Biển, Cá Và Người

Trần Văn Lương

bien ca va nguoi

Đứng sững nhìn rừng cá chết nằm phơi,
Lửa uất hận nung mắt người rát bỏng.
Dãy thuyền gỗ kẹt trên bờ lóng ngóng,
Đoàn ngư dân tuyệt vọng ngước nhìn trời.

Đã mấy chục năm rồi,
Biển đã biến thành nơi chứa xác.
Với chế độ bạo tàn độc ác,
Đến trùng dương cũng tan tác tả tơi.

                          ****

Biển ngày xưa vốn là chốn vui chơi,
Nhưng từ buổi đổi đời đau thương đó,
Khi dân phải trốn chạy làn sóng đỏ,
Đã thành nơi máu lệ đổ tuôn dòng.

Tháng Tư đen, bao bất hạnh chất chồng,
Ách nô lệ đã tròng lên nước Việt.
Giặc Cộng giở trò trả thù khốc liệt,
Bao anh hùng gặp cái chết không may.

Vì tự do nên chấp nhận lưu đày,
Toàn dân Việt đêm ngày lo vượt biển.
Triệu người dấn thân vào nơi nguy biến,
Có mấy phần được đến bến bình an.

Nào biên phòng, nào hải tặc Thái lan,
Cái chết vẫn tham lam đeo từng bước.
Đem tính mạng trả treo cùng sóng nước,
Đáy biển đen chôn ước nguyện không thành.

                               ****

Biển ngày nay vẫn đậm máu dân lành,
Dù súng đạn chiến tranh không còn nữa.
Đất nước khổ hơn cả thời khói lửa,
Dân mỏi mòn đợi mãi chữ tự do.

Sống phập phồng trong hốt hoảng âu lo,
Vì lũ Vẹm luôn bày trò đốn mạt.
Với Tàu Cộng, chúng khom lưng hèn nhát,
Nhưng hung hăng tàn ác với dân mình.

Những ngư dân, vì sinh kế gia đình,
Phải hứng chịu khổ hình trên sóng cả.
Thuyền bè Chệt, chúng gọi là “tàu lạ”,
Giết dân lành, giành cá, lấn biển khơi.

Chúng thông đồng rải chất độc khắp nơi,
Sau chim cá, đến con người bị diệt.
Của độc hại, ai ai mà chẳng biết,
Nhưng đói đành liều chết nuốt qua cơn.

                              ****

Biển ngày mai rồi sẽ thảm thê hơn,
Khi dân Việt chịu thêm hờn mất nước,
Khi mảnh đất của tổ tiên ngày trước
Lọt vào tay bầy xâm lược Bắc phương.

Dân giờ đây đã đến lúc cùng đường,
Mất căn cước, quê hương cùng ngôn ngữ,
Mất luôn cả mấy ngàn năm lịch sử,
Trên đất nhà, làm lữ khách lưu vong.

Trong đau buồn, ngày ngày hướng biển Đông,
Thân nhiễm độc, ngóng trông giờ giải thoát,
Ôm bệnh hoạn, tật nguyền cùng đói khát,
Bất lực nhìn Tàu phá nát non sông.

Tự do không và tổ quốc cũng không,
Kẻ mất nước chợt đau lòng nhận thấy,
Đường giải thoát, sống chết gì cũng vậy,
Cuối cùng rồi chỉ còn đáy biển sâu.

Sau này ai có hỏi: – Nước anh đâu?
Kẻ sống sót đành cúi đầu lặng lẽ,
Thương khóc chốn xưa kia là quê mẹ,
Nay xót xa thành tỉnh lẻ của Tàu.

Nếu hỏi dồn : – Thế dân Việt anh đâu?
Sẽ được chỉ về biển sâu trước mặt,
Kèm theo tiếng trả lời trong nước mắt:
– Đấy là nơi người sẽ gặp dân tôi.

                         ****

Đêm đen dài, bối rối giọt sương rơi,
Trên bãi cạn, bóng ma Hời thấp thoáng.

Trần Văn Lương (CH8)
Cali, 5/2016

Visits: 214

Ngẫm Chuyện Xưa Nay: Bài Thơ Yêu Nước

Lão Trượng

Trong thi ca Việt Nam từ cổ chí kim, có nhiều bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, nói lên niềm đau, nỗi nhục khi bị ngoại xâm dày xéo quê hương. Nhiều bài thơ đã đánh thức lương tri con dân Việt trước hiểm họa đất nước được lưu truyền lại hậu thế.

Xin đơn cử một trong số bài thơ đó: Vịnh Bức Dư Đồ Rách của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu vào đầu thế kỷ 20.

tandaNhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) sinh tại làng Khê Thượng (Bất Bạt, Sơn Tây), cạnh Núi Tản Viên cạnh sông Đà. Năm 1916 Tản Đà công bố tác phẩm đầu tay Còn Chơi, ngay lập tức được dư luận chú ý! Trong 23 năm (1916 - 1939), Tản Đà cho ra đời 35 tác phẩm đủ thể loại bao gồm: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Tạp Luận, Dịch Thuật...

Bài thơ "Vịnh Bức Dư Đồ Rách’’ là một sự kiện văn học, nổi tiếng thời kì Tản Đà sung sức.  Để tìm hiểu thấu đáo về sự kiện Bức Dư Đồ Rách chúng ta đi ngược thời gian về những năm đầu của thế kỉ 20:

Sau khi quân Pháp đánh chiếm Hà thành, Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thực dân Pháp tạm thời bình ổn được tình hình. Thực hiện chính sách chia để trị bằng cách: Chia Việt Nam thành 3 Kỳ (vùng): Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ. Bắc và Trung Kỳ đặt dưới chế độ Bảo Hộ của Pháp. Chính quyền do chính phủ Nam Triều - Vua quan nhà Nguyễn - trực tiếp điều hành. Nhưng thực chất Pháp vẫn gián tiếp lãnh đạo. Ngay đến việc để vua nào lên ngôi… phế truất vua nào (như trường hợp các vua Duy Tân, Hàm Nghi) cũng do chính quyền Pháp quyết định.

Còn Nam Kỳ bị Pháp thiết lập chế độ Thuộc địa. Nam Kỳ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương.

Ở mỗi vùng, miền, mỗi địa phương lại có những quan quân đặt ra luật riêng… khiến đất nước không còn là đất nước được trọn vẹn chủ quyền của người Việt Nam. Tấm bản đồ vẽ trên mặt giấy thể hiện chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia, chỉ là bức vẽ, còn trên thực tế, Bức Dư Đồ - thực chất đã “rách” tả tơi!

Trước thực trạng tang thương của đất nước bởi hiểm họa ngoại xâm, Tản Đà viết bài thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng mình trước đất nước bị họa xâm lăng: Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 1 ra đời trong hoàn cảnh này. Bài thơ in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà và sau khi hoàn thành 4 bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách được đăng trong Tản Đà, Khối Tình Con Thứ Ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932                 

Vịnh Bức Dư Đồ Rách

“Nọ bức dư đồ thử đứng coi

Sông sông núi núi khéo bia cười

Biết bao lúc mới công vờn vẽ

Sao đến bây giờ rách tả tơi

Ấy trước ông cha mua để lại

Mà sau con cháu lấy làm chơi

Thôi thôi có trách chi đàn trẻ

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi”.

Nhìn hoàn cảnh đất nước, các nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác giả, lên tiếng hưởng ứng, ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng cách có nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền viết bài họa lại thứ 2 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 2, đăng trên Đông Phương Thời báo, số 635, năm 1927:

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi

Ta bồi cho chúng chị em coi

Giận cho con cháu đà hư thế

Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.

Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ

Có hồ có giấy dễ mà chơi.

Bởi chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.

Được sự đón nhận và đồng cảm của giới sĩ phu, văn nhân có tâm huyết, yêu đất nưóc, dân tộc cùng tham gia họa lại Bức Dư Đồ Rách… Tản Đà viết tiếp bài thứ 3 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 3, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 636, năm 1927:

“Đành chịu ngồi trông rách tả tơi

Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!

Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ

Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi

Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó

Non sông ai hỡi đợi chờ ai?

Còn núi còn sông còn ta đó

Có lúc ta bồi chúng bạn coi”.

Cuối cùng Tản Đà tổng kết cuộc họa thơ do ông khởi xướng bằng bài Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 4, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 643 - năm 1927:

“Có lúc ta bồi chúng bạn coi

Chị em nay hãy tạm tin lời

Dẫu cho tài có cao là thánh

Chưa dễ tay không vá nổi trời

Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn

Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi

Việc nhà chung cả ai ai đó

Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?”

Trong số những bài họa, có hai bài của cụ Phan Bội Châu, cũng cùng năm 1927.

I

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi,

Ta bồi cho chúng chị em coi.

Giận cho con cái đà hư thế,

Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài.

Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ,

Có hồ, có giấy dễ như chơi,

Vì chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.

II

“Hóa rách ra lành thế mới hay

Trời giăng giấy khắp, đất hồ đầy,

Non sông sẵn vóc thêu hoa gấm,

Gan óc ghe phen trổ gió mây.

Trắng úa, hồng tươi tùy thợ ý,

Bột rền, keo dẻo cốt thầy tay.

Người đà mới mới ta nên mới,

Bồi vá mà chi, kéo khuấy rầy”.

*******

Gần một thế kỷ trôi qua, đất nước bị Cộng Sản thống trị đã “hèn với giặc, ác với dân” không biết bao nhiêu bài viết, thơ, văn đã phơi bày thực trạng đau thương, phủ phàng nầy.

Là người dân địa phương Hà Tĩnh chứng kiến hình ảnh cá chết hàng loạt ở ven biển, ngày 6/4 ngư dân địa phương phát hiện cá chết vùng biển một số xã thuộc Kỳ Anh ở Hà Tĩnh. Bốn ngày sau, hiện tượng tiếp diễn tại vùng biển ở huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đến ngày 19/4, hiện tượng cá chết hàng loạt xuất hiện ở vùng biển Quảng Trị và tiếp tục lan rộng  4 tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thứa Thiên vào Thừa Thiên – Huế... theo giới quan sát thì nguyên nhân xảy ra do “yếu tố gây độc trong môi trường nước” nên thảm họa hiện tượng cá chết bởi ô nhiễm nguồn nước do các nhà máy tại khu công nghiệp Vũng Áng, huyện Kỳ Anh xả thải gây độc. Ngư dân Hà Tĩnh phát hiện do ống thải nước ngầm của nhà máy thép Formosa dưới biển thải chất độc gây nên. Trước thảm họa gây nguy hại cho người dân các tỉnh ven biển nhưng CSVN không thực tâm truy tìm “thủ phạm” mà lấp liếm “vòng vo tam quốc” phó mặc cho người dân cam chịu!

Trước tình cảnh đó, cô giáo Trần Thị Lam, nếu xem qua vài dòng tiểu sử thì cô giáo ở Hà Tĩnh nầy được “đãi ngộ” (Tổ trưởng Ngữ Văn trường PTTH, có bằng khen của UBND Hà Tĩnh) nhưng lương tâm nhà giáo trước thực trạng đất nước quá tồi tệ đã viết bài thơ từ trong nước, được lan truyền rộng rãi và được mọi người đón nhận.

Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh

Trần Thị Lam

“Đất nước mình ngộ quá phải không anhtranthilam

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...

 Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...

Đất nước mình buồn quá phải không anh

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...

 Đất nước mình thương quá phải không anh

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...

 Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...”. 

******

Bài viết của Luật Sư Đào Tăng Dực: Đất nước mình ngộ quá phải không anh? Trả lời cô giáo Trần Thị Lam. Trích dẫn:

“… Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc…”

Bài thơ của cô giáo Trần Thị Lam được cho là bài thơ gây chấn động trên mạng lưới toàn cầu và có tiềm năng làm rung chuyển chế độ. Công an CSVN đã phải câu lưu và thẩm vấn cô, nhưng chưa dám truy tố hình sự vì sợ hãi phản ứng của nhân dân và công luận thế giới.

Dân tộc Việt có một nền văn hóa sâu dày hơn 4000 năm lịch sử trong đó tiềm tàng những tình tự đậm đà và tư tưởng uyên thâm, giúp dân tộc vượt qua những cơn ba đào của lịch sử.

Mặc dầu suốt 7 thập niên liên tục, người CSVN đã ra sức hủy diệt nền văn hóa này và thay thế trước hết bằng ý thức hệ giáo điều Mác Lê duy vật (Marxist dogmatic ideological materialism) và sau đó bằng chủ nghĩa duy lợi trần truồng (naked utilitarianism), nhưng những cố gắng của họ chỉ là vô vọng.

Những dòng nhạc của thế hệ trẻ như Việt Khang và nhất là bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” của cô giáo Trần Thị Lam chứng minh hùng hồn rằng, nền văn hóa ngàn đời của dân tộc vẫn luân lưu mạnh mẽ trong tâm thức của toàn dân và khi mùa xuân dân chủ khởi động, thì vươn lên như những đóa hoa sen, từ chốn bùn nhơ nhớp xã hội chủ nghĩa, đem lại hương thơm và tô điểm sắc màu cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Tuy nhiên, bài thơ đầy cảm xúc này không những khẳng định tình trạng tồn vong mong manh và nghiêm trọng của đất nước mà còn nêu ra những vấn nạn cần giải đáp.

Phân Tích:

Khi chúng ta phân tích bài thơ này, chúng ta sẽ có những nhận định như sau:

Bốn chương (khổ thơ) đầu trên hình thức là những câu hỏi, nhưng một cách mặc thị (implicit) là những khẳng định (affirmations) về tình trạng bi thương của đất nước dưới chế độ CSVN.

Chẳng hạn tuy có 4 ngàn năm văn hiến mà vẫn cam chịu nhục nhằn trước bất công từ bạo quyền, những tượng đài tôn sùng cá nhân hoang phí trong khi khinh bỉ mạng người, guồng máy thống trị tham ô và vô trách nhiệm đưa đến cái chết thê thảm của môi trường thiên nhiên, và nợ công chồng chất ngập đầu các thế hệ hiện tại lẫn tương lai.

Chương cuối cùng chỉ có 4 câu thơ nhưng hàm chứa 2 câu hỏi quan trọng:

  1. Một câu hỏi mặc thị (implicit): Lý do vì đâu đất nước nên nông nỗi này?
  2. Câu hỏi minh thị (explicit): Đất nước rồi sẽ về đâu anh?

Sau cùng thi sĩ tha thiết kêu gọi “Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu?”

Như một người công dân có trách nhiệm, tôi xin đáp ứng lời kêu gọi ấy và trả lời như sau.

Giải thích nguyên nhân:

Theo quan điểm của tôi, nguyên nhân gây ra tai họa cho đất nước rất nhiều, nhưng tựu trung có 2 tai họa lớn lao nhất:

Một là ngọn gió độc giáo điều ý thức hệ (ideological dogmatism) và

Hai là hiện tượng quái thú định chế hóa cực đoan (extreme institutionalization).

Đây là những ý niệm tương đối trừu tượng, nhưng thảm họa chúng gây ra cho dân tộc vô cùng hiện thực và chúng ta cần tìm hiểu (investigate), nhận diện (identify) và dứt khoát loại bỏ ra khỏi nền văn hóa, tâm thức và hiến pháp của dân tộc trong tương lai.

  1. Ý thức hệ giáo điều:

Trước hết khái niệm “giáo điều ý thức hệ” (ideological dogmatism), hoặc “ý thức hệ giáo điều” (dogmatic ideology) không đơn giản và nhiều người, kể cả tôi, đã tốn nhiều giấy mực để viết về khái niệm này. Tuy nhiên, trong phạm vi hôm nay, tôi xin mạn phép đơn giản hóa, dùng văn xuôi và một số hình ảnh vẽ lên một bức tranh ý niệm hầu chuyên chở đến độc giả.

Nếu chúng ta coi dân tộc Việt Nam như một thực tại thì chúng ta có thể mường tượng thực tại đó như một dòng sông tư tưởng và tình tự (a river of thoughts and feelings) luân lưu từ thủa bình minh của lịch sử cho đến bây giờ và vươn tới tương lai. Đó là một thực tại vô cùng sinh động bao gồm 2 yếu tính. Một là “hằng” và hai là “chuyển”. “Hằng” là có một bản sắc riêng biệt bất biến làm cho chúng ta nhận diện rõ đây là dân tộc Việt chứ không phải một dân tộc khác. “Chuyển” là luôn thay đổi, từng phút, từng giây, như ý nghĩa chuyển dịch của dịch lý hay trong thuyết tiến hóa của Darwin.

Những tư tưởng và tình tự trong dòng sông thực tại có thể ví như các loài thủy tộc, các giọt nước li ti, các loài thủy sản , rong rêu và muôn triệu vi sinh nương tựa vào dòng sông để sinh tồn và hài hòa phát triển.

Ý thức hệ giáo điều có thể được định nghĩa như một cấu trúc trí năng (an intellectual construct) giam hãm tư tưởng con người vào một khung sườn cố định và tước đi sự sống cũng như tính sáng tạo của tư tưởng tự do. Lịch sử loài người đã từng trải qua rất nhiều ý thức hệ giáo điều, nhưng hiện đại nhất của nhân loại ngày hôm nay là các ý thức hệ Mác- Lê và Hồi Giáo cực đoan.

Các ý thức hệ giáo điều này có thể ví như những cơn lạnh cực kỳ lớn lao, trùm lên dòng sông thực tại của những dân tộc dưới vòng kiềm tỏa của chúng, biến toàn thể dòng sông và những sự sống trong dòng sông thành băng tuyết. Tuy dưới mắt của một đệ tam nhân, hình ảnh của dòng sông, các loài thủy tộc và thủy sản vẫn còn, nhưng dòng sông đã mất sự sống chân thực.

Các xã hội dưới sự khống chế của các ý thức hệ giáo điều như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hôm nay đều bi đát như thế…

… Đảng CSVN cũng như tất cả các đảng cộng sản từ Âu sang Á, từ trước đến giờ, cùng với các đảng Đức Quốc Xã và Phát Xít độc tài, đều là những con quái thú, hậu quả của tiến trình định chế hóa cực đoan và ăn tươi nuốt sống nhà nước lẫn xã hội dân sự.

Nhân dân Việt Nam bất hạnh lớn lao vì hoàn cảnh lịch sử đã biến dân tộc thành nạn nhân gần một thế kỷ của cơn lạnh vĩ đại ý thức hệ giáo điều Mác Lê và con quái thú định chế cực đoan mà đảng CSVN là hiện thân trung thực…

… Nếu chúng ta hóa giải cơn lạnh ý thức hệ giáo điều, nhổ răng và móng vuốt của quái thú định chế hóa cực đoan, thì với bàn tay và khối óc được tôi luyện qua chiều dài nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt sẽ hồi sinh.

Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ đạt được nhanh chóng chiều cao thực sự của mình, trong cộng đồng nhân loại văn minh”.

(Trích bài của LS Đào Tăng Dực)

*

Trích bài Vài Lời Biện Minh Cho Cô Giáo Trần Thị Lam của Phạm Đức Nhì

“Tuần vừa qua bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? của cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh được rất nhiều người đọc ở hải ngoại ca ngợi. Tôi nhận được một email cho biết đã có 6 nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ. Tôi đã nghe nhạc, đọc thơ và rất xúc động.

Tôi có người bạn làm ăn khá thành công ở Mỹ. Mấy năm gần đây về Việt Nam hùn hạp đầu tư địa ốc. Gặp tôi tháng trước nó than: “Dành dụm được chút vốn dưỡng già bị thằng em họ lừa lấy hết. Giờ lại trắng tay”. Tôi chửi nó “Mày hơn sáu chục tuổi rồi mà khờ như đứa con nít; làm ăn cứ nắm lưỡi còn để người ta nắm cán”. Vợ nó chĩa vào “Chỉ khờ mấy năm nay thôi, chứ sáu chục năm trước ông ấy khôn như rận váy”. Tôi không phân định rạch ròi như vợ người bạn nhưng tự nghĩ câu chửi của tôi chẳng có gì sai sót cả. Làm thơ thỉnh thoảng tôi cũng nhận trong người mình có dòng máu của bà Triệu, bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung để có thêm tự tin, hào khí nhưng cũng có khi tôi bước vào trận chiến đơn thân độc mã (giả vờ quên hết những nhân vật lịch sử kia) để lúc chiến thắng có thể mạnh tay vỗ ngực tự hào. Trường hợp cô giáo Trần Thị Lam tặng thêm 4 ngàn tuổi cho mỗi người Việt Nam để làm nổi bật sự thơ dại, yếu đuối của họ trước chính quyền, theo tôi, hoàn toàn hợp tình hợp lý. Đó là một trong những quyền căn bản của thi sĩ.

… Về hình thức, bài thơ được viết theo thể Thơ Mới trường thiên, gồm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu thường là 8 chữ nhưng khi cần cũng được thay đổi một cách tự nhiên, vần trắc liên tiếp ở câu 2 và câu 3.

Về nội dung, bài thơ có 5 đoạn nhưng hồn cốt nằm ở đoạn thứ nhất:

Đất nước mình ngộ quá phải không anh?

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Cái “ngộ” lớn nhất là đất nước mình đã 4 nghìn tuổi mà “dân không chịu lớn”. Ở đây cô giáo đã sử dụng một ẩn dụ thật hay – ví người dân Việt nam như đứa bé chưa rời vú mẹ, vẫn còn bú mớm vì “Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi”. Lời lẽ của đoạn thơ rất đúng, rõ ràng và trong sáng, không cần và cũng không thể giải thích gì thêm nữa. Chúng như một lưỡi dao dài và sắc đâm thẳng vào trái tim mỗi người Việt Nam. Bạn là người Việt Nam ư? Nếu có chút kiến thức, còn chút lương tri, danh dự khi đọc những dòng thơ này đều sẽ tự động cúi đầu nuốt nhục.

Cái hay, cái tài của cô giáo Trần Thị Lam là lời lẽ của cô vừa chân thật vừa nhẹ nhàng, khéo léo nên lưỡi dao của cô đâm nát tim gan của không biết bao nhiêu người - từ người dân bình thường đến đám đông tự xem mình là sĩ phu yêu nước -  nhưng họ không những không thể nào ghét cô được mà nhiều khi còn quý mến, kính trọng, cảm phục cô nữa.

Những bất công lớn trong đất nước mình được cô giáo liệt kê ở những đoạn thơ sau:

Bất Công Đến Lạ Lùng

Đất nước mình lạ quá phải không anh?

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

Cái bất công đầu tiên là “Sinh mạng con người chỉ bằng cái móng tay” nhưng người ta lại vung hàng nghìn tỉ vào những dự án, những công trình phù phiếm, không phục vụ lợi ích của người dân. Mà điều lạ là không ai nhận lãnh trách nhiệm, hậu quả về việc phí phạm tài sản chung đó.

Bất Công Đến Buồn Thảm

Đất nước mình buồn quá phải không anh?

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

Tài nguyên của quốc gia cạn kiệt, một phần bị khai thác phí phạm để quan chức bỏ túi riêng, một phần lãnh đạo ngậm miệng ăn tiền để ngoại bang tự tung tự tác.

Bất Công Đến Đáng Thương

Đất nước mình thương quá phải không anh?

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

Nợ công chồng chất trong khi giới lãnh đạo chóp bu mỗi người có tài khoản hàng trăm triệu, nhiều người hàng tỉ đô la ở ngân hàng ngoại quốc. Số nợ công to lớn ấy sau này lại đè nặng trên lưng, trên vai của con cháu chúng ta.

Đất Nước Sẽ Về Đâu?

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Cuối cùng là câu hỏi đau xé ruột cho mỗi người Việt Nam: “Đất nước sẽ về đâu?”

Khi đọc những đoạn sau nếu độc giả thấy dậy lên trong đầu mình một câu hỏi thì cứ quay lại đoạn đầu. Đó là phần quan trọng nhất, đoạn hay nhất của bài thơ; nó là nguyên nhân, là câu trả lời cho những câu hỏi “Tại Sao?”

dat-nuoc-minh-ngo-qua-phai-khong-anh-tin8-5… Tóm lại, Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh là bài thơ rất hay. Hình thức tương đối phóng khoáng tuy không có gì mới lạ lắm. Nhưng nội dung thì không chê vào đâu được; những “bất công” (đoạn 2+3+4 hỗ trợ cho đoạn 1) được chọn lựa kỹ, có tính điển hình, ngôn ngữ chính xác mà gợi cảm, tứ thơ cô đọng, sâu sắc, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, đặc biệt phép ẩn dụ ở đoạn 1 thật tuyệt vời. Đọc xong, thi vị của bài thơ - nỗi bàng hoàng đau đớn - vẫn còn vương vấn mãi trong tâm hồn.

Có thể nói đây là bài thơ của một người Việt Nam chửi con người Việt Nam tàn tệ nhất, xúc phạm đến danh dự người Việt Nam nặng nề nhất. Điều đáng nói là hàng bao nhiêu triệu người bị chửi - đặc biệt là những người góp phần to lớn tạo ra những bất công, những trí thức khoa bảng, nhà văn nhà thơ - đều cúi mặt ngậm tăm. Tại sao vậy? Vì bài thơ chửi đã hội đủ 5 điều kiện sau đây:

1/ Chửi đúng điều đáng chửi: những kẻ bị chửi không cãi vào đâu được.

2/ Chửi “nặng” nhưng lời lẽ nhẹ nhàng, khéo léo: chửi sỗ sàng, ngoa ngắt quá thì chúng coi là đồ hạ cấp, không thèm để ý, không thèm nghe; chửi nhẹ quá thì không đủ ép – phê

3/ Chửi “đúng thời vụ”: nhân vụ xả độc ở Vũng Áng, cá chết lền khên, gây thảm họa môi trường, toàn dân Việt và cả thế giới quan tâm.

4/ Chửi bằng tấm lòng chân thật: cảm xúc dạt dào.

5/ Chửi hay: tứ thơ hay quá, ẩn dụ tuyệt vời, càng đọc, càng nghe, càng ngẫm nghĩ càng thấm

Kết Luận

Chỉ cần tứ thơ, hồn thơ thấm vào tim một phần trăm (1%) dân số Việt Nam khiến họ không thể chịu được nỗi nhục nhã ê chề, đứng lên kêu đòi thay đổi thì chúng ta sẽ có cả gần một triệu người dấn thân, tạo thành một làn sóng, một phong trào, nước Việt mến yêu của chúng ta sẽ có cơ may thoát khỏi tình trạng bi đát hiện nay. Nếu được như thế bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? sẽ hiên ngang bước vào văn học sử và cô giáo Trần Thị Lam sẽ trở thành một anh hùng lịch sử của dân tộc Việt.

Mong được như thế lắm thay!.

(Trích bài của Phạm Đức Nhì)

*

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của Trần Thị Lam được các nhạc sĩ cảm hứng và sáng tác thành nhiều ca khúc được phổ biến trên internet. Cũng như bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách của nhà nhơ Tản Đà đã được nhiều bài họa.

Bài họa của Vĩnh Đường:

Hôm nay rảnh rỗi ngồi đọc lại bài thơ của cô Trần Thị Lam và nảy ý họa lại. Bài thơ này đã được khá nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và truyền bá khắp nơi. Khi họa lại, Vĩnh Đường chợt nảy ý là phải họa làm sao cho mỗi chữ bằng trắc trong câu phải thật ăn khớp với nguyên tác để khi hát, người hát có thể lấy bài thơ họa này để dùng làm liên khúc với thi phẩm được phổ mà không cảm thấy trúc trắc gì khi trình diễn. Tuy nhiên, vì không hiểu biết nhạc lý và vì thời gian có hạn nên sai sót chắc chắn là không thể tránh khỏi. Mong quý độc giả và thân hữu thẳng thắn góp ý khi thấy đoạn nào không ổn để Vĩnh Đường chỉnh sửa lại cho được hoàn hảo hơn. Xin chân thành đa tạ quý vị. Trân trọng. Vĩnh Đường

Lãnh Đạo Mình Nhục Quá Phải Chăng Em

“Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em

Đã ngần tuổi mà sao chưa được lớn

Đã ngần tuổi mà vẫn thèm sống mớm

Hiến cả núi sông để yên kiếp tôi đòi !

Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em

Những dải đất xưa vô vàn kiều vỹ

Chẳng ngại bán, đền nợ nần hàng tỉ

Dâng nạp cho Tàu chỉ qua cái ngoéo tay!

Lãnh đạo mình tồi quá phải chăng em

Bản Giốc, Hoàng Sa, thác ngà núi biếc

Giờ đã mất, nằm sõng soài như chết

Để Tiên Rồng ngùi nhớ nước non xa !

Lãnh đạo mình ngu quá phải chăng em

Mỗi tấc đất giang san chẳng nhọc nhằn ra công giữ lại

Xương máu ông cha ta ngút dài thế kỷ qua đem vun trải

Chẳng biết noi theo, toàn cam cảnh phủ đầu !

Lãnh đạo mình mà vẫn hèn thưa em

Dân ta sống muôn đời sau khó được

Khi Hán tặc kè bên, cứ vờn sau, vờn trước

E chóng chầy gì tổ quốc chẳng còn đâu!

Trả lời bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh” của Cô giáo Trần Thị Lam, Hà Tĩnh của anh Lê Đức Luận ở Miền Đông Hoa Kỳ:

“Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “ngộ”

Tiến sĩ đầy đường mà đảng ta vẫn dốt

Liệt sĩ, anh hùng đếm hoài không hết

Biển, đảo mất dần chẳng biết làm sao?

Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “lạ”

Biển bạc, rừng vàng dân mình vẫn khổ

“Cá chết trắng bờ bởi dân mình ra đái

Chứ phải nào đâu hóa chất của Tàu” (1)

Ừ! Đất nước mình “buồn” quá em ơi!

Biển bạc, rừng xanh dân nào được hưởng

Chúng nó bán rừng, rồi dâng luôn biển đảo

Một mai đây nước Việt sẽ không còn…

Ừ! Đất nước mình “thương” quá em ơi!

Đứa trẻ sơ sinh ăn nhằm sữa độc

Mảnh áo tả tơi, tấm thân gầy guộc

Bây giờ đã thế, sao dám nghĩ tương lai

Ừ! Em đi hỏi: “người sau, kẻ trước”

Còn anh đây sẽ đi hỏi đảng: “Cớ sự làm sao bi đát thế này?”

Em cứ hỏi: “người trước, kẻ sau”

Anh sẽ hỏi Trời cao, Đất rộng: “Đến chừng nào Đảng được đem chôn?”

Nhưng xin Em đừng hỏi: “Đất nước sẽ về đâu?…”

Mà hãy hỏi: “Khi nào ta đứng dậy?…”

(1).- Có tin đồn nói ra như vậy để làm mờ bớt tội lỗi của nhà máy luyện thép Formosa.

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của cô giáo Trần Thị Lam được đăng lên Facebook vào 8 giờ tối  ngày 25.4.2016. Hôm sau công an Hà Tĩnh đã mời cô giáo Lam lên trụ sở “làm việc” và   áp lực cô phải rút bài thơ này xuống. Mặc dầu sau đó bài thơ bị rút xuống, nhưng đã quá trễ, bài thơ được phổ biến rộng rãi khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại, và chắc chắn sẽ còn lưu lại trong lòng người Việt Nam trong một thời gian rất dài như một dấu tích của một giai đoạn đau thương nhất của đất nước VN.

Giáo viên giỏi cấp tỉnh và gắn bó với trường gần 20 năm nay, trao đổi với VietNamNet, cô giáo Lam cho hay, đây là bài thơ được sáng tác theo cảm hứng nhất thời chứ không nhằm mục đích nào khác. Do sức ép dư luận, trong ngày 27/4, cô giáo Lam đã xóa bài thơ và tự khóa Facebook cá nhân của mình. Hiện nay, cô đã mở tài khoản trở lại.

Như đã đề cập ở trên, trước thực trạng xảy ra vụ cá chết bởi nhà máy luyện thép Formosa, người dân phẫn nộ nên biểu tình chống đối bị CSVN đàn áp thẳng tay cho thấy chế độ độc tài đảng trị chỉ biết tham nhũng trục lợi, thối nát và hại dân!

Chúng ta sống trên mảnh đất tự do mà bỏ đi “căn cước” tỵ nạn Cộng Sản mà quay lưng với nỗi thống khổ xảy ra tại quê nhà thì “bức dư đồ rách” nầy càng ngày càng tả tơi!

Lão Trượng

 

Visits: 980

Thục Anh

Phạm Thành Châu

thuc-anh-image            Chúng tôi có sáu đứa con, ba trai, ba gái. Nếu vợ tôi không cằn nhằn thì giờ đây tôi có thể khoe có hơn chục đứa không chừng. Dĩ nhiên con cái đông phải cắm cổ mà cày, thấy mình còn thua con trâu, nhưng bù vào đó là cái thú được hi sinh cho con cái. Thỉnh thoảng ngó lại, ngạc nhiên thấy con mình sao mau lớn quá, áo quần đứa trước đã phải để cho đứa sau mặc rồi. Vợ tôi đi làm về còn phải lo phục vụ chúng. Giặt giũ, nấu nướng, dọn dẹp… Bà la hét đứa nầy, nạt nộ đứa kia rồi lại lầu bầu với tôi đủ chuyện, nhưng tôi chẳng hề bận tâm, tôi biết bà rất thú vị khi làm như vậy, đó là hạnh phúc của bà. Vợ tôi thương con đến độ thương luôn các vật dụng của chúng nữa, từ đồ chơi lúc nhỏ đến quần áo cũ, giấy bút không dùng…bà đều coi như của quí, đem cất vào kho. Bà thương luôn cả đến bạn bè của chúng, đứa nào đến bà cũng mừng rỡ, săn sóc “Con ăn gì chưa? Ngồi xuống đây, bác lấy gì cho con ăn nghe!” Bà giới thiệu tất cả sản phẩm bà có trên bếp, trong tủ lạnh, đứa nào chịu ăn bà thích lắm, nếu khen mấy tiếng “ Ngon quá!” là bà phổng mũi cứ bổn cũ soạn lại, lần sau lại bắt chúng ăn như thế, chúng cũng khen nhưng có vẻ đau khổ, tôi lại phải nhắc chừng để bà đổi món khác, rồi bà lại mời, lại hồi hộp chờ được khen. Sở dĩ không đứa bạn nào của con tôi dám chê vì có mục đích, chúng nhắm vào đứa con gái lớn trong nhà. Nó tên Thục Anh. Khi sinh ra nó, tôi đặt tên mà không hiểu ý nghĩa gì cả. Chỉ vì lúc còn dưới trung học tôi mê một cô bé học lớp đệ ngũ tên Thục Anh. Tuổi mới lớn, yêu chỉ để mơ mộng nên tên gọi là phần quan trọng nhất, vì không lẽ buổi tối đang học bài, bỏ vài phút ra mơ mộng mà lại viết tên người đẹp là Ổi, Ốc hay Cơm, Canh…lồng vào tên mình giữa hình một quả tim?!… Sau nầy, dung nhan cô bé đó, tôi không nhớ rõ, chỉ còn ấn tượng đó là một cô bé ngây thơ, vui tươi, nhí nhảnh, đôi mắt thông minh, trong sáng. Nhiều cô đẹp hay làm kiêu. Cô Thục Anh đẹp nhưng rất tử tế với bạn bè. Tôi thường tìm dịp ngắm cô và yêu thầm. Và tên Thục Anh đã thành một âm vang dịu dàng trong mối tình học trò thuở nào. Tôi lấy tên cô ta để đặt tên cho con gái tôi. Dĩ nhiên vợ tôi đâu biết điều bí mật đó, nên cũng đồng tình “Tên Thục Anh, nghe hay đó chứ!”. Thường con cái trong nhà, mỗi đứa tôi thương một cách. Tôi không khó tính như mẹ chúng. Với con trai tôi nhìn thấy tôi của thời đi học. Cũng mê gái, cũng cãi lời cha mẹ một cách vô ý thức. Với con gái tôi thấy giống mẹ chúng, đúng hơn, giống bất cứ cô gái mới lớn nào khác, thế thôi. Trong nhà thì lười biếng, chỉ siêng soi gương chải đầu, ra đường làm bộ trang nghiêm, áo quần đẹp, ăn nói nhỏ nhẹ. Riêng con bé Thục Anh thì đúng là yểu điệu thục nữ. Bình thường trông nó thật thảm hại. Người ốm, hơi cao, mặt trái xoan dài, trông hơi xanh xao như thiếu dinh dưỡng, hai mắt to vẻ ngái ngủ. Tóc tai lượt bượt, vướng víu, khi làm bếp, thỉnh thoảng phải dùng cánh tay gạt ra phía sau, nhưng khi ra đường, mái tóc dài đen mượt của nó là một giòng suối chảy xuống bờ vai thon nhỏ, dịu dàng. Còn đôi mắt ngái ngủ, không hiểu nó tô điểm cách nào mà trông vừa buồn buồn vừa ngơ ngác một cách dễ thương. Trang phục của nó cũng đơn giản, những hàng vải mềm, màu trang nhã hòa hợp với khuôn mặt và dáng người, trông thước tha và quí phái khiến các cậu vừa thấy đã xao xuyến nhưng cũng ngậm ngùi vì có vẻ cao sang quá, mình chẳng đáng hi vọng chút nào. Nghệ thuật làm xiêu lòng lũ con trai không phải ngẫu nhiên, nó phải luyện tập gian khổ như một nghệ sĩ tập tuồng vậy. Từ cách ăn mặc, đi đứng cho đến cách chuyện trò. Chẳng biết nó nghiên cứu đâu ra những phương pháp kỳ cục. Trong nhà, nó thường đặt trên đầu một quyển sách, cần gì sai nó, nó cứ lững thững đi trông như người máy. Tôi tưởng nó bị bịnh tâm thần, nó cãi “Ba không biết gì hết, khi nào con đi nhanh mà quyển sách không rớt xuống đất, con sẽ đi đẹp lắm đó”. Thục Anh che giấu khuyết điểm của nó một cách tài tình. Nó gây lộn với các em nó không bao giờ thua. Với các anh, nó chỉ cần thút thít là các anh nó bối rối ngay. Tuy nhiên Thục Anh biết giữ khoảng cách vừa phải đối với bạn bè của anh nó. Với đứa nào nó cũng lễ phép và không thân mật quá khiến các cậu mê mệt mà không dám tỏ tình. Ðúng là cha mẹ sinh con trời sinh tính. Em nó, con bé Ðỗ Quyên lại khác, tuy dáng dấp và khuôn mạt tương tự nhưng bản tánh mạnh mẽ như con trai. Nó không lượt là như Thục Anh mà lúc nào cũng quần jean, áo pull, tóc thì cột túm phía sau bằng một sợi giây thun, trong nhà ra đường đều thế, chẳng hề thấy điểm phấn tô son bao giờ. Nói chuyện với con trai, nó đáp chát thẳng thừng, bọn con trai tiếp xúc với nó cũng tự nhiên như với em gái thực sự. Có điều lạ là đứa nào muốn tặng quà cho Thục Anh phải qua Ðỗ Quyên, nếu không Thục Anh sẽ không thèm nhận. Các cậu đã tốn tiền còn phải quị lụy chỉ để được người đẹp thưởng cho nụ cười và hai tiếng cám ơn. Nhưng có nhìn thấy Thục Anh nhận quà mới hiểu được sự sung sướng của người tặng. Nó mở quà một cách chậm rải nhưng đầy vẻ hồi hộp, tò mò, rồi nó kêu lên “Ôi, đẹp quá!” mắt mở lớn, ngước nhìn nạn nhân “Cám ơn anh nhiều lắm, sao anh biết em đang cần món quà nầy? Em thích quá, cám ơn anh!” Cách suýt soa, trân trọng món quà của nó khiến khối chàng si tình muốn bê luôn ngôi nhà của cha mẹ đem dâng người đẹp. Ðâu biết rằng, khi khách đã ra về, chỉ còn lại người nhà, nó vất cho mấy đứa em “Cho tụi bây, có thích thì lấy đi”. Trong số các ứng viên có mấy anh chàng mà vợ tôi chấm là có đủ điểm để lọt vào vòng chung kết, đó là các cậu đang học y khoa “Không nghề nào tự do lại nhiều tiền bằng”. Ngoài ra còn có một cậu coi bộ cũng si Thục Anh ghê lắm nhưng cũng rụt rè không kém. Cậu vượt biên qua Mỹ một mình, vừa đi học vừa đi làm, quần quật cho bản thân còn tiếp tế cho gia đình ở Việt Nam nữa. Chẳng bao giờ thấy quà cáp cho Thục Anh, chỉ thỉnh thoảng mang đến vài tờ nguyệt san, báo chí gì đó để ở phòng khách, có ai buồn tình thì giở ra đọc giết thì giờ. Thục Anh như thấy được thế kém của anh chàng nên thỉnh thoảng có săn sóc, hỏi han rất thân tình, có lẽ vì lòng trắc ẩn muốn cân bằng tương quan giữa các cậu, để cậu ta khỏi nản mà bỏ cuộc, vì các bà, các cô tuy không yêu nhưng lại muốn càng nhiều người say mê mình, càng thích. Mỗi lần ăn uống trong gia đình, cậu chỉ được ngồi tít xa người đẹp, lo cắm cúi ăn. Vợ tôi tuy cho cậu ra ngoài danh sách ứng viên khách đông sàng, nhưng lại thương nhiều vì cậu côi cút, thật thà, nhất là khen bà nấu ngon “Con ăn McDonald, hot dog riết ngán quá, thèm cơm, bác lại cho ăn ngon nên lần nào con cũng muốn bể bụng…” Cậu ta, dĩ nhiên bị các đối thủ loại ra vì không có ưu điểm nào đáng ngại cả. Ăn mặc xuề xòa, thường là bộ đồng phục của tiệm ăn vì cậu là bồi bàn. Chiếc xe cũ xì, trong bỏ đầy báo chí sách vở. Người cao, mặt mũi cũng tạm nhưng tóc tai hớt ngắn như lính. Chỉ chừng đó cũng biết cậu chắc chắn đã thất bại trước khi tham gia cuộc đua chạy đến trái tim người đẹp rồi, đúng hơn cậu cũng chạy, nhưng lẽo đẽo theo sau để xem thử các bạn mình ai sẽ đến đích chứ riêng cậu chẳng thấy quyết tâm gì. Thế nên vợ tôi gọi cậu là “anh chàng Cá Kèo”, ý nói đứng hạng chót trong danh sách các ứng viên.

            Có lẽ người Mỹ bị bịnh tâm thần, đau tim nhiều cũng vì những con số. Cái gì cũng tính bằng số, chết rồi cũng đem linh hồn ra cân ! Lũ trẻ Á Châu ở Mỹ bây giờ cũng bị qui luật đó chi phối. Tình yêu vốn vô hình, vậy mà chúng biểu lộ được bằng những con số. Chúng nghĩ đơn giản, tình cảm cũng như một món hàng, hễ yêu ai cứ cho thật nhiều quà đắt tiền tức là yêu nhiều. Tôi muốn nói về những quà cáp của các chàng Sơn Tinh, Thủy Tinh tân thời đem dâng người đẹp nhân ngày sinh nhật của nàng. Ngày sinh nhật của Thục Anh cũng khoảng vào ngày nó tốt nghiệp trung học. Vợ chồng tôi muốn làm một lễ sinh nhật tươm tất để mừng nó tốt nghiệp luôn một thể. Chúng tôi định cho Thục Anh vào đại học ở một tiểu bang khác nhưng vợ tôi lại sợ con gái xa nhà sẽ gặp nhiều khó khăn. Bà mẹ Việt Nam nào cũng muốn các con dù khôn lớn đều phải nằm trong đôi cánh của mình hay ít ra cũng lẩn quẩn đâu đó trong tầm mắt, bà mới yên tâm, hoặc khi đi xa phải có bạn đồng hành giúp đỡ nhau để tránh lỗi lầm, sa ngã. Vợ tôi nói với Thục Anh “Con lớn rồi, phải quyết định lấy cuộc đời mình. Trong số các bạn trai của anh con, con có thể chọn được một anh mà con có cảm tình, ba mẹ không có quyền chen vào nhưng cần biết quyết định của con để yên lòng. Mẹ thấy đứa nào cũng đàng hoàng, xứng đáng cả. Ðừng để chúng nản, chúng đi hết” Thục Anh chỉ dạ, cười cười mà không nói. Vợ chồng tôi chẳng hiểu nó nghĩ gì, Tuy chưa hề thấy nó biểu lộ tình cảm đặc biệt cho riêng một cậu nào, nhưng lối cười của nó, tôi biết nó đã có đối tượng, có chủ đích.

            Hôm tiệc sinh nhật, mới sáng, các bạn bè đã lục tục mang quà đến để đầy phòng khách. Không hiểu có phải qua Ðỗ Quyên không, hình như cậu nào cũng biết rằng Thục Anh sẽ lộ ý cho biết ai là ý trung nhân của cô trước khi lên đường đi học xa, và cậu nào cũng tin rằng mình đã nằm trong mắt xanh người đẹp rồi. Một cái TV ngạo nghễ chiếm một góc phòng, bên cạnh là một cái máy CD, DVD gì đó, có mấy gói quà nho nhỏ tuy khiêm nhường nhưng nổi bật nhờ giấy gói rực rỡ… Trong lúc chờ đợi chúng tụ tập ở phòng khách chuyện trò rôm rả. Vợ tôi tuy chuẩn bị trước, nhưng nấu nướng các món không phải đơn giản, các cô con gái và cả tôi nữa đều phải xuống bếp phụ một tay. Một lần, trong khi Thục Anh đang ở trong bếp thì anh chàng cá kèo xuất hiện, cậu ta đi có vẻ mạnh dạn lắm nhưng không che dấu được sự rụt rè, thiếu tự tin. Cậu đến bên Thục Anh đưa ra một gói nho nhỏ, hình như một quyển sách trong một phong bì màu xám “Anh tặng Thục Anh… để mừng sinh nhật” “Anh cho gì đây? Quyển sách hả, anh để trên phòng khách, lát nữa em sẽ mở quà, bây giờ tay em dơ lắm” “Anh không thích để trên đó, không thích ai biết trừ Thục Anh” “Ðược rồi, em mở ngay bây giờ, quyển sách phải không?” “Một tập thơ” “Thơ của ai?” “Thơ của anh” Thục Anh không lộ vẻ gì ngạc nhiên, nó giở từng trang, nhìn thoáng qua “Em có đọc mấy bài nầy rồi, trong các tờ báo…” “Ðúng rồi, anh làm thơ tặng Thục Anh đó” “Hèn gì, bài thơ nào cũng thấy đề “Tặng Thục Anh” em biết ngay là anh” Con bé chỉ hững hờ nói cám ơn rồi bảo Ðỗ Quyên đem tập thơ vào phòng. Có lẽ cậu cá kèo đang chờ đợi một tiếng kêu ngạc nhiên của Thục Anh kèm một cái ngước mắt nhiều cảm động và biết ơn, giống như lúc nhận quà của mấy cậu kia. Không ngờ vẻ lạnh lùng của Thục Anh khiến cậu ta như bị một cú đấm bất ngờ. Phải rồi, tập thơ chẳng có giá trị gì cả, cũng chẳng biết dùng vào việc gì?! Mặt cậu tái nhợt, cậu nói vội vã như hụt hơi “Anh về nghe!” rồi cậu lễ phép với chúng tôi “Xin phép hai bác con về, con bận có chút việc” Vợ tôi vội chận lại “Có chuyện gì gấp vậy? Con ở lại với bạn bè cho vui, hay để bác dọn riêng, con ăn trước rồi hãy về” Thấy vẻ bẽ bàng lúc nãy, tôi đoán cậu thất vọng nhiều lắm nên cần rời nơi nầy, tìm một chỗ yên tĩnh để gặm nhấm nổi buồn nên tôi không chen vào. Vừa lúc Thục Anh đến “Anh về em giận lắm đó. Ở lại, nghe chưa!” Lối ra lịnh như thế khiến tôi cũng bất bình, cậu cá kèo đành nghe theo. Có lẽ lúc sượng sùng nhất của cậu là khi mở quà vì cậu chẳng có tặng vật gì ở đó cả. Tôi ngồi ngắm những nhân vật của vở kịch đời, thấy rõ tâm lý hiện lên trên từng nét mặt. Với món quà nào Thục Anh cũng có một lối mừng riêng, nó khéo léo đến độ anh chàng có món quà ít giá trị coi bộ còn sung sướng hơn người khác nữa. Thục Anh quì giữa đống quà và những giấy gói đủ màu sặc sỡ trông nó dễ thương và ngây thơ như một đứa bé. Tôi nhìn nó lòng vui sướng và ngạc nhiên, mới năm nào sinh ra, nó chỉ có chút xíu, ngọ ngoạy chân tay một cách vụng về, miệng cười thơ dại, thơm nức mùi sữa mẹ, bây giờ thành một cô thiếu nữ xinh đẹp. Ðiều làm tôi phân vân, trông gương mặt nó sáng sủa, thông minh nhưng sao tâm hồn nó không giống vợ chồng tôi, nó không biết giá trị cao quí của tình cảm. Những bài thơ của anh chàng sinh viên nghèo kia dù không hay chăng nữa cũng nói lên những rung động chân thành đối với nó. Cậu sinh viên kia, trong góc phòng, lặng lẽ, núp kín sau bạn bè như muốn biến mình thành mây khói để thoát ra khỏi nơi ồn ào nầy. Tôi không hiểu cậu đang nghĩ gì? Có xót xa cho hoàn cảnh mình không đủ tiền mua một món quà đắt giá dâng người đẹp, hay ân hận mình đã yêu lầm một người không có tâm hồn?! Anh chàng Trương Chi tân thời nầy tuy không xấu trai nhưng chỉ có tiếng hát của hồn thơ và cô Mỵ Nương đời nay tuy có đọc thơ chàng từ trước trong những tờ báo đặt ở phòng khách chứ không phải lần đầu nhìn thấy, nhưng rõ ràng cô không quan tâm. Trong lúc dự tiệc, anh chàng cá kèo vẫn giữ vị trí xa người đẹp nhất. Những lần trước cậu thường lặng lẽ ngắm Thục Anh, thỉnh thoảng góp chuyện với bạn bè, lần nầy cậu im như thóc, mặt buồn thiu, cầm đôi đũa vầm vầm món gì đó trong chén chứ không ăn, có điều cậu uống bia hơi nhiều, mặt bắt đầu đỏ, trông lầm lì, dữ tợn. Cũng như mọi khi, bọn trẻ tha hồ nói thánh nói tướng về mình, về mọi chuyện, nhất là chuyện người đẹp, cậu nào cũng ra vẻ ta đây có số đào hoa, con gái chạy theo thiếu khối mà không thèm (Ý muốn nói chỉ để ý một người thôi) Rồi chúng xoay qua anh chàng cá kèo để chọc phá “ Còn mầy thì sao? Kể ra xem, trước giờ có được mấy em theo mầy?” “ Có mấy con cháu bà Só!” Cả bọn ngớ ra, nhưng vợ tôi cười rộ lên giải thích “ Cháu bà Só là chó bà Sáu đấy” Thấy có người hiểu được mình lại thêm chút rượu trong người, cậu bắt đầu triết lý “Con trai là nam châm, con gái là sắt, thép; có cứng bao nhiêu cũng chạy theo nam châm” “Mầy ngon, vậy chứ có mấy cục sắt chạy theo mầy rồi?” “Chưa có, nhưng muốn lúc nào là có ngay” Cả bọn nhao nhao “Thằng nầy xạo, biểu diễn coi, bữa nào đưa một em đến đây cho tụi tao xem, hay dẫn một em xấu hoắc thì đúng là sắt rỉ, nói làm gì” “Ðâu đến nổi, tụi bây chấm được mới kể, nhưng phải thong thả, ít ra cũng vài ba ngày, hẹn hò đàng hoàng chứ thình lình như đâu trên trời rớt xuống được” Chúng tôi bắt đầu ái ngại cho cậu ta, có lẽ vì bị Thục Anh lạnh nhạt trước món quà vô duyên đó nên cậu tự ái, một phần vì ngấm rượu cậu đã bị các bạn đưa vào bẫy thách đố, nhưng trông còn vẻ bình tĩnh tôi đoán cậu có cách thoát ra “Thứ bảy nầy đi, mầy đưa người đẹp đến đây, dám không?” “Có ngay, nhưng em vô nhà hay không tùy quyền em. Tụi bây đông quá, em khớp, đâu dám” “OK, đứng trước sân đủ rồi, chín giờ sáng thứ bảy, được chưa?” Vợ tôi và mấy đứa con gái cũng bị kích động theo, anh chàng cù lần nầy làm sao kiếm được một cô bạn nhanh như thế, hắn không có bà con quen biết để nhờ đóng vai người bạn tạm bợ “Sáng thứ bảy mấy đứa ghé đây ăn sáng, bác sẽ nấu phở cho mà ăn” Lát sau cậu ta xin kiếu từ về trước, thấy lối đi ngất ngưỡng, vợ tôi bảo “Con ra phòng khách ngồi nghỉ một lát, tỉnh rượu hãy về, cảnh sát gặp thì nguy” “Dạ, không sao đâu bác, con đi trong xóm chứ không ra ngoài lộ đâu”

            Sáng thứ bảy, bọn trẻ đã tụ tập tại nhà tôi chờ xem anh chàng cá kèo đem người đẹp đến trình diện. Tôi không quan tâm đến chuyện trẻ con đó, nhưng tò mò xem cậu ta giải quyết sự thách đố ra sao. Trước chín giờ cậu ta đã đến, cả bọn nhao nhao “Người đẹp đâu?” “Mười phút nữa em sẽ đến” “Mầy không đón em đến đây à?” “Em đến đón tao chứ xe tao em nào thèm ngồi” “Thằng nầy ngon, chà bữa nay áo quần coi bộ láng quá há!” Tôi cũng nhận thấy cậu ta ăn mặc lịch sự, tóc tai gọn gàng, áo quần mới thẳng nếp lại thêm chiếc cà vạt hoa lá cành trông rất bảnh bao, coi bộ còn đẹp trai hơn các bạn nữa. Vợ tôi bảo “Mỗi đứa vào bếp lãnh tô phở rồi ra phòng ăn mà ngồi” “Thưa bác, lát nữa con đi ăn điểm tâm với cô ta” Bỗng có tiếng còi xe, cả bọn ùa ra cửa. Cậu cá kèo chửng chạc đi ra. Chiếc xe đời mới, cũng rực rỡ như cô gái trong xe. Cậu ta nói gì đó, cô gái ra khỏi xe, cười thật tươi, vẫy tay chào trong nhà. Tuy cô không đẹp lắm nhưng cách ăn diện ra người đứng đắn, quí phái. Dự đoán một cô tào lao nào đó không đứng vững. Cô gái nhường tay lái cho cậu cá kèo và xe vụt chạy đi. Hơn một giờ sau xe quay lại, cô gái lại ra khỏi xe vẫy tay chào trong nhà, cậu cá kèo nói gì đấy cô ta cười gật đầu từ biệt. Bây giờ thì cậu ta chẳng còn chút buồn nào nữa, vợ tôi cũng vui lây, có lẽ bà cảm thấy như có lỗi vì cách đối xử của Thục Anh hôm trước, nay đã có một cô gái thay thế con gái bà trong quả tim anh chàng tội nghiệp nầy rồi. Rồi đây, khi Thục Anh chọn được một đối tượng, các cậu kia cũng sẽ buồn như vậy, có khi buồn hơn vì ấp ủ nhiều hi vọng hơn.

            Vợ chồng tôi cứ áy náy về cách xử sự vụng về của Thục Anh, cho nên chúng tôi dự định một dịp nào đó sẽ bắt Thục Anh xin lỗi cậu ta và chúng tôi sẽ nói mấy lời an ủi để cậu khỏi buồn. Một buổi tối, chúng tôi gọi Thục Anh ra phòng khách, tôi nói “Ba mẹ thấy con đã lớn mà không tế nhị chút nào. Các bạn của anh con, đứa nào cũng đứng đắn, học hành chăm chỉ, ăn nói lễ độ. Dĩ nhiên ba mẹ không ép con thương người nầy hay ghét người kia, nhưng dù gì con cũng phải chứng tỏ mình tế nhị, lịch sự. Riêng tập thơ bạn con tặng, coi bộ con dững dưng quá. Con có biết, khi người ta yêu, chỉ với tâm hồn say đắm mới làm được những bài thơ. Thơ dỡ không phải vì yêu ít. Nhưng ba đoán thơ đã được đăng trên báo ít ra nó cũng có giá trị về một khía cạnh nào đó chứ không phải hoàn toàn không đọc nổi. Ba mẹ rất vui khi thấy con bày tỏ lòng biết ơn với các anh tặng quà, biết cách làm cho mọi người vui vẻ dù giá trị món quà ra sao đi nữa, tại sao con không làm như thế với tập thơ? Lẽ ra lúc đó, sau khi mở quà, con phải đem ra một bài thơ để ngâm hay đọc lên cho mọi người cùng thưởng thức, con có thể không nói tên tác giả, nhưng để chứng tỏ rằng con hiểu được tình cảm của anh ta, chứng tỏ con có những nét đẹp cao quí đã làm rung động tâm hồn người khác. Ai cũng có thể cho bao nhiêu quà tùy thích, nhưng thơ thì chịu. Ðó là ân sủng của Thượng Ðế, người ta đã đem tặng con với tất cả tấm lòng, với bao tình yêu thương…

            Ba nói hơi nhiều, bây giờ ba đề nghị thế nầy, sáng mai chủ nhật con mời anh ta đến và nói lời xin lỗi cũng như cám ơn tấm lòng của anh ta, ba tin con biết cách nói cho anh ta hiểu rằng con rất hãnh diện và cảm động được anh ta quan tâm thương yêu, nhưng thời gian sẽ giúp con trả lời và những bài thơ đó con sẽ giữ gìn như một kỷ niệm quí nhất, đẹp nhất trong đời”

            Thục Anh đứng yên lặng nghe, nó có vẻ buồn buồn, tôi không hiểu nó đang nghĩ gì, nhưng lòng tôi rung động một tình phụ tử. Tôi tưởng nó đã lớn, đã thay đổi rồi, nhưng giờ đây trước mắt tôi, khuôn mặt, đôi mắt, chiếc miệng đó vẫn y nguyên như thời thơ ấu, nhất là khi nó sắp khóc, khiến tôi nhớ lại lúc nó còn nhỏ mỗi khi tôi giận dữ, la mắng điều gì, hễ mắt nó rơm rớm là lòng tôi chùng xuống, giận dữ tiêu tan, chỉ còn tình thương đứa con bé bỏng. Tôi ân hận, có lẽ đã nặng lời với nó chăng? Hay nó có tâm sự gì buồn? Vợ tôi cảm thấy điều đó, bà ôm Thục Anh vào lòng, nó bỗng khóc nấc trên vai bà. Tôi hôn lên đầu nó và thì thầm” Ba xin lỗi con!”.

            Sáng chủ nhật hôm sau, anh chàng cá kèo đến, Thục Anh tiếp ở phòng khách. Chúng tôi không muốn xen vào, chỉ ngồi ở phòng ăn. Tôi uống cà phê, vợ tôi loay hoay trong bếp nhưng đôi tai vẫn hướng về phòng khách. Phòng ăn sát với phòng khách, chúng tôi loáng thoáng nghe được cuộc đối thoại “Hôm trước thấy anh uống rượu mà ghê, tưởng bị cảnh sát bắt nhốt rồi chứ” “Ðâu có say, uống cho vui” Im lặng…“Mấy bữa nay đi với người đẹp vui không? Em thấy chị ấy đẹp lắm đó, em cũng phải mê, lại có xe mới tinh. Chúc mừng anh hạnh phúc” “Mới quen thôi. Buồn quá… Chứ có gì vui đâu!” Lại im lặng, tôi nhìn vợ tôi lắc đầu, cuộc hòa đàm coi bộ đi lạc đề rồi. Có tiếng giấy sột soạt “Cho em gửi lại anh tập thơ, em không xứng đáng để anh ca tụng, bây giờ có người đẹp hơn, thơ anh phải hay hơn rồi. Lúc tối, đọc tập thơ nầy em mắc cỡ quá, em xấu xí vụng về, nhà quê quá nên anh chọn người khác cũng phải, chắc anh hối hận ghê lắm khi đã lỡ làm thơ về em” “Không có đâu, không ai làm thơ ca tụng hoa hậu cả. Nhưng anh đã thề sẽ không bao giờ làm thơ nữa” “Sao vậy?” “Vì em không hiểu anh” “Sao anh biết em không hiểu? Mấy năm nay… Em đọc thơ anh đến thuộc lòng” “Hiểu mà không thèm để ý” “Sao anh biết? Không lẽ em phải la to lên là em để ý anh sao? Anh phải biết chứ. Em tức quá!” “Ðể ý sao thấy lạnh lùng!” “Em tưởng anh đã biết những gì em nghĩ về anh rồi. Tại anh không nhìn em. Anh chỉ giỏi nhìn trộm, khi em nhìn lại thì ngó lơ chỗ khác… Em không muốn ai biết gì hết, không muốn ai xen vào” “Thật hả? Anh buồn quá, cứ ân hận, thà đừng tặng tập thơ. Coi như yêu thầm phải sung sướng hơn không. Em biết anh làm thơ về em mà khi tặng tập thơ, em vẫn hững hờ… Anh nghĩ rằng em không có chút cảm tình nào với anh cả” “Em tức quá! Thôi được rồi, vì em không có cảm tình với anh nên anh tìm người khác. Bây giờ xin anh đừng nghĩ gì đến em nữa. Cho em gửi lại tập thơ, anh về chỉ cần xóa tên em, viết tên người đẹp vào đem tặng người ta, anh sẽ được người ta vồn vã, ân cần chứ không giống em, xấu xí, lạnh lùng” “Người đẹp nào?” “Con nhỏ hôm rồi chứ người nào nữa! Chuyện trò, cười nói thân mật quá, lại còn đem xe đến rước đi ăn điểm tâm nữa” “Anh thề với em, anh mới gặp lần đầu và hôm đó là lần duy nhất” “Anh đừng xạo nghe! Không lẽ anh thuê nó đến đón anh? Em không phải con nít đâu mà nói láo, không ai tin đâu” Có tiếng giấy sột soạt “Ðây, hình cô ta trên báo đây, có phải cô đó không? Chữ realtor (trung gian mua bán nhà) rành rành. Cô nầy còn đẹp hơn nữa. Anh muốn cho mấy đứa ngán thôi chứ đâu có gì” “Anh lợi dụng người ta để chọc tức em chứ gì? Anh không mua nhà mà giả bộ tìm nhà để người ta đưa đón, anh có thấy xấu hổ không?” “Anh đi coi nhà thực mà, tìm giùm nhà cho người bạn” “Ðừng chối quanh. Bạn anh làm gì có tiền. Ði học thì tiền đâu mua nhà?” “Gọi là bạn chứ anh ta cũng lớn tuổi rồi. Lúc vượt biên ở đảo, bọn anh sống với nhau, qua đây anh ta làm hai jobs, để dành tiền mua nhà đón vợ con qua” Lại yên lặng… “Em mà không đi học xa đừng hòng em nói cho mà biết. Người ta thương!.. Chưa gì đã lăng nhăng. Lúc tối em tức phát khóc…” Rồi nó lớn tiếng “Bây giờ về đi, chứ ngồi đó làm gì nữa? Ðưa lại em tập thơ. Ðứng lên!.. Cúi xuống! Cúi xuống nữa! Sao cao quá vậy?!” Vẫn giọng lạnh lùng đó, như đang đốp chát với mấy đứa em nó! Vợ tôi lầu bầu “Con nhỏ nầy… Sau nầy ăn hiếp chồng dữ lắm!” Và bà nhỏm dậy, định ra giữ thằng bé lại ăn điểm tâm, nhưng mới đến cửa, bà khựng lại, ngoắc tôi đến.

            Tôi biết rõ Thục Anh, bao nhiêu con trai đến nhà tôi thường xuyên, đố đứa nào đụng được chéo áo nó. Nó giữ ý, nghiêm trang lắm. Vậy mà giờ đây nó đang hôn lên trán anh chàng thi sĩ si tình mấy cái. Rồi vừa cười nho nhỏ, nó vừa vò vò đầu cậu ta như đang đùa với một em bé.

Phạm Thành Châu

Visits: 856

Hèn!

Lê Văn Tư

Nhà văn Nguyễn Minh Châu (hàm đại tá quân đội), trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, báo Văn nghệ số kép 49-50 ra ngày 5-12-1987: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn”.
Ông Trần Hưng Quốc thú nhận: “Tôi cũng mong một ngày nào đó tôi hết hèn, dám chê đảng một cách thẳng thắn, chính trực mà không phải dùng tên nặc danh thế này. Chứ bây giờ, nghĩ đến đảng là tôi đã run lên như cầy sấy rồi, sợ cái cảnh phải như các anh Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, …” (Bài Trò chuyện cùng ông NT).

tohaithanghen
Tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Nụ cười sơn cước, nhạc sĩ Tô Hải viết tự truyện «Hồi ký của một thằng Hèn», trong đó ghi nhận: «Tất cả nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, nhà kịch, nhà nọ, nhà kia, … đến nay còn bám cái vú đảng đều là … thằng Hèn! Riêng những thằng kiếm chác bằng cách bợ đít, bưng bô cho đảng … thì chữ hèn đối với chúng cũng không xứng đáng!».
Có thể coi định nghĩa chữ hèn của Tô Hải là khá «ấn tượng» (bám vú, bợ đít, bưng bô) và hoàn chỉnh, vì hễ ai hèn thì đều bị khinh khi, gọi bằng thằng (giống như «Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.»), chớ không gọi bằng ông hay một danh xưng nào khác.
Theo giáo sư Nguyễn Đình Cống: «Cái sai rõ ràng nhiều người thấy mà mình không thấy thì mang tội u mê, nếu thấy rồi mà không dám nói thì mang tội hèn.», ông nói rõ: «Trừ một số rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay các vị trí thức có một chút dũng cảm vừa phải nào đó, dám nói một cách trung thực ý kiến của mình không đồng ý với lãnh đạo tại các cuộc họp công khai của Quốc hội, của Chính phủ, còn lại phần lớn là hèn.».
Tổng quát, hèn được ông phân làm 3 mức độ:
A- Hèn nhất là loại xu nịnh, luôn tìm cách ca ngợi, chứng minh đã là lãnh đạo, là có quyền thì luôn luôn sáng suốt, bao giờ, cái gì cũng đúng.
B- Hèn vừa vừa là loại mũ ni che tai, có biết có thấy sự thật sai trái nhưng sợ quá, không dám nói, chỉ lo làm tròn bổn phận.
C- Hèn ít, nhưng vẫn cơ bản là hèn, đó là loại hơi có một chút trung thực, dám nói nhưng chỉ nói ở trong nhà, nói giữa vài ba người bạn, nói mà không muốn cho nhiều người nghe được, càng không dám nói cho cấp trên nghe, sợ bị liên lụy.»
Ông đặt tên những trí thức hạng C là «một lũ chó sủa vườn hoang» và tự xếp mình vào hạng đó.
Thật sự mà suy, giống như sám hối hay xưng tội được giải tội, những ai dũng cảm công khai cái hèn của mình rồi thì không còn hèn nữa, như nhạc sĩ Tô Hải từ bỏ đảng cộng sản ngay sau ngày gọi là thống nhất đất nước, phơi bày cuộc đời nhẫn nhục trong sách «Hồi ký của một thằng Hèn», hay giáo sư Nguyễn Đình Cống đã công khai «thông báo từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 03 tháng 02 năm 2016. Yêu cầu tổ chức Đảng xóa tên tôi khỏi danh sách.» ngay sau ngày kết thúc đại hội XII.
Theo các chuẩn mực trên, thành phần thứ ba ở miền Nam trước 1975 đều thuộc hạng u mê kế đến là hèn, mức độ hèn có thể giảm dần theo thời gian.
U mê vì chống chế độ miền Nam một cách điên cuồng nhưng không lượng định được hậu quả tai hại ra sao như trong bài “Sặc mùi cộng sản”, Nguyễn Ngọc Lan viết: “tôi cũng xin cương quyết lặp lại, bao lâu còn gót giày lính Mỹ nện trên quê hương này, còn chống Mỹ cứu nước. … điều độc nhất đáng kể đối với chúng ta là toàn dân ta đều cần cơm mà sống, vốn cần cơm mà sống, sẽ còn cần cơm mà sống. Mỹ không ăn cơm thì đi chỗ khác chơi.” (Báo Tin Sáng số 733, 27-8-71).
U mê vì hậu thuẫn cho việt cộng nhưng chẳng hiểu gì về cộng sản như Lý Quý Chung thú nhận trong cuốn Hồi ký không tên: “Sự mù tịt về “Việt cộng” và sự thiếu hiểu biết sâu sắc về mục tiêu lý tưởng đấu tranh của “những người ở bên kia nửa phần Tổ quốc””.

U mê vì bị cộng sản giựt dây mà cứ tưởng mình đóng vai trò chủ động như linh mục Chân Tín đóng vai chủ tịch ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù, nhưng tổng thư ký là sinh viên Việt Cộng Trần Văn Long.
Họ lợi dụng tự do ngôn luận để ra báo chống đối chế độ như lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan (báo Đối Diện), lm Trương Bá Cần (báo Công giáo và Dân tộc, tựa đề có công giáo nhưng không thuộc giáo hội), Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận (tờ Tin Sáng), Lý Quý Chung (Tiếng nói dân tộc), Hồng Sơn Đông (Điện Tín), …
Họ lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, một số sư sãi (Trí Quang, Quảng Long, Huỳnh Liên, …), linh mục (Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, …) dùng các nơi thừa tự để tập họp, tuyên truyền xách động quần chúng, chứa chấp bọn nằm vùng.
Họ lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra các tổ chức chống chế độ như Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù của lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phong trào bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ đứng đầu, Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống của bà Ngô Bá Thành, Phong trào dân tộc tự quyết của luật sư Nguyễn Long, Lực lượng hoà giải dân tộc của luật sư Trần Ngọc Liễng , Mặt trận Nhân dân cứu đói của đại đức Thích Hiển Pháp.
Họ lợi dụng quyền bất khả xâm phạm để công khai ủng hộ những kẻ gây hỗn loạn trật tự công cộng, bao che việt cộng như các dân biểu Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, …, đặc biệt là tướng Dương Văn Minh “Xét về “gốc tích” thành phần của nhóm ông Minh… lộ ra sau 1975, … Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTDTGPMN như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh mục Lan, luật sư Liễng…”. (Lý Quý Chung kể trong cuốn Hồi ký không tên).
Ngay sau ngày 30/4/1975, mọi tờ báo đều bị đóng cửa, các tổ chức trên hay cái gọi là thành phần thứ ba đều bị khai tử không kèn không trống, chẳng thấy có một phản ứng nhỏ nhoi nào, điều này xác nhận họ hầu hết chỉ là công cụ giai đoạn của cộng sản, một số đã từng vào mật khu như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân, …) hay được móc nối như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, …
Tùy theo công trạng đóng góp cho “cách mạng (!)” mỗi cá nhân được thưởng công, khỏi đi tù cải tạo như Dương Văn Ba hay một số dưới trướng Dương Văn Minh, cho làm đại biểu quốc hội (Ngô Bá Thành, Lý Chánh Trung, Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, …), phần lớn được phong các chức hàm trong mặt trận tổ quốc, trong các hội đồng nhân dân, thậm chí còn cho ra báo trở lại như bán nguyệt san Đứng Dậy của lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, nhật báo Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, nhưng rồi lần lượt đều bị đóng cửa (gọi tự ý đình bản năm 1978, hay “hoàn thành nhiệm vụ” năm 1981).
Qua giai đoạn u mê, họ bước qua giai đoạn hèn, một số tiếp tục tâng bốc chế độ độc tài như Hồ Ngọc Nhuận: “Đặc biệt, tháng 9-1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong “Đoàn đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp thương Thống Nhất”. Khi trở về, trong bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết: “Chúng tôi tin rằng, độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội” (1), như Lý Chánh Trung (1985): “Tuy không phải là người Cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi cho rằng chỉ chủ nghĩa Cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước.” (bài Làm và tin), có người ca tụng cuộc sống người dân miền Bắc một cách lố bịch đến độ “Họ bảo nhau: “bao nhiêu năm trời bọn mình đã phải khốn khổ vì thiếu đói, vì chế độ tem phiếu, bây giờ tự dưng một gã làm báo từ Sài-gòn chân ướt chân ráo ra đây rồi thanh minh, biện hộ, ca tụng cái thiếu đói ấy. Rõ khỉ!” (Hà nội tôi thế đó -Nguyễn Ngọc Lan)
Đến năm 1988 thì hơi thức tỉnh, Lý Chánh Trung viết trên báo Tuổi trẻ: “Triết học Mác Lênin là môn chẳng ai muốn học, mà cũng chẳng ai muốn dạy”, “Tôi (2) nghe thiên hạ đồn rằng bây giờ ông bạn giáo sư đang bị “rét”, vì bị Tổng bí thư ” xát xà bông” làm sao đó. Sự thực ra sao vậy?” Anh Trung liền trả lời : “Quả là bây giờ có sự Đổi mới rồi, chứ nếu không, thì mình bị “lấy mất cái đầu đi rồi” đấy!”, một số ngậm miệng làm thinh như Nguyễn Ngọc Lan (chuyên viên chơi chữ), có ai hỏi ” bây giờ đang làm gì?” – tác giả tỉnh queo đáp ” làm thinh” (theo Thế Phong kể), Kiều Mộng Thu thì kể như câm miệng hến luôn.
Điều trớ trêu là những người cả tiếng tranh đấu cải thiện chế độ lao tù ở miền Nam, năm 1990, lm Chân Tín được chế độ mới cho đi an trí 3 năm ở tại xã Cần Thạnh, huyện Duyên Hải cách trung tâm thành phố 70 cây số, Nguyễn Ngọc Lan bị quản thúc tại gia 3 năm ở Sài Gòn; sống dưới chế độ “Mỹ -Ngụy” (!) thì được cộng sản bảo vệ nên không hề chi (!) (3), đến khi được sống dưới chế độ cộng sản thì lại bị tông xe suýt toi mạng (4); trước 1975 thì viết báo công khai chống chính quyền, sau 1975 thì viết nhật ký (Nguyễn Ngọc Lan), Hồi ký (Hồ Ngọc Nhuận) để than thân trách phận cũng bị cấm in, phải ấn hành ở ngoại quốc, phổ biến chui vào trong nước, muốn bày tỏ bất mãn thì phải luồn lách, vận dụng ngôn từ, nói bóng nói gió như bài “Hà Nội tôi thế đó”, Nguyễn Ngọc Lan bị gán cho là ngầm tả oán chế độ (chữ tôi có thể ngầm hiểu thành tồi, thành tội).
Tại sao trước khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam thì họ tỏ ra hùng dũng thế mà giờ thì lại hèn hạ đến thế?
Câu chuyện cây quất trồng ở bắc sông Hoài thì ngọt, trồng ở nam sông Hoài thì chua (sứ giả Tề Án Anh đối đáp với Sở Linh Vương) giúp giải thích lý do, đó chẳng qua là chế độ cộng sản đã biến giới trí thức thuộc thành phần thứ ba ở miền Nam đã trở thành những thằng hèn như bao thằng hèn ở miền Bắc, bây giờ thì “hèn hóa” cả nước.
Ngẫm lại, lịch sử chỉ là sự tái diễn, giới trí thức miền Bắc năm 1954 cũng lâm cảnh y như vậy, chỉ sau thời gian ngắn chỉnh huấn, nhiều văn nghệ sĩ đã tự lột xác như:
– Nguyễn Tuân: “Khi đã tự mình vạch hết những lỗi lầm cũ, Nguyễn Tuân, con người xưa kia kiêu bạc bao nhiêu, nay đã chẳng nề hà lớn tiếng tuyên bố:
‘’Nhờ ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê của đảng mở mắt cho thấy rõ ý nghĩa và phương hướng của nghệ thuật chân chính sau mười ba năm, in cuốn sách đầu tiên, nay tôi nhận rõ giá trị của sự nghiệp văn chương cũ của tôi chỉ là một mớ sai lầm và tội lỗi. Cái mà tôi vẫn tự phụ là sự nghiệp đó chỉ là những tội lỗi mà nhân dân khoan hồng đã tha thứ cho để tôi chuộc tội từ nay bằng những sáng tác phục vụ được cho lợi ích cách mạng…’’
– Xuân Diệu: “nhà thi sĩ chuyên môn: ‘’Run với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây’’
Xuân Diệu đã vỗ ngực mà thề rằng: ‘’Bây giờ thì phải dứt!’’
Dứt thế nào? Chúng ta hãy nhận xét Xuân Diệu mới qua bài thơ làm sau kỳ chỉnh huấn:
Trước Đây Bốn Tháng
Trước đây bốn tháng, đến Trường
Hồn tôi nghiêng ngả, trí thường hoang mang,
Đường đi quên ánh sáng vinh quang
Bạn thù lẫn lộn, trái ngang cảm tình
Kéo dài tâm trạng lênh đênh
Sống mà lắm lúc như mình bỏ đi.
Hôm nay hết học kỳ chỉnh đảng
Thấy bốn phương trời ánh sáng ùa vào
Bước đầu tuy chửa là bao
Nhưng nghe đã rộng, đã cao vô ngần!»
… (5)
Tương tự, giới họa sĩ như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Văn Tỵ,… giới nhạc sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Yên, … đều tự lên án mình, nguyện trung thành với đảng, phục vụ giai cấp công nông. (5)
Cái ưu việt của đảng cộng sản là biến cả một dân tộc không hề biết khuất phục trước ngoại bang đành an phận đớn hèn trước kẻ thống trị trong nước.hencaption 2
Hãy nghe Thái Bá Tân luận về thân phận giới trí thức dưới chế độ cộng sản:
Thương cái thằng trí thức,
Mặc dù chúng khá đông,
Không được thành giai cấp
Như hai bác công, nông.
Mà thằng này lạ lắm.
Phải nói cực kỳ hiền.
Lại nhũn nhặn, lễ độ,
Đến mức tưởng hắn hèn.
Thế mà hắn bị ghét,
Bị coi là cục phân,
Dù hắn ăn mặc đẹp
Và sạch hơn nông dân.

Lê Văn Tư

____________________

Ghi chú:
(1) Bên thắng cuộc của Huy Đức
(2) Đoàn Thanh Liêm -người cùng nhóm với Lý Chánh Trung trước 1975
(3) Tôi nhớ, ở chiến khu, Bí thư T.Ư Cục – anh Phạm Hùng có lần bảo tôi chú ý bảo vệ Nguyễn Ngọc Lan, nghe đâu ông đi lại bằng một chiếc xe gắn máy cũ kỹ, rất dễ bị ám hại. Tôi truyền đạt ý trên cho anh Tạ Bá Tòng, người trực tiếp liên hệ với Nguyễn Ngọc Lan, (bài Tiễn biệt anh, anh Nguyễn Ngọc Lan của Trần Bạch Đằng: http://thanhnien.vn/thoi-su/tien-biet-anh-anh-nguyen-ngoc-lan-386749.html)
(4) Nhật Ký của Nguyễn Ngọc Lan của Minh Võ: “Đầu tháng 5 năm 1998 NNL chở Linh Mục Chân Tín trên xe gắn máy tới viếng Nguyễn Văn Trấn tức Bảy Trấn vừa qua đời, thì bị xe tông bị thương nặng, suýt chết. Theo lời tường thuật của ông sau đó ít lâu thì rõ ràng người ta đã âm mưu ám hại ông.”
(5) Việt Nam máu lửa của Nghiêm Kế Tổ

Visits: 735

Phường chèo tại rạp Ba Đình Hà Nội

Lê Văn Tư

Kỳ họp Quốc hội khóa 13 tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 21 tháng 3, 2016

Sau đại hội XII đảng cộng sản ngày 28/1/2016, ba nhân vật chóp bu (bộ tam sênh) mới được chỉ định (Nguyễn Thị Kim Ngân, Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc) vào các chức vụ nổi (chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước và thủ tướng), họ sẽ thay thế ba nhân vật hết thời (Nguyễn Sinh Hùng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng).
Thông thường ai cũng tưởng việc thay thế này sẽ diễn ra sau khi có quốc hội mới dự trù được bầu vào tháng 5/2016, nhưng nào ngờ việc thay thế này lại diễn ra vội vã ngay trong khóa họp cuối cùng của quốc hội hiện nay (21/3 – 12/4/2016), lý do chính thức nêu ra là «cần phải có đội ngũ nhân sự có trách nhiệm phân công bắt tay ngay vào công việc», hóa ra đội ngũ nhân sự cũ là vô trách nhiệm à?
Liệu có mấy người tin?
Theo giáo sư Nguyễn Đình Cống: «Tam trụ còn lại là việc của Quốc hội khóa mới, nhưng vì lý do nào đó mà Đảng không chờ được, phải thay ngựa giữa dòng. Việc này, người thì cho là đảo chính, người lại bảo là vi phạm hiến pháp. … Để cho có vẻ thuận chiều thì phải tạo ra việc Tam trụ đồng loạt xin từ chức. … Cả 3 vị đều ngậm ngùi bị buộc phải ngậm bồ hòn xin từ chức.»
Luật sư Lê Quốc Quân tự hỏi «lý do gì quan trọng đến mức mà Đảng có thể xổ toẹt lên tất cả Hiến pháp, công khai thể hiện quyền lực tối thượng một cách vô lối của mình bằng việc thúc ép “tam trụ” phải nghỉ. Lý do đó phải gấp đến mức buộc người ta phải phải bốc cá ăn ngay chứ không còn thời gian dùng nồi để nấu.» (bài «Miễn nhiệm là ‘đảo chính hợp hiến’?» -BBC 27 tháng 3 2016)
Cái tựa đủ chuyển tải quan điểm của tác giả, cũng có người cho sự thay đổi kiểu «chạy tang» này là bình thường, Gs Nguyễn Minh Thuyết dẫn Điều 74 và 88 của Hiến pháp, theo đó Quốc hội có thể miễn nhiệm chủ tịch nước và thủ tướng, và nhắc lại một số tiền lệ (sau Đại hội Đảng Cộng sản IX thì ông Nguyễn Văn An đã được giới thiệu để thay chức vụ của ông Nông Đức Mạnh vì ông Nông Đức Mạnh đã được bầu làm tổng bí thư, “Sau đó khi Đại hội Đảng X không bầu ông Nguyễn Văn An vào Bộ Chính trị nữa thì Quốc hội lại họp tháng 6 năm đó để bầu ông Nguyễn Phú Trọng thay ông Nguyễn Văn An, sau này bầu ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng thay cho ông Phan Văn Khải, ông Nguyễn Minh Triết làm chủ tịch nước thay cho ông Trần Đức Lương.”), ông cũng «cho rằng chuyện miễn nhiệm cũng hợp lý vì nếu không “chẳng lẽ thủ tướng, người đã không còn là ủy viên Bộ Chính trị, lại nhận lệnh của phó thủ tướng hay bộ trưởng là ủy viên bộ chính trị.”».
Điều lý thú là ông nhắc lại «cách đây ít năm khi Đại biểu Dương Trung Quốc đặt câu hỏi với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về khả năng từ chức của ông thì Thủ tướng cũng đã nói rõ ràng “Tôi không có chạy, không có xin mà Đảng phân công thì tôi làm.”
“Thế thì lần này Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam không bầu ông Nguyễn Tấn Dũng vào vị trí ủy viên Bộ Chính trị, không bầu ông Trương Tấn Sang vào ủy viên Bộ Chính trị và ông Nguyễn Sinh Hùng cũng tương tự. Như thế có nghĩa là Đảng đã không phân công các ông tiếp tục …»

Nói qua hiến pháp, nhắc lại tiền lệ chẳng qua là để thể hiện sự hiểu biết của một «trí thức» (học vị tiến sĩ, tước giáo sư), cuối cùng ông vẫn khẳng định đảng cộng sản là trên hết, muốn làm gì thì làm (thế là hết ý!).
Sự khẳng định này cho thấy đảng chà đạp hiến pháp, một sự vi hiến trắng trợn.
Họ bày trò miễn nhiệm, theo nghĩa thông thường, miễn nhiệm, tức «miễn chức cũng gọi là giải chức hay bãi chức, lột chức phận, không cho làm chức vụ nhà nước nữa.» (Tự điển Lê Văn Đức), theo Đại từ điển Tiếng Việt ở trong nước thì “miễn nhiệm” nghĩa là “không cho giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ”, như vậy «được miễn nhiệm» là «bị truất phế» vì một tội gì đó cần phải được nêu rõ trong cáo trạng, còn ở đây, tội của họ là bị đảng loại ra khỏi bộ chính trị, khoản tội này như một điều luật bất thành văn, mọi đảng viên phải tuân thủ, dĩ nhiên các đại biểu quốc hội không thể làm khác (con rối là ở chỗ đó!).
Ngoài sự vi hiến, việc bầu những người thay thế còn là điều phi lý, đó là quốc hội cũ lại bầu những người chưa là đại biểu quốc hội, theo hiến định: “Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch Quốc hội (điều 83), tức chủ tịch của một quốc hội chưa có, một quốc hội gồm những đại biểu ma (quái đản!), Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội (điều 87), Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội (điều 98)”.

Không những bầu bộ tam sênh, họ còn miễn nhiệm và bầu mọi chức chưởng khác trong cơ cấu quyền lực như các phó chủ tịch quốc hội, phó chủ tịch nước, các ủy viên ủy ban thường vụ quốc hội, chủ tịch hội đồng dân tộc, chủ nhiệm các ủy ban của quốc hội và tổng kiểm toán nhà nước, …, có nghĩa là họ được cho đắc cử trước khi được dân bầu (khôi hài!), từ đó có thể suy ngược lại là số phận hẩm hiu dành sẵn cho ai đã bị miễn nhiệm và không được bầu vào một chức vụ nào khác, quốc hội như thế rõ ràng là một cơ cấu tiền chế, chức danh đại biểu quốc hội được coi như phần thưởng dành cho những kẻ trung thành với đảng, chấp nhận làm thân khuyển mã gọi dạ bảo vâng.
Đây là một tiền lệ nguy hiểm vì từ nay, đảng muốn truất phế ai thì chỉ cần loại tên đó ra khỏi bộ chính trị hay ban chấp hành trung ương, quốc hội căn cứ vào đó làm thủ tục miễn nhiệm và bầu bất cứ một tên nào khác thay thế bất kể là có là đại biểu quốc hội hay không?

muaroiTừ đầu chí cuối toàn là độc diễn, vậy mà cũng bày đủ trò «thông qua danh sách ứng cử, nghị quyết, biểu quyết, kiểm phiếu, công bố kết quả, …», mọi diễn tiến y hệt một vở phường chèo, các diễn viên gọi là mới lại toàn là đào kép cũ xào đi xào lại, như vậy thì còn hòng gì có sự thay đổi, nên chẳng mấy ai tin lý do viện dẫn, đúng như nhận xét của tướng Trần Độ: “Nói thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. … Ôi, cay đắng thay!”. (Nhật ký rồng rắn)

Vậy thử suy đoán động cơ nào dẫn đến việc làm phi hiến, phi lý này.
Trong đại hội đảng, Nguyễn Phú Trọng đã thành công trong việc hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng, mọi diễn tiến hấp tấp hiện nay cho thấy Nguyễn Phú Trọng muốn dứt điểm Nguyễn Tấn Dũng càng sớm càng tốt, đồng thời cày sẵn người của mình vào guồng máy cai trị mới, cũng có thể loại nốt tàn dư của Dũng trong kỳ bầu quốc hội tới.
Liệu mọi chuyện có dễ dàng như vậy hay không?
Liệu quốc hội mới có chấp nhận một việc làm vi hiến trắng trợn này không?
Cứ theo logique mà suy thì sự căng thẳng giữa Dũng và Trọng đã âm ỉ từ lâu với cường độ ngày càng tăng, cao điểm là đại hội đảng vừa qua, cuộc quyết đấu chỉ kết thúc một mất một còn, tuy đang vị thế thượng phong, Trọng vẫn luôn nơm nớp lo sợ thế cờ bị lật ngược, việc đặt để Nguyễn Xuân Phúc (kẻ thân tín) làm thủ tướng cốt để chặt hết tay chân của Dũng ở các cơ quan hành pháp; vốn là tay mưu sĩ (từ bạch đinh vượt lên tận tột đỉnh vinh quang nào có vừa gì?) lại ôm mộng tranh bá đồ vương, cả chục năm trên chót cao thực quyền, Dũng tất đã ngầm tạo nhiều thanh thế, ơn mưa móc rưới ra cùng khắp, vây cánh hẳn hiện diện khắp nơi, cứ xem trước đây cặp Trọng – Sang muốn hạ bệ đồng chí X còn làm không nổi, ngay trong cuộc truất phế tại quốc hội hiện nay, số người chống miễn nhiệm Dũng cũng cao hơn Sang (68 phiếu [13,77 %] so với 26 phiếu, chiếm [5,26 %]) và chắc Dũng cũng thủ sẵn nhiều hồ sơ thuộc loại thâm cung bí sử của các đối thủ chính trị, chỉ chờ dịp tung ra, ngoài ra còn bao nhiêu của nổi của chìm cần phải được bảo vệ, do đó Dũng khó «thanh thản» ra đi như tuyên bố.
Màn giác đấu kế tiếp chắc hứa hẹn nhiều gay cấn!
Quốc hội mới có thể là đấu trường quyết liệt giữa hai phe Trọng – Dũng, sóng gió có thể nổi lên từ lúc ra ứng cử, tranh cử, kẻ mất thế quyền lực tất phải dựa vào sức mạnh của luật pháp, chống lại mọi áp đặt, đòi hỏi thực thi công bằng giữa các công dân, đặc biệt là giữa các ứng cử viên, đây là dịp các ứng cử viên độc lập, các phong trào đấu tranh dân chủ phải chuẩn bị đáp ứng mọi tình huống, phe Dũng muốn sống còn chắc phải dựa vào lực lượng dân chủ, một khi len vào được quốc hội, hình thành một khối liên minh độc lập, chừng ấy nghị trường không còn là mảnh vườn hoang cho phe độc tài mặc tình múa gậy, tùy theo tương quan lực lượng, quốc hội mới có thể bác bỏ mọi quyết định vi hiến của quốc hội trước, tức xóa bài làm lại, chế độ độc tài toàn trị coi như cáo chung, ứng với nhiều tin loan truyền: «đại hội XII là đại hội cuối cùng của đảng cộng sản».
Cùng tắc biến, biến tắc thông, hy vọng đã vươn lên!
God bless our country!

Lê Văn Tư

Visits: 435

Ban Mê Thuột, Trận Mở Đầu Cộng Sản Việt Nam Tổng Công Kích 1975

Vũ Thụy Hoàng

VTT-ZZNOV-11-SaiGonTuyenTrangLGT: Với sự chấp thuận của tác giả, chúng tôi đăng lại bài bút ký dưới đây, trích từ tác phẩm “Sài Gòn Tuyết Trắng” (ấn bản lần thứ tư, xuất bản năm 2000)  của Vũ Thụy Hoàng, một khuôn mặt quen thuộc trong số các nhà văn, nhà báo tên tuổi  ở Virginia. Vũ Thụy Hoàng từng ở trong ngành báo chí 49 năm, trong đó có 33 năm với Washington Post,  là tác giả của 4 tác phẩm: Rồng Vàng Vượt Biển, Sài Gòn Tuyết Trắng, Quê Hương Thương Ghét Múa Bút.

Vũ Thụy Hoàng cũng là một hội viên viễn cư của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ, hiện đang cư ngụ tại California.

anloc051

Ban Mê Thuột vào chập tối hôm 9 tháng 3, 1975 vẫn là địa đàng đối với cuộc sống cặp kè cạnh tử thần của Thiếu Úy Thám Báo Nguyễn Công Phúc. Ở đây Phúc có người tình say đắm ngóng chờ. Ở đây Phúc được thưởng thức hương vị thơm nóng của ly cà phê, ngồi phà nhẹ làn khói thuốc, ru lòng nghe tiếng hát ngọt ngào của những ca sĩ qua loa âm thanh nổi. Đó là những thứ Phúc thèm nhớ nhất trong những ngày lẩn lủi ở rừng sâu giữa lòng địch.
Trẻ tuổi, quả cảm, ưa thích văn nghệ, Phúc vừa trở lại Ban Mê Thuột lúc chiều. Mười ngày qua Phúc cùng đại đội thám báo được phái đến Bandon, một địa điểm heo hút cách Ban Mê Thuột chừng 40 cây số về phía tây bắc gần sát biên giới Kampuchia. Bandon trước kia là một căn cứ của Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu được Biệt Kích Mỹ huấn luyện, rồi sau đấy chuyển sang thành Biệt Động Quân Biên Phòng. Căn cứ nằm trấn ngang hành lang đường mòn Hồ Chí Minh của quân Bắc Việt xâm nhập vào nam.
Thám báo được coi là những binh sĩ thuộc loại ưu tú nhất, thiện chiến nhất và gan dạ nhất. Thiếu Úy Phúc là trung đội trưởng thuộc đại đội thám báo của Trung Đoàn 45, Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Hậu cứ của sư đoàn đặt tại Ban Mê Thuột.
Trong những đêm rải quân ra ngoài nằm giữa núi rừng vắng lặng, Phúc và đồng đội nghe thấy tiếng xe di chuyển, hoặc tiếng đốn cây sửa đường của Cộng quân. Không phải chỉ gần đây Cộng quân mới ồ ạt và gần như công khai di chuyển người và vũ khí trên đường mòn Hồ Chí Minh. Từ hơn một năm trước, Phúc và những toán thám báo đã khám phá nhịp độ gia tăng và xâm nhập rầm rộ của Cộng quân.
“Mình báo cáo hoài mà chẳng thấy cấp trên làm gì cả. Có lần thượng cấp còn bảo ‘báo cáo nhiều quá rồi, khỏi cần báo cáo nữa,'” Thiếu Úy Phúc kể lại những ngày lặn lội nguy hiểm ở hậu cứ địch để trinh sát. “Thế mà họ vẫn thảy mình vào chỗ chết như chơi. Nhảy vào sau tuyến địch. Ở giữa vùng địch, nếu bị lộ, khó chạy thoát. Chỉ có chết hoặc bị bắt. Chết thì còn đỡ. Bị bắt mới khổ. Nó tra tấn hành hạ. Mình là tai, là mắt của quân đội, nó có thể móc mắt, xẻo tai để trả thù. Trước kia đi công tác xong, có trực thăng đến đón về. Sau này trực thăng ít, có lần phải lội bộ mà về. Chỉ mới hơn tháng trước ngày Tết, tụi này mất sáu toán trinh sát ở gần Thuần Mẫn, một quận lỵ nằm trên đường 14 nối liền Ban Mê Thuột với Pleiku.
“Không có những vụ đi nhảy vào hậu cứ địch, thì lại đi tăng phái. Cứ chỗ nào gay cấn, khó khăn, đánh nhau dữ, thì họ lại đưa mình tới để tăng phái cho đơn vị khác. Tăng phái là đi làm rể với họ, mở đường cho họ đi hành quân. Mình đi đầu lãnh đủ.”
Đang ở Bandon, Phúc và đồng đội được lệnh đi tăng phái cho Đức Lập, một quận nằm về phía tây nam Ban Mê Thuột. Chưa kịp đến thì nghe tin Đức Lập mất, Phúc và đại đội được lệnh về Ban Mê Thuột. Nhưng đường bộ đi Ban Mê Thuột cũng đã bị cắt đứt, xe không đến được để chở đại đội. Một trực thăng Chinook được phái tới và phải bay hai chuyến mới chở hết đại đội có 70 người.
Đến Ban Mê Thuột, đại đội được cử tăng phái cho Trung Đoàn 53 đóng gần phi trường Phụng Dực. Vì đến bất ngờ, và vì doanh trại của trung đoàn không đủ chỗ, đại đội thám báo được chỉ định ra đóng quân ở địa điểm sát phi trường.
Đi rừng nhiều ngày về, lại không được thông báo về tình hình, binh sĩ thám báo như chim được xổ lồng, bay nhảy ra ngoài. Một số binh sĩ muốn về thăm thân nhân. Đại đội trưởng cùng Phúc và mấy sĩ quan khác lên xe Jeep vào thành phố. Chỉ còn đại đội phó và một số lính khác ở lại địa điểm đóng quân.
Phúc muốn ghé lại thăm người tình ở thành phố. Biết ý, đại đội trưởng bảo: “Mày cứ ở đây, Có gì tao cho xe lại bốc.” Phúc cũng không muốn để các bạn lẻ loi lâu, nên hẹn sẽ gặp các bạn ở quán cà phê đường Hai Bà Trưng.
Thành phố Ban Mê Thuột tối chủ nhật 9/3/1975 vẫn sinh hoạt như thường lệ. Tiệm ăn, quán nước, phòng trà, rạp chiếu bóng vẫn mở cửa.
Ban Mê Thuột là thành phố lớn của vùng cao nguyên với dân số chừng 150,000 người, trong đó có nhiều người Thượng. Thành phố đất đỏ này còn nổi tiếng về cà phê, và là nơi trước kia quốc trưởng Bảo Đại thường đến nghỉ ngơi và săn bắn. Với vị thế chính trị và kinh tế đó, Ban Mê Thuột còn là bản doanh của Sư Đoàn 23.
Trong kỳ tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, Cộng quân đã tấn công vào thành phố,và giao tranh ác liệt đã xảy ra trong ba ngày.
Từ đầu năm 1975 Ban Mê Thuột đã mấy lần được báo động là Cộng quân có thể tấn công. “Tin nói Việt Cộng sẽ tấn công đã xảy ra nhiều lần,” Nguyễn Ngọc Vỵ, phó tỉnh trưởng Darlac mà tỉnh lỵ là Ban Mê Thuột, nhớ lại tình hình hồi đó. “Trước Tết đã có tin nói Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, nên quân dân đều chuẩn bị. Một số người đã tản cư đi, không ăn Tết. Sau không thấy gì, họ trở về. Đến khi lại có tin Việt Cộng sẽ tấn công, tâm lý mọi người là nửa tin, nửa nghi. Ngày 8 tháng 3, đại tá tỉnh trưởng họp, cho biết tình hình nghiêm trọng, Cộng sản sẽ tấn công nhưng không biết ngày nào.”
Ban Mê Thuột vào tối ngày 9/3 như con nai còn thản nhiên nhấm búp non trên cành cây. Nghe tiếng động sột soạt ở gần, nai không biết có cọp dữ núp sau lùm cây sắp sửa nhảy ra vồ.
Từ một địa điểm trong rừng sâu cách Ban Mê Thuột mấy chục cây số, Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu đang nóng lòng ngồi chờ “giờ giao thừa,” (1) giờ nổ súng tiến đánh Ban Mê Thuột. Dũng là tổng tham mưu quân đội Bắc Việt được cử vào miền nam trước đó hơn một tháng để trực tiếp chỉ huy trận đánh Ban Mê Thuột, mở màn cuộc tấn công vùng cao nguyên trung phần.
Cuộc tấn công đã được quyết định dứt khoát vào ngày 9/1/1975 tại Hà Nội. Ý kiến đánh Ban Mê Thuột do Tướng Trần Văn Trà đề xướng, thúc đẩy và vận động, trong khi Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt dè dặt chưa muốn (2). Trà là tư lệnh chiến trường B2 bao gồm Nam Bộ và một phần của vùng II. Trước đó Bộ Chính Trị Bắc Việt trong một phiên họp 20 ngày từ 18/12/1974 tới 8/1/1975 đã chấp thuận kế hoạch chiến lược trong hai năm 1975-76, theo đó năm 1975 Cộng quân mở cuộc tấân công lớn và rộng khắp miền nam để tạo điều kiện mở cuộc tổng công kích vào năm 1976.(3) Sau khi phiên họp Bộ Chính Trị bế mạc, ban Thường Trực Quân Ủy Trung Ương họp bàn việc thi hành quyết nghị. Trà được sự tán đồng của Lê Đức Thọ, nhân vật quyền thế thứ hai sau Lê Duẩn. Khi Quân Ủy đang họp, Thọ tới dự, bảo “Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Ban Mê Thuột. Ta có gần năm sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được là thế nào”” (4)
Hà Nội chọn Tây Nguyên làm chiến trường chủ yếu, và Ban Mê Thuột làm điểm tấn công vì cho rằng chiếm được Ban Mê Thuột sẽ “tạo ra một thế trận hiểm và cơ động có thể làm thay đổi nhanh cục diện chiến trường” và “dẫn đến việc giải phóng miền Nam.” (5)
Ban Mê Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế và có vị trí chiến lược xung yếu ở vùng cao nguyên. Võ Nguyên Giáp, một chiến lược gia của Hà Nội đã từng nói chiếm được cao nguyên là kiểm soát được Đông Dương. Giáp ranh với Miên, Lào ở phía tây, vùng cao nguyên nối liền với duyên hải bằng quốc lộ 19 từ Pleiku đi Qui Nhơn, và quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột đi Ninh Hòa. Quốc lộ 14 bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam chạy xuyên cao nguyên qua những tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột xuống tới An Lộc và Tây Ninh. Vì vậy kiểm soát được Ban Mê Thuột là kiểm soát được những con đường ở phía tây đi xuống vùng Sài Gòn. Đã hai lần vào năm 1965 và năm 1972 Cộng quân đã tấn công mạnh ở cao nguyên, mưu toan tiến xuống duyên hải cắt Nam Việt Nam làm đôi.
Vùng cao nguyên này đất rộng, người thưa, nhiều rừng núi và Cộng quân đã dùng làm hành lang xâm nhập người và chiến cụ từ bắc vào nam. Để ngăn chặn những xâm nhập của Cộng quân, Mỹ Việt đã cho thiết lập nhiều căn cứ dọc theo biên giới. Những đoàn Dân Sự Chiến Đấu, trong đó hầu hết là người Thượng, đã được CIA và Biệt Kích Mỹ huấn luyện từ năm 1961. Vùng cao nguyên từng là nơi xảy ra nhiều cuộc giao tranh khốc liệt giữa Cộng quân và các lực lượng Việt Mỹ như trận đánh ở Ia Drang năm 1965 giữa bộ đội Bắc Việt và sư đoàn 1 Không Kỵ của Mỹ mới tới Việt Nam. Trong trận này Mỹ bị 305 người chết, cùng với hàng ngàn Cộng quân (6). Trận đánh dữ dội khác ở Dak To năm 1967 cũng gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên: 287 người Mỹ chết, 985 bị thương, cùng với 347 binh sĩ Nam Việt Nam thiệt mạng; phía Cộng quân 1.200 chết. (7)
Vùng cao nguyên vẫn thường được dự đoán là nơi Cộng quân nhắm vào mỗi khi mở cuộc tấn công lớn, nhưng đoán biết được điểm mà địch sẽ tấn công là điều không dễ.
Để thực hiện kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột, bộ tham mưu Hà Nội chọn phương châm “mạnh bạo, bí mật, bất ngờ và nghi binh rất nhiều.” (8)
Trong việc chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột, Cộng quân huy động tới năm sư đoàn và 15 trung đoàn thiết giáp, pháo binh, phòng không và công binh, với tổng số binh sĩ từ 75.000 đến 80.000.(9) Một phần lực lượng này được bố trí để bao vây, chia cắt và cô lập Ban Mê Thuột với các tỉnh lân cận và đồng bằng thuộc Quân Khu II, đồng thời chặn đánh quân tiếp viện đến giải tỏa cho Ban Mê Thuột. Quốc lộ 19 và quốc lộ 21 vì vậy bị Cộng quân cắt đứùt từ mấy ngày trước khi Ban Mê Thuột bị đánh.
Lực lượng quốc gia phòng thủ ở Ban Mê Thuột chỉ có Trung đoàn 53 thuộc sư đoàn 23, một liên đoàn Biệt Động Quân cùng những đơn vị cơ hữu của hậu cứ, và Địa Phương Quân, Nghĩa Quân.(10) Hai trung đoàn 44, 45 của sư đoàn được đưa đi tăng cường ở vùng Pleiku. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23, do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, chỉ huy cũng đã di chuyển lên đóng ở Hàm Rồng gần Pleiku. Tại Ban Mê Thuột chỉ còn bộ chỉ huy nhẹ của sư đoàn và do Đại Tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn, điều hành.
Cộng quân như vậy chiếm ưu thế cả về bộ binh, thiết giáp và trọng pháo trong trận đánh Ban Mê Thuột. Theo Văn Tiến Dũng, bộ binh Cộng quân gấp năm lần rưỡi, xe tăng và xe bọc thép gấp 1,2, pháo lớn gấp 2,1 (11)
Để bảo toàn bí mật, để trận đánh khởi tiến bất ngờ, Cộng quân tìm cách dấu kín lực lượng, bố trí kín đáo các đơn vị và tạo thế nghi binh, làm quân lực Việt Nam Cộng Hòa ước tính sai lầm hướng tấn công của đối phương. Làm như nhắm đánh vào Kontum và Pleiku, Văn Tiến Dũng cho gia tăng những cuộc quấy rối, pháo kích vào hai vùng đó, đánh chiếm đoạn đường trên quốc lộ 19 đi Qui Nhơn, và huy động dân đi làm đường, sửa đường ở vùng họ chiếm đóng. Dũng ra lệnh “đánh một la mười.” (12)
Trong lúc khoa trương khí thế ở phía bắc, Cộng quân âm thầm di chuyển quân xuống phía nam. Tình báo Mỹ cũng bị Cộng quân đánh lừa. Sư đoàn 320 của Bắc Việt kéo quân xuống vùng Ban Mê Thuột, nhưng vẫn để bộ tư lệnh giả ở vùng Đức Cơ gần Kontum và tiếp tục gửi các tín hiệu vô tuyến đi, làm ban kiểm báo của Mỹ và Việt đều tin là sư đoàn đó vẫn ở mạn bắc. (13)
Dũng có ý tập trung ba sư đoàn ở phía nam để bất ngờ đánh như “sét giáng” (14) vào Ban Mê Thuột..
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Khu 2, vẫn tin rằng mặt trận Kontum, Pleiku là mục tiêu chính của Cộng quân. Khi Cộng quân tấn công và pháo kích vùng Pleiku mấy ngày trước khi tấn công Ban Mê Thuột, Phú còn điều động trung đoàn 45 lên tăng viện cho Pleiku. Tướng Phú định xuống Ban Mê Thuột để xem xét tình hình hôm 8/3, nhưng sau lại hoãn chuyến đi. Cùng ngày đó, Cộng quân cô lập hẳn Ban Mê Thuột bằng cách cắt đứt nốt đường 14, đánh chiếm Thuần Mẫn ở phía bắc, Đức Lập và Dak Song ở phía nam. Chiều ngày 9/3 Tướng Phú mới đáp trực thăng xuống Ban Mê Thuột để họp bàn tình hình. Lúc ông rời đấy, thành phố đang là con mồi làm đích cho những đoàn Cộng quân sắp sửa xuất phát,
Khoảng 10 giờ tối Phúc cùng mấy sĩ quan còn ngồi ở quán cà phê nghe nhạc. Ngoài đường xe Quân Cảnh chạy qua khu thị tứ của Ban Mê Thuột để tìm kiếm quân nhân còn lai vãng ngoài doanh trại. Thấy mấy sĩ quan còn ở quán, quân cảnh đến chào và thông báo Ban Mê Thuột đã có lệnh báo động đỏ, các binh sĩ phải trở về ngay đơn vị, và Cộng quân có thể nổ súng bất cứ lúc nào. Phúc cùng đồng bạn vội nhảy lên xe Jeep, phóng ngay về Phụng Dực.
Phúc và đồng đội nhận lệnh bố phòng và phân chia vị trí phòng thủ. Phúc đốc thúc binh sĩ đào hố cá nhân. Đất cứng, trời lại tối, việc đào hố thật vất vả, lại phải làm gấp rút.
Đi kiểm soát và thanh sát ngoại vi phòng thủ, Phúc bắt gặp đường giây điện thoại dã chiến giăng mắc ở vài nơi. “Cộng quân như vậy đã ở xung quanh mình, có lẽ chỉ cách vài trăm thước. Chúng có thể thấy mình mà không nổ súng vì chưa có lệnh. Lúc ấy vào khoảng nửa đêm,” Phúc kể lại.
Đúng hai giờ sáng ngày 10/3 Cộng quân khai hỏa. Cuộc tấn công Ban Mê Thuột khởi đầu bằng những cuộc pháo kích “bão lửa,” đồng thời xe tăng, đại bác, cao xạ, bộ binh xuất quân, trong lúc những đội đặc công xâm nhập thành phố. Chiến xa địch ở cách Ban Mê Thuột 40 cây số lên đường, dùng phà vượt sông, tiến về Ban Mê Thuột. (15) Mấy mục tiêu chính lúc đầu là sân bay quân sự L19 ở trong thị xã, kho đạn Mai Hắc Đế, tiểu khu Darlac, tòa hành chánh tỉnh, bộ tư lệnh sư doàn 23, và hậu cứ của trung đoàn 53 sát phi trường Phụng Dực.
Tại phi trường L19 một trực thăng bay lên bị bắn rớt. Các máy bay khác bị tiêu hủy. Tại kho đạn đại úy chỉ huy bị nội công bắn chết khi vừa ở trong phòng bước ra.
Lúc Việt Cộng bắt đầu pháo kích, Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ đang ở tòa hành chánh tỉnh. Tòa tỉnh sau cũng bị pháo,Vỵ liền đưa gia đình, gồm vợ và sáu con nhỏ từ 2 đến 11 tuổi, ra khỏi tòa hành chánh, đến ở nhà một người dân ngoài phố, rồi quay trở lại tòa tỉnh. Sau đợt pháo, từ bốn giờ trở đi, Vỵ nghe có tiếng súng nhỏ ở mấy nơi xa xa. Vỵ ra thăm lại gia đình. Dọc đường Vỵ gặp mấy người Thượng chạy vào cho biết Việt Cộng đã kéo về đầy buôn của họ. Vỵ dặn gia đình nếu có bề gì thì trà trộn lẫn vào trong đám đông đồng bào.
Khoảng gần 7 giờ Vỵ chạy sang tiểu khu. Một trái đạn pháo của địch nổ cách Vỵ có mấy thước. Chiếc xe bị lật. Vỵ bị tung khỏi xe, lăn xuống đường. Lính đưa Vỵ vào trong tiểu khu và Vỵ liên lạc được với Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng.
Đến khoảng 9 giờ, tiểu khu cháy gần hết vì bị pháo, trừ khu truyền tin. Đại Tá Luật cùng Vỵ chạy sang bản doanh sư đoàn. Vừa ló ra khỏi tiểu khu, “thấy Việt Cộng đông như vịt,” Vỵ phải chạy trở lại tiểu khu và tòa hành chánh. Vỵ và một thiếu tá dùng súng bắn nhau với Việt Cộng. Mấy phút sau, một trái đạn pháo kích nổ cách chỗ hai người chừng năm sáu thước, Hai người thấy tình hình nguy hiểm, tìm lối rời bộ chỉ huy tiểu khu. Tiểâu khu lúc ấy không còn mấy ai. Hai người đến được bộ tư lệnh sư đoàn, lính canh không chịu mở cổng. Đại Tá Luật cũng tới nơi, phải xưng danh, sau đấy Đại Tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn phải ra nhận diện rồi cho lệnh, lính mới mở cửa.” Vỵ vào được bộ tư lệnh khoảng 11 giờ rưỡi.
Bộ tư lệnh sư đoàn đến lúc này vẫn chưa bị tấn công và vẫn tiếp tục liên lạc với sư đoàn, quân đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Qua máy truyền tin, Thiếu Tá Hy, trưởng phòng 3, còn báo cáo đã diệt được 12, 13 xe tăng của địch. Bộ tư lệnh cho rằng sớm muộn Cộng quân sẽ cho xe tăng đến tấn công, nên đã bố trí sẵn bốn khẩu súng bắn chiến xa 57 ly ở cổng chính và đặt chiến xa ở vòng ngoài. Ban Mê Thuột cũng xin Không Quân đến oanh kích những địa điểm tập trung của Cộng quân, và yểm trợ bộ binh để đánh lui các cuộc tấn công của địch.

Đêm đó, tình hình lắng đọng, “một thứ yên lặng ghê sợ,” theo lời Phó Tỉnh Vỵ. Mọi người đều hồi hộp chờ đợi cuộc tấn công nữa của Cộng quân. Lúc này Vỵ thấy đói. Lương thực cũng như đạn dược lại nằm ở ngoài vòng đai của Bộ Tư Lệnh.
Sáng ngày 11, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 phấn khởi khi được tin có những phi vụ bạn đến oanh kích Cộng quân. Máy bay tới liền bị súng phòng không địch bắn lên dữ dội. Phi cơ bay tít trên cao và thông báo không thấy rõ mục tiêu oanh kích. Ban Mê Thuột được biết nửa giờ sau sẽ có phi vụ khác.
“Lúc 7 giờ 5 phút, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 bị trúng ngay trái bom của phi cơ thả xuống. Máy truyền tin bị tê liệt, không liên lạc được với bên ngoài. Mọi người hoang mang, mất tinh thần, lo chạy ra khỏi hầm. Vừa lúc đó, một trái bom khác nổ, làm sập cửa hầm, bít kín mất lối ra. Ai nấy sợ hãi, tuyệt vọng, mò mẫm trong đường hầm tối thui để tìm lối thoát. Có người dẫm cả vào thương binh. Moi móc gạch vụn mất 15 phút sau mới tìm thấy lỗ để chui ra. Mới ngoi lên khỏi hầm thì thấy xe tăng Cộng quân ở phía xa. Dãy nhà tôn ở gần đấy đã bay mất mái có lẽ vì sức ép của hai trái bom. Lính cũng chạy ra theo Đại Tá Luật. Đại Tá Quang đứng ở trên, một tay cầm khẩu Colt, tay kia chống nạng sườn, hỏi ‘Đại Tá Luật đâu” PC (bộ chỉ huy) sập, phải tái lập.'”(16)
Đại Tá Quang chỉ lối chạy sang khu thiết giáp nằm khuất sau bệnh viện. Một số lính chạy theo. Khu thiết giáp còn hơn chục chiếc thiết vận xa M113 và một số lính. Thấy không thể ra lối trước vì sẽ đụng đầu với xe tăng của địch, Đại Tá Quang ra lệnh cho thiết giáp cán lên hàng rào kẽm gai ở phía sau mà đi.
Toán quân có chừng 200 người thoát xuống được thung lũng, đến suối Đốc Học là chỗ khuấât và hơi kín. Suối lúc này cạn vì là mùa khô. Tưởng là thoát nguy, nhưng rồi thấy Việt Cộng ở cách đó không xa. Lính được dàn ra, bố trí, mai phục sẵn. Đại Tá Quang định tử thủ tại đấy, nhưng Đại Tá Luật cho chỗ đó trống trải quá. Hai người bàn cách đến trung tâm huấn luyện binh sĩ của sư đoàn để từ đấy bắt liên lạc lại với các đơn vị. Trung tâm này lại nằm phía bên kia thị xã Ban Mê Thuột. Muốn đến đó, phải theo đường đi qua thị xã, hoặc băng rừng vòng quanh thị xã. Đại Tá Quang, từng ở Nhảy Dù, muốn liều dẫn quân xâm nhập qua thành phố vào lúc đêm tối để tới trung tâm. Ông cho rằng Cộng quân có thể chưa kịp nắm vững tình thế ở thị xã đêm đó. Đại Tá Luật thấy lối đó táo bạo và nguy hiểm, muốn đi đường vòng qua rừng để đến trung tâm. Bàn luận một hồi, hai ông quyết định phân tán, cho lính muốn theo ai thì chọn. Có chừng 50 người theo Đại Tá Luật. Số còn lại theo Đại Tá Quang. Hai toán chia tay nhau vào khoảng 11 giờ.
Vỵ là phó tỉnh nên theo Đại Tá Luật, tỉnh trưởng. Toán này lội bộ đến Buôn Ky gần đồn điền cà phê của cựu Trung Tướng Thái Quang Hoàng. Đi một lúc, Đại Tá Luật bảo mình đi lạc xa mục tiêu cả bảy cây số. Vừa vượt qua một ngọn đồi trọc, toán quân thấy xe tăng của Cộng quân. Cộng quân cũng nhìn thấy họ.
“Xe tăng quạt mấy loạt liên thanh. Đoàn người chạy trở lại phía sau đồi. Chạy mới được 10 thước, Đại Tá Luật té đánh bịch. Mọi người lo chạy cho lẹ. Cố theo nhau mà chạy. Lúc chạy trốn, mình không sợ chết, mà chỉ sợ lạc. Chạy được ba bốn cây số, sang tới một đồi khác, toán của Vỵ chỉ còn một thiếu tá, một đại úy và một trung úy. Ai nấy quần áo tơi tả, rách bươm. Có người chỉ còn may ô, quần đùi,” Vỵ kể lại.
Áo của Vỵ rách nát vì vướng cành cây, bụi rậm. Lẩn vào khu trồng cà phê, Vỵ tựa người vào gốc cây. Vừa đói, vừa mệt, Vỵ ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Vỵ chỉ giật mình thức dậy khi nghe nói “Chúng mày ngụy!” Vỵ mở mắt, thấy mấy mũi súng đang chĩa vào mình. Mấy thanh niên mặt trẻ măng nhìn chằm chặp vào Vỵ. Rồi chúng xông vào trói Vỵ, giải đi.
Ba ngày sau được đến chỗ mới, Vỵ gặp lại Đại Tá Luật bị giam cùng một chổ. Đại Tá Quang bị Việt Cộng bắt ở một địa điểm khác.
Được tin Ban Mê Thuột bị tấn công, Quân Đoàn II điều động lực lượng của sư đoàn 23 ở Pleiku về tiếp cứu. Bộ Tư Lệnh lúc đó đang ở Hàm Rồng. Binh sĩ sư đoàn rất nóng lòng về cứu Ban Mê Thuột vì nhiều người có gia đình tại thành phố hậu cứ của sư đoàn. Cả lính kèn cũng tình nguyện về, theo lời Trung Úy Trần Hùng thuộc phòng 3 của sư đoàn. Vì phải đợi có trực thăng, quân tiếp viện mãi hai ngày sau mới được đưa về Phước An, cách Ban Mê Thuột chừng 30 cây số về phía đông. Trên đường vào giải vây cho Ban Mê Thuột, quân tiếp viện mới đi chừng 10 cây số thì bị chặn đánh, tiến không nổi vì địch có chiến xa. Theo Philip B. Davidson, binh sĩ khi về đến Phước An lo đi tìm kiếm vợ con, và khi gặp vợ con thì bỏ hàng ngũ đưa gia đình đi. (16)
Những cơ sở đầu não ở Ban Mê Thuột bị đánh chiếm trong hai ngày đầu Việt Cộng tấn công vào thành phố. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì chiến trận còn tiếp diễn ở khu gần phi trường nằm phía ngoài thị xã. Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến là một đại đội chừng 70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn luyện đặc biệt và quyết tâm hăng say chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê Thuột ngay từ ngày đầu, và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là đại đội thám báo mà Thiếu Uý Nguyển Công Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và thiếu thốn súng đạn, lương thực. Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn chống trả lại những đợt tấn công mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa độ hướng dẫn pháo binh bạn bắn vào những vị trí địch.
Một trong những yếu tố để đại đội đạt được thành tích trên và tồn tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Ban Mê Thuột là Cộng quân không biết vị trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại đội. Cộng quân khi tấn công Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì không biết có đại đội thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy bay ở phi trường và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội mới nhận vị trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ bị phát hiện.
Trong những giờ đầu của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt trận qua máy truyền tin. Được trang bị hệ thống truyền tin tối tân hơn những đơn vị bộ binh thông thường khác, đại đội thám báo có thể liên lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả với mấy đơn vị theo hàng ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Nhờ vậy Phúc biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến. Trong đêm tối, giữa những tiếng gầm thét và những tia chớp lóe sáng của đạn pháo kích, Phúc nghe qua âm thanh hỗn loạn của máy truyền tin tiếng những đơn vị bạn gọi nhau ơi ới, báo cáo tình hình, yêu cầu bắn yểm trợ hoặc điều quân tiếp cứu.
Trung Đoàn 53 đêm đầu bị pháo kích mạnh. Đến 5 giờ sáng căn cứ bị địch tấn công từ hai phía đông bắc và đông nam. Địch chiếm được một phần căn cứ. Vào khoảng 8 giờ, quân trú phòng phản công, Cộng quân bị đánh dạt sang một bên. Một cánh quân Việt cộng đã chạy về phía tây nam qua khu đất trống của phi trường. Họ trở thành “những con mồi, những mục tiêu bắn bia,” theo lời Phúc, cho những tay súng thám báo nằm phục sẵn ở bìa rừng cao su gần phi đạo.
Thu dọn chiến trường vào buổi chiều, đại đội thám báo đếm được trên 40 xác Việt Cộng bỏ lại, cùng với hơn 100 nón cối, tịch thu một số vũ khí, đạn được và quân trang, trong đó có năm hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Một số súng đạn này sau được dùng để bắn lại Cộng quân trong mấy ngày sau.
Cuốn nhật ký tịch thu trên người một đại đội trưởng Việt Cộng cho biết anh ta thuộc tiểu đoàn K5 của sư đoàn 316 từ Bắc Việt xâm nhập. Đây là một sư đoàn cơ giới trên đường xâm nhập vào Nam đã sử dụng trên 500 chiếc xe lớn để chuyên chở binh lính, trong đó có cả chiến xa, xe bọc thép, đại bác tầm xa, cao xạ và những loại xe vận tải khác. (17) Nhiều xác lính Việt Cộng còn mang theo những khẩu hiệu “Mình Đồng, Vai Sắt.” “Ăn No, Đánh Thắng” “Bí Mật, Bất Ngờ.”
Hăng say với thắng lợi ngày đầu, Phúc và binh sĩ thám báo hôm sau càng thêm mừng rỡ, phấn khởi hơn nữa khi hay tin quân tiếp viện được đưa về giải vây cho Ban Mê Thuột. Trung Đoàn 44 được gửi tới gần Buôn Hồ ngày 11/3. Ngày hôm sau Trung Đoàn 45, là trung đoàn gốc của đại đội, được trực thăng vận xuống Phước An.
Nhưng niềm phấn khởi đó bị xẹp mau, khi được biết tiểu khu Darlac bị mất, bộ tư lệnh sư đoàn 23 bị chiếm, rồi quân tiếp viện không vô nổi và đã bỏ chạy lúc đụng đầu với xe tăng Việt Cộng.
Binh sĩ thám báo cũng thấy nao núng, mất bình tĩnh khi thấy trực thăng tản thương bị bắn rơi, thương binh không được di tản. Họ cũng tiếc xót nhìn những dù tiếp tế không rơi xuống phần đất của mình, mà nằm vật vờ trên mặt đất trống giữa mình với địch. Bên nào mon men định ra kéo dù vào liền bị bên kia bắn chặn. Những dù đó nằm suốt ngày ngoài nắng, chờ đêm tối mới có người liều lĩnh ra kéo.
Trong những ngày chiến đấu kế tiếp với Việt Cộng, Phúc và đồng đội còn trải qua nhiều nguy hiểm, gian lao, khổ cực. Không có đủ lương thực và súng đạn, họ phải dùng súng đạn và lương thực tịch thu được của Việt Cộng. “Lương khô của chúng được ép thành miếng như bánh đậu xanh. Ăn vào khát nước muốn chết. Anh em phải xuống con suối ở cạnh ngọn đồi cuối phi đạo để lấy nước. Quân mình đã dặn nhau đi lấy nước cũng phải mang súng theo. Thấy tên nào lấy nước mà không có súng, thì đó là địch, được quyền bắn.
“Đánh nhau, quần áo bị rách nát hết. Phải lấy quần áo tịch thu được trong túi đeo lưng của xác Việt Cộng. Mấy anh em mặc đồ Việt Cộng và dùng súng Việt Cộng đi đánh nhau, nên có lúc bị binh sĩ Trung Đoàn 53 tưởng là Việt Cộng, bắn chối chết. Mình phải la lên trong máy, họ mới thôi,” Phúc nhớ lại.
Trong cả tuần lễ liên tiếp giao tranh và bị địch pháo kích, Phúc và đồng đội mệt mỏi vì thiếu ăn thiếu ngủ. Phúc nói: “Đêm không được chợp mắt. Phải lo bố phòng, sợ địch xâm nhập. Sáng ra, chia nhau thành toán nhỏ, đi đánh giải tỏa vòng vây. Đánh theo kiểu những toán trinh sát, nhảy dù, di động luôn để giải tỏa áp lực, rồi tránh né, rút lẹ, chứ không theo kiểu dàn trận của tiểu đoàn bộ binh. Vì vậy địch không biết đơn vị có bao nhiêu người, không biết chiến tuyến chỗ nào. Lúc không đánh nhau thì núp trong hố cá nhân để địch không nhìn thấy. Hố được đào khoét trong những ụ đất có sẵn để bảo vệ máy bay. Cao bốn năm thước, bề dày hai ba thước, những ụ đất này là nơi ẩn nấp tốt cho mình và đồng đội.
“Vừa đói khát, lại không được nghỉ ngơi, anh em mệt mỏi cả thể chất lẫn tinh thần. Đầu óc căng thẳng, hồi hộp khi nhìn thấy đồng đội bị bắn banh xác, người bị thương kêu la rên rỉ, thật như sống trong cảnh địa ngục. Lúc chưa vào cuộc thì sợ, nhưng khi ở trong cuộc rồi, mất sợ hết trơn. Anh em giữ được tinh thần cũng nhờ kỷ luật nghiêm khắc. Tới lúc đó, bất tuân lệnh là có quyền bắn bỏ.”
“Đêm ngày 16/3, Việt Cộng pháo tàn bạo như địa chấn. Thám báo liên lạc với trung đoàn. Gọi trung đoàn mãi, không có trả lời. Chỉ có im lặng. Mình cảm thấy nỗi cô đơn ghê sợ. Cô đơn và tuyệt vọng. Đau đớn và chán chường. Muốn khóc. Muốn nổi khùng. Thế là hết. Thì ra họ đã rút chạy.
“Chỉ còn mấy chục anh em ở lại, lọt giữa lực lượng đông đảo của địch. Mình liên lạc được với quân đoàn, xin cho máy bay đến oanh kích địch sáng hôm sau để anh em mở đường máu chạy thoát. Quân đoàn đồng ý.
“Gần sáng Việt Cộng cho xe tăng tấn công căn cứ Trung Đoàn 53. Bộ binh Cộng quân theo xe tăng vào chiếm căn cứ. Chiếm xong, Cộng quân chuẩn bị tiến sang phía phi trường thanh toán nốt những ổ cuối cùng còn sót lại của đại đội thám báo. Đúng lúc Cộng quân đang tập trung quân, phi cơ được thám báo hướng dẫn đến dội bom xuống đầu địch. Nhờ những trái bom thả đúng lúc, chặn đứng đà tiến của xe tăng và quân địch, đại đội thám báo còn lại hơn năm chục người rút chạy, lẩn vào khu rừng cao su.
“Thoát khỏi trận chiến, đoàn thám báo lúc này tơi tả, hốc hác và kiệt sức mà vẫn phải cố lết đi, tìm đường xuống phía nam nhắm hướng về Đà Lạt. Đến gần chi khu Lạc Thiện, một quận thuộc tỉnh Darlac, đám quân còn chừng 30 người mừng rỡ bắt được liên lạc vô tuyến với chi khu. Họ vui sướng tìm mau chỗ nghỉ chân sau những ngày sống sát thần chết. Chi khu yêu cầu cho biết chỗ đang ở.
“Ít phút sau, đạn pháo rơi ào ào xuống toán thám báo còn đang nằm lăn ra nghỉ. Rồi địch nổ súng tấn công. Lại chạy tứ tán. Người chết, người bị thương.”(18)
Phúc chỉ còn 15 người chạy theo được. Thấy đường đi về phía Đà Lạt không thành, Phúc tìm đường đi về hướng đông, hy vọng tới những tỉnh vùng duyên hải. Qua một hai ngày băng rừng, vặt lá đào cây để ăn, nhóm của Phúc lại lọt vào một ổ phục kích của Cộng quân. Phúc và một y tá thoát ra khỏi ổ phục kích, nhưng rồi rút cục cũng bị bắt lúc đang vục mặt xuống vũng nước để uống. Hôm đó là ngày 22/3.
Sau này vào trại cải tạo, Phúc gặp một sĩ quan ở chi khu Lạc Thiện, liền trách cứ vụ bị pháo kích. Sĩ quan cho biết Cộng quân đã chiếm Lạc Thiện từ mấy ngày trước và vẫn dùng tần số cũ để liên lạc với những toán quân khác của quân đội Cộng Hòa. Lúc ấy Phúc mới biết mình mắc bẫy khi tiết lộ tọa độ đóng quân.

Vũ Thụy Hoàng

________________________________________________________________
Chú Thích
1. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 79
2. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 758-762
3. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 35
4. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 37
5. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 44-45
6. Moore, Harold G. & Galloway, Josepht L., We were Soldiers Once…and Young, trang xvi
7. Tucker, Spencer C., Vietnam, trang 135
8. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 37
9. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 768
10. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 770
11. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 57
12. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 69
13. Snepp, Frank , Decent Interval, trang 171
14. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 52, 91
15. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 81
16. Nguyễn Ngọc Vỵ, nói chuyện ngày 5/1/1980 và 1999
17. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 773; Hosmer, Stephen & Kellen, Konrad & Jenkins, Brian M., The Fall of Vietnam, trang 85.
18. Nguyễn Công Phúc, nói chuyện năm 1978 và 1999.

Visits: 1588

Nhắn Kẻ Trở Cờ

Trần Văn Lương

thangtuden

Hỡi người bạn trở cờ theo lũ giặc
Đang nắm quyền sinh sát ở quê tôi,
Đừng chỉ vì chút canh cặn cơm ôi,
Mà thay chúng nói rặt lời dối trá.

Chúng luôn mồm ra rả,
Đánh lừa thiên hạ khắp nơi.
Và chẳng may, đâu đâu cũng có người,
Vẫn nhẹ dạ tin trò chơi bịp bợm.

Này bạn hỡi, đừng đem lời chúng mớm,
Để qua đây luôn sớm tối kêu gào.
Bạn giết người mà chẳng dụng gươm dao,
Khi theo chúng rêu rao điều gian dối.

Đừng dẫn chứng đám cò mồi múa rối,
Bọn thầy tu giả mạo mới ra lò,
Rồi phùng mang trợn mắt hót líu lo,
Rằng đất nước có tự do tôn giáo.

Chúng tóm kẻ chức quyền cao trong đạo,
Cho xênh xang áo mão để reo hò,
Để thổi phồng chiếc bánh vẽ "xin cho",
Hoặc trình diễn lắm trò hề tương tự.

Chúng bắt chẹt tình cảm người xa xứ,
Dụ họ về bằng hai chữ "quê hương",
Bằng những câu giả dối ngọt như đường,
Bằng hình ảnh của "vườn" kia "trái" nọ.

Rồi hốt trọn bầy "cá hồi" vô rọ,
Vắt cạn tiền, xong vất bỏ thẳng tay.
Chuyện sờ sờ trước mắt chẳng chịu hay,
Sao bạn vẫn luôn cối chày ngụy biện?

Đừng núp bóng dưới chiêu bài "từ thiện",
Miệng oang oang toàn nói chuyện thương người,
Nhưng thực ra là về để ăn chơi,
Cùng đóng kịch mong được đời ca ngợi.

Đừng lợi dụng chuyện thiên tai lụt lội,
Để làm giàu trên nỗi khổ của dân.
Thiên hạ ai cũng biết rõ trăm phần,
Mà sao bạn vẫn trần thân lải nhải?

Đừng ong óng toàn những câu nhai lại,
Nào " giao lưu", nào "hòa giải", "thứ tha".
Sao bạn không dám bảo bọn tà ma,
Ngưng bách hại người sa cơ thất thế?

Đừng trâng tráo nói "không làm chính trị",
Khi chính mình xin tỵ nạn nơi đây,
Khóc sụt sùi khai với Mỹ, với Tây,
Vì sao phải đắng cay rời quê cũ.

                         *****

Thân nhược tiểu, mong manh quyền tự chủ,
Bị "đồng minh" bán cho lũ sài lang.
Nên chúng tôi phải đau đớn tan hàng,
Chua xót đứng nhìn giang san tơi tả.

Vì lương thiện, chúng tôi đà trả giá,
Bằng khăn tang của cả triệu người thân,
Bằng những dòng lệ ngập mắt cá chân,
Bằng sinh mạng ngàn quân dân cán chính.

Vì tưởng chúng còn mảy may nhân tính,
Nên bao người đã dính phải tai ương,
Kẻ bỏ mình trong núi thẳm mù sương,
Kẻ giũ kiếp giữa trùng dương sóng gió.

Cũng vì bởi những người như bạn đó,
Mà quê ta, giặc đỏ vẫn cầm quyền,
Sống giàu sang, phung phí những đồng tiền
Từ xa trút liên miên về chốn cũ.

Bạn hỡi bạn, sao đang tâm hưởng thụ,
Trên vết thương đầy máu mủ dân mình,
A tòng theo bọn bán nước cầu vinh,
Để tiếp tục làm điêu linh đất tổ.

Dân tộc Việt chỉ hoàn toàn hết khổ,
Khi lũ này không còn chỗ dung thân,
Khi Cờ Vàng phất phới giữa trời xuân
Theo nhịp bước đoàn quân Nam anh dũng.

                         *****

Bốn mươi mấy năm từ khi buông súng,
Quá khứ buồn giờ chắc cũng phôi pha.
Bao triệu người, còn mấy kẻ xót xa,
Khi nhớ đến một quê nhà đã mất.

Trần Văn Lương (CH 8)
Cali, đầu mùa Quốc Hận,
4/2016

thang tu den 3

Visits: 363

Còn Gì Để Lại

Nguyễn Quang Dũng

congidelai-nnb-image

 1.  Những tấm hình gần nhất trước ngày D…

Ngày chủ nhật 7 tháng 2, 2016 tôi gặp Thầy Nguyễn Ngọc Bích và Cô Đào Thị Hợi tại Chợ Tết Cộng Đồng Người Việt Vùng Hoa Thịnh Đốn. (Tôi gọi GS Nguyễn Ngọc Bích là Thầy vì Thầy Bích có thời gian giảng dạy ở Đại Học George Mason, Virginia:  Thầy phụ trách giảng dạy  lớp  Truyện Kiều, bằng tiếng Việt, tiếng của người mình).  Thầy Bích đang lui hui bày những cuốn sách của Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ trên bàn. Tôi đến chào Thầy và lấy xuống xem một cuốn sách sử ký của sử gia Lê Mạnh Hùng mà Thầy trưng bày ở chổ cao nhất trên giá đựng sách. Chắc Thầy nghĩ tôi chỉ đến xem cho vui, hay mua một cuốn “ủng hộ” gian hàng sách của  Thầy. Nhưng khi tôi thưa với thầy là tôi muốn mua trọn bộ 5 quyển “Nhìn Lại Sử Việt”  thì Thầy vui lắm. Thầy nói với tôi: “Lẽ ra trọn bộ giá $133, nhưng tôi sẽ “discount” cho anh và chỉ lấy $100”. Thầy cho 5 cuốn sách vào túi nylon xong thì tôi xin chụp Thầy và Cô một tấm hình kỷ niệm dưới đây:

DSC01095

Ngày thứ hai 8 tháng hai, 2016, mồng một Tết Bính Thân, tôi gặp lại Thầy Bích trong bộ quốc phục cổ truyền , áo dài, khăn đóng, với khăn quàng cổ màu vàng  ba sọc đỏ. Thầy cười vui trong buổi lễ Chào Cờ đầu năm mới  Bính Thân 2016 do Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức. Tôi đang đứng cạnh anh Nguyễn Kim Hương Hỏa, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông nên mời Thầy chụp chung một tấm hình với anh Hương Hỏa.  Thầy và Hội Hành Chánh vốn thân thiết với nhau đã lâu, năm nào Thầy Bích và Cô Hợi cũng là khách mời danh dự của buổi tiệc Hội Ngộ Tân Niên Quốc Gia Hành Chánh  đầu năm dương lịch.

DSC01309

Trong tấm hình tôi chụp hôm đó, Thầy Bích cười, tươi tắn.  Và sau này tôi nhận ra trên nhiều tấm hình chụp, Thầy lúc nào cũng có nụ cười hiền hòa cố hữu đó.

Ngày thứ bảy 20 tháng hai, 2016. Hội Người Việt Cao Niên vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức Lễ Tổ tiên và Chúc Thọ năm Bính Thân 2016. Buổi tối thứ sáu, tôi lo trình bày, in và chuẩn bị nhiều khung hình chúc thọ cho các vị Hội viên cao niên với tuổi thọ từ 70, 80, 90 đến 100. Ở xứ Hoa Kỳ này, tôi thấy các “cụ” 70 hay 80 của Hội Cao Niên vùng này rất mạnh khỏe và năng động. Bảy mươi như anh chị phóng viên Đào Hiếu Thảo thì không thể gọi là người “già” mà phải gọi là người trẻ của Hội Cao Niên. Tôi biết rất nhiều vị trên 70 từ chối gia nhập Hội “Cao Niên” chỉ vì họ nghĩ là họ chưa …già. Cho nên trên bản tin Cao niên tháng hai, 2016 tôi không “dám “ gọi các cụ 80 mà dùng chữ “quý vị 80”. Quả vậy, trong số các “cụ” 80  Hội Cao Niên chúc thọ năm nay, có GS Kim Oanh,  Bà Tuyết Ngọc…những vị cao niên năng động  này không thể gọi là người già được. Tôi  có thấy tên GS Nguyễn Ngọc  Bích trong số các “cụ” 80 (tính theo tuổi ta). Tôi nghĩ đến  Thầy Bích và nụ cười của Thầy trong Lễ Chúc Thọ vào ngày mai.congidelai-nnb-chuctho80

Tiếc thay thứ bảy hôm sau đó, Thầy và Cô Hợi bận lễ chùa nên đến trễ;  Lễ Tổ Tiên và Chúc Thọ đã xong, Nhưng Thầy cũng tham dự Lễ mừng sinh nhật chung, Thầy tham gia sinh hoạt văn nghệ. Anh Nguyễn Văn Đặng chụp tấm hình dưới đây, lúc Thầy Bích đang hát:

DSC01310

Ngày 2 tháng 3, 2016, giờ Hoa Thịnh Đốn,  sáng vào mở email từ anh Bùi Mạnh Hùng, tôi biết tin Thầy Nguyễn Ngọc Bích mất trên chuyến bay đến Manila, Phi Luật Tân dự Hội nghị về Biển Đông.  Trên vùng trời cách không xa lắm quê hương Việt Nam yêu dấu, lúc đó là ngày 3 tháng 3,  Thầy Bích bị nghẽn mạch máu cơ tim.  Theo lời Cô Hợi kể lại: Thầy nói với Cô Hợi là Thầy mệt lắm chưa bao giờ mệt như vậy. Và chỉ như vậy, Thầy đi.

Tin Thầy Bích mất làm tôi lặng người.  Mới vừa đây, hai tuần trước, Thầy còn đó.

Sống và Chết, quả tình chỉ cách nhau một hơi thở – tôi còn nhớ nhiều Phật tử thường hay nhắc nhau câu nói này. Từ lâu,  tôi cũng như nhiều người khác thường hay nghĩ rằng đời sống của mình hãy còn ngày rộng tháng dài. Rằng  mình – mới 60, 70 hay dầu đã 80- vẫn còn khỏe. Cái chết  là chuyện xa vời, không ai màng nghĩ  đến. Trong lúc,  thực ra, nỗi chết rình rập mọi lúc, mọi nơi và không kể trẻ hay già.

Sáng nay, tôi phải tự nhắc để tôi nhớ,  đừng quên, không được quên điều này: Chuyện gì làm được,  đừng chờ đến ngày D. vì đến lúc đó có hối tiếc thì mọi sự đã muộn màng.

Ngày Đi hay viết tắt là ngày D, chữ tôi dùng cho ngày chết, hay nói cho có vẻ văn chương chữ nghĩa hơn – ngày vĩnh biệt cõi đời, là cái ngày mà tôi và vài ông bạn già rất thân thiết – như  Cụ Hà Bỉnh Trung (đã đi) hay anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao (đã trên 70, vẫn còn nhất định chưa chịu nhận là mình già) -vẫn thường cười cười nói với nhau khi có dịp gặp mặt: “ Đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng, khi nào có “vé” là lập tức  lên đường “. Anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao còn chu đáo hơn nữa, anh sáng tác rất nhiều thơ lục bát về Phật giáo, in thành sách hơn mấy chục tập và biếu không đến người đọc. Anh nói, tôi làm vậy là để có “quỹ” mua vé trước nên tôi biết tôi sẽ “đi” về đâu.

2. Cơ Hội Không Còn…

Tôi vẫn tự trách tôi hoài, về cái tính lần lửa không kết thúc nhiều việc, nhiều chuyện có thể kết thúc được. Việc tôi tự trách tôi lần này khi biết tin Thầy Bích vĩnh viễn vắng bóng liên quan đến công việc tôi đang góp tay với Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn và Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền Đông Hoa Kỳ. Tôi thiết kế hay nói nôm na là “dựng lên” hai cái website ( tiếng Việt mình chưa có nhiều chữ diễn tả cho đúng quá nhiều thuật ngữ kỹ thuật của thế kỷ 21 nên tạm thời có nhiều chỗ tôi phải để nguyên chữ tiếng Anh ở đây.) Ở hai website này, ban chủ trương vẫn mong thực hiện được việc chia sẻ đến người đọc khắp nơi những tin tức, kiến thức, kinh nghiệm hay sáng tác từ những người viết tài tử hay chuyên nghiệp với điều kiện là những bài viết này là những bài viết nguyên thủy từ những người viết mà ban biên tập website biết được tác giả là ai. Nói khác đi, những người trong ban chủ trương muốn thực hiện một  website không cóp nhặt, sao chép tùy tiện.

Tháng trước, tôi có đọc mấy bài viết của Thầy Nguyễn Ngọc Bích, ký tên dưới bút hiệu Tâm Việt.  Và tôi vẫn thường hay gặp Thầy trong những buổi hội hàng tháng của Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn, mà Thầy Bích là Phó Hội Trưởng Ngoại Vụ của Hội. Tôi tự nhủ không có cơ hội nào tốt hơn nữa là gặp Thầy vào phiên hội đầu tháng tới; mời Thầy tham gia, giúp tay, và sau đó được phép chuyển tải các bài viết của Thầy lên  website caoniendc.com hay website quocgiahanhchanhmd.com và thử bàn với thầy về một hướng hợp tác giữa  nhà in của tôi và  Tổ hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ do Thầy chủ trương, nhất là tìm một giải pháp mới cho tình trạng bế tắc về việc phát hành sách báo tiếng Việt tại hải ngoại.

Vậy mà tất cả các dự trù, cơ hội và cái “lợi thế” thiên thời, địa lợi và nhân hòa để có sự hợp tác và giúp tay của Thầy Bích với Hội Cao Niên và Hội Hành Chánh về mặt báo chí và website bỗng nhiên tan biến trong chớp mắt.

Lúc đọc lại  tiểu sử của Thầy Bích về những trách vụ Thầy từng đảm trách lúc sinh tiền, tôi chợt nhớ ra rằng tôi đang đứng trước một  Thái Sơn của làng thông tin báo chí.

Từ 1971 đến 1975, Thầy Nguyễn Ngọc Bích từng là Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại thuộc Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi, Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã, sáng lập viên Viện Đại Học Cửu Long và là sứ giả đặc trách của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu trong cuộc vận động sau cùng với Quốc Hội Hoa Kỳ về viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam.

Năm 1975, Thầy Bích trở lại Hoa Kỳ, quê hương thứ hai của Thầy, từ đó mở ra  chuỗi dài của những hoạt động không ngưng nghỉ trong đủ mọi lĩnh vực  xã hội, chính trị, giáo dục, nhân quyền, dịch thuật, biên khảo, bảo tồn văn hóa Việt ở xứ người. Thầy Bích đã từng nắm giữ những trách vụ cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ như Phó và sau đó Quyền Giám đốc Office of Bilingual Education and Minority Languages Affairs thuộc Bộ Giáo Dục Liên Bang dưới thời Tổng Thống George W. Bush, Giám Đốc Ban Việt Ngữ  Đài Á Châu Tự Do (RFA)  từ  năm 1997 đến 2003.

3. Còn Gì Để Lại …

Quan trọng hơn hết là tinh thần dấn thân của Thầy Nguyễn Ngọc Bích trong rất nhiều công việc liên quan đến cộng đồng Người Việt hải ngoại và những công cuộc đấu tranh hướng về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và tiến bộ.  Người khen, kẻ chê Thầy cũng nhiều, nhưng không ai có thể phủ nhận được tấm lòng và tinh thần làm việc hướng về lợi ích chung cho cộng đồng người Việt của Thầy.

Dấn thân và phục vụ là hai nhân tố căn bản và trọng yếu nhất thể hiện trong đời sống của Thầy Bích. Cũng có thể vì cái gì Thầy cũng muốn làm, chỗ nào Thầy cũng tình nguyện, cho nên những công việc và mục tiêu Thầy theo đuổi cũng trải rộng và do vậy khó lòng nhìn thấy hay lượng định hết những thành tựu hay kết quả đạt tới. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người trong cộng đồng người Việt Hải ngoại đến tuổi 80 còn có được khả năng, sức làm việc và tinh thần hoạt động không ngừng nghỉ cho cộng đồng người Việt như Thầy Bích?

Đối với tôi, Thầy Bích lúc nào vẫn là một người Việt Nam khả kính, đa năng  và đáng quý. Thầy Bích dạy tôi được một bài học căn bản xuyên suốt qua đời sống phục vụ của Thầy cho đến hơi thở cuối cùng  là: Hãy sống bằng trái tim Việt Nam với tất cả tấm lòng dâng hiến.

Xin cảm ơn và vĩnh biệt Thầy Nguyễn Ngọc Bích.

Nguyễn Quang Dũng  (ĐS22)
VA Tháng 3/2016

(Xin bấm vào hình để xem hình ảnh tang lễ GS Nguyễn Ngọc Bích do Phóng Viên Quân Đội Trần Bửu Khánh ghi lại)

 nnb-phuco-web

Visits: 311