Thăm Lại Chiến Trường Xưa

Thơ Trần Văn Lương

 

Dạo:

Xưa tuôn máu giữa chiến trường,

Nay tuôn lệ giữa quê hương không còn.

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

 

Từng bước lẻ ngập ngừng theo tiếng nạng,

Nắng xoay chiều, chập choạng bóng thương binh.

Đích viếng thăm bỗng xuất hiện thình lình,

Người chưng hửng, tưởng rằng mình hoa mắt.

     

Sửng sốt nhìn quanh quất,

Tự hỏi mình có thật đến đúng nơi,

Xưa kia đã một thời,

Mình chấp nhận xương rơi cùng máu đổ?

 

Mấy mươi năm gian khổ,

Lất lây kiếm sống ở đô thành,

Cố chắt bóp để dành,

Làm một cuộc du hành thăm chốn cũ.

     

Muốn tìm tới chỗ mình từng tử thủ,

Cùng bạn bè chống lại lũ Cộng quân,

Để giữ gìn lãnh thổ, bảo vệ dân,

Và đã bỏ một phần thân thể lại.

 

Nhờ ít mốc thiên nhiên còn tồn tại,

Mò mẫm ra nơi đóng trại năm nao,

Nhưng còn đâu bao cát, thép gai rào,

Cùng hệ thống giao thông hào phòng thủ.

     

Lặng cúi đầu ủ rũ,

Hình ảnh xưa vần vũ kéo nhau về.

Mắt khép hờ, vật lộn với cơn mê,

Ôn lại trận đánh mùa hè năm đó.

                       *

                  *          *  

Trời rực cháy, mênh mông màu lửa đỏ,

Giặc cùng ta đụng độ suốt đêm ngày,

Súng lúc nào cũng nạp đạn luôn tay,

Xác chết cứ chất đầy như rơm rạ.

     

Trận đánh cuối thật vô cùng vất vả,

Cộng quân đông gần gấp cả chục lần,

Dùng biển người, không ngần ngại thí quân,

Nhưng vẫn bị ta cầm chân từng phút.

     

Đạn lớn nhỏ hai bên giành nhau trút,

Máu đào loang như nước lụt mùa mưa,

Mình kiên trì chống cự, gắng cù cưa,

Cả đại đội chỉ còn chưa đến chục.

    

Bạn bè thi nhau ngã gục,

Viện binh may vừa gấp rút đến nơi,

Thêm không quân tới yểm trợ kịp thời,

Quân ta dẹp tan biển người của giặc.

                       *

                  *         *

Tiếng cãi vã xé toang màn nắng gắt,

Người giật mình mở mắt thoáng nhìn quanh,

Đâu đấy toàn chuyện dối trá gian manh,

Lòng chợt tiếc thời giao tranh chống địch.

 

Chiến trường cũ giờ thành nơi du lịch,

Chẳng còn gì là vết tích ngày xưa,

Dân tình nay cũng quen thói lọc lừa,

Chuyện đạo đức như chưa hề hay biết.

 

Trẻ đua đòi trắc nết,

Già mải miết ăn chơi,

Ngày mất nước tới nơi,

Không một lời thắc mắc.

               

Người uất ức, sắc mặt dần tái ngắt,

Muốn hét lên, nhưng vắt chẳng ra lời,

Ngực phập phồng, dòng đau đớn chợt khơi,

Buồn so sánh hai cảnh đời trái ngược.

     

Cán bộ với bọn Tàu tiền như nước,

Cậy thế cậy quyền, ngang ngược khắp nơi,

Trong khi dân kiếm cả mấy tháng trời,

Không bằng chúng xài chơi trong thoáng chốc.

 

Rồi cố nén nỗi sầu đang chực bốc,

Nhìn người già cực nhọc đạp xích lô,

Kẻ tật nguyền, gầy ốm tựa xương khô,

Ôm vé số co ro ngồi rao bán.

     

Nhưng khi thấy đám mang danh “tỵ nạn”,

Kéo nhau về nhan nhản, miệng huyên hoa,

Người thương binh không kềm được xót xa,

Khối tuyệt vọng vỡ oà trên nạng gỗ.

Trần Văn Lương (CH 8)

Cali, đầu mùa Quốc Hận 2021   

Views: 364

Mấy Bài Thơ Ngắn Tháng Ba 2021

Thơ Lê Văn Bỉnh

Chút Nụ Ngượng Ngùng

Mấy cành hoa đầu xuân

Chui trốn ngày tháng dài dịch lạnh

Hé chút nụ ngượng ngùng

 

Mắt Đỏ

Lệ em không đủ nhỏ

Cho quê hương đau khổ triền miên

Xem phim cho mắt đỏ

 

Tù Ngục Thêm

Người giam gữ đời em

Giờ đây đã ra đi vĩnh viễn

Em thấy tù ngục thêm

 

Lao Mình Vào Không Trung

Anh vội ra balcon

Trốn không khí trong phòng nghẹt thở

Lao mình vào không trung

 

Cội Nguồn

Lén qua Vườn Địa Đàng

Adam và Eva đang quấn quít

Ta thương yêu cội nguồn

 

Hạnh Phúc

Hạnh phúc trên cành cao

Như đôi chim giúp nhau rỉa cánh

Rồi vụt bay thật mau

 

Mắt Sáng hay Mù Lòa

Tám thập niên đã qua

Bước tới nghĩ lui đời nhanh chậm

Mắt sáng hay mù lòa

 

Tưởng Niệm

Chúng ta thường tưởng niệm

Những đồng đội anh dũng ra đi

Để thấy lòng khâm liệm

 

Lê Văn Bỉnh

tháng 3/2021

Views: 77

Hạnh Phúc, Khổ Đau, và Em

Thơ Lê Văn Bỉnh

Thân tặng những cặp vợ chồng già đã có một thời sóng gió

Hình như có điều gì em chưa hiểu rõ

Giữa Hạnh Phúc và Khổ Đau

 

Hạnh Phúc mong manh khoảnh khắc

Đến nhà bếp đến bàn ăn

Đến phòng khách đến giường ngủ

Hay khi chúng ta cùng quanh quẩn dọn dẹp cửa nhà

Nếu em không nhanh tay chụp lấy

Còn đợi chờ đong  đếm cho đầy

Nó sẽ vụt bay đi

Bằng đôi cánh dài rất khỏe

Rồi nó đậu trên hàng dậu láng giềng

Hay trên vai bạn bè quen thuộc

Nhìn em mỉm cười

Tiếc cho cơ hội đã vuột trôi

Để  bây giờ em đứng một mình

Cô đơn buồn bã

Cảm nhận trên tấm lưng còng già cổi

Những năm tháng dài lê thê đè nặng khổ đau

Em cố sức vùng vẫy thoát mau

Đôi khi em thành công

Cứ gọi là thành công

Đập vỡ khổ đau ra từng mảnh vụn

Cẩn thận quét gom chôn vùi đâu đó

Hay tung rải ra biển khơi ào ào sóng gió

Những mảnh vụn tưởng chừng như biến như tan

Em đâu ngờ còn vướng lại trong tim

Chỉ một ít thôi

Vâng chỉ một ít thôi

Rồi sau đó lớn lên

Lớn lên

Tích tụ từ từ thành từng  tảng

Lại làm tim em đau nhói vô cùng

 

Em yêu

Hình như em chưa rõ được điều này

Và hạnh phúc chúng ta cứ vuột khỏi tầm tay

Lê Văn Bỉnh

Giáng Sinh 2020

 

Views: 347

Đâu Những Xe Buýt Vàng

Thơ Lê Văn Bỉnh

Ảnh: Faifax County News Center

Ta về mang gió mát

Cho bầu trời thanh thanh

Lòng ta thêm dào dạt

Trong không khí trong lành

***

Hình như chút tĩnh lặng

Làm cho ta băn khoăn

Đường phố sao trống vắng

Cho bước ta ngại ngần

***

Bây giờ ta mới rõ

Thiếu tiếng cười vang râng

Bầy trẻ thơ trước ngõ

Đợi những xe buýt vàng

***

Kìa xa sau cửa kính

Lãng vãng chú Jason

Cô Rachael xúng xính

Như đợi xe buýt vàng

***

Ta thẩn thờ ngơ ngẩn

Đâu những xe buýt vàng

Giờ tan trường yên ắng

Nỗi buồn lại  mang mang

Lê Văn Bỉnh

(Mùa Tụ Trường Niên Học 2020 -21)

 

 

 

 

 

 

Views: 161

Mùa Vu Lan Hà Nội

Thơ Lê Văn Bỉnh

Vụ xử án Đồng Tâm tại Hà Nội ngày 14-9

 

Mùa Vu Lan Hà Nội

Tòa xử vụ Đồng Tâm

Có khát chi mà vội

Uống máu tươi ngày rằm

 

Một cụ già chưa đủ

Phải thêm xác cháu con

Thịt mới ngon bữa cỗ

Đảng mới béo mới tròn

 

Dân đen chỉ thèm chết

Bao nhiêu thập niên rồi

Nô lệ dâng lợi ích

Lũ ký sinh đầy trời

 

Mùa Vu Lan Hà Nội

Tiếng chuông chùa hư không

Tịch liêu mùa lễ hội

Nghe tê tái triệu hồn

 

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 9 năm 2020

Views: 88

Giấc Mơ Trở Lại Đồi 29

Thơ Lê Văn Bỉnh

 

Đêm qua trong giấc mơ

Toàn thân tôi bừng nóng

Đau đau cổ họng

Ho khan rồi khó thở

Những đám vi khuẩn đỏ

Ồ ạt chui vào phổi

Hung hăng đào xới

Phá vỡ hàng vạn phế nan

Khi tôi sắp xỉu ngất

Bỗng cửa phòng mở bật

Mấy làn gió mát

Từ một đỉnh đồi xa

Thổi vào mũi miệng vô vàn hạt phấn hoa

Hai buồng phổi đầy dưỡng khí và thân tôi hồng hào trở lại

Chúng ta phải sống và tập hợp dưới chân đồi xưa

Tiếng vọng vang vang oai phong hiệu lệnh

***

Ngọn đồi đó chúng tôi từng dừng quân

Đóng lại một đêm

Đồi 29 ai dễ gì quên

Cao độ trùng tên với ngày cận cuối tháng Tư

Chúng tôi đã vội vã leo lên

Hì hục cuốc đào công sự

Những ụ súng to nhỏ bố trí sẵn sàng

Lệnh chờ đánh tập hậu

Đại quân địch sẽ qua thung lũng dưới chân đồi này

Nhưng sáng hôm sau

Khi mặt trời vừa lên cao

Chợt có lệnh đầu hàng

Chúng tôi bàng hoàng

Đắn đo do dự

Cả đơn vị tức tưởi gục đầu

Quân phục cởi ra giấu cùng súng đạn

Vào những hốc đá

Lần lượt bước xuống chân đồi

***

Vừa hồi sức tôi cùng đồng đội

Quay trở lại ngọn đồi xưa

Hoang vu u tịch

Những mái tóc bạc vờn bay trong gió

Những khuôn mặt nhăn nheo khắc khổ

Những bàn tay gầy guộc ốm o

Chúng tôi nhìn lên đồi

Nhạt nhòe nước mắt

Đồi 29 hôm nay sao cao quá

Những chướng ngại không thể vượt qua

Những bộ quân phuc kia ơi còn như xưa hay mục nát

Những khẩu súng kia ơi còn như xưa hay rỉ sét

Bốn mươi lăm năm háo hức chờ đợi

Còn lại đây hồn xác thẫn thờ

Đau xót

Lê Văn Bỉnh, ĐS 10

Virginia, tháng Tư 2020

Views: 156

Tháng tư, bức tường đá đen *

Hoài Ziang Duy

Tôi đứng nhìn em

Người thiếu phụ đứng ở bức tường đá đen

Có chồng chết ở chiến trường Việt nam

Mấy chục năm qua như lời em kể

Mỗi năm tháng tư

Hoa đào mở hội

Trên mặt phẳng đá đen cuộc đời trơ trụi

Năm mươi bảy ngàn chiến binh, quan, quân ghi dấu

Thấy lại tên chồng

Hồi ức chuyện năm xưa

Mấy mươi năm qua, lịch sử nhục vinh còn đó

Tên kề tên không phân biệt chức danh

Khi chết đi thân người nằm xuống

Cũng cầm bằng

Một nghĩa như nhau

 

Em trở về, tôi tháng tư đen

Tìm lại tên ai trên bức tường hồi ức

Tôi bâng khuâng lòng đêm canh thức

Xương máu đồng bào

Đồng đội tôi

Người lính vô danh

 

Đâu có bức tường nào ghi đủ chiến cuộc Việt Nam

Cả triệu người nhà tan phận nát

Sau chiến tranh, chiến binh người lưu lạc

Có còn đâu tổ quốc quay về

Dẫu hôm nay, cho cùng màu da mẫu hệ

Thấy sống còn

Đâu có nghĩa như nhau

 

Hỡi cô gái ở bức tường đá đen

Em dò lấy tên người thân quá cố

Có thấy tôi, mang tên người chết trước

Sử xanh kia sao buông bỏ nửa chừng

 

Không biết em nghĩ gì ở tháng tư

Tôi đứng đây vịn cành đào trĩu nặng

Bức tường đen, đứng ngoài xa thầm lặng

Vẫn thấy gần nước mất với khăn tang.

 

*( Bức tường tưởng niệm chiến tranh VN tại Washington D.C.)

Hoài Ziang Duy

(trích trong thi tập “ĐỨNG TỰA BÊN ĐỜI”, xuất bản tháng 4-2019)

Views: 349

Nếu Muốn Gửi Về

Thơ Trần Văn Lương

Dạo:

Người ơi, nếu muốn gửi về,

Thì xin gửi những gì quê hương cần.

Nếu Muốn Gửi Về

 

Hỡi người bạn vượt biên từ năm ấy,

Được Trời thương cho trẩy bước tới nơi,

Tạ ơn người dù đang sống thảnh thơi,

Vẫn nhớ đến những mảnh đời kẹt lại.

 

Bạn bối rối, ngập ngừng, băn khoăn mãi,

Muốn hỏi tôi, nếu hải ngoại có lòng,

Phải gửi gì về để giúp non sông,

Tôi xin được có đôi dòng suy nghĩ.

                        ***

Xin đừng gửi về những đồ xa xỉ,

Những món hàng mang hiệu Ý, hiệu Tây,

Người dân đen ăn không đủ mỗi ngày,

Làm sao dám mơ mòng hay ngấm nghé.

 

Xin đừng gửi về bên đây ngoại tệ,

Sẽ vào tay bọn đồ tể bưng biền,

Còn dân đen chỉ được phép dùng tiền

Mà bọn chúng có quyền in tùy tiện.

 

Xin đừng gửi những “phái đoàn từ thiện”,

Ồn ào về “ban phúc”, tiện mua danh,

Chỉ béo cho lũ giặc có quyền hành,

Vì có kẻ nuôi dân lành thay chúng.

 

Xin đừng gửi lũ con buôn lợi dụng,

Đem đô la về lũng đoạn thị trường,

Làm giàu cùng đám cán bộ bất lương,

Mặc dân Việt trơ xương nằm ngắc ngoải.

 

Xin đừng gửi bầy “xướng ca vô loại”,

Chúng giờ đây ở hải ngoại hết thời,

Bèn trở về kiếm chác chút tiền tươi,

Nên nịnh nọt, nói những lời trâng tráo.

 

Xin đừng gửi nhóm người ham danh hão,

Được bạo quyền bốc láo tận trời cao,

Nên quay về, quên khổ nhục năm nao,

Ra mắt sách xong ồn ào họp báo.

 

Xin đừng gửi những tấm thân già lão,

Lận tiền còm, diện áo gấm xênh xang,

Về cả đàn tìm cưới dọc cưới ngang

Những thiếu nữ tuổi đáng hàng con cháu.

                                ***

Nhưng hãy gửi điều bạo quyền muốn giấu,

Để toàn dân được thấu hiểu rõ ràng

Ai là người làm đất mẹ tan hoang,

Ai là kẻ đã và đang bán nước.

 

Xin hãy gửi về quê hương kiến thức

Của người dân một đất nước tự do,

Biết đòi quyền được hạnh phúc ấm no,

Giúp vạch mặt bầy Cộng nô ác đức.

 

Nhưng trên hết xin gửi về tin tức,

Mà chúng tôi hằng háo hức muốn nghe:

– Rằng những người đang vất vưởng xa quê,

Vẫn còn giữ lời thề khi bỏ xứ;

 

– Rằng tuy sống nương nhờ nơi lữ thứ,

Lá Cờ Vàng vẫn rạng rỡ tung bay,

Vẫn được người tỵ nạn giữ trên tay,

Khắp các chốn vẫn đêm ngày hiện diện;

 

– Rằng khi có những chương trình thắp nến,

Dù xa xôi người vẫn đến thật đông,

Muôn câu ca, vạn ánh lửa một lòng,

Cùng nhớ tới thời biển Đông lận đận;

 

– Rằng đời sống dù muôn ngàn thứ bận,

Chẳng ai quên ngày Quốc Hận đau thương,

Người mang danh tỵ nạn vẫn xuống đường

Điểm mặt lũ gây nên trường đại họa;

 

– Rằng người Việt vẫn giữ gìn văn hóa,

Dù đêm ngày vất vả nẻo tha phương,

Vẫn không hề quên truyền thống quê hương,

Vẫn hành động đúng luân thường đạo lý;

 

– Rằng tiếng Việt được bảo tồn thật kỹ,

Không học đòi lũ khỉ ở bên kia,

Cứ “từ” này, “cụm từ” nọ tía lia,

Hết “tản mạn” lại “cực kỳ” “bức xúc”;

 

– Rằng ngọn lửa vẫn được truyền liên tục

Trong chương trình giáo dục thế hệ sau,

Để con em biết được bởi vì đâu

Cha mẹ chúng phải ôm sầu ly biệt;

 

– Rằng đất khách, người lưu vong gốc Việt,

Bao năm rồi vẫn đoàn kết trước sau,

Chẳng bao giờ khích bác tấn công nhau,

Chung vai gánh nỗi buồn đau mất nước.

                             ***

Nhưng chua xót, đó chỉ là mơ ước,

Những điều này thực tế được bao nhiêu.

Lòng người nay đã thay đổi quá nhiều,

Vì danh lợi nên sớm chiều trở mặt.

 

Dân trong nước thờ ơ không thắc mắc,

Kẻ ngoài về rặt nhắm mắt ăn chơi.

Đâu phải chỉ tại Trời,

Mà nước mất vào tay loài dị tộc.

Trần Văn Lương (CH8)

Cali, mùa Quốc Hận 2020

 

Views: 77

Chào người đội nón

Thơ Hoài Ziang Duy

Chào em anh giở nón ra
Chào nhân gian xuống định ra duyên phần
Ở đây một chốn phân thân
Đằng kía xóm vắng đâu cần hỏi han
Lệ làng cứ phải gặp quan
Cúi đầu vâng dạ bắt quàng kết thân
Còn thương tỏ dạ ân cần
Nắng kia sáng tỏ mãn phần đưa xa

Chào em anh bước vô nhà
Có ngôi chủ thứ trông ra khứ hồi
Đếm qua cây cảnh núi đồi
Mây kia bay khuất chỗ ngồi đổi thay
Nghĩa thời tình dụng hai tay
Rừng kia thêm lá gỗ thay một màu

Chào em anh đội nón vào
Phòng khi trời nắng ba đào quàng xiên
Đôi khi bước lạc đảo điên
Giả, chân, có lúc thánh hiền dột mưa
Nón theo thế cuộc thời xưa
Cần khi đem xuống, đong đưa, đội vào.

Hoài Ziang Duy

Views: 8