Nguyễn Ngọc Bảo (ĐS 22)

Đại diện quân,dân,cán,chính và các chị Ban Hợp Ca Hồn Việt trước Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt-Mỹ trong một buổi chào cờ. Những người này đến đây chào cờ Hoa kỳ và cờ Việt Nam Cộng Hòa vào mỗi sáng Chủ Nhật trong suốt 7 năm qua.
Tôi vừa về đến nhà sau bữa ăn với vài người bạn vào trưa thứ Bẩy hôm nay tại một nhà hàng được nhiều người ưa thích trên đường Bellaire. Sau khi rời nhà hàng, tôi lái xe dọc theo đoạn đường hơn 5 cây số theo hướng Đông để ra vòng đai Beltway 8. Chiếc xe chạy qua những khu thương mại, nhà hàng, siêu thị, cửa tiệm, văn phòng bác sĩ, văn phòng nha khoa, văn phòng bảo hiểm, văn phòng địa ốc, văn phòng du lịch, đài phát thanh, đài truyền hình, tổ hợp luật, và những cơ sở thương mại khác của người Việt. Dọc theo hai bên lề, tôi trông thấy những bãi đậu kín mít xe mà người lái có lẽ phải khó khăn lắm mới tìm được một chỗ trống, kể cả ở những bãi có thể chứa được dăm bẩy trăm chiếc cùng lúc trong vài khu thương mại lớn.
Xe lăn bánh qua Universal Shopping Center nằm bên trái tôi. Sừng sững giữa trung tâm mua sắm đồ sộ này là tượng đài tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh trong chiến tranh Việt Nam mà cư dân thành phố thường gọi là đài tưởng niệm chiến sĩ Việt-Mỹ, với hai pho tượng cao lớn tượng trưng cho người lính VNCH và người lính Hoa Kỳ, tay cầm súng trong tư thế như đang xông vào quân địch. Khoảng 50 thước sau tượng đài này là đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam với các bức tượng nam, phụ, lão, ấu, tay xách nách mang bọc hành lý nhỏ nhoi trên hành trình tìm tự do. Tôi đã đến đấy rất nhiều lần.
Chung quanh tôi, dọc theo đường Bellaire, là một khung cảnh tấp nập những người là người. Đó đây, có những lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đang tung bay phất phới. Từ tháng 6 năm 2003, Hội Đồng Thành Phố Houston gồm 14 nghị viên đã biểu quyết với đa số tuyệt đối công nhận quốc kỳ VNCH là lá cờ chính thức của cộng đồng cư dân Mỹ gốc Việt, được quyền treo trên các công sở, các nơi công cộng và lễ hội tại thành phố.
50 năm về trước, khi những người Việt tỵ nạn đầu tiên đến Houston vào mùa Hè năm 1975, chỗ tôi đang lái xe là một vùng trông như đất hoang, được xẻ đôi bằng con đường Bellaire nhỏ hẹp chi chít ổ gà, với một làn đường đi vào, một làn đi ra. Hai bên đường là um tùm cỏ dại, không một cột đèn. Có lần tôi lái xe lạc vào khu này trong đêm tối mà ngỡ như mình đang đi trên một con đường làng nghèo nàn trong cuốn phim với bối cảnh miền Tây hoang dã của nước Mỹ vào giữa thế kỷ 19 mà tôi đã từng xem ở ngày mới lớn.Theo các khoa học gia thì hàng trăm triệu năm trước, nơi này là đại dương. Tôi không biết mất bao nhiêu triệu năm để bể cả biến thành ruộng dâu; nhưng tôi biết rõ chỉ trong ba mươi năm, ruộng dâu nơi đây biến thành những dẫy phố khang trang, sầm uất với đại lộ mỗi bên ba làn đường, ở giữa là những giàn hoa bốn mùa tươi nở.
Tất cả là nhờ người Việt.

Các building trong Saigon Houston Plaza. Nhà Hàng Kim Sơn chiếm trọn tầng trên building trong hình giữa
Những Năm Tháng Đầu Trên Đất Khách
Theo thống kê của chính quyền Hoa Kỳ, khi miền Nam Việt Nam sụp đổ vào cuối tháng Tư năm 1975 thì Houston, thành phố lớn nhất của tiểu bang Texas, chỉ có khoảng 100 người Việt đang định cư. Hầu hết trong số này là sinh viên Việt đang du học và vợ của những quân nhân Hoa Kỳ đi theo chồng sau khi họ mãn hạn phục vụ ở Việt Nam. Đến tháng Sáu cùng năm, thành phố đón nhận những người tỵ nạn Cộng sản Việt Nam đầu tiên từ bốn trại tạm trú dành cho người tỵ nạn: Pendleton ở California, Eglin ở Florida, Fort Indiantown Gap ở Pennsylvania, và Fort Chaffee ở Arkansas. Phần lớn những người Việt đầu tiên định cư ở Houston đến từ Fort Chaffee, có lẽ vì trại này gần Houston nhất. Ngày ấy, đạo luật Hỗ Trợ Người Tỵ Nạn Đông Dương của chính phủ Hoa Kỳ (the Indochinese Assistance and Refugee Assistance Act of 1975), có hiệu lực từ năm 1975 đến 1978, đã chỉ định Houston là một địa điểm định cư chính cho người Việt.
Gia đình chúng tôi gồm bố mẹ tôi và 9 người con từ Guam đến Fort Chaffee vào trung tuần tháng 7 năm 1975. Cuối tháng 8, tôi và cô em kế được một đại học ở tiểu bang Oklahoma cấp học bổng nên rời trại để đến trường học nội trú. Tháng sau, bố mẹ và các em tôi được nhà thờ Northwoods Presbyterian ở Houston bảo lãnh. Họ thuê sẵn cho gia đình một căn nhà ở phía Bắc thành phố và trả tiền thuê cho đến khi bố tôi tìm được việc làm vài tháng sau. Đến mùa Hè năm tới, tức năm 1976, tôi và cô em chuyển trường về Houston để sống với gia đình.
Cho đến cuối năm 1975, số người Việt tại Houston tăng lên khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Con số này sống lọt thõm giữa hơn hai triệu cư dân địa phương trong thành phố rộng lớn. Thời bấy giờ ra đường gặp đồng hương là mừng vô hạn, cứ như là “tha hương ngộ cố tri” (đang lúc xa quê, gặp được bạn cũ) dù rằng đó là người mình gặp được lần đầu. Thế là cầm tay rối rít hỏi han, trao đổi số điện thoại, rồi mời đến nhà dùng cơm để có dịp kể cho nhau những câu chuyện gần xa, từ chuyện định cư ở xứ sở này đến chuyện ở nơi đã nghìn trùng cách biệt.
“Tha hương ngộ cố tri” là câu thứ hai trong một bài thơ của Uông Thủ, sinh vào đời Bắc Tống, nói về bốn niềm vui lớn trong đời người theo thứ tự. Nguyên văn bài thơ là “cửu hạn phùng cam vũ, tha hương ngộ cố tri, động phòng hoa chúc dạ, kim bảng đề danh thì,” tức “nắng chín năm gặp mưa, xa quê gặp bạn cũ, đuốc hoa đêm động phòng, bảng vàng có ghi tên.” Như vậy, xa quê gặp bạn cũ chỉ đứng sau nỗi mừng được mưa sau chín năm hạn hán, mà còn thú hơn cái sướng của đêm động phòng và niềm vui khi thấy tên mình trên bảng vàng một kỳ thi.
Về sau, tôi quen với người bạn hơn tôi vài tuổi. Anh kể rằng anh từ trại tạm trú đến Houston thui thủi một mình, không thân nhân, không bè bạn. Sau hai tháng sống chung với gia đình bảo trợ người bản xứ, suốt ngày lặp bặp tập nói tiếng Anh, một hôm anh ghé siêu thị gần nhà mua thực phẩm. Đang đứng trước một quầy hàng, anh nghe một giọng nói gắt gỏng vang lên: “Ba đã bảo sao con không nghe?” Nghe được câu tiếng Việt, anh cảm động đến nỗi ứa nước mắt. Chạy vòng qua quầy hàng gần đó, anh trông thấy một người đàn ông Á châu đứng cạnh đứa con trai độ năm, bẩy tuổi. Thế là quen nhau.
Nhớ đến tình đồng hương trong những năm tháng ấy; đến nửa thế kỷ sau, chắc ai ai vẫn thấy lòng bồi hồi, xúc động.
Hè năm 1976, tôi và cô em dời trường ở Oklahoma về sống với gia đình như đã đề cập. Tuy nhiên, sau khoá học mùa Thu năm trước, tức năm 1975, chúng tôi đã sang Houston thăm bố mẹ và các em vào dịp lễ Giáng Sinh và ở lại đến qua Tết Dương Lịch mới trở lại trường. Đó là những ngày thần tiên cho chúng tôi vì được ăn cơm với những món Việt do mẹ tôi nấu và trên bàn ăn, lúc nào cũng có bát nước mắm. Mẹ tôi kể, trong hai tháng đầu ở Houston, gia đình phải dùng xì dầu hiệu Maggi thay nước mắm vì thứ nước chấm này có bán trong một siêu thị lớn gần nhà. Một hôm, bố tôi kể với người bảo trợ về nỗi nhớ nhung vị nước mắm. Vài ngày sau, người bảo trợ đến nhà, bảo bố tôi rằng ông đã tìm được một tiệm bán thứ nước đậm đà tình quê này của người Việt và lái xe đưa bố mẹ tôi đến mua. Đó là tiệm chạp phô nhỏ với diện tích chỉ bằng một garage đủ chứa hai chiếc xe nằm trên đường Chartres, song song với xa lộ 59 ở phía Đông downtown. Tiệm của một người Trung Hoa, bán các thực phẩm khô nhưng ngạc nhiên thay, có cả nước mắm. Về sau, tôi đã ghé tiệm vài lần để mua thứ nước chấm quốc hồn quốc tuý này cho gia đình. Tôi còn nhớ đó là nước mắm hiệu Lucky, giá 99 cents một chai. Về sau, khi có các tiệm thực phẩm Việt, chẳng ai dùng loại nước mắm này để chấm vì chê không ngon. Tuy nhiên, lúc mới thỉnh được chai Lucky về nhà; ngồi vào bàn ăn, rót ra một chén, vắt múi chanh vào, dầm thêm chút ớt, vừa ngửi hương thơm đã thấy cả một trời hạnh phúc.
Trong những năm tháng đầu sống trên đất khách, rào cản ngôn ngữ và sự khác biệt về thói quen, tập quán đã lắm phen khiến người Việt bị điêu đứng. Tôi đã đọc, đã nghe kể lại nhiều chuyện hiểu lầm, có những chuyện thuộc loại cười ra nước mắt, như chuyện sau đây.
Tôi có người bạn, vừa hoàn tất năm thứ ba tại một đại học ở Sài Gòn trước khi định cư ở Houston vào tháng 8 năm 1975. Cô và gia đình được người bảo trợ thuê cho một căn apartment tại vùng Đông Nam của thành phố. Gần apartment có một tiệm bán quần áo cũ mà người Việt lúc ấy gọi là hàng “Mybo,” tức “Mỹ bỏ” mà cô và cô em kế của cô thỉnh thoảng ghé đến. Những tiệm quần áo cũ tại xứ sở này là nơi người Việt thời bấy giờ ưa chuộng vì giá hợp với túi tiền người di tản và quần áo còn khá mới.
Một ngày nọ, hai chị em rủ nhau thăm lại tiệm quần áo cũ. Họ đi bộ qua một tiệm dry cleaning, tức tiệm giặt hấp hoặc giặt khô theo tiếng Việt. Nhìn qua cửa kính tiệm, trông thấy dẫy quần áo sạch sẽ, thẳng thớm treo bên trong; tưởng đó cũng là tiệm bán quần áo cũ, các cô mừng quá, hý hửng bước vào. Thế là chọn hết chiếc này sang chiếc khác, săm soi từng đường may thớ vải. Người chủ tiệm, một phụ nữ da trắng đang ngồi đọc báo ở quầy tính tiền, ngước nhìn hai cô với ánh mắt ngạc nhiên nhưng vẫn lặng im. Có lẽ bà tưởng hai cô là khách khó tính, kiểm soát xem áo quần họ giặt có sạch không, ủi có thẳng không trước khi mang áo quần đến.
– How much? Cô bạn tôi lên tiếng hỏi khi đang cầm một chiếc váy trên tay.
Ngỡ bạn tôi hỏi giá giặt ủi mỗi chiếc váy bao nhiêu, bà chủ trả lời: “35 cents!”
Hai chị em mừng quá Chiếc váy đẹp thế này, vải tốt thế này, còn mới thế này, trông hợp thời trang thế này mà giá chỉ có 35 cents. Quả là vớ được món rất bở. Có bao nhiêu tiền mang theo phải mua bằng hết mới được.
Thế là hai chị em tíu tít chọn lựa. Khi cô bạn tôi ướm một chiếc váy vào người hỏi cô em, dĩ nhiên bằng tiếng Việt, trông có hợp với mình không thì bà chủ bỏ tờ báo xuống quầy, măt lộ rõ vẻ sửng sốt. Ngay lúc ấy, có người khách khệ nệ ôm một đống quần áo đến.
Hai chị em cảm thấy có điều bất thường nên ngừng tay nhìn bà chủ và người khách. Đến lúc bà ghi giấy nhận số quần áo, thu tiền người khách, và lấy những quần áo đã giặt trao cho người này thì hai cô mới biết mình “bé cái lầm,” đây đích thị là một tiệm giặt ủi.
Xấu hổ quá, hai chị em cúi chào bà chủ và khép nép đi ra. Kể lại chuyện xong, cô bạn bảo tôi: “Em đi ra mà có cảm tưởng như gáy mình nóng ran lên vì ánh mắt nhìn theo của bà chủ. Chắc bà ấy tưởng bọn em là hai con khùng.”
Vạn Sự Khởi Đầu Nan
Trong một bản phúc trình, chính quyền Hoa Kỳ phân biệt ba đợt sóng người tỵ nạn Việt Nam vào đất nước này như sau: 1) Những người đầu tiên đến ngay sau biến cố tháng Tư năm 1975, 2) Những thuyền nhân (boat people) trong cuối thập niên 70 và nửa đầu thập niên 80, và 3) Những cựu tù nhân của cái gọi là trại Cải Tạo đến trong nửa đầu thập niên 90. Cũng theo bản phúc trình, trong số ba đợt sóng này, một cách tổng quát, những người trong đợt đầu được đánh giá cao hơn về trình độ học vấn. Tuy nhiên, trình độ của họ không giúp bản thân được nhiều tại xứ sở này. Họ phải mầy mò học hỏi để mưu sinh. Không có kinh nghiệm để học hỏi từ lớp người đi trước, vì làm gì có người đi trước.
May mắn thay, nền kinh tế Hoa Kỳ giữa thập niên 70 tăng trưởng mạnh nhờ giá dầu tăng. Là thành phố được mệnh danh là thủ đô dầu hoả (World Oil Capital) của thế giới, Houston có rất nhiều công ty cung cấp việc làm liên hệ đến dầu khí. Điển hình là hãng tiện nổi tiếng Hughes Tool đã thuê mướn ào ạt nhân công người Việt vì ba lý do: thứ nhất, người Việt khéo tay; thứ hai, người Việt chăm chỉ; và thứ ba, người Việt không bao giờ từ chối làm giờ phụ trội (overtime), có khi còn vui vẻ là khác vì làm giờ phụ trội được trả lương gấp rưỡi, làm thêm Chủ nhật được trả gấp đôi. Tiền lương tối thiểu tại Texas vào năm 1975 là 2,10 Mỹ kim cho một giờ mà Hughes Tool trả người mới vào làm từ 4,00 đến 4,50 Mỹ kim. Cộng thêm ít ra 20 giờ phụ trội được trả gấp rưỡi mỗi tuần là dư giả nuôi gia đình và để dành tiền mua xe, mua nhà. Tôi nghe kể có lúc 90 phần trăm thợ tiện của hãng là người Việt. Dĩ nhiên, điều này không làm hài lòng những người thợ da mầu và người gốc Mễ đã chiếm một tỉ lệ rất cao trong hãng trước khi người Việt đến Houston.
Lúc bấy giờ, rất đông đàn ông người Việt tỵ nạn làm cho các hãng tiện giống như Hughes Tool và các hãng thầu xây dựng như Brown & Root. Thợ hàn, thợ sơn giỏi được trả đến 7,00 Mỹ kim một giờ, tha hồ mà tiêu.
Đến năm 1980, số người Việt tại Houston tăng đến khoảng 40.000. Một phần của sự gia tăng là kết quả của làn sóng thứ hai đến Hoa Kỳ, tức các thuyền nhân vượt biên từ năm 1977. Phần khác vì Houston có khí hậu ấm áp, dồi dào việc làm, và giá nhà tương đối rẻ nên nhiều đồng hương từ các tiểu bang khác dọn sang. Vào thời điểm này, một nghề được nhiều người Việt theo đuổi là bán hàng trong các tiệm tạp hoá như U-totem, 7 Eleven, và Stop & Go. Thời ấy, các chuỗi cửa hàng tạp hoá rất thích thuê người Việt nên đã mở nhiều lớp với thông dịch viên để huấn luyện cho những nhân viên người Việt vừa được thu nhận. Nghề bán hàng này lương không nhiều nhưng bù lại, không đòi chuyên môn cao. Điều bất tiện là phải đối phó với mối nguy bị cướp bóc, nhất là khi làm ca đêm. Tuy nhiên, người Việt đặt giá trị gia đình lên hàng đầu nên đành chấp nhận rủi ro, để mang phúc lợi cho vợ, chồng, con cái.
Tôi nghe kể nhiều người làm cho các tiệm tạp hoá kiểu này đã liều lĩnh làm một việc không hợp tình, hợp lý và hợp pháp là mang bia, nước ngọt, thuốc lá mua giá rẻ từ nơi khác mang vào tiệm để bán kiếm lời thay vì bán những thứ này của tiệm cho khách. Giá mua các sản phẩm này từ những cửa hàng bán sỉ rất rẻ so với giá bán ra của tiệm nên mỗi ngày làm như vậy khoảng hai chục lần là kiếm được một số lời khá mà không phải đóng thuế. Nhiều người Việt thuở ấy cũng đã xây những cửa tiệm loại này để bán lại cho đồng hương. Trong nhiều năm trời, người Việt tại Houston đã thống trị các tiệm tạp hoá ở Houston, đặc biệt là các tiệm U-totem.
Một chị bạn tôi kể rằng khi gia đình chị từ Kansas City dọn sang Houston vào cuối thập niên 70, một người quen với gia đình đang làm quản lý cho U-totem đề nghị thân phụ chị trông coi một tiệm và “dậy nghề” ông mang hàng riêng vào bán kiếm lời. Vốn cả đời là nhà giáo nên thân phụ chị từ chối đề nghị này vì lương tâm không cho phép. Ông bảo “Làm ăn kiểu này rồi sẽ đánh sập hệ thống U-totem.” Chẳng hiểu nhận định của ông mấy phần trở thành sự thật mà U-totem ngày càng thêm lỗ lã trong việc kinh doanh. Năm 1983, Circle K Corporation mua tất cả cửa tiệm U-totem và đổi thành các tiệm Circle K.
Một sự kiện cần nhắc đến là những người Việt đến nước Mỹ trong “làn sóng thứ nhất” nhận được khá nhiều trợ cấp của chính quyền cùng sự giúp đỡ của các hội đoàn tôn giáo, các tổ chức thiện nguyện. Lúc bấy giờ chiến tranh vừa chấm dứt nên chính quyền Hoa Kỳ và người dân bản xứ có phần mang mặc cảm phản bội miền Nam Việt Nam. Vì lý do này, biết bao xứ đạo, các tổ chức thiện nguyện, và cá nhân đã tình nguyện bảo trợ cho khoảng 130.000 người tỵ nạn đến định cư tại Hoa Kỳ ngay sau biến cố tháng Tư năm 1975. Chính quyền thực hiện nhiều chương trình giúp đỡ như các lớp Anh văn dành cho người tỵ nạn, các lớp học nghề CETA (Comprehensive Employment and Training Act) kéo dài từ ba đến chín tháng mà học viên được trả mức lương tối thiểu khi theo học. Người có lợi tức thấp được hưởng welfare, food stamps. Sinh viên được cấp Basic Grant theo học đại học.
Đến năm 1990, theo bản Kiểm Tra Dân Số (US Bureau of the Census), có 18 phần trăm người Việt ở Houston tốt nghiệp bốn năm đại học. Đây là con số khá khiêm tốn so với cộng đồng Trung Hoa nhưng rất đáng khích lệ vì người Việt chỉ mới lập nghiệp tại thành phố này được 15 năm, trong khi người Hoa đã đến đây từ hơn trăm năm trước.
“Thủ Đô” Tiên Khởi: Những Dẫy Phố Phía Nam Trung Tâm Thành Phố (Downtown)
Cuối năm 1975, những người Công giáo Việt Nam được Tổng giáo phận Galveston-Houston và giáo xứ nhà thờ Holy Rosary cho phép thành lập cộng đoàn tại giáo xứ này và tổ chức Thánh lễ tiếng Việt cho giáo dân Việt Nam vào mỗi Chủ nhật tại Thánh đường. Linh mục Nguyễn Hữu Dụ và linh mục Đoàn Đình Bảng được giáo phận giao trách nhiệm trông nom cộng đoàn. Hai vị mục tử này đến từ trại tạm trú Fort Chaffee qua sự sắp xếp của cựu thượng nghị sĩ VNCH Phan Nguyệt Minh, tức phu nhân giáo sư Nha Khoa Nguyễn Văn Thơ. Lúc ấy bà là giám đốc chương trình định cư cho người tỵ nạn của Hội Từ Thiện Công Giáo USCC (The United States Catholic Conference) tại Houston, Texas.
Các Thánh lễ dành cho người Việt ở Holy Rosary lôi kéo hầu hết những người Công Giáo tại Houston. Còn gì hơn đang định cư tại xứ người mà được tham dự Thánh lễ bằng tiếng mẹ đẻ, nghe ca đoàn hát những bài Thánh ca quen thuộc từ quê nhà? Người ta chờ đợi Chủ nhật để đến nhà thờ, vừa dự Thánh lễ vừa có cơ hội hàn huyên với đồng hương. Khi Thánh lễ chấm dứt, mọi người ra bên ngoài, trước cửa nhà thờ hay trong bãi đậu xe, để túm năm tụm ba chuyện trò rôm rả. Một khung cảnh thật náo nhiệt.
Lúc ấy, vài người ở Seabrook và Kemah, hai thành phố kế cận nhau ven biển và là nơi định cư của nhiều ngư phủ Việt Nam, cách trung tâm thành phố Houston khoảng 30 dặm về phía Nam, chở tôm, cua, cá trên những xe bán tải, tức xe truck nhỏ, đến đậu bên cạnh nhà thờ Holy Rosary để bán cho đồng hương. Có người còn mang các thứ rau trồng trong vườn nhà như rau muống, rau thơm, cà chua, bí, bầu đến bán. Sau mỗi Thánh lễ, giáo dân xúm xít quanh những xe bán tải để chọn mua vì giá tôm, cua, cá rẻ hơn nhiều so với giá trong siêu thị và nhiều loại rau người Việt ưa thích không thể tìm thấy trong các cửa hàng thực phẩm của người bản xứ. Chứng kiến cảnh này, một số người có đầu óc kinh doanh nắm bắt cơ hội. Thế là các nhà hàng, các tiệm thực phẩm lần lượt mọc lên gần nhà thờ. Trước khi có Thánh lễ cho người Việt ở nhà thờ Holy Rosary, khu này là con phố chết với những ngôi nhà, toà building cũ kỹ hầu như không còn người ở nên giá thuê mướn khá rẻ, thích hợp với khả năng tài chánh những người vừa lập nghiệp trên đất khách. Dần dần, khung cảnh nơi đây trở nên náo nhiệt vào dịp cuối tuần, nhất là vào trưa và chiều Chủ nhật, sau hai Thánh lễ dành cho người Việt.
Những cơ sở thương mại tiên khởi của người Việt nổi tiếng trong thời gian ấy là tiệm thực phẩm Đông Dương, tiệm vải Nam Thành, Sài Gòn Dịch Vụ, nơi nhận gửi những thùng quà về Việt Nam qua các chuyến bay của Air France, nhà hàng Mai, nhà hàng Vạn Lộc. Đồng hương thích đọc sách và nghe nhạc có thể ghé đến tiệm sách và băng nhạc cassette Văn Hữu cũng trên đường Milam.
Khoảng năm 1979, chợ Hương Việt của bác sĩ Vũ Ban và bà Bích Ngọc khai trương ở đường Main, cùng với sự xuất hiện của Thủ Đô Plaza, thương xá đầu tiên của người Việt, cũng trên đường Main. Cả hai cơ sở thương mại này cùng toạ lạc gần nhà thờ Holy Rosary. Thủ Đô Plaza có nhà hàng, các cửa tiệm, kể cả tiệm vàng Việt Long ở tầng dưới và vũ trường Queen Bee ở tầng trên. Đến năm 1982 hay 1983, Milam Center, tức Trung Tâm Thương Mại Á Đông mọc lên giữa các con đường Milam, Travis, Drew, và Tuam. Chiếm một diện tích lớn của trung tâm là siêu thị Hoà Bình, siêu thị thực phẩm lớn nhất của người Việt Houston ở thời điểm ấy. Trung tâm có nhiều cửa tiệm bán đủ mặt hàng từ vải vóc, quần áo, giầy dép đến đồ chơi cho trẻ em. Đặc biệt, có đến 4 tiệm vàng ở đây gồm các tiệm Lê Chung, Minh Trí, Kim Hoàn, và Hoàng Ngọc. Sự hiện diện của bốn tiệm vàng tại cùng một khu thương mại chứng tỏ người Việt đã ăn nên làm ra trong những năm đầu tiên trên đất khách.
Thật ra, vào cuối thập niên 70, đã có hai khu thương mại của người Việt ở hướng Đông downtown, gần George Brown Convention Center bây giờ, là Vinatown và Vietnam Plaza. Tuy nhiên, hai khu này kém hẳn khu ở hướng Nam gần nhà thờ Holy Rosary về mức độ sầm uất.
Thời bấy giờ, bên cạnh những cơ sở thương mại Việt Nam ở phía Nam và phía Đông downtown, Houston còn có những cửa tiệm và nhà hàng Việt rải rác trong thành phố. Nổi tiếng trong số này là nhà hàng Saigon của võ sư Văn Bình trên đường Westheimer gần ngã tư Westheimer và Montrose, nhà hàng Boston Tea ở đường Franklin gần ngã tư Franklin và Milam, và tiệm thực phẩm Asia Center ở đường West Alabama gần ngã tư West Alabama và Shepherd. Tôi đã đến ba nơi này nhiều lần; đặc biệt là Asia Center vì ngoài các thứ thực phẩm bầy bán, tiệm còn cho thuê sách. Có thể nói tôi đã thuê và đọc ít ra là nửa số sách ở tiệm này. Đó là những sách đã xuất bản ở Việt Nam và do các nhà xuất bản Sống Mới và Xuân Thu ở Hoa Kỳ in lại.
Cuộc Di Tản Khỏi Trung Tâm Thành Phố

Hình trên: Tấm bảng do chủ nhân Hồng Kông dựng trên mảnh đất đầy cỏ dại. Hình dưới: Hồng Kông Citi Mall ngày nay
Bước sang đầu thiên niên kỷ mới, các khu thương mại của người Việt tại downtown trở nên sầm uất khiến người bản xứ gọi nơi này là Little Saigon. Năm 2004, qua sự vận động của một số người Việt, chính quyền thành phố đã đặt vài tên đường gần các khu thương mại này bằng tên các danh nhân Việt Nam như Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, v.v.. Những bảng tên Việt có cùng kích thước với bảng tên đường nguyên thủy tiếng Anh và được gắn cạnh nhau.
Tuy nhiên, từ những năm cuối thập niên 90, chính quyền thành phố có kế hoạch chỉnh trang, làm mới khu downtown. Bắt đầu là các công trình kéo dài cả hai hay ba năm trời để mở rộng đường phố, thiết lập tuyến đường cho xe điện. Nhà cửa cũ kỹ bị phá đi để thay bằng nhà mới. Giá nhà đất, giá thuê tăng vọt, những building cho người Việt thuê bị đòi lại khi giao kèo chấm dứt. Doanh gia Việt Nam, chủ nhân những cơ sở thương mại trong khu này, bị lúng túng.
Lúc bấy giờ, một phần khá lớn người Việt Nam sống trong vòng đai I-610 đã chuyển gia đình sang sống ở khu Tây Nam, giữa vòng đai I-610 và Beltway 8, tức vòng đai thứ hai vừa được hoàn tất. Nhiều người có điều kiện tài chánh cao hơn dọn đến Sugar Land, thành phố đang phát triển cũng trong vùng Tây Nam nhưng nằm ngoài Beltway 8, vì nhà ở đây mới hơn, rộng hơn, và trường học tốt hơn. Cũng theo bản Kiểm Tra Dân Số năm 1990 thì lợi tức trung bình của một gia đình người Việt năm ấy ở Harris County, tức quận hạt bao gồm Houston, là 22,284 Mỹ kim trong khi của gia đình người Việt ở Fort Bend County, quận hạt bao gồm Sugar Land, là 39,318 Mỹ kim (tương đương với 53.612 và 94,700 Mỹ kim theo thời giá hôm nay), tức 44 phần trăm cao hơn. Tình trạng giá nhà tăng cao cộng với số lượng người Việt sống ở vùng Tây Nam thành phố càng ngày càng đông khiến chủ các cơ sở thương mại Việt Nam trong khu downtown, kẻ trước người sau, lần lượt chuyển về đường Bellaire. Người nhìn xa trông rộng trong số doanh nhân người Việt lúc ấy là chủ Hồng Kông City Mall, một người Việt gốc Hoa. Vào thập niên 80, ông mở siêu thị rộng lớn Hồng Kông I trên đường Gessner rồi ít lâu sau, thừa thắng xông lên, khai trương Hồng Kông II ở khu Đông Nam, gần Southbelt, và Hồng Kông III ở vùng Tây Bắc. Khoảng năm 1997-1998, khá nhiều người Mễ dọn đến chung quanh Hồng Kông I nên ông quyết định dời đi. Một thân hữu của tôi là doanh nhân từng cộng tác với chủ nhân siêu thị Hồng Kông kể với tôi ông chủ này mua 33 mẫu đất ở đường Bellaire với giá một foot vuông (square foot) chỉ bằng khoảng 1/50 so với giá cho mảnh đất còn trống hiếm hoi gần đó theo thị trường hôm nay. Lúc ấy khu vực này trông hoang vu với những bãi đất và đồng cỏ bỏ không.
Tuy việc xây cất chỉ hoàn tất sau hai năm nhưng khi vừa mua đất, doanh nhân nhìn xa trông rộng này dựng một tấm bảng lớn cho biết nơi đây sẽ trở thành Hồng Kông City Mall. Thế là chủ nhân các cửa tiệm, nhà hàng ở downtown theo nhau mua đất gần khu này để dời cơ sở kinh doanh của họ đến. Khi ấy, người Trung Hoa đã chiếm lĩnh khúc đường Bellaire gần hai cây số từ đường Gessner đến Beltway 8. Đoạn đường gần bẩy cây số từ Beltway 8 đến Eldridge Parkway từng khúc một thuộc về người Việt. Lúc Hồng Kông City Mall được khánh thành với siêu thị, vài chục cửa hàng, tiệm ăn, và một bãi đậu xe rất rộng, bà chiêm tinh gia Hồng Liên tuyên bố rằng con đường Bellaire từ Gessner đến Beltway 8, tức Chinatown, là đầu rồng, từ Beltway 8 đến Eldridge Parkway, về sau được đặt tên Little Saigon, là mình rồng, tiếp theo đó là đuôi rồng. Nếu trong phần “đầu rồng” có một số cơ sở thương mại của người Việt thì trong phần “mình rồng” cũng có vài cửa hàng của người Trung Hoa. Tuy nhiên, đây chỉ là thiểu số.

Nhà Hàng Mai năm 1978 (hình trên) và bây giờ (hình dưới)
Ngày hôm nay, lái xe dọc theo “mình rồng,” chúng ta sẽ trông thấy những trung tâm thương mại Việt Nam khang trang, bề thế với những cơ sở kinh doanh của người Việt nằm san sát nhau. Chỉ trong đoạn “mình rồng” này mà có đến bốn siêu thị rộng lớn, siêu thị nào cũng tấp nập kẻ ra người vào kể cả nhiều khách hàng bản xứ.Trong khi đó, tại phía Nam downtown của Houston hiện nay chỉ còn đôi ba cơ sở kinh doanh của người Việt bên cạnh những building rộng lớn, mới mẻ, và bề thế vừa được xây trong đợt làm mới thành phố đầu thập niên 2000. Một trong những cơ sở này là nhà hàng Mai, nằm trên đường Milam, gần nhà thờ Holy Rosary. Khi được khai trương năm 1978, Mai là một tiệm ăn nhỏ trên đường Bell. Đến năm 1984, việc kinh doanh thuận lợi nên người chủ dời nhà hàng về địa chỉ hiện tại. Ngày nay, Mai là nhà hàng nổi tiếng trong cộng đồng bản xứ, tấp nập người vào ra, đặc biệt vào những ngày cuối tuần mà khách phải đợi khá lâu mới có bàn. Ước lượng phải đến 70 phần trăm khách đến đây là người bản xứ.
Xung Đột Trong Quá Khứ
Không có thành công nào mà không trải qua những khó khăn, vất vả. Để đạt được thành quả hôm nay, người Việt Houston đã phải khắc phục nhiều trở ngại trong hành trình 50 năm, nhất là trong những năm tháng đầu. Một trong những khó khăn nhất khi khởi đầu cuộc sống tại xứ người là phải vượt qua sự chống đối của thiểu số người bản xứ vì sự cạnh tranh miếng cơm manh áo. Kể từ ngày định cư tại Houston, tập thể người Việt đã ít nhiều gặp phải trường hợp này, nhất là trong những năm tháng đầu tiên khi hai bên còn lạ lẫm với nhau.
Tôi đã nghe nhiều người kể lại những cuộc va chạm giữa người Việt với người bản xứ và với những sắc dân khác, đặc biệt là người Mỹ gốc Phi châu và người Mễ, ở các hãng xưởng trong những năm đầu trên xứ người. Phần lớn nguyên nhân xẩy ra xung đột vì công nhân Việt chăm chỉ, chịu khó nên được cấp trên quý mến, ưu đãi. Có những hãng tiện, hãng hàn, hãng làm việc lắp ráp dây chuyền rất hài lòng với nhân viên Việt Nam nên khi những người này giới thiệu bạn đến xin việc, chủ hãng hoặc sếp trực tiếp nhận vào làm ngay. Số nhân viên người Việt càng ngày càng đông, chẳng mấy chốc lấn lướt số nhân viên người bản xứ. Thế là xích mích xẩy ra.
Thời bấy giờ, các tờ báo Houston Chronicle và Houston Post cũng đề cập đến những xung đột giữa người Việt và người Mỹ gốc Phi châu tại Allen Parkway, một chung cư nghèo nàn với xấp xỉ ngàn căn hộ không có máy lạnh gần khu downtown.
Năm 1976, khoảng 90 phần trăm trong số gần ngàn căn hộ tại Allen Parkway có người ở và hầu hết cư dân là người Mỹ gốc Phi châu. Lúc ấy, chính quyền thành phố bắt đầu sắp xếp cho người Việt tỵ nạn vào ở những căn trống, rồi hễ người trong chung cư dọn đi thì có ngay người Việt đến để điền vào. Chỉ hai năm sau, số người Việt ở chung cư đã gần bằng số người bản xứ gốc Phi châu và các cuộc tranh chấp, đụng độ xẩy ra, lắm khi là ẩu đả giữa các thanh niên thuộc hai sắc tộc. Một thời gian sau, khi tìm được việc làm lương hậu và để dành đủ tiền thì người Việt ở đây lần lượt tìm mua hoặc thuê nhà ở nơi khác đủ tiện nghi hơn.
Một trường hợp tranh chấp làm rúng động toàn quốc Hoa Kỳ là cuộc xung đột bạo lực ở Seabrook và Kemah giữa các ngư phủ người Việt và người bản xứ vào những năm 1980 và 1981.
Như đã đề cập ở trên, Seabrook và Kemah là hai thành phố ven biển sát nhau, cách Houston khoảng 30 dặm, và là nơi hàng trăm gia đình người Việt rủ nhau đến lập nghiệp trong những năm 1975 và 1976. Hầu hết người Việt ở hai thành phố này lúc ấy sống bằng nghề biển, đàn ông con trai bẫy cua, đánh tôm, lưới cá; đàn bà con gái lột cua, tôm, phân loại cá tại các vựa, hoặc làm việc trong các tiệm hải sản. Trước khi người Việt đến, nơi này là làng chài của ngư phủ bản xứ. Sự cạnh tranh của người Việt khiến người Mỹ gặp khó khăn hơn trong việc mưu sinh so với lúc trước nên đã tìm mọi cách để đẩy khối người Việt ra khỏi lãnh thổ của họ. Ngư phủ Mỹ hành nghề nơi đây đã nhiều đời. Họ nghĩ cua, tôm, cá trong vùng có hạn. Bây giờ miếng bánh của họ bị chia đôi.
Tuy vừa chân ướt chân ráo đến hành nghề tại những nơi trong vùng vịnh Texas, người Việt có nhiều lợi thế hơn người bản xứ. Họ chịu khó hơn, chăm chỉ hơn, ở chung nhiều người trong những căn nhà di động (mobile home) xập xệ, ăn tiêu dè sẻn, chấp nhận đời sống kham khổ để tiết kiệm tiền đóng thêm thuyền. Cán cân cạnh tranh ngày càng nghiêng về phía người Việt. Điều này dĩ nhiên làm tăng thêm sự bất an đối với ngư phủ Mỹ.
Đến cuối năm 1980, tranh chấp giữa ngư dân người Việt và người Mỹ tại Seabrook và Kemah bùng nổ lớn. Để đe dọa ngư dân Việt tại Seabrook và Kemah, người Mỹ tại đây đã mời nhóm Ku Klux Klan (thường được gọi là KKK), một tổ chức kỳ thị cực đoan, quá khích, và sẵn sàng sử dụng bạo lực đến Seabrook phô trương lực lượng. KKK chủ trương dân tộc da trắng là thượng đẳng và xem những dân tộc da mầu là thấp hèn.
Vào trung tuần tháng Ba năm 1981, một chiếc tầu đánh tôm lớn chở những người trong nhóm KKK diễn hành dọc theo con sông trong thành phố. Những người này mặc áo choàng trắng, đội mũ trùm đầu, trang phục truyền thống của KKK, và có võ trang. Trên tầu, họ treo một hình nộm người Việt bị treo cổ. Đồng thời, nhóm KKK rải truyền đơn kêu gọi ngưởi bản xứ chống ngư dân Việt và tiến hành các vụ đốt thánh giá trong thành phố để khủng bố tinh thần người Việt. Đốt thánh giá là hình thức khai chiến của KKK kể từ đầu thế kỷ 20, khi họ chống người Do Thái và người Mỹ gốc Phi châu. Trong vài ngày, có hai tầu đánh cá của người Việt trong vùng bị họ đốt cháy.
Đến lúc này thì một số người Mỹ gốc Do Thái có thế lực bước vào cuộc chiến để giúp người Việt ở Seabrook và Kemah. Đầu tháng Tư, Hội Ngư Phủ Người Việt, dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Văn Nam, một cựu đại tá Quân Lực VNCH và là chủ một tiệm hải sản ở Seabrook, cùng với Southern Poverty Law Center (SPLC) tại Montgomery, Alabama, nộp đơn kiện KKK vì cạnh tranh thương mại thiếu công bằng. SPLC là tổ chức pháp lý phi lợi nhuận, được tài trợ bởi nhiều người Do Thái, và nổi tiếng với các vụ kiện chống lại những nhóm theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng.
Vào tháng sau, bà Gabrielle McDonald, vị thẩm phán toà liên bang gốc Phi châu đầu tiên, ban quyết định thuận lợi cho ngư dân Việt và ra lệnh cấm KKK hoạt động trong vùng Vịnh. Bị xử thua tại toà và cảm thấy không dễ dàng bắt nạt những người trưởng thành trong chiến tranh Việt Nam bằng bạo lực, nhóm KKK âm thầm rút lui. Những ngư dân bản xứ chống đối người Việt bị đặt trước ngã ba đường, hoặc tiếp tục khai thác hải sản một cách hài hoà với người Việt, hoặc chuyển sang một nghề khác, hoặc dọn khỏi thành phố.
Sau vụ kiện, ngành ngư nghiệp của người Việt phát triển mạnh tại các làng chài dọc vùng duyên hải Texas. Người Việt làm chủ các bến tầu, các vựa thu mua hải sản từ tầu, các cửa hàng hải sản bề thế. Dần dần, có lẽ phải đến 95 phần trăm ngư dân đánh tôm ở Texas là người Việt. Từ những mobile homes ọp ẹp, tối tăm lúc ban đầu, các ngư dân Việt đã dọn vào những căn nhà rộng lớn, trông như những biệt thự đồ sộ, nguy nga.
Bảo Tồn Văn Hoá Việt và Các Hội Đoàn Người Việt Ở Houston
Song song với nỗ lực an cư, lạc nghiệp trong suốt nửa thế kỷ qua, người Việt ở Houston đã cố gắng duy trì ngôn ngữ và văn hoá Việt. Kể từ khi có những lớp Việt ngữ đầu tiên dành cho các em gốc Việt từ cuối thập niên 70 tại giáo xứ Holy Rosary, nhiều trường Việt ngữ và lớp Việt ngữ đã được thành hình. Đáng kể nhất là trường Hùng Vương đã hoạt động liên tục suốt hơn 38 năm từ 1986 đến nay và trường Khai Trí được thành lập năm 2014. Tất cả các giáo xứ Công Giáo và đa số chùa ở Houston có những lớp Việt ngữ vào cuối tuần.
Điểm đặc biệt đối với cộng đồng người Việt ở Houston là các thanh thiếu niên trưởng thành tại xứ sở này học được và áp dụng thói quen sống với hai nền văn hoá Mỹ-Việt. Khi ở trường, các em cư xử như những người bạn bản xứ nhưng khi về nhà, sống với văn hoá gia đình đậm nét Việt Nam.
Trong lãnh vực truyền thông, từ năm 1977 đến nay, Houston luôn có những tờ báo Việt ngữ. Năm 1980, chương trình phát thanh Việt ngữ đầu tiên của người Việt xuất hiện mỗi tuần một lần trên radio do Đoàn Văn Nghệ và Công Tác Xã Hội Lạc Việt thực hiện. Cũng chính đoàn Lạc Việt đã thành lập Đài Truyền Hình Việt Nam vào năm 1986. Kể từ đó, có những đài phát thanh, đài truyền hình Việt Nam từng phục vụ cộng đồng người Việt tại Houston. Nhiều cơ quan truyền thông này không còn nữa; tuy nhiên, trong thời gian hoạt động, họ đã cung cấp cho người dân những tin tức cần thiết trong đời sống và góp phần duy trì bản sắc văn hoá Việt. Hiện nay, thành phố có hai đài phát thanh Việt ngữ là Radio Saigon Houston, VIET Radio Houston, cùng hai đài truyền hình là VIETV Network và ABTV-Houston.
Kể từ ngày đầu tiên định cư trên xứ người, người Việt ở Houston thành lập rất nhiều hội đoàn, hầu hết là các hội ái hữu, nơi quy tụ những cựu học sinh chung một mái trường ngày còn ở quê nhà, những người từng sống hoặc sinh ra tại một địa phương trên nước Việt, những cựu quân nhân xuất thân từ một quân trường, những cựu quân nhân chung binh chủng, những người đã bị giam cầm trong cái gọi là trại cải tạo, v.v. Là những hội ái hữu, thỉnh thoảng họ tổ chức những buổi họp mặt để các hội viên gặp nhau và chia sẻ kỷ niệm xa xưa. Chính những hội ái hữu này đã góp phần tích cực trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá Việt tại hải ngoại.
Bên cạnh những hội ái hữu, Houston còn có nhiều hội đoàn tôn giáo và các tổ chức thiện nguyện. Một trong những tổ chức có quá trình hoạt động lâu dài và được nhiều đồng hương biết là Hội Văn Hoá Khoa Học Việt Nam. Hội được thành lập năm 1990 và hoạt động liên tục suốt 35 năm cho đến hôm nay qua 8 đời hội trưởng và ban chấp hành. Có thể nói hàng dăm, bẩy trăm đồng hương ở Houston đã từng là hội viên của hội, ít ra trong một giai đoạn. Trong lãnh vực văn hoá, hội đã thực hiện rất nhiều sinh hoạt, điển hình là các lớp văn học và lịch sử Việt vào mùa hè cho thanh thiếu niên. Trong ba năm qua, vào mỗi trung tuần tháng 9, hội đã tổ chức hội chợ Văn Hoá Việt, tức Việt Cultural Festival tại NRG Center, bên cạnh NRG Stadium của đội bóng bầu dục Houston Texans; mỗi hội chợ thu hút hơn 10.000 người tham dự.
Ngoài ra, Houston và những thành phố lân cận còn có Hội Đồng Đại Diện Cộng Đồng (HĐĐDCĐ) Người Việt Tại Houston và Vùng Phụ Cận do cư dân người Việt bầu ra. Tổ chức này có trách nhiệm giúp đỡ đồng hương trong lãnh vực an sinh xã hội, đại diện cộng đồng trong các giao dịch với chính quyền bản xứ để bảo vệ quyền lợi người Việt, và ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng sản nhằm gây phân hoá khối người Việt tỵ nạn. HĐĐDCĐ tại Houston được thành lập từ năm 1983 với vị chủ tịch tiên khởi là ông Nguyễn Văn Nam, cựu đại tá Quân lực VNCH, và là người lãnh đạo khối ngư dân Việt ở Seabrook và Kemah trong cuộc tranh chấp với nhóm KKK như đã đề cập. Điều đáng nói là không như vài thành phố Hoa Kỳ khác có đông người Việt cư ngụ, Houston bao giờ cũng chỉ có một HĐĐDCĐ duy nhất do người Việt bầu lên.
Chủ tịch HĐĐDCĐ Houston hiện nay là nha sĩ Chu Văn Cương, một người trẻ nhiệt huyết, có khả năng, được khối người Việt ở thành phố này tin cậy. Nhờ sự tin cậy này, HĐĐDCĐ vừa mua được một mảnh đất rộng 3.5 mẫu với giá 2.6 triệu Mỹ kim trên đường Bellaire, gần với Texas State Highway 6, để làm trung tâm sinh hoạt. Như vậy, mảnh đất này nằm trong phần “đuôi rồng,” theo lời chiêm tinh gia Hồng Liên. Cuối tháng 8 năm 2024 vừa qua, cả ngàn người đã tham dự buổi tiệc do HĐĐDCĐ tổ chức để gây quỹ trang trải một phần chi phí mua đất. Hy vọng rằng với sự tín nhiệm đang nhận được từ đồng hương, HĐĐDCĐ đương nhiệm sẽ đóng góp được nhiều trong sự phát triển của cộng đồng người Việt Houston.
Đóng Góp Cho Xã Hội
Kể từ ngày đầu định cư, trong suốt nửa thế kỷ qua, cộng đồng người Việt ở Houston đã đóng góp cho xã hội sở tại những cống hiến và thành tựu đáng kể trong rất nhiều lãnh vực như khoa học, kỹ thuật, giáo dục, kinh tế, thương mại, tài chánh, ngư nghiệp, xây dựng, và đặc biệt là ẩm thực. Báo chí của người bản xứ đã nhiều lần ca ngợi những thành quả của người Việt ở thành phố này. Tại các hãng xưởng, các nhân viên gốc Việt được cấp trên tín nhiệm và quý mến. Đầu thập niên 90, khi tôi làm việc trong chương trình phi thuyền Con Thoi (Space Shuttle) của Hoa Kỳ thì trung tâm không gian Johnson Space Center của NASA có hơn 300 chuyên viên gốc Việt, đa số là kỹ sư các ngành. Một đồng nghiệp gốc Việt của tôi lúc ấy đã được NASA trao giải “Inventor of the Year” (Nhà Phát Minh Lỗi Lạc Nhất Trong Năm) vào năm 1992.
Rất nhiều người gốc Việt nổi tiếng đã được báo chí Houston nhắc đến và ca ngợi qua những thành quả họ đóng góp cho thành phố Houston nói riêng và đất nước Hoa Kỳ nói chung. Trong số này có người là các vị dân cử như dân biểu tiểu bang và nghị viên thành phố, có người là thẩm phán, luật sư, bác sĩ, khoa học gia, kỹ sư, giáo sư đại học, chuyên viên tài chánh, thương gia, và có cả đầu bếp, v.v.
Bàn về những đóng góp quan trọng và ý nghĩa của người tỵ nạn gốc Việt dành cho xã hội sở tại mà không nhắc đến những nhà hàng Việt Nam là một thiếu sót lớn lao. Cơ quan truyền thông của người bản xứ, đặc biệt là báo chí, đã nhiều lần ca ngợi các món ăn tại nhà hàng Việt. Có lẽ trong các nhà hàng Việt ở Houston thì Kim Sơn được người bản xứ biết đến hơn cả vì thực đơn phong phú, khung cảnh đẹp, và kích thước bề thế với diện tích 35.000 foot vuông chiếm trọn tầng trên của một trong ba buildings tại Saigon Houston Plaza, trung tâm thương mại tráng lệ trên đường Bellare được khai trương năm 2006. Tạp chí Houston Business Journal đã xếp hạng Kim Sơn là “nhà hàng không phải của người bản xứ tốt nhất trong thành phố.” Hầu như tất cả người Mỹ yêu thức ăn Việt đều đã đến nhà hàng này. Những người Việt ở thành phố khác khi có dịp ghé Houston cũng cố thu xếp để đến đây.
Tôi vẫn nghĩ nếu muốn giới thiệu những giá trị văn hoá đẹp của dân tộc với những sắc dân khác thì không gì bằng khởi đầu với những món ăn độc đáo của người mình. Trong ý nghĩa này, Kim Sơn, và những nhà hàng nổi tiếng của người Việt tại Houston, đã làm rất xuất sắc nhiệm vụ phổ biến những giá trị đẹp của văn hoá Việt tại xứ người.
Ngày hôm nay, ẩm thực Việt Nam đã len lỏi vào các ngõ ngách của xã hội sở tại, đặc biệt là các món phở, bánh mì, và gỏi cuốn. Ba món ăn này rất được ưa chuộng không những đối với người bản xứ mà còn với các sắc dân thiểu số khác tại Houston vì hai lý do. Thứ nhất là giá cả bình dân. Thứ hai là ngon, rất ngon. Một anh bạn Mỹ chính gốc đã nói đùa với tôi rằng khi nghe có người nhắc đến người Việt là anh nghĩ ngay đến phở, mà hễ nghe ai nhắc đến phở là nghĩ đến người Việt Nam. Bước vào một tiệm phở ở Houston hôm nay, trông thấy thực khách Âu Mỹ là điều bình thường. Tôi đã chứng kiến nhiều người bản xứ khoan khoái húp đến thìa nước dùng cuối cùng trong tô phở, và một anh Mỹ đoạt giải ba trong cuộc thi ăn phở nhiều và nhanh trong Hội Chợ Văn Hóa Việt năm ngoái.
Bên cạnh văn hoá ẩm thực, một giá trị khác của văn hoá phi vật thể dân tộc được nhiều cư dân bản xứ ở Houston biết đến là Việt Võ Đạo. Ngày hôm qua, tôi nhận được thư từ một đồng môn võ phái này mời tham dự “sinh nhật” thứ nhất của võ đường Vovinam do cô và một võ sư lập nên vào năm ngoái tại Richmond, thành phố ngoại vi của Houston. Có lẽ đây là võ đường Vovinam thứ 10 đang hoạt động tại Houston và vùng phụ cận. Như vậy, các môn sinh Việt Võ Đạo đang làm thật tốt trách nhiệm không những chỉ bảo tồn mà còn phát huy di sản văn hoá dân tộc trong cộng đồng bản xứ. Tôi được biết khá nhiều người trẻ bản xứ theo học những lớp Vovinam tại thành phố này.
Trên quan điểm cá nhân, điều tôi tự hào và hãnh diện nhất về Cộng Đồng Người Việt Houston suốt nửa thế kỷ qua là tính rộng rãi và lòng bác ái của đồng hương. Có thể nói người Việt ở Houston luôn sẵn sàng giúp đỡ người bất hạnh. Trong các cuộc gây quỹ với mục đích từ thiện, cộng đồng người Việt ở Houston luôn luôn đóng góp nhiều hơn cộng đồng ở các thành phố khác. Xin đan cử vài thí dụ điển hình để… khoe với các đồng hương tại hải ngoại.
Ngay sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, đài phát thanh Saigon Houston đã kêu gọi đồng hương giúp đỡ các nạn nhân ở New York. Chỉ trong vòng hai tuần, người Việt Houston đã đóng góp đến nửa triệu Mỹ Kim, tương đương với 900 ngàn theo thời gíá hôm nay. Hai tháng sau, hội Văn Hoá Khoa Học Việt Nam tổ chức cuộc đi bộ walkathon 5 cây số để cũng gây quỹ giúp nạn nhân cuộc khủng bố. Cả ngàn đồng hương ở Houston đã tham gia cuộc đi bộ này.
Tháng 8 năm 2005, khi trận bão Katrina khốc liệt đang kéo đến Louisiana, 30.000 người Việt ở tiểu bang láng giềng rời bỏ cửa nhà sang Houston lánh nạn. Tuy nhiên, không một ai trong số này phải trú ngụ tại các trung tâm tạm trú công cộng (public shelters), vừa thiếu thốn tiện nghi, vừa chật hẹp. Hầu như tất cả giáo xứ và chùa Việt Nam đều mở rộng cửa đón tiếp và cung cấp thực phẩm cho nạn nhân thiên tai. Rất nhiều cư dân người Việt tại Houston đã mời các gia đình nạn nhân tá túc trong một thời gian dài. Một tờ báo người bản xứ, khi đề cập chuyện này, đã nói nhờ người Việt mà Houston được ví von là “thủ đô của lòng bác ái.”
Tháng 11 năm 2013, khi cơn bão Haiyan tàn phá nhiều thành phố ở Phi Luật Tân; cũng qua cuộc vận động của đài phát thanh Saigon Houston, người Việt Houston đã “lá lành đùm lá rách,” đóng góp hàng trăm ngàn Mỹ Kim giúp nạn nhân thiên tai ở quốc gia này. Có thể xem đây là thái độ trả ơn người dân Phi hiền lành, tốt bụng đã giúp đỡ nhiều ngàn thuyền nhân Việt khi thuyền tấp vào xứ sở họ trong hai thập niên 80 và 90. Ngày ấy, một phái đoàn thiện nguyện mang tên Nhóm Houston Mission, thay mặt khối người Việt đóng góp tài chánh giúp nạn nhân cơn bão, trong đó có bác sĩ, nha sĩ, linh mục, hòa thượng, và đại diện cơ quan truyền thông tự mua vé máy bay sang Tacloban trao tiền, khám sức khỏe, chữa răng, và phát thuốc miễn phí cho dân địa phương suốt tuần lễ ở thành phố này. Đây là thành phố của Phi Luật Tân bị cơn bão gây nhiều thiệt hại nhất với hơn 6.300 người mất mạng.
Hơn bốn năm trước, tức năm 2020, khi đại dịch Covid bùng nổ, người Việt Houston cũng đóng góp tiền, mua thực phẩm từ nhà hàng Kim Sơn để tặng các bác sĩ, y tá, nhân viên tại các bệnh viện, và những người lính cứu hoả của thành phố. Số tiền dư được dùng mua vải để nhiều thiện viên gốc Việt may khẩu trang gửi đến các bệnh viện. Thời gian đó, ít ai có thể mua được khẩu trang tương tự như thứ bầy bán tại các cửa tiệm hôm nay. Cũng trong mùa đại dịch năm ấy, một thân hữu cư dân Houston của tôi, vừa là linh mục Công giáo vừa là bác sĩ y khoa, đã đóng cửa phòng mạch 10 ngày để sang New York làm thiện nguyện tại một bệnh viện, giúp các bác sĩ chăm sóc bệnh nhân Covid khi thành phố bị phong tỏa, mà không nề hà chuyện mình có thể bị lây nhiễm. Ngày ấy, bị nhiễm bệnh này thì có rất nhiều nguy cơ tử vong vì chưa có thuốc điều trị.
Trên đây chỉ là vài thí dụ điển hình cho lòng rộng rãi và tinh thần bác ái của cư dân Việt Nam tại Houston. Các giáo xứ Việt Nam ở thành phố này thường tổ chức hội chợ hàng năm để gây quỹ trong một cuối tuần. Kể từ tối thứ Sáu đến chiều Chủ nhật, tức trong ba ngày, giáo xứ nào mà thu chưa đến nửa triệu Mỹ kim là… thất bại. Tôi được biết giáo xứ Đức Mẹ La Vang đã thu được cả triệu Mỹ kim trong ba ngày hội chợ năm ngoái.
Tôi tự hỏi người Việt Houston hào phóng vì ăn nên làm ra tại thành phố cung cấp nhiều cơ hội tiến thân hay vì sống trong môi trường bác ái từ bao năm nên chịu ảnh hưởng. Có lẽ vì cả hai yếu tố. Mẹ Teresa từng bảo “Những việc làm tốt là những mắt xích tạo thành chuỗi yêu thương.” Ông Mahatma Gandhi nói “Nơi nào có tình yêu, nơi đó có sự sống.” Suốt nửa thế kỷ qua, tôi may mắn được sống nơi đáng sống. Tôi hãnh diện vì Houston. Nói chính xác hơn: Tôi hãnh diện vì cộng đồng người Việt tại Houston.
Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương
Kể từ ngày những người Việt tỵ nạn đầu tiên đến định cư tại Houston, trong 50 năm qua, cộng đồng người Việt đã phát triển rực rỡ với dân số hôm nay ước lượng khoảng 200 ngàn. Trong số này, ngoài ba làn sóng người Việt tỵ nạn đến đây như đã đề cập, còn có những người được cha, mẹ, anh, chị, em, hay con đang sống ở Houston bảo trợ từ Việt Nam sang. Thêm nữa, nhiều đồng hương tại thành phố khác, tiểu bang khác đã dọn sang Houston vì ở nơi đây, họ có thể tìm được việc làm thích hợp với khả năng một cách dễ dàng. Đăc biệt, giá nhà Houston rẻ so với nhiều thành phố khác ở Hoa Kỳ. Trong năm năm qua, một số người Việt khá đông từ tiểu bang California chuyển đến định cư tại Houston. Có những người bán nhà ở California, mang tiền mặt sang Houston mua được ba hay bốn căn nhà với kích thước và tình trạng tương tự; một căn để ở, những căn còn lại cho thuê. Thêm nữa, giá sinh hoạt ở Houston tương đối thấp, chẳng hạn như xăng ở Texas chỉ bằng 60 phần trăm giá ở California. Giá một tô phở tại Houston cũng chỉ bằng 60 phần trăm so với một tô tương đương tại Orange County.
Ngày hôm nay, Houston là thành phố lớn nhất của tiểu bang Texas và là thành phố lớn thứ tư của Hoa Kỳ với gần hai triệu rưỡi dân. Dù có tỉ lệ chỉ khoảng tám phần trăm cư dân thành phố, người Việt không hề cảm thấy như đang sống lạc lõng giữa xứ người. Ngoài số đông cư ngụ tại vùng Tây Nam, người Việt tập trung tại nhiều khu chung quanh thành phố và khu nào cũng có những trung tâm thương mại, nhà hàng, tiệm thực phẩm Việt. Đặc biệt, vào năm 2015, chính quyền thành phố đã chấp thuận đặt tên Việt Nam cho các con đường tại khu thương mại của người Việt ở khu Tây Nam. Cũng như tại downtown Houston trước đây, các bảng tên đường bằng tiếng Việt được gắn gần bảng tên đường bằng tiếng Anh. Bellaire Boulevard trong đoạn “mình rồng” được đặt tên “Đại Lộ Sài Gòn,” đường Beechnut song song với Bellaire là “Tự Do,” các con đường ngang nối liền “Sài Gòn” với “Tự Do” được đặt tên là đường “Chiến Sĩ Vô Danh,” đường “Quốc Hận 30 Tháng Tư,” cùng các con đường mang tên các vị tướng hay tá Quân Lực VNCH được người Việt miền Nam Tự Do xem là anh hùng như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long, và Ngụy Văn Thà. Ông Ngụy Văn Thà, thiếu tá hạm trưởng Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10, đã tử trận trong cuộc hải chiến Hoàng Sa với Trung Cộng. Ông Hồ Ngọc Cẩn, đại tá Quân Lực VNCH, bị Cộng sản xử tử sau biến cố 30 tháng Tư. Các vị khác đã tuẫn tiết khi miền Nam thất thủ.
Sự kiện chính quyền thành phố chấp thuận đặt tên Việt Nam cho những con đường này đủ nói lên thế lực và uy tín của cộng đồng người Việt tại Houston đối với chính quyền sở tại.
Theo truyền thống, người Việt có sở thích sống gần gũi nhau trong phạm vi làng xã; vì vậy, trong 50 năm qua, có rất nhiều làng Việt Nam đã xuất hiện ở Houston như làng Tre, làng Thái Xuân, làng Ðà Lạt, làng Huế, làng Sài Gòn, làng Saint Joseph, làng Saint Marie, và làng Thánh Tâm, v.v.Tại hải ngoại nói chung và nước Mỹ nói riêng, nơi có đông người Việt sinh sống nhất cùng nổi tiếng nhộn nhịp nhất là thành phố Westminster thuộc Orange County, tiểu bang California, và được nhiều người gọi là Little Saigon. Tuy nhiên, có thể nói cái gì Westminster có thì Houston cũng có, nhưng có cái Houston có mà Westminster không thể có. Đó là những cơn bão khủng khiếp với sức gió trên trăm dặm một giờ thỉnh thoảng viếng thành phố vào mùa Hè và vài ngày lạnh dưới mức đông đá, lạnh đến buốt xương vào mùa Đông. Dẫu vậy, người ta vẫn bám trụ nơi đây, vẫn từ vùng có khí hậu ôn hoà dọn đến thành phố này. Người ta chịu đựng đôi ba tuần vất vả vì thời tiết để cả năm được an cư lạc nghiệp; đất lành thì chim đậu, thế thôi.
Trong bài viết, tôi dùng hai chữ “đồng hương” để chỉ người Việt sống tại Houston nói riêng và hải ngoại nói chung. Thật ra, đây là hai từ Hán-Việt có nghĩa người sống chung, hay ít ra cũng từng sống chung trong một làng (đồng có nghĩa là cùng, hương là làng). Theo nghĩa gốc, anh sinh ở làng Đông Hồ, chị sinh ở Phù Lãng thì tuy cả hai làng cùng tỉnh Bắc Ninh nhưng anh và chị không phải là đồng hương với nhau. Dẫu vậy, người ta có thói quen dùng từ này theo nghĩa rộng hơn. Chẳng hạn như khi vào Nam sau hiệp định Geneva năm 1954, những người di cư sinh cùng một tỉnh tại miền Bắc gọi nhau là đồng hương, bất kể họ sinh ở làng nào, huyện nào trong tỉnh. Cũng thế, khi ra đến hải ngoại, sống cùng với người bản xứ và sắc dân khác, người Việt có thói quen gọi nhau là “đồng hương.” Hai từ này khiến chúng ta cảm thấy gần gũi nhau, và lòng dâng lên một nỗi êm đềm mỗi khi gặp được “người Việt mình” tại nơi có đông người bản xứ, đặc biệt là trong những năm tháng đầu tiên trên đất khách.
Đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ những cuộc tao ngộ giữa những “đồng hương” tại xứ người như tôi đã kể trong phần đầu bài viết. Đến hôm nay, chúng ta đã quá quen thuộc với xứ sở này, những nơi chốn, những thói quen, những phong tục, những bạn bè. Có người bảo “quê hương đích thực là nơi ta và người thân yêu đang hiện diện, nơi chúng ta thương nhớ lúc đi xa trong thời gian dài và dạt dào niềm vui trên đường trở lại.” Ở ý nghĩa này, có lẽ tất cả “đồng hương,” dù nói ra hay không, đều xem thành phố chúng ta đang ở trong vài chục năm qua là quê hương, ít ra là quê hương thứ hai, của mình.
Ngày hôm qua, khi soi gương chải tóc, nhà tôi bảo “Tóc em giờ rụng nhiều hơn trước, mình già thật rồi!” Tôi cười nói đùa “Truyện Kiều có câu: ‘hoa tàn mà lại thêm tươi, trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.’ Mình bây giờ đã về hưu, con cái thành người, lại có thêm bầy cháu kháu khỉnh. Một ít tóc rụng rơi, thêm vài nếp nhăn xuất hiện trên mặt là lẽ thường của Tạo Hoá. Hạnh phúc quá rồi mà!”
Nói đùa với vợ xong, tôi mới cảm nhận mình đã có cuộc đời may mắn. Nửa thế kỷ trước, tôi và gia đình đã lách ra khỏi cánh cửa chiếc nhà tù vĩ đại đang khép lại để nhốt chặt đồng bào miền Nam. Từ đó, tôi được sống đời tự do, được mưu cầu hạnh phúc theo quyết định của chính mình, được sống trong một xã hội Việt Nam trên xứ người, và sống trong môi trường văn hoá dân tộc.
Tôi yêu Houston, quê hương thứ hai của tôi vì những kỷ niệm suốt 50 năm qua với cha mẹ tôi, với các em tôi, với nhà tôi, các con tôi, các cháu tôi. Tôi gặp vợ tôi ở thành phố này, có con, có cháu ở đây. Tôi mang ơn Houston nói riêng và Hoa Kỳ nói chung đã cho tôi cuộc sống tự do. Tôi đã biết tự do quan trọng thế nào cho một đời người; nhưng trong chuyến trở về Việt Nam năm 2013 để thăm người chị ruột nhà tôi đang ốm nặng, khi gặp lại những thân nhân, bằng hữu mình đã xa cách từ ngày miền Nam đổi chủ, tôi mới rõ thêm giá trị đích thực của Tự Do.
Nếu mỗi thế hệ được định nghĩa là những người được sinh ra đời trong khoảng thời gian 20 năm liên tục thì kể từ ngày người tỵ nạn Cộng sản Việt Nam đầu tiên đặt chân lên nước Mỹ, đã có 2,5 thế hệ sinh ra tại xứ này. Những hậu duệ của người tỵ nạn hiểu rõ cha mẹ họ đã chấp nhận bao hiểm nguy để họ được sống đời tự do, và bước đến tương lai trên con đường tự chọn. Họ đã tiếp nhận và đã sống với giá trị tự do theo kiểu lời phát biểu của nhà văn Evelyn Beatrice Hall: “Tôi không đồng ý với những gì bạn nói, nhưng tôi sẽ chiến đấu cho đến chết để bảo vệ quyền được nói của bạn.”
Ngày hôm nay, đa số người chủ gia đình đưa được vợ con đến bến bờ tự do ở nửa thế kỷ trước đã về thế giới bên kia. Những người còn sống nếu lúc đó 40 tuổi thì nay đã 90 và cũng sắp ra đi. Họ chính là những người đã khai sinh ra cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, trong đó có cộng đồng Houston. Mong rằng các thế hệ gốc Việt tương lai ở thành phố này sẽ dựng nên một đài tưởng niệm dành cho những người chủ gia đình ấy, bên cạnh đài tưởng niệm chiến sĩ Mỹ-Việt và đài tưởng niệm thuyền nhân đang sừng sững tọa lạc trên đường Bellaire. Họ xứng đáng để chúng ta, và những thế hệ gốc Việt mai sau ở thành phố này, ghi nhớ, mang ơn, và kính trọng.
Cuối tháng 8 năm 1963, mục sư Matin Luther King đọc bài diễn văn nổi tiếng Tôi Có Một Giấc Mơ (I Have a Dream) ở bậc thềm đài tưởng niệm tổng thống Lincoln tại Hoa Thịnh Đốn để trình bầy giấc mơ của ông về tương lai nước Mỹ, khi người da trắng và da đen có thể sống chung hoà thuận như những người bình đẳng. Ngày hôm nay tôi cũng có một giấc mơ!

Tác giả dưới bảng tên “Đại Lộ Sài Gòn”, con đường chính của Little Sài Gòn Houston
Tôi mơ một ngày mai, Việt Nam sẽ có tự do dân chủ, được lãnh đạo bởi những vị chiếm được lòng tin của người dân cả trong lẫn ngoài nước. Lúc ấy, người Việt hải ngoại sẽ xúm lại cùng người quốc nội để xây dựng đất nước. Với kiến thức thu thập được từ những quốc gia tiên tiến trên thế giới trong đủ mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục, thương mại, tài chánh v.v., khối người ở hải ngoại, trong đó có cư dân thành phố Houston, sẽ là nguồn lực quan trọng để vực Việt Nam dậy, sánh bước cùng cộng đồng những quốc gia phát triển. Tôi mơ sẽ có ngày đồng bào tôi chứng kiến được những lời tiên tri trong ca khúc Hải Ngoại Thương Ca của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từ hơn sáu thập niên trước biến thành sự thật: “Người về đây giữa non sông này, hội trùng dương hát câu sum vầy, về cho thấy con thuyền nước Nam, đi vào mùa Xuân mới sang, xa rồi ngày ấy ly tan,” và “Tôi đi giữa trời bồi hồi, cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa, mong sao nước Việt đời đời, anh dũng oai hùng chen chân thế giới…” Tôi mơ những con đường ở các tỉnh thành Việt Nam rồi sẽ giống như con đường Bellaire của Houston hôm nay, nhộn nhịp những người là người, với khuôn mặt ánh ngời hạnh phúc vì đang được sống cuộc đời phơi phới tự do.
Tôi sống ở nước Mỹ, là một công dân tốt, đóng thuế đầy đủ suốt 50 năm qua. Tuy nhiên, không ai đánh thuế được giấc mơ của tôi.