Thư Ngỏ Gởi Nhân Dân Việt Nam và Nhân Dân Hoa Kỳ: Tôi Không Bao Giờ Quên

Dưới đây là bản dịch sang tiếng Việt của một bức thư ngỏ mà Giáo Sư Sử Học người Mỹ, tên Bill Laurie, PhD, cư ngụ tại tiểu bang Arizona, đã gửi đến cho người bạn Việt Nam của mình ngày 30/10/2016 vừa qua.,

Theo GS Laurie, bức thư ngỏ này đã được đăng trên nhật báo Saigon Post ngày 17/4/1975, một tờ báo Anh ngữ xuất bản ở Saigon trước đây. Tác giả bức thư ngỏ giấu tên, và lý lịch của ông cũng không tìm ra được. Chỉ biết tác giả, theo GS Laurie, là một người đã từng phục vụ nhiều nhiệm kỳ ở Việt Nam.  GS Laurie cũng cho biết thêm là khi bức thư được đăng thì cũng là lúc trận đánh Xuân Lộc trở nên ác liệt và Cộng quân với đạn dược và vũ khí tối tân đang tiến về Saigon.

Ban Biên Tập xin cám ơn GS Laurie; người bạn Việt nhận bức thư; và GS Cao Thị Lễ, người đã sưu tầm và dịch bức thư ngỏ này.

Đó là tháng 8 năm 1966. Lúc ấy tôi là một thanh niên 20 tuổi với đầu óc đầy những lý tưởng học được từ sách vở nhà trường và nhiệt tình yêu nước, khi bước xuống chiếc phi cơ 707 mang tôi từ một nơi an toàn với một cuộc sống thoải mái đến sân bay nóng bức của phi trường Tân Sơn Nhứt, Việt Nam. Khi ấy tôi không ngờ là xứ sở nhỏ bé và dân tộc nầy đã xâm chiếm hồn tôi trong năm sau đó, và sau nầy đã trở thành một phần của tim tôi và cũng là một niềm đau riêng tư của tôi.

            Kể từ ngày ấy và trong rất nhiều năm về sau, tôi vẫn giữ những ký ức về Việt Nam và dân tộc nầy, mà một số ký ức đem lại cho tôi nụ cười và hạnh phúc, và một số khác đem lại cho tôi nước mắt, khổ não và giận dữ. Nhưng ký ức mà tôi trân quý nhứt là một nước Việt Nam của năm 1966, với một dân tộc trầm lặng, bình dị và lễ độ, ký ức của một “Viêt Nam của người Việt Nam” .  Và có cả ký ức về sự hãnh diện của một người Mỹ đã đóng góp vào chính nghĩa “tự do và dân chủ” của đất nước nầy.

            Năm đầu tiên của tôi qua nhanh, và tôi trở về với đời sống dân sự, trở về với cuộc sống an bình. Nhưng tôi cảm thấy có điều gì không đúng. Tôi không cảm thấy thoải mái trên đất nước của tôi nữa. Tôi cứ nhớ đến vẻ đẹp trầm lặng với những đêm ấm áp đầy hương vị của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy nhớ nhà. Tôi tự bảo điều nầy không đúng. Làm sao tôi có thể nhớ nhung một nơi không phải là nhà của tôi? Nhưng cảm nghĩ nầy vẫn không phai đi.

            Vì thế, tôi làm một quyết định sau cùng. Tôi  tái ghi tên vào Quân Đội và trở lại Việt Nam, trở lại đất nước mà tôi biết là tôi đã yêu.  Khi tôi trở lại, thì Việt Nam mà tôi rời chỉ trong vài tháng ngắn ngủi đã không còn nữa.  Tôi nhận thấy là tôi không bao giờ được thấy lại Việt Nam 1966, và điều nầy làm tôi rất buồn phiền.

Con số quân sĩ Mỹ đến càng ngày càng nhiều và sự căng thẳng giữa người Mỹ và người Việt càng ngày càng lan rộng và trầm trọng. Tôi rất buồn khi nhìn thấy tiền bạc của người Mỹ đã làm hư hỏng những ngưòi Việt bình dị và hiền lành, đem lại sự tham lam, và việc nầy làm cho nạn tham nhũng lan tràn. Tôi cảm thấy chua xót và khổ não  khi chứng kiến nước Mỹ đã phá  đi một “nước Việt Nam của người Việt Nam” và xây dựng một ”Việt Nam của người Mỹ”. Một Việt Nam Mỹ hoá chỉ đẹp đối với những kẻ thừa cơ hội chiến tranh làm giàu. Nhưng đối với mọi người khác thì đây là điều nhục nhã. Dân tộc Việt Nam bị hạ thấp vì bị ngưòi Mỹ lấn áp. Họ bị mất đi niềm hãnh diện và cảm thấy thấp kém. Đối với những ngưòi không cảm thấy thấp kém, những ngưòi vẫn còn giữ niềm hãnh diện, thì điều nầy gây ra sự thù ghét và khinh bỉ. Sau khi nước Mỹ đã lấy đi niềm hãnh diện và tự trọng của dân tộc Việt Nam và thay thế bằng sự vô dụng và lệ thuộc vào người Mỹ, khi các lãnh đạo vĩ đại và các chính trị gia của nước tôi tuyên bố là chúng ta phải Việt Nam hóa chiến tranh để nước Mỹ có thể thoát ra khỏi “vũng lầy” Việt Nam.

 Hòa Đàm Paris được khởi sự để Việt Nam có thể được “Hòa Bình trong Danh Dự” với “ Tự Do và Dân Chủ “ cho nhân dân Việt Nam Cộng Hòa. Sau cùng, ngày trọng đại đã tới, “Hiệp Định Hòa Bình Paris” được ký kết. Người Việt một lần nữa hy vọng, sau bao nhiêu năm đầy nước mắt, những khổ đau, sợ hãi, chết chóc và tàn phá do chiến tranh gây ra sẽ chấm dứt. Nhưng tôi không tin điều nầy, dù chỉ trong phút chốc, là chiến tranh sẽ chấm dứt. Những lý tưởng học từ nhà trường, niềm tin tưởng nơi người Mỹ và những điều tốt lành nơi họ đã bị tan vỡ từ lâu, từ việc một người tớ gái bị hãm hiếp đến thảm kịch Mỹ Lai. Tôi biết là đối với Việt Nam và dân tộc Việt, hòa ước không có nghĩa gì, và những hứa hẹn của các nhà ngoại giao uy tín chỉ là rổng tuếch như cây mục. Tôi đã biết là hòa uớc nầy chỉ giúp Mỹ ra khỏi vũng lầy mà họ đã tạo ra mà thôi.

   Tôi chỉ còn lại có một hy vọng, một ước mơ khi người Mỹ và Đồng Minh rời khỏi Việt Nam.  Đó là nước Mỹ sẽ cung cấp cho Việt Nam những khí giời, đạn dược và trang thiết bị, và quý vị, nhân dân Việt Nam, sẽ chữa lành niềm tự hào bị tổn thương, tìm lại được niềm tự trọng và tận lực tranh đấu đến chiến thắng với kẻ xâm lăng man rợ. Uớc mơ và hy vọng nầy đã bắt đầu thành hình.  Các bạn đã tìm lại niềm hãnh diện và tự trọng và tôi đã rất vui. Nhưng mà điều tệ hại đã xảy ra, các lời hứa bị phản bội, các viện trợ không còn đến nữa.  Các bạn vẫn tiếp tục đấu tranh, tử trận hay bị thương vì tổ quốc của mình. Các bạn đã yêu cầu giúp đỡ từ những người đã nói những lời “rổng tuếch”, đã ký vào những ”tờ giấy vô nghĩa“ và đã bỏ rơi các bạn. Một lần nữa các bạn đã cố nén niềm hãnh diện và cầu cứu một cách vô vọng. Vì thế những người Mỹ nhân đạo đã gởi một phái đoàn Đại Biểu Quốc Hội đến đất nước của quý các bạn. Khi đến, họ thấy con cháu của những kẻ giàu cưỡi xe gắn máy với những mái tóc dài và những cặp mắt dại đi vì nha phiến, họ thấy những kẻ làm giàu nhờ chiến tranh lái những chiếc xe ngoại quốc đắt tiền và đến những hộp đêm. Họ tiếp xúc với giới lãnh đạo và các tướng tá của các bạn, sau đó họ cho là họ thấu hiểu tình hình Việt Nam và có cơ sở để cảm thấy lương tâm nhẹ nhàng vì đã phản bội các lời hứa trước kia.

     Và bây giờ, quý vị Dân Biểu “đáng kính” (?), những vị đã được cử đến để tìm hiểu tình hình Việt Nam và đã đưa ra những khuyến cáo trên. Vài vị trong các Dân Biểu vĩ đại nầy đã khuyến cáo ngưng viện trợ cho Việt Nam, vài vị đề nghị chỉ viện trợ thức ăn và thuốc men thôi.  Các vị nầy sẽ thấy lương tâm thoải mái nếu quý vị chết với bụng no thay vì bụng đói.  Một trong các  chuyên viên nhân đạo ấy đã nói như thế nầy: ”Sớm muộn gì Cộng sản cũng chiếm được toàn bộ Việt Nam vì tính bạo dạn (aggressiveness), ý chí và chủ đích của họ hiện giờ đã vượt qua tính bạo dạn, ý chí và chủ đích của dân chúng Miền Nam Việt Nam.

    Có đúng như thế không? Tôi tự hỏi ai đã gán cho quý vị một “chủ đích” rồi lại xây lưng khi sự việc trở nên khó khăn? Ai đã đẩy “chủ đích” của quý vị vào vũng bùn ở Đồng Bằng sông Cửu Long? Ai đã dẩm nát “tính bạo dạn” của quý vị trong bụi đỏ của vùng Cao Nguyên? Ai đã nhận chìm “ý chí” của quý vị trong Biển Nam Trung Hoa ngoài khơi Đà Nẳng? Chúng ta biết ai đã làm thế phải không quý vị? Đúng rồi, chính Phái Đoàn Mỹ đã đến, quan sát và tìm hiểu nhưng họ đã không đi để thấy quý vị đang run rẩy trong cơn mưa lạnh, họ không thấy con cái của quý vị với những cặp mắt sợ sệt, họ không nghe những tiếng rên la của những người đang hấp hối … họ không đi để xem máu chảy từ các vết thương của quý vị, họ không nhìn thấy quý vị với những hơi thở cuối cùng. Họ không chảy nước mắt, không nức nở trước các cảnh nầy. Họ không hề quỳ xuống để cầu nguyện trước những bất hạnh của quý vị. Họ đã trở về những ngôi nhà an bình, đầy đủ tiện nghi của họ ở Hoa Kỳ. Gia đình của họ không bao giờ biết đói là gì. Họ không bao giờ phải ngồi một mình trong đêm khuya để quyết định có nên giết vợ con mình để họ không phải đau đớn vì bị tra tấn khi bị bọn Cộng Sản ác độc bắt được. Họ không bao giờ phải lo sợ những mảnh đạn pháo xé nát gia đình và bạn bè của họ. Các bạn thân mến, tôi e là những khẩn cầu của các bạn sẽ lọt vào những lổ tai điếc. Những lổ tai đã bị bịt kín bởi sự nhẫn tâm và sự thờ ơ, sản phẩm của sự sung túc giàu có. Xin các bạn đừng thèm muốn sự sung túc của người Mỹ vì, như các bạn đã thấy, họ đã bán linh hồn của họ để mua sự sung túc nầy.

    Và như vậy, các bạn thân mến, trong 9 năm qua, tôi đã từng gắn bó với các bạn.Tôi đã thương mến các bạn và đôi khi ghét các bạn. Tôi đã từng cuời cũng như khóc với các bạn, và có thể là trong những ngày sắp tới, tôi sẽ cùng chết với các bạn, và nếu như thế thì chúng ta đành chấp nhận.

   Hỡi đất nước Hoa Kỳ!  Mọi người có muốn biết Việt Nam hiện giờ ra sao không? Nước Viêt Nam của năm 1975 mà Hoa Kỳ đã tạo ra? Xin hãy nghe đây!

   Vài ngày trước đây, khi ngồi trên xe buýt trên đường đi Biên Hòa với vợ tôi, tôi thấy có hai đứa bé đang khóc vì mẹ chúng đang đi tìm cha chúng, một quân nhân đã trốn khỏi vùng Cao Nguyên, do đó chúng phải về nhà một mình . Một người đàn bà khác đang khóc vì đứa con vừa mới được chôn cất xong. Một người đàn ông đang khóc vì đã mất cả gia đình ở Huế. Một người đàn bà khác cho chúng tôi xem hình của chồng và năm đứa con của bà đang bị kẹt ở Đà Nẳng khi thành phố nầy bị mất vào tay Cộng Sản, và khi bà nói bà đã khóc nức nở. Tôi phải quay sang phía khác. Tôi không dám nhìn thẳng bà nữa. Điều mà tôi có thể làm là cúi đầu và nhìn xuống sàn xe vì hổ thẹn. Tôi cảm thấy nghẹn ngào truớc sự đau buồn của bà và tôi đã chảy nước mắt .

   Đó là nước Việt Nam của ngày nay đó. Tất cả buồn phiền, đau đớn, máu xương và nước mắt không ngưng. Đó là nước Việt Nam mà quý vị, các nhà nhân đạo vĩ đại của Hoa Kỳ, đã tạo dựng nên. Nước Việt Nam mà quý vị đã từ chối trách nhiệm và quay lưng phản bội.

   Ngày nay mỗi khi đọc báo, tôi cảm thấy buồn phiền làm tôi nghẹn ngào, nước mắt tuôn rơi và hổ thẹn vô cùng. Một sự hổ thẹn không phải do tôi giúp làm ra, nhưng tôi phải gánh chịu vì tôi là một người Mỹ.

    Khi quý vị nói lên những “câu rổng tuếch” và ký vào những “tờ giấy vô nghĩa”, hơi thở của quý vị làm người Mỹ chảy máu, chảy máu như những đứa trẻ con Việt Nam đang chảy máu. Trái tim của quý vị làm người Mỹ bị hôi thối, hối thối như những xác chết đang rơi rãi trên “con đường máu và nước măt” dài trăm dặm từ Cao Nguyên đến bờ biển. Quý vị đã phủi tay đối với Việt Nam, nhưng quý vị đã phủi tay trong nước mắt và máu của các bạn và dân tộc mà tôi yêu thương.

   Qua sự nhẫn tâm, vô cảm và không can thiệp của mình, quý vị đã đồng ý với những người cộng sản man rợ ở miền Bắc, quý vị đã đồng ý với sự hủy diệt một quốc gia và một dân tộc,mà quý vị đã từng gọi là bạn, đồng minh, là những người yêu nước . Những lời ấy đối với tôi hôm nay chua chát biết bao.

   Vậy thì dân chúng và những nhà lập pháp tốt bụng vĩ đại Hoa Kỳ, quý vị hãy trở về ngôi nhà  đẹp đẽ của quý vị, ăn những thức ăn bổ dưỡng, ngồi trên những chiếc ghế êm ái, uống cà phê, đọc những bài báo về những nổi hãi hùng và thảm kịch đang xảy ra ở Việt Nam, quý vị buông lời “thật là đáng tiếc”. Quý vị sẽ đi ngủ trong nệm ấm chăn êm với một lương tâm thanh thản. Nhưng khi quý vị giật mình thức giấc trong cái tĩnh mịch nửa đêm, và không biết tại sao, thì hỡi những người Mỹ, quý vị hãy lắng nghe, lắng nghe cho thật rõ, yên lặng mà nghe, thì quý vị sẽ có thể nghe dân tộc Việt Nam đang rên siết trong gông cùm, đau đớn, với những vết thưong bởi đạn pháo, quý vị sẽ nghe họ gọi đúng cái tên “đích thực” của quý vị ra.

   Ngày lễ Phục Sinh vừa đi qua.  Khi Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, Ngài cầu nguyện:  “Lạy Cha, xin Cha tha tội cho họ vì họ không biết việc họ làm.” Quý vị đã đóng đinh Việt Nam trên thập tự giá. Tôi không có được sự cảm thông của Chúa Jesus, và tôi không bao giờ cầu xin Thượng Đế tha tội cho quý vị vì quý vị quả thực biết những gì quý vị đã làm; và tôi không bao giờ, chẳng bao giờ tha thứ hay quên những gì quý vị đã làm cho Việt Nam. Không bao giờ tôi còn cảm thấy hãnh diện là một người Mỹ. Sẽ không bao giờ tôi còn có thể ngửng đầu lên và cảm nhận yêu tổ quốc mình nữa như nhiều năm trước đây.

Bây giờ tôi chỉ còn biết cúi đầu vì hổ thẹn. Hỡi đất nước Hoa Kỳ chẳng ra chi kia, ngươi đã làm tổn thương ta đến tận đáy tâm hồn. Chính đất nuớc nầy đã hủy diệt đất nước Việt Nam thương yêu của ta.

Tái Bút: Tôi xin giấu tên vì lý do an nguy cá nhân. Nếu quý vị thấy bài nầy đáng được phổ biến thì xin đăng vào các báo Việt Nam. Tôi rất vui nếu dân chúng Việt Nam biết là có một người Mỹ nào đó cảm thông tình cảnh đất nuớc mình.

Visits: 454

Phi Điểu

Lê Minh Văn

Gió biển thổi lồng lộng vào gian nhà mở toang cửa. Mặt trời đổ rực rỡ trên ban công, hắt những tia nắng tháng chín còn nồng vào gian phòng ngủ. Ông già «bảy lăm» nằm trên chiếc ghế vải xếp, lặng nhìn ngắm biển trải một màu xanh bất tận.

Phía chân trời một chiếc tàu biển đi ngang qua tầm mắt. Ông nhìn ngắm nó mãi mê, mơ hồ nhớ đến những phương trời lạ đã đi qua. Bây giờ ông đang dừng chân nơi đây, ở góc biển Hòa Dung. Căn gác thượng của ngôi nhà hai tầng trên cồn cát Thuận An này có thể là chốn dung thân vĩnh viển những ngày cuối đời của ông.

Ông mỉm cười nghĩ rằng mọi sự rồi sẽ đến một chung cuộc. Ông đã trải qua nhiều biến cố đầy sóng gió nhưng trọn vẹn hết ý nghĩa sống. Thì giờ đây sắp buông tay, tiếc nuối làm gì những thứ chẳng còn thuộc về mình nữa? Ông nghĩ thế.

Ông mỉm cười chống đôi tay lần dậy. Tinh thần ông còn khá minh mẫn, nên dù khó khăn ông có thể tựa mình trên cây gậy một cách vững vàng, lần mò ra sân thượng.

Một chiếc ghế bành đóng bằng gỗ lim, chắc nịch, chịu nắng mưa vẫn luôn nằm ở vị thế góc trái ban công, nơi đó ông có thể kéo chiếc ô riềm che nắng, hoặc có thể  xếp lại khi ông không cần đến nữa. Đó là tất cả mọi tiện nghi mà ông thừa hưởng từ người chủ nhân trước ông đã sống những ngày cuối đời ở đây.

Về ăn uống thì vợ chồng đứa con gái của Thưởng, chủ nhân ngôi nhà hiện tại  ngày hai bữa mang cơm nước lên cho ông. Chị Thưởng và hai đứa cháu thay phiên dọn dẹp quét tước trong ngoài, nhân tiện thăm chừng hoặc giúp đỡ những gì ông cần. Thằng cháu rễ đồng thời cũng là cháu nội của người chị gái ông, những ngày nghỉ dạy học, thỉnh thoảng dìu đỡ ông xuống phố cho ông hớt tóc, vào nhà hàng ngồi uống ly cà phê, hoặc cho ông xuống ngâm nước biển cho thân thể và đầu óc thư giản ra. Thỉnh thoảng nó cũng chở ông về Huế thăm nhà, thăm em trai ông và các cháu khác, hoặc đôi khi đi mua sắm chút đỉnh cho ông khuây khỏa. Ngoài tình gia đình, hình như nó có một thông cảm và cảm tình đặc biệt đối với ông.

Thật sự đời sống thường nhật của ông cũng chẳng có nhu cầu gì gọi là quan trọng. Ông chỉ cần những cái tối thiểu, ăn uống, đại tiểu tiện, tự pha lấy cà phê buổi sáng. Đời sống tinh thần thì vào dịp cuối tuần ông có thể gọi điện thoại nói chuyện với con cháu  ông ở bên Pháp và có thể đọc tin tức trên internet từ chiếc điện thoại cầm tay. Con trai ông giúp ông ứng một khoản tiền thuê gian gác trên cùng này của Thưởng và thỉnh thoảng tặng vợ chồng hai đứa cháu gọi ông bằng « ông cậu » những khoản tiền rộng rãi bù đắp vào khoản thu nhập hạn chế với đồng lương giáo viên của chúng.

Khi bệnh thấp khớp trở nặng đi đứng khó khăn, theo lời khuyên của bác sĩ điều trị con trai ông đã sắp xếp cho ông về Việt nam tránh những tháng mùa đông khắc nghiệt ở Pháp ; để nếu có thể, làm quen được với cuộc sống ở quê hương bây giờ đã đổi khác, ông có thể lưu lại dài ngày hơn với khí hậu ấm áp thích hợp cho việc điều dưỡng chiếc đầu gối sưng khớp đã hầu như bất trị.

Mọi chuyện hình như đến với ông một cách thuận lợi. Ông về Việt nam tránh mùa lạnh ở Pháp cũng đúng vào thời điểm con gái của Thưởng vận động được đổi về dạy cùng trường Trung học phổ thông cơ sở huyện với chồng nó là cháu nội của người chị ông. Cho nên Thưởng đã khéo léo sắp xếp cho vợ chồng hai đứa cháu về ở ngôi nhà Hòa Dung không xa trường bao nhiêu, nhân tiện chăm sóc cho ông ở gian nhà trên gác hiện bỏ trống.

Trong thâm tâm, con cháu ông vẫn muốn giữ ông lại Pháp cho đến cuối cùng cuộc đời, vì chúng có đủ phương tiện lo cho ông mọi điều chu tất trong viện dưỡng lão. Nhưng ông sợ những ngày cô quạnh trong những căn nhà lạnh lùng cách hẳn với đời sống bên ngoài, quyết định tìm lại những gì đã gắn bó với ông. Vào tuổi này thì chốn quê nhà của ông sẽ không có chủ nghĩa, màu sắc phe phái, cũ mới, nam bắc nữa. Quê hương  trong tâm tưởng của ông thấp thoáng dáng hình một khu đất đồi nghĩa trang gia đình rộng khoảng năm bảy chục mét vuông mà em trai ông đã điều đình mua của một lâm trường trên « Khe Đá Mài » sau khi có lệnh chính quyền sở tại giải tỏa khu nghĩa địa mênh mông của hàng trăm ngàn ngôi mộ khỏi núi Ngự Bình. Trong vuông đất ấy có di hài ông bà nội ông, hai thân sinh, chú, em gái và em trai kế của ông. Nếu được thì ông có thể về nằm ở đó, yên nghỉ cùng những người đã thiết thân gắn bó với một phần đời ông. Nếu không thì xác thân ông nên được hỏa thiêu, phần tro cốt gởi ở đâu cũng được. Chuyện hậu sự ấy chẳng có gì quan trọng đối với ông.

*

Ông già bảy mươi lăm đang nằm lơ mơ thì có tiếng gỏ cửa. Thằng cháu khệ nệ bưng lên một mâm cơm. Ông hơi ngạc nhiên vì bữa cơm trưa rất thịnh soạn. Nó giải đáp ngay thắc mắc của ông :

« Dạ thưa Ôn, hôm nay là ngày giỗ kỵ bà nội vợ cháu. Nhà con bận khách nên mời ông dùng tạm bữa. Chiều nay Ba vợ cháu sẽ lên mời Ôn xuống nhà ăn giỗ với gia đình »

Thưởng dìu ông xuống nhà dưới, mời ông ngồi vào xa lông, rót nước trà mời. Xong anh ta xin phép đến bàn thờ cúng tạ, rồi bưng mâm cổ xuống dọn vào bàn ăn.

Ông nhìn lơ đãng lên bàn thờ. Một bức chân dung khá lớn mờ trong hương khói, bên cạnh là một tấm ảnh nhỏ 10×15 cm của một người đàn bà đứng tuổi trong bộ quân phục với quân hàm Trung úy Y sĩ bộ đội.

Ông chau mày nghĩ ngợi. Người đàn bà trông quen lắm, nhưng tuyệt nhiên ông không thể nhớ được là đã gặp hoặc nhìn thấy ở đâu.

Thưởng dọn bàn xong tiến lại chắp tay kính cẩn mời ông vào bàn ăn. Vừa yên vị thì vợ Thưởng, vợ chồng đứa cháu gái cũng vừa ở dưới bếp đi lên. Thưởng xin phép ông cho các cháu vào ngồi chung bàn :

« Thưa bác, hôm nay là ngày giỗ thứ năm của mẹ cháu. Trưa nay cháu đã mời các bạn bè và chức quyền địa phương theo lể nghi bắt buộc. Nghĩ rằng bác sẽ không mấy thoải mái ngồi chung bàn với họ nên chúng cháu bàn nhau sẽ mời bác xuống dùng bữa giỗ trong vòng thân mật gia đình. »

« Thật hân hạnh cho tôi ! Cháu Thưởng nghĩ cũng phải vì sự hiện diện của tôi sẽ lấn cấn cho những người khác, vì nói cho ngay giữa cũ mới vẫn còn khác biệt. Tôi cám ơn cả gia đình đã đối xử rất tử tế với tôi. Sự chân tình của tất cả các cháu làm cho tôi rất cảm động »

Bữa ăn tối của gia đình thật ấm cúng sau một ngày khách khứa bận rộn. Mấy tháng qua liên hệ giữa ông già chế độ cũ và gia đình anh cán bộ xí nghiệp ngày càng cải thiện để đi đến chỗ thân mật và xem nhau như cùng một mái gia đình. Cảm giác đó là niềm an ủi lớn cho ông già mất quê hương gần đất xa trời.

Sau bữa ăn Thưởng mời ông ra ngồi xa lông. Anh ta lục tủ lấy ra một chai rượu ngoại XO Hennessy và hai chiếc ly pha lê, vòng tay lễ phép thưa với ông già :

« Nhân ngày giỗ mẹ, cháu có đôi điều muốn được hầu chuyện với bác. Xin phép cháu được mời bác một ly cổ nhác để tỏ tình con cháu »

Chủ, khách cùng nâng ly uống cạn chén rượu ngoại. Vợ Thưởng và các cháu biết ý đã lui hết vào nhà trong.

Chủ nhà có vẻ đăm chiêu, lựa lời :

« Bác mới biết gia đình cháu không lâu, nhưng riêng phần cháu thì đã từ lâu lắm vẫn xem bác như một người thân thuộc. Giản dị là chú Tiến (em trai ông già) thường nói chuyện về Bác. Cả Mẹ cháu ngày còn sinh tiền, hình như cũng biết bác nữa… »

Ông già hơi ngỡ ngàng. Hình ảnh người đàn bà trên bàn thờ tự nảy giờ vẫn vương vất trong đầu óc ông một hình ảnh thân quen nào đó mà ông không tài nào nhớ nổi. Nay Thưởng lại nói bà ấy biết ông, thì hẳn những tình tiết xem ra vẫn có cái gì khuất lấp.

Câu giải đáp đến không lâu sau chung rượu thứ hai.

Thưởng chậm rãi đến bàn thờ, mở cánh cửa tủ thờ lầy ra một vuôn giấy như lá thư và một chiếc thẻ bài của lính cộng hòa, kính cẩn hai tay đưa ngang mặt ông già :

« Đây là kỷ vật của Mẹ cháu, hình như có liên quan với Bác. Vì chiếc thẻ bài này mang tên bác, để chung với bức thư không địa chỉ »

Ông già run lẩy bẩy khi cầm lại trong tay chiếc thẻ bài ngày xưa đã bị tịch thu khi ông bị thương và rơi vào tay địch cũng trên bải biển này đây một ngày bi thảm cuối tháng ba năm 75. Cả một sư đoàn bộ binh thiện chiến, đã vì lệnh lạc bất nhất của các thượng cấp muốn rút về giữ Đà Nẵng rồi lại đổi ý bắt ở lại tử thủ Huế nên khi bị đánh bại lui quân về đến đây, đã tan tác hoàn toàn dưới hỏa lực khủng khiếp của địch vì các chiến hạm hải quân không thể vào gần bờ  bốc họ di tản ra khỏi địa ngục mặt trận Huế.

Ông lật qua lật lại chiếc thẻ bài thân thuộc mang tên ông « Trần Trọng Kiêm » và số quân, nhóm loại máu đục chìm trên mặt kẻm.

Những trang giấy đã bắt đầu ngả màu, tờ đậm tờ lạt chứng tỏ nó đã được viết dần dà, cách đoạn từ lâu. Một lá thư không địa chỉ vì không thể gởi đi bằng những phương tiện bình thường. Nói đúng ra đó là những trang nhật ký rời không ngày tháng hoặc bút ký dàn trải tâm tình để lại cho một người đàn ông mơ hồ là «  Anh K. »

Ông già Kiêm cứ ngồi ngây như tượng gỗ, đăm chiêu, nghẹn ngào không biết làm sao mà mở lời.

Một chuổi kỷ niệm buồn hiu hắt bỗng ùn ùn kéo về vây phủ lấy ông.

Cũng chính trên bải biển này đây một ngày cuối tháng ba 75 đời ông đã gãy vụn, tan tành.

Ông cùng đơn vị tháo chạy về vùng biển khi Huế bị tràn ngập dưới cơn lũ đỏ ác liệt của biển người, biển lửa, của đại pháo, tăng T54, T59 của Việt cộng từ miền Bắc tràn vào tấn công cố đô.

 Vượt cồn cát Thuận An là đường cùn. Pháo địch dập như mưa bấc. Những hạm tàu HQ phải dạt ra xa bờ tránh đạn. Một số tàn binh liều mình bơi theo. Đa số chới với chết chìm trên vùng biển dậy sóng trong cuồng phong bão lửa.

Ông bị thương nằm lại trên cồn cát. Một mảnh đạn dập nát ống chân cẳng trái. Đồng đội và thuộc cấp muốn cõng ông theo ra biển. Ông thét họ bỏ ông lại tìm đường thoát thân. Tình thế bất khả kháng không cho phép ông làm vướng chân những người đã cùng vào sinh ra tử với mình. Cuối cùng ông bị địch bắt làm tù binh và được cứu sống…

Thưởng biết ý, tinh tế xin cáo từ một lúc vì có công việc cần sắp xếp cho ngày mai. Ông Kiêm tỉnh cơn mê muội trở về hiện tại, thầm nghĩ :

« Lá thư không địa chỉ để chung với chiếc thẻ bài thì chắc chắn để lại cho mình chứ đâu phải ai khác nữa ! »

Ông cẩn trọng rút xấp giấy bên trong ra, nghiêng đầu đọc.

Anh K.

Không hiểu tại sao tôi lại có cái ý nghĩ muốn ghi lại đây chuyện cũ ? Những ngày êm đềm của ngày xưa đã quá xa xôi với hiện tại không mấy vui, đã nhạt nhòa theo những đổi thay của cuộc sống. Nhưng những kỷ niệm và âm vang ấy không bao giờ phai nhạt, hoặc lụi tàn trong quên lãng. Dĩ nhiên chúng có những lý cớ vững chắc để tồn tại.

Mỗi khi cầm bút, cắn môi suy nghĩ về những điều muốn ghi lại trên mặt giấy, một dấu hỏi mơ hồ cứ thắc mắc tại sao phải nói ra những điều không nên nói ? Tại sao phải sống lại những kỷ niệm thời bé dại và những tình cảm bồng bột tuổi mới lớn đã chôn sâu, đã lùi xa gần cả sáu mươi năm trời ? Cứ tại sao rồi tại sao, nhưng những giòng suy nghĩ còn tươi mùi nhựa non cứ rủ nhau quay trở về như muốn làm trẻ lại trong vô vọng một thân thể lạnh giá, xơ cứng vì bệnh tật. Dẫu sao chúng cũng còn để lại một chút màu xanh ước vọng le lói nơi tận cùng tâm khảm, giữa những đớn đau, dằn nén, chia lìa và những nghịch lý ở nơi kết cuộc của bất kỳ một cuộc nội chiến nào.

Tất cả đã sống dậy mãnh liệt một ngày cuối cùng của tháng ba năm bảy mươi lăm, ở một trạm xá tiền phương vùng Phú Thứ.

Đã có hai cuộc đời chia xa bỗng gặp lại trong một bối cảnh nghiệt ngã của chiến tranh. Giữa một nữ y sĩ của quân giải phóng và một sĩ quan chỉ huy bị thương của quân đội miền Nam bỏ lại chiến trường trong cuộc tháo chạy tuyệt vọng của  đạo quân trấn thủ trước giờ lâm tử của nó. Sắt thép của bão lửa và sóng dập của biển cả đã nhuộm đỏ một bãi biển an lành có cái tên gọi êm đềm Thuận An.

Người ấy bị trọng thương với một chiếc chân gảy vì mảnh đạn pháo. Anh đã thu hết sức lực bò lết vào được một căn chòi ngư phủ bỏ ngỏ, xé được chiếc màn buộc chặt lại vết thương trước khi ngất lịm đi bên chiếc bếp còn ấm tro trấu. Anh đã bất tỉnh trọn một ngày trước khi bộ đội chiếm đóng phát hiện ra anh, chuyển về tiền trạm.

Tôi đã được lệnh trên ở lại cứu cấp cho thương binh trước khi theo đơn vị hành quân về mặt trận phía nam Huế. Tôi đã lợi dụng những ngày ngắn ngủi ấy để cứu anh.

Định mệnh là một chiếc thẻ bài giật ra từ cần cổ một thiếu tá « ngụy ». Tôi viết từ này trong ngoặc kép, vì với tôi cho đến bây giờ, lịch sử vẫn chưa đủ phân minh để phán xét được hết một tổng thể những gì thuộc về chính và ngụy. Lịch sử cần thời gian và hiện thời tôi chẳng có lý do gì để nôn nóng tìm ra một kết luận. Những con người trong cuộc như tôi và anh đang bị lịch sử ấy chi phối nặng nề. Họ có được đãi ngộ thích đáng, công minh như trường hợp của tôi ? Họặc có được phán xét nhẹ nhàng hơn trong tinh thần hòa giải một dân tộc đã lầm lạc giết hại nhau trong ba mươi năm trời và bây giờ lưu vong biệt xứ như anh và đồng đội của anh?

Mục đích của những giòng chữ này không phải để mổ xẻ tính chính thống của một lý tưởng hay cứu cánh của một cuộc chiến tranh. Cũng không phải để phán xét những thành tựu hay thất bại của một cuộc đổi ngôi, một kế sách chính trị,  kinh tế được xưng tụng là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mà để nói về những thân phận con người lao đao trong những hoàn cảnh mập mờ dai dẳng những hận thù từ những đối nghịch giả tạo ý thức hệ đã ngăn chia tình cảm Nam Bắc. Những đứa con đã sinh ra và lớn lên trong hai phạm trù đó bắt buộc phải lao vào cuộc nội chiến để thiêu đốt chính cuộc đời mình. Và khi hòa bình tái lập thì hởi ôi họ trở thành những nạn nhân đầu tiên !

Chiếc thẻ bài mang một cái tên không bao giờ phôi pha theo thời gian. Một vết sẹo dài trên cần cổ trái xác nhận một tai nạn đáng ghi nhớ của tuổi thơ. Anh đấy chứ ai khác nữa ! Ký ức còn tươi và rõ nét vì giản dị là chính tay tôi đã xé một manh áo cũ để băng bó nó nơi vườn sau nhà tôi năm mươi tám năm về trước. Anh K, anh còn nhớ ?

Đêm trăng ấy có thể là lần cuối cùng chúng mình còn chơi đùa với nhau, còn chia xẻ, chăm sóc cho nhau sau tai nạn mà lổi chính có thể là về phần tôi đã trốn kỹ vào một góc hẽm mà không để ý đến cột sắt chống đỡ hàng chè tàu. Lần theo tiếng cười của tôi, anh đã vấp té trong trò « tròng gióng bịt mắt bắt dê »

Không lâu sau đó là định mệnh của lịch sử và chia lìa. Tôi đã âm thầm ra đi mang theo hình ảnh vết sẹo trên cần cổ anh. Tôi đã cầm nước mắt mà nói dối anh trong đêm giả từ là theo mẹ lên làm ăn ở cao nguyên. Thật sự cha tôi là một sĩ quan bộ đội phòng không, đã nhắn mẹ con tôi tập kết ra Nghệ An.

Điều thất vọng to lớn nhất của tôi không phải là một gia đình tái hợp trong bối cảnh hòa bình tạm vãn hồi. Vì cha tôi đã có một mái gia đình khác. Một vợ người địa phương và hai đứa em khác mẹ còn nhỏ.

Tôi đã hằn học tra hỏi cha tôi vì lý do gì ông phải triệu gọi mẹ con tôi, buộc chúng tôi phải từ bỏ cuộc sống êm ấm nơi mái nhà yêu thương nơi đại gia đình ngoại tôi để tập kết ra miền đất khó nghèo, trong hoàn cảnh éo le này?

Câu trả lời lạnh lùng của ông đã làm cho tôi kinh hãi. Nó sặc sụa một luận cứ tuyên truyền « Để cho con có cơ hội giác ngộ mà học tập theo gương bác và đảng. Cha không bao giờ muốn con lớn lên trong tư tưởng cực kỳ phản động của cậu Thân (em trai út của mẹ tôi đang giữ một chức trưởng phòng hành chánh quản trị ở Ty cảnh sát Thừa Thiên – Huế)

Anh nghe rõ chưa ? Cái mù quáng tai hại ấy của một người cha đảng viên quá khích, bao năm trời chờ đợi, đã xé nát những tâm tình yêu thương non trẻ của đứa con gái bỏ lại đất cố đô, đã chuyển hướng một trăm tám mươi độ cuộc đời nó với tương lai đang nẩy mầm nơi miền đất ấm đó. Tôi không thể khẳng định được là tương lai ấy sẽ ra sao, nhưng tâm linh tôi luôn bảo rằng miền đất lành ấy sẽ cho tôi một tương lai tốt đẹp hơn đây.

Không. Không bao giờ trong đầu óc thơ trẻ của tôi, cậu Thân là một con người tệ hại. Tôi không kềm được cơn giận dữ khi người cậu thân thiết, hiền lành đã hết lòng bảo bọc cho đứa cháu gái không có cha là tôi, những gì cần thiết nhất trong cuộc sống, bỗng nhiên bị xúc phạm một cách vô cớ bởi người anh rể thiếu trách nhiệm đã bỏ vợ con ra đi biền biệt :

« Ba phải lựa lời mà nói. Cậu Thân là một người đàn ông đáng kính về mọi mặt. Không có cậu ấy thì chắc gì mẹ và con có thể vượt được những khó khăn chồng chất trong cuộc sống đơn côi. Cậu đã thương con như chính con gái mình; vì cậu vẫn xót xa nghĩ rằng con có cha cũng như không. Phủ nhận một con người hiểu biết và nhân ái như vậy cũng đồng nghĩa với sự vong ơn. »

Một cái tát tai nảy lửa tôi phải nhớ đến suốt đời. Mẹ tôi cúi đầu không dám nói một tiếng nào. Hai hàng nước mắt chảy xuống, cay chua như phải nuốt lấy những giọt đắng. Tôi nhìn mẹ xót xa quên cơn đau đến tận cùng tâm khảm của chính mình.

Mẹ tôi đã phải nhận làm tất cả mọi công việc nặng nhọc của hợp tác xã nông nghiệp kiếm từng hạt cơm nuôi tôi ăn học. Phần tôi phải vất vã thích nghi dần vào những suy nghĩ và ngôn từ mới, lạ hoắc. Phải tự tôi nhồi nhét vào đầu những bài học chính trị vỡ lòng cộng sản, phải phấn đấu cật lực suy nghĩ cho đúng đường lối, chính sách…

Tôi đã trải qua tuổi dậy thì của mình không phải với hoa bướm, chim chóc như những lần săn bắt với anh nơi con hẻm ken hai hàng tre đầy những ổ chim rồn rột, nơi cây cừa đình làng với những ổ sáo, ổ cưởng, nơi những chẹn lúa đang trổ đòng đòng dấu dưới thân lá của chúng những ổ chiền chiện.

Ở đây không có những đêm trăng hòa bình như chúng mình đã trải qua với băng các chị Lý, Lài, con Lan, con Phụng và các bạn trai của anh, băng thằng Lư, chú cháu nhà thằng Hải…không hẹn mà cứ mỗi tuần trăng tụ tập hết ra đường chơi ù mọi, kéo dây, nhảy quan tiền, bịt mắt tròng gióng…

Tôi lớn dần trong vùng đất khó ấy, bắt đầu trổ mã.

Cha tôi hình như đã có chủ định, mỗi khi ghé nhà thường dẫn theo một sĩ quan trung niên, phụ tá chính trị viên tiểu đoàn của cha tôi.

Đó là một người đàn ông khô khan, ít nói. Khuôn mặt có góc cạnh không đến nổi xấu nhưng những nét thô vụng không dấu được. Đó là con trai một bí thư xã ủy đã bị xử tử những ngày đầu kháng chiến mà cha tôi quen biết trong vùng đóng quân của ông. Có lẽ từ gốc gác xuất thân ấy mà nét thù hận vẫn hằn trong đôi mắt nhìn như đổ lửa của người đàn ông ít lâu sau đã trở thành chồng tôi. Cha tôi không dấu thâm ý của ông mượn bàn tay của người con rễ chính trị viên già dặn tuổi đảng ấy để uốn nắn tôi vào khuôn phép kỷ cương của đảng.

Cuộc sống vợ chồng  tôi không hạnh phúc bao nhiêu. Qua cái nhìn không mấy tốt đẹp về con người đảng viên lạnh lùng của cha tôi, chồng tôi dù những cố gắng thương yêu dành cho vợ vẫn không thể nào khuất phục được tình cảm của một đứa con gái đã sinh ra và lớn lên ở miền Nam, còn giữ trọn trong tim kỷ niệm những ngày  êm ấm tình gia đình, hàng xóm, bạn bè. Cho nên dẫu những cố gắng để hòa vào dòng sống của xã hội miền Bắc, đứa con gái bất hạnh là tôi vẫn chôn dấu trong ký ức mình những gì thân ái rất riêng tư về tuổi hoa niên, vẫn ước mơ thầm lặng về hạnh phúc và cuộc sống êm đềm đôi lứa. Đứa con gái ấy có bao giờ quan tâm về chủ nghĩa, ý hệ chính trị mà chồng tôi đã phụng sự với hết cả thân xác lẩn tâm hồn…

Từ khi tôi học xong khóa y tá và tìm được một chỗ làm nơi bệnh viện huyện, thì công việc và những di chuyển công tác thường xuyên cũng làm cho cuộc sống chung bất đắc dĩ bớt ngột ngạt. Rồi tôi sinh thằng cháu Thưởng và hai năm sau sinh thêm đứa cháu gái. Bổn phận và tình thương một người mẹ dành hết cho con làm cho tôi khuây khỏa phần nào.

Chồng tôi xuất thân vô sản chuyên chính nên đã có một « tiền đồ » tốt đẹp đúng tiêu chuẩn. Theo cuộc chiến tranh dần đổi chiều với sự tham chiến của quân đội Mỹ ở miền Nam, anh ấy được gởi đi Liên Sô học điều khiển tên lửa phòng không. Về nước anh được đề bạt thủ trưởng đoàn tên lửa Sam bảo vệ cầu Hàm Rồng. Và trong một cuộc không tập ác liệt của những « Thần Sấm », « Con Ma » Mỹ đánh cây cầu chiến lược này, chồng tôi hy sinh.

Cuộc sống của tôi cũng không còn được yên lành nơi hậu phương nữa. Tôi được đơn vị cho đi học khóa y sĩ điều dưỡng để bổ sung cho chiến trường ngày càng trở nên ác liệt ở miền Nam. Tôi gởi thằng cháu Thưởng cho mẹ tôi và em gái nó cho bà nội, theo đoàn quân xâm nhập vào chiến trường Trị Thiên.

Dù gian khổ, lòng tôi mở hội. Từng mảnh quê hương trong trí nhớ mở lại trên những con đường tôi đi qua. Và những đêm thao thức trong láng trại, tôi mơ lại những đêm trăng thời thơ ấu có anh…

***

Rồi cuộc chiến cũng qua đi. Hòa bình vãn hồi sau những tang thương. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy lại quê nhà, nơi tôi đã trải qua tuổi thơ êm ấm bên bà ngoại và cậu Thân. Quê nhà ấy cũng in đậm hình ảnh của anh những đêm trăng…

Tôi hầu như đã mất hết những người thân.

Trước hết là chồng tôi. Tôi không có nhiều kỷ niệm và yêu thương với anh ấy. Vì lý tưởng và chủ nghĩa hầu như đã chiếm hết trái tim của người đàn ông gọi là chồng tôi. Cho nên khi được tin anh ấy mất, lòng tôi quặn thắt, nhưng những giòng nước mắt hầu như đã cạn khô từ lâu lắm.

Mấy năm sau đến phiên cha tôi hy sinh ở chiến trường Tam biên trong cuộc tổng phản công mùa hè 72. Mắt tôi cũng ráo hoảnh vì xác thân ông bị vùi lấp đâu đó trên rừng núi thâm u Tây nguyên mà mãi lâu sau chiến tranh mới được gom về nghĩa trang tử sĩ của tỉnh. Mẹ tôi cũng gắng gượng nhỏ vài giọt nước mắt khóc chồng cho phải đạo. Tôi buồn nhưng không hề khóc vì hình ảnh người cha ra đi vì nước đã đành đoạn hy sinh tình nhà, đã đổi thay với thời gian chia cách. Chắc chắn hình ảnh mẹ con tôi không có một chỗ đứng trang trọng trong thâm sâu tấm lòng của người đàn ông ấy là cha tôi; vì ông ta là một đảng viên trung kiên. Tình cảm gia đình được gọi là ủy mị đã cố giấu kỷ xuống tận đáy lòng, sau đó nhờ bàn tay thời gian xóa nhòa hẳn đi. Mục đích cao nhất của ông là phấn đấu làm đảng viên cốt cán của giai cấp.

Ngược lại tôi đã khóc ngất ngày được tin mẹ tôi qua đời trong cô quạnh ở Nghệ An, lúc tôi đang lao đao phấn đấu để sống còn trong những trận đánh tàn bạo và khủng khiếp ở chiến trường Trị Thiên. Tôi biết suốt một cuộc đời mẹ tôi chỉ mơ thấy lại được quê nhà, nhưng ngày giải phóng miền Nam đã đến quá trể, bà không đủ sức để chờ đợi được nữa.

Chờ đến ba năm, tôi gom góp tất cả của cải có được, cải táng hài cốt mẹ tôi đem về Huế táng bên mộ bà ngoại và cậu Thân. Tôi hài lòng đã thực hiện được ước vọng thầm kín của người mẹ thân yêu nhất đời, và nhờ thế tôi đã có dịp trở lại nhiều lần khu nghĩa địa thăm bà ngoại, mẹ tôi và cậu Thân, những người tôi thương và cũng thương yêu tôi nhất trên cỏi đời. Bà ngoại vẫn chăm chút con gái là mẹ tôi coi như góa bụa và đứa cháu ngoại ngoan hiền là tôi phải côi cút. Còn cậu Thân, người cậu nhân ái ấy đã thương yêu chiều chuộng cháu Phi Điểu là tôi còn hơn con Thùy là con gái đẻ của cậu ấy nữa.

Làm sao tôi quên được tình thương vô bờ cậu đã dành cho tôi. Một đêm nọ tôi sốt lên cao làm kinh phong. Người tôi rúm lại co giật. Mẹ tôi rú lên tưởng chừng như đã mất tôi. Cậu ấy đang ngủ nghe thấy tiếng khóc của mẹ tôi, choàng dậy chạy xuống nhà dưới. Không kịp thay đồ ngủ, cậu bồng xốc tôi chạy bay vào xóm tìm ông thầy Khoa chích lể nổi tiếng trong vùng.

Con hẻm xóm ấy anh còn nhớ. Nơi có con đường đất gập ghềnh rộng hơn mét phủ bóng mát của hai hàng tre ken dày. Nơi hàng ngày chúng mình vẫn thường săn bắt những chú rồn rột con trong những chiếc ổ rơm đan hình chiếc giày ống chúc ngược. Ban ngày con hẻm hiền hòa trử tình chừng nào, thì trong bóng đêm chùng phủ, nó ghê rợn kinh khiếp chừng ấy. Cậu Thân ôm xốc tôi mò mẫm từng bước chân trong bóng tối dày đặc nỉ non tiếng côn trùng và cóc nhái rên rỉ. Tóc tôi dựng đứng trong tiếng kẻo cọt của những thân tre nghiến vào nhau. Và dù là đàn ông, hình như cậu Thân cũng sợ. Tôi nghe đôi bàn tay cậu run rẩy. Nhưng cậu nghiến răng tập trung đôi mắt xoi bóng tối cố chạy nhanh hơn vì sự an nguy của tôi.

Cho nên khoảng gần một năm sau Tổng công kích Tết Mậu thân, trong một bức thư từ miền Nam gởi ra, cha tôi vắn tắt báo cho mẹ tôi biết tin cậu Thân đã « đền tội với cách mạng »

Tôi vừa đau vừa giận. Đau đớn vì mất một người thân đã bị giết oan khúc vì bị qui tội phản động với nhân dân và cách mạng trong một thứ ngôn ngữ hàm hồ của loài chồn cáo. Giận vì cách thông tin của cha tôi có một cái gì vừa hèn vừa xuẩn động.

Có cái gì đúng tuyệt đối trong khung cảnh một cuộc nội chiến đầy tranh tối tranh sáng? Khẳng định một phán xét về công tội như cha tôi đối với cậu Thân dù một ẩn ý « lưỡi gỗ » để tránh phiền muộn bị qui chụp, vẫn gây cho tôi một niềm phẩn nộ về sự đồng lỏa với tội ác và sự hạ giá một nhân phẩm về tình người với nhau, về một trình tự gia đình phải bảo trọng dù bất kỳ tình huống nào.

Xác thân cậu đã bị vùi nông bên bờ ruộng phía sau nhà. Cậu đã bị xử tử bởi những người cầm súng nhân danh công lý của người vô sản, không cần một bản án, không cần những lời biện minh hoặc lời khẩn cầu ân huệ. Chiếc đầu lâu nát vết đạn, theo lời con Thùy kể lại, vẫn u uất trong tôi những hận thù vô lý của một tên chính trị viên cuồng tín nhưng cũng có thể từ bàn tay một bộ đội thư sinh non choẹt nào đó xâm nhập từ miền Bắc, chưa hề biết chế độ và xã hội miền Nam hình thành và vận hành ra sao sau Hiệp Định Genève năm 1954. Nhưng dù kẻ sát nhân là ai đi nữa thì điều tệ hại nhất đã xẩy ra. Nó đã nhẫn tâm trút cả một tràng AK vào đầu một nạn nhân đang quì gối run rẩy, không hề run tay, không hề ân hận. Tại sao cuộc chiến nhân danh công lý và hạnh phúc cho con người lại có thể đẩy bạo lực điên cuồng đến điểm cùng tận của lương tri như vậy ?

Ấy, sự tàn bạo của chiến tranh, chủ nghĩa và tình yêu thương giữa những con người và tình máu mủ đã chia tay rành rọt như vậy. Theo anh tình yêu nào đáng trân trọng hơn ? Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Anh biết rõ câu trả lời trong thâm sâu của lòng tôi. Cho nên tôi bị đảng và cấp trên nghi ngờ, không mấy tín nhiệm. Cả cha tôi và chồng tôi cũng không mấy hài lòng vì những tư tưởng và ý nghĩ ít « chính thống trung kiên » của tôi.

Nhưng điều quan trọng nhất là cuối cùng tôi đã tìm thấy lại quê nhà. Muộn còn hơn không. Con chim già trước khi chết còn lết đôi cánh mỏi mà bay trở về nguồn cội. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu được nguyên do nào cha tôi đã đặt cho tôi cái tên Phi Điểu. Có thể đó là cả một ước vọng yêu thương của ông thời trai trẻ với mộng ước bay cao trong độc lập tự do. Nhưng buồn thay thời thế đã đẩy ông rơi xuống chiếc bẩy cộng sản nhân danh tự do cho con người và độc lập cho xứ sở. Theo tôi đó là vụ án lương tâm của lịch sử Việt nam cận đại đối với thế hệ cha tôi.

Và tôi, con chim bé nhỏ, đáng lẽ sẽ vô tư bay trong bầu trời trong xanh mùa xuân của quê hương và thảnh thơi hót trên những nhánh cau vừa trổ nụ trong những ngôi vườn êm đềm quê nhà, hoặc sải cánh sà trên những đồng lúa chín vàng thơm ngát giữa gió đồng nội thơm mùi muối thổi vào từ biển Thuận An. Thì hởi ơi Phi Điểu khốn khổ đã phải trôi giạt vào vùng trời giông bảo của vùng đất Nghệ An vốn là chiếc nôi an toàn của Đảng. Tôi không hiểu được những gì người ta nhân danh, người ta khích động và người ta phấn đấu để thể hiện chúng thành sự thật.  Phải chăng đó chỉ là một thứ ảo tưởng mê sảng, hay giản dị như một kỷ thuật dối gạt tuyệt diệu, nhân danh chủ nghĩa để mà mắt những con người khốn khổ ? Màn kịch ấy vượt quá xa tâm hồn ngay thật của tôi. Mừng thay là tôi vẫn còn đủ sáng suốt để cảnh giác những mê muội vẫn cứ rình rập chụp phủ lấy hồn tôi. Tôi vẫn tỉnh táo phân biệt được một màn kịch và sự thật đang diễn ra quanh tôi.

Cuối cùng thì Phi Điểu cũng tìm thấy lại không gian yêu thương của nó. Con chim lạc loài là tôi đã có thể xếp lại đôi cánh oan khiên mà dưỡng thương và tìm lại những kỷ niệm thanh xuân.

Cho nên sau 75, khi cả nước trở thành tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tôi kể như thuộc vào chế độ lưu dụng. Bởi những lời lẽ nhiều khi không giữ kẻ. Bởi việc đã dám chăm sóc anh với một chế độ ưu đãi không bình thường cho một tù binh ngụy, bởi chiếc thẻ bài lính VNCH được báo cáo đánh mất trên đường hành quân…Những nghi vấn ấy không qua được mắt tên chính ủy đoàn quân y. Trong ánh mắt thù ghét thường đảo rất nhanh, tôi biết vô hình chung hắn đã phê cho tôi một lý lịch không mấy trong sáng theo quan điểm đảng. Bổn phận của tôi đối với thương bệnh binh đã bị nghi kỵ. Lương tâm nghề nghiệp của tôi đã bị khước từ. Liên hệ giũa hắn và tôi thật không mấy dể chịu nơi quân y viện cho đến chung cuộc, ngày tôi được cho phục viên sớm hơn dự liệu vì chứng bệnh viêm màng phổi bất trị.

Nhưng kể từ ngày đó tôi thật sự được « giải phóng ». Để sống tự do hơn trong tưởng nhớ trọn vẹn về mẹ tôi, bà ngoại, cậu Thân và chiếc thẻ bài anh để lại. Tôi biết anh còn sống ở một nơi nào đó bên trời Tây, với một gia đình êm ấm tìm thấy lại sau những ngày chia lìa, điêu linh.

Tôi vui sướng chia xẻ cái hạnh phúc sau cùng đó của anh.

Phần tôi gượng vui trong quê hương tìm lại, với những bà con xóm giềng thân thuộc. Dù mang một chứng bệnh bất trị phổi viêm nước do những ngày chiến đấu lặn lội gian khổ trong rừng sâu nước độc, tôi đã cố gắng giúp đỡ họ chút thuốc men, chăm sóc họ những lúc trái gió trở trời. Tôi lấy tình thương và sự tương trợ làm lẽ sống cho đến khi phải buông bỏ tất cả để về đây dàn trải những ngày cuối đời ở góc biển Hòa Dung. Nơi chốn không quên, của kỷ niệm, của ân huệ từ trời cao đã run rủi cho tôi được gặp lại anh một ngày cuối tháng ba bảy mươi lăm trước khi chiến tranh chấm dứt. Anh tha lỗi cho tôi đã giữ riêng cho mình những bí mật về liên hệ giữa hai đứa đã gặp lại nhau tình cờ và oan nghiệt trong chiến tranh. Những ngày ngắn ngủi ấy bên anh cũng đủ làm cho tôi thỏa nguyện trong những ngày cuối đời và tôi sẽ vô cùng sung sướng mang chúng theo về thế giới yên bình bên kia. Tôi còn mong ước gì hơn?

Cũng như anh, tôi đã mất hết. Có ai được gì sau một cuộc chiến tranh tương tàn? Trừ những kẻ đầu tư nó nhân danh một chủ nghĩa.

Những tàn phá của cuộc nội chiến ghê gớm quá. Dù nhân danh một lý tưởng hoặc chủ nghĩa thần thánh nào chăng nữa thì những tự vựng ấy cũng quá thô thiển. Chúng nào có nghĩa gì và có đáng gì so với máu của một dân tộc đã lênh láng đổ ra và nước mắt của vô vàn những cuộc đời đã đầm đìa tuông đổ xuống những mảnh đất bị tàn phá.

Hòa bình vãn hồi trên đất nước quá đau thương này cũng hệt như tấm màn buông xuống trên một sân khấu kệch cởm. Sự thật và những khuôn mặt trơ tráo cuối cùng đã hiện rõ ra, nham nhở thảm hại.

Sau chiến tranh đời sống của người dân nào có được cải thiện? Cuộc sống của họ nào có gì đáng vui và có gì hứa hẹn?

Giữa cuộc sống buồn bã và lặng lẽ nơi quê nhà tôi vẫn hài lòng cho đến những giây phút cuối đời này còn được thảnh thơi nghĩ về anh. Với những gì mình đã vô tư sống với tuổi thơ. Mình đã sống ngay thật trong những ngày đau thương nhất của đất nước và sau trận chiến cuối cùng dữ dội ở vùng biển này, mình đã đối xử với nhau xứng đáng, từ hai trận tuyến đối nghịch, như những con người có đầy đủ nhân phẩm và lòng nhân…

Ông già bảy mươi lăm bồi hồi xếp những mảnh giấy rời lại.

Những giọt nước mắt theo dòng chảy xuống đầm đìa trên má. Ông ngồi  lặng lẽ mặc cho những cảm xúc trào dâng. Thân thể ông run rẩy từng hồi.

Cuộc chiến tranh nào chẳng tàn bạo ? Nhưng những trang thư này đã hé lộ những những ngang trái đến đau thắt cả ruột gan.

Tội nghiệp cho Phi Điểu, con chim bé nhỏ một thời thơ dại của ông Kiêm.

Ông hẳn biết người đàn bà nhạy cảm, rộng lượng và can đảm ấy không bao giờ cần đến nơi ông một lòng thương hại. Nhưng tất cả những tình cảm còn lại nơi ông dành cho người bạn gái năm xưa bây giờ chỉ thể hiện thô thiển như là một thứ tình tự nhiên, giữa người và người. Nhân thêm một thứ tình bằng hữu, chơn chất trong trắng còn sót lại trong cỏi lòng rách bươm của ông già bảy lăm.

Ông cúi đầu suy nghĩ. Ông thấy rõ rằng những đổ vỡ của cuộc đời ông chẳng thấm vào đâu so với những vết thương đau thầm lặng nơi thâm kín nhất của cõi lòng người bạn gái nhỏ bây giờ đã quá cố của ông.

Giản dị là ông chỉ chịu đau một phần và một phía. Phía người thua cuộc.

Còn Phi Điểu đã phải sống trong nghịch lý ở cả hai mặt trận, hai không gian. Đã phải ray rứt ở cả hai góc cạnh của tâm hồn mình.

***

Ít lâu sau khi lặng lẽ chia tay với thương binh tù nhân Trần Trọng Kiêm nơi tiền trạm Phú Thứ, đoàn quân giải phóng của Trung úy nữ y sĩ Phi Điểu đã đè bẹp những ổ kháng cự cuối cùng của VNCH ở phía nam Huế.

Cố đô đã sạch bóng quân thù trong niềm vui cả nước được giải phóng.

Phi Điểu dĩ nhiên đã phải hòa vào dòng người vỗ tay reo hò chiến thắng, nhưng trong thâm sâu của cõi lòng, nàng đã âm thầm khóc cho thân phận nạn nhân của chính mình.

Có đau khổ nào bằng một  người đàn bà yếu đuối đã phải lẻ loi tranh đấu cật lực để  gìn giữ lấy cho mình chút trách nhiệm lương tâm trong một cuộc nội chiến tàn bạo?

Nàng đã phải phân thân đau đớn khi cố bảo vệ chút lương tri le lói chỉ chợt tắt trước bạo lực vây quanh?

Lê Minh Văn

Visits: 1469

Hố Thẳm Trong Tôi

I have but one lamp by which my feet are guided, and that is the lamp of experience.

Patrick Henry

Lê Văn Bỉnh

Em nhắn tôi trở lại quê hương,

Thăm viếng láng giềng và họ hàng,

Gặp vài bạn cũ còn sót lại,

Chia sẻ buồn vui với xóm làng.

 

Bạn thư tôi bàn chuyện đời thường:

Văn hóa, giáo dục hay kinh thương–

Mấy vấn đề tôi còn nghĩ ngợi,

Biết đâu cùng thấy một con đường.

 

***

Lòng tôi xao xuyến tự bao năm,

Cuồng nhiệt ngày đêm những sóng ngầm,

Quê hương ai nỡ quên đi được–

Tất gang hay ngàn dặm xa xăm.

 

Nhưng tôi đã thấy xác trôi sông,

Đầu cắt lìa thân giữa cánh đồng,

Thây người quắp co trong áo trận,

Vẫn còn đây —  ký ức bềnh bồng.

 

Tàu xe chuyên chở sắp dài hàng

Từ khắp miền Nam bao kho tàng,

Chiến lợi phẩm cho miền thắng trận–

Thế kỷ nào thời đại động hang!

 

Miền Nam ơi, mi sẽ bần cùng,

Để rồi cả nước sẽ đi chung,

Đứng lên, ngả xuống theo cờ đỏ;

Ắt phải tuân theo lệnh lạnh lùng.

 

Guồng máy thi nhau chuyển ầm ầm,

Bay về tận láng trại xa xăm,

Đêm ngày thóa mạ –lời trau chuốt.

Tê tái này chết lịm trăm năm!

 

Tôi đã lê thân các trại tù,

Nghe dối gian: cách mạng mùa thu;

Đại ngôn: lịch sử ba giòng thác;

Ruột thịt: miền Nam bọn cựu thù.

 

Gian nan đói khát tháng năm dài;

Ói mửa gập người mùi tanh hôi.

Thối tha bẩn thỉu đành cam phận;

Ruộng dâu xưa, nay hóa biển rồi!

 

Ai chẳng nát lòng khi vượt biên,

Hãi hùng bao chết chóc triền miên.

Tìm sống với vài tia hy vọng.

Đại dương nào phải cảnh thần tiên.

 

Mỗi tin sang khoắng sâu vết hằn.

Đau đớn đâu còn chuyện cá nhân:

Cột mốc lùi xa biên giới Bắc,

Hải đảo lờ mờ sóng Biển Đông.

 

Thành phố sáng choang vang tiếng cười;

Vùng quê tăm tối lệ tuôn rơi.

Cội nguồn xưa … liệng bay nhắc nhở,

Cánh én trúng thương rớt giữa trời.

 

***

Biết nói gì đây với tri âm?

Bao nhiêu năm lặng lẽ âm thầm

H thm trong tôi là có tht:

Sâu trong tim – cùng tận trái tim.

 

Mơ một ngày kia ta gặp nhau,

Tay ấm tay, sóng mắt dạt dào,

Ta nói những gì ta muốn nói…

Hố thẳm năm nào sẽ bớt sâu.

Lê Văn Bỉnh 

Những ngày Tết Canh Dần 2010

 

Visits: 139

Các Anh Có Còn Đủ Lửa Gửi Về

Lê Văn Bỉnh

 

Em nhắn anh gửi về chút lửa,

Anh hỏi em sẽ nấu nướng những gì?

Em trả lời cá chết hết ngoài biển trên sông,

Heo gà nhiễm độc ai dám ăn mà nấu;

Lúa rau cháy nắng đầy đồng,

Em không cần đốt thêm chi nữa!

 

Em lại nhắn anh gửi về em chút lửa,

Anh tò mò hỏi em muốn thiêu đốt những gì?

Em trả lời rừng trơ trụi lá;

Đồi đã trọc từ đỉnh xuống chân;

Lâu đài dinh thự của tân cường hào ác bá

Đều xây bằng cốt sắt bê tông,

Cổng kín tường cao nhiều tầng bảo vệ.

Họ có chết đi cũng chỉ thêm đen địa ngục!

 

Mau gửi lửa về, em đêm ngày thúc giục.

Anh nóng lòng muốn biết lửa để làm gì

Khi em không cần nấu nướng đốt thiêu?

Em trả lời không chút chi e ngại:

Để sưởi ấm trái tim em nhiều năm nay nguội lạnh,

Để sưởi ấm mấy chục triệu trái tim quanh đây

Ngỡ mình đang vô vàn hạnh phúc

Trước đất nước của ai đó sắp tiêu vong,

Khi đồng bào của ai đó tù đày gục ngã.

 

Em quả quyết  người ta có thể làm nên tất cả

Với trái tim ấm áp tình nước tình người.

Cuối cùng khi thấy anh  ngần ngại,

Em cũng tỏ ý e dè:

Các anh có còn đủ lửa gửi về?

Câu hỏi đó một mình anh trả lời không nỗi!

 

Lê Văn Bỉnh

tháng 7/2016

Visits: 149

Ý Niệm Về Sự Trị Vì Của Luật Pháp (The Rule of Law) Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa

Lê Văn Bỉnh

… as in absolute governments, the King is law, so in free countries the law ought to be the king; and there ought be no other. (… vì trong các chính quyền chuyên độc, Vua là luật, vậy thì trong các quốc gia tự do, luật phải là Vua; và không nên có gì khác nữa,)

Thomas Paine (Commense Sense, Jan. 1776)

Từ khi Liên Bang Xô Viết tan rã và hình thành những quốc gia độc lập và bắt đầu xây dựng nền dân chủ non trẻ, đồng thời thế giới càng ngày càng tiến xa trên đường toàn cầu hoá, thì ý niệm về sự trị vì của luật pháp càng ngày càng được phổ biến.  Các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, các ứng cử viên vào các chức vụ cấp quốc gia cũng như địa phương tại các quốc gia dân chủ, cũng như độc tài đều đề cập đến ý niệm này một cách say sưa nồng nhiệt.  Mọi người xem đó là viên thuốc trị bá bệnh giúp ổn định trật tự xã hội, xây dựng dân chủ, tôn trọng nhân quyền, phát triển kinh tế, cải thiện guồng máy công quyền nói chung, và hành chánh nói riêng vv.  Tại Hoa Kỳ, khi vận động tranh cử Donald Trump, ứng cử viên chức vụ tổng thống của đảng Cộng Hòa không ngừng hô hào “luật pháp và trật tự” (law and order); ứng cử viên không thành công Clinton của đảng Dân Chủ và Tổng Thống Obama cũng lần lượt nói đến “sự trị vì của luật pháp” (the rule of law) trong bài diễn văn liền sau khi cuộc bầu cử kết thúc.

Trong hơn thập niên vừa qua, các cơ quan kinh tế, luật pháp thuộc Liên Hiệp Quốc đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu, huấn luyện cho các quốc gia giao thời nói trên, cũng như cho các quốc gia đang phát triển.   Hoa Kỳ, Canada, Liên Âu v.v. cũng dành không ít ngân quỹ và nhân sự để giúp cho việc cải tổ pháp luật, truyền bá và rao giảng “sự trị vì của pháp luật” ở các nước vừa nói, hy vọng rằng khi “nguyên tắc” này được tôn trọng, hay “lý tưởng” này được tiến gần, thì mọi sự tốt đẹp sẽ đến từng các quốc gia, cũng như cho toàn thế giới.

Về Thuật Ngữ Tiếng Việt

 Trong bài viết này, thuật ngữ “sự trị vì của luật pháp” được dịch theo nguyên ngữ tiếng Anh “the rule of law”. Nó có thể hiểu một cách đơn giản là trong việc cai trị đất nước, luật pháp đứng trên hết, trên cả vua (nếu đó là vương quốc), nhà nước, các đảng phái chính trị và dân chúng.  Nói cách khác, mọi người thuộc mọi tầng lớp trong nước đều là đối tượng bình đẳng trước luật pháp.  Chính vì vậy mà “sự trị vì của luật pháp” còn được gọi là “tính thượng đẳng của luật pháp” (the supremacy of the law).  Chúng tôi chọn cách dịch sát nghĩa, nhưng không ngắn gọn này, vì nó dễ hiểu và hy vọng sẽ tránh được sự hiểu lầm cho một người đọc vốn quen với một số thuật ngữ thông dụng hiện nay, chẳng hạn “pháp trị”, “pháp quyền”.   Hơn nữa, nguồn gốc của thuật ngữ này là từ tiếng Anh, chứ không phải từ tiếng Pháp, tiếng Hoa, hay tiếng nước khác được dịch sang tiếng Anh. Theo từ điển The Oxford Encyclopedic English Dictionary, 1996, trang 1262, thì trong thuật ngữ này, “rule” có nghĩa là government (cai trị) hay dominion (chế ngự); do đó chúng tôi đề nghị dịch là “sự trị vì” để nói lên tính thượng đẳng của luật pháp; hơn nữa trong lịch sử Anh quốc, có lúc luật pháp đã thật sự đứng trên vua. (sẽ đề cập trong bài).

Để cho ngắn gọn trong sự trình bày, chúng tôi còn dịch “rule of law” thành “luật trị”, tức sự trị vì/ sự cai trị của luật pháp, để đối chiếu với đảng trị, gia đình trị mà người ta thường nghe và hiểu rõ nội dung.  Theo cách dùng chữ này, thì “luật trị” có ý nghĩa khác biệt với “pháp trị” và “pháp quyền” như sẽ được đề cập phần sau. Nhưng ngay từ đây, xin đừng hiểu “luật trị” là cai trị bằng luật pháp. Nói cách khác, trong phần còn lại của bài viết 2 nhóm từ sự trị vì của luật pháp” và “luật trị” được dùng thay thế cho nhau. Cũng cần nói thêm là trong thời kỳ chuyển tiếp, nhiều chế độ “cai trị bằng chính sách” trong khi chưa có đủ luật lệ mới để điều hành guồng máy nhà nước — Việt Nam sau 1975 là một thí dụ.  Đối với một xã hội văn minh, tình thế này không thể tồn tại trong một thời gian dài.

Khoảng 9-10 năm trước đây, khi bản dự thảo hiến pháp (về sau thành Hiến Pháp 2013) của Việt Nam Cộng Sản được đưa ra thảo luận trong nước, đã có sự tranh luận về việc dùng thuật ngữ “pháp trị” hay “pháp quyền” để dịch thuật ngữ tiếng Anh “the Rule of Law”.  Nhóm chủ trương dùng chữ “pháp trị” giải thích “pháp trị” là dùng pháp luật nghiêm khắt để cai trị, một chủ trương của nhóm pháp gia thời xa xưa bên Trung Hoa, mà tiêu biểu là Công Tôn Ưởng thời Đông Chu Liệt Quốc. Đối nghịch với trường phái “pháp trị” này là trường phái “nhân trị”, tức dùng lòng nhân để mà cai trị. Với ý nghĩa đó, “nhân trị” còn được coi như là đức trị (rule of virtues). Trước năm 1975, các sinh viên năm thứ nhất của Đại Học Luật Khoa và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đều được học bài học nhập môn này; do đó, khi ra trường và hòa mình vào xã hội có luật pháp kỷ cương, chẳng mấy ai dám liều lĩnh, quên “nguyên tắc thượng tôn luật pháp”, vì biết rằng luật pháp sẽ chẳng tha nếu mình vi phạm.

Nhóm chủ trương sử dụng chữ mới “pháp quyền” khẳng định “pháp quyền” là “rule of law”, nhưng khi đọc bản dịch, thì người ta không còn thấy dấu vết của “rule of law” ở đâu nữa.  Thật vậy, Điều 2, khoản 1 tiếng Việt là:

Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Trong các bản dịch sang tiếng Anh này, giống hệt nhau trên mạng khiến người viết nghĩ là chỉ từ một bản dịch “chính thức” của nhà nước, Điều 2 khoản 1 trên đây được dịch như sau:

The Socialist Republic of Vietnam is a socialist state ruled by law and of the People, by the People and for the People. [Người viết thêm dấu gạch dưới].

Nếu hiểu “nhà nước pháp quyền” là nhà nước chịu sự chi phối cuả luật pháp theo lối viết tiếng Anh này, thì người viết thiết nghĩ dịch như sau có thể gọn gàng hơn:

The Socialist Republic of Vietnam is a law-ruled (or (or a law-governed) sate of the People, by the People and for the People.

Cũng cần nhớ lại là 2 chữ “pháp quyền” này mới được ghi thêm vào Hiến Pháp 2013, chứ không có trong các hiến pháp trước đó. Từ câu tiếng Anh này, người đọc có thể hiểu pháp quyền có nghĩa là cai trị bằng /bởi luật pháp; và cả câu sẽ có nghĩa nôm na như sau: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa [thừa] được cai trị bằng luật pháp, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhưng theo Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Ủy Viên Trung Ương Đảng, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao trong bài Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta trên Tạp Chí Cộng Sản Thứ Hai 14/11/2007, thì “Nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng vv.” [Người viết cho in nghiêng].  Người viết nghĩ với học vị và chức vụ của ông, ý kiến của TS Hiệu phản ảnh trung thực ý muốn của những người soạn thảo Hiến Pháp. Điều đó có nghĩa là “nhà nước pháp quyền” là nhà nước trọng nguyên tắc sự trị vì của luật pháp, do đó dịch sang tiếng Anh “rule of law state” như bản dịch “không chính thức” (unofficial) dưới đây của International Institute for Democracy and Electoral Assistance (viết tắt International IDEA) là chuẩn vì vẫn giữ được cái lõi “rule of law” quen thuộc trong ngôn ngữ của giới nghiên cứu chính trị và luật pháp nước ngoài:

The Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule of law state of the People, by the People and for the People.   [Người viết thêm dấu gạch dưới]

Tuy nhiên, chữ “state” có nhiều nghĩa trong đó có 2 nghĩa đáng lẽ không nên lẫn lộn:  nước (quốc gia), và nhà nước (tổ chức chính quyền của nước đó).  Do đó, người viết thiết nghĩ Khoản 1 bản tiếng Việt có thể dịch gọn (không luộm thuộm như trong bản dịch phía Việt Nam và rõ nghĩa hơn so với trong bản dịch “không chính thức” của International IDEA), như đề nghị dưới đây:

The State of the Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule-of-law state of the People, by the People and for the People. (có thể không cần hai dấu gạch nối, như International IDEA)

Thật ra “sự trị vì của luật pháp” tuy đã có một lịch sử lâu dài, nhưng vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng. Theo người viết, dù chỉ là một ý niệm chưa được định nghĩa rõ ràng, hay một lý tưởng muốn theo đuổi, nếu nay được đưa vào hiến pháp thì e rằng nó sẽ khiến Hiến Pháp trở thành quá tải! Hay nói đúng hơn là Hiến Pháp quá ôm đồm và tạo thêm mơ hồ khi nó phải gánh thêm ý niệm “sự trị vì của luật pháp”, ngoài cái lý tưởng “chủ nghĩa xã hội” mà đến nay vẫn chưa được định nghĩa cụ thể. Lý tưởng luật trị, cũng như các lý tưỏng chính trị khác như xã hội dân sự, dân chủ, nhân quyền, tự do cá nhân v.v. đã được làm sống lại và hiện đại hóa trong thời đại toàn cầu hiện nay, nhất là từ sau khi chủ nghĩa cộng sản không còn đất đứng như trước đây.

 Bài viết này đề cập đến các phần sau đây:

  • Sơ lược về sự phát triển của ý niệm luật trị
  • Vài quan điểm kinh điển về luật trị
  • Luật trị trong thời đại toàn cầu hóa
  • Đo lưòng nguyên tắc luật trị

 1. Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Ý Niệm Luật Trị

Trong lịch sử Tây phương, ý niệm luật trị phát triển từ Hy Lạp, chậm nhất cũng từ thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch. Thời đó, Hy Lạp có một nền dân chủ đại chúng. Trong lĩnh vực xử kiên, các nam công dân thành Athens (trừ nô lệ) từ 30 tuổi trở lên lần lượt được cử làm phán quan để xử kiện. Các phán quan này phải căn cứ theo luật pháp để phán quyết, ai vi phạm luật pháp hiện hành sẽ bị nghiêm trị. Triết gia Socrates đã bị đưa ra xét xử vì ông chế nhạo các vị thần mà dân thành Athens thờ phượng, là thầy của một người học trò theo giặc (thành Sparta), cũng là bạn của một nhóm chống đối chính quyền đương thời. Socrates có thể trốn thoát ngục tù với sự giúp đỡ của một môn đệ, nhưng ông từ chối. Ông cho rằng bỏ trốn tức là phủ nhận và do đó làm tổn thương thành Athens, cũng như thủ tục tố tụng của nó. Theo ông, luật pháp của thành Athens không có trách nhiệm đối với cái án tử hình ông mang, mà chính những kẻ kết án ông, do thiên lệch, mới là những kẻ có tội. (Philosophy: History and Readings, S. E. Stumpf & J. Fieser, 8th ed, trang 40)

Một môn đệ khác của Socrates là Plato đồng ý là chính quyền phải dựa vào luật pháp. Theo ông, khi luật pháp là đối tượng của một quyền lực khác, mà không phải là của chính mình, thì nhà nước sẽ sụp đổ; nhưng nếu luật pháp là chủ nhân ông của chính quyền, và chính quyền là đầy tớ, thì tình thế sẽ đầy hứa hẹn và người ta sẽ hưởng ân sủng của các thần linh gieo rắc. Ông còn cho rằng luật pháp phản ảnh trật tự thiêng liêng, phù hợp với điều Thiện; nếu trái lại, thì đó chỉ là luật giả (bogus law, tiếng lóng gọi là “luật dõm”).  (On The Rule of Law, Brian Z Tamanaha, trang 9)

Aristotle, một môn đệ uyên bác của Plato, khẳng định rằng luật pháp cai trị thì tốt hơn là người cai trị. Và ông chủ trương những người phụ trách về luật pháp cũng phải tuân theo luật.  Do đó mà nhiều người cho rằng chính Aristotle là người đầu tiên đưa ra ý niệm mà cách dịch hiện đại sang tiếng Anh là “rule of law”, mặc dù câu viết của ông được dịch sát sẽ như sau: “It is better for the law to rule than one of the citizens and so even the guardians of the laws are obeying the law.” (Luật pháp trị vì thì tốt hơn là một trong những công dân trị vì, thế nên ngay cả những người phụ trách luật cũng tuân theo luật.)  Cũng từ đó, nhiều người cho rằng Aristotle đối kháng “rule of law” với “rule of men” (The Rule of Law, Tom Bingham, trang 3). Ở đây, cũng cần lưu ý là nếu dịch “rule of men” là “nhân trị”, thì lại gây thêm rối rắm! Vì viết theo chữ quốc ngữ, nhân là người mà cũng có thể hiểu là lòng nhân.

Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về luật trị (rule of law) đều cho rằng luật gia người Anh, A.V. Dicey, tác giả quyển Introduction to the Study of the Constitution, nền tảng cho việc nghiên cứu về luật trị, xuất bản năm 1886 (sẽ bàn thêm ở phần dưới), là cha đẻ của thuật ngữ này.  Nhưng theo 2 tác giả hiệu đính Pietro Costa và Danil Zolo trong tác phẩm The Rule of Law: History, Theory and Criticism in năm 2007, thì Dicey đã viết rằng luật gia William Edward Hearn giới thiệu thuật ngữ này năm 1867. Người viết đọc Dicey thì không tìm ra xác minh đó. Tuy nhiên, khi đọc William Ed. Hearn lý luận về căn cứ quyết định của các quan tòa, (trong quyển The Theory of Legal Duties and Rights: An Introduction to Analytical Jurisprudence, xuất bản lần đầu vào năm 1883) người viết thấy một đoạn như sau đây:

The policy of this rule is the urgent need of certainty in law. “It is generally more important, said Lord Cottenham, that the rule of law should be settled than that it should be theoretically correct.” [người viết cho in nghiêng]

Lord Cottenham tên thật là Charles Christopher Pepeys (1781-1851) là một luật gia và chính trị gia nước Anh, từng giữ nhiều chức vụ cao cấp trong đó Solicitor General).  Tuy nhiên, theo Wikipedia, thì trước đó, Samuel Rutherford (1600-1666), một nhà thần học đã dùng thuật ngữ này trong tác phẩm Lex, Rex (The Law of the Prince), xuất bản năm 1644.

Đến đây, về phương diện nguồn gốc, chúng ta có thể tạm xem Samuel Rutherford là cha đẻ của thuật ngữ “rule of law”.

Trước Samuel Rutherford trên 400 năm, quan điểm luật pháp đứng trên tất cả đã được long trọng ghi vào bản tuyên ngôn Magna Carta bằng tiếng Latin, ra đời năm 1215 sau sự thắng thế của giới quý tộc Anh đối với vua King John. Theo tinh thần của bản tuyên ngôn này, thì không ai sẽ bị bắt giữ, bị cầm tù, bị tước đoạt quyền hay tài sản, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị lưu đày, hay bị áp chế bằng vũ lực v.v. trừ phi được xét xử công bằng và theo luật.

Mặc dù về sau, Hoàng Gia Anh cũng như Giáo Hội La Mã lấy lại quyền lực của mình, nhưng tinh thần tuyên ngôn Magna Carta vẫn bàng bạc trong dân chúng. Mãi đến hơn 500 năm sau, tuyên ngôn Magna Carta mới thực sự hồi sinh. Thực vậy, sang Thời Đại Bừng Sáng (the Enlightenment) thế kỷ 18, tính chính đáng/chính danh (legitimacy) của vương quyền cũng như của Giáo Hội La Mã bị thử thách mạnh mẽ.  Các nhà triết gia chính trị như John Loke, J.J. Rousseau viện dẫn lý lẽ, luật thiên nhiên, cũng như sự đồng thuận của nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực nhà nước và nghĩa vụ chính trị của công dân.  Năm 1770, William Pitt the Elder, một nghị sĩ của  Viện Quý Tộc (The House of Lords), một người rất có cảm tình với các thuộc địa Mỹ Châu, gọi tuyên ngôn này là “Thánh Kinh của Hiến Pháp nước Anh” (the Bible of the English Constitution.”  Thật ra nước Anh không có một “Bản Hiến Pháp” như chúng ta thường thấy ở những quốc gia khác; mà Hiến Pháp của Anh chỉ là tập hợp những bộ luật, những nguyên tắc, và Magna Carta vẫn còn duy trì trong Satute Book cho đến khi luật cải cách the Law of Reform Act ra đời năm 1863. Được mang sang các thuộc địa châu Mỹ, Magna Carta ảnh hưởng không ít đến Hiến Pháp Hoa Kỳ và luật lệ của hầu hết các tiểu bang. (Theo 1215 The Year of Magna Carta, do Danny Danziger & John Gillingham, nxb Touchstone, 2003, trang 267-268) .  Trước khi trở thành tổng thống thứ hai (1797-1801) của Hoa Kỳ, và khi chưa tin tưởng Hoa Kỳ sẽ độc lập khỏi Anh, John Adam trong một bài viết đăng trên tờ Massachusetts Gazettes ra ngày 6 Feb. 1775 đã viết: “Họ [Aristote, Livy, và Harrington] định nghĩa một nền cộng hòa là sự trị vì của các luật, chứ không phải của con người. Nếu định nghĩa này đúng, thì hiến pháp nưóc Anh, là một thể chế cộng hòa, không hơn không kém, trong đó nhà vua là vị phán quan thứ nhất.” (They define a republic to be government of law, and not of men.  If this definition be just, the British constitution is nothing more or less than a republic, in which the king is first magistrate.) Tiếp theo, ông bàn về sự truyền ngôi báu trong hoàng gia và các hoạt động của quốc hội Anh, để lập luận rằng vì các thuộc địa trên thực tế không thể có đại diện tại nước Anh, cho nên các thuộc địa phải có đại diện tại bộ phận lập pháp tại vùng đất mới này; bằng không thì nước Anh sẽ mất các thuộc địa. [“John Adams: The Rule of Law and the Rule of Men”, trong The Annals of America, Vol. 2, trang 308-310]

Muốn tìm hiểu thêm về lịch sử của ý niệm luật trị, quý độc giả có thể nghiên cứu thêm tác phẩm The Rule of Law của Tom Bingham (2010) nói trên, hoặc tác phẩm On The Rule of Law: History, Politics, Theory của Brian Z. Tamanaha (2014).

Ở đây cũng xin nói thêm về khái niệm luật trị trong hệ thống pháp luật của nước Pháp.  Theo Danilo Zolo, một trong 2 người hiệu đính quyển The Rule of Law nói trên, thì lý thuyết về “nhà nước pháp quyền” (l’État de droit, thường được dịch sang tiếng Anh là “law-ruled state”) được hình thành khá trể, do Raimond Carré de Malberg vào thời Đệ Tam Cộng Hòa, chịu ảnh hưởng phần lớn ý niệm Rechtsstaat của Đức (được sử dụng đầu tiên vào thập niên 1830, coi tự do cá nhân là mục tiêu chính của các hoạt động của nhà nước). Theo ông, sự bảo vệ các quyền tự do cá nhân chống lại sự tùy tiện của nhà nước là mục tiêu chính của nhà nước pháp quyền.  Để đạt mục tiêu này, nhà nước pháp quyền phải tự hạn chế thẩm quyền của mình bằng cách tuân theo những qui định có giá trị chung cho xã hội và cho từng cá nhân.  Ông cũng đề nghị xét lại thẩm quyền của Quốc Hội (Đệ Tam CH), và chủ trương thẩm quyền của nó cũng như tất cả thẩm quyền của các định chế khác phải tôn trọng tinh thần luật trị.  Cũng theo ông, nhà nước hợp pháp (État légal) chưa nhất thiết là nhà nước pháp quyền đúng nghĩa.  Một nhà nước pháp quyền còn phải cung ứng cho các cá nhân những phương tiện hợp pháp để chống lại ý chí của cơ quan lập pháp mỗi khi cơ quan này vi phạm những quyền cơ bản của nhân dân. (trang 13-15)

Ngoài l’État de droit, tùy theo trường hợp, người Pháp còn dùng các nhóm từ khác như la primauté de la loi, hay l’autorité de la loi v.v. để chỉ ý niệm luật trị.

2. Vài Quan Điểm Về Ý Niệm Luật Trị

Như được đề cập ở phần trên, luật trị là một ý niệm chưa có một nội dung được mọi người đồng ý.  Tuy nhiên, nó đã được nghiên cứu khá nhiều.  Dưới đây, xin trình bày ngắn gọn một vài công trình nghiên cứu được coi như kinh điển và làm nền móng cho nhiều nghiên cứu sau đó.

Trước hết phải kể đến Albert V. Dicey (1835-1922). Trong tác phẩm đề cập ở trên, ông chủ trương luật trị bao gồm 3 yếu tố sau đây:

  • Không ai bị trừng phạt hay chịu thiệt thòi về thân thể hay của cải, trừ phi vi luật và được xét xử theo thủ tục bình thường trước tòa;
  • Không ai đứng trên luật pháp, mọi người đều bình đẳng trước tòa;
  • Các quyết định ảnh hưởng đến tự do cá nhân bắt nguồn từ hiến pháp, hay các định chế mà các quan tòa phải hành xử.

Albert V. Dicey (1835-1922)

 Điều quan trọng ở điểm (3) này là Dicey tin tưởng vào các cơ chế và tổ chức đã bàng bạc hay ăn sâu trong lòng dân chúng –tức dân Anh– hơn là các bản hiến pháp thành văn hay bản tuyên bố của các nước khác. Nhận định này của ông bị nhiều nhà nghiên cứu công kích, với lý do là nếu chưa có được một truyền thống như nước Anh, thì sẽ lấy gì làm khởi điểm để từ đó nuôi dưỡng và phát huy tinh thần tôn trọng nguyên tắc luật trị?  Đây là trường hợp của Hoa Kỳ, nơi mà tiến trình học hỏi qua những khuyết điểm hay thất bại (learning curve) giúp quốc gia này củng cố và phát triển trên nhiều lãnh vực, trong đó có sự tôn trọng luật pháp và các quyền tự do. Ngoài ra, quan điểm của Dicey đã trở nên quá giản dị trong thời đại hiện nay, khi mà lập pháp phải đương đầu với nhiều vấn đề hơn, và bộ máy hành pháp và hành chánh thừa hành phải thi hành –kịp thời, chi tiết, chính xác –nhiều điều luật liên quan đến kỷ thuật tân tiến và mối liên lập phức tạp với thế giới bên ngoài mà các nhà lập pháp không tiên liệu được khi thông qua các bộ luật.

Lon L. Fuller (1902-1978), một giáo sư luật nổi danh của Harvard University, trong quyển The Morality of Law, xuất bản năm 1969, chủ trương rằng căn bản tinh thần nội tại của luật pháp (the internal moral basis of law) phải hội đủ 8 yếu tố sau đây:

  • luật phải tổng quát (general), không đi vào các trường hợp đặc biệt;
  • luật phải được công bố (public), nghĩa là dân chúng phải biết trước để liệu bề mà hành động;
  • luật phải cho tương lai (prospective), không hồi tố (non-retroactive); đó là hệ luận của điều (2), tức luật áp dụng phải ban hành trước khi vụ án xảy ra và sau đó bị đem ra xử;
  • luật phải đầy đủ, rõ ràng (comprehensive, clear), để người bình thường cũng có thể hiểu;
  • luật phải không mâu thuẩn nhau (noncontradictory), có nghĩa là người chịu sự chi phối của luật lệ chỉ phải theo một điều và không phải theo điều ngược lại; nếu có sự mâu thuẩn, thì phải có sự hướng dẫn của hệ thống tư pháp;
  • luật có thể thi hành được (possible to perform; able to conform person’s behavior), nghĩa là không vượt quá khả năng thể chất, trí tuệ, tài chánh v.v. của công dân;
  • luật phải tương đối ổn định (relative stable), tức không thường xuyên thay đổi đến nỗi người dân không biết đâu mà lường; và
  • luật phải phù hợp (congruent) với luật lệ hiện hành, tức luật mới không được trái với luật hiện hành.

Lon L. Fuller (1902-1978)

Một số nhà nghiên cứu cho rằng 8 yếu tố mà Fuller đưa ra trên đây chỉ là khía cạnh hình thức (formal aspect) và người ta có thể ban hành một đạo luật hội đủ các điều kiện hình thức này, nhưng về thực chất nó không bảo đảm được nhân quyền hay đưa đến kỳ thị. Một số luật gia lại cho rằng, khi ra một luật mới, những nhà lập pháp luôn luôn muốn bày tỏ hoặc bảo vệ một giá trị, một mục tiêu nào đó, và các yếu tố mà Fuller đưa ra là nhằm giúp đạt được giá trị hay mục tiêu đó.  Ngày nay, khi guồng máy hành pháp và hành chánh càng ngày càng cồng kềnh, thì các đòi hỏi nói trên sẽ trở thành những hướng dẫn hữu hiệu cho các quyết định thi hành luật mới.

Bàn về luật trị, thì không thể không nói đến Friedric von Hayek (1899-1992), một học giả gốc người Áo, di cư sang Hoa Kỳ năm 1950 và dạy ở University of Chicago (1950-62). Ông từng được Giải Nobel Kinh Tế (1974, chia với Gunnar Myrdal), và huy chương Presidential Medal of Freedom (1991) do Tổng Thống G.H. W. Bush trao tặng. Trong quyển The Road to Serfdom (xb năm 1944 khi ông sống ở Anh), ông đồng ý nguyên tắc luật trị là hòn đá tảng của tự do, và đưa ra nhận xét rằng sự bành trướng của bộ máy hành chánh với tính chất cưỡng bách của nó ảnh hưởng không ít đến nguyên tắc luật trị vốn được trân quý.  Ông lý luận rằng nguyên tắc này bảo vệ cũng như cổ vũ tự do vì nó giúp cho người dân tiên liệu được hậu quả của việc làm để từ đó mà định hướng hành động của mình.

Trong một công trình nghiên cứu đồ sộ khác, The Constitution of Liberty (xb lần đầu năm 1960, và được hiệu đính công phu bởi R. Hamowy, do The University of Chicago Press xb năm 2011), ông lược xét nguồn gốc, bàn về ảnh hưởng của nguyên tắc luật trị đối với tự do, đối với chính sách kinh tế; cùng các mối quan hệ giữa tự do và những vấn đề hiện đại, và trở thành những đề tài tranh luận nóng bỏng mỗi khi có bầu cử ở Hoa Kỳ trong mấy chục năm nay, gồm sự vươn lên của nhà nước an lạc (welfare state), nghiệp đoàn và nhân dụng; an sinh xã hội; thuế khoá và tái phân lợi tứ; khung tiền tệ; trợ cấp nhà cửa; nông nghiệp; giáo dục v.v.

Friedric von Hayek (1899-1992)

Hayek ít bàn về tòa án và các thủ tục pháp lý, mà thay vào đó, triển khai các yếu tố hình thức như tính tổng quát, sự bình đẳng và tính chắc chắn của nguyên tắc luật trị.Theo ông, tổng quát có nghĩa là luật phải trừu tượng, áp dụng cho mọi người trong những tình huống đã được mô tả sẵn.  Bình đẳng là áp dụng cho mọi người mà không có sự phân biệt tùy tiện; nếu có thì phải có sự chấp thuận của đa số, chẳng hạn sự phân biệt nam nữ trong vấn đề gia nhập quân đội. Tính chắc chắn (certainty) có nghĩa là nguời ta biết trước được luật sẽ hiệu lực như thế nào đối với hành động của mình.  Ba yếu tố đó giúp con người định hướng được hành động của mình, muốn làm gì thì làm miễn luật không cấm; không phải lo sợ sự tùy tiện của nhà cầm quyền cũng như những người cầm cán cân công lý, nghĩa là nguyên tắc luật trị giúp bảo vệ tự do.

Theo Tamanhana, “Đối với Hayek, công lý sống bám vào dân luật về quyền sở hữu, khế ước, và quyền lợi dân sự (torts); và luật hình sự… Công lý sự thi hành các luật ban hành trước. Tiêu chuẩn công lý của ông ta thì trống rỗng về thực chất, vì nó không kéo theo sự đánh giá luân lý nào cả và không phải thỏa mãn tiêu chuẳn nào khác trừ tiêu chuẩn phổ quát (universality)” … Công lý của Hayek là sự diễn đạt nguyên tắc luật trị theo cách khác mà thôi. (Sách đã dẫn, trang 70-71).

Thật ra, Hayek có đề cập đến một thứ công lý, nhưng chỉ để lập luận chống lại nó. Ông viết: “Sự đòi hỏi chính quyền phải thực hiện không những công lý hình thức (formal justice), mà còn công lý thực chất nữa (substantive justice), tức là công lý phân phối (distributive justice) hay công lý xã hội (social justice) đã được đẩy mạnh từ cuộc Cách Mạng Pháp.”   Tiếp theo, Hayek trích lời chế nhạo của Anatole France, như sau:”Sự bình đẳng hoành tráng trước pháp luật cấm cản người giàu và kẻ nghèo ngủ dưới gầm cầu, đi ăn xin ngoài đường, và ăn cắp bánh mì.” (Nguyên văn tiếng Pháp ghi ở Chú Thích: của sách: ‘La majestueuse égalités de lois, qui interdit au riche come au pauvre de coucher sous les ponts, de mendier dans les rues et de voler du pain’).   [The Constitution, trang 342-3]

Hayek còn cho rằng sự bình đẳng trước pháp luật có thể tự nhiên sẽ đưa tới sự bình đẳng làm ra luật pháp, và điều sau có thể hủy bỏ đìều trưóc, vì đây là hai nguyên tắc hoàn toàn khác nhau. Để bài bác cái công lý xã hội nói trên, ông đưa ra một giả thuyết cực đoan rằng một chính quyền độc đoán áp chế cử tri phổ thông nhưng bảo vệ nguyên tắc luật trị có thể duy trì chế độ dân chủ tốt hơn nền dân chủ thích can thiệp vào guồng máy kinh tế và phân phối xã hội.  (Spectrum: From Right to Left in the World of Ideas, do Perry Anderson, Verso xb 2005, tr. 15-16)

Từ các yếu tố thuộc khía cạnh hình thức của các quan điểm kinh điển trên, người ta cũng có thể rút ra những hệ luận lý thú. Chẳng hạn, đối với 2 yếu tố không ai được đứng trên luật pháp, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, thì người ta suy ra rằng phải có những định chế “đứng ngoài”, “tách biệt”, tức là phải có một hệ thống tư pháp với tòa án và các quan tòa độc lập.  Hay là từ các yếu tố luật phải tổng quát, phải được công bố, phải tương đối ổn định, chúng ta thấy được sự cần thiết của một thứ luật tổng quát hơn, ổn định hơn và phải được soạn thảo và công bố long trọng hơn; đó là luật hiến pháp, thường được gọi tắt là hiến pháp.  Từ yếu tố luật phải được công bố, người công dân bình thường có quyền suy diễn rằng một khi đã được công bố, thì phải được áp dụng khi luật bắt đầu có hiệu lực, vì không áp dụng có nghĩa tiếp tục duy trì những bạc đãi hay ưu đãi cũ cho một số đối tượng nào đó. Chẳng hạn một quốc gia ban hành đủ mọi luật cải tiến quyền lợi người khuyết tật, nhưng nhà cầm quyền nấn ná không áp dụng, tức tiếp tục bạc đãi họ. Hay ban hành luật lệ môi sinh tiên tiến không kém các nước kỹ nghệ phát triển, nhưng không áp dụng cho các nhà máy hay cơ xưởng nào đó, nhất là do người ngoại quốc làm chủ, tức là tiếp tục ưu đãi họ.

3. Luật Trị Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa

Đối với nhiều người –nhất là ở các nước độc tài — nếu nguyên tắc luật trị hội đủ những yếu tố mà các tác giả kinh điển đưa ra thì quả là gần đạt đến lý tưởng rồi. Tuy nhiên, qua một số nhà phê bình, chúng ta lại thấy lóe ra một khía cạnh khác của nguyên tắc này: đó là khía cạnh thực chất (substantial aspect).  Trong vài thập kỷ nay, cả hai khía cạnh càng ngày càng được nghiên cứu sâu rộng hơn.  Tại Hoa Kỳ, Hiệp Hội Triết Lý Chính Trị và Luật Pháp (American Society for Political and Legal Philosophy, ASPLP) đã có 2 hội nghị thường niên về nguyên tắc luật trị. Lần đầu tổ chức vào tháng Giêng năm 1992 mà kết quả cụ thể là quyển The Rule of Law, xuất bản năm 1994. Lần thứ hai tổ chức vào tháng Giêng năm 2010, với quyển Getting to The Rule of Law ra đời năm 2011.

 Viện Nghiên Cứu Về Việc Quốc Tế Hóa Luật Pháp Hague (The Hague Institue for the Internationalisation for Law, HiiL) cũng đã tổ chức 2 hội nghị quốc tế. Lần đầu năm 2009, cho ra đời quyển Rule of Law Dynamics: In An Era of International and Transitional Governance ra đời năm 2012.  Lần sau, năm 2012 với quyển The Rule of Law at National and International Levels xuất bản năm 2016.

Ngoài ra, còn có hằng chục công trình nghiên cứu khác mà tựa đề thường có nhóm chữ “The Rule of Law” kèm theo.  Nhiều tác phẩm về chính trị, luật pháp, kinh tế, phát triển, trị quản (governance) xuất bản trong những năm gần đây hâu như không thiếu những chương hay mục bàn về nguyên tắc luật trị và ảnh hưởng của nó đối với lãnh vực nghiên cứu liên hệ.

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, các chính phủ Hoa Kỳ, Canada, Úc, một số nước trong Liên Âu, cùng nhiều tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc đã dồn không ít công của để cổ vũ, huấn luyện và tổ chức giúp các nước Cộng Sản cũ, cũng như các nước đang phát triển, cải tiến guồng máy chính trị, hành chánh, kinh tế dưới ngọn cờ nguyên tắc luật trị.

Dưới đây là một số quan điểm về luật trị qua các nghiên cứu vừa kể.

  • Theo Joseph Raz, “Một hệ thống luật pháp không dân chủ dựa trên sự phủ nhận nhân quyền, sự nghèo đói tràn lan, sự phân biệt chủng tộc, sự bất bình đăng về giới tính, và sự thù ghét về tôn giáo, có thể, về nguyên tắc, phù hợp với những đòi hỏi của nguyên tắc luật trị, hơn cả những hệ thống luật pháp của các nền dân chủ tiến bộ Tây phương … Nó sẽ xấu xa khôn lường, nhưng nó sẽ vượt trội về một phương diện: nó phù hợp về hình thức (conform) với nguyên tắc luật trị … Một đạo luật  […] có thể hình thành chế độ nô lệ mà vẫn không vi phạm nguyên tắc luật trị.” (The International Rule of Law Movement, hiệu đính bởi David Marshall, do Human Rights Program Harvard Law School xb năm 2014, trang 6).  Nói khác đi, nếu chỉ được chuyên chú khía cạnh hình thức thuần túy, thì người ta có thể tước đoạt nội dung của nguyên tắc luật trị.
  • Donal Dworkin đề nghị một phương pháp lý luận  mới về luật pháp, và gọi đó là một hình thức lý luận luân lý (a form of moral reasoning). Ông cho rằng “Không gì bảo đảm rằng luập pháp chúng ta [Anh Quốc] sẽ công bằng (just).  Điều đó không có nghĩa là chúng ta tách rời mối liên hệ giữa luật pháp và luân lý; mà điều đó có nghĩa là chúng ta làm phức tạp thêm sự liên hệ giữa luật pháp và luân lý.”  Trong quyển Justice for Hedgehogs, ông cho rằng cái lớn lao của đời người là giá trị, mà nội dung là các câu trả lời cho các câu hỏi như: sự thực là gì, đời sống có ý nghĩa gì, những đòi hỏi về luân lý là những gì, đòi hỏi công lý được định nghĩa ra sao.  Theo ông, mỗi người đều có trách nhiệm về cuộc đời quý báu của mình, và có bổn phận tôn trọng những điều kiện mà theo đó những kẻ khác có thể thể hiện trách nhiệm của họ. “Đó là ý nghĩa của ‘uy tín con người’ (human dignity) đối với mình, và nó yểm trợ cả những nguyên tắc về trách nhiệm (the principles of responsibility), vốn rất quan trọng về khía cạnh công bằng mà con người may mắn có, lẫn những nguyên tắc về tương kính (the principles of mutual respect) được đại diện trong nguyên tắc luật trị. (Ronald Dworkin: An Appreciation do Jeremy J. Waldron đọc ngày 6/5/2013 tại London, nhân Lễ Tưỏng Niệm Dworkin). Nói cách khác, uy tín này bao gồm sự tôn trọng chính mình và sự đề phòng việc đối xử tùy tiện của kẻ khác đối với mình; và đó chính là ý nghĩa thực chất của nguyên tắc luật trị. (Getting to The Rule of Law, tr. 53-61).

Quan điểm của Dworkin quả đã làm sáng tỏ và làm phong phú thêm triết lý chính trị của luật pháp nói chung, và của nguyên tắc luật trị nói riêng.  Nó cần phải đưọc cổ vũ trong mọi xã hội, và phải được coi là nền tảng, là bước bắt đầu cho mọi công cuộc cải tổ pháp lý và hành chánh, nhất là tại những quốc gia mà chính quyền độc tài và toàn trị. Tại các nước dân chủ, nếu quần chúng không nhận ra được rằng nhà cầm quyền đã hành xử tùy tiện, thì các tổ chức xã hội dân sự, các luật gia, các nhà trí thức, thậm chí các công dân bình thường sẽ tức khắc lên tiếng qua các phương tiện truyền thông, thậm chí phương tiện pháp lý, khiến nhà cầm quyền phải chùn bước và kiểm điểm lại hành động của mình.  Trong khi đó, tại các nước độc tài, độc đảng, người dân vốn đã được giáo dục nhồi sọ từ nhỏ rằng lãnh tụ, rằng đảng cầm quyền luôn luôn lãnh đạo tài tình sáng suốt, không bao giờ sai, cho nên một mặt họ cảm thấy mình bé nhỏ, ít hiểu biết, do đó “phải” tuân lệnh nhà cầm quyền. Mặt khác, họ còn sợ hãi vì sự bất tuân hay chống lại dễ dẫn đến sụ trù dập, tù tội v.v. Trong những năm gần đây, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước khác, tình thế này được cải tiến một phần nhờ các phương tiện truyền thông, cũng như nhờ sự dũng cảm của một số nhà tranh đấu dân chủ, luật sư, bloggers –những đốm sáng trong các xã hội tăm tối. Mặc dầu một số những người này đã và đang bị đàn áp, tù đày, nhưng nhờ họ đưa tin và hướng dẫn, mà người dân bình thường đã bớt mặc cảm thấp bé, cảm thấy tự trọng và cảnh giác về cách hành xử bất hợp pháp của nhà cầm quyền, không những đối với mình, mà còn đối với những thành viên khác trong cộng đồng nữa. Đó là bước đầu tốt cho một xã hội luật trị.

  • Nguyên tắc luật trị được chủ trương áp dụng không những trong phạm vi quốc gia, mà còn trong phạm vi quốc tế nữa. Trước năm 2012, theo Liên Hiệp Quốc, một nền luật pháp tôn trọng nhân quyền khi nó tôn trọng nguyên tắc tối thượng của luật pháp, sự bình đẳng trước pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật, công bằng trong việc áp dụng, tam quyền phân lập, nhân dân được quyền tham dự vào việc làm ra luật, tính chắc chắn của luật pháp, tránh hành động tùy tiện, minh bạch về thủ tục và pháp lý.  (United Nations Secretary General 2004). Nói khác đi, tôn trọng khía cạnh hình thức của nguyên tắc luật trị là đủ bảo đảm nhân quyền.

 Tuy nhiên đến năm 2012 thì quan điểm của LHQ đã thay đổi, chú trọng cả khía cạnh nội dung. Theo Tuyên Ngôn về Nguyên Tắc Trị Vì Của Luật Pháp của LHQ (The 2012 Declaration on The Rule of Law), thì giữa các quyền con người, nguyên tắc luật trị và dân chủ liên kết nhau và hỗ tương củng cố cho nhau. Louise Arbour, cựu Uỷ Viên Nhân Quyền LHQ (UN High Commissioner for Human Rights (2012), lý luận như sau về luật trị:

Nguyên tắc luật trị chính hiệu là phần thực chất và bao trùm những đòi hỏi về quyền con người.  Nó phản ảnh ý tưởng bình đẳng về thực chất: không phải chỉ có nghĩa là không ai được đứng trên luật pháp, mà còn có nghĩa là mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và chịu sự chi phối của pháp luật, và đuợc quyền hưởng sự bảo vệ và các lợi lộc một cách bình đẳng….Với sự hiểu biết có tính cách thực chất này, luật pháp phải phục vụ cho một mục tiêu cao hơn là chỉ điều hành đơn thuần và trật tự về cách cư xử của con người; luật pháp phải tăng tiến tự do, an ninh và công bằng, và phấn đấu đạt được sự quân bình toàn hảo giữa luật pháp và công lý.”  (The International Rule of Law Movement, trang 7-8)

Vì LHQ có nhiều bộ phận thi hành, bảo vệ và cổ súy nguyên tắc luật trị, nên LHQ chia các hoạt động liên hệ đến nguyên tác này thành 3 nhóm sau đây nhằm mang lại hiệu quả, hiệu năng và trách nhiệm cho các cơ quan thuộc 3 nhóm đó:

(1) Luật trị ở mức độ quốc tế, gồm các hoạt động liên hệ đến Hiến Chương LHQ, các hiệp ước đa phương, các cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế, công lý tội phạm quốc tế, san định và huấn luyện luật quốc tế, v.v.

(2) Luật trị với nội dung liên hệ đến tình trạng xung đột và hậu xung đột, gồm các hoạt động liên hệ đến công lý tại các quốc gia chuyển đổi chế độ; tiến trình tư vấn; các định chế nhân quyền trong nước, v.v.

(3) Luật trị với nội dung liên hệ đến sự phát triển dài hạn, gồm có các hoạt động tăng cường các định chế pháp lý và tư pháp; cảnh sát; cải tổ hình phạt; chống tham nhũng; tội phạm và lậu chuyển xuyên quốc gia; yểm trợ an ninh; giáo dục về pháp lý, v.v.

Trong các chương trình đào tạo và huấn luyện về nguyên tắc luật trị tại các quốc gia hậu Cộng Sản hay các chế độ giao thời khác, các cơ quan thuộc 3 bộ phận kể trên cũng như các quốc gia Liên Âu, Hoa Kỳ, Canada, Úc v.v.  sử dụng một trong 2 phương pháp sau đây:

Phương Pháp Cải Tổ Từ Trên Xuống (Top-Down Reform), dựa trên các giả định là (1) Nhà nước và các định chế là trung tâm quyền lực; (2) Các định chế pháp lý và an ninh độc quyền sử dụng quyền lực; (3) Các định chế phục vụ nhân dân; (4) Luật pháp chế ngự các hoạt động của nhà nước và trách nhiệm của công dân (nguyên tắc luật trị).

Chủ trương cải tổ từ tên xuống bị chỉ trích từ nhiều lý do. Trước hết, một sự cải tổ sâu rộng như thế sẽ đòi hỏi nhiều công sức, và nhất là phải mất nhiều năm mới thấy được kết quả.  Những người đang làm việc trong cơ chế sẽ bị biến mất hay cải tổ nhiều, cũng như những công dân hưởng lợi lộc nhờ cơ chế đó, thường phản đối và bất hợp tác.  Kế đến, những chính trị gia, các quan chức ngành tư pháp và cảnh sát cảm thấy uy tín và quyền hành bị tước đoạt. Nói một cách tổng quát, người ta sẽ viện dẫn lý do văn hóa, cũng như sự chưa chuẩn bị về dân trí, chính trị để chống đối, bất hợp tác, trì hoãn hay chỉ hợp tác chiếu lệ với sự thay đổi mà những ý niệm, định chế bị họ coi là “áp đặt, “ngoại lai” hoặc cả hai. Công cuộc cải tổ tại Nga, và một số nước trước đây thuộc Liên Bang Xô Viết, và một số nước Đông Âu là những cải tổ tương đối không thành công theo phương pháp này.  Cuộc cải tổ tại Iraq sau khi Sadam Hussein bị lật đật đổ là một trường hợp điển hình.

Phương Pháp Cải Tổ Từ Dưới Lên (Bottom-Up Reform)

Ở một nước chưa có một nền tảng về nguyên tắc luật trị, hay chưa có một ý chí chính trị vững chắc cho công cuộc cải tổ, thì làm sao phổ biến nguyên tác luật trị theo phương pháp “từ trên xuống” khi mà nhân dân không thể chờ đợi?

Những người chủ trương phương pháp “từ dưới lên” cho rằng nền tảng căn bản của nguyên tắc luật trị là các mối liên hệ.  Các mối liên hệ quan trọng nhất ở cấp địa phương là mối liên hệ với nhau giữa cơ quan hành chánh địa phương, tòa án địa phương, công an cảnh sát địa phương, đại diện đảng cầm quyền địa phương vv. và đặc biệt là với nhân dân địa phương. Một điều khoản được long trọng ghi trong hiến pháp, một đạo luật được quốc hội thông qua, một văn kiện dưới luật được các phủ bộ hay địa phương ban hành lại được chính quyên địa phương giải thích một cách tùy thiện, bất nhất và áp dụng khắc nghiệt đối với nhân dân thì họ sẽ nghĩ ngay rằng những văn kiện này không tôn trọng nguyên tắc luật trị về hình thức lẫn nội dung.  Tuy nhiên, nếu sự thi hành chỉ được nghiêm chỉnh thực hiện sau khi có sự tham khảo ý kiến rộng rãi giữa các cơ quan chính quyền với nhau, nhất là với các tổ chức xã hội dân sự, tôn giáo, và ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân, thì nhân dân mới có thể xem đấy là nền tảng của nguyên tắc luật trị và từ đó các cải tổ “từ dưới lên” mới có cơ hội thành công.

  • Ngày nay, với sự lan tỏa của hiện tượng toàn cầu hóa, qua sự lớn mạnh của các tổ chức trực thuộc Liên Hiệp Quốc, qua sự tăng gia các tổ chức chính trị kinh tế vùng, qua nhiều hiệp định đa phương, thì ngay cả tại những quốc gia vốn có một nền tảng pháp lý truyền thống lâu dài và vững chắc, nguyên tắc luật trị của họ cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của các nguyên tắc luật trị, về phương diện hình thức lẫn nội dung, của LHQ và của các nước khác.  Ngược lại ý niệm về nguyên tắc luật trị của họ cũng như của các luật gia cũng ảnh hưởng đến LHQ và các nước đối tác. Sự ảnh hưởng hổ tương của nguyên tắc luật trị của một quốc gia và thế giới bên ngoài là điều khó phủ nhận.  Tuy nhiên, sự vận dụng nguyên tắc luật trị được nghiên cứu và đề nghị bởi các cơ quan LHQ và các học giả nổi tiếng để thay đổi nội dung và hình thức nguyên tắc luật trị trong nước đã bắt đầu từ nhiều năm nay và tại nhiều quốc gia; nhưng sự thiết lập nguyên tắc luật trị phổ quát (a universal rule of law) ở mức độ quốc tế, thì chỉ mới bắt đầu chưa tròn thập kỷ nay.

Tuy nhiên ảnh hưởng qua lại đó chỉ mới là hình thức.  Sự tương tác về nội dung mới là quan trọng.  Trong Phần Giới Thiệu quyển The Rule of Law xb 2016 đã đề cập ở trên, André Nollkaemper giải thích rằng “Quyển sách được hình thành là vì càng ngày sự chồng lấp lên nhau về nội dung giữa luật quốc tế và luật quốc gia càng tăng, đã khiến cho có mối tương tác giữa các định chế quốc tế và quốc gia. Luật quốc tế và các định chế quốc tế mô tả các tiêu chuẩn liên quan chẳng hạn đến nhân quyền, tội phạm, thương mại, và đầu tư, tất cả được qui định giống như bởi luật quốc nội. Sự thi hành các tiêu chuẩn này ở trong nước được xem xét lại bởi các định chế quốc tế, chẳng hạn như các tòa án về nhân quyền, tòa án hình sự, tòa hòa giải về đầu tư, và các bộ phận giám sát không có tính cách xử kiện (trang 5). Tổng Thư Ký LHQ Annan trong phúc trình lên phiên họp cao cấp của Đại Hội Đồng năm 2012, trước hết đề cập đến “sự tuân thủ” (compliance) luật quốc tế như là bước đầu để tăng cường nguyên tắc luật trị quốc tế (international rule of law).  Sự giúp sức của các tòa án và các cơ quan phán xử đặc biệt quốc tế (international courts and tribunals) cho thấy rõ sự quan trọng của “sự tuân thủ”, được coi là yếu tố cốt lõi của pháp lý và nguyên tắc luật tri.

Tuy nhiên, trên thực tế, có không ít quốc gia tranh biện (contest) bằng cách tránh né, giải thích lại, tái xét, hay bác bỏ luật quốc tế hay qui định quốc gia thi hành luật quốc tế. Nói cách khác, nguyên tắc luật trị quốc tế còn đang thời kỳ phôi thai, chưa được lý thuyết hóa chặt chẽ, chưa thuyết phục được các quốc gia có chủ quyền phải tuân theo.  Chúng ta không quá lạc quan là một ngày gần đây, nó được hoàn toàn tôn trọng; nhưng với sự phát triển của các tổ chức pháp lý, và sự tương tác giữa luật pháp quốc nội và luật pháp quốc tế, với sự hợp tác càng ngày càng tăng về kinh tế, thương mại, y tế, khí hậu v.v., các quốc gia sẽ thấy lợi hơn nếu tôn trọng nguyên tắc này – dĩ nhiên phải được hiện đại hóa và được chấp nhận.

4. Đo Lường Nguyên Tắc Luật Trị

Như đã nói, luật trị là một ý niệm trừu tượng, có tính cách qui phạm với những yếu tố mà các luật gia mong muốn nó có.  Từ những yếu tố — đôi khi mang tên khác nhau –được khá nhiều các luật gia đồng ý rằng nếu hội đủ, thì nguyên tắc luật trị đáng được coi là mẫu mực.  Hiện nay trên thế giới có khoảng 10 tổ chức hằng năm đưa ra những nghiên cứu của mình về luật trị.  Lâu đời nhất có lẽ là Vera Innstitue of Justice, thành lập 1961 tại Hoa Kỳ, chuyên nghiên cứu về tình hình pháp lý tại Hoa Kỳ. Năm 2008, Vera hợp tác với tổ chức World Justice Project — một sáng kiến của America Bar Association—mới ra đời 2 năm trước đó– để đưa ra dự án Vera-Altus Indicators Project nhằm bổ sung Rule of Law Index hiện hành bằng cách thích ứng các tiêu chuẩn pháp lý (de jure standards) với những biện pháp thực tế (de facto measures), và được sử dụng trong các cuộc thăm dò tại 4 thành phố lớn: New York City (Mỹ), Santiago (Chile), Lagos (Nigeria) và Chandigarh (Ấn Độ). Sau đó, Vera hợp tác với Liên Hiệp Quốc (bộ phận duy trì Hoà Bình) để nghiên cứu nguyên tắc luật định dưới khía cạnh an ninh trật tự tại Haiti, Liberia và South Sudan, và đưa ra cẩm nang UN-backed Guide for Rule of Law Indicators mà khi công bố ngày 6/7/2011, Ivan Sinomovic,  Phụ Tá Tổng Thư Ký Đặc Trách Nhân Quyền, đã tuyên bố: “Nguyên tắc luật trị là điều kiện tiên quyết nhằm đạt được 3 mục tiêu trụ cột lớn của Liên Hiệp Quốc –hòa bình và an ninh, phát triển và các quyền con người.” (The Rule of Law is a pre-condition for achieving the three pillars of the United Nations –peace and security, development and human rights.).

Ngân Hàng Thế Giới cũng có nghiên cứu về luật trị, nhưng trong khuôn khổ một đề tài rộng rãi hơn –chúng tôi tạm gọi là trị quản (governance), một lãnh vực được khai thác mạnh mẽ từ sau cuộc cải tổ hành chánh trên toàn thế giới khởi sự từ đầu thập niên 1990; bao gồm cai trị trong lãnh vực công và quản lý trong lãnh vực tư.

Sau đây, chúng tôi xin đề cập đến vài công bố hằng năm của World Justice Project.  Với sự yểm trợ tài chánh ban đầu năm 2006 của Bill & Melinda Gates Foundation, hiệp hội các luật gia Mỹ American Bar Association nói trên, một tổ chức vô vị lợi, còn được sự trợ giúp của nhiều tổ chức, công ty cũng như cá nhân, bắt đầu nghiên cứu sự thi hành nguyên tắc luật trị, dưới cái tên World Justice Project (WJP).  WJP phân chia nguyên tắc luật trị ra làm 4 nguyên tắc dưới đây:

  1. Chính phủ và các viên chức, cơ quan thuộc quyền chịu trách nhiệm trước pháp luật;
  2. Các đạo luật rõ ràng, được công bố, ổn định và công bằng, và bảo vệ các quyền căn bản, kể cả sự an toàn của con người và tài sản;
  3. Thủ tục, theo đó các đạo luật được thì hành, quản lý và cưỡng hành, được tiếp cận một cách công bằng và có hiệu năng;
  4. Các đạo luật được củng cố, và sự tiếp cận công lý được cung ứng bởi các viên chức cưỡng hành, luật sư, hay những người đại diện, những vị quan tòa tất cả đều có đủ khả năng, độc lập, và đạo đức, mà những người này phải đủ số, có nguồn gốc thích hợp, và phản ảnh được đặc trưng của cộng đồng mà họ phục vụ.

Bốn nguyên tắc trên, theo J. Heckman, R. Nelson & L. Cabatingan (Global Perpectives on The Rule of Law, tr.255) ) có thể xếp tương đương với 4 nguyên tắc ngắn gọn và quen thuộc do R.H. Fallon, Jr. đưa ra năm 1997, tuần tự như sau:

  1. tính siêu đẳng của quyền lực pháp lý (legal authority) đối với công dân và các giới chức chính quyền ;
  2. tính ổn định của các luật lệ,
  3. tính hiệu quả của luật lệ, và
  4. tính khả dụng (availability) của các định chế cưỡng hành không thiên vị.

Ngoài ra, Fallon còn thêm một nguyên tắc nữa mà WJP không có. Đó là nguyên tắc về khả năng của luật lệ, những tiêu chuẩn hay những nguyên tắc hướng dẫn con người trong cách xử sự.

Trở lại với WJP, người ta nhận ra rằng mỗi năm, 4 nguyên tắc lớn này lại được phân ra thành một số yếu tố (factors) để tiện việc thăm dò: 16 yếu tố vào năm 2009; 10 vào năm 2010; 11 vào năm 2011; 9 vào năm 2012 v.v.   Đến năm 2016, thì 4 nguyên tắc đó được chia ra làm 8 yếu tố (lại còn được tế phân thành tổng cộng 48 chỉ số, indicators), và được áp dụng để nghiên cứu cho 113 quốc gia.  Dưới đây là điểm số và thứ hạng của mỗi yếu tố cho trường hợp Việt Nam năm 2016.

CÁC YẾU TỐ ĐIỂM SỐ

(0 -1.0)

THỨ HẠNG

(trên 113)

1.Hạn chế đối với quyền lực của chính quyền 0,49 81
2. Không nhũng lạm 0,45 67
3. Chính quyền cởi mở 0,43 92
4. Các quyền căn bản 0, 54 68
5. Trật tự và an ninh 0,79 35
6. Sư cưỡng hành luật lệ 0,43 91
7. Công lý dân sự 0, 47 80
8. Công lý hình sự 0,50 51

 Nguồn: WJP Rule of Law Index 2016

Thật ra, điểm số, chỉ số, thứ hạng v.v. đối với một ý niệm trừu tượng và qui phạm như nguyên tắc luật định chỉ có giá trị tương đối, không giống như các độ đo trên hàn thử biểu.  Khi đưa ra những nguyên tắc, những yếu tố và những chỉ số, các nhà nghiên cứu luôn cân trọng hai tính chất “mỏng” (thin) và “dày” (thick) của ý niệm luật định.  Quá “mỏng” có nghĩa là chú trọng rất ít đến các yếu tố thuộc lãnh vực hình thức; quá “dày” có nghĩa là chú trọng quá nhiều đến các yếu tố thuộc lãnh vực nội dung.  Văn hóa của một quốc gia, trong đó có phong tục, tập quán, tôn giáo, tình trạng dân trí, sắc tộc v.v. là một trong những tiêu chuẩn quan trọng dùng để cân trọng trong việc nghiên cứu và so sánh.

Kết Luận

Ý niệm luật trị được hồi sinh và phát triển chừng vài chục năm nay. Trong phạm vi quốc gia, nó được xem như là điều kiện căn bản để kiện toàn hệ thống luật pháp.  Tính tiêu cực của nó là nhằm ngăn chặn sự tùy tiện, bốc đồng và vô lý của nhà cầm quyền; đặt vấn đề đối với tính chính đáng của nguồn gốc quyền lực. Kế đến nó còn nhằm bảo đảm mọi công dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử. Khi nghiên cứu khía cạnh tiêu cực này, người ta có thể sẽ không lưu ý là nhiều khi luật pháp được áp dụng nhất quán và hợp lý, nhưng lại đưa đến hậu quả xấu, không như ý muốn của giới hữu quyền cũng như của công dân.

Trái lại, tính tích cực của nguyên tắc luật trị chú trọng đến nội dung và các cứu cánh mà nó phải phục vụ.  Các cứu cánh này bao gồm nhân quyền, dân quyền, dân chủ, công lý, công bằng xã hội — quả là những phạm trù triết lý chính trị lớn lao. Vô hình chung, vì “nhân danh” các mục tiêu, hay vì quá hăng say lao về các mục tiêu chưa được xác định rõ ràng, mà nhà nước có thể xem nhẹ giá trị của nguyên tắc luật trị, cũng như các thủ tục xét xử, hay cả quyền lợi của thiểu số.

Hiểu được tính tiêu cực và tích cực của ý niệm về sự trị vì của luật pháp, người công dân bình thường cũng có thể rút ra những kết luận khách quan thích hợp về các hoạt động của chính quyền trong cả ba lãnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp từ cấp trung ương đến điạ phương. Vì thế truyền bá và giáo dục rộng rãi ý niệm này đến quần chúng –đặc biệt là tại các nước đang phát triển mà trình độ văn hóa và ý thức chính trị còn thấp– là bước đầu cần thiết và vững chắc để tạo dựng một xã hội trật tự, để từ đó đưa đến no cơm ấm áo.

Áp dụng nguyên tắc “luật trị quốc nội” đã khó, áp dụng nguyên tắc “luật trị quốc tế” lại càng khó hơn, vì những định nghĩa bất đồng, nhất là đối với những mục tiêu lớn như hòa bình, trật tự xã hội, công bằng nhân loại v.v. cũng như không có những phương thức cưỡng hành rõ ràng đối với những nước có chủ quyền, nhất là đối với những nhà nước ngang ngược, hai mặt (double standards) và thủ đoạn, chỉ biết sử dụng luật kẻ mạnh.  Nguyên tắc luật trị quốc tế chỉ mới bắt đầu, và sự đồng thuận về hình thức lẫn nội dung còn đòi hỏi nhiều thử thách. Tuy nhiên, bắt đầu cũng có nghĩa là lóe lên những tia hy vọng.

Virginia, tháng 11 năm 2016

Lê Văn Bỉnh

 

Visits: 775

Bài Thi Kệ của Thiền Sư Mãn Giác (1052-1096)

Bài thi kệ của Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096)

春 去 百 花 落
Xuân khứ  bách hoa   lạc
春 到 百 花 開
Xuân đáo  bách  hoa khai
事 逐 眼 前 過
Sự   trục   nhãn  tiền   quá
老 從 頭 上 來
Lão  tòng   đầu thượng lai
莫 謂 春 殘 花 落 尽
Mạc   vị    xuân   tàn   hoa    lạc   tận
庭 前 昨 夜 一 枝 梅
Đình  tiền  tạc   dạ     nhất    chi   mai.

Bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ:

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai

 

Nguyễn N Ngọ (trình bày)

 

Visits: 381

Tuổi Trẻ Ông Phó Quận Phạm Thành Châu

Nguyễn Ngọc Cảnh, Ph.D.

Pham Thanh Chau

Phạm Thành Châu

Tác giả truyện ngắn Phạm Thành Châu và tôi quen nhau từ thuở học cùng lớp ở Trung Học Trần Quí Cáp, Hội An. Tôi không biết có phải vì mình nay tuổi đã ngoại thất tuần và vì đã xa nhau hơn 50 năm nên tôi không còn nhớ là hai đứa bắt đầu biết nhau từ năm nào mà chỉ còn nhớ là cả hai cùng học Đệ Nhất C niên khóa 1962-1963. Hay cũng có thể là vào những năm trước Tú Tài I bạn Châu của tôi không gây nhiều ấn tượng cho tôi như vào năm Đệ Nhất? Vào năm ấy tôi còn nhớ rất rõ Phạm Thành Châu là một học trò tinh nghịch nhứt lớp nhưng lại là làm Trưởng ban trật tự của lớp! Tôi không nhớ thủ tục bầu bán như thế nào nhưng tôi được lãnh cái danh dự làm Trưởng lớp còn PTC bị lãnh cái nợ làm Trưởng ban trật tự. Tình thật mà nói nếu Trưởng lớp có quyền chọn các trưởng ban để làm việc hiệu đoàn với mình chắc có lẽ tôi đã “bổ nhiệm” ông bạn quí hóa của tôi làm “Trưởng ban mất trật tự”!

Phạm Thành Châu tinh nghịch nhưng rất ngộ nghĩnh nên ai nếu không thương thì cũng không ghét được. Mỗi tuần Châu ngồi ghi vào vở cô giáo Anh văn trẻ đẹp Lê Thị Tường Loan mỗi buổi dạy mặc áo dài màu gì, cầm xách tay màu gì, và đi giày cao gót màu gì để đến thứ Hai tuần sau “bá cao” cho cả lớp biết! Phòng học của lớp Đệ Nhứt C nằm sát lộ chính chạy từ dưới Trường Nam Tiểu học ở huớng đông lên hướng tây qua trước mặt Trung học Trần Quí Cáp bên tay trái và trại lính Công binh bên tay phải. PTC ngồi ở cuối bàn gần cửa sổ sau; nếu ngoãnh đầu lại thì nhìn ngay vào cổng chính của trại Công binh nơi xe nhà binh thường xuyên ra vào khá ồn ào. Những xe Jeep nhỏ có tiếng máy “tao nhã” hơn thường không lấn áp tiếng giảng bài của giáo sư trẻ ở trong phòng học của chúng tôi. Nhưng những tiếng máy gào thét “thô lỗ” của xe vận tải “rêm xê” thì lúc nào cũng làm cho học trò lũ chúng tôi chẳng nghe thầy nói gì ở trên bảng! Chính vì vậy mà mỗi khi nghe như có tiếng xe ra cổng, Cô Tường Loan thường muốn biết là xe lớn hay nhỏ để có thể dừng giảng bài chờ cho xe ra khỏi cổng. Một hôm cô gọi “Châu, xem có xe ra hay không?” Ông bạn tinh nghịch của tôi lanh lẹ trả lời “Thưa Cô có!” Cô Loan hỏi “Xe gì?” “Dạ thưa Cô xe đạp.” Châu đáp lại! Cả lớp phát lên cười rộ. Trưởng ban trật tự có nhiệm vụ phân công tác chùi bảng mỗi ngày. Có một hôm phiên trực rơi trúng vào một đồng môn vắng mặt; thế thì Trưởng ban trật tự phải thay thế. PTC lên bảng tìm không ra khăn lau bảng trong khi giáo sư sắp bước vào lớp, Châu lanh lẹ sè hai bàn tay mình ra và nói lớn “Hãy xem Trưởng ban trật tự làm việc” và dùng hai bàn tay xóa sạch bài viết của giờ học trước còn để lại!

Đó là nói chuyện trong lớp khi có thầy. Còn lúc lớp buổi sáng trước 8 giờ trong lúc ngồi chờ thầy vào lớp, Châu thường cầm đầu diễu cô Thúy Quỳnh “xết xi” trẻ đẹp dạy ở Trường Nam Tiểu Học. Sáng nào cô cũng ỏng ẹo đi bộ ngang trường chúng tôi. Mỗi khi thấy cô, Châu và đồng bọn bắt chước mấy đứa nhỏ bán bánh mì buổi tối thường rao “Bánh mì nóng dòn đây” và cùng la lớn ” Thúy Quỳnh nóng dòn đây”!

Thời tinh nghịch vô tình vô tội của tuổi học trò đứng hàng ba sau ma quỉ ấy nay đã xa tịt mù trong quá khứ dài hơn nữa thế kỷ. Tôi xa PTC sau khi đậu Tú tài II năm 1963. Tôi ngược ra hướng bắc vào Đại học Sư phạm Huế còn bạn tôi xuôi hướng nam vào Sài Gòn học Quốc gia Hành chánh. Sau bao năm lên voi làm Phó Quận Trưởng thời Việt Nam Cộng Hòa rồi xuống chó làm tù cải tạo của thời “Bắc thuộc” cho đến khi đi tìm được tự do ở đất Cờ Hoa. Sách có câu “thời thế tạo anh hùng” và vì hoàn cảnh đổi thay mà nay PTC đã trở thành một văn sĩ viết truyện ngắn hay ít ai sánh kịp.

Anh đã xuất bản được 4 tập truyện ngắn nhan đề:

– Bức Họa Khỏa Thân

– Nhớ Huế

– Lý Lẽ của Trái Tim

– Lời Tỏ Tình

sach PTCĐây là những câu chuyện cười ra nước mắt phản ảnh trung thực cuộc đời đầy khổ nhục của những anh hùng Việt Nam tự do sống dưới chế độ nô lệ của Hà Nội sau 1975.  Người chồng có thể hiểu trong đầu mình cái đau quặn người của vợ khi sinh đẻ nhưng là đàn ông, vì không bao giờ có kinh nghiệm bản thân “đau đẻ”, không bao giờ có thể đồng cảm được cơn đau vô tả của người đàn bà khi sinh con. Tương tợ như thế, một số người may mắn như tôi không bị sống trong trại tập trung của Cộng sản vẫn có thể hiểu trong đầu mình những khổ nhục thể xác và tinh thần mà bạn bè bị kẹt lại ở Miền Nam phải trải qua nhưng không thể nào cảm thông được trong tim mình những nổi não nề trong tinh thần của cuộc sống lao tù chính trị dưới chế độ vô nhân bản của Cộng sản. Nhưng một điều rất đáng ngac nhiên mà tôi phải cảm ơn PTC là qua những truyện ngắn của nhà văn tị nạn này tôi đã nhận ra được cái não nề, quằn quọi trong tinh thần của những người bạn đi “cải tạo” khiến tôi không cầm được nước mắt. Đó là cái tài thiên phú ít có.

Văn của PTC nhẹ nhàng, hài hước, và lôi cuốn khiến ít ai có thể bỏ đọc nửa chừng. Tuy văn có vẻ như đùa cợt, nội dung thật là sâu sắc thâm trầm. Tuy tác giả trải qua nhiều kinh nghiệm đắng cay, PTC vẫn không hoàn toàn mất tin tưởng vào thiện tính của con người. Đây là một trong những yếu tố đặc thù phản ảnh nhân tình của tác giả. Ý thức hệ phi nhân bản có thể xóa mờ tâm tính của một số người Việt chúng ta, nhưng truyện của PTC cho những ai trong chúng ta còn giữ lại được chút nghĩa “đồng bào” thấy còn hé mở một tia ánh sáng, dầu yếu ớt, trong cái tâm mù lòa của những người đã đi lầm đường trước năm 1975.

Cảm ơn bạn Châu đã cho tôi những giây phút vui buồn vì nhân tình thế thái trong đất nước Việt Nam thân yêu vào giai đoạn lịch sử loạn ly. Bạn là một trong những chứng nhân lịch sử quan trọng của dân tộc Việt cho một giai đoạn khổ nhục nhất của người Việt sống trong cảnh anh em đô hộ anh em.

Nguyễn Ngọc Cảnh, Ph.D.

Lưu ý: Độc giả có thể liên lạc với nhà văn Phạm Thành Châu qua số ĐT (571)480-3276 hoặc (703)569-0124, hay địa chỉ email: chaupham3276@gmail.com

Visits: 70

Ông Phó Tổ Chức Bầu Cử

Phạm Thành Châu 

baucu

Ảnh: http://hinhanhvietnam.com

Bây giờ tôi xin kể qua chuyện bầu cử các định chế tổng thống, thượng viện, hạ viện, hội đồng tỉnh, hội đồng xã…

Vùng lục tỉnh (miền tây) việc bầu cử không căng thẳng như các tỉnh miền Trung, nhất là tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế, là nơi các thầy ở các chùa Phật giáo khống chế hầu như toàn thể người dân địa phương. Các thầy là người tu hành, lòng dạ ngay thẳng, thánh thiện, tưởng ai cũng như mình nên ai “nói ngọt” (chuyện cứu dân độ thế) là các thầy tin ngay. Mà Việt Cộng thì rất giỏi khoa tuyên truyền, dụ dỗ, lừa phỉnh, khủng bố… nên các thầy bị họ giật giây. Các thầy lúc nào cũng sẵn sàng “hi sinh thân xác vô thường để cứu độ chúng sanh”. Sau năm 1975, chiếm được miền Nam, Việt Cộng công bố rằng: Trước 1975, ở miền Nam, họ đã gài được hơn ba mươi nghìn (30,000) cán bộ Cộng Sản, xâm nhập các chùa chiền Phật giáo trong Nam. Tôi xin đưa ra vài sự kiện để chứng minh. Thích Trí Quang, đội lốt nhà tu. Trong “Trí Quang Tự Truyện” có viết “Lại biết từ lâu, Pháp làm cỏ các phái chống họ, mà cao điểm là pháp trường Yên Bái, thì còn ai nữa để lựa chọn ngoài VM (trang 56)” Theo tình báo Việt Nam Cộng Hòa thì. Năm 22 tuổi, Trí Quang ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, nhận nhiệm vụ vào Nam diệt “loài quạ lang”. Năm 1949, Tố Hữu kết nạp Trí Quang vào đảng Cộng Sản tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa, Thừa Thiên. Ngày 6 tháng 6 năm 1966, Trí Quang ra lịnh cho đoàn sinh viên Quyết Tử đến từng tư gia ở Huế và ngoại ô, bắt dân chúng đem bàn thờ Phật xuống đường, dĩ nhiên có cả hình và tượng Phật. (Bàn thờ, tượng Phật là vật thiêng liêng, phải để nơi cao quí, trang trọng, sao lại  để chỗ cống rãnh, rác rưỡi dơ dáy?!) Thích Trí Quang ra lịnh đình công bãi thị, xe rác không làm việc được, dân Huế đem rác vất thành đống hôi thối (chuột chết, đầu tôm xương cá, đồ ăn thừa…) bên cạnh bàn thờ Phật, tượng Phật bên lề đường. Là người tu hành, không ai làm chuyện đó. Trong “Trí Quang Tự Truyện”, Trí Quang chối tội nhưng lại viết “Nỗi ân hận về bàn thờ Phật cùng nỗi thán phục Vân (tự thiêu), cho đến nay không nguôi trong tôi” (trang 207) Ðại họa cho dân Huế năm Mậu Thân 1968, gần chục nghìn người vô tội bị Viêt Cộng đập đầu, chôn sống cũng nhờ sự tiếp tay của quí thầy. Việt Cộng xâm nhập vùng nào đều đặt bộ chỉ huy ở các chùa (không ai dám bắn vào chùa, nhà thờ), khai thác tình báo thì có các sư đi lấy tin tức. Ai dám hạch sách quí thầy? Năm Mậu Thân, sư Thích Ðôn Hậu bị lộ nên theo Việt Cộng ra Bắc. Ðầu năm 1975, miền Nam sắp sụp đổ, chỉ mới nghe tin đồn chính phủ Mỹ sắp viện trợ nhân đạo (tổng thống Ford dự định 250 triệu để cứu trợ đồng bào tị nạn Cộng Sản)) thì các dân biểu phe Phật giáo Ấn Quang đánh điện yêu cầu chính phủ Mỹ đừng viện trợ nhân đạo. Mỹ dẹp luôn chương trình đó. Ngày 28 tháng 3 năm 1975, chư tăng chùa tỉnh hội Ðà Nẵng ra tận đèo Hải Vân mừng đón quân đội Việt Cộng. Chư tăng hớn hở ngồi trên xe tăng T54 tiến vào Ðà Nẵng. Ngày 19 thánh 5 năm 1975, chư tăng Ấn Quang long trọng làm lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh… (còn nhiều sự kiện nữa).  Sau năm 1975, Trí Quang bị cô lập vì như Trần Bạch Ðằng, cán bộ tuyên huấn của Việt Cộng phát biểu “Trí Quang là loại CIA chiến lược. Anh Út Nguyễn Văn Linh giận Trí Quang lắm”. Thời đó (sau 1975) các báo Cộng Sản ở Sài Gòn có viết về một ông sư “TQ” đã nhận hai triệu đô la của CIA để trang trải các chi phí nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, lập chính phủ mới để ông ta đưa Phật giáo thành quốc giáo và ông ta làm “Quốc Phụ” kiểu như sư Vạn Hạnh (Lý Khánh Vân) thời nhà Lý (1010-1225). Trong “Trí Quang Tự Truyện” có đoạn “Tất cả các chi phí không nhỏ cho việc của Pg miền Trung mà tôi phải lo liệu…” (trang 193) Sau 1975, mất nước, họ vênh váo, tưởng mình là công thần của Việt Cộng, không ngờ bị khinh bỉ, xem như giẻ rách. Những kẻ phản trắc (ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản) đó, kể cả cái chính phủ bù nhìn “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”, đều bị họ vất bỏ, thành thân tàn ma dại, ai cũng ghê tởm, né tránh.

Trở lại chuyện bầu cử năm 1973 tại Thừa Thiên, Huế. Sau đại nạn Mậu Thân, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn không suy giảm. Cả tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế, trung tâm văn hóa của miền Trung, biết bao trí thức, nhân tài mà thầy ra lịnh bầu cho một người đàn bà từ Sài Gòn ra, bà Kiều Mộng Thu, và bà ta đắc cử dân biểu hạ viện một cách vẻ vang. Bà ta chỉ tuyên bố với báo chí một câu “Tôi cảnh cáo cho các thầy ở Huế biết. Nếu các thầy không ra lịnh cho người ta bầu cho tôi, để tôi thất cử, thì tôi sẽ nói huỵch toẹt chuyện tôi với các thầy”. Báo chí Sài Gòn đăng chuyện đó như tin tức bình thường vì họ biết rõ từ lâu.

Giai đoạn tôi làm việc ở Thừa Thiên, các cuộc bầu cử năm 1971 và 1973 diễn ra trong bầu không khí căng thẳng giữa hai thế lực chính trị: Ðảng Dân Chủ thân chính quyền và Phật giáo thân cộng (dưới cái lốt Thành Phần Thứ Ba). Phe Phật giáo cho phật tử đi khắp hang cùng ngỏ hẻm rỉ tai từng người “Chính quyền bảo gì cũng vâng dạ, nhưng vào phòng kín (phòng bầu phiếu) thì bỏ cho ứng cử viên của thầy, không ai biết được”. Trong các cuộc bầu cử, phe Phật giáo chỉ chờ một sơ hở nhỏ của các phòng phiếu là la ó lên rằng “Chính quyền gian lận bầu cử. Ðàn áp Phật giáo” Nếu ứng cử viên Phật giáo thất cử thì họ kích động dân chúng biểu tình, đòi hủy bỏ cuộc bầu cử, tổ chức bầu cử lại. Các chùa chiền (tỉnh hội) ở thành phố hay (khuôn hội) ở thôn quê được Việt Cộng đội lốt nhà sư, xâm nhập, tổ chức, điều hành rất có hệ thống. Trong các cuộc bầu cử, các chùa vận động rất tỉ mỉ, khôn khéo nhờ cán bộ Cộng Sản (nằm trong chùa) chỉ đạo. Ngoài việc vận động cử tri bỏ phiếu cho “người của thầy”, chùa còn cử phật tử (đã được huấn luyện) làm đại diện ứng cử viên Phật giáo đến từng phòng phiếu theo dõi việc bầu cử, hễ có gì bất thường là đòi lập biên bản để sau nầy vu vạ là chính quyền gian lận.

1967_Elections

Ảnh: Wikipedia

Diễn tiến tổ chức một cuộc bầu cử như sau. Trước giờ mở cửa phòng phiếu, các thùng phiếu được mở tung để xác nhận không có gì trong đó. Khi đóng nắp thùng phiếu xong phải dán giấy niêm phong, có chữ ký của đại diện các ứng cử viên rồi khóa lại. Từ giờ phút đó, các đại diện ứng cử viên (Phật giáo) không rời thùng phiếu nửa bước. Họ mang theo thức ăn, nước uống, ngồi nhìn không rời mắt thùng phiếu, cán bộ phòng phiếu đi đâu mặc kệ, họ cứ ngồi nhìn thùng phiếu, chỉ thay nhau đi vệ sinh vài phút rồi quay lại. Ðến giờ qui định, phòng phiếu đóng cửa, lập biên bản, di chuyển thùng phiếu về nơi kiểm phiếu, phật tử (đại diện ứng cử viên) theo sát thùng phiếu. Họ sợ chính quyền tráo thùng phiếu, nhét thêm phiếu của ứng cử viên đảng Dân Chủ (thân chính quyền) vào thùng phiếu. Khi kiểm phiếu, họ săm soi từng lá phiếu rất kỹ để tìm lá phiếu (của đối phương) bất hợp lệ. Nếu có, tức khắc họ đòi lập biên bản. Xem thế đủ biết việc tổ chức bầu cử của chính quyền bao giờ cũng phải đúng luật bầu cử.

Tôi làm phó quận hành chánh tức trưởng ban tổ chức bầu cử quận, chịu trách nhiệm theo dõi, giải quyết các trở ngại. Việc giữ an ninh phòng phiếu đã có chi khu (cơ quan quận sự quận) và cảnh sát lo, đề phòng Việt Cộng phá hoại. Thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, có đảng Dân Chủ là đảng thân chính quyền. Dù không có chỉ thị nhưng tôi (đã được chỉ định làm chủ tịch đảng bộ Dân Chủ quận) cũng phải quan tâm theo dõi. Nhân viên, cán bộ xã ấp, nhiều lần tổ chức bầu cử nên rất thông thạo mọi việc. Theo qui định. Mỗi xã có một số phòng phiếu rải rác để tiện cho cử tri khỏi đi xa. Trong phòng phiếu có một phòng kín, có đủ chỗ cho ba cử tri vào đó chọn lựa (lá phiếu) ứng cử viên mà mình muốn bầu, bỏ phiếu bầu đó vào phong bì, đem ra, bỏ phong bì vào thùng phiếu để công khai trước mặt các đại diện ứng cử viên. Vậy là xong nhiệm vụ cử tri. Khi một cử tri bỏ phiếu xong đi ra thì một cử tri khác vào lãnh phiếu bầu và đi vào phòng kín. Cứ lần lượt như thế. Tôi là người ma mãnh. Trước ngày bầu cử, tôi họp cán bộ xã ấp hướng dẫn “Tuyệt đối phải làm đúng luật bầu cử. Không làm điều gì khiến các đại diện ứng cử viên khiếu nại. Bất cứ việc gì xảy ra trong phòng phiếu, dù nhỏ nhặt cũng phải lập biên bản để đề phòng họ làm to chuyện, tố cáo chính quyền gian lận bầu cử. Ðể tránh buổi sáng thì chen nhau đi bỏ phiếu, mất thì giờ người dân chờ đợi, trễ nãi việc đồng áng, đến chiều thì vắng hoe. Xin các xã lên lịch đi bầu từng ấp, gửi lên quận. Cử tri mỗi ấp có khoảng một giờ đến phòng phiếu. Ðến giờ qui định, ông trưởng ấp và phó ấp tập trung cử tri trong ấp mình, hướng dẫn đến phòng phiếu, sau khi bỏ phiếu, đồng bào lần lượt ra về trong trật tự”

Sau buổi họp, tôi dặn các xã, cho từng trưởng ấp lên gặp riêng tôi. Khi gặp riêng, tôi yêu cầu ông ta đi đến nhà đồng bào trong ấp mình giải thích “Nếu không muốn bị đập đầu chôn sống như vụ Mậu Thân lần nữa thì đừng bầu cho các ứng cử viên Phật giáo mà các phật tử đã đưa tên cho đồng bào” Ông trưởng ấp thắc mắc “Mình dặn thì họ vâng dạ, nhưng vô phòng kín, họ bỏ cho “người của thầy” thì làm sao biết được?” Tôi mới nói rằng “Ðó là lý do tôi mời anh lên gặp riêng tôi. Ấp anh có một giờ bầu phiếu theo lịch trình của xã. Anh cũng biết phòng bỏ phiếu kín thường dành cho ba cử tri. Ðến giờ dân ấp của anh lần lượt vào bỏ phiếu anh cũng vào lãnh phiếu bầu, vào phòng kín như những cử tri khác, nhưng anh đứng trong phòng kín đó nửa giờ, nửa giờ sau, ông phó ấp vào thay thế. Luật bầu cử không qui định cử tri vào phòng kín trong bao lâu. Dân ấp anh thấy ông trưởng ấp hoặc ông phó ấp bên cạnh nhìn chừng thì họ bỏ phiếu cho ứng cử viên Dân Chủ cho yên thân. Sau nửa giờ, anh bước ra bỏ phiếu vào thùng thì ông phó trưởng ấp bước vào, làm nhiệm vụ công dân, nhưng cũng đứng trong phòng kín đó cho đến khi dân ấp anh bầu xong. Tuyệt đối không cho ai biết những gì tôi nói với anh. Vì ấp anh có nhiều phật tử đi vận động quá nên anh là trưởng ấp duy nhất trong quận tôi hướng dẫn cách đó”. Kết quả bầu cử năm đó. Cử tri quận Quảng Ðiền bầu cho ứng cử viên đảng Dân Chủ (thân chính quyền) lên đến 89% mà phe Phật giáo  không moi ra được một khiếu nại, vu cáo nào để làm to chuyện. Không ai biết vì sao “phe ta” ở quận Quảng Ðiền thắng cử vẻ vang?

Nghe nói, trung ương (đảng Dân chủ) dự định sẽ đưa tôi về tỉnh nào mà đảng Dân Chủ “yếu thế”, nhưng sau đó thì mất nước.

Phạm Thành Châu

Visits: 411