peu noirci.

Selon le règlement du camp de rééducation de Nam Hà, tout le service pour l’inhumation d’un prisonnier politique doit être assuré par les prisonniers de droit commun ou même des anciens criminels, mais pas par de prisonnier politique. Aucun prisonnier politique ne pouvait s’en mêler, ni de participer de près ou de loin aux obsèques d’un autre prisonnier politique. Cependant, en s’assurant le concours des geôliers par des présents, les amis du Professeur Xuân ont pu organiser une petite célébration funèbre, avec la présence de l’Aumônier Supérieur boudhique Thích thanh Long et de l’Aumônier boudhique de la 7 ème Division de l’Armée du Sud Việt Nam Thích thiện Chinh qui venaient prier pour un érudit patriotique, exemplaire à tous les points. La petite procession funèbre accompagnait Professeur Xuân vers un petit monticule de terre désertique, près du camp de Nam Hà, où le plus illustre et le plus connu érudit de la République du Sud Việt Nam allait se reposer dans ce coin perdu, le plus inconnu de son pay natal. Vers l’année 2015, la fille du Professeur Nguyễn duy Xuân est revenue de France et a procédé à l’inhumation et à la crémation des restes de son père dont les cendres étaient conservés à la Pagode de Thiên Hương, District de Bình Thạnh, Cité de Saigon.

Sacramento, le 15 Février, 2023
Triệu huỳnh Võ
Lauréat de la 6 ème Promotion, en 1962, de L’Institut National d’Administration de la République du Việt Nam. Né au 1937 à Cần Thơ, ancien Assistant du Ministre de la Mobilisation Populaire et du Ralliement au Cabinet du Premier Ministre Trần thiện Khiêm et Nguyễn bá Cẩn. Co-interné avec Professeur Xuân pendant plus de 12 ans dans les camps de rééducation sucessifs de Long Thành, de Thủ Đức, de Hà Tây, et de Nam Hà.

Traduit de l’original en français par Ngô văn Minh, Licencié ès Lettres Pédagogique (Mars 1963). Maitrise de Français à California State University of Fullerton (1999), Professeur retraité de Français à Fullerton College et à Long Beach City College. Ancien Colonel de l’Armée du Sud Việt Nam, Assistant Opérationnel et Chef d’État Major du Regrétté Général Đỗ cao Trí, Commendant le III ème Corps de l’Armée du Sud Việt Nam. Ancien prisonnier déporté et co-interné avec Professeur Xuân dan les Camps de Rééducation au Nord Việt Nam pendant 13 ans.
 

Lời BBT:

BBT trân trọng giới thiệu và đăng tải  bài viết tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Duy Xuân do NT Triệu huỳnh Võ (ĐS 6) viết, với bản dịch Anh ngữ và Pháp ngữ. Bài viết này  sẽ được công chiếu cho du khách tới viếng Tượng đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản  Arc of Memory tại Canada Link: https://tributetoliberty.ca/content/phan-thanh-gian-doan-thi-diem-alumni-group-teachers-and-friends-0

Được biết Tượng đài  Arc of Memory sẽ  được dự trù khánh thành vào 2/11/2023 tại  Ottawa , thủ đô Canada. Xin xem thêm các thông tin về Tượng đài  Arc of Memory  ở link sau đây: https://tributetoliberty.ca/

Views: 331

Những Đóng Góp Của Các Đốc Sự Cho Hai Nền Cộng Hòa

Triệu Huỳnh Võ, ĐS 6

LỜI MỞ ĐẦU.
Bài viết nầy đã dựa vào:
– Quyển Kỷ Yếu Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (QGHC) do Tổng Hội Cựu Sinh Viên QGHC thực hiện vào tháng 7 năm 1999;
– Đặc san QGHC-Liên Bang Úc Châu 2006-2007;
– Quyển Kỷ Yếu ĐS 13: 48 Năm Nhìn Lại (1965-2012);
– Các cuộc tham khảo ý kiến với các đồng môn.
Nội dung bài viết chắc chắn còn nhiều điều sơ sót hoặc không chính xác, vì người viết chỉ trình bày sự đóng góp cho Nền Cộng Hòa của một số các Đốc Sự (ĐS), rất mong quí đồng môn vui lòng bổ khuyết.

Kể từ ngày được thành lập năm 1953 tính đến cuối năm 1973, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đã đào tạo được:

1635 sinh viên tốt nghiệp ban Đốc Sự từ Khóa Đà Lạt tới Khóa 19. Ngoài ra còn có 316 sinh viên chưa tốt nghiệp đang theo học các Khóa Đốc Sự 20, 21 và 22.

– 323 sinh viên tốt nghiệp ban Cao Học từ Khóa 1 đến Khóa 8 và 161 sinh viên đang theo học các khóa Cao Học 9 và 10.

– 527 sinh viên Tham Sự từ Khóa 1 đến Khóa 5.

– 189 sinh viên Tham Sự Sắc tộc.

Về sự đóng góp cho nền Cộng Hòa

Chỉ sau hai thập niên, kể từ ngày Học Viện được thành lập, những sinh viên xuất thân từ Học Viện đã lần lượt được bổ nhiệm giữ các chức vụ chỉ huy trung cấp, cao cấp và ngay cả đến các chức vụ chính trị trong toàn thể cơ cấu tổ chức công quyền của hai nền Cộng Hòa,từ cấp chính quyển địa phương lên cấp chính quyền trung ương.

Chính quyền địa phương:

Thông thường thì việc lãnh đạo ở địa phương, cấp Tỉnh Trưởng và Quận Trưởng sẽ do các Đốc sự đãm trách.Nhưng vỉ đất nước đang trong tình trạng chiến tranh chống cộng sản Bắc Việt xâm lược, nên nền hành chánh địa phương bị quân sự hóa.Các Đốc sự, ngoại trừ một vài trường hợp biệt lệ được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng hay Quận trưởng,đa số chỉ giữ chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh (PTTHC),Phó Thị Trưởng (PThT),Phụ Tá Hành Chánh(PTHC) và Phó Quận Trưởng (PQT) Các sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đều nắm giữ các chức vụ Tỉnh Trưởng và Quận Trưởng.

1. Đô Thành Sài Gòn

Trước năm 1972, các cựu sinh viên tốt nghiệp Học Viện có lúc đã nắm giữ hầu hết các chức vụ Quận Trưởng Hành Chánh trong Đô Thành Sài Gòn.

– Quận Nhứt: Phạm văn Phỉ, ĐS4

– Quận Tư: Lê ngọc Diệp, ĐS9

– Quận Năm: Nguyễn văn Bon, ĐS (cựu giáo chức cải ngạch ĐS)

– Quận Sáu: Huỳnh kim Thoại, ĐS9

– Quận Bảy: Nguyễn văn Sang, ĐS7

– Quận Tám: Mai như Mạnh, ĐS3; Nguyễn xuân Du, ĐS12

– Quận Mười: Trần quang Trí, ĐS10

– Quận Mười Một: Lê hiếu Nghĩa, ĐS3

Kể từ sau Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, các sĩ quan trong Quân đội VNCH được bổ nhiệm làm Đặc Khu Trưởng kiêm Quận Trưởng ở 11 Quận trong Đô Thành, phụ trách chính yếu về an ninh, còn về hành chánh thì vẫn do các Đốc Sự đảm nhận trong vai trò Phó Quận Trưởng.

2. Các Tỉnh, Thị Xã

Giữ chức vụ Tỉnh Trưởng

Tỉnh Vĩnh Bình: Nguyễn đình Xướng, ĐS khóa Đà Lạt, thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Tỉnh Quảng Trị: Nguyễn trung Thoại, ĐS1, thời Đệ Nhị Cộng Hòa.

Giữ chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh (PTTHC), Phó Thị Trưởng (PThT), Phụ Tá Hành Chánh (PTHC), Quận Trưởng (QT) và Phó Quận Trưởng (PQT):

QUÂN KHU I
Tỉnh Quảng Trị

PTTHC: Bảo Lộc, ĐS3; Bùi Hoành, ĐS8; Bửu Uyển, ĐS11; Nguyễn ngọc Diệp, ĐS14.

– Quận Mai Lĩnh. PQT: Ngô văn Toại, ĐS13

– Quận Hải Lăng. PQT: Hứa thôi Sinh, ĐS13

– Quận Triệu Phong. PQT: Nguyễn văn Dân, ĐS18

Tỉnh Thừa Thiên

PTTHC: Bảo Lộc, ĐS3; Hồ văn Cường, ĐS11

– Quận Phú Vang. PQT: Phạm thành Châu, ĐS14

– Quận HươngTrà. PQT: Nguyễn thái Hùng, ĐS14

– Quận HươngThủy. PQT: Trần đình Sào, ĐS14

– Quận HươngĐiền. PQT: Nguyễn Trình, ĐS17A

– Quận PhongĐiền. PQT: Trương minh Hòa, ĐS17B

– Quận Vĩnh Lộc. PQT: Nguyễn đình Hào, ĐS17B

– Quận Phú Lộc. PQT: Cung trọng Thanh, ĐS17B

Thị Xã Huế

PThT: Trần đình Thương, ĐS 8 (bịVC giết vào Tết 68); Tôn thất Tùng, ĐS9; Trần bá Thuyết, ĐS11

– Quận 1. PQT: Nghiêm xuân Thuyết, ĐS19

– Quận (?). PQT: Hồ xuân Giu, ĐS13

Tỉnh Quảng Nam

PTTHC: Hồ đắc Chương, ĐS1; Nguyễn chí Thiệp, ĐS10; Lê thượng Uyên, ĐS10

PhTHC: Nguyễn văn Ảnh, ĐS14

– Quận Thường Đức. PQT: Trần đình Vinh, ĐS14; Trần thiện Ấn, ĐS17 B

– Quận Hiếu Đức. PQT: Phan thành Hùng, ĐS16; Nguyễn Phước, ĐS17B

– Quận Quế Sơn. PQT: Vũ ngọc Thúy, ĐS16

– Quận Điện Bàn. PQT: Huỳnh vĩnh Tài, ĐS 8 (hy sinh 65); Lê phước Ba, ĐS17 A

– Quận Đại Lộc. PQT: Dương đức Bản, ĐS17A

– Quận Hòa Vang. PQT: Nguyễn thanh Lương, ĐS17A

– Quận Duy Xuyên. PQT: Hoàng đình Thu, ĐS17B

– Quận (?). PQT: Huỳnh maiThân, ĐS13

– Quận (?). PQT: Nguyễn minh Chánh, ĐS16

Thị Xã Đà Nẵng

PThT Đà Nẵng: Nguyễn vĩnh An, ĐS8; Thái Lộc, ĐS8; Nguyễn khoa Tánh, ĐS8; Võ quang Tuệ, ĐS9

-Quận 2. PQT: Phạm phước Ngữ, ĐS17

-Quận 3. PQT: Nguyễn Phụng, ĐS 11; Nguyễn thế Sanh, CH 6.

-Quận (?). PQT: Trần xuân Thời, ĐS12; Dương mạnh Châu, ĐS14.

Tỉnh Quảng Tín

PTTHC: Hồ văn Hiển, ĐS1; Bủi trọng Tiêu, ĐS8; Lê tấn Nhiễu, ĐS7; Tôn thất Tùng, ĐS9; Vũ văn Long, ĐS7; Trần ngọc Thiệu, ĐS11

PTHC: Nguyễn thế Tạo, ĐS15

– Quận Tam Kỳ. PQT: Nguyễn xuân Châu, ĐS16

– Quận Hậu Đức. PQT: Thái công Phú, ĐS16 (đã mất); Nguyễn văn Quí, ĐS19

– Quận Tiên Phước. PQT: Võ văn Lượng, ĐS17A; Đổ văn Siêng, ĐS19

Tỉnh Quảng Ngãi

PTTHC: Trần huỳnh Châu, ĐS5 (đã mất); Thái Lộc, ĐS 8; Đào văn Bình, CH2; Nguyễn chí Vy, ĐS9, CH2

PTHC: Trần Thái, ĐS9

– Quận Nghĩa Hành. PQT: Võ quang Quán, ĐS11

– Quận Bình Sơn. PQT: Phạm công Bàng, ĐS8; Trần khánh Hồng, ĐS13; Nguyễn hưng Long, ĐS16

– Quận Sơn Tịnh. PQT: Tôn thất Bảo, ĐS9; Nguyễn hữu Pháp, ĐS13

– Quận Mộ Đức. PQT: Bùi Châu, ĐS14

– Quận Ba Tơ. PQT: Nguyễn văn Dũng, ĐS16

– Quận Minh Long. PQT: Lâm Phú, ĐS17A

– Quận Trà Bồng. PQT: Nguyễn mạnh Phúc, ĐS17A

– Quận Sơn Hà. PQT: Trương văn Anh, ĐS17B

– Quận Đức Phổ. PQT: Phạm Ru, ĐS19

QUÂN KHU II
Tỉnh Kontum

PTTHC: Bùi xuân Thích, ĐS6; Phạm gia Định, ĐS8; Đào ngọc Khoa, ĐS11; Trần bạch Thu, ĐS17B

– Quận Đakto. PQT: Lê xuân Sướng, ĐS8; Lê văn Minh, ĐS 10; Nguyễn Huệ, ĐS19

– Quận Kontum. PQT: Lâm thành Hổ, ĐS15; Nguyễn chí Thiện, ĐS19

– Quận (?). PQT: Nguyễn ngọc Quang, ĐS17A

Tỉnh Bình Định

PTTHC: Lê quang Quý, ĐS Đà Lat; Phạm hữu Độ, ĐS8; Bùi xuân Thích, ĐS 6.

PTHC: Tôn thất Tùng, ĐS9

– Quận An Nhơn.QT: Đại úyTrương văn Tuyên, ĐS 8

– Quận Tuy Phước. PQT: Diệp bửu Long, ĐS10

– Quận Phù Mỹ. PQT: Đoàn hữu Đức, ĐS13

– Quận Hoài Nhon. PQT: Nguyễn công Lượng, ĐS16; Nguyễn văn An, ĐS17A

– Quận An Túc. PQT: Lê viết Hồn, ĐS17A (hy sinh 1975)

– Quận Hoài Ân PQT: Hoàng trắc Thành, ĐS17A

-Quận Bình Khê PQT: Trần đình Mười, ĐS17B

– Quận Tam Quan.PQT: Đỗ việt Anh, ĐS19

Thị Xã Qui Nhơn

PThT: Bùi xuân Thích, ĐS6

– Quận Nhơn Định. PQT: Bùi thế Bạch, ĐS17B

– Quận Nhơn Bình. PQT: Bùi văn Khanh, ĐS17B

Tỉnh Pleiku

PTTHC: Trần công Hàm, ĐS7; Nguyễn phú Hữu, ĐS8; Đặng văn Thạnh, ĐS11

– Quận Phú Nhơn. PQT: Trần ngọc Cưởng, ĐS10; Trần ngọc Danh, ĐS17A

– Quận Lệ Trung. PQT: Ksor Đê, ĐS17A (đã mất); Trần thanh Thủy, ĐS17B

– Quận Thanh An. PQT: Nguyễn thanh Nhựt, ĐS17A

– Quận (?). PQT: Nguyễn đức Tuấn, ĐS13

Tỉnh Phú Bổn

PTTHC: Nguyễn văn Tiên, ĐS6; Vũ văn Long, ĐS7; Nguyễn kim Dần, ĐS8; Nguyễn hữu Để, ĐS13

-Quận Cheo Reo.PQT: Phạm xuân Huy, ĐS13

– Quận Phú Túc. PQT: Võ Hân, ĐS15; Lê quang Minh, ĐS17 A

– Quận Phú Thiện. PQT: Vương Lưu, ĐS17A

Tỉnh Phú Yên

PTTHC: Trần văn Bảng, ĐS2; Nguyễn tiến Hoàng, ĐS10; Nguyễn khắc Linh, ĐS7

-PTHC: Lê văn Thái, CH5

– Quận Hiếu Xương. PQT: Nguyễn thành Thu, ĐS12; Lâm minh Cương, ĐS13

– Quận Sông Cầu. PQT: Nguyễn viết Thu, ĐS12

– Quận Đông Xuân. PQT: Nguyễn văn Bửu, ĐS16

– Quận Tuy An. PQT: Ngô văn Hoàn, ĐS16

– Quận Sơn Hòa. PQT: Lê đình Lãm, ĐS8; Nguyễn thế Sang, ĐS16; Nguyễn duy Nhạc, ĐS17B

Tỉnh Darlac

PTTHC: Nguyễn ngọc Vỵ, ĐS6

– Quận Lạc Thiện. PQT: Lê hữu Em, ĐS10, CH1; Nguyễn xuân Kế, ĐS12; Võ đoàn Ba, ĐS17A

– Quận Buôn Hô. PQT: Trần văn Dũng, ĐS9, CH1; Huỳnh văn Phước, ĐS17B

– Quận (?). PQT: Phan tiến Dương, ĐS 12; Đàm xuân Ánh, ĐS13; Đỗ hữu Đông, ĐS15

Tỉnh Khánh Hòa

PTTHC: Trương đình Cát, ĐS1; Hoàng đình Giang, ĐS1; Hồ đình Chỉnh, ĐS2; Nguyễn linh Kính, ĐS Đà Lạt; Nguyễn công Hiệu, ĐS2; Nguyễn văn Sanh, ĐS8

PTHC (1975): Hồ quốc Văn, ĐS9

– Quận Cam Lâm. PQT: Bùi đình Phúc, ĐS3; Nguyễn đình Thụy, ĐS13.

– Quận Vĩnh Xương. PQT: Thái tăng Hoàng, ĐS10; Phạm khắc Cẩn, ĐS14

– Quận Vạn Ninh. PQT: Huỳnh văn Quế, ĐS14

– Quận Diên Khánh. PQT: Ngô đình Hoa, ĐS13; Ngô minh Sơn, ĐS14

– Quận Ninh Hòa. PQT: Diệp xuân Tân, ĐS8; Nguyễn kim Khánh, ĐS10; Lê phụng Chữ, ĐS11; Huỳnh viết Văn, ĐS9

Thị Xã Nha Trang

PThT: Nguyễn văn Đặng, ĐS8

-Quận II. PQT: Đỗ bá Cường, CH4

Thị Xã Cam Ranh

PThT: Lê hữu Phước, ĐS11

Tỉnh Quảng Đức

PTTHC: Nguyễn ngọc Vỵ, ĐS6; Nguyễn thế Chu, ĐS7

– Quận Đức Lập. PQT: Nguyễn thắng Hiền, ĐS15

– Quận Khiêm Đức. PQT: Nguyễn hữu Lễ, ĐS15; Trần ngọc Minh, ĐS16

– Quận Kiến Đức. PQT: Nguyễn tấn Ngoan, ĐS16

Tỉnh Tuyên Đức

PTTHC: Nguyễn hữu Kế, ĐS7 (đã mất); Hoàng trọng Can, ĐS1

PTTHC Thượng vụ: Yayu Sahao, Tham Sự Ban Cao Nguyên.

– Quận Đơn Dương. PQT: Ngô văn Toại, ĐS13

– Quận Lạc Dương. PQT: Hà hải Sơn, ĐS14

– Quận Đức Trọng. PQT: Lê kim Thành, ĐS14

Thị Xã Đà Lạt

PThT Đà Lạt: Nguyễn trọng Can, ĐS6; Phạm gia Định, ĐS8

Tỉnh Ninh Thuận

PTTHC: Hồ đình Phương, ĐS2; Nguyễn trung Thoại, ĐS1; Nguyễn hửu Kế, ĐS7; Nguyễn chu Hậu, ĐS2; Lê tấn Nhiễu, ĐS7

– Quận Thanh Hải. PQT: Phạm văn Đen, ĐS13

– Quận Bửu Sơn. PQT: Ngô đình Hoa, ĐS13

– Quận Sông Pha. PQT: Quảng Tài, ĐS17B

– Quận Du Long/Quận An Phước. PQT: Lê đình Thảo, ĐS 9, CH3

– Quận (?). PQT: Tôn thất Lưu, ĐS12

Tỉnh Lâm Đồng.

PTTHC: Lê duy Lai, ĐS8; Nguyễn văn Cường, ĐS11

-Quận Bảo Lộc. PQT: Đặng quốc Tuấn, ĐS10, CH2; Diệp thanh Sang, ĐS17A

Tỉnh Bình Thuận

PTTHC: Nguyễn văn Tiên, ĐS6; Phạm ngọc Cửu, ĐS11

PTHC: Nguyễn tấn Phát, ĐS11

– Quận Hàm Thuận. PQT: Hoàng văn Lợi, ĐS14

– Quận Thiện Giáo. PQT: Trương an Ninh, ĐS14

– Quận Tuy Phước. PQT: Hoàng Phương, ĐS14

– Quận Tuy Phong. PQT: Đinh trọng Chóng, ĐS17B

– Quận Phan Lý Chàm. PQT: Y a Pha. ĐS17A

QUÂN KHU III
Tỉnh Phước Long

PTTHC: Nguyễn tĩnh Thuật, ĐS Đà Lạt; Phạm thăng Chức, ĐS11 (đã mất); Đèo văn Ngày, Tham Sự Ban Cao Nguyên (bị sát hại 30-4-75)

PTHC: Lê thành Nghiêm, ĐS15

– Quận Bố Đức. PQT: Nguyễn ngọc Diệp, ĐS13

– Quận Đức Phổ. PQT: Đỗ văn Minh, ĐS16

– Quận Phước Bình. PQT: Đặng xuân Hùng, ĐS17A; Nguyễn hải Trí, CH4

– Quận (?). PQT: Hà vĩnh Tường, ĐS17A (hy sinh 74)

Tỉnh Long Khánh

PTTHC: Trương minh Nhuệ, ĐS6; Vũ văn Khuông, ĐS8 (đã mất); Vũ minh Ngọc, ĐS16

– Quận Định Quán. PQT: Đinh mạnh Sử, ĐS9; Nguyễn đăng Luận, ĐS12; Phạm đức Thạnh, ĐS17B

– Quận Kiêm Tân. PQT: Đinh văn Giáp, ĐS13

– Quận Xuân Lộc. PQT: Phạm đức Thạnh, ĐS17B

Tỉnh Bình Tuy

PTTHC: Trần thanh Sử, ĐS6; Nguyễn văn Tiết, ĐS9

PTHC: Lý kim Anh, CH5

– Quận Tánh Linh. PQT: Phan hạ Tùng, ĐS11; Đèo văn Tuấn, ĐS16

– Quận Hoài Đức. PQT: Nguyễn công xuân Lâm, ĐS12; Nguyễn Nhung, ĐS17B; Nguyễn văn Thiện, ĐS19

– Quận Hàm Tân. PQT: Nguyễn văn Phụng, ĐS14; Huỳnh huy Minh, ĐS19

Tỉnh Tây Ninh

PTTHC: Nguyễn công Minh, ĐS9

– Quận Phước Ninh. PQT: Dương văn Biên, ĐS10

– Quận Hiếu Thiện. PQT: Phạm minh Châu, ĐS13

– Quận Phú Khương. PQT: Lâm thành Hổ, ĐS15

– Quận Khiêm Hạnh. PQT: Hà minh Khải, ĐS16

– Quận Khiêm Tân. PQT: Hoa thế Nhân, CH5

Tỉnh Bình Long

PTHC: Nguyễn trọng Can, ĐS6; Lê Quế, ĐS7; Võ thành Hạng, ĐS7; Vũ minh Ngọc, ĐS16

– Quận An Lộc. PQT: Phạm văn Thắng, ĐS16

– Quận Chơn Thành. PQT: Trần tấn Mẫn, ĐS9, CH4; Trịnh nhạc Phi, ĐS17A

Tỉnh Bình Dương

PTTHC: Nguyễn văn Tiên, ĐS6; Võ tấn Vinh, ĐS8 (đã mất)

– Quận Phú Giáo. PQT: Nguyễn thế Cương, ĐS12

– Quận Phú Hòa. PQT: Nguyễn phước Huệ, ĐS17B

– Quận Bến Cát. PQT: Nguyễn văn Bính, ĐS14

– Quận Châu Thành. PQT: Phạm công Xuân, ĐS14

– Quận (?). PQT: Nguyễn cao Tuấn, ĐS12; Lê ngọc Hồ, ĐS 13

Tỉnh Biên Hòa

PTTHC: Đỗ thành Nhơn, ĐS1; Nguyễn đình Lang, ĐS4; Phạm công Đời, ĐS1; Trương văn Nam, ĐS Đà Lạt;

 Đặng văn Thạnh, ĐS11; Nguyễn thành Nhơn, ĐS6

– Quận Đức Tu (Châu Thành). PQT: Nguyễn văn Tám, ĐS7; Vũ viết An, ĐS13; Trần đình Phương, ĐS13

– Quận Công Thành. PQT: Cao văn Trí, ĐS9; Nguyễn Dũng, ĐS13

– Quận Tân Uyên. PQT: Nguyễn đình Đổ, ĐS11

– Quận Dĩ An. PQT: Phan khắc Thành. ĐS13

– Quận Long Thành. PQT: Thái quang Chung, ĐS12; Phạm kim Rương, ĐS11; Nguyễn trần Quý, CH4

– Quận Đức Trọng. PQT: Ngô văn Toại, ĐS13

Tỉnh Phước Tuy

PTTHC: Lâm hữu Trải, ĐS9; Nguyễn đình Phúc, ĐS11

– Quận Đất Đỏ. PQT: Nguyễn vĩnh Trinh, ĐS3 (tử nạn trước 75); Võ văn Hoàn, ĐS8; Vũ tuấn Thịnh, ĐS11

– Quận Long Điền. PQT: Nguyễn xuân Nghi, ĐS11

Thị Xã Vũng Tàu

PThT: Lê văn Toàn, ĐS7

Tỉnh Gia Định

PTTHC: Huỳnh đăng Giai, ĐS3; Nguyễn hữu Dậu, ĐS8

– Quận Cần Giờ. PQT: Lê văn Minh, ĐS10; Đoàn đình Minh, ĐS13

– Quận Nhà Bè. PQT: Nguyễn kimTùng, ĐS13

– Quận Quảng Xuyên. PQT: Phạm duy Tuệ, ĐS8

– Quận Hốc Môn. PQT: Huỳnh công Trị, ĐS9

– Quận Thủ Đức. PQT: Nguyễn khắc Quang, ĐS8

Tỉnh Hậu Nghĩa

PTTHC: Đổ đăng Tiến, ĐS8; Vũ văn Long, ĐS7; Nguyễn thái Nguyên, ĐS7

– Quận Đức Hòa. PQT: Nguyễn đức Cảnh, ĐS12; Ngô đình Thứ, ĐS13

– Quận Đức Huệ. PQT: Văn hiếu Nghĩa, ĐS14

– Quận Củ Chi. PQT: Huỳnh văn Thành, ĐS17A

Tỉnh Long An

PTTHC: Lê phú Nhạn, ĐS Khóa Đà Lạt; Nguyễn bá Cẩn, ĐS1

– Quận Bến Lức. PQT: Nguyễn mạnh Tùng, ĐS10

– Quận Tân Trụ. PQT: Đinh Hiếu, ĐS12, CH 6

– Quận Thủ Thừa. PQT: Nguyễn văn Đức, ĐS6; Huỳnh Minh, ĐS15

– Quận Rạch Kiến. PQT: Phạm công Bàng, ĐS9

– Quận Bình Phước. PQT: Lê văn Ngà, ĐS9

– Quận Cần Đước. PQT: Đinh minhThân, ĐS9

– Quận (?). PQT: Vũ thế Hùng, ĐS11

QUÂN KHU IV
Tỉnh Kiến Tường

PTTHC: Đặng huy Túc, ĐS7; Nguyễn khắc Lương, ĐS11; Đặng minh Đức, ĐS13; Lê văn Rắc, ĐS9

– Quận Kim Bình. PQT: Trần quốc Cần, ĐS10

– Quận Tuyên Bình. PQT: Phạm văn Thu, ĐS19

– Quận Tuyên Nhơn. PQT: Đinh sơn Huy, ĐS10, CH3; La văn Mẫn, ĐS17B

– Quận Kiến Bình. PQT: Trần Dũng, ĐS8 (hy sinh 64); Nguyễn ngọc Khôi, ĐS10

– Quận Châu Thành. PQT: Phạm trần Hào, ĐS15; Đỗ thái Hùng, ĐS16

Tỉnh Kiến Phong

PTTHC: Huỳnh thanh Tùng, ĐS9

– Quận Mỹ An. PQT:  Huỳnh ngọc Long, ĐS17A; Nguyễn tấn Hữu, ĐS19

– Quận Kiến Văn. PQT: Phạm hữu Nghĩa, ĐS16

– Quận Đồng Tiến. PQT: Nguyễn văn Tuấn, ĐS17 B

– Quận Thanh Bình. PQT: Nguyễn văn Gỏ, ĐS13

Tỉnh Định Tường

PTTHC: Nguyễn phước Sơn, ĐS8

– Quận Bến Tranh. PQT: Nguyễn kim Dần, ĐS8; Trương vĩnh Tiền, ĐS10

– Quận Giáo Đức. PQT: Nguyễn văn Cao, ĐS11

– Quận Sầm Giang. PQT: Nguyễn trung Lâu, ĐS12

– Quận Cái Bè. PQT: Nguyễn văn Ban, ĐS12

– Quận Cai Lậy. PQT: Lưu trường Ninh, ĐS8

– Quận Chợ Gạo. PQT: Phạm minh Châu, ĐS13; Trần khánh Hồng, ĐS13

Thị Xã Mỹ Tho

PThT: Lê vănThêm, ĐS 6; Võ văn Phận, CH 4

Tỉnh Gò Công

PTTHC: Nguyễn văn Hợp, ĐS5; Lê thiện Tùng, ĐS12

– Quận Hòa Lạc. PQT: Lê văn Quan, ĐS11

– Quận Hòa Tân. PQT: Nguyễn văn Phúc, ĐS11

– Quận Hòa Đồng. PQT: Đặng thanh Xuân, ĐS12; Trần hữu Đức, ĐS13

– Quận Hòa Tân. PQT: Lê văn Thúy, ĐS13

– Quận Hòa Bình. PQT: Nguyễn văn Luân, ĐS14

Tỉnh Kiến Hòa

PTTHC: Trần Huỳnh Châu, ĐS5 (đã mất); Đào văn Bình, CH2

– Quận Hương Mỹ. PQT: Đặng gia Thoại, ĐS10; Mã thành Nghĩa, ĐS17B

– Quận Ba Tri. PQT: Bùi đức Lứt, ĐS10

– Quận Trúc Giang. PQT: Lê tự Em, ĐS11

– Quận Phú Thạnh. PQT: Hồ kim Sơn, ĐS12

– Quận Đôn Nhơn. PQT: Nguyễn văn Út, ĐS9; Lê Hoàng Hải, ĐS13

– Quận Ba Tư. PQT: Trần văn Tuôi, ĐS17A

Tỉnh Vĩnh Long

PTTHC: Nguyễn sanh Tiền, ĐS7; Đặng văn Thạnh, ĐS11

– Quận Bình Minh. PQT: Đinh ngọc Bảo, ĐS11; Đinh sỹ Nghĩa, ĐS13

– Quận Trà Ôn. PQT: Mạch bạch Hà, ĐS12

– Quận Chợ Lách. PQT: Nguyễn văn Y, ĐS13

– Quận Minh Đức. PQT: Phạm xuân Nguyên, ĐS14

– Quận Tam Bình. PQT: Huỳnh anh Kiệt, CH 6

Tỉnh Vĩnh Bình

PTTHC: Lê vănThêm, ĐS6; Đoàn Ngô, ĐS7; Nguyễn tấn Phát, ĐS11; Trần văn Chi, ĐS11

– Quận Càng Long. PQT: Nguyễn quý Hùng, ĐS12; Trần khánh Hồng, ĐS13

– Quận Trà Cú. PQT: Hà anh Tuấn, ĐS12

– Quận Cầu Ngang. PQT: Lê thanh Đào, ĐS13; Nguyễn văn Sáu, ĐS17A

– Quận Long Toàn. PQT: Thạch ngoc Hoán, ĐS17B

– Quận Cầu Kè. PQT: Sơn Siunh, ĐS16

– Quận Châu Thành. PQT: Trần Ngọc, ĐS15; Phạm ngọc Thanh, ĐS17A

Tỉnh Sa Đéc

PTTHC: Đổ hữu Sâm, ĐS2; Trần huỳnh Thanh, ĐS6 (đã mất)

– Quận Đức Thịnh. PQT: Nguyễn phú Hùng, ĐS11

– Quận Đức Thành. PQT: Vũ thanh Phát, ĐS11

– Quận Đức Tôn.PQT: Lê đức Thuận, ĐS13

– Quận Đức Tân. PQT: Vũ đức Báu, CH5

– Quận (?). PQT: Võ thành Thật, ĐS11, CH6

Tỉnh Phong Dinh

PTTHC: Nguyễn Vịnh, ĐS 6; Trần huỳnh Thanh, ĐS 6 (đã mất)

PTHC: Trần văn Quá, ĐS17B

– Quận Cái Răng. QT: Nguyễn trung Trương, ĐS Đà Lạt.

– Quận Phong Phú. QT: Trần văn Minh, ĐS Đà Lạt (hy sinh tại đây)

– Quận Phong Phú. PQT: Lê quang Sang, ĐS10; Trần quý Hùng, CH2

– Quận Thuận Trung. PQT: Nguyễn văn Banh, ĐS13

– Quận Phong Thuận.PQT: Trần công Thái, ĐS13

– Quận Phong Điền. PQT: Ngô ngọc Trác, ĐS13; Bùi minh Nhựt, ĐS17B

– Quận Phụng Hiệp. PQT: Cao mỹ Nhơn, ĐS8

– Quận Châu Thành. PQT: Nguyễn tấn Hiếu, ĐS 12

Thị Xã Cần Thơ

PThT: Nguyễn văn Khánh, ĐS1; Hồ văn Diệp, ĐS8

– Quận 1. PQT: Hà duy Bàn, ĐS17B

– Quận 2. PQT: Võ trung Hải, ĐS11

Tỉnh An Giang

PTTHC: Trần văn Cảnh, ĐS11

– Quận Chợ Mới. PQT: Trần ngọc Lang, ĐS12

– Quận Huệ Đức. PQT: Đỗ công Thành, ĐS10

– Quận Thốt Nốt. PQT: Lê thế Vinh, ĐS12

– Quận Châu Thành. PQT: Nguyễn quốc Khánh, CH5

Tỉnh Châu Đốc

PTTHC: Nguyễn văn Nhi, ĐS3; Lê duy Lai, ĐS8

– Quận Tịnh Biên PQT: Vũ tiến Đạt, ĐS11, CH 8; Lê văn Tự, ĐS13.

– Quận Tri Tôn. PQT: Nguyễn hữu Trí, ĐS12

– Quận An Phú. PQT: Võ thành Văn, ĐS9.

– Quận Tân Châu. PQT: Vũ tiến Đạt, ĐS11, CH8

Tỉnh Kiên Giang

PTTHC: Phạm văn Minh, ĐS1; Lê vănThêm, ĐS6; Phạm văn Thành, ĐS8; Đỗ thanh Quang, ĐS11

– Quận Hà Tiên. PQT: Nguyễn minh Mẫn, ĐS11; Nguyễn văn Quảng, CH 5; Đào ngọc San, ĐS13

– Quận Kiên Tân. PQT: Trần hữu Thành, ĐS13

– Quận Kiên Lương. PQT: Nguyễn đức Nghiêm, ĐS14

– Quận Kiên Thành. PQT: Lâm hữu Xưa, ĐS14

– Quận Kiên Bình. PQT: Danh La, ĐS17A

– Quận Phú Quốc. PQT: Nguyễn minh Đức, ĐS17B

Đặc Khu Côn Sơn

PTHC: Tôn thất Sỹ, ĐS9 (hy sinh 30-4-75)

Tỉnh Chương Thiện

PTTHC: Lê vănThêm, ĐS6; Nguyễn khắc Linh, ĐS7; Diệp bửu Long, ĐS10

– Quận Kiên Long. PQT: Lâm quang Nhật, ĐS8 (hy sinh 4/64)

– Quận Kiên Hưng. PQT: Cao công Đắc, ĐS10; Phan thanh Thuần, ĐS16

– Quận Long Mỹ. PQT: Cung nhật Dương, ĐS12

– Quận Kiến Thiện.PQT: Lê trung Nghĩa, ĐS12

Tỉnh Ba Xuyên

PTTHC: Nguyễn hữu Kế, ĐS7(đã mất)

– Quận Hòa Tú. PQT: Phạm xuân Thành, ĐS16

– Quận Thạnh Trị. PQT: Trương văn Nghĩa, ĐS12

– Quận Kế Sách. PQT: Lê quí Đính, ĐS10, CH3; Nguyễn thành Tâm, ĐS12

– Quận Ngã Năm. PQT: Từ minh Chánh, ĐS13

– Quận Lịch Hội Thượng. PQT: Kim Jina, ĐS14

– Quận Mỹ Lợi. PQT: Trần đại Lượng, ĐS14

– Quận (?). PQT: Thái văn Khị, ĐS10; Mai văn Giỏi, ĐS11

Tỉnh Bạc Liêu

PTTHC: Hồ văn Diệp, ĐS8

-Quận Phước Long. PQT: Lê minh Thiện, ĐS13

Tỉnh An Xuyên

PTTHC: Đặng huy Túc, ĐS7; Lê quan Diêm, ĐS7; Nguyễn an Vương, ĐS8

PTHC: Vương kim Hổ, ĐS13

– Quận Năm Căn. PQT: Nguyễn an Bình, ĐS12; Văn thế Vĩnh, ĐS19

– Quận Mỹ Xuyên. PQT: Nguyễn kim Chi, ĐS13

– Quận Thới Bình. PQT: Phan thế Vinh, ĐS11; Huỳnh thảo Thuận, ĐS13

– Quận Hải Yến. PQT: Quách đình Châu, ĐS16

– Quận Sông Ông Đốc. PQT: Trần văn Đổ, ĐS19

– Quận Đầm Dơi. PQT: Khiếu hữu Hiển, ĐS8

Ngoài việc giữ vai trò lãnh đạo số 1 hoặc số 2 ở các Tỉnh, Thị Xã, và các Quận nêu trên, các cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC còn phụ trách các chức vụ chỉ huy như Quản Đốc Tu Nghiệp, Trưởng Ty, Trưởng Phòng trong các Tòa Hành Chánh, Tòa Thị Chánh, và các Quận trên toàn quốc.

Chính Quyền Trung Ương

Ngành Hành Pháp

1.Thủ Tướng Chính phủ: Nguyễn bá Cẩn, ĐS1

2.Các Phủ, Bộ trong Chính phủ:

-Phủ Thủ Tướng.Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng: Bửu Viên, ĐS1; Nguyễn long Châu, ĐS1

-Bộ Nội vụ. Tổng Trưởng: Bửu Viên, ĐS1

-Bộ Tài Chánh. Tổng Trưởng: Châu kim Nhân, ĐS2

-Bộ Lao Động. Tổng Trưởng: Vũ Công, CH2

-Phụ Tá (PT) Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng: Nguyễn đình Liển, ĐS1 (đã mất); Triệu huỳnh Võ, ĐS6; Trương thới Lai, ĐS Đà Lạt (đã mất)   

PT Tổng Ủy Trưởng Công Vụ: GS. Lê công Truyền, Tiến sĩ Luật, ĐS2; GS. Trương hoàng Lem, Ph.D., ĐS4

-PT Tổng Trưởng Bộ Tài Chánh: GS Cao văn Hở, Ph.D, ĐS9, CH1

-PT Tổng Trưởng Bộ Thương Mại và Tiếp Tế: Nguyễn thanh Bạch, ĐS4

-PT Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng: Bửu Viên, ĐS1; Châu kim Nhân, ĐS2; Tôn thất Chước, ĐS Đà Lạt

-PT Tổng Trưởng Bộ Kế Hoạch: Nguyễn duy Phước, ĐS1(đã mất)

-PT Tổng Trưởng Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi: Triệu huỳnh Võ, ĐS6; Nguyễn quốc Thụy, ĐS5

-PT Tổng Trưởng Bộ Phát Triển Sắc Tộc: Châu văn Mổ, Tham Sự Ban Cao Nguyên 1

-Đổng Lý Văn Phòng (ĐLVP) Phủ Thủ Tướng: Trương thới Lai, ĐS Đà Lạt

ĐLVP Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên: Nguyễn xuân Huệ, ĐS1 (đã mất)

-Tổng Quản Trị Hành Chánh Phủ Tổng Thống: Nguyễn đình Xướng, ĐS Đà Lạt (đã mất)

-Tổng Thơ Ký (TTK) Phủ Phó Tổng Thống: Nguyễn văn Thành, ĐS11, CH 6

-TTK Phủ Thủ Tướng: Lý kim Huỳnh, ĐS3 (đã mất)

-TTK Bộ Nội Vụ: Trương văn Nam, ĐS Đà Lạt (đã mất); Lý thái Vượng, ĐS9; Trần huỳnh Châu, ĐS5(đã mất)

TTK Bộ Kế Hoạch: Nguyễn văn Trích, ĐS1 (đã mất)

-TTK Bộ Lao Động: Nguyễn xuân Hiệu, ĐS1

-TTK Bộ Y Tế: Bùi quang Ân, ĐS1

-TTK Bộ Cựu Chiến Binh:     Đặng ngọc Liệu, ĐS1

-TTK Bộ Phát Triển Nông Thôn: Nguyễn chu Hậu, ĐS2

-TTK Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi: Trần nhựt Thăng, ĐS10, CH2

-TTK Bộ Phát Triển Sắc Tộc: Touneh Hàn Thọ, ĐS12

-Tổng Giám Đốc (TGĐ) Ngân Khố: Lý Hoa, ĐS2 (đã mất)

-TGĐ Thuế Vụ: Nguyễn huy Hân, ĐS4; Phan nhựt Học, ĐS2

-TGĐ Công Vụ: Nguyễn xuân Liêm, ĐS Đà Lạt

-TGĐ Nha Ngân Hành Kế, Bộ Quốc Phòng: Châu kim Nhân, ĐS2; Nguyễn văn Sơn, ĐS Đà Lạt

-TGĐ Cơ Quan Tiếp Vận Trung Ương: Châu kim Nhân, ĐS2; Nguyễn đình Liễn, ĐS1

-PT TGĐ Cơ quan Tiếp Vận Trung Ương: Nguyễn văn Thông, ĐS2; Bửu Thắng, ĐS3; Đổ hải Minh, ĐS7

-TGĐ Cơ Quan Tiếp Vận Hải Ngoại: Lê văn Kim, ĐS5

PT TGĐ Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp: Bùi quang Minh, ĐS2

-PT Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Thực Phẩm Quốc Gia:       Đăng ngọc Vân, CH3

3.Các Cơ quan Ngoại Giao:

Các viên chức phục vụ trong ngành Ngoại Giao, nguyên là các Đốc Sự đã cải ngạch.

Các Tòa Đại Sứ

-Saudi Arabia. Đại Sứ: Nguyễn phước Đôn, ĐS1

-Tunisia. Đại Sứ: Nguyễn Hoàn, ĐS1

-Manilla. Đệ nhất Tham Vụ: Đổ hiếu Toàn, ĐS1

-Washington D.C. Đệ Nhất Tham Vụ: Nguyễn văn Phương, ĐS4; Đệ Nhị Tham Vụ: Vũ xuân Trang, ĐS3

-Rabat. Đệ Nhất Tham Vụ: Nguyễn đình Lang, ĐS1

– Phnom Penh. Đệ Nhất Tham Vụ: Đinh quang Thành, ĐS1

-Tòa Tổng Lãnh Sự Hồng Kông. Tổng Lãnh Sự: Vương hòa Đức, ĐS1; Lãnh Sự: Bùi văn Anh, ĐS2

4.Các Học Viện và Viện Đại Học

Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.

-Viện Trưởng: GS. Nguyễn quốc Trị, Ph.D., ĐS1; Phó Viện Trưởng: GS Trương hoàng Lem, Ph.D, ĐS4

-Giáo sư, Giảng sư: Hoàng xuân Hào, Tiến sỉ Luật, ĐS; Cao văn Hở, Ph.D, CH1,Lê công Truyền,Tiến sĩ Luật,ĐS2;Trần anh Tuấn,Ph.D,CH1;Nguyễn minh Ty,Ph.D,CH1; Cao thị Lễ,Ph.D,ĐS10;Phan thanh Ngô,Ph.D,CH1.Diệp xuân Tân,MA,ĐS8

Viện Đại Học Cần Thơ.

-Khoa Trưởng Phân Khoa Luật: GS Nguyễn hữu Lành, Tiến sĩ Luật, ĐS4

Viện Đại Học Tiền Giang.

-Tổng Thơ Ký: Đặng thành Xuân, ĐS12

Viện Đại Học Sài Gòn.

-Tổng Thơ Ký: Lê ngọc Diệp, ĐS9;

Phân khoa Khoa Học:

-Tổng Thơ Ký: Nguyễn viết Đức, ĐS17B

Cũng cần nói thêm là trong các Phủ, Bộ, Tổng Nha ở trung ương, các chức vụ chỉ huy trung cấp ở hàng Giám Đốc, Chánh Sự Vụ, Trưởng Ty, Trưởng Phòng đa số đều do các cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC đảm trách, nhất là tại Bộ Nội Vụ và Bộ Tài Chánh, bởi vì Ban Hành Chánh và Ban Tài Chánh là hai ngành chính do các Khóa Đốc Sự đào tạo.

Bộ Dân Vận – Chiêu Hồi (DVCH), và Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo (PĐUTUTB) cũng là hai cơ quan đã thu dụng một số lớn cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC để giữ các chức vụ chỉ huy trung cấp và cao cấp.

Cho đến năm 1975, có thể nói, những cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC gần như nắm giữ hầu hết các chức vụ Giám Đốc, Đại Diện DVCH ở các Quân Khu, Chánh Sự Vụ, Trưởng Ty, Trưởng Phòng v.v. trong Bộ DVCH.

Riêng đối với PĐUTUTB, vì là cơ quan mới được thành lập từ năm 1961, nên kể từ khóa 6 HVQGHC, tức từ năm 1962 trở đi, một danh sách trích ngang của mỗi khóa đã được bổ dụng về phục vụ tại đây. Do đó, những cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC cũng đã giữ nhiều chức vụ chỉ huy quan trọng trong cơ quan này.

Giữ chức vụ Đặc Ủy Trưởng: Nguyễn phát Lộc, ĐS 3 (đã mất trong tù Cộng sản)

Giữ các Chức vụ trọng yếu khác: Nguyễn mộng Lương, ĐS2; Nguyễn thành Long, ĐS6; Phan công Tâm, ĐS7; Nguyễn minh Quân, ĐS6

Ngành Lập Pháp.

Thượng Nghị Viện.

-Nghị sĩ: Hoàng xuân Hào, ĐS4;        Lê châu Lộc, ĐS13

Hạ Nghị Viện.

-Chủ Tịch: Nguyễn bá Cẩn, ĐS1

-Tổng Thơ ký: Phạm duy Tuệ, ĐS8

-Dân biểu: Nguyễn văn Quí, ĐS6; Nguyễn văn Tiết, ĐS9, CH1; Trần văn Thung, ĐS10; Lê tấn Trạng, ĐS11; Nguyễn hữu Đức, ĐS 8; Vũ Công, CH2; Trương vị Trí, ĐS13; Trần đức Trọng, ĐS8.

 Giám Sát Viện

-Tổng Thơ Ký: Lê đình Lãm, ĐS8, CH2

-Giám Sát Viên: Phạm đình Hưng, ĐS3; Lê vănThêm, ĐS6

Với các thành quả của HVQGHC vừa được nêu trên, có thể nói,cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC đã có mặt trong hầu hết các cơ quan quyền lực điều hành đất nước từ trung ương đến địa phương cho đến ngày 30-4-1975. Đây là tầng lớp trí thức trẻ, được đào tạo để trở thành các viên chức chuyên nghiệp có tính đa năng, đa hiệu thích ứng với thực trạng của một đất nước vừa phải xây dựng và phát triển, vừa phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt.

Tại trung ương, tầng lớp này, một số ít đã bắt đầu nhập cuộc vào sinh hoạt chính trị của đất nước để trở thành Thủ Tướng Chính Phủ, Tổng Bộ Trưởng, Nghị Sĩ, Dân Biểu Quốc Hội, Nghị Viên Hội Đồng dân cử Tỉnh, Thị Xã. Căn bản hành chánh đã giúp họ bổ khuyết những điểm thiếu sót thường thấy về mặt nầy của các vị tham gia chính trị. Có nhận xét cho rằng người làm chính trị hoàn hảo là người vừa có kinh nghiệm về hành chánh và vừa có kinh nghiệm về chính trị. Trong vai trò Thủ Tướng hay Tổng Bộ Trưởng trong Chính Phủ, những cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC đương nhiên đã dự phần vào việc hoạch định các chủ trương và chính sách ở cấp bậc quốc gia.

Tại địa phương, trong hai thập niên ngắn vừa qua, hàng ngũ các cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC đã góp phần xây dựng và củng cố một nền hành chánh địa phương hữu hiệu và ổn định ở khắp bốn Vùng Chiến Thuật.Chính nhờ vào đó mà các chính sách và chương trình của Chính Phủ Trung ương đề ra đã được thi hành đúng mức. Để đạt được kết quả nêu trên, một số không nhỏ trong hàng ngũ này đã phải hy sinh vì công vụ.

Nếu như không xảy ra biến cố ngày 30-4-75, và nếu như chương trình dự trù đưa các Đốc Sự xuống giữ chức vụ Xã Trưởng trong toàn quốc được thực hiện, thì nền Hành Chánh địa phương của Việt Nam Cộng Hòa nhất định sẽ được củng cố và phát triển tới mức tuyệt hão. Chính khối nhân sự trẻ, đa năng và đa hiệu nằm ở hạ tầng cơ sở nầy sẽ quyết định sự thành công của các chương trình xây dựng và phát triển đất nước do thượng tầng Chính phủ trung ương hoạch định.

Từ đó, phải nói thêm là các nhà lãnh đạo quốc gia lúc bấy giờ đã có tầm nhìn chiến lược khi cho sáng lập ra hai cơ quan đào tạo và cung ứng hai nguồn nhân lực chuyên nghiệp trẻ cần thiết cho việc phát triển và bảo vệ đất nước trong thời chiến.Đó là HVQGHC và Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (VBQGĐL).Song hành với các bước thăng tiến của cấp chỉ huy hành chánh trẻ trong guồng máy nhà nước, các sĩ quan hiện dịch xuất thân từ Trường VBQGĐL cũng đã nhanh chóng nắm giữ các chức vụ chỉ huy cao cấp trong quân đội.Cho tới năm 1975, nền Hành Chánh và Quốc Phòng đang từng bước một được củng cố và góp phần quan trọng trong việc phát triển và bảo vệ đất nước.

Nếu nhìn về mặt lịch sử, có thể nói mỗi cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC, dù có mặt ở cấp chính phủ trung ương hay địa phương, đều đã đóng góp một phần nhỏ của mình vào việc xây dựng và phát triển quốc gia. Vì thế, mỗi người trong tập thể cựu sinh viên HVQGHC chúng ta có quyền hãnh diện là đã, cùng với các Trường Đại Học chuyên môn khác và các cấp quân dân cán chính, dự phần vào việc viết lên trang sử của hai nền Cộng Hòa.

Triệu Huỳnh Võ, ĐS 6

Views: 206

Một năm nhìn lại: MI – Mission Impossible và HNLK 5

Nguyễn Quang Dũng

Ở  picnic Hè 2018 của Hội Miền Đông có một buổi trưng cầu ý kiến Hội Viên tham dự: Hội Miền Đông có nên đảm nhận tổ chức Hôi Ngộ Liên Khóa QGHC kỳ 5 theo đề nghị của Hội QGHC Úc Châu không?  Dĩ nhiên, có phiếu thuận, có phiếu chống, nhưng tôi nhớ có khoảng 20 cánh tay dơ cao: đồng ý. Và như vậy cái tôi gọi là “Mission Impossible- HNLK5 ” bắt đầu.

Hồi nhỏ còn ở Việt Nam tôi rất thích loại phim hành động, hay ”action movie”, nói theo tiếng Mỹ. Có lẽ là do tôi còm nhom như cây tăm tre, không dám đánh đấm ai, thường bỏ chạy khi bị ăn hiếp nên hiệu ứng tâm lý nghịch là thích phim hành động võ thuật kiểu Lý Tiểu Long như “Đường Sơn Đại Huynh” hay “Mãnh Long Quá Giang” chăng? Nhưng có một loại phim của Mỹ tôi rất thich là loạt phim “Mission Impossible”. Hồi còn ở Việt Nam, loạt phim này là loại phim đen trắng trên TV, tôi chỉ nhớ được nhạc phim mở đầu, rất hay,  với sợi dây dẫn ngòi nổ đang cháy. Sau này, qua Mỹ, tôi lại được dịp xem lại loạt phim Mission Impossible hay MI trên màn ảnh lớn với chàng tài tử đẹp trai Tom Cruise…

Nhưng liên quan giữa Hội Ngộ Liên Khóa QGHC kỳ 5, “code name”: HNLK5MI là thế nào? Ở đâu? Sẽ có người đọc mất kiên nhẫn, vì lối viết cà kê dê ngỗng của tôi,  cắt ngang ở đây và hỏi. Xin thưa:

Hai điểm cốt lõi của MI:

  1. Tổ hành động
  2. Sự hiệp lực của tổ hành động với một kế hoạch hành động chặt chẽ để thực hiện thành công các mục tiêu “không tưởng” đã định

Tôi sẽ trình bày những điểm  tương đồng  giữa HNLK5MI  dưới đây:

Tổ Hành Động… The Team

Gọi là “Tổ Hành Động” hay “The Team” cho có vẻ “action movie” kiểu Mỹ một chút, chứ cái tên gọi thông thường ai cũng biết là Ban Tổ Chức  (BTC). Và “Tom Cruise” của Hội Miền Đông không ai khác hơn là anh Hội Trưởng Nguyễn Kim Hương Hỏa.

Từ trái: Lê Hữu Em, Lê Văn Quan, Trần Hồng,Lê Văn Bỉnh, NguyễnTrường Phát, GS Cao thị Lễ, Hương Hỏa, Vũ Bá Hoan, Tạ Cự Nguyên

Vào tháng 3 năm 2019, ba phiên họp ở tư gia anh chị Trần Nhựt Thăng xác định sơ khởi về kế hoạch thực hiện và  nhiệm vụ  mỗi thành viên của BTC. Phiên họp nào cũng ồn ào, sôi nỗi tranh cãi với nhiều ý kiến khác biệt về cách thức tổ chức HNLK 5. Từ các phiên họp sơ khởi này, một BTC được thành lập với thành phần nhân sự cốt cán cho các sinh hoạt chính của HNLK5 như sau:

Trưởng BanTổ Chức (tổng quát): Anh Nguyễn Kim Hương Hỏa.

Trưởng Ban Phụ Trách Ngày Du Ngoan Washington D.C.: Anh Tạ Cự Nguyên

Trưởng Ban Phụ trách Ngày HNLK tại Marriott: Anh Đỗ Quang Tỏa

Trưởng Ban Phụ trách Tiệc Đêm Chia Tay tại Harvest Moon: Anh Nguyễn Trường Phát

Trưởng Ban Phụ Trách Chuyến Du Lịch Xuyên Bang: Anh Nguyễn Trường Phát.

Ban Thực Hiện Đặc San HNLK: Anh Lê Hữu Em, Anh Trần Nhựt Thăng và Anh Lê Văn Bỉnh.

Thủ Quỹ: Anh Vũ Bá Hoan và anh Lê Văn Quan.

Ban Ấn Loát- Thiết Kế Đồ Họa –  Sân Khấu – Website – Tiếp Liệu & Hỗ Trợ:  Nguyễn Quang Dũng  & Trần Thị Tụ (là …tôi, người viết bài & …bà xã của tôi )

Ban Cố Vấn: Cô Cao Thị Lễ, Anh Trần Hồng, Anh Lê Hữu Em.

Gần như mọi người đến dự phiên họp đều được phân công, phân nhiệm cho các “ngày hành động”, trừ chị Kim Dzung, sau này mới nhận nhiệm vụ (xin xem ở phần sau )

Mọi người đều …xăn tay áo, bắt đầu lên kế hoạch hành động và từng bước  thực hiện kế hoạch được giao.

 

Hàng đứng từ trái: Nguyễn Q Dũng, Hương Hỏa, Tạ Cự Nguyên, GS Cao thị Lễ, Chị Trẩn Nhựt Thăng, Lê văn Quan. Hàng ngồi từ trái: Đỗ Quang Tỏa, Lâm Kim Dung, Trần Thị Tụ, Trần Nhựt Thăng, Lê Hữu Em, Lê Văn Bỉnh.

Mission Impossible: Đặc San HNLK 5 và Ban Hợp Ca Miền Đông

Trong sự thẩm định của BTC, với nhiều năm kinh nghiệm tổ chức và khả năng của các  Trưởng Ban Phụ Trách các ngày sinh hoạt HNLK 5, việc tổ chức, kế hoạch, và thực hiện HNLK 5 đều nằm trong tầm tay. Các công tác ghi danh, khách sạn, đón tiếp và các dự trù diễn tiến cho các ngày sinh hoạt đều được kế hoạch  hóa, phân công phân nhiệm giữa các thành viên của BTC một cách chi tiết. Và quả tình là với sự hợp tác chặt chẽ, tích cực và quyết tâm của mọi thành viên BTC, tất cả các diễn tiến  của 4 sinh hoạt chính yếu của các ngày HNLK 5 đều đã được hoàn thành tốt đẹp, vượt quá kỳ vọng của quý đồng môn QGHC từ khắp nơi trên Hoa Kỳ và  thế giới về Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn  tham dự HNLK 5.

Nhưng có hai phần hành công tác của HNLK 5 trước đó không ai biết kết quả sẽ xảy ra như thế nào và chưa bao giờ Hội Miền Đông thực hiện: Đó là một phần hành liên quan đến Đặc San HNLK 5 và việc thành lập một Ban Hợp Ca Miền Đông hát các bài hùng ca cho các ngày đại hội QGHC.

Xin được tường thuật các diễn tiến của hai vụ việc này như sau:

Đặc San HNLK 5 có gì lạ?

Khi BTC đề nghị thực hiện đặc san cho  Hôi Ngộ Liên Khóa kỳ 5 và  kêu gọi đồng môn đóng góp bài vở thì tôi nghĩ  việc thực hiện Đặc San HNLK5  cũng sẽ giống như mọi Đặc San của nhiều Hội Đoàn khác với nhiều bài vở kỷ niệm và  hình ảnh xưa 2,3 chục năm cũ.

Do vậy, có  lẽ là do ảnh hưởng …mê xem phim MI, tôi đề nghị một mục tiêu “không tưởng” cho tờ Đặc San: Đó là Đặc San HNLK5 sẽ bao gồm một loạt các trang hình ảnh “nóng” của HNLK 5, có nghĩa là vừa xong HNLK tại Mariott Hotel là sẽ có ngay các hình ảnh Hội Ngộ Hành Chánh in vào Đặc San HNLK5 để quý đồng môn khắp nơi  có thể mang về làm hành trang kỷ niệm.

Các anh trong BTC lo ngại hỏi: “Hmm…Có làm được không đó? Làm thế nào để thực hiện việc này?” Kế hoạch “hành động” của tôi, dĩ nhiên là với sự đồng ý, tiếp trợ, và phối hợp của BTC, như sau:

  • Việc thu thập bài vở cho Đặc san, đọc và chọn bài được đăng, trình bày (layout) bìa và bài vở cần được kết thúc 3 tuần trước ngày đại hội.
  • Nhà in sẽ lo in xong trước trang bìa và các trang cho phần bài vở. ráp thành từng cuốn 1 tuần trước ngày đại hội.
  • Tối ngày 29/9/2019 sau khi đã tổ chức xong Du Ngoạn Washington D.C.và Tiệc HNLK tại Marriott, anh Phát sẽ phải thức khuya tập trung, chọn lọc các hình ảnh chụp được, đưa lên (upload) một “Google Album” trên mạng Internet.
  • Sáng ngày 30/9/2019, tôi và Tụ sẽ lên mạng chọn lựa các hình ảnh tiêu biểu, tải xuống (download) và trình bày (layout) cho các trang hình ảnh Đặc San HNLK5.
  • Ngay sau đó, “nhà in” sẽ in chỉ riêng các trang cho phần hình ảnh HNLK5.
  • Các trang phần hình ảnh được ráp với các trang phần bài vở (đã in xong). Đóng bìa, cắt xén thành tập: Mission accomplished!

Đặc San Hội Ngộ Liên Khóa QGHC Kỳ 5

Kế hoạnh có vẻ …ngon ăn. nhưng thực ra để nói được “Mission accomplished!” là do công sức và sự phối hợp chặt chẽ của nhiều người trong đó có:

Nhiếp Ảnh Gia  “Grand Master” Trần Thụy Định, với ống kính chuyên nghiệp của anh, đi theo đoàn QGHC Du Ngoạn D.C., tham dự tiệc HNLK 5 tại Marriott Hotel, chụp gần cả ngàn tấm hình kỷ niệm rất đẹp và rõ nét cho HNLK QGHC thế giới năm 2019. Anh Trần Thụy Định đã giao tay cho anh Phát cái “memory chip” chứa toàn bộ các hình ảnh HNLK  ngay sau khi tiệc HNLK5 bế mạc tại đại sảnh  Marriott Hotel như đã hứa.

Anh Nguyễn Trường Phát đã chọn lọc từ gần cả ngàn các hình ảnh chụp được, upload vào “Google Album” như kế hoạch đã định. Album này vẫn còn trên mạng Internet (link:https://quocgiahanhchanhmd.com/hnlk5)

Trần Thị Tụ, người được BTC giao khoán 100% công việc trình bày tờ ĐS HNLK5. Kết quả rất mỹ mãn: ĐS HNLK5 được thiết kế, trình bày rất đẹp từ trang bìa cho đến các trang bài vở và các trang hình ảnh. Căng thẳng nhất vẫn là ngày Chủ nhật phải thức từ 3 g sáng để làm việc liên tục đến 7 giờ tối layout cho các trang hình ảnh và giúp tay đóng bìa hoàn thành tờ đặc san.

“Nhà in” Focus Digital Publishing, do Nguyễn Quang Dũng làm chủ và đảm trách việc in ấn ĐS HNLK5. Xin không nói thêm nhiều về “nhà in” ở đây.

Ban Biên Tập ĐS (anh Trần Nhựt Thăng, GS Cao Thị Lễ, anh Lê Hữu Em) đã chọn lọc bài vở, phối hợp với “nhà in” hoàn tất phần bài vở cho đặc san đúng theo thời biểu kế hoạch trù liệu.

Anh Lê Hữu Em đã vận động các Mạnh Thường Quân ủng hộ tài chánh cho việc thực hiện ĐS.  Số tiền ủng hộ từ anh LHE vận động lên tới $2000 cộng thêm các ủng hộ tài chánh từ quý Giáo Sư và nhiều CSV đồng môn khắp nơi (trong đó anh Đặng Quốc Tuấn (FL) là người đầu tiên gởi tiền ủng hộ ĐS về BTC, khai mào cho việc ủng hộ tài chánh in ĐS HNLK từ phía CSV). Với tổng số tài chánh ủng hộ lên đến $4240.00, BTC đã không phải xin và in các trang “quảng cáo tài trợ”. Nhờ vậy, tờ ĐS HNLK 5 trông rất chuyên nghiệp… hành chánh và được biếu tặng, không bán, đến các CSV và thân hữu! (Trang tri ân các MTQ và CSV ủng hộ tài chánh ĐS HNLK 5 in ở trang 4 và trang bìa sau của ĐS)

Nhìn lại việc thực hiện hoàn chỉnh tờ Đặc San HNLK5, tôi vẫn còn nhớ những nụ cười rất vui của các anh chị, các huynh trưởng đồng môn, quý Giáo sư trong Đêm Chia Tay tại nhà hàng Harvest Moon khi nhận được ấn bản rất đặc biệt ĐS HNLK5, với số phát  hành hạn chế, trong đó có các hình ảnh hội ngộ mới ngày hôm qua. Một huynh trưởng QGHC từ Nam Cali, nắm tay tôi lúc tôi đang phân phối Đặc San, nói “Rất thich, rất phục và rất cảm ơn về những việc làm rất tận tình của BTC”. Chị Lâm Kim Dzung và các anh chị ĐS khóa 18 cũng rất vui khi nhìn thấy hình ảnh họp khóa ĐS 18 tại tư gia là hình ảnh họp khóa duy nhất  đã “có hình” trong ĐS HNLK5 hôm đó.

 Và sau đây là một công tác khác của HNLK5 cũng thuộc loại “mission impossible”, đó là:

Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông:

Tôi biết có người sẽ thắc mắc tại sao chuyện Ban Hợp Ca lại thuộc loại “MI”? Có gì ghê gớm lắm đâu! Nhưng quả tình nếu nhìn lại “lịch sử” mấy chục năm của Hội Miền Đông thì Hội chưa bao giờ thành lập một Ban Hợp Ca Hành Chánh.

Thành ra có những việc nhìn thì dễ, mà  lại khó làm. Năm nào Hội HCMĐ cũng tổ chức một buổi hội ngộ tân niên và trong đó màn “văn nghệ” đầu tiên là hợp ca “Ly Rượu Mừng” của cố Nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Năm nào anh Hội Trưởng Hương Hỏa cũng làm một vòng “vận động” các chị hội nhà,  thân hữu ở các hội bạn để cùng lên sân khấu hát. Và năm nào cũng vậy, cái bài hát quen thuộc mừng xuân này ai nghe cũng biết, tưởng là dễ hát, nhưng khi tập hợp mười lăm hay hai chục chị để cùng hát thì thực là không …dễ chút nào. Người vô trật nhịp, người hát trật …”tông”, người cầm micro hát thì to mà nhiều khi hát không lên nổi ở những nốt nhạc cao. Lúc hát xong đi xuống lại chỗ ngồi, bà con vỗ tay hoan hô, khuyến khích “Hát hay không bằng hay hát”, vậy là ai nấy vui cười hỉ hả. Đầu năm mà, vui là chính, hát hay hát dở  là chuyện …nhỏ.

Hợp ca “Ly Rượu Mừng” trong Hội Ngộ Tân Niên QGHC MĐ năm 2019

Kinh nghiệm hợp ca nhìn dễ mà khó thực hiện này là lý do thành lập Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông, với mục tiêu: Trình bày các bài hợp ca thuộc loại hùng ca mang tính tranh đấu một cách nghiêm chỉnh thích hợp với tính cách quan trọng và tầm vóc thế giới của Hội Ngộ Liên Khóa  QGHC 2019 tại Thủ Đô Hoa Kỳ.

BTC đứng trước một công tác chưa  thực hiện được suốt hơn 30 năm qua kể từ ngày thành lập Hội, đơn giản là vì anh em Hành Chánh Miền Đông rất giỏi về quản trị, tổ chức hành chánh, vốn là nghề của chàng, nhưng còn chuyện hát hò thì hầu hết  lắc đầu, không phải là chuyện của …tui.

Đến lúc đụng việc thì có chị Lâm Kim Dung (ĐS 18) đứng ra nhận lãnh trách nhiệm vận động thành lập Ban Hợp Ca MĐ. Chị Kim Dung liên lạc email, hẹn ngày giờ hội họp.  Buổi họp đầu tiên của Ban Hợp Ca chỉ bao gồm hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc của các thành viên BTC, có thêm sự tham dự của anh Duy, là đồng môn thích hát và thường góp tiếng hát trong các mục đơn ca của Hội Ngộ Tân Niên. Những buổi họp ban đầu này chính yếu  là …bàn cãi và ăn uống. Nhiều đề tài thảo luận được đặt ra: Hát bài gì? Hát “live” hay hát “nhép”? Ai sẽ là người đứng ra tập dợt? Lúc đó, Anh Hương Hỏa trông có vẻ lo lắng về “điểm yếu” này của BTC.

Những buổi họp mặt sau đó của Ban Hợp Ca (BHC) có sự tham gia chị Phương Mỹ, là phu nhân của anh Trần Hữu Triết ĐS 13 (đã mất). Chị Phương Mỹ -là người tốt nghiệp ca hát Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, từng tổ chức tại vùng thủ đô các buổi trình diễn nhạc cụ Việt cổ truyền “Hương Xưa” – đồng ý sẽ đảm nhận tập dợt cho BHC MĐ. Những buổi hội họp tập hát, ăn uống các món ăn ngon, hay bàn cãi rất thân tình, rất vui vẻ  dần dà lôi cuốn thêm được nhiều anh chị khác trong Hội tham gia.

Phải nhận ra các điểm mạnh sau đây từ hoạt động thành lập Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông:

  • Tinh thần tập thể rất mạnh của các anh chị Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền đông: Khi ngồi lại với nhau, tất cả làm việc với tinh thần vì danh dự của tập thể QGHC.
  • Tinh thần quyết tâm, nỗ lực của BHC khi tập hát: Hát chưa được, chưa đúng thì cố gắng tập hát cho đúng, cho được yêu cầu.
  • Tinh thần kỷ luật và hợp tác rất cao của các anh chị trong BHC: lúc đó BHC nhóm họp và tập hát 2 ngày mỗi tuần, vào thứ năm và thứ bảy. Hầu hết thành viên BHC đều có mặt đông đủ liên tục tập dợt cho đến ngày đại hội.
  • Tinh thần tham gia ý kiến và sáng kiến: Nhiều sáng kiến và ý kiến rất hay được đề nghị và nhanh chóng thực hiện.

Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông

Các ý kiến và sáng kiến  Ban Hợp Ca HCMĐ thực hiện được trong HNLK5:

  • Đảm nhận hát “trực tiếp” quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Cộng Hòa (không dùng băng nhạc thâu sẵn)
  • Anh Hương Hỏa đề nghị BHC hát bài “Phải Lên Tiếng” của nhạc sĩ Anh Bằng, Anh Tỏa đề nghị BHC phối hợp trình bày bài hát này ngay sau khi anh Quan đọc “Bản Lên Tiếngcủa Tập Thể CSV QGHC trong ngày HNLK. Sự phối hợp rất ăn khớp cả nội dung và hình thức trình bày này trong ngày đại hội đã để lại hình tượng rất sâu sắc về tinh thần quốc gia của anh chị em QGHC.
  • Các chị trong BHC đều đồng phục áo dài từ sáng kiến và thiết kế áo dài của Trần Thị Tụ: Chiếc áo dài đồng phục của các chị trong BHC nói lên được vẻ trang trọng mà vẫn duyên dáng yêu kiều của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời nêu bật được tinh thần đồng tâm của Ban Hợp Ca HCMĐ.
  • Các bài hát BHC trình bày, tuy quen thuộc nhưng dễ đi vào lòng người nghe như bài “Việt Nam Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Duy, bài “Việt Nam Quê hương Ngạo Nghễ” của Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang…
  • Với tất cả nỗ lực và kỷ luật BHC đã trình bày nghiêm chỉnh các bài hát, đạt được yêu cầu tối thiểu của một Ban Hợp Ca trình diễn trước công chúng.

Như vậy từ tay không, Hội Hành Chánh Miền Đông bây giờ rất… “nổi tiếng” với Ban Hợp Ca Hành Chánh Miền Đông.

“Mission accomplished! Again.”

Một Năm Nhìn Lại …

Bây giờ là tháng 10 năm 2020. Tôi dự trù viết xong bài này vào cuối tháng 9, để góp bài viết kỷ niệm về HNLK5, trên bản tin MĐ, nhưng  những biến động của thời cuộc và đời sống thật không lường. Cuối tháng 3 năm 2020, Hội phải hủy bỏ buổi Hội Ngộ Tân Niên 2020 dự trù tổ chức vào đầu tháng 4,trong lúc Ban Hợp Ca MĐ vừa tái động các buổi tập dợt văn nghệ cho Hội Ngộ Tân Niên. Đến tháng 4 thì tình hình dịch bệnh trở nên nghiêm trọng cho đến nay. Hầu hết mọi sinh hoạt thường nhật đều bị ảnh hưởng.

Nhìn lại những hình ảnh của Hội Ngộ Liên Khóa QGHC thế giới Kỳ 5 năm 2019…Mới vừa đây, mà tôi ngỡ như một giấc mơ.

Có những anh chị huynh trưởng tôi quen biết, còn gặp trong kỳ đại hội giờ đã vĩnh viễn rời xa… Anh La Quốc Chánh tôi còn nhớ bắt tay anh – lần cuối – ở đại sãnh Marriott HNLK5, “mừng quá, nghe tin anh bệnh mà vẫn đến được tham dự với anh em”. Huynh Trưởng Bửu Viên, sau ngày HNLK đông đảo anh chị đồng môn HC miền đông ghé nhà viếng thăm huynh trưởng, tặng anh cái nón HNLK. Sau đó không lâu anh cũng ra đi. Chị Nguyễn Cửu Quý (ĐS18) người mà chị Lâm Kim Dung vẫn thường nhắc đến là “chị ấy đang bệnh nhưng vẫn cố gắng về tham dự HNLK5” cũng vừa vĩnh viễn giã từ đồng môn …

Còn lại nhiều, thật nhiều hình ảnh quý Giáo sư, quý huynh trưởng, quý anh chị đồng môn, quý thân hữu xa gần: Tay trong tay, vai kề vai. Tay bắt, mặt mừng, cười vui bên nhau trong kỳ Hội Ngộ Hành Chánh 2019. Hình như với tôi, điều quan trọng rốt ráo còn lại sau cùng Tình Nghĩa Quốc Gia Hành Chánh, là chất keo gắn bó giữa những người cán bộ Quốc Gia, chung một mái trường, dưới một ngọn cờ.

Cuộc gặp nhau nào cũng đến lúc chia tay, nhưng Tình Nghĩa Quốc Gia Hành Chánh thì mãi sẽ còn, khó lòng nhạt phai.

Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22)

10/2020

Mời xem lại các hình ảnh HNLK 5:

  1. HNLK Kỳ 5 Tour DC và Đại Hội tại Marriott Hotel Sep 20-21, 2019:
    https://photos.google.com/share/AF1QipN2LkHwS-4_MsnwTQxQFs-V7F1jobids7cdlZDIfo2chs6fTgebjnyQ6dkAXW_wLw?key=T1RaZ1pDZFc0WFFTaUJRRlV5dGVYc1pheE5ub1B3
  2. Đêm Chia Tay HNLK Kỳ 5 (Sep 22): https://photos.google.com/share/AF1QipMKTAb7HXfXfWB4mDkWAi0Fsj6MEXdNi0YZmbc4kfJpwm_OUcG9kMUIF0fJvRilvQ?key=clZENl9McGVMZFdoZFdBQ0FxRVJTRm5oeTNqTHR3            

Lời BBT:

Bài viết này đã đăng tải trên Bản Tin HCMĐ tháng 10/2020 nhân kỷ niệm 1 năm Hội Ngộ Liên Khóa QGHC Thế Giới kỳ 5 tổ chức vào tháng 9 năm 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.

Đến tháng 9 năm 2023 thì đã 4 năm trôi qua và tập thể QGHC vẫn chưa tổ chức được một Hội Ngộ Liên Khóa Thế Giới kỳ 6.

BBT website HCMĐ xin được đăng tải lại bài viết này như một kỷ niệm đẹp với mong mỏi sẽ có một Hội Ngộ Liên Khóa Thế Giới mới cho đại gia đình QGHC chúng ta.

Trân trọng.

 

Views: 369

Sao Mây Lại Ghé

Trần Văn Lương

Mây ơi ghé đến làm chi,

Có mang lại được chút gì ngày xưa?

 Sao Mây Lại Ghé

 

Ngây ngất nhìn mây, thoáng ngật ngầy,

Hỏi mây sao lại ghé về đây,

Tưởng còn đang lất lây ngàn dặm,

Thăm thẳm chân trời bóng nhạn bay.

 

Mây kia chẳng biết đến từ đâu,

Rỉ rả lời Ngâu quặn mái đầu,

Ngỡ thấy lại con tàu dĩ vãng,

Vội vàng quýnh quáng hỏi vài câu.

                      *

                 *         *

Có phải mây từ xóm đạo xưa,

Mang về đây tiếng mẹ ru trưa,

Dỗ dành con lúc chưa mềm giấc,

Gà gật theo từng nhịp võng đưa?

 

Mây có dây dưa ở cánh đồng

Ngắm hoa cùng bướm rực trời không,

Rồi mang hình ảnh bồng lai đó

Đến kẻ đang vò võ ngóng trông?

 

Có lông bông lạc tới thôn nghèo,

Thích thú nhìn bầy trẻ choắt cheo,

Hí hửng leo trèo đeo nhánh ổi,

Cuối cùng la lối té lăn queo?

 

Mây có theo nhau viếng cổng trường,

Nơi xưa có đứa tập yêu đương,

Ẩm ương tuổi tác chưa tròn tá,

Mà đã nhì nhằng nhớ với thương?

 

Có tìm đường ghé đến công viên,

Lặng xót xa giùm gã thiếu niên,

Cắm cúi ngày đêm xây ảo mộng,

Để rồi ôm thất vọng triền miên?

 

Mây có thấu cho nỗi chán chường

Đang dần chia cách cặp uyên ương,

Tiếng chì tiếng bấc thường vang vọng,

Khiến mộng chung đôi chết giữa đường?

 

Có lang thang cặp bến đò ngang,

Để thấy lại đôi mắt bẽ bàng

Hụt hẫng của chàng trai bé nhỏ

Khi tình đầu sớm bỏ đi hoang?

 

Và có rẽ sang nóc giáo đường

Bên lề con dốc nhỏ mù sương,

Dừng nghe Chúa thở dài khe khẽ

Thương kẻ nợ tình trót vấn vương?

 

Lừng khừng hỏi nốt tại vì sao

Mây cứ lang bang tự thuở nào,

Có biết từ lâu bao kỷ niệm

Trong khăn tẩn liệm vẫn kêu gào?

                    *

               *        *

Hỏi mãi mây sao chẳng trả lời,

Vẫn theo làn gió nhởn nhơ chơi,

Vẫn bên đời phất phơ ngang dọc,

Bỏ mặc trần gian khóc với cười.

 

Tần Lĩnh mây trời quyện khói sương,

Người xưa buồn chẳng thấy quê hương.

Ngày nay e cũng chừng không khác,

Ngơ ngác nhìn mây khách đoạn trường.

 

Mây dường như cũng chỉ là mây,

Cũng vẫn vô tình tựa cỏ cây,

Nên chẳng hề hay nơi viễn xứ,

Gót chân lữ thứ lệ vương đầy.

 

Quắt quay quay quắt bước xa nhà,

Trông ngóng màu mây cũ thiết tha.

Nhưng nếu đà phôi pha quá khứ,

Thì xin mây chớ ghé về qua.

 

Trần Văn Lương

Cali, 8/2023

Views: 47