Lá Thư Từ Ngục Tối

Trần Văn Lương

Dạo:
Vì thương vận nước điêu linh,
Nên người phải đón Giáng Sinh trong tù.
 
(Để tỏ lòng kính phục đối với những vị anh thư 
nước Việt đang phải đón Giáng Sinh trong ngục tù 
Cộng sản chỉ vì lòng yêu nước đã can đảm lên tiếng
bảo vệ nhân quyền, tự do và độc lập cho quê hương)

Blogger “Mẹ Nấm” Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã bị CSVN tuyên án 10 năm tù từ 29/6/2017

 Lá thư Từ Ngục Tối

Đêm đặc quánh, người tù ngồi chết lặng,
Tiếng đàn ca văng vẳng lắng qua song,
Gắng gượng xua nỗi tuyệt vọng trong lòng,
Tay nguệch ngoạc đôi dòng cho con gái.
                          ***
Con yêu dấu, Giáng Sinh đà trở lại,
Mẹ lần đầu phải xa ngoại, xa con.
Chốn ngục tù dù khổ sở héo hon,
Lòng mẹ vẫn sắt son cùng đất nước.
 
Biết làm sao khác được,
Khi bạo quyền đang tàn ngược với dân.
Mẹ cúi đầu chịu lỗi với người thân,
Và xin ngoại tha cho phần bất hiếu.
 
Mẹ tin tưởng ngoại và con đều hiểu
Nỗi khốn cùng của bao triệu dân Nam.
Nếu mình không tiêu diệt lũ gian tham,
Thì sẽ mất giang san vào tay Chệt.
 
Quê hương là trên hết,
Mẹ có chết cũng đành,
Nhưng dặn lòng phải bền bỉ đấu tranh,
Không muốn thấy dân mình thành nô lệ.
 
Con và ngoại đêm nay cùng đi lễ,
Hãy cầu xin cho mẹ được kiên cường,
Cho dân lành thôi gánh chịu đau thương,
Cho đất nước thoát con đường bất hạnh.
 
Con có biết nhiều trẻ em đêm thánh,
Cũng như con dường chịu cảnh “mồ côi”,
Đón Giáng Sinh mà đòi đoạn khúc nôi,
Thương cha mẹ mỏi mòn nơi tù ngục.
 
Họ như mẹ đã chối từ hạnh phúc
Của riêng mình để liên tục dấn thân,
Cất lên giùm tiếng nói của người dân,
Đem xương máu thắp dần từng ngọn đuốc.
 
Mẹ thầm hiểu, đây chỉ là mơ ước,
Nhưng nếu toàn dân vì nước một lòng
Chịu hy sinh để cứu vớt non sông,
Thì Cộng sản quyết sẽ không tồn tại.
 
Mẹ mong mỏi dân ta đừng ỷ lại,
Đất nước mình, mình phải tự thân lo.
Đừng cậy trông vào “thế giới tự do”,
Ai cũng chỉ bo bo quyền lợi họ.
 
Họ chỉ phán dăm ba câu này nọ
Để tuyên dương cùng cổ võ vu vơ.
Tội dân mình vẫn cứ mãi ngây thơ,
Ôm ảo vọng ngóng chờ hè đổ tuyết.
 
Thương con cháu ngày sau trên đất Việt,
Tìm cội nguồn nào biết hỏi nơi đâu.
Máu Rồng Tiên đã pha trộn khác màu,
Lịch sử cũng bị giặc Tàu viết lại.
 
Chung quy bởi lũ cầm quyền vô loại,
Mà chúng mình mãi mãi mất quê hương,
Người dân lành gánh chịu lắm đau thương,
Cả đất nước là một trường oan nghiệt.
 
Tổ quốc sẽ vẫn muôn đời bất diệt,
Dù giặc Tàu đem nước Việt xóa tên,
Nếu mọi người vẫn một dạ trung kiên,
Luôn nhớ đến công tổ tiên gầy dựng.
 
Nhưng đau đớn, dân đã quen hờ hững,
Biết bao giờ mới khứng chịu đứng lên,
Kẻ đêm ngày lo hưởng thụ triền miên,
Kẻ quên hết thời vượt biên khốn khó.
                         ***
Người buông bút, đèn mờ cay mắt đỏ,
Lời thánh ca về theo gió nấu nung,
Miệng lâm râm câu “Đêm Thánh Vô Cùng”,
Nỗi chua xót chợt bùng như lửa hạ.
Trần Văn Lương
 Cali, 12/2017

Views: 292

Lạm Bàn Về Đúng – Sai Trong Mấy Thói Quen và Suy Nghĩ

Lê Văn Bỉnh

Mấy ngày sau khi phim bắt đầu chiếu, một người bạn già từ Texas gọi điện thoại hỏi tôi đã xem phim The Vietnam War chưa.  Ông bạn biết tôi vốn là một người hay tò mò tìm hiểu đủ thứ trên đời, thì chắc là đã không thể bỏ qua một cơ hội hiếm có này, cho nên hỏi để bàn cho đỡ buồn miệng.

 Thú thật, hai năm nay sau khi về hưu, tôi chẳng làm được chuyện gì cho đàng hoàng nghiêm túc.  Hăm hở về hưu nghĩ rằng sẽ có thì giờ rảnh rổi đi du lịch và viết lách. Về du lịch, thì nhiều năm nay tôi chưa ra khỏi cái quận Fairfax này, không biết vì sao. Ai hỏi, tôi đổ lỗi là vì bà xã không muốn đi, thì tôi cũng không vui mà đi một mình để tỏ ra mình là một người chồng già luôn nghĩ đến bà vợ … cũng không còn trẻ. Bà ấy lấy lý do là ngồi trên phi cơ hay xe hơi, xe buýt thì đau lưng, đau chân, mặc dầu bà ấy vẫn tiếp tục đi làm mỗi tuần năm ngày để có quyền độc lập tài chánh, và mạnh miệng nói rằng “Tôi làm việc nuôi cả gia đình!”  Còn tôi, sau khi “nghiên cứu về hạnh phúc” dưới con mắt của người học kinh tế, được biết là cái vui của một chuyến du lịch chỉ để lại trong đầu những hình ảnh đẹp 15 ngày mà thôi; đó là chưa kể đến nhiều lúc mình già cả lỡ lời với bạn hữu, thì … tới chết mình và họ cũng không quên nỗi, cho nên hoan hỉ ngồi yên nhìn mấy cái va ly nặng trỉu đầy bụi bặm sắm từ thiên niên kỷ trước.  Tôi còn tự nhủ làm chủ bút không đăng bài, hay chỉ sửa bài cũng làm mất bạn bè nhiều rồi; không nên mất thêm nữa.   Ngoài ra tôi cũng ngại không biết vào phi trường thì làm sao in ra được cái boarding pass.  Lần cuối tôi đi máy bay là 10 năm trước.  Dĩ nhiên, không biết thì hỏi và một khi mình đã hỏi, thì chắc chắn sẽ được chỉ dẫn hoặc người ta làm dùm cho, nhưng vẫn ngại, cái ngại của … Tư Ếch đi Saigon.

 Về viết lách, thì vì Hội Cựu SVQGHC Miền Đông đã giao hẹn cho mỗi năm phải ra mắt đặc san “Hành Chánh Miền Đông” cho kịp ngày họp đầu năm dương lịch, cho nên đành phải chạy lên chạy xuống basement lục lọi tài liệu cố gắng viết cho được một bài, hay lật mấy cuốn tự điển để sửa chính tả cho độc giả bớt (bớt không có nghĩa là ) ngứa mắt. Vì vậy bạn bè còn thấy tên tôi thỉnh thoảng xuất hiện!

Để trả lời ông bạn trên, tôi thú thật trong mấy ngày trước đó, thỉnh thoảng tôi mới mở TV hay computer một lần, viện lý do chẳng hy vọng gì thấy truyền thông Mỹ tìm ra hay trình bày được “sự thật”, cho nên không muốn mất thêm thì giờ . Tuy nhiên tôi vẫn nói với ông bạn già một câu đại ý là người Mỹ lúc đầu đúng về chiến tranh ở Việt Nam, nhưng sau đó là sai, và sai mãi cho tới ngày nay! Và làm cho thế giới cũng … sai theo.  Anh bạn già chờ đợi tôi nói thêm chi tiết, nghĩ rằng tôi sẽ nói dong dài về chính trị.  Tôi chỉ cười, và hứa với anh là sẽ … bàn về văn phạm tiếng Anh (English grammar) đối với  việc này. Vì phân tích chính trị, chiến luợc chiến thuật, quản lý bộ máy chiến tranh, thì đã có vô số sách báo viết rồi, trong đó có ông bạn này của tôi.

Và hôm nay, tôi giữ lời hứa với ông bạn ấỵ.  Và cũng muốn chia xẻ với quý độc giả cũng như thỉnh ý quý vị về mấy chuyện phiếm này. Nhưng trước khi bàn về chuyện phiếm … lớn này, tôi xin mạn phép lạm bàn vài chuyện phiếm bé tí, vì chuyện phiếm bé tí thì dễ … nhận ra và có thể tự động điều chỉnh cho đúng.

Vốn là một sinh viên kém Anh văn, tôi phải vật lộn với ngọai ngữ này nhiều năm trước khi được cho đi Mỹ học … kinh tế hai năm.  Đến khi nghe giảng bài, thấy hay thì đến lúc phải xách vali về.  Sử dụng tiếng Anh khi làm việc với chuyên gia kinh tế Đài Loan chưa được một năm … thì  vào tù 5 năm, chữ nghĩa cũng rơi rớt lần theo sức nặng của thân thể và theo màu đen của tóc .  Đầu óc, thân xác chỉ được nuôi dưỡng bằng bo bo, mì lát phơi khô mà mấy con heo thấy cũng lắc lắc cái đầu, thì còn chi trí nhớ.  Ra tù cải tạo, đi dạy Anh văn, phải soạn bài mệt nghỉ, vì mình là tay ngang.  Tôi đã phải thường xuyên đạp xe lang thang các chợ sách, đường sá lùng kiếm sách cũ cần thiết và nhất là phải vừa túi tiền.  Sau vài ba năm, thì mới cảm thấy tự tin … đứng lớp!  Khi sang Mỹ, đầu óc của tôi vẫn còn là đầu óc … méo mó của một thầy giáo dạy ESL (English as a Second Language): ngữ pháp đúng hay sai, phát âm đúng sai, viết hiệu quả (effective wrting) hay không.  Lúc chưa có internet, thì  khi có điều gì nghi ngờ thì tra cứu … rách nát cả mấy cuốn tự hay tò mò hỏi người Mỹ đồng sở vv.

Chỉ vài ngày sau khi định cư ở Virginia, thì óc tò mò của thầy giáo ESL của tôi bắt đầu hoạt động lại khi nghe người ta phát âm sai tên Maryland của tiểu bang lân cận.  Tôi nhớ một quyển sách dành cho thầy giáo ESL đưa ra “qui tắc”:  Chỉ trong vài địa danh tận cùng bằng chữ (-land), thì chữ (-land) đó mới phát âm như  (land ) nghĩa là đất,  chẳng hạn Thailand. Kỳ dư phải đọc khác đi (nghe như âm /ơ/ tiếng Việt), thí dụ như Holland, New Zealand, Maryland.

Nhiều người  phát âm sai, chỉ vì thấy chữ (land) quen quá, không cần phải để ý gì thêm nữa!  Cũng quá quen như south, north mà  trong  đó (th) được phát âm /th/ như trong chữ (thank, think, theater).  Tuy nhiên, dưới hình thức tính từ, southern, northern thì  (th) lại đưọc phát âm thành /th/ như trong (the, then, this).

Hầu hết những người lớn tuổi đều đọc chữ computer với âm /t/ rất rõ ràng trong khi các bạn trẻ hay con nít học hành ở đây đều phát âm chữ (t) đó thành âm /đ/.  Khi nói nhanh, thì chữ  (t) được phát âm ra như thế.  Đây là trường hợp của những chữ thường gặp, như water, later, letter vv.  “Qui tắc” mà tôi học được là:  chữ (t)  giữa 2 nguyên âm mà nguyên âm trước được nhấn mạnh thì phát âm như /đ/. Thậm chí, một số người nói nhanh, thì trong chữ county, chữ (n) biến đi và chữ (t) cũng nghe như /đ/. Có lần tôi đã nghe một ông bố … già phân trần: “Thằng con tôi bị “đớ lưỡi”, sửa nó hoài không được! Nếu ở Việt Nam, tôi sẽ cú đầu nó rồi! “ May quá, nếu nó u đầu, chắc là ông phải gặp cảnh sát, và chính ông mới là người “đớ lưỡi!”

Nếu để ý, chúng ta còn nghe chữ (a) trong a book đọc từng chữ phải đọc là /ê/ trong tiếng Việt (ABC mà!),  nhưng khi đọc/ nói nhanh thì chữ (a) được nghe như /ơ/ trong tiếng Việt.  “Qui tắc”: Articles nằm trong một nhóm từ, hay trong câu thì  được đọc yếu đi; chúng chỉ đóng vai trò hành tiêu ớt tỏi!  Cũng vậy, khi nói nhanh/nối  vần (link) thì this year, could you, can’t you  vv. sẽ nghe khác với khi đọc từng chữ.

Trẻ em nghe sao nói vậy, bắt chước khá dễ dàng.  Người lớn, nhất là những người đã từng sai đâu đấy rồi, đã từng “tiếp xúc” với tiếng Anh chỉ thuần qua sách vở, thì nghe trước, rồi qua đầu óc phân tích, suy nghĩ  xong,  mới nói! Đầu óc phân tích đưa chúng ta về “qui tắc”, về “thói quen” mà khi hai thứ này … không đúng, thì chúng ta nói sai … như thường lệ!  Nếu biết được vài “qui tắc”, chúng ta có thể tự điều chỉnh lại. Nói tiếng Anh bằng “qui tắc”! Nghe thật buồn cười! Nhưng sự thực, nhiều người làm như thế, trong đó có người viết! Chúng ta không thể nào … trẻ trở lại để dễ bắt chước.  Càng không được  … tái sinh ở Mỹ  để trở thành “native speakers”.

Qua các thí dụ trên, chúng ta thấy sai quen rồi tưởng cái sai đó là đúng.  Và khi tưởng nó đúng, thì hành động, đối phó theo hướng đó.  Hồi còn nhỏ, thỉnh thoảng tôi nghe người lớn phê phán các nhà  sư , các người  ăn chay qua câu “ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dại”, và nói theo, thì bị thầy giáo cú cho mấy cái vào đầu. Thầy giáo của tôi giảng rằng câu đúng là “ăn mặn nói ngay, ăn chay nói trại”.  Nói trại, tức nói tránh né, chẳng hạn Vĩnh Long thành Vãng Long để khỏi “phạm húy”, tức  tên của một quan chức lớn đương quyền. Viết chính tả sai, thì cây thước của thầy giáo sửa lại giùm; chỉ khổ cho hai bàn tay sưng đỏ nhiều ngày; và nhờ vậy mà là chính tả khá hơn mặc dầu là dân Nam Kỳ ít nhất cũng ba đời!

Thêm một cái đúng/sai quan trọng rất phổ biến trong cộng đồng chúng ta.  Đi trễ giờ … hóa ra đi đúng giờ!  Thiệp mời ghi giờ khai mạc là 7 giờ tối; nhưng khi đứng lên chào cờ, thì đồng hồ chỉ 8 giờ, thậm chí 8:30 tối! Bà xã tôi khi bị giục phải nhanh lên để đến cho đúng giờ như thiệp mời, thì lại cằn nhằn bảo không có hội đoàn nào ở đây lại khai mạc đúng giờ.  Khi đến nơi, thấy 7 giờ rồi mà nhà hàng còn trống trơn, bà mạnh dạn phân trần với bạn bè:  “Em đã bảo đâu có ai khai mạc đúng giờ, mà ổng cứ thúc lên thúc xuống.”  Rõ ràng đúng thành sai; sai thành đúng!

Cũng nhân nói về tiệc tùng! Chủ nhân thường gọi khách mời là “quan khách” mặc dù có nhiều người xưa nay chưa từng làm quan; hoặc đã từng làm “quan”, nay lại không muốn bị gọi là “quan” nữa.   Thiết nghĩ gọi “Quý khách” đã là đủ đẹp đủ tốt rồi!  Lại có chủ nhân “xin phép nói tiếng Anh với người ngoại quốc”! Ơ hay!  Mình đã có quốc tịch rồi, thì Hoa Kỳ cũng là “nước của mình”. Còn nếu mình chưa là công dân Mỹ, thì đây đâu phải là nước của mình mà lại “cả gan” gọi họ là “người ngoại quốc.”  Thiết nghĩ nên gọi là “những người không nói tiếng Việt” (non-Vietnamese speakers) có lẽ thích hợp hơn, mặc dù trong đó cũng có một số nhỏ nhờ ăn phở và nước mắm nên hiểu và nói được “tiếng nước ta”, có khi viết tiếng Hán Việt, chính tả còn giỏi hơn ta nữa!

Bây giờ xin lạm bàn vài chuyện phiếm … lớn hơn một chút và kêu gọi sự góp ý của quý Anh Chị.

“The Vietnam War” hay “The Vietnamese War”?

Mấy tháng sau khi đến Hoa Kỳ theo chương trình HO, tôi được một cơ quan không vụ lợi có tên là The Center for Applied Linguistics thuê làm việc cho một bộ phận của cơ quan này, có tên là  Refugee Services Center.

RSC được thành lập sau khi có những đợt di tản lớn của người Đông Dương đến định cư, phần lớn ngân sách do Bộ Ngoại Giao cung cấp, nhằm tài trợ các công tác giáo dục người tị nạn (cung cấp tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa, giảng dạy Anh ngữ) qua các cơ quan thiện nguyện tại các trại tị nạn bên Á châu.   Một nhà báo làm việc chung cho tôi mượn một quyển sách mà tựa đề có chữ “The Vietnam War …” Đầu óc thầy giáo ESL của tôi liền tự hỏi: Sao lại “The Vietnam War” mà không là “The Vietnamese War”?  Trước đây trong lịch sử Hoa Kỳ đã có The Spanish War, The Korean War, mà Spanish, Korean là những tính từ (adjectives), vậy sao không dùng tính từ Vietnamese mà lại dùng danh từ Vietnam?  Tôi hỏi anh nhà báo người Mỹ chính gốc này — anh còn có thêm bằng Master of Teaching ESL.  Anh đứng một lúc, cười cười, rồi nói có lẽ người ta … quen dùng rồi.  Tôi viết email hỏi một vị chuyên trả lời thắc mắc về ngữ pháp cho độc giả của tờ báo The Atlantic. Câu trả lời cũng đại để là nhóm từ “The Vietnam War” đã được quen dùng, không nên thắc mắc.  Như vậy, câu hỏi của vẫn chưa được trả lời … ổn thỏa!

Một hôm, nhân thắc mắc tại sao nhiều sách báo viết là “newly arrived refugees” .  Động từ  to arrive là intransitive verb  cho nên về grammar thì không thể dùng past participle như vậy rồi lại giải thích “bị/được” như người Việt mình –trừ một vài ngoại lệ trong đó có to retire—trong khi đó nếu đúng ngữ pháp thì phải là  “newly arriving refugees” ),  tôi bèn đem thắc mắc sang hỏi một anh tiến sĩ trẻ Mỹ trắng vui tính làm việc ở một department kế bên.  Anh ta đang dạy ở một đại học danh tiếng trong vùng DC, và đã từng len lỏi chơi basket ball  nhiều tháng với đám trẻ Mỹ đen để nghiên cứu ngôn ngữ của chúng.  Anh xướng âm hai nhóm từ này lên mấy lần, rồi kết luận rằng xướng lên, thì “newly arriving refugees” nghe Ăng Lê quá (sounds Bristish English).  Về nhà một mình, tôi cũng ráng tập xướng lên cả hai nhóm từ này nhiều lần, nhưng lưỡi đã quen với bánh mì thịt nguội rồi, làm sao phân biệt nỗi hamburger có vị Anh hay Mỹ!  Về sau, thấy có nhiều tác giả cũng viết “newly arriving refugees” thì tôi thấy yên lòng. Như vậy, cả hai đều đúng! Grammar rules chưa bị diệt vong!

Thấy có thể tin cậy anh ta được, tôi đưa thêm thắc mắc về “The Vietnam War” và “The Vietnamese War”.  Anh lại xướng âm mỗi nhóm từ nhiều lần, rồi kết luận “The Vietnam War” dễ nói hơn, vì bớt đi một âm.  Nhưng anh cũng “an ủi” tôi rằng thắc mắc của tôi cũng có thể là đề tài đáng nghiên cứu.  (Vừa rồi đây, tôi nhờ con bé cháu ngoại 7 tuổi sinh ở đây nói lên hai nhóm từ này mỗi thứ vài lần; cháu nói rằng “Vietnam” dễ nói hơn “Vietnamese”!)  Nhưng vị tiến sĩ kia không cho tôi biết là viết/nói “The Vietnamese War” có đúng ngữ pháp không.  Tôi ôm cái thắc mắc này hơn hai chục năm nay, và không tin rằng viết/ nói “The Vietnamese War” là sai … ngữ pháp!  Đọc khá nhiều sách Mỹ viết về chiến tranh Việt Nam, trong đó có cả tiểu thuyết, thơ, mà chưa thấy ai viết “The Vietnamese War” cả.   Thế mới phiền cho một người non-native speaker lại trọng“qui tắc (ngữ pháp) nửa vời” như tôi.

Tôi bèn đưa ra giả thuyết là lúc đầu người ta viết/nói  “the war in Vietnam” , hay “the Vietnamese war”, rồi sau đó nói “the Vietnam War”, hay “Vietnam War” cho gọn, thậm chí “Nam War” nữa , khi mà cuộc chiến bên kia bờ Thái Bình Dương  càng ngày càng đi vào đề tài thảo luận nơi  chỗ làm, bàn ăn, cũng như trong sinh hoạt của  của gia đình người Mỹ (TV, thảo luận vv.) Trong quyển sách dày 8-9 trăm trang có tựa đề “The Vietnamese War:  Revolution and Social Change in the Mekong Data 1930-1975” (tôi chỉ  có  bản rút ngắn cũng đã dày trên 500 trang chữ nhỏ li ti (Consise Edition, xb 2006),  tác giả David W.P. Elliott (bạn học trước đây với Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng và GS Tạ Văn Tài, lúc cả 3 còn học tại University of Virginia; bỏ học vì quân vụ, rồi làm cho Rand Corporation nghiên cứu về VN  etc., có vợ Việt) đưa ra sự khác biệt giữa 2 cụm từ như sau : “the term ‘Vietnam War’ has come to mean what happened to Americans in Vietnam –or even in the United States , when the ‘Vietnam War’ is used for convenience to refer to 1960-75 period.” (trang xvi); rồi ông dẫn lời của bà cựu Ngoại Trưởng  (thời Tổng Thống Clinton) Madeleine Albright “The time has come to think of Vietnam as a country, not a war” mà viết rằng: “ For that reason, this book titled The Vietnamese War, an effort to provide a more complete understanding of one of the defining events of the twentieth centurỵ” (trang 4).

Nói khác đi, theo Elliot, khi người Mỹ nói “The Vietnam War” là họ nghĩ tới chuyện người Mỹ đánh nhau với Việt Cộng, dội bom ngoài Bắc, nhảy dù xuống và trở thành tù binh ở Hà Nội ; biểu tình, thay đối chiến lước, chiến thuật, không tái cử ở Hoa Kỳ vv. Nghĩa là tất cả … mọi thứ trên đời  khi liên quan đến thời kỳ chiến tranh  1960-75  thì thuộc “The Vietnam War”.  Còn thời gian trước đó, sau đó, hay không liên quan đến chiến tranh, thì … không!  Vậy thì một thường dân người Việt chết vì bệnh ở Định Tường vào Tết Mậu Thân 1968, thì không được viết “He died  during the Vietnam War” mà phải viết “He died during the Vietnamese War” trong một cuốn sách hồi ký có tựa đề “The Vietnam War ….” ? Chiến tranh Triều Tiên xảy ra ở … Korea có đi vào sinh hoạt quân sự, chính trị, dân sự của người Mỹ hay không mà không gọi là “The Korea War”, mà lại gọi là “The Korean War”?

Theo thiển ý, Elliott đưa ra định nghĩa khá đặc thù này chỉ nhằm để định hướng hay giải thích nội dung của quyển sách riêng của ông mà thôi.  Nói khác đi, có bao nhiêu người đã nghĩ là “The Vietnam War” và “The Vietnamese War” có nghĩa khác nhau đến thế?  Nếu quý độc giả nào tình cờ biết đuợc ai là người đầu tiên sử dụng nhóm từ “The Vietnam War” và vào lúc nào, xin vui lòng cho biết.  Các tự điển lớn, thỉnh thoảng có cung cấp xuất xứ của một số từ, hy vọng trong tương lai sẽ có xuất xứ của cụm từ “The Vietnam War.”

Lại xin thêm chuyện này cho vui có liên hệ đến chữ Vietnam.  Trước đây, Giáo Sư Nghiêm Đằng có viết một quyển sách do East-West Center Press (Honolulu) xuất bản năm 1965, có tựa đề là Viet-Nam: Politics and Public Administration (bảo đảm vẫn còn thấy hay nếu ai muốn nhớ lại chuyên xưa).   Xin lưu ý quý độc giả cái dấu gạch nối (hyphen) giữa hai chữ Viet và Nam.  Tôi mua sách cũ về, liền tò mò mở ngay trang index để tìm adjective, thì thấy ngay mấy chữ Vietnamese, với 2 chữ Viet và nam dính liền nhau, trong khi là danh từ thì viết riêng.  Nhiều sách báo tiếng Pháp viết Việt Nam tách rời, với 2 chữ hoa V và N (Viet-Nam). Ngay cả Bernard Fall, khi viết bằng tiếng Anh cũng làm như thế (Viet-Nam Witness 1953-1966 do Pall Mall Press, London xuất bản năm 1966). Đừng quên là trong những văn thư chính thức của VNCH, tên của quốc gia cũng viết tách rời ra!  Hỡi ôi! Mình muốn chữ viết chữ Việt Nam thành 2 chữ … độc lập một chút cũng … không được! Huống hồ những chuyện… đại sự khác, thì làm sao hành động độc lập được!

Và sau cùng ở chuyện phiếm liên quan đến “The Vietnam War” này, xin kể lại một chút về dấu chân của sinh viên QGHC trên xứ Mỹ.  Như nhiều độc giả biết ở Nam California có một trường đại học tư có tên là University of Southern California.  Trước 1975, nổi tiếng về nhiều ngành học trong đó có kịch nghệ, hành chánh chánh công quyền, giáo dục, thương mại, dĩ nhiên number #1 về College Football. Các giáo sư HVQGHC như Nguyễn Quốc Trị, Trương Hoàng Lem, Cao Thị Lễ, Phan Thanh Ngô, Nguyễn Văn Thư đều tốt nghiệp từ đây; nhưng có lẽ anh Triệu Huỳnh Võ, thủ khoa khóa 7 là người đến đây học đầu tiên.  Anh Ngô (thủ khoa CH 1) có lúc làm Hội Trưởng Hội Sinh Viên Việt Nam tại USC, đã cùng sinh viên Việt ở USC và các trường lân cận tổ chức một cuộc chống đối Jane Fonda kịch liệt.

 Hai năm sau, người viết này đến USC (giữa tháng 9/72, sau khi Quân Lực VNCH tái chiếm Quãng Trị và lệnh cấm xuất ngoại được giải tỏa), chân ướt chân ráo, được đẩy ra thay anh Hội Trưởng thuộc Bộ Giáo Dục đang học Community Education   Chỉ mấy tháng sau đó, mặc dù cận kề những ngày thi, tôi đã cùng các  bạn sinh viên VN (học bỗng và tự túc)  tại USC và các anh chị sinh viên Việt trẻ tuổi hơn  từ  7-8 trường lân cận đã cùng kiều bào (do Tòa Tổng Lãnh Sự  Việt Nam tại San Francisco đưa xuống)  và một xe buýt khoảng 40 sinh viên Mỹ thuộc nhóm Young Americans for Freedom (YAF)  của đảng Cộng Hòa tại USC, tổng cộng khoảng 500 người  đi đón Tổng Thống Thiệu và phái đoàn từ Honolulu đến  Los Angeles, để rồi sau đó phái đoàn  xuống San Clemente họp với Tổng Thống Nixon. Tôi nghĩ đây là cuộc tập họp đông đảo nhất của người Việt tại Hoa Kỳ thủa đó.

Ngoài ba thủ khoa QGHC cơ hữu ở USC (Cao Thị Lễ , Phan Thanh Ngô và Nguyễn Văn Thư) còn có thêm hai thủ khoa khác là  Cao Văn Hở (Georgetown Universty, Wahsington DC) và Trần Văn Dương (Syracuse University, NY).  Hai anh này trên đường đi dự một khóa hội thảo cũng nhiệt tình ghé xin tham dự mang theo bức thư giới thiệu của Đại Sứ VNCH tại Liên Hiệp Quốc (Lê Phượng Chì) “kính gửi Anh Lê Văn Bình.”  Đến khi gặp tôi, hai anh chưng hửng vì đâu có ngờ tôi cũng được sang Mỹ học.  Chúng tôi biết nhau hồi còn ở chung Ký Túc Xá; nếu tên tôi được bỏ đúng dấu, có thể hai anh sẽ đoán ra. Tôi không là thủ khoa; đi học bỗng theo Chương Trình Kinh Tế Hậu Chiến” (1 PhD, 8 MA và 8 ngắn hạn 6 tháng, trong đó gần phân nửa là cựu SVQGHC) — khác với Chương Trình Kinh Tế Hậu Chiến của GS Vũ Quốc Thúc.

Trong đám phản chiến Mỹ Việt không quá 30 người cầm cờ Hippie Mỹ (US Flag with Peace Sign Hippie) phía bên kia đường, có một cậu sinh viên trẻ hình như lúc đó mới học năm thứ hai, mà nay là giáo sư Sử tại một tiểu bang nhỏ, thỉnh thoảng được các chương trình tiếng Việt của vài đài phát thanh Âu Mỹ phỏng vấn về tình hình chính trị quân sự Á châu; nghe kỹ thì nhận ra là các lời bình luận đều có lợi cho Hà Nội.  Dĩ nhiên! Nếu không, thì vị giáo sư này đành mất hết thành tích chông chiến tranh ả?  Trước đó, nhóm phản chiến của cậu ta có gọi điện thoại đến xin xem phim “Người Cày Có Ruộng” do anh em chúng tôi tổ chức tại phòng lounge của building VKC của USC, tôi có đặt điều kiện là nhóm anh ta phải chào cờ Việt Nam Cộng Hoà cùng với chúng tôi. Dĩ nhiên nhóm cậu ta không đến.  Và cũng để đối phó với tin đồn rằng đi đón phái đoàn VNCH, chúng tôi mỗi người nhận 30 đôla, tôi đã long trọng tuyên bố là “Tôi thề trên sinh mạng vợ và hai con tôi là trừ vài ba chục đôla dùng mua cột cờ và cờ VNCH (để tránh mang tiếng dùng tiền học bỗng của USAID), tôi không nhận thêm đồng nào của Tòa Đại Sứ VNCH ở Washington DC hay Tòa Tổng Lãnh Sự ở San Francisco”.  Anh chị em thành viên trong Ban Tổ Chức cũng tránh dị nghị đã không tham dự buổi tiệc do phái đoàn nhã ý khoản đãi, khi chúng tôi được cho biết cuộc họp báo với sự hiện diện của TT Thiệu đã được dự trù trước đây không thực hiện được vào giờ chót.  Sau đó, Ban Tổ Chức chia tay với lương tâm yên ổn, và một chút tự hào về bổn phận công dân của mình.

Buồn thay mọi sự xảy ra về sau cho đất nước không tốt đẹp như mong ước toát ra từ cái logo có  3 chữ “Cooperation in Peace” vẽ trên chiếc máy bay 727 chở phái đoàn VNCH.

Người viết sau đó cũng thêm một lần (1973) cùng anh chị em sinh viên Việt và nhóm YAP đến phản đối Jane Fonda qua mấy cái loa cầm tay “Debate! Debate! Fonda! Debate!” để “ phá”  cuộc nói chuyện của cô ta  sau chuyến cô ta thăm Hà Nội về. Tôi còn nhớ rõ cô ta mặc cái dress màu đen, đứng gần tượng đồng Trojan (biểu tượng của USC), mồ hôi nhuể nhại và mặt mày phấn son nhòe nhoẹt  (lúc đó là lunch time, đông sinh viên, trời nóng)  và chung quanh có 7-8 tay cận vệ mặc toàn đen, tên nào cũng đều lực lưỡng, cao cở  6 feet!  Thủa đó USC là trường của con nhà giàu (bị chế giễu là University of Spoiled Children), cha mẹ thì bảo thủ, nhưng đa số sinh viên lại cấp tiến, chống đối chính quyền Tổng Thống Nixon kịch liệt (bảng hiệu lưu thông STOP thì họ thêm vào chữ Nixon; chữ X trong tên Nixon được viết thành chữ Vạn Đức Quốc Xã; họ tổ chức biểu tình cởi truồng để chống Nixon bao che trong vụ bao che (coverup) Watergate,  vv. ) cho nên Jane Fonda mới có chỗ lai vãng. Bà Nixon và nhiều viên chức Tòa Bạch Ốc dính trong vụ Watergate lúc bấy giờ cũng từng là YAP của trường này, họ cũng quậy dữ lắm!

Sau này, cái huy chương Presidential Medal of Fredom mà Tổng Thống Obama trao cho Jane Fonda (Jane Hanoi) năm 2016 quả là cái huy chương đâm sâu thêm vào tim (bà đã từng đâm sau lưng rồi) của nhiều các cựu chiến binh Hoa Kỳ và cộng đồng người Việt hải ngoại mình.  Một người  … bị trao cho cái giải thưởng Nobel  Hòa Bình quá sớm (để đừng gửi quân Mỹ đi quậy phá thế giới và đã vô cùng hoan hỉ 6-7 năm kế tiếp ngồi tự xoa xoa cái đầu ít tóc  nhìn Trung Cộng mạnh dần … mạnh dần đến dư sức để tác oai tác oái Biển Đông, khi giật mình nghĩ lại, thì đã quá chậm rồi, dù có mấy ông Trump cũng không đảo ngược tình thế được)  đã tròng huy chương vào cổ … bà già cái giải … hòa mình với kẻ thù của hằng trăm ngàn lính Mỹ và lăng mạ mấy trăm tù binh Mỹ ở Hà Nội bằng những bài phát biểu trên đài phát thanh Hà Nội rõ ràng do Hà Nội viết sẵn (Xin đọc thêm Aid and Comfort: Jane Fonda in North Vietnam mà Henry Holzer và Erika Holzer là tác giả).  Người ta thường nói cái huy chương có hai mặt, tôi không rõ mặt trái cái huy chương  trao cho “Jane Hanoi” ra sao, chứ còn nửa cái giải Nobel Hòa Bình mà Kissinger chia với Lê Đức Thọ (không đến nhận) đã được trao bằng check, sau đó được đầu tư, có thể thành bạc triệu  rồi. Không rõ Ngài Kissinger có được mời đến dự lễ trao huy chương cho “Jane Hanoi” không.  Cũng không rõ “Jane Hanoi” có được Bộ Trưởng Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh tặng cho vài bản chụp những bức thư (copied letters) mà gia đình gửi cho tù binh John McCain lúc ông ngồi tù ở Hà Nội để bà ta “tùy nghi” hay không.  (Trong chuyến công tác năm nay tướng  NCV đã trao tặng McCain bản chính (original copies) những bức thư này sau khi giữ chúng hơn 45 năm!) Riêng đối với nhiều nhà văn, nhà báo, nhà làm phim Mỹ khác, thì tội nghiệp thay những bản phác họa  mà họ dự tính viết về  những “siêu sao” Hà  Nội  sau 1975 đã bị họ lẵng lặng vất đi không thương tiếc!

Không bao lâu sau đó, tên của người viết những dòng chữ này và của các anh chị đại diện của các trường đã kể lại xuất hiện trên một trang quảng cáo trả tiền của tờ The Washington Post để phản đối Trung Cộng chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa. Viết lại đây tôi không có chút ý gì khoe khoang “thành tích”, mà chỉ muốn tường trình với độc giả thân mến rằng anh chị em chúng tôi thuở ấy cũng cố làm một chút gì đó.

Độc Tài Hay Không Độc Tài?

Từng là một học sinh, một sinh viên, một nhà giáo, tôi không quên rằng giữa điểm 0 và  điểm 10, cũng như giữa điểm F và điểm A , cũng còn nhiều điểm khác! Đến khi tiếp xúc “Nhập Môn Chủ Nghĩa Thực Dụng”, tôi mới “ngộ” ra rằng giữa  Đúng và Sai, Trắng và Đen, Yêu và Ghét, Xấu và Tốt, Thiện và Ác, Chánh và Tà, Đạo Đức và Vô Luân,  Duy Lý và Duy Nghiệm, Nhất Nguyên và Đa Nguyên, vv.  còn có những … cái khác nữa! Ngay cả giữa Nam và Nữ, từ ngàn xưa cũng đã âm thầm ẩn hiện … “những người khác” mà ngày nay ở Mỹ gọi tắt là LGBT. [Trong bộ truyện  “Ngàn Lẻ Một Đêm”,  sách dịch Miền Bắc đưa vào sau Tháng Tư Đen, những người này được gọi là “những kẻ hai lòng” (sic)] trong khi ở Miền  Nam, chúng ta thường gọi là “homo”, “đồng tính”, và người bình dân gọi là “bóng”].  Con người vốn đã quen với lý luận nhị nguyên (dualism), thậm chí nhất nguyên (monism), nên ít khi rộng lượng đối với kẻ đối thoại mà mình cho là HOÀN TOÀN SAI trong khi nghĩ mình là HOÀN TOÀN ĐÚNG –mặc dù đôi bên đều có đúng có sai.  Quan điểm nhị nguyên này đã đưa nhân loại đến biết bao nhiêu xung đột, từ trong gia đình cũng như ngoài xã hội và giữa các quốc gia với nhau.

 Để đáp lại thịnh tình của ông bạn già Texas nói từ đầu bài (Nguyễn)Trọng Đạt, một nhà giáo trước khi vào QGHC và mấy chục năm nay là nhà biên khảo nhiều sách báo đáng đọc về chiến tranh Việt Nam (trong đó có bài viết về bộ phim “The Vietnam War”  sau khi ông ấy … tức mình rồi tò mò ngồi xem từ đầu đến cuối), tôi xin bạo  dạn đưa ra ý kiến sau đây.  Cũng như hằng trăm tác giả Mỹ khác, hai nhà sản xuất trên đã đứng trên … rõ ràng làm phim theo quan điểm của “bên thua cuộc”.  Thua tức là kém, dỡ hơn “bên thắng cuộc”.  Nếu không, thì đâu có thua! Họ thấy có bổn phận phải ca tụng “bên thắng cuộc” bằng mọi giá, và đổ  lỗi cho “đồng minh thua cuộc” càng nhiều càng tốt,  để họ cảm thấy bớt tức hơn. Cuộc chiến Việt Nam xảy ra trong thời kỳ mà theo ngành quản trị học đương thời, sự thành công phải được đánh giá theo hai tiêu chuẩn thống soái: “hiệu  quả” (effectiveness) và “hiệu năng” (efficiency).  Nôm na là đem lại kết quả và ít tốn kém.

Theo phái đoàn cố vấn Michigan State University, cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người  đích thân theo dõi việc xây cất Học Viện QGHC của chúng ta.  Cũng chính ông là người đến khánh thành Học Viện năm 1962.  Khóa 10 là khóa đầu tiên học trọn vẹn 3 năm tại đây (các khóa 8 và 9 đã học một thời gian trước đó tại trụ sở Bộ Ngoại Giao). Học Viện là niềm hãnh diện của TT Diệm.  Ông đã hãnh diện mời nhiều quốc khách đến thăm viếng:  Quốc Vương và Hoàng Hậu Thái Lan trẻ đẹp;  Phó Tổng Thống Đài Loan Trần Thành hoạt bát  và rất vui tính, vv.  Đây là nơi các giáo sư và sinh viên thường xuyên thảo luận về hai tiêu chuẩn hiệu quả và hiệu năng nói trên, cùng với các công tác của nhà hành chánh theo POSDCORB (Planning, Organizing, Staffing, Developing, Coordinating Reporting, Budgeting, được đưa ra từ thập niên 1930, nhưng vẫn phổ biến nhiều thập niên sau đó) của Gulick & Urwick trong chỉ huy, quản trị công sở và ngân sách, cũng như trong các trường hợp hành chánh điển hình.

 Chúng ta hẳn biết rằng chiến tranh Việt Nam, từ nguyên thủy cho đến khi chấm dứt, đã trải dài qua 7 đời Tổng Thống, 3 vị trước Kennedy và 3 vị sau Kennedy. Đây là kể cả Tổng Thống Roosevelt, người mà trước và trong khi Hoa Kỳ tham gia Đệ Nhị Thế Chiến đã chủ trương giải phóng các nước thuộc địa một khi Đồng Minh chiến thắng. Ông đã cố công thuyết phục Stalin theo lập trường của mình, vì không hy vọng gì ở Churchill bởi lẽ nước Anh có cũng quá nhiều thuộc địạ không dễ gì chi/u buông, và ông không muốn Pháp trở lại Đông Dương   Ông cũng suy tính khá cẩn thận tầm quan trọng của Đông Dương, nhất là về kinh tế. Có thể nói chính Roosevelt và nhà ngoại giao George Kennan, người đưa ra chủ thuyết về việc kiềm chế sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản (sau đổi ý) đã lưu lại một dấu ấn lớn trong các chính quyền Mỹ sau đó về vai trò của Đông Dương trong chiến tranh lạnh. Tổng Thống Diệm và VNCH có thể sẽ may mắn hơn nếu được một nước “đồng minh” lãnh đạo bởi một chính quyền “ngộ” được giữa hai điểm A và F, còn có những điểm khác nữa.  Xin mở dấu ngoặc:  Tổng Thống Diệm đã từng được một giáo sư của MSU (khi trường này còn là một college) mời từ Nhật sang Mỹ làm counselor cho trường, và từ đó, giúp ông gặp gỡ một số nhà lãnh đạo tôn giáo và chính khách quan trọng của Hoa Kỳ. Khi về nước chấp chánh, ông đã mời một phái đoàn đông đảo MSU sang giúp. Trong khi cả phái bộ USOM chỉ có khoảng 165 nhân viên, phái đoàn MSU lúc nhiều nhất lên đến 32 người do Chính phủ  Hoa Kỳ  đài thọ  (chưa kể nhân viên người Việt khoảng 100 người do USOM và VN cùng đài thọ), đa số là giáo chức, dĩ nhiên có không ít nhân viên CIA  được cài vào (giới chức Saigon nhận ra họ ngay vì họ nói tiếng Pháp lưu loát hơn các giáo chức thực sự)  sang giúp soạn thảo chương trình đào tạo cũng như giảng dạy  sinh viên Học Viện QGHC, và Cảnh Sát Quốc Gia, hai ngành mà MSU tỏ ra  khá mạnh.

 Một vài nhân viên trong đoàn khi trở về nước đã viết báo công kích chính phủ VNCH, riêng biệt công kích kịch liệt bà Ngô Đình Nhu.  Do đó, sau 2 năm hết khế ước, TT Diệm không bằng lòng gia hạn. Những bài báo này đã đóng một vai trò không nhỏ phát khởi phong trào phản chiến tại các đại học Hoa Kỳ.  (Muốn biết thêm chi tiết về hoạt động của MSU tại Miền Nam dưới thời TT Ngô Đình Diệm, xin đọc Technical Assistance in Vietnam: The Michigan Sate University Experience  do hai giáo sư  Robert Scigliano và  Guy H. Fox viết, xb năm 1965;   Forging a Fateful Alliance: Michigan Sate University and the Vietnam War, tác giả là John Ernst, xuất bản năm 1998; Aid Under Fire: National Building and The Vietnam War, do Jessica Elking viết,  The University Press of Kentecky xb năm 2016, vv.)

Trong thời gian dài trước khi xảy ra cuộc đảo chính lật đổ TT Diệm năm 1963, Tổng Thống Kenneny đã nghe đầy tai về những than phiền chê trách, nhiều khi không đáng, về TT Diệm.  Chẳng hạn sau cuộc viếng thăm Saigon chỉ vài ba ngày, Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ John K. Galbraith, một giáo sư kinh tế của Harvard rất thân cận và tín cẩn của TT Kennedy, đã viết về Toà Bạch Ốc chê TT Diệm là quan liêu: đi công tác miền Trung về phi trường Tân Sơn Nhứt cũng “đòi” các Bộ Trưởng ra đón; từ phi trường về Dinh Độc Lập phải được tiền hô hậu ủng.  Những phiên họp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, ngay từ 1961 đã nêu lên sự can thiệp của Hà Nội, Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa và trách cứ chính phủ Saigon không cải tiến nỗi tình hình an ninh; đã coi hai lần mưu sát bất thành TT Diệm …  là những chỉ dấu của nền độc tài chuyên chế, không được lòng dân.  Vụ Phật giáo được truyền thông thổi phồng chỉ là một cái cớ lớn, là một giọt nước tràn.  Cái tiêu chuẩn “hiệu quả” và “hiệu năng” thời thượng của kinh tế gia Galbraith, của “nhà quản lý khoa học tài năng” Mc Namara, và của những “the best and the brightest”  cộng thêm giới truyền thông (cũng được xem là elites) thủa đó thúc đẩy TT Kennedy hành động khá vội vàng hấp tấp, nếu không gọi là quá bất công.

Tướng Hoàng Lạc trong chương có tên “Blind Design” đóng góp vào quyển sách có tựa đề Prelude to Tragedy: Vietnam 1960-1965 do Harvey Neese và John O‘ Donnel hiệu đính, và  Naval Institue Press xb năm 2001, tr. 70, đã ghi lại nhận xét của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, xin tạm dịch ra như sau: “Chống Cộng  đã khó rồi, nhưng đối phó với Hoa Kỳ với tư cách một đồng minh lại càng khó hơn.  Chính sách của Hoa Kỳ thay đổi thường xuyên với những mục tiêu thay đổi.  Những siêu quyền lực như những nhà tư bản Mỹ, cũng như những người Cộng Sản Liên Xô, không có bạn lâu dài hay kẻ thù lâu dài, cả hai chỉ có những lợi ích lâu dài mà thôi.” Những bài diễn văn đầy hứa hẹn của các TT Mỹ, những cuộc đón tiếp long trọng, những bắt tay thân mật … sẽ không còn giá trị nữa khi quyền lợi của họ thay đổi.  Điều an ủi cho dân quân Miền Nam, đặc biệt là sinh viên,  lúc đó là họ không bị chính quyền VNCH bắt bớ giam cầm khi họ biểu tình hay viết báo bày tỏ suy nghĩ và lập trường của mình đối với “những người bạn đồng minh.”

Trong quyển sách Friendly Tyrants: An American Dilemna (do Daniel Pipes và Adam Garfinkle hiệu đính, St. Martin’s Press xb năm 1991), bàn về những nhà độc tài bạo ngược thân hữu của Hoa Kỳ, Douglas Pike, một học giả về Việt Nam, có đóng góp một chương với tựa đề “South Vietnam: Autopsy of a Compound Crisis” (tr. 41 -61). Theo Pike, so với những nhà độc tài bạo ngược thời đó ở Á châu như Lý Thừa Vãng của Nam Triều Tiên, Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Ferdinad Marcos của Phi Luật Tân, thì Tổng Thống Diệm không nên được xem là nhà độc tài bạo ngược vì (1) thời gian tại chức của TT Diệm ngắn hơn nhiều; (2) không thể xếp ông theo tiêu chuẩn độc tài chuyên chế cổ điển hay đương thời của người Mỹ: Ông không tàn bạo, ích kỷ, hay ngạo mạn. Ông là người có học, từng đi đây đó nhiều nơi, và có đầu óc cấp tiến hơn nhiều so với Bảo Đại, người tiền nhiệm của ông. Quan trọng hơn nữa, ông không tùy tiện sử dụng lắm quyền hành.  (He was not brutal, mean, or arrogant. He was educated, cosmopolitan, and far more liberal than the Bao Dai that preceded him. More important, he did not dispose of very much authoritỵ); (3) đường lối  chính trị và quân sự của các chính phủ liên tiếp của Miền Nam hầu hết  đều là phản ứng đối với các áp lực càng ngày càng gia tăng của bên ngoài, đặc biệt  của Hà Nội, Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, thì chính quyền Hoa Kỳ, qua các loại viện trợ, đáng lẽ phải tạo một trái đệm  cho sự tự phát triển của một chính quyền non trẻ, thì lại tạo thêm áp lực nặng nề chỉ vì họ bị sức ép mạnh mẽ của giới truyền thông và dân chúng Mỹ, cũng của chính những người trong chính quyền nhưng không thân thiện với VNCH.

 Theo Joseph G. Morgan trong quyển The Vietnam Lobby: The American Friends of Vietnam (1955-1975), do The University of North Carolina Press, xb n ăm 2000, thì hiệp hội  The American Friends  of Vietnam này quá nghèo nàn (vì không có sự đóng  góp của các công ty Hoa Kỳ; TT Diệm  không muốn người Mỹ đầu tư vào VN mà ông  chủ trương thành lập các công ty quốc doanh khi nền kỹ nghệ còn quá non trẻ, một chủ trương phát triển kinh tế phổ biến trên thế giới vào 2 thập niên 1950- 1960) nên không đủ khả năng vận động hành lang với các chính trị gia Hoa Kỳ.  Chính vì những lý do đó mà TT Diệm bị loại một cách oan uổng và tức tưởi, kéo theo sự suy sụp mấy năm liền sau đó của nền Cộng Hòa ở Miền Nam. Vả chăng, giàu có và dư thừa ngoại tệ (gần 20 tỷ đô la thủa đó, chỉ đứng thứ nhì, sau Tây Đức, nếu người viết nhớ không sai) để có thể lobby thêm, nhưng “nước Đài Loan” vào đầu thập niên 1970 cũng đành đau khổ nhìn cái ghế của mình bị mất tại Liên Hiệp Quốc, sau khi Nixon gặp gỡ Mao Trạch Đông. Biết làm gì hơn, khi mà mục tiêu của Hoa Kỳ đã thay đổi.  Tuy nhiên, lobby đã giúp Đài Loan tồn tại như hiện trạng.

Đôi khi nhìn lại, chúng ta tự hỏi có nên “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” chăng? Nếu quản lý của chúng ta thật giỏi –đạt điểm A như họ muốn — về quản lý trong mọi phương diện chính trị, hành chánh, quân đội, thì có lẽ sẽ không có cảnh “đồng minh tháo chạy.”  Dĩ nhiên, khả năng của chúng ta không thể đạt được điểm A mà họ mong đợi!  Đòi hỏi một người làm những việc vượt quá xa  khả năng của mình,  có phải chăng là bất công –nếu không nói  là … mất trí?   Đây là cái vòng lẩn quẩn của kẻ ban phát viện trợ và người nhận viện trợ vậy.

Trên đây là đôi điều tôi xin lạm bàn với ông bạn chuyên viết cuộc chiến Việt Nam. Dưới đây xin thêm một lạm bàn khác, về “văn nghệ”, một lãnh vực mà tôi thực sự mù tịt.

Nhạc Vàng hay “Nhạc Vàng”?

Quý độc giả chắc hẳn đã lưu ý tới cái ngoặc kép trên.  Nhạc Vàng không nằm giữa hai ngoặc kép là chữ của chúng ta, bên bại trận — nếu quả thực nó có trước 1975.  “Nhạc Vàng” nằm giữa hai ngoặc kép, còn gọi là “Nhạc Vàng nháy nháy” là tiếng của “bên thắng cuộc”.

Sau khi chiếm được Miền Nam, Hà Nội tung vào những người mà họ xem là ưu tú nhất của mình, đặc biệt ca sĩ có giọng cao vút, các văn nghệ sĩ như Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh (ông này đi vào rao giảng thành tích CNXH tại trại tù làng cô nhi Long Thành, giải lao bằng bia khiến công an quản giáo phải đỏ mặt), nhiều sách của nhà xuất bản Sự Thật (mà vị giám đốc xuất bản P.T.T. là bố ruột của một nhà văn chống Cộng nổi tiếng ở Miền Nam, và cũng là bố vợ của một cựu SVQGHC, vợ anh tự tử khi anh còn trong tù bỏ lại 4-5 đứa con thơ ) vv.   Có một bài ca mà câu mở đầu đã làm cho trên 3000 em chúng tôi lạnh suốt nhiều năm sau đó “Anh ở nơi nầy chưa thấy mùa đông” (?) Vâng, họ nhất quyết mang cái lạnh, cái đói cũng như những thử nghiệm, định chế, kỹ thuật –làm tàn hại ngoài Bắc chưa đủ– vào Miền Nam để cho cùng khổ bằng nhau, như hợp tác xã, nông trường, thuỷ lợi vv.

Trong sách vở, có những chữ mà người bình dân khó hiểu hay không thể hiểu; nhưng những người có tiếp xúc với chữ nghĩa Pháp, Anh thì nhận ra đưọc xuất xứ của chúng, chẳng hạn chủ nghĩa sô-vin, trang bị tận răng, mang dấu ấn thời đại vv.   Anh em tù chúng tôi nhận ngay ra đó là những chữ dịch, nhưng không rõ được dịch thẳng từ tiếng Anh, tiếng Pháp hay lại phải qua tiếng Nga, tiếng Hoa cho an toàn vì lý do chính trị (thân Tây phương, xét lại vv.). Khi còn trong tù, chúng tôi  thường tự hỏi hai nhóm từ “nhạc vàng” và “công đoàn vàng” xuất phát từ đâu.  Ai cũng biết rõ là “nhạc vàng” được gán cho hầu hết các bài nhạc lưu hành trước đây, và “công đoàn vàng” chỉ các nghiệp đoàn lao động hoạt động trước 1975 ở Miền Nam.  Sơn phết màu vàng lên để chê bai chúng xấu xa, bệnh hoạn, không lành mạnh, và dĩ nhiên phải bị cấm đoán. Nhưng chúng được dịch từ đâu? Mà vì sao lại “vàng”? Tôi không tin là màu vàng này có liên quan gì đến màu cờ của VNCH cả.

Sau khi ra tù (cuối năm 1980), tôi kiếm sống bằng nghề đi dạy Anh Văn (cộng thêm nghề đi bán cà-rem cây ở một trường học).   Một hôm, một học viên người lớn hỏi, tại sao người ta dùng “nhạc vàng” để chỉ “nhạc ngụy, nhạc phản động”. Trong nhà tôi còn một quyển tự điển lớn tiếng Anh xuất bản đầu thập niên 1970 mà tôi mua giá rẻ với tư cách là hội viên của Books of the Month khi còn đi học bên Mỹ (May quá, nhà  ôi chưa bán cho mấy cô mua ve chai, giấy vụn.  Nếu bà ấy bán đi, cũng được chút ít tiền vì nó rất nặng ký).  Tra tự điển này, thấy có nhóm từ “yellow journalism” (báo chí vàng) và tôi liền đặt giả thuyết là “nhạc vàng” và “công đoàn vàng” có liên hệ đến “báo chí vàng”.

Vì vậy mà khi đến Mỹ thấy trên vài tờ báo xuất bản ở Virginia có cái quảng cáo “Nhạc Vàng Chiều Chủ Nhật”, và khi nghe hai ca nhạc sĩ / MC trên một băng nhạc cũng dùng “nhạc vàng” để chỉ nhạc tình cảm, lãng mạn Miền Nam trước 1975, tôi liền viết vài trang trên blog “Đốc Sự 16”, do đồng môn tài hoa Vũ Hùng thiết lập, để bày tỏ suy nghĩ của mình. (Sau khi Vũ Hùng qua đời, họa sĩ Vĩnh Nguyễn tiếp nối với “Tiếng Thông Reo”, hy sinh nhiều thời giờ, công sức để tạo một forum rộng rãi và đẹp đẽ cho cựu SVQGHC và thân hữu.  Many thanks to our Websmaster/Blogger!).  Trong mấy năm nay, cụm từ “nhạc vàng” đã được hầu hết những nhà sản xuất băng đĩa nhạc lớn nhỏ — kể cả nhà sản xuất mà một MC được nhiều người xem là chịu khó nghiên cứu — truyền thanh, truyền hình, sách báo trong và ngoài Việt Nam, thân Cộng cũng như chống Cộng sử dụng không dè dặt để chỉ nhạc tình cảm lãng mạn ở Miền Nam viết ra trước 1975.

Bài viết nói trên không còn trong files cũ. Quyển tự điển to lớn nặng ký đó cũng không tìm mua được ở Mỹ mặc dù tôi đã lên nhiều websites sách cũ (hình như nó cái tên khá dài, mà tôi còn nhớ mang máng:  Webster’s New World Dictionary of the American English, Desk/ Index Dictionay- De Luxe, trong đó có phân biệt các chữ dễ lẫn lộn chẳng hạn tool/instrument /equipment vv. đã khiến tôi cẩn thận hơn khi dùng tiếng Anh, nhất là những chữ mà người ta cho là đồng nghĩa.)  Với vài tài liệu hiện có trong nhà, tôi xin cống hiến thêm một ít chi tiết về “yellow journalism”.

Tự điển Webster’s NewWorld College Dictionary, Fourth Edition do Michael Agnes hiệu đính, Wiley Publushing, Inc. xuất bản năm 2008, trang 1659, cho biết “yellow journalism” xuất xứ từ việc dùng mực màu vàng, nhằm thu hút độc giả, để in bộ tranh hài hước từng kỳ (a comic strip) có tựa đề là “ TheYellow Kid” trên tờ báo The New York World năm 1895, và định nghĩa “báo chí vàng” như sau: “sự sử dụng những phương pháp giật gân hay bừa bãi một cách rẻ tiền trong báo chí, vv. để hấp dẫn hay ảnh hưởng độc giả” (the use of cheaply sensational or unscrupulous methods in newspapers, etc. to attract or influence readers).  Câu chuyện về “Khỉ Cà Mau” đăng trên báo Sài Gòn Mới  của bà Bút Trà hồi thập niên 1960 là một thí dụ điển hình về  “báo chí vàng” ở Miền Nam trước đây, mặc dù câu chuyện không in trên nền mực vàng!

The Encyclopedia Britannica (15th edition), Volume 12, trang 832 còn đưa thêm chi tiết là cụm từ này được chế ra (coined) để mô tả chiến thuật cạnh tranh bằng tin tức giật gân do tờ The New York World sử dụng để cạnh tranh với tờ The New York Journal, mãi sang đến đầu thế kỷ sau tờ The World mới thôi.

 Tóm lại, trong mấy chục năm liền kể từ khi còn ở Việt Nam, tôi vẫn tin yellow journalism là nguồn gốc của “nhạc vàng”, nhưng đôi khi thấy không ổn khi nghĩ nó cũng là nguồn gốc của “công đoàn vàng” vì đối với Hà Nội, những nghiệp đoàn Miền Nam, trong đó có Tổng Liên Đoàn Lao Công, đều được coi là “phản động” đáng bị trừng trị!  (Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Trường Cao Đẳng Quốc Phòng còn được gọi là “phản động nhất”)

Khi tôi đặt giả thuyết là chữ “vàng” trong hai cụm từ “nhạc vàng” và “công đoàn vàng” (xin độc giả lưu ý là sau 1975 hai từ này thường đi chung) có thể xuất xứ từ cụm từ yellow journalism, thì một đồng môn vốn rời Saigon từ hồi tháng 4/75, đã ngạc nhiên buột miệng nói: “Cộng sản lại sophisticated (anh ta dùng tiếng Anh, tạm dịch lịch lãm, sành sỏi) đến thế à? Vậy mà tôi cứ tưởng … Người ta bảo họ gọi nhà bảo sanh là ‘xưởng đẻ’ đồng hồ có lịch ngày tháng là “đồng hồ có cửa sổ.” Đúng!  Sự thực là mấy anh bộ đội nhà quê thiếu từ dùng đã nói như thế.  Nhưng không phải tất cả “bên thắng cuộc” đều ngô nghê đâu! Tôi xin kể câu chuyện thật sau đây để độc giả suy gẫm.

Như nhiều độc giả biết, trại tù Cải Tạo Long Thành (Biên Hòa), mà lúc đầu nhà cầm quyền  gọi là Trường NV-15 ,  là nơi giam giữ hơn 3000 viên chức chế độ cũ,  phân ra 4 nhóm, ở trong nhiều dãy nhà  riêng biệt : Khối Cảnh Sát từ cấp Thiếu Tá trở lên; Khối Trung Ương Tình Báo từ Trung Cấp trở lên; Khối Đảng Phái từ cấp Tỉnh Hội trở lên; và Khối Dân Sự  gồm Hành Pháp (từ Phó Quận trở lên), Lập Pháp (Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, Giám Đốc các văn phòng trực thuộc) và Tư Pháp (từ Biện Lý, Thẩm Phán trở lên).  Có thể đây là thành phần gạo cội (cream), trí thức của miền Nam. Một lệnh được đưa ra khi chúng tôi chưa bị khóa nhốt trong phòng với các máng vệ sinh:  Ban đêm ai muốn ra khỏi phòng để đi tiêu hay tiểu –cách phòng chừng 20-50 mét, thì phải hô to: “Báo cáo cán bộ, cho tôi đi ỉa.” hay “Báo cáo cán bộ, cho tôi đi đái.”  Xin quý độc giả thử nghĩ tới cảnh vị cựu Chủ Tịch Hạ Viện già nua, một cựu bác sĩ giám đốc bệnh viện lớn tuổi, một cựu thẩm phán tối cao pháp viện nghiêm nghị, vv. mà phải thốt lên các câu nói có mấy tiếng “ỉa, đái” như  vậy thì họ cảm thấy xấu hổ biết bao nhiêu!  Nhiều độc giả có thể nghĩ rằng tù và cai tù đều dùng ngôn ngữ giống nhau thì có gì là xấu hổ.

Sai, nếu quý vị nghĩ như thế!

Vì trại tù Long Thành là nơi giam giữ nhiều trí thức, chính trị gia “gạo cội” của Miền Nam (trong đó có cả cụ Vũ Hồng Khanh, từng làm Phó Chủ Tịch Nước dưới Hồ Chí Minh hồi 1945) cho nên Hà Nội thấy cần phải đưa bọn công an độc hiểm nhất của Miền Bắc vào cai quản để tìm mọi cách hạ nhục chúng tôi.  Thóa mạ, khinh bỉ chúng tôi bằng những nhóm từ “ngụy quân, ngụy quyền”, “cúc cung tận tụy”, “chó săn”, “ăn bơ thừa, sữa cặn” vv. họ chưa thấy đủ, họ còn buộc chúng tôi phải tự miệng mình thốt ra những tiếng “đái”, “ỉa” họ mới thấy hả dạ.  Dĩ nhiên, họ không dùng những tiếng “dơ bẩn” đó cho chính họ, mà dùng những tiếng “sạch sẽ “ hơn! Thật vậy, không lâu sau đó, khi tôi cùng vài bạn tù khác được lệnh ra khu doanh trại của đám cai tù để chạy dây điện, tôi đọc thấy những cái bảng viết rất đúng chính tả và dùng chữ cũng sạch hơn: “Chỗ tiêu”, “Chỗ tiểu”.  Đúng là ngôn ngữ cũng mang tính chất giai cấp. Hay nói rõ hơn, họ độc hiểm đến độ nhiều người trong chúng ta không nhìn ra nỗi!

Quyển tự điển nói trên (trang 1659) cũng định nghĩa yellow là cowardly (hèn); craven (nhát).  Một quyển tự điển lớn khác (Webster’s New Universal Unbridged Dictionary, Deluxe, Second Edition, 1985, trang 2118) định nghĩa yellow là cowardly (hèn); untrustworthy (không đáng tin cậy); lacking courage (thiếu can đảm).  Tôi cũng cảm thấy hiểu “nhạc vàng” và “công đoàn vàng” theo những định nghĩa này thì cũng còn đáng nghi ngờ.   Trong cả hai định nghĩa này, yellow được xem là một từ không trang trọng (informal, colloquialism).

Có thể nguồn gốc của những từ được xem là dịch này phát xuất từ châu Âu chăng? Quyển tự điển The Dictionary of Phrase and Fable xuất bản năm 1975, tr. 1317-18, cho biết như sau: “Ở  Pháp những cánh cửa của nhà những kẻ phản bội được sơn hay phủ giấy màu vàng. Trong vài quốc gia, luật bắt buộc người Do Thái phải mặc quần áo màu vàng, bởi vì họ đã phản bội Chúa.  Juda trong các bức tranh thời Trung Cổ mặc màu vàng.“ Ấn bản 1975 này là bản in lại từ ấn  bản được hiệu đính năm 1894 mà thủa đó đã bán đến 100.000 quyển.  Còn bản đầu tiên ra đời năm 1870.Tác giả là nhà biên khảo là Rev. E. Cobham Brewer, LL.D., vốn là một nhà giáo.

Theo thiển ý, hai chữ “nhạc vàng” và “công đoàn vàng” có thể xuất phát từ điển tích này. Nói rõ hơn: Màu vàng chỉ sự phản bội.  “Bên thắng cuộc” gọi chúng ta là những kẻ phản bội.  Chúng ta có nên tự nhận mình là những kẻ phản bội chăng?

Tóm lại, qua những giả thuyết trên, màu vàng được sử dụng để để nói xấu, để chê bai, để bài bác vv. chứ không có gì nên thơ (như lá vàng rơi!) hay phảng phất màu quốc kỳ VNCH cả như nhiều người đã nghĩ.  Trước 1975 ở Miền Nam, tuyệt đối không thấy hai cụm từ “nhạc vàng” và “công đoàn vàng.” Tiếc thay, tác giả của các nhóm từ “nhạc vàng” và “công đoàn vàng” có thể đã không còn sống nữa để cho biết mình dịch từ đâu. Nhiệm vụ lịch sử của các dịch giả đó đã hoàn thành tốt đẹp rồi!

Là kẻ bại trận trong một cuộc chiến tranh mà mình luôn nghĩ là mình có lý tưởng, biết rõ có chiến tuyến, thì cũng như nhiều bạn tù khác, tôi chấp nhận số phận hẩm hiu của mình: yếu nên thua, thua thì bị tù; ở tù thì bị khinh khi, hành hạ.  Đó là chuyện không có gì khó hiểu.

 Nhưng giờ đây, thật tình tôi cảm thấy không vui khi có nhiều người mà tôi thật tình nghĩ chỉ vì họ vô tâm, thiếu hiểu biết nên mới hân hoan đón nhận những thứ  độc hại mà “bên thắng cuộc”  đã khéo léo văn hoa sử dụng, rồi lại dùng phương tiện và uy tín sẵn có của mình mà ồn ào phổ biến cùng khắp qua các phương tiện truyền thông.  Khốn nỗi, độc giả và khán thính giả lại ngưỡng mộ và tin cậy họ.  Đó mới là điều nguy hiểm, rất đáng lo ngại. Xin mọi người hãy nghĩ lại! Nhưng thôi.  Đây cũng chỉ là một giả thuyết bên cạnh những giả thuyết khác!  Chứng minh đúng hay sai, xin tùy quý độc giả xét định.

Và trước khi chấm dứt mấy chuyện lạm bàn lẩm cẩm này, người viết thành thực xin quý độc giả thông cảm cho cái thói quen lắm lời và hay nhìn lỗi phải của ngưòi khác, một thói xấu dễ làm cho người khác khó chịu.  Xin quý vị tha thứ cho một nhà giáo vốn không được đào tạo chuyên nghiệp mà lại kiếm sống khá nhiều năm bằng cách “bán cháo phổi” từ khi còn học, và sau khi tốt nghiệp Cao Học (dạy Sử Địa ở Trung Học, kèm trẻ tại gia đủ thứ môn); dạy Kinh Tế ở vài Đại Học tư khi ở Mỹ về; đạp xe cọc cạch đi dạy Anh Văn trên khắp hang cùng ngõ hẻm ở Saigon sau khi ở tù 5 năm ra vv)!   Một lần nữa, xin quý vị lượng thứ.  Xin đa tạ!

Lê Văn Bỉnh

Virginia, Tháng 10 Năm 2017

Views: 698

Thời gian còn lại

Khánh Hà

Hãy trân trọng thời gian còn lại

Một ngày, một tuần hay bao lâu

Chẳng biết lúc nào thì khép lại

Bỏ lại sau lưng thế giới  sầu

 

Đáng lẽ ra cuộc đời quá đẹp

Trời sanh ai cũng có nụ cuời

Nếu tặng nhau mỗi lần gặp mặt

Là cho nhau một món quà vui

 

Trong thiên nhiên bao nhiêu kỳ thú

Từ đóa hoa nhỏ bé bên đuờng

Đến khí trời, núi non, sông biển

Và khoảng không mầu nhiệm khôn luờng

 

Chung quanh ta tràn đầy ân sủng

Nếu mở lòng cảm nhận tình thuơng

Không tham cầu si mê vọng tuởng

Thế giới ta cả một thiên đuởng

 

Khánh Hà

Views: 248

Ngôn Ngoại

Tâm Thanh

Tôi về Việt Nam ăn Tết, khi trở ra, gặp một chuyện trên máy bay, tới bây giờ vẫn còn lấy làm lạ. Tôi cũng hơi áy náy nữa, nên mong bà ngồi bên tôi chuyến đó, ghế số 27E, tình cờ đọc được bài này sẽ cho tôi biết tin bà có bình an không, mặc dầu khi chia tay, bà ra dấu hiệu ‘Cứ yên tâm’.

    Đầu tiên khi lên máy bay tôi đã thấy bà chiếm chỗ của tôi, 27D, mà ngủ li bì. Lạ thật, mới lên máy bay đã ngủ. Tôi không dám đánh thức vì thấy mặt bà co giật một cách khổ não, chỉ sợ đụng phải lỡ bà lăn đùng ra thì mang vạ. Đấy, cái gì tôi cũng cứ nói thật, xin bà bỏ qua. Cuối cùng, vì bị hành khách đi sau thúc quá, tôi đành bước qua người bà mà vào chỗ ngồi tạm. Trước khi máy bay chuyển bánh ra phi đạo để cất cánh, cô tiếp viên tới kiểm soát, thấy bà chưa cài dây an toàn, lại bảo tôi cài cho bà. Một sự lầm tưởng tai hại. Nhưng tôi không đủ lanh trí để cải chính một cách tế nhị, chẳng lẽ tự dưng tôi nói ‘bả không phải vợ tôi’? Vả lại, cài giùm cái dây có cần gì phải là vợ chồng? Tôi nghiêng qua người bà tìm mối dây bên kia, nghe nồng nực mùi dầu cù là. Tôi nín thở cài khóa, tiếng kim loại ăn khớp kêu crắc xác nhận là tôi đã làm chu đáo một nhiệm vụ nhỏ, nhưng có thể trở thành lớn, nếu nói dại có trục trặc gì xảy ra. Nhưng máy bay cất cánh an toàn. Khi đèn báo hiệu cho phép cởi dây an toàn, tôi cởi cho mình, rồi tần ngần nghĩ đã cài cho bà, thì tôi cũng nên cởi cho bà.

    – Ê! Làm gì kỳ vậy, cha già mắc dịch!

    ‘Chát!’ Bàn tay tôi bị bắt quả tang đang thò sang lòng bà. Tôi vừa giận vừa xấu hổ, ức quá mà không dám gây sự lại. Thôi thì phải tự an ủi là bà chưa ngoác mồm tuôn ra một tràng xỉ vả nặng hơn nữa, và còn may là hành khách chung quanh coi bộ không ai chú ý tới lời ‘vu cáo’ trắng trợn kia. Tôi đành im lặng chịu trận cho tới khi nghe bà nói trổng:

    – Mắc đái thấy mụ nội. Bao giờ máy bay mới ghé đổ nước, cho hành khách đi đái không biết?

    Được dịp ‘đáp lễ’ sự lỗ mãng của bà bằng sự đàng hoàng và kẻ cả của mình, tôi chỉ giùm làm phước:

    – Toilette ở trước mặt kia kìa, bà.

    Bà ngơ ngác nhìn lên rồi ngơ ngác nhìn lại tôi:

    – ‘Toa với lết’. ‘Lết’ đi đâu cha nội? Tui mắc đái xón ra quần bây giờ nè. Chạy te không kịp, ở đó mà ‘lết’.

    Tôi bỗng nhận ra bên cạnh tôi là một người đàn bà, mặt thuôn dài, lưỡng quyền cao, khá đẹp, nhưng quê như một cục đất. Tôi hết giận:

    – Bà có biết đọc … xa tới đằng kia nổi không?

    – Chữ ta thì đánh vần được chớ, sao không? Mắc cái chữ Tây ôn dịch gì đâu. Mà biển gì kẻ chữ bằng con kiến!

    – Bà khỏi cần đọc chữ cũng được. Lên đó, thấy có cái cửa nào có vẽ hình ông Tây với bà Đầm, thì bà vào mà … đái.

    Bà vừa nhổm dậy đã bị sợi đai trì lại, la to:

    – Ối chu cha! Con mẹ đứa nào nó cột eo ếch tui, tế mồ tế mả nhà nó!

    Tôi im thin thít, không dám tự thú nhận ‘tội ác’ của mình, chỉ giúp bà mở khóa

dây. Giữa lúc không hề dám mong đợi, tôi lại được bà ban cho một nụ cười tươi rói, và một giọng ỏn ẻn:

    – Té ra hồi nãy chú tính cởi trói cho tui hả? Không biết đứa mắc dịch nào đi tầu đi xe mà còn phá.

    Rồi bà lảo đảo đi lên cầu tiêu, lâu lắm mới thấy trở lại:

    – Không thấy nhà cầu đâu hết. Chú giắt tui đi được hôn?

    Tôi tính nói ‘bảo đảm bà không kiếm ra cái cầu cá tra trên máy bay đâu’, nhưng lại im lặng hướng dẫn bà lên cầu tiêu, mở một cửa trống chỉ cho bà vào. Bà ngạc nhiên:

    – Thì hồi nẫy người ta cũng chỉ cho tui cái tủ kín bưng như vầy. Có cầu kiều mẹ gì đâu?

    Đã trót thì trét, tôi kéo bà vào hẳn bên trong, chỉ cho bà cách ngồi cầu, xé giấy, cách bấm nút xối cầu, rửa tay bằng xà bông, và thoa nước thơm, đủ lễ bộ. Để chắc ăn, tôi bảo bà làm ơn thực tập thử cái thủ tục quan trọng nhất là nhấn vào cái nút xối cầu. Bà vừa thò tay nhấn nút, tiếng cống hút rồ lên như cọp táp gà con, bà ôm chầm lấy tôi la:

    – Trời đất thiên địa ơi! Con gì nó rống quá trời!

    Khi tôi để bà ở lại và đi ra, có một một cậu Việt Nam đứng chờ, nhìn một cách hóm hỉnh nói nhỏ:

    – Ông bà tình ghê!

    Câu này, chắc hôm đó bà không nghe đâu, nhỉ? Về chỗ, tôi vẫn ngồi vào cái ghế đã bị đổi, đầu tràn ngập những dấu hỏi về người đàn bà kỳ lạ. Bà đi với ai? Đi đâu? Làm gì? Khi bà trở lại, lò dò mãi không tìm thấy chỗ, tôi phải vẫy tay, kêu:

    – Bà ơi! Đằng này nè!

    Tôi nghe từ hàng ghế sau, phía bên trái có giọng đàn bà, tiếng Việt:

    – Ông già lấy được bà vợ đẹp, chỉ tội quê không để đâu hết.

    Bụng tôi thon thót theo mỗi bước chân của bà, chỉ lo ngại cho những cái đầu người ngồi dẫy bìa bị tay bà quơ phải, lỡ mà bà nhằm cái đầu tóc giả của một ông Tây mà vịn thì tôi phải tuyên bố ‘ly dị’ ngay tại chỗ. Nhưng tôi thở phào khi cuối cùng bà tới được chỗ ngồi bình an, gieo bàn tọa cái rầm, thả ra mùi ‘eau de Cologne’ pha lẫn mùi dầu cù là lổn ngổn.

    – Bà đi máy bay lần đầu?

    – Chớ lần mấy?

    – Bà đi đâu ạ?

    – Phần-lan.

    – Bà đi thăm bà con bên đó, chắc?

    – Bà con hồi nào? Theo chồng.

    – Ông nhà sang Phần-lan lâu chưa?

    – Chả người Phần-lan …

    Bà kể bà làm nghề chèo ghe đưa khách tại bến đò Vĩnh Long. Chở bạn hàng cũng có, mà sau này chở khách du lịch cũng có. Thường thì bà chậm chân, không tranh được mấy mối khách du lịch béo bở. Một hôm bà để ý có một ông khách Tây cứ ngồi uống cà phê đá mà nhìn bà cả buổi, ‘cái đầu xồm không nhúc nhích’ và ‘cái môi đỏ chót liếm lia’. Cuối cùng ông đứng lên ra bến, đưa tay gạt hết mấy thằng giành mối ra một bên, mà tiến thẳng lại ghe bà, chẳng nói chẳng rằng, bước xuống, và bà chèo ghe cho ông coi cảnh trên sông Cổ Chiên. Bà nói tiếp:

    – Tối về chả rút bóp ra một xấp tiền đô. Tui hổng dám lấy. Thằng chả xòe ra biểu lấy một ít cũng được. Nhưng chú tính coi – ai lấy kỳ vậy?

    Cô tiếp viên đưa khay ăn tới. Tôi giúp bà hạ bàn con xuống, chọn nước uống, và chỉ bà cách dùng mấy thứ lỉnh kỉnh như dao nĩa, khăn ăn v.v. Và tôi ngạc nhiên tại sao một người chèo đò nhà quê mà có bàn tay búp mang đẹp như vậy. Bà cầm dao ăn như cầm búa, nhưng ăn vén khéo và rất … bạo -so với các mệnh phụ phu nhân khác. Vẻ tự nhiên của bà và những món ăn hấp dẫn với rượu vang khiến tôi phấn chấn tinh thần. Tôi thấy đã đủ thân mật để nói đùa:

    – Bà không lấy tiền, chứng tỏ bà mê ông rồi?

    Bà cười khinh khích:

    – Mê cái mốc xì họ. Bộ ghe chùa sao? Tôi lấy cái tờ có vẽ số 1.

    – Sao bà không lấy tờ vẽ số 10 hay 20?

    – Lấy đủ công mình thôi chớ.

    – Rồi sau đó?

    – Sau đó hả? Mấy bữa sau, bữa nào chả cũng trở lại thuê ghe tui đi chơi lòng vòng… Rồi chả đòi lấy tui.

    – Ý! Chết mẹ người ta chưa!

    Dầu biết trước bà đang trên đường đi về nhà chồng, tôi buông ra một câu sững sờ như thế vì hồi kết cuộc tới một cách đột ngột quá. Không ngờ tiếng reo của tôi đã đậm đà giọng của bà, thốt ra mà thấy sướng cổ họng.  Nhưng thấy sau đó bà im bặt, tôi lại lo bà giận tôi lỗ mãng.

    – Xin lỗi nhé!

    – Lỗi gì?

    – Dạ, không.

    Tôi chờ đợi một câu truyện hấp dẫn, có đầu đuôi hơn. Tôi muốn biết buổi hẹn hò đầu tiên ở đâu? ông tỏ tình thế nào? tại sao bà biết ông thương mình thiệt? cái gì làm cho bà thích ông? ông làm nghề gì? có tổ chức đám cưới không? Nhưng bà không kể nữa, tiếp tục ăn món tráng miệng, khen ngon.

    Tôi uống sang ly Cognac thứ ba, nghe ra giọng nhừa nhựa của chính mình:

    – Dô! Dô! Mừng cho mối tình của bà! Đẹp thấy … mẹ!

    Bà nhìn tôi, cau mặt:

    – Ê! Chú hổng nên bắt chước tui ăn nói cái kiểu ẩu tả đó.

    Thế ra bà vẫn biết mình ăn nói khác thường. Tôi chữa:

    – Bà nói ngon lành hết xảy, chứ đâu có … ẩu tả.

    – Chú nói thiệt tình hay xí gạt tui?

    – Tui xí gạt bà làm mẹ gì? Bà là người tốt muốn chết.

    – Chú coi bộ cũng được, nên tui khuyên chú đừng bắt chước tui. Tui trót học thói xấu, không sửa được. Không muốn sửa. Thằng khốn nạn đó …

    Tôi ngạc nhiên, tại sao mới ‘thằng chả’ thân mật đã lên cấp ‘thằng khốn nạn’?

    – Bà nói ai … khốn nạn?

    – Thằng chồng của má tui.

    – ‘Chồng của má’, tức thị là cha ?

    – Cha ghẻ tui đó. Mà tui có kêu chả bằng cha đâu.

    – Sao vậy?

    – Nó nhậu say rồi đánh đập mẹ tui tối ngày. Một hôm nó định giở trò súc vật  với tui, mẹ tui bắt gặp, nó đánh mẹ tui bất tỉnh nhơn sự, tui quơ con dao yếm, huơ cho nó ớn mà giang ra, ai dè nó tự lao thây vào lãnh dao, chết ngắt. Đúng là số chả chết. Bị thần Lưu Linh vật. Tui .. tui không cố ý. Ông ta cũng thông cảm cho tui như vậy. Tui chỉ bị ba năm cải tạo. Lúc má tui đau nặng, người ta lại thả cho về sớm gần năm để nuôi bả.

    Bà ngưng kể, khóc. Tôi im lặng để bà khóc tự nhiên, nhưng thấy bà khóc mãi, tôi an ủi:

    – Việc đã qua rồi. Bà đừng buồn nữa.

    Bà mủi lòng, khóc mùi hơn:

    – Tui nhớ má tui với thằng Mẫn quá. Tui bỏ đi thiệt là tệ. Không ai coi chừng má tui với nó hết trơn.

    – Thằng Mẫn là ai?

    –  Nó là em cùng mẹ khác cha với tui. Nó bị tàn tật, què giò.

    – Cha em là ai?

    – Thằng chồng mắc toi của mẹ tui, chứ ai?

    Tôi quay nhìn khuôn mặt hiền lành đẫm nước mắt và nghĩ có lẽ chính khuôn mặt này đã làm cho các quan tòa giảm khinh cho bà tội vô ý giết người. Phải tay tôi, đã cho bà trắng án. Rồi như bấm nút, bà nín bặt, chùi nước mắt, nói ráo hoảnh:

    – Bảy năm cãi lộn với thằng cha ghẻ và hai năm cải tạo, hết thảy chín năm, tui quen ăn nói ba trợn. Sửa lại thấy … miệng lạt nhách.

    Bà nói xong than:

    – Tui mắc ói quá. Trước khi lên máy bay đã uống ba viên thuốc, mà còn mắc ói.

    – Hèn gì bà vừa lên máy bay đã ngủ li bì.

    Tôi vừa kịp banh cái bao ói thì bà ọc ra. Bà lại lấy dầu cù là ra xức. Cái nồng nàn của những chuyến đò đêm, cái ngất ngưởng của những chuyến xe đò trưa nắng, cái bệnh viện lưu động đó, dầu cù là con hổ. Hai mươi năm mới gặp lại, gặp lại vẫn nồng. Tôi bật ghế cho bà nằm nghỉ. Tôi cũng ngả người, nhắm mắt, suy nghĩ miên man về câu truyện của bà. Thỉnh thoảng tôi hé mắt, thấy bà chăm chú coi phim trên bàn ảnh truyền hình. Tôi chỉ cho bà đeo ống nghe. Tay chạm phải bộ tóc thật rậm, khỏe mạnh.

    Không biết máy bay đã bay tới đâu và mấy giờ ở dưới mặt đất. Tôi có cảm tưởng thời gian và không gian như đọng lại ở một nơi xa lạ, không liên quan tới trái đất. Nhưng tôi vẫn tưởng tượng dưới đó hàng mấy tỉ người đang lao xao cười, khóc, nói thật và nói dối, thông cảm và ngộ nhận, bằng nhiều thứ ngôn ngữ, chân ngôn xen lẫn ngụy ngôn.

    Tôi thức giấc đã nghe nhiều người rục rịch. Bà đã bật ghế thẳng, ngồi đan áo, tôi hỏi:

    – Bà không ngủ?

    – Ngủ mẹ gì được. Vừa chợp mắt đã nghe tiếng gà gáy.

    Tôi ngạc nhiên:

    – Trên máy bay, làm gì có gà kìa?

    Bà không do dự:

    – Chắc nó gáy trong đầu tui. Bị ở nhà quê, nghe gà gáy riết, quen đi, cứ gần hừng sáng là nghe gà gáy trong tai.

    Hình như bà giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng trực giác. Thuần trực giác. Tôi chắc người đàn ông gặp bà trên bến đò Vĩnh Long cũng có trực giác rất mạnh. Tôi thích nghe tiếp câu truyện về họ.

    – Tại sao ông không về Việt Nam … rước dâu?

    – Chú đừng kiêu ngạo tui… Chả đòi sang đó chớ. Nhưng tui không cho. Tui nói dìa chi tốn tiền. Tui xin món tiền đó cho thằng Mẫn ăn học, chả bằng lòng, gởi tiền dìa rồi.

    Khi bà dẹp len và kim đan để chuẩn bị ăn điểm tâm, tôi hỏi:

    – Bà đan áo cho ông?

    – Bển nghe nói lạnh lắm.

    Chúng tôi ăn xong, máy bay qua một vùng ‘ổ gà trời’, hổng lên hổng xuống. Đèn báo nhắc cài dây an toàn. Lần này tôi chỉ cho bà cái khóa. Hành khách đi máy bay gặp những báo hiệu cài dây thế nào cũng ít nhiều lo lắng. Rủi ro, ai biết? Loa phóng thanh loan báo có bão, nhưng hành khách có thể yên tâm. Tôi lòn tay dưới gầm ghế, lấy cái phao cấp cứu. Bà hỏi:

    – Cái gì vậy?

    – Cái phao cấp cứu. Tôi chỉ kiểm soát xem nó có đó không, để mình yên tâm.

    – Tui đi sông đi nước hai chục năm trời, chẳng phao phiếc gì, cũng chẳng chết. Hôm đầu thằng chả xuống ghe cũng bày đặt hỏi phao, tui nói không cần, chả cũng chịu. Riết rồi chả nói đi ghe với tui mà không mang phao mới thích.

    Bà không lộ một thoáng lo âu nào. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này bay trên 10 ngàn bộ cao mà tưởng mình đang bơi xuồng trên sông Cổ Chiên, xuồng lật, chỉ việc nhào xuống nước bơi. Tôi cất phao trở lại chỗ cũ, hỏi:

    – Bà có chắc ông sẽ ra đón không?

    – Tui chắc mà. Tui biết ai là người tin được. Tui biết thằng cha này không bao giờ nói xạo.

    Tôi nhớ một sự tích trong Tân ước: Một hôm thuyền của các môn đệ gặp sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt nước ra với họ, nhưng họ càng sợ hơn vì tưởng là ma. Chúa nói ‘Thày đây, đừng sợ’. Đại môn đệ Phêrô mừng quá nói ‘Nếu là Thày thì xin cho con đi trên mặt nước đến với Thày’. Chúa phán ‘Con lại đây!’ Phêrô bước xuống, đi trên mặt nước, được mấy bước, thấy sóng to quá, ông đâm hoảng, và chìm xuống, Chúa phải đưa tay ra đỡ lên thuyền. Ngài trách yêu ‘Cái đồ yếu lòng tin!’

    Tôi cảm phục lòng tin của bà lắm, bà ạ: Bà bước thẳng lên mây đến với chồng. Tôi nghĩ mọi người trên chuyến bay này đều biết trước về cuộc hành trình, và biết điểm tới. Chỉ có bà nhắm mắt mà bước lên mây, không biết điểm tới nằm chỗ nào trên mặt đất. Bà đi tới với chồng, chứ không đi tới một nơi nào cả. Không một giây hồ nghi. Câu hỏi ‘Liệu ông chồng có tới đón không?’ chỉ bám vào đầu tôi, một con người thường thấy quá nhiều sóng lớn trên biển đời, lòng tin thường bị nhận chìm, đến nỗi mỗi bước đi về sau trở thành một dấu hỏi.

    Tôi phải chờ bảy tiếng đồng hồ tại Copenhagen để được chuyển máy bay đi Oslo. Lịch trình bay đã ghi như vậy từ đầu. Còn bà, theo lịch trình lẽ ra chỉ phải chờ ba tiếng để chuyển máy bay, nhưng vì trục trặc đình công sao đó, phải thêm hai tiếng trễ nải. Chính hai tiếng trễ nải này khiến cho tôi lo ngại giùm bà. Tôi đề nghị:

    – Bà nên báo cho chồng bà biết máy bay trễ.

    – Chả biết mà … Cái gì chả cũng biết hết đó.

    ‘Cái gì chả cũng biết’, đã tin ắng đi như vậy, thì thôi, kệ bà. Tôi hướng dẫn bà  đi coi các gian hàng trong sân bay. Bà bị kích thích mạnh vì vẻ choáng lệ và đồ vật bày trong các cửa hiệu. Bà trầm trồ, reo vui. Tôi hỏi bà có định mua cái gì làm quà cho chồng không, vì đồ ở đây miễn thuế, rẻ hơn ở ngoài, bà nói:

    – Tui mang theo nhiều đồ lắm, khỏi cần mua. Chú đừng cười nghe, tôi may ba bộ birama, kho một nồi tôm, và mua năm ký bánh phòng tôm, hai ký kẹo dừa. Nghe nói mấy thứ này ở bên tây không có. Mèn ơi! Tây u gì mà nó thích ăn tôm kho tầu gì đâu …

    Đi với bà, tôi có cái vui thích như đi bên cạnh một đứa trẻ tò mò. Trẻ ngoan nữa, vì bà từ chối khi tôi đề nghị mua tặng một cái máy sấy tóc mà bà rất thích.

    – Ai lại để chú mua, kỳ chết. Để chả mua cho tui, nếu tui còn thích.

    Theo tôi, bà có một bộ tóc mây quá đẹp. Tôi hy vọng ông chồng sẽ thuyết phục được bà đừng uốn tóc. Tôi thăm dò:

    – Tóc bà để tự nhiên như thế đẹp hơn.

    – Biết đâu thằng chả.

    ‘Biết đâu thằng chả’, thế là cả nhan sắc bà cũng giao cho ông luôn.

    – Hèn gì.

    – Chú lẩm bẩm cái gì?

    – Dạ, không. À, tôi định nói con gấu bông kia nhỏ bé quá, hèn gì ai cũng muốn bồng.

    Tuy nhiên, bà càng tin tưởng, phó thác một cách ngây thơ, đầu óc đầy sạn của tôi càng nghi ngại. Rủi chồng bà không tới, bà sẽ xoay xở ra sao ở nơi xa lạ? Khi đi qua một trạm điện thoại, tôi đề nghị:

    – Bà nên điện thoại cho ông báo tin báy bay trễ, để ông khỏi lo.

    Bà ngẫm nghĩ, rồi trả lời:

    – Chú nói có lý. Nhưng làm sao ra nhà dây thép gió bây giờ?

    Tôi lấy cái thẻ nhựa của tôi tra vào máy điện thoại, và quay số bà ghi trong một tờ giấy nhét cẩn thận trong bóp. Chuông điện thoại reo. Bỗng tôi ngại ngùng, có thể nào người đàn ông nghe tiếng tôi ở đầu dây bên này, biết tôi đứng bên cạnh vợ ông và đâm ghen không. Tôi vội trao máy cho bà trước khi đầu dây bên kia trả lời. Tôi nghe bà la oang oang bằng tiếng Việt :

    – Ê! Ông Ron đó hả! Ê ông có nghe không, Ron, Ron, Ron?!

    Bà nói liên hồi, xăng xái. Bà bụm bàn tay trước ống nói mà hét lên, cũng không có tiếng trả lời. Tôi nhớ chúng ta thử lại nhiều lần, bà nhỉ. Nhưng không ai trả lời. Tôi an ủi:

    – Có lẽ ông đã đi đón bà, và đang chờ ngoài phi trường.

    Sắp tới giờ bà phải lên máy bay, tôi cần được giải đáp vấn nạn lớn nhất rằng tại sao một con người ăn nói mộc mạc như bà lại có thể làm cho một người đàn ông lạ say mê cưới làm vợ. Và, mặc dầu bà thường kể ‘chả biểu, chả nói’, nhưng nói bằng ngôn ngữ gì? Suốt cuộc hành trình, tôi biết bà không hiểu một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ, làm cách nào ông bà hiểu nhau, hiểu một cách thâm sâu như thế? Cụ thể nhất là có thiệt ông hẹn bà sang Phần-lan chuyến này? Và có chắc tất cả mọi truyện không bắt đầu từ một sự … hiểu lầm nào đó do bất đồng ngôn ngữ? Tôi hắng giặng hỏi:

    – Tôi hỏi không phải, ông bà nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt hay tiếng Phần-lan?

    Bà xăng xái:

    – Tiếng Việt mình, thằng chả có hiểu con mẹ gì.  Còn cái tiếng quỉ tiếng ma gì của chả, tui cũng đách hiểu.

    Cũng hay. Nhờ không biết tiếng Việt, ông khỏi cần hiểu ‘con mẹ’ với ‘cái đách’ là gì. Có lẽ chỉ cần hiểu gật đầu là ‘có’ và lắc đầu là ‘không’ , hai tín hiệu mà nếu thông suốt, minh bạch, con người đỡ được bao nhiêu phiền trược trong cái biên giới u minh nửa không, nửa có, của ngôn ngữ. Tôi nghe nói bộ óc điện toán cũng chỉ biết ‘gật đầu’ và ‘lắc đầu’. Phương chi, con người, không phải chỉ có bộ óc, mà còn trái tim kỳ diệu. Điều này làm cho tôi, khi tiếng loa mời hành khách đi Helsinki vang lên, cảm thấy bớt áy náy. Cái gì làm cho một người đàn ông từ Helsinki sang tận bến đò Vĩnh Long gặp bà, thì cũng đang hướng dẫn bà từ Vĩnh Long sang Helsinki bình an.

    Bà le te ra cổng số 39, tươm tất trong cái áo vét xanh đậm và quần tây thẳng nếp. Tôi đứng ngoài, bịn rịn nhìn theo, bà quay lại vẫy tay. Cái vẫy tay cũng không giống ai, bàn tay đưa ngang vai, lòng úp xuống, ngón tay phẩy phẩy ra phía ngoài, như giục tôi cứ đi đi. Cứ yên tâm.

Tâm Thanh

Views: 773

Cái Chết Không Bình Yên  

Lê Văn Bỉnh

 

Một người sống còn

Sau biến cố với mấy mươi nhát dao đâm vào thân thể

Và một người sắp chết một cái chết không bình yên

Sau những năm dài bệnh hoạn triền miên

Ông thích chọn trường hợp nào

Vị học giả già châu Phi vui tính hỏi tôi khi ông nằm trên giường bệnh

 

Sống vẫn hơn

Tôi trả lời ngay bằng nghĩ suy chức nghiệp

Nhưng cũng chia xẻ

Về những tháng năm dài trải nghiệm trong các trại tù cải tạo quê nhà

Bốn mươi năm sau hồi tưởng

Vẫn còn đau đớn xót xa

Vâng ông bảo cái chết không bình yên không có gì đáng sợ

Chỉ  thương cho thân nhân nhìn nghĩ về mình

Hôm nay và ngày mai khi mình đã vắng bóng trên cõi đời này

 

Thượng Đế tạo tôi ra

Để làm đẹp vương quốc của Ngài

Ngài  may mắn nếu tôi đóng góp được điều hay

Và rủi ro khi tôi làm nhiều điều xấu

Ngài sẽ không màng về sự thiếu vắng của tôi

Là Một Nhà Giáo Dục Vĩ Đại

Ngài muốn con người luôn tư duy về những việc mình làm

Chúng ta còn biết làm gì hơn trong khi còn lây lất

Nhưng quả tình tôi không biết tôi suy nghĩ để làm gì

Hay chỉ  để chia xẻ một chút với ông và con cháu

Chưa bao giờ tôi muốn trở lại trần gian này thêm kiếp thứ hai

Cuộc sống con người chưa bao giờ dễ

 

Ông mỉm cười khi bắt tay tôi từ giả

Nụ cười thân thiện đó

Cái lạnh bàn tay ông

Đến hôm nay tôi còn giữ lại

 

Lê Văn Bỉnh

Views: 305

Bông Hồng Trắng

Trần Văn Lương
 
Thùy :
                   Đường luân hồi quạnh quẽ,
                   Cõi nghiệp thức mang mang,
                   Cất bước đi tìm mẹ
                   Bi thương đọng mấy hàng.
                         (Mục Kiền Liên lên đường tìm mẹ)            
  Tụng:
          Bông Hồng Trắng                                                 
                        (Kính dâng U)                                                  
Rằm tháng bảy mưa trời không chấm đất,
Con lên chùa lòng u uất khôn nguôi,
Nhìn ai ai cũng hoa đỏ thắm tươi,
Mà tủi phận gắn lên người hoa trắng.
Sau Phật điện, phòng hương linh tĩnh lặng,
Khói nhang mờ cùng vạt nắng nương nhau.
Màu khăn tang che khuất kín niềm đau,
Ngàn ánh mắt từ vách cao buồn bã.
Khung ảnh mẹ giữa hàng trăm ảnh lạ,
Đôi mắt  già tựa  biển cả đau thương,
Thương cho mình trót  giũ nợ  tha phương,
Thương con cháu cõi vô  thường trôi nổi.
Tiếng mõ gỗ đục ngầu theo làn khói,
Giọng kinh buồn như réo gọi hồn xưa,
Nến sụt sùi đang khóc trọn cơn mơ,
Con tiếc  nhớ những ngày thơ đã khuất.
Xưa theo mẹ ngày Vu Lan lễ Phật,
Con dại khờ, luôn đánh mất cành hoa,
Đâu biết rằng niềm hạnh phúc bao la,
Được gói trọn trong nụ hoa đỏ thắm.
Cậu mất sớm, mẹ trăm ngàn cay đắng,
Nách năm con, vượt bao dặm sơn khê,
Một đời người chịu mấy bận lìa quê,
Thân cát bụi chưa được về chốn cũ.
Cuộc đời mẹ là chuỗi dài khốn khổ,
Không họ hàng, thân góa bụa long đong.
Tuổi xa trời, sống nhờ đất lưu vong,
Khi nhắm mắt, cháu con còn thăm thẳm.
Con mơ ước, sao đem dòng máu ấm
Từ tim con nhuộm thắm lại nụ hoa,
Để cho con được thấy lại mẹ già,
Dù chỉ thoáng vài sát na ngắn ngủi.
Nhưng hoa trắng vẫn nguyên  màu sám hối,
Và mẹ hiền vẫn lạc lối nơi đâu,
Con đớn đau trước ảnh mẹ gục đầu,
Lòng chua xót chỉ biết cầu biết khẩn.
Cài hoa trắng, con đành lòng chấp nhận,
Khoác lên người thân phận kẻ mồ côi.
Mẹ đã đi xa vĩnh viễn thật rồi,
Con mất mẹ, mẹ ơi, con mất mẹ.
Làn khói trắng tỏa lên cao nhè nhẹ,
Kinh cầu hồn buồn cắt xé ruột gan,
Ngọn gió lùa thêm buốt giá thân nhang,
Nến cháy dở vun từng hàng nước mắt.
                         x
                   x          x
Trời tháng bảy, mây mù không xuống đất,
Chốn quê nhà đang lất phất mưa Ngâu,
Riêng mình con thương nhớ mẹ âu sầu,
Cài hoa trắng mà cúi đầu buồn tủi.
Dù nghiệp chướng trải ba ngàn thế giới,
Dù luân hồi trăm vạn lối mang mang,
Nếu kiếp sau phải trở lại trần gian,
Con chỉ muốn mãi được làm con mẹ.
                   Trần Văn Lương
                  Cali, Vu Lan 2001

Views: 140

Tình không biên giới

Nguyên Trần

Trời sinh chi cái nòi tình

Bướm ong rộn rịp đắm mình cuộc chơi

Trăm năm hưởng thú vui đời

Quan tài bên cạnh vẫn lời trăng hoa

 

 

 

 

 

 

Lời tác giả: Câu chuyện dưới đây hoàn toàn là hư cấu, nếu có sự ngẫu nhiên trùng hợp tên tuổi thì đó là ngoài ý muốn tác giả.

1) Cuộc tao ngộ kỳ thú:

Vinh đang ngồi ôm đầu với xấp hồ sơ mật của Ty Nội An và Ty Cảnh Sát Vĩnh Bình phúc trình những vụ xuống đường bạo động của nhóm sư sãi Phật Giáo Theravada dưới sự lãnh đạo của Đại Đức Thạch Sim, trụ trì chùa Ông Mẹt thì bỗng có tiếng gõ cửa rồi chú Sáu tùy phái bước vào nói:
– Thưa ông Phó ! Có một cô tên là Thanh Nguyên xin gặp về việc người cha bi bắt oan.
Vinh bực mình lẩm bẩm: “ Oan với ưng. Lại khiếu nại lôi thôi nữa đây”. Tuy vậy chàng cũng bảo chú Sáu mời khách vào.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm. Nhìn mái tóc đen huyền mượt mà thả nhẹ xuống bờ vai thanh tú trên thân hình cân đối thon thả làm Vinh liên tưởng tới tứ đại mỹ nhân bên Trung Hoa thời xưa. Không lẽ mỹ nhân từ tiền kiếp nào lại hiện về đây với chàng. Sao giống như những chuyện liêu trai Bồ Tùng Linh quá vậy ta? Sự xúc động mê say làm Vinh ngẩn người ú ớ quên cả phép xã giao tối thiểu đến độ người đẹp phải nũng nịu cười lên tiếng qua giọng nói thật dịu dàng ngọt mật tới chết người:
– Ông Phó cứ nhìn em hoài mà không chịu mời em ngồi sao?
Tới chừng đó chàng mới hoàn hồn mà suýt soa :
– Ấy chết! Tôi vô ý quá, xin cô thứ lỗi cho. Mời cô ngồi.
Liền đó, cô gái dịu dàng lên tiếng:
– Trước hết, em xin tự giới thiệu với ông Phó em tên là Huỳnh thị Thanh Nguyên quê ở Song Lộc, là tiếp viên của Air VietNam, em cũng xin lỗi em vừa xong nhiệm vụ trên chuyến bay đi Vĩnh Bình hồi nãy là tới thẳng đây với bộ đồng phục vì em có chuyện gấp nhờ ông Phó giúp giùm. Có lẽ ăn mặc thế này không đàng hoàng lắm, xin ông Phó miễn chấp cho.
Vinh ấp úng nhìn người đẹp rồi thầm nghĩ rằng “ Nhưng mà người đẹp ơi! Tôi say mê cái “không đàng hoàng” này của cô lắm rồi đó cô ơi!”. Một lúc sau chàng mới giựt mình lên tiếng:
– À! Không sao cả. Vậy là hôm nay tôi đươc vinh hạnh diện kiến cô Thanh Nguyên, một dòng suối trong sáng. Tưởng đâu chứ Song Lộc thì gần Trà Vinh quá rồi. Tôi có thể giúp cô chuyện gì đây hở dòng suối trong sáng?
Người đẹp Air VietNam mỉm cười duyên dáng và e ấp chết người trước lối ví von của ông Phó trẻ rồi nàng cũng dí dỏm lại:
– Dạ! Dòng suối nầy đang chờ ánh nắng mặt trời đây.
Vinh liền đùa lại liền:
– Nếu vậy thì ánh mặt trời sẽ không bao giờ tắt để mang tia nắng dịu dàng tỏa lên trên dòng suối trong xanh.
Thanh Nguyên cám ơn những lời galant của Vinh rồi bắt đầu kể lể:
– Tuần trước sau khi xảy ra vụ cầu Ô Chát bị Việt Cộng giựt sập, tiểu đoàn 404 Địa Phương Quân đi ruồng bắt một số người ở xã Song Lộc trong đó có ba em là ông Huỳnh văn Phấn . Xin thưa thiệt với ông Phó quả tình là ông bị bắt oan. Ba em có con cái là lính Cộng Hòa là mấy anh của em, riêng ông thì cả đời chỉ biết làm ruộng mưu sinh nuôi con chứ đâu có dính dáng gì đến Việt Cộng. Em xin ông Phó xét lại cho gia đình em nhờ. Riêng em thì suốt đời em không bao giờ quên ông Phó.
“ Riêng em thì suốt đời em không bao giờ quên ông Phó”. Hình như nàng cố tình nuốt gọn đi chữ ơn để chỉ nói “quên ông Phó” thay vì “quên ơn ông Phó” chắc để cho người đàn ông ngồi đối diện mình chết luôn đây mà. Câu nói ngọt như mía lùi được thoát ra từ cửa miệng ngọc ngà của một giai nhân thì nói thiệt là có bảo Vinh nhảy vào lửa chắc chàng cũng nhắm mắt mà lao đầu vào chớ nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ là “xét lại cho gia đình em nhờ”. Nói không cường điệu chút nào thi câu nói “suốt đời em không bao giờ quên…” nghe thật tình tứ mời mọc như vậy thì đến mười ông Phó Vinh cũng chết chứ nói chi có một ông. Trong lòng Vinh lúc bấy giờ là bằng mọi cách phải trổ tài : “anh hùng cứu …cha mỹ nhân”.
Mặc dù thần hồn nát thần tính nhưng Vinh cũng còn chút sáng suốt cuối cùng là chàng đã không hứa hẹn gì mà chỉ nhỏ nhẹ trả lời người đẹp:
– Tôi rất thông cảm và tin những lời Thanh Nguyên nói, (đến đây thầy tuồng chưa phựt đèn màu mà ông Phó nhà ta đã nuốt mất chữ “cô” cũng giống như hồi nãy nàng Thanh Nguyên nuốt mất chữ “ơn” vậy), nhưng để tôi xem lại hồ sơ với Ty Cảnh Sát rồi mới có ý kiến được. Tôi chỉ xin hứa với Thanh Nguyên là tôi sẽ cố gắng cứu xét trong những điều kiện thuận lợi cho bác trai.
Nghe lời nói hứa hẹn đầy triển vọng của Vinh, lại nhìn thấy nét mặt “ngẩn ngơ như ốc mượn hồn” của chàng, Thanh Nguyên biết rằng ông Phó đã “thấm đòn mỹ nhân” của mình rồi, như vậy thì ba nàng có hy vọng lắm nên nàng liền bắn phát súng “ân huệ ”cuối cùng bằng giọng oanh thỏ thẻ ngọt ngào như để dứt điểm ông Phó:
– Mọi việc em chỉ trông cậy có ông Phó thôi. Rán giúp giùm em nghe. Em xin kết cỏ ngậm vành ơn nầy đó.
Nói nào ngay khi đánh bạo xin vào gặp Phó Vinh, Thanh Nguyên chỉ hi vọng là nhờ xem xét lại trường hợp ba nàng chứ ai ngờ diễn tiến cuộc gặp gỡ ra chiều thuận lợi như vậy. Điều nàng biết chắc là qua ánh mắt ngây dại của Vinh thì sắc đẹp nàng đã đóng một vai trò không nhỏ trong sứ mạng gia đình này. Thanh Nguyên thừa biết mình đẹp lắm, chẳng thế mà hồi còn học ở trường Trung Học Vĩnh Bình, mấy chàng học sinh và có cả thầy dạy đã say mê nàng như điếu đổ, thi nhau trồng sây si chật nứt trước nhà nàng. Và gần đây ngay trong kỳ thi tuyển hôtesse de l’air, nàng cũng đã đứng đầu, phần lớn nhờ vào bóng sắc mỹ nhân chứ thực ra phần ứng xử kiến thức nàng cũng tầm thường thôi.
Trong khi chuyện vãn, Thanh Nguyên với giọng điệu êm ái nhẹ nhàng cộng với sắc đẹp quyến rũ đã làm Vinh xao xuyến bần thần nếu không muốn nói là nàng đã hạ knocked out chàng ngay hiệp đầu tiên. Đến lúc chào từ biệt Vinh, nàng nhìn chàng với đôi mắt đắm đuối gợi tình (chắc là Thanh Nguyên muốn câu con cá cho chắc ăn đây mà) làm Vinh thấy cả vùng không gian chung quanh như mơ hồ tan biến vào một cõi bồng bềnh huyền hoặc mơ hồ mong manh. Trong một thoáng nào đó chàng muốn liều lĩnh bước tới ôm choàng lấy Thanh Nguyên để thỏa cơn sóng tình đang rào rạt dâng tràn nhưng rồi lại sợ nàng giận dữ rồi tát cho một bạt tay thì hư bột hư đường hết trọi. Sau một lúc yên lặng, Thanh Nguyên lại còn hôn nhẹ vào má Vinh rồi chào từ giã và quay gót bước đi để lại mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng bay cùng khắp cả không gian mờ ảo huyền hoặc của văn phòng . Nếu cụ Nguyễn Du diễn tả lúc chàng Kim Trọng tương tư Thúy Kiều qua 2 câu thơ trữ tình:
Mành tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Nhưng cái tơ tưởng của Kim Trọng có thể hiểu được vì chàng Kim xa vắng nàng Kiều đã lâu chứ còn ở đây thì Thanh Nguyên chỉ mới rời khỏi văn phòng có 5,10 phút thôi mà Vinh đã vấn vương vì hương yêu người đẹp rồi thì nhà em xin chịu thua thói đa tình của ông Phó ta. Sau cái hôn người đẹp ban cho, Vinh bỗng thấy ngây ngất bàng hoàng thiếu điều muốn chết đứng như Từ Hải vậy đó.
Từ lúc ra trường Quốc Gia Hành Chánh, chàng sinh viên Nguyễn tấn Vinh được bổ nhiệm về tỉnh Vĩnh Bình giữ chức vụ Phó Quận cho tới thăng cấp Phó Tỉnh Trưởng đã hơn năm rồi, đây là lần đầu tiên chàng diện kiến một cô gái đẹp gợi cảm như vậy. Vinh vốn thuộc nòi tình háo sắc đa tình nên rất mềm yếu trước những người đẹp, tuy nhiên nhờ trời thương hay nói thẳng ra là sợ “mất ghế” nên dù động lòng rung cảm thế nào đi nữa, thì trên công việc chàng cũng ít khi vượt lên nguyên tắc luật lệ để hành xử khuất tất. Trường hợp Thanh Nguyên cũng không ngoại lệ, Vinh phải hỏi Ông Cò Trung Tá Nguyễn Ngọc Phúc, trưởng ty Cảnh Sát, cũng là bạn thân tình với chàng, để xem hồ sơ của ông Huỳnh văn Phấn này ra sao rồi hội ý với người bạn nầy mới được.
Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ qua về thủ tục bắt giữ và xét xử tôi phạm chính trị vào những năm đầu thập niên 70. Vì tình hình chiến sự sôi động và khẩn cấp nên mỗi tỉnh có thiết lập một Ủy Ban tên là Ủy Ban An Ninh Phụng Hoàng Tỉnh (PPSC: Provincial Phoenix Security Committee) để xét xử những phần tử hoạt động nằm vùng thuộc hạ tầng cơ sở Việt Cộng (mà ta thường gọi là VCI = VC Infrastructure ) bị bắt giữ. Thành phần Ủy Ban gồm có:
Tỉnh Trưởng : Chủ tịch
Chánh Án : Ủy viên
Chủ tịch Hội Đồng Tỉnh : Ủy viên
Trưởng Ty Cảnh Sát : Thuyết trình viên (không quyền biểu quyết )
Trưởng ty Nội An : Thư ký (không quyền biểu quyết)
Cố vấn trưởng Tỉnh: Quan sát viên(không quyền biểu quyết)
Trên thực tế, vì vị tỉnh trưởng rất bận rộn nên thường ủy nhiệm Phó tỉnh trưởng thay thế mỗi khi họp.
Theo phúc trình của Ty Nội An, Vinh có biết sơ qua vụ cầu Ô Chát bị Việt Cộng giật sập và ngay sau đó quân ta hành quân lục soát bắt một số tình nghi mà trong số có ông Huỳnh văn Phấn, ba của Thanh Nguyên và tuần tới này, Ủy Ban Phụng Hoàng Tỉnh sẽ họp xét.
Để có đầy đủ dữ kiện, chàng gọi cò Phúc mang hồ sơ ông Huỳnh văn Phấn qua văn phòng để thảo luận. Sau một hồi lâu, Phúc tới với đầy đủ tài liệu nội vụ mà Vinh đọc kỹ thấy ghi là khi toán hành quân tới vây quanh khu vực cầu sập thì ông Phấn đang lảng vảng gần đó nên bị bắt về để điều tra. Trong biên bản hỏi cung thì ông ta khai là sáng đó ông ra rạch Ô Chát để thăm mấy lưỡi câu giăng tôm gặp đúng lúc lính Địa Phương Quân hành quân vùng đó bắt ông. Ông cũng khai là có con đi lính quốc gia (y như lời Thanh Nguyên nói và có giấy chứng nhận đàng hoàng). Hơn nữa từ trước đến nay ông chưa có hồ sơ lý lịch thành tích gì hoạt động cho Cộng Sản. Xem xong, Vinh hỏi ý kiến Phúc thì bạn ta nói rằng thực ra chưa đủ yếu tố để buộc tội ông Phấn, nếu Vinh muốn thì cũng có thể xếp hồ sơ với đề nghị để theo dõi tiếp. Thế cho nên đến ngày họp Ủy Ban Phụng Hoàng, Phúc thuyết trình từng hồ sơ đến phần ông Phấn, Phúc đưa ra những lý lẽ không gắt gao mấy nên Vinh thừa dịp đó đề nghị là trả tự do cho đương sự chỉ tiếp tục theo dõi mà thôi. Và may mắn là đề nghị được toàn thể Ủy Ban chấp thuận. Và ngay cả Đại Tá Harold Hayden cố vấn trưởng cũng không thắc mắc.
Mấy ngày sau đó, Vinh mong Thanh Nguyên trở lại để báo tin lành và nhất là để kiếm điểm với người đẹp. Chàng trông ngóng từng giờ phút trong văn phòng cho tới độ không dám bỏ đi đâu vì sợ nàng đến mà không gặp. Thế mà dòng suối trong sáng vẫn biền biệt âm hao làm chàng xốn xang bứt rứt mấy ngày trời. Có khi ngay tại nhà đang đùa giỡn với đám con mà chàng cũng thẩn thờ với ý nghĩ sao mà nàng quá vô tâm thờ ơ thậm chí…còn không biết điều nữa. Giúp cho cha nàng khỏi vòng lao lý không phải là một cái ơn lớn ư! Chẳng nhẽ nàng vô ơn vô tình đến thế! Nhưng chàng tự cố yên ủi là có thể nàng bận rộn bất ngờ vì những phi vụ Air Viet Nam nên chưa kịp tới ngỏ lời cám ơn chàng. Cái câu “thi ân bất cầu báo” nếu có thì chàng chỉ dùng để cho những người khác thôi chứ còn với nàng tiên Thanh Nguyên, chàng cần “cầu báo” lắm đó chứ, đó là báo đền một thứ nợ tình. Những ý nghĩ oán trách cứ dằn vật tâm tư làm chàng luôn ngẩn ngơ như ốc mượn hồn tới độ Huyền vợ chàng nhận thấy hỏi:
– Sao hổm rày công việc Tòa Hành Chánh có gì không ổn mà em thấy anh có vẻ bối rối quá vậy.
Vinh giật mình chống chế:
– Không! Không có gì đâu em! Chắc tại anh hơi yếu trong người.
Huyền lo âu và thúc giục:
– Để em cạo gió cho anh nha? Hay là em đưa anh đi bác sĩ ?
Ăn ở với nhau đã hơn 5 năm và đã có 2 mặt con, Huyền biết tính ý chồng ít khi lo lắng ưu tư, mà trái lại rất vui vẻ linh hoạt cho nên gương mặt “đưa đám” của Vinh mấy ngày nay làm nàng lo sợ. Nàng lại giục Vinh đi bác sĩ nhưng chàng trấn an:
– Không sao đâu em. Sức khỏe anh tốt lắm, anh biết mà , em đừng lo ( anh chỉ chờ tin của người đẹp mà anh mới quen biết thôi-Sic)
Và trong phút giây nào đó, chàng thấy thương yêu Huyền vô vàn vì cảm thấy tội lỗi với nàng quá. Trong cuộc sống lứa đôi, Huyền lúc nào cũng nhẫn nhục hy sinh và chiều chuộng chồng con và luôn tin tưởng chàng.. Vậy mà bây giờ anh chàng còn ngoại tình trong tư tưởng nữa đây? Nhưng ngay sau đó chàng tự trấn tỉnh là chỉ mơ mộng viễn vông văn nghệ nhất thời chứ lúc nào thì chàng chẳng là “ vợ cái con cột”.
Mãi hơn một tuần sau, Thanh Nguyên mới trở lại văn phòng để ngỏ lời cám ơn Vinh làm chàng vui mừng còn hơn trúng số. Nàng nhỏ nhẹ phân trần:
– Xin lỗi ông Phó, vì em bận đi bay liên tiếp nên đến hôm nay mới rãnh mà gặp ông để cám ơn. Em và cả gia đình không bao giờ quên ơn trời biển nầy.
Vinh rạng rỡ đáp lời:
– Khỏi cần lỗi phải gì. Sự có mặt của Thanh Nguyên hôm nay như liều thuốc hồi sinh cho tôi rồi đó.
Rồi chàng tiếp lời tán tỉnh người đẹp:
– Mấy ngày nay, tôi cứ trông Thanh Nguyên mãi.
Thanh Nguyên cười ranh mãnh:
– Ông Phó trông em chi vậy? Tính đòi nợ hả?
Vinh cớt nhã:
– Muốn đòi nợ thiệt đó mà không phải là nợ tiền đâu à nghe!
Thanh Nguyên ởm ờ vừa cười cười lả lơi quyến rủ:
– Món nợ đó em cũng muốn trả lắm nhưng sợ bà Phó bả giết em chết
Hai người vui vẻ tâm sự một lúc thì Thanh Nguyên đứng lên giã từ Vinh. Chàng bước lại kế bên nàng chỉ kịp liều mạng nói câu “Anh yêu em” rồi bất thình lình ôm choàng lấy người đẹp đang khép hờ đôi mắt như mời gọi để chàng đặt lên đôi môi mộng đỏ hình trái tim một nụ hôn say đắm ngọt ngào. Thanh Nguyên cũng nồng nàn đón nhận và vòng tay ôm chặt lấy chàng trai đa tình. Vinh cảm nhận được bờ ngực vun tròn mềm mại của nàng đang ép sát vào người chàng. Và cứ thế hai kẻ say tình như chết ngất đi trong chuỗi hôn dài đê mê bất tận. Những hương tình ngọt mật thơm ngát từ bờ môi Thanh Nguyên làm Vinh như hớp phải men yêu say sưa chất ngất. Thời gian như lắng động chìm sâu theo nhịp thở của hai người. Sau phút giây thần tiên rung cảm, Thanh Nguyên âu yếm lấy khăn lau vết son dính trên môi Vinh và cười nói :
– Để em lau sạch son môi cho anh bằng không về tới nhà chỉ thấy thì anh có nước chết làm em buồn lắm đó.
Rồi nàng liếc mắt cười duyên và từ giã Vinh trong nỗi bàng hoàng luyến tiếc của chàng.
Ngồi một mình mơ mộng trong văn phòng còn thoang thoảng dư hương của người đẹp, Vinh thấy nhẹ nhàng sảng khoái nhưng cũng giật mình khi nhớ lại giây phút điên cuồng ôm đại Thanh Nguyên, Vinh thấy mình ẩu thiệt, lỡ nàng giận dữ rồi xáng cho một bạt tay nổ đom đóm mắt lại còn đưa ra Tòa về tội sexual harassment như bên mấy nước Âu Mỹ thì thí mồ luôn. Nhưng mà may quá, nàng chẳng những không cự tuyệt mà còn tình tứ hưởng ứng. Thiệt đúng như ông bà mình nói:
Đẹp trai hổng bằng chai mặt
Thời gian sau đó, Vinh đã sống như người mộng du với nụ hôn tuyệt vời cùng Thanh Nguyên. Không lẽ từng tuổi đầu nầy rồi mà chàng còn tương tư hay sao? Cho đến một hôm lối hai tuần sau, chàng nhận được thư nàng, mặc dù chưa biết trong thơ nói cái gì nhưng Vinh đã nôn nao vui mừng không tả. Hình như là Phật Bà thương chàng nên đang rưới vài giọt cam lồ vào trái tim “ngục tù ” của chàng ( Nói đùa chơi chút thôi chứ Phật Bà nào mà thương cái thứ đàn ông trăng hoa lăng nhăng nầy đâu).
Chàng nôn nao mở thư ra đọc:
Vinh yêu thương,
Trước hết em cảm ơn anh đã cứu cha em thoát khỏi cảnh tù tội nhục hình, cái ơn mà không biết tới đời kiếp nào em mới trả nổi dù trong muôn một. Em cũng rất xúc đông trước tình yêu mà anh dành cho em, một tình yêu mà em sẽ nâng niu trân quý suốt đời. Và Vinh ơi! Em cũng yêu anh nhiều lắm. Qua hai cuộc gặp gỡ tuy ngắn ngủi nhưng đầy tình ý vừa rồi nhất là với chân tình anh dành cho em, em cũng đã bị tiếng sét ái tình đánh phải và em tin rằng chính anh là người sinh ra cõi đời nấy để em yêu, yêu mê đắm như từ tiền kiếp cho tới bây giờ. Người ta bảo rằng hai trái tim khi đã cùng một nhịp đập thì chỉ một phút đầu tiên sơ ngộ cũng đủ mang cả hai tâm hồn quyện hẳn vào nhau trong tình yêu đê mê ngút ngàn. Có lẽ đó là trường hợp của anh và em trong lần gặp hôm ấy phải không anh yêu? Nhưng Vinh ơi! Định mệnh đã đưa hai chúng mình tới trễ một bước. Lỡ làng hết rồi anh yêu ơi!. Anh và em đều có gia đình và những trách nhiệm ràng buộc nhất là anh đang có trong tay một người vợ xinh đẹp hiền lành và hai đứa con dễ thương kháu khỉnh mà cho dù yêu thương anh đến đâu, em cũng không đành lòng phá nát cái hạnh phúc trong tay của người em thực sự yêu thương. Yêu nhau là phải hy sinh cho nhau. Thôi thì mỗi người chúng ta nên trở về với những bổn phận riêng, nhưng mối duyên tri ngộ êm đềm thắm thiết vừa qua em nguyện giữ mãi trong lòng cho đến ngày nhắm mắt. Nếu thực sự cõi nhân sinh có thuyết luân hồi thì em thề sẽ là người yêu thương săn sóc anh suốt kiếp sau đó nghe anh. Đời em từ nay nếu có hình bóng nào như bóng râm che mát em trên từng bước em đi thì hình bóng đó chính là anh.
Xin đừng tìm em nghe anh. Cố xem như tình mình tuy đẹp mà không tới vậy thôi.
Thay mặt Ba, Má và cả gia đình, em vô vàn cảm tạ anh.
Yêu anh suốt đời,
Em,
Thanh Nguyên

Lá thư chỉ có vậy nhất là có vẻ mang tín hiệu huề vốn nhưng đối Vinh là cả một kho tàng vô giá mà chàng trân quý nâng niu. Chàng nghĩ rằng nàng cũng cảm kích trước tâm lòng chàng nhưng vì trách nhiệm gia đình mỗi bên nên cả hai đành phải đi trên hai con đường song song suốt đời vậy.
Và từ đó theo dòng thời gian lạnh lùng trôi với bao công việc bề bộn hằng ngày cộng thêm hạnh phúc với mái ấm gia đình vợ con làm Vinh quên lần đi cuộc hạnh ngộ lý thú và cho nó qua như một thoáng mây bay trong vùng trời kỷ niệm của một thời hoa bướm..

2) Trôi theo vận nước:

Thế rồi cuộc đổi đời bi thảm tháng Tư đen năm 1975 mang tai ươn đến mọi người dân miền Nam. Theo vận nước nghiệt ngã, Vinh phải trình diện học tập tại trường Nữ Trung Học Gia Long dành cho các cựu công chức mà bọn Việt Cộng gọi sách mé là ngụy quyền, để đi tù nhưng chúng gọi mỹ từ là học tập cải tạo trong một tháng. Tại địa điểm tập trung, Vinh đã gặp lại nhiều đàn anh và bạn bè trong cùng tâm trạng là muốn học tập cho xong để được yên thân. Ở tại trường Gia Long ba hôm thì tất cả được đưa tới làng cô nhi Long Thành để suốt ngày lao động cực nhọc và hai lỗ tai bị tra tấn bằng những luận điệu tuyên truyên rẻ tiền một chiều ngu xuẩn về ba dòng thác cách mạng và những ưu việt của đỉnh cao trí tuệ loài người. Ban quản giáo trại là những tên mán rừng ngu dốt về thành loại răng đen mả tấu chuyên cướp của giết người chứ dạy dỗ ai cái ngữ chúng nó.
Thắm thoát mà đám tù khổ sai đã lao động nhục nhằn ở tại trại tù Long Thành hơn một tháng. Kỳ lạ quá! Đã hết hạn “học tập” rồi mà sao không nghe ban quản giáo hé môi gì về ngày về của mình. Đã vậy trong nhưng buổi tối học tập chính trị một chiều sau những giờ lao động vất vả cực hình, tụi cán bộ luôn nói “các anh phải phấn đấu học tập tốt để sớm được trở về với gia đình. Vì các anh mang nợ máu quá nhiều với nhân dân nhưng Cách Mạng noi theo gương đạo đức của Bác Hồ anh minh vĩ đại nên đã không trừng trị mà chỉ khoan hồng đưa các anh vào đây để giáo dục các anh trở thành công dân tốt của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa siêu việt. Vậy các anh hãy khắc phục mà học tập tốt lao động tốt để được sớm trở về với gia đình chung lo xây dựng đất nước. Ngoài ra các anh cũng phải thành khẩn khai báo hết các tội lỗi đối với nhân dân và cách mạng”. Thằng nào thằng nấy cũng chỉ có câu kinh nhật tụng duy nhất này để tập ăn nói trước đám tù cải tạo nghe thật vô cùng nhàm chán. Ủa ! Thế còn thời gian một tháng học tập là cái gì mà không nghe thằng nào nhắc đến. Giữa lúc tinh thần các người tù hoang mang căn thẳng thì ở bên ngoài các bà mẹ, bà vợ , con cháu cải tạo viên cũng lo sợ không kém, họ liều mạng kéo nhau tới Ủy Ban Quân Quản để hỏi tại sao nhà nước tuyên bố gom chồng con họ đi học tập một tháng thôi mà nay đã mấy tháng rồi chưa thấy tăm hơi thì được chúng trân tráo trả lời:
– Ai nói với bà con là đi học tập một tháng trở về. Bà con có đọc kỹ thông báo chưa? Nhà Nước chỉ nói rằng mang theo thức ăn khô trong một tháng chứ có nói đi học một tháng rồi về đâu. Đó là vì trong bước đầu quản lý khó khăn nên Nhà Nước mới nhờ chồng con các bà tự mang theo lương thực một tháng đấy chứ. Bây giờ thì khâu quản lý tốt rồi có thể lo cung cấp thức ăn cho các cải tạo viên để họ an tâm học hành tốt, lao động tốt , thành khẩn và thấu triệt chính sách khoan hồng của Nhà Nước ta là về sớm thôi.
Trước lời nói tráo trở lưu manh đó, mấy bà chỉ biết gạt nước mắt kéo nhau ra về. Đúng là nói láo như Vẹm.
Sau khi lao động khổ sai ở Long Thành được hơn một năm thì các tù nhân bị di chuyển ra Bắc bằng những chiếc tàu thủy chật hẹp tồi tàn dơ dáy nhất là thiếu điều kiện an toàn đến độ có người đã chết trên tàu trước khi tới trại tập trung. Sau ba ngày đêm vật vả rã rời, đoàn người chiến bại cũng tới được miền Bắc và bị phân tán thành nhiều toán đi tản mác khắp nơi. Riêng Vinh thì bị đưa tới trại Phú Sơn ở mạn Trung Du Bắc Việt. Những người “có tội ác với nhân dân” thực sự đã bắt đầu kiếp sống nhục nhằn trâu ngựa từ đây. Mỗi ngày những người tù khổ sai phải đốn cây, khuân đá, trồng trọt canh tác trong những điều kiện thiếu thốn trầm trọng từ việc ăn uống, thuốc men cho tới cả các phương tiện thực hiện công việc lao động. Đã vậy, họ còn bị bọn quản giáo cai tù chửi rủa đánh đập tàn nhẫn. Không bút mực nào diễn tả được sự ác độc phi nhân của bọn Việt Cộng đối với những người thua cuộc bất hạnh cũng như nỗi nhục nhã ê chề đắng cay mà tù nhân gánh chịu. Nhiều người không chịu nỗi cơn đói khát bệnh tật và sự hành hạ thù hằn của bọn cán bộ đã nhắm mắt ra đi, có người đốn cây bị cây ngã đè chết, bỏ lại vợ con nơi phương trời xa xăm biền biệt và đau đớn hơn cả là những người thân yêu nầy nào biết tăm hơi chồng, con, cha …họ giờ ở phương nao. Khốn nạn hơn và bi hùng hơn là có những người phẩn uất trước sự bạo tàn vô luân của bọn Việt Cộng nên đã đứng lên phản đối thì bị chúng giam xà lim trừng phạt dã man đến chết thảm. Những ai không chịu nỗi chế độ ngục tù kinh hoàng thì tổ chức vượt trại để nếu không bị bọn Việt Cộng bắt lại và bắn bỏ tại chỗ để làm gương tù nhân khác thì cũng bỏ mình nơi rừng sâu núi thẳm vì cọp beo rắn rít , lam sơn chướng khí hay vì kiệt lực đói khổ. Ít có ai mà vượt thoát thành công. Ôi! Trận hồng thủy tháng 4 năm 1975 đã nhận chìm tất cả người dân miền Nam xuống tận cùng hỏa ngục.
Thắm thoát gần 4 năm kể từ ngày Vinh bước chân vào ngục tù Cộng Sản với những đòn thù tàn ác phi nhân. Thân thể chàng bấy giờ chỉ còn da bọc xương, đôi mắt tinh anh ngày trước bây giờ lờ đờ như hai lỗ trũng vô hồn, tinh thần thì suy sụp khủng hoảng tới độ chàng cầm bằng như đã chết rồi. Nhiều lúc quẫn trí vì hoàn toàn tuyệt vọng, Vinh muốn liều mạng giựt súng tên bộ đội canh tù rồi bắn chết vài thằng để cho chúng hạ sát chàng nhưng nhớ tới vợ con sẽ đau khổ đến thế nào khi nhận hung tin nầy nên chàng phải cắn răng mà ôm trọn nổi tủi nhục căm hờn. Những lúc đó, chàng chỉ buồn rầu hối hận là ngày 30 tháng 4 đã quyết định vô cùng sai lầm là ở lại để ngày nay chịu khổ chẳng những cho bản thân mình mà còn khổ lây cho vợ con. Cuộc đời con người ai cũng có những phút giây mà quyết định chẳng những ảnh hưởng đến chính bản thân mà còn liên lụy đến gia đình, Vinh đã trải qua những phút giây quan trọng đó và chàng đã có sự chọn lựa vô cùng nhầm lẫn để bây giờ nhận lấy hậu quả thảm khốc nầy. Không biết giờ nầy ở ngoài trại tù lớn (thực ra người dân sống trong chế độ Cộng Sản phi nhân có khác gì ở trong một nhà tù lớn hơn đâu) Huyền và 3 con thơ dại của chàng sống còn thế nào? Tất cả đều biệt vô âm tín từ ngày chàng trình diện “học tập”.

3) Cố nhân tái ngộ:

Một hôm trong lúc Vinh đang lao động đốn cây trong rừng cùng các bạn tù khác thì tên cán bộ trực trại đi với tên cai tù đến gặp chàng nói:
– Anh Nguyễn tấn Vinh đi theo tôi về trại.
Lo lắng là không biết lại tai ương gì nữa đây, chuyển trại hay biệt giam …Vinh mệt mỏi lê bước theo tên cán bộ giữa những cặp mắt lo âu của bạn bè. Tới nơi tên này mở cửa văn phòng quản giáo trại thì Vinh sửng sốt kinh ngạc nhưng cố đè nén để khỏi bật thành tiếng kêu là vì trước mắt Vinh là tên quản giáo Thượng Úy Tư Đồn đang ngồi khúm núm trước một nữ bộ đội.…và Trời ơi! người đó chính là Thanh Nguyên, người đẹp ngày xưa đã một thời dạy cho chàng bài học tương tư. Mặc dù đang bàng hoàng kinh ngạc nhưng Vinh vẫn còn nghe được giọng nói nhỏ nhẹ của tên cán bộ trực trại trình báo Thanh Nguyên:
– Thưa đồng chí Đại Tá, đây là anh Nguyễn tấn Vinh.
rồi quay bước ra ngoài. Tên Tư Đồn nhìn Vinh rồi nghiêm giọng:
– Anh Vinh, hôm nay đồng chí Sáu Nguyên là Giám Đốc sở Công An thành phố Hồ Chí Minh ra tận đây để làm việc với anh.
Vinh cúi đầu chào Thanh Nguyên trong quân phục bộ đội nhưng vẫn còn nét đẹp mê hồn của hơn 7 năm về trước. Trong phút chốc, nhất là qua ánh mắt của nàng, chàng linh cảm nàng đến đây là một điều có lợi cho chàng nên thấy phần nào an tâm hơn.
Đồng chí Sáu Nguyên từ tốn nói:
– Anh Vinh, qua điều tra, tôi được biết là ngày xưa khi anh còn tại chức ở Vĩnh Bình, anh và tên tỉnh trưởng Hoàng văn Kiểm đã xung đột trầm trọng trong vụ lùa dân xây núi Thiên Ân ngoài đầu vàm Trà Vinh để ngăn chặn sự xâm nhập của Cách Mạng. Tôi muốn biết thêm nhiều chi tiết về vụ nầy để triển khai thêm tội ác của tên Kiểm nên sẽ chuyển anh về thành phố để tiện việc điều tra. Vậy anh có một tiếng đồng hồ để chuẩn bị đi với tôi.
(Đến đây tưởng cũng mở thêm dấu ngoặc về vụ núi Thiên Ân, thực ra ngày xưa , tên Hoàng văn Kiểm có bày đặt vụ tập trung nhân lực toàn tỉnh xây núi Thiên Ân ngay tại vàm Vĩnh Bình nói là để chận đường Việt Cộng. Vinh phản đối không phải vì chàng có “tinh thần giác ngộ cách mạng” mà là vì tên Kiểm lợi dụng việc nầy để tham nhũng bằng cách thâu tiền của đồng bào giàu có thương gia nào không muốn làm sâu kiểu dân công)
Sáu Nguyên vừa dứt lời thì tên quản giáo Tư Đồn vuốt đuôi theo:
– Đồng chí Giám Đốc đã nói vậy thì anh sắp xếp hết đồ đạc để về thành phố.
Vinh chào từ giã hai người với bộ mặt ra chiều bối rối rồi hối hả về láng để “dọn nhà” trong tâm trạng hân hoan vui mừng vì chàng tin tưởng rằng quới nhơn Thanh Nguyên hôm nay đã đến để mang điều lành cho chàng. Cũng may là trong láng lúc đó chẳng có ai bằng không thì bạn bè phải ngờ vực “ cái thằng bị chuyển trại mà sao hí hửng thế kia!”
Lối hơn nửa tiếng đồng hồ sau, Vinh ôm một gói đồ hành trang gia sản của người tù theo đồng chí 6 Nguyên ra chiếc xe du lịch Falcon đen đậu trước cổng trại trước những cặp mắt tò mò của những trại viên công tác nhà bếp, an ninh và những bệnh nhân miễn lao động.
Lên xe, đồng chí 6 Nguyên ngồi đàng trước với tài xế, còn Vinh ngồi sau với người bộ đội mà chàng đoán là cận vệ. Cả hai trông rất trẻ chắc là dân nghĩa vụ quân sự. Xe ra khỏi cổng một khoảng đường là Thanh Nguyên hối tài xế chạy nhanh trên con đường mòn gập ghềnh khúc khuỷu trước khi ra lộ lớn. Ngay lúc đó nàng quay lại sau bảo Vinh với giọng nhẹ nhàng:
– Anh Vinh, chắc anh cũng đoán biết được mọi chuyện rồi. Nhưng để cho an toàn vì đường từ đây về Sài Gòn còn xa lắm và có nhiều trạm kiểm soát, vậy anh lúc nào cũng giữ thân phận tù nhân, tuyệt đối im lặng còn mọi chuyện khác để em và hai đứa cháu đây lo liệu.
Nghe lại tiếng nói của dịu dàng của người xưa báo tin lành, lòng Vinh thấy nhẹ nhàng thoải mái của một người thoát củi sổ lồng, và cái cảm giác lâng lâng rung động tại văn phòng chàng ngày nào đó lại hiện về. Chàng nhìn nàng với ánh mặt vừa vui mừng vừa biết ơn.
Sau hai ngày đường trường thiên lý, xe về tới Sài Gòn, Thanh Nguyên đưa Vinh về nhà nàng là một biệt thự trên đường Yên Đỗ nghe nói trước đây là của một viên chức cao cấp trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Nghỉ ngơi một lúc, Thanh Nguyên bắt đầu kể chuyện đời nàng từ lúc tìm gặp Vinh ở Vĩnh Bình cho tới nay. Thực ra, ngay từ lúc đó, nàng đã có một đứa con gái 2 tuổi và chồng là giáo sư Trung Học, và cả hai vợ chồng nàng đều là cán bộ Mặt Trận nằm vùng công tác nội thành. Cha nàng cũng là một cán bộ xã ủy Song Lộc Trà Vinh. Như vậy lúc Thanh Nguyên tới tìm Vinh để xin giúp đở, nàng thật sự đã đứng bên chiến tuyến kẻ thù. Nghe tới đây, lương tâm Vinh dấy lên nỗi dày vò cắn rứt. Trời ơi! Như vậy chàng đã vô tình giúp kẻ thù, nối giáo cho giặc và vô hình chung phản bội lại quốc gia dân tộc mà đó cũng là một đóng góp dủ nhỏ nhoi để kiến cho cả miền Nam thân yêu sụp đổ. Trong khi Vinh đang hối hận lỗi lầm xưa thì Thanh Nguyên tiếp tục tâm sự là trước hành động nhân bản rộng lượng (hay là vì mê gái)mà Vinh thả cha nàng, nàng thấy rất cảm kích xúc động nếu không muốn nói là yêu Vinh vì lúc đó tình cảm giữa nàng và chồng không có gì cả ngoài tình đồng chí cán bộ công tác cùng nhau. Đó chỉ là tình yêu tính toán thường tình của con người đảng viên Cộng Sản. Để rồi khi gặp Vinh với ánh mắt yêu đương, cử chỉ tình tứ nồng nàn, phong cách phóng khoáng của con người quốc gia và thêm cái ơn cứu cha, Thanh Nguyên thấy lòng mình xao xuyến rung động nhưng khi nhớ lại là chàng và nàng đều có gia đình con cái với bao trách nhiệm ràng buộc và nhất là hai người đứng hai chiến tuyến khác nhau nên nàng đành phải giã từ Vinh trong đau đớn ngậm ngùi. Đấy! Khi yêu thì người đàn bà còn lý trí hơn đàn ông nhiều lắm.
Dòng đời tiếp tục lạnh lùng trôi trong lãng quên. Cũng có lúc Thanh Nguyên nhớ Vinh nhiều lắm nhưng định mệnh đã đặt hai người trên hai lối đi khác nhau thì đành chịu vậy. Thôi xin hẹn kiếp sau nhé Vinh nếu đời người có kiếp luân hồi.
Một thời gian sau, tổ công tác nội thành của chồng nàng bị bể nên anh ta phải trốn ra khu, còn nàng ở lại bị chính quyền điều tra rất phiền toái lôi thôi nhưng nhờ không có đủ bằng chứng nên nàng chưa bị bắt. Tới ngày 30 tháng 4, chồng nàng trở về trong đoàn quân chiến thắng với quân hàm Đại Tá còn nàng được mang cấp bậc Trung Tá và để bù đắp lại cho thành quả đóng góp cho cách mạng cũng như những hiểm nguy gian khổ mà hai vợ chồng gánh chịu trong suốt thời gian hoạt động, chồng nàng được thăng cấp thiếu tướng và chỉ định giữ chức vụ Giám Đốc Sở Công An Thành Phố còn nàng thăng cấp Đại Tá và làm phụ tá. Tới năm 1979 , chồng nàng qua đời sau cơn bạo bệnh và nàng được bố trí lên thay thế nhờ cả một quá trình công tác đấu tranh cách mạng.
Từ sau cuộc đổi đời oan nghiệt năm 1975 , Thanh Nguyên cố tìm tông tích Vinh nhưng chàng như bóng chim tăm cá. Hỏi lại những người Vĩnh Bình xưa thì họ nói chàng đổi đi Phan Thiết từ năm 1973. Không nản chí nàng tiếp tục tìm tin tức chàng ở tận Phan Thiết thì được biết là chàng đã di tản vào Sài Gòn ngay sau khi Phan Thiết thất thủ. Như vậy là đành bó tay. Thanh Nguyên cầu mong chàng đi được với gia đình ra ngoại quốc trong ngày 30 tháng 4, hi vọng là như vậy nhưng biết đâu chàng đang đọa đày lao khổ trong trại cải tạo. Nghĩ đến đây lòng Thanh Nguyên oặn đau nhưng nàng không dám dò hỏi nhiều vì sợ chồng phát giác mãi cho tới khi chồng chết và nàng lên thay thế, Thanh Nguyên mới phăng rõ ngọn nguồn từ Bộ Nội Vụ thì may mắn thay, nàng biết được Vinh đang ở trại học tập Phú Sơn. Thanh Nguyên cũng được biết do bà con nàng ở Vĩnh Bình nói là sau khi thả cha nàng ít lâu sau, Vinh bị tên tỉnh trưởng Hoàng văn Kiểm trù dập (vì chàng phản đối vụ hắn ta xây núi Thiên Ân ) tới độ bị đổi đi ra Phan Thiết. Sau mấy ngày suy nghĩ và cũng tìm biết tên Kiểm đang giam ở trại Hà Nam Ninh, Thanh Nguyên bèn lợi dụng sự sơ hở, vô tổ chức và thiếu thông đạt giữa các cấp chính quyền Cộng Sản, nàng liền làm một lệnh giải giao “tên” ác ôn Nguyễn tấn Vinh về thành phố để giúp công việc điều tra về tên ác ôn khác là tên Kiểm nặng ký hơn. Và kết quả hành động liều lĩnh đánh tapis của nàng là Vinh được tự do và đang ngồi trước mặt nàng đây. Thanh Nguyên nói tiếp:
– Vấn đề tạm thời là bây giờ anh ở đây với em, nhà nầy chỉ có em với đứa con gái em nay đã 10 tuổi. Vì sự an toàn cho anh và cho ngay cả em, xin anh hãy cố tự giam mình trong ngôi biệt thự này. Nay mai em sẽ tìm cách liên lạc với vợ con anh để báo tin anh đã về nhưng vì lý do bảo mật an toàn, anh và chị phải tránh tiếp xúc nhau để em còn lo điều quan trọng nhất là sẽ tìm đường dây cho cả gia đình anh vượt biên. Em tính như vậy, anh thấy được không anh?
Từ nãy giờ Vinh ngồi lặng yên nghe Thanh Nguyên kể hết sự tình cũng như cách tính toán qui củ mạch lạc của nàng kiến chàng đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Chàng thấy lòng mình nao nao xúc động khi thấy nàng thực sự lo lắng cho mình quá nhiều, nhất là nhìn gương mặt kiều diễm của người con gái một thời làm chàng say mê mơ tưởng, Vinh có cảm giác lênh đênh bềnh bồng như nhắp phải men say dịu dàng thơm ngát. Sau giây phút chìm đắm vào không gian chìm lắng trong hương tình rào rạt, chàng run run nói với Thanh Nguyên:
– Ơn cứu tử của em, anh không biết kiếp nào đền trả. Em đã bất kể những hiểm nguy lo cho anh ra tù mà còn dự tính cả tương lai tươi sáng cho gia đình anh. Anh chỉ xin kết cỏ ngậm vành mà thôi. Thân anh bây giờ như cá chậu chim lồng, được em thương mà tính như vậy thì thật là không có gì quý hơn.
Thanh Nguyên dịu dàng trả lời chàng:
– Anh đừng có bận tâm gì hết. Vậy chớ ngày xưa, anh cứu mạng ba em thì sao?
Hai hôm sau, Thanh Nguyên đi làm về trao cho Vinh lá thơ của Huyền, Vinh mừng rỡ vội mở ra đọc ngay:

Anh yêu,
Hồi nãy, cô Thanh Nguyên có đến báo cho em hay anh đã được về. Trời ơi! Em vui mừng như chết đi sống lại vậy. Mấy đứa nhỏ cũng nhảy dựng lên trong nỗi hân hoan trước tin cha về. Không ngờ trên đời nầy vẫn còn có chuyện giấc mơ thành sự thực. Đó là chuyện em vì quá lo buồn cho anh rồi cứ mơ ước viễn vông là một ngày nào đó anh sẽ về. Vậy mà ngày đó đã thực sự đến. Mắt em đang nhòa lệ vì sung sướng. Anh ơi! Cô Thanh Nguyên còn hứa sẽ đưa cả vợ chồng mình và ba con vượt biên. Quả là phúc đức ông bà để lại nên mình mới gặp được thiên thần hộ mệnh là cô Thanh Nguyên. Cô cũng nói với em là anh hiện đang ở nhà cô để được an toàn và vợ chồng mình không nên gặp nhau cho tới ngày đi. Em và các con vẫn khoẻ và vô cùng hạnh phúc với ý nghĩ sẽ đoàn tụ cùng anh sau hơn 4 năm trời xa cách. Vậy anh hãy yên tâm tịnh dưỡng mà chờ ngày sum họp gia đình và đi tới một chân trời tự do hạnh phúc nghe anh!
Em và các con luôn thương nhớ anh.

Đọc xong thư Huyền, Vinh bồi hồi xúc động và thương cảm người vợ lúc nào cũng hi sinh và lo lắng cho chồng. Chàng mong mỏi Thanh Nguyên sớm tìm ra tổ chức vượt biên để chàng đưa vợ con tới bến bờ tự do mà ở đó cả tương lai rạng ngời đang chờ đón các con chàng. Nhưng ngay sau đó, tim chàng lại oặn đau khi nhớ đến lúc…phải xa Thanh Nguyên biết chàng có chịu nổi không!!! Khi yêu thì nó khổ đau mâu thuẫn như thế đó.
Kể từ ngày rước Vinh về, thì mỗi ngày, Thanh Nguyên đi làm như thường lệ, Phượng Nguyên đứa con gái nàng đi học thì Vinh ở nhà làm ông nội trợ. Mặc dầu nàng bảo sẽ lấy cơm tháng cho 3 người nhưng Vinh rất sợ ở không nên tình nguyện nấu ăn cho mẹ con nàng để giết thời giờ và hơn nữa chàng cũng muốn chứng tỏ mình không phải là kẻ vô tích sự.
Nhà có 3 phòng ngủ , sao mà nó đúng với kích thước gia đình nầy quá! Nó vừa đủ cho Thanh Nguyên, Phượng Nguyên và chàng mỗi người một phòng. Nếu trước đây, mỗi đêm Thanh Nguyên phải kèm bài vở cho con gái thì bây giờ nàng giao công việc gia sư đó cho Vinh để còn rảnh rang theo dõi diễn tiến việc vượt biên sắp tới cho chàng.

4) Tình đã thăng hoa:

Ông bà mình thường nói rằng “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Nhất là ở trường hợp này, ngọn lửa Thanh Nguyên tỏa ánh hào quang rực trời thì đốt cháy cả lâu đài thành quách cũng còn được chớ nói gì đến cộng rơm Nguyễn tấn Vinh. Thử hỏi gái góa chồng, trai đi cải tạo hơn 4 năm trời ở chung một nhà vắng vẻ và hơn thế nữa trong cái thế “ tình trong như đã mặt ngoài còn e” từ bấy lâu của Thanh Nguyên và Vinh thì có khác nào lò thuốc súng đang âm ỉ chực chờ ngày bùng nổ. Và cái ngày đó đã đến.
Một đêm sau khi Vinh dạy kèm Phượng Nguyên và đưa cháu đi ngủ thì cũng vừa lúc Thanh Nguyên tắm xong đang ngồi trên sofa sấy tóc vừa xem TV ở phòng khách.
Em ngồi sấy tóc mây đen mượt
Thổi những sợi tình vô mắt anh
Nhìn mái tóc thề mượt mà bay nhè nhẹ dưới chiếc sấy tóc, Vinh bỗng bồi hồi nhớ lại gần gặp gỡ đầu tiên, người đẹp cũng với mái tóc dài óng ả nầy tưởng đã trói chặt hồn mình vào cuộc tình vô định, lòng Vinh tràn ngập cảm xúc và trong một thoáng nào đó, chàng thấy mềm lòng và ngồi xuống cạnh nàng thì thầm:
– Em để anh sấy tóc cho em
Thanh Nguyên thối thoát một cách yếu ớt:
– Thôi! anh không biết làm rồi cháy tóc em hết bây giờ
Vinh cương quyết :
– Có gì mà hổng biết em.
Rồi chàng cầm lấy máy sấy từ tay Thanh Nguyên và nhẹ nhàng lướt phớt trên tóc nàng. Không hiểu ngày xưa khi Huy Cận ru người yêu ngủ:
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
thì nhà thơ rung động như thế nào chớ bây giờ ngồi sát bên người yêu với những va chạm thân thể nồng ấm và mùi hương thiếu phụ đang xuân thoang thoảng nhẹ nhàng quyến rũ từ người đẹp làm cho Vinh rung rẩy tay chân và qua ánh mắt Thanh Nguyên, chàng cũng cảm nhận được rằng nàng cũng đang xao xuyến rung động. Không dằn nỗi cơn sóng tình, Vinh quăng cái sấy tóc tội nghiệp qua một bên và quên luôn cả đất trời với vợ hiền con dại để vòng tay ôm Thanh Nguyên thật chặt và cuối xuống hôn trọn môi nàng. Thanh Nguyên cũng đồng tình khép hờ đôi mắt và hé bờ môi hàm tiếu đón nhận nụ hôn cuồng nhiệt của người tình. Sau một đợt hôn dài đê mê, hai người buông nhau ra mà thở hổn hển. Thanh Nguyên trách yêu Vinh:
– Làm gì mà dữ vậy. Em còn đây chớ có biến mất đâu. Làm em muốn ngộp thở luôn.
Vinh chống chế:
– Em thông cảm cho anh. Tình yêu em tích tụ cả 7,8 năm nay nên nó mãnh liệt như vậy đó chứ!
Nói xong, chàng liền xáp lại ôm nàng nữa và lần tay xuống dưới chiếc áo ngủ mong manh của nàng để cảm nhận được cả vùng ngực căng tròn. Thanh Nguyên nói nhỏ như một lời mời gọi ngọt ngào:
– Đi vào phòng ngủ em đi anh. Ở đây rủi con nó thức giấc thì kỳ lắm.
Vinh náo nức đứng lên dìu nàng vào chốn Thiên Thai. Dưới ánh đèn lung linh mờ ảo, chàng thấy Thanh Nguyên đẹp hơn bao giờ hết với ánh mắt ngây dại trên khuôn mặt e ấp đỏ hồng. Rồi một lúc sau đó, một thân hình diễm tuyệt của nàng gói trọn trong vòng tay cuồng nhiệt của Vinh, cả hai thân thể rực lửa quyện lấy nhau và hai người như chìm vào cõi mộng Thiên Thai ngây ngất quên cả đất trời với những hơi thở dồn dập.

—————————————————

Sau phút giây ân ái tuyệt vời, Thanh Nguyên nằm gối đầu lên cánh tay người yêu thì thầm:
– Mình tội lỗi quá anh ạ! Từ lâu, em thực ra cũng muốn đền đáp món nợ ân tình lớn lao ngày xưa lúc anh thả ba em ra nhưng không có cơ hội. Còn bây giờ thì anh cũng đã gần ra đi rồi nên em lấy làm hạnh phúc mà dâng hiến cho anh như một đền đáp ân tình và cũng vì em rất yêu anh. Nhưng thân phận chúng mình như bình thủy tương phùng, bèo mây hạnh ngộ rồi biết tới chừng nào mình gặp lại nhau nữa đây. Thôi thì hãy vui nhau trong những giây phút cuối cùng phù du này như một kỷ niệm đẹp cho hai đứa. Em đành phải đắc tội với chị Huyền và mấy cháu vậy.
Vinh âu yếm vuốt ve làn da ngọc ngà của nàng trong vòng tay nóng rực lửa tình và nói:
– Trước đây anh đã từng thầm yêu trộm nhớ em thì nay sau khi được “đài gương soi thấu dấu bèo” , anh lại càng yêu em điên cuồng hơn. Thanh Nguyên ơi! Em chính là người đàn bà mang đến cho anh những cơn lốc đam mê tuyệt vời bất tận. Anh mong thời gian chúng ta bên nhau sẽ kéo dài theo nhịp thở đồng điệu của hai đứa.
Kể từ :
Cái đêm hôm ấy đêm gì
Bóng gương lồng bóng trà mi chập chùng
Vinh qua ngủ luôn trong phòng của Thanh Nguyên luôn, cả hai mặc nhiên xem như đôi vợ chồng son đang ngụp lặn trong hạnh phúc triền miên, tạm quên những trái ngang hệ lụy đang chờ đón họ.
Cho đến một hôm, vào ngày thứ sáu, Thanh Nguyên bất ngờ chạy về nhà rồi trong dáng điệu hớt hải buồn rầu báo tin cho Vinh hay:
– Anh ơi! Thứ bảy tuần tới nầy anh đi rồi. Tiền bạc chi phí cho nguyên gia đình anh, em trả trước phân nửa. Tới đảo rồi anh cần viết ít chữ cho gia đình chủ tàu gởi về em để xác nhận thì em sẽ trả nốt phần còn lại cho họ.
Nói xong câu “từ biệt” như một bản án khai tử cho cuộc tình đang thăng hoa, đôi mắt long lanh của Thanh Nguyên rơm rớm qua màn lệ mỏng. Vinh bỗng giật mình hốt hoảng rồi nói lớn lên như một phản xạ kinh hoàng:
– Trời ơi! Sao sớm vậy em? Chỉ còn có một tuần nữa thôi à !
Con người có những mâu thuẫn tự chính mình một cách lạ kỳ. Nếu trước đây, cả hai người đều mong chuyến đi được nhanh chóng. Với Thanh Nguyên thì để cho người yêu được sớm an toàn thoát khỏi những hiểm nguy ngục tù đang chờ đón, còn với Vinh thì đưa vợ con tới chốn an bình tự do với tương lai sáng lạn. Thế mà nay, tin vui đã đến thì cũng chính cả hai lại ruột thắt gan bào trong nỗi đau khôn cùng vì họ sắp chia tay để có thể cả đời không gặp lại nhau. Tình yêu nó khốn khổ đọa đày đến thế kia vậy mà thiên hạ ai cũng “ thèm yêu” hết.
Sau cơn “ sốc” ban đầu, Vinh và Thanh Nguyên lại lao đầu vào cuộc chơi một cách cuồng nhiệt vội vả như để tận dụng những giây phút phù du cuối cùng còn sót lại của một cuộc tình không tới. Thanh Nguyên xin nghỉ nguyên tuần lễ đó để được gần gủi cận kề bên người yêu trước khi xa cách ngàn trùng??? Tuy không nói nhưng cả hai người đều biết phải tận dụng thì giờ vàng ngọc còn có nhau.
Nàng nghẹn ngào nói nới Vinh:
– Anh ơi ! Trên đời em sợ nhất là chữ cuối cùng vì nó là biểu tượng cho một sự phân ly tan tác, hay hơn nữa là một sự mất mác đớn đau. Thế mà bây giờ em sắp phải trực diện với nó đây. Làm sao em chịu nỗi anh ơi!
Vinh thờ thẩn vuốt mái tóc óng mượt của nàng vừa thì thầm:
– Không có cuối cùng chia cách đâu em ơi! Sang bên đó anh sẽ cố tìm mọi cách để liên lạc với em mà.
Những ngày còn lại quý báu bên nhau rồi cũng qua mau, những mảng hạnh phúc sót lại rồi cũng phải tan theo khói sương của một cuộc tình tức tửi. Sáng ngày G thứ bảy đã đến.. Trên đời nầy có cảnh biệt ly nào không mang đến bao đau thương nước mắt. Nhưng giây phút chia tay của Thanh Nguyên và Vinh lại càng não nề tang thương hơn vì cả hai đều biết rằng với tương quan chính trị quốc tế của chế độ khép kín hiện nay thì có thể hai người sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau. Lại càng đau đớn hơn sau khi chàng và nàng vừa trải qua những ngày ân ái mặn nồng đắm đuối để rồi phải đánh mất tất cả. Đây chắc là một chuyến ra đi để ngàn đời xa nhau. Ngay chính Phượng Nguyên cũng mủi lòng trước cảnh chia tay. Nó ôm Vinh mếu máo nói:
– Cậu đi bỏ mẹ con con sao cậu ? Rồi ai dạy dỗ con học hành. Cậu không còn săn sóc thương yêu con nữa sao?
Vinh cũng không cầm được nước mắt cầm tay Phượng Nguyên mà hứa chắc rằng:
– Thế nào rồi cậu cũng sẽ liên lạc với mẹ và con mà.
Rồi chàng ôm chặt Thanh Nguyên với nụ hôn vĩnh biệt tiếp theo tiếng thì thầm của Thanh Nguyên:
– Thôi anh đi. Em nguyện cầu anh đến nơi bình an. Đừng bao giờ quên suốt đời em vẫn yêu anh.

5) Một cuộc sống mới:

Để lên đường an toàn, Thanh Nguyên cho đứa cháu tài xế lấy xe của sở Công An thành phố đưa vợ chồng Vinh xuống tận Rạch Giá ngay trong chiều hôm đó để kịp chuyến ra đi trong đêm. Nhờ sự sắp xếp khéo léo của chủ tàu và cũng nhờ vào may mắn, con tàu vượt biên tới thẳng đảo Pulau Bidong sau 4 ngày thủy trình trên biển cả. Sau khi tạm ổn định cuộc sống trên đảo, Vinh hỏi những người đi trước cách thức liên lạc về Việt Nam để thư cho Thanh Nguyên thì được biết là bưu tín trên đảo không nhận thư gởi Việt Nam. Chàng liền kiếm chủ tàu nhờ họ qua bà con ở Canada gởi lá thư có chữ ký chàng xác nhận đã đến nơi cho Thanh Nguyên chồng hết số tiền còn lại. Như vậy là chàng đành chịu không liên lạc được với Thanh Nguyên cho tới khi đinh cư. Ở đảo 3 tháng sau là gia đình Vinh có danh sách đi Canada và tháng 9 năm 1980, họ tới Toronto để bắt đầu một cuộc sống mới.
Đầu tiên chàng cùng vợ con tới sở Nhân Lực (Man Power) để làm các thủ tục thường trú và thẻ an sinh xã hội, nhân viên tham vấn thấy record background của Vinh nên liền gởi chàng vào làm Human Resources Office của một hãng lớn chuyên về Airlines Catering. Huyền theo học một khóa 6 tháng Anh Văn ESL, còn ba con của chàng đi học tại một trường gần nhà. Sau khi Huyền mãn khóa học, nàng thi lại lấy bằng dược sĩ rồi mở một nhà thuốc tây lúc đầu còn lưa thưa khách nhưng càng ngày cộng đồng Việt Nam càng phát triển nên công việc làm ăn trở nên phát đạt . Riêng Vinh thì làm hãng lớn nên được lương khá và có benefit đầy đủ, hơn nữa vị manager Human Resources thấy khả năng quản trị điều hành tổ chức của chàng nên cất nhắc chàng lên vị trí phụ tá. Từ đó vợ chồng chàng mới thấy cuộc đời mới được ổn định mà yên tâm nuôi dưỡng con cái học hành.
Mặc dù rất bận rộn bước đầu, Vinh vẫn thấy nhớ thương Thanh Nguyên da diết. Nhất là với tâm trạng “ăn quen nhịn không quen”, chàng cứ hình dung lại những lần ân ái trong tận cùng hoan lạc với người đẹp mà thấy lòng dâng lên nỗi nhớ nhung khao khát. Giờ đây đã nghìn trùng xa cách rồi, mỗi người một chân trời góc biển, biết đến bao giờ gặp lại nhau. Riêng Huyền thì cũng không bao giờ quên thâm ân của Thanh Nguyên đối với gia đình nàng nên luôn nhắc nhở chồng gởi thư thăm hỏi Thanh Nguyên. Nàng ngay tình chứ nào biết rằng mình “đang nối giáo cho giặc”. Vinh đã sốt sắng ( lẽ dĩ nhiên dại gì mà không sốt sắng) nghe lời vợ mà viết thư tạ ơn mẹ con Thanh Nguyên nhưng có điều là ngoài những lời thăm hỏi thông thường, chàng cũng không quên “đính kèm “ thêm những lời nhớ thương tha thiết người yêu lỡ làng đang cách xa nửa vòng trái đất. Chàng còn cẩn thận dặn Thanh Nguyên “ viết thư cho anh, em hãy khéo léo sợ Huyền nhận thư thì bể mánh hết. Để từ từ anh mượn địa chỉ khác cho mình tự do liên lạc hơn”.
Thư gửi đi xong, chàng đếm từng ngày để mong nhận thư hồi âm của nàng. Với cuộc sống tất bật nên thời gian qua rất mau, thư gởi đi đã gần hai tháng mà vẫn chưa thấy âm hao, chàng nghĩ chắc Bưu Điện Việt Cộng chậm chạp nên rán chờ thêm một tuần…rồi một tuần cho tới trọn tháng nữa mà tin tức người yêu vẫn biền biệt. Chàng bèn than phiền với Huyền là sao tới bây giờ vẫn chưa thấy Thanh Nguyên trả lời. Tội nghiệp vợ chàng lại cứ tiếp tục “ vẽ đường cho hưu chạy” bằng cách thúc giục chồng gởi tiếp lá thư thứ hai cho người ơn mà Huyền có biết đâu cũng là “tình địch” xem sao. Vinh “được lời như cởi tấm lòng” gởi tiếp một lá thư nữa. Tiếp theo là một chuỗi khắc khoải chờ đợi rồi cũng y như số phận lá thư thứ nhất là tin đi không có tin về. Nếu lần trước không được thư hồi âm của Thanh Nguyên, Vinh còn nghĩ là thư từ thất lạc nhưng lần nầy thì chàng thực sự lo lắng đứng ngồi không yên, bao nhiêu câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu óc rối bời của chàng:
– Đã xảy ra chuyện không hay gì cho mẹ con nàng?
– Hay là nàng muốn hi sinh dứt khoát để chàng yên tâm lo tròn bổn phận với vợ con
…………………..
Cứ mỗi một câu hỏi, chàng tự đặt ra giả thuyết rồi tự đắm mình trong ưu tư sầu khổ với hoang mang. Trong nỗi tuyệt vọng não nề nhưng không bỏ cuộc, chàng viết thêm lá thư thứ ba cho đúng câu “nhất quá tam” luôn và lần này thì thư cũng chẳng khác tráng sĩ Kinh Kha ra đi không hẹn ngày trở lại.
Bấy giờ thì chàng hoàn toàn thất vọng, tâm tư tan nát, thần trí thẩn thờ làm chàng ngã bệnh luôn. Tội nghiệp Huyền tưởng chàng làm việc vất vả và lo lắng tương lai gia đình mà sinh bệnh nên ép chàng đi bác sĩ. Nhưng cũng may là một thời gian sau, Vinh nguôi ngoai nỗi sầu tình. Và lần lần hồi phục để cùng Huyền chung lo xây dựng hạnh phúc gia đình và dạy dỗ 3 con học hành.
Thôi thì mối tình vụn trộm với Thanh Nguyên xem như một kỷ niệm đẹp trong đời hãy cho qua đi và cho vào dĩ vảng:

Cầm bằng như nước đôi dòng lạ
Gặp gỡ nhau rồi xa cách nhau

Nhiều lúc thấy vợ vất vả nhọc nhằn và mấy con ngoan ngoản chăm học cũng như phụ giúp viêc nhà, Vinh thấy lương tâm áy náy vì cuộc tình tội lỗi vừa qua nên định “thành khẩn khai báo” nhưng kịp nghĩ lại nên dẹp ý nghĩ ngông cuồng đó vì “ ngu gì mà lạy ông tôi ở bụi nầy”. Chuyện đã qua rồi cơ mà. Hơn nữa chàng vẫn yêu thương lo lắng cho Huyền và 3 con một cách chu toàn. Thôi thì cứ xem như một phút đam mê thoáng qua trong đời vậy thôi. Giờ thì còn gì đâu nếu có chăng là một chút dư hương của cuộc tình nóng bỏng còn đọng lại như sương khói mong manh.. Vả lại, ông bà mình đã chẳng từng nói là:
Đàn ông năm bảy lá gan
Nửa về với vợ nửa toan cùng người
đó sao? Thôi thì đã lỡ sinh ra giống đa tình cũng đành chịu “trong đê mê ” chứ biết làm sao? Sao mà Vinh “đành chịu” khôn thế! Có một nữ sĩ bạn thơ đã phạng cho Vinh hai câu thơ:
Đa tình cho lắm rồi than khổ
Cũng tại nơi mình chứ tại ai
Thời gian vèo bay như bóng câu, thắm thoát thế mà các con chàng đều đã tốt nghiệp Đại Học và công ăn việc làm đàng hoàng. Đức, con trai đầu lòng là bác sĩ chuyên khoa Tropical Diseases đang làm việc tại bệnh viện Toronto, Diễm đứa con gái thứ nhì chuyên viên computer cho hãng IBM và Thúy con gái út actuary expert cho cơ sở tài chánh KPMG. Nhưng có điều làm chàng lo lắng là trong lúc hai con gái đều đã chồng con đề huề thế mà Đức đã 34 tuổi rồi mà vẫn còn độc thân. Ai cũng bảo chàng rằng con trai mà lo gì nhưng thực ra đâu phải cứ là con trai thì phải lập gia đình trễ đâu. Đàng nầy cậu ta cứ hợp tan tan họp với bao nhiêu cô gái rồi mà chẳng đi đến đâu, có lẽ phần lớn do tính ít nói năng không hoạt bát của cậu. Ngoài ra, Đức có những cái nhìn và sự suy nghĩ về cuộc đời rất đặc biệt chẳng hạn như nghề nghiệp của cậu ta, ai đời thuở nào ở ngay cái xứ văn minh tiến bộ Canada mà cậu đi học chuyên môn về ngành tropical diseases là bệnh chỉ thường thấy ở mấy xứ chậm tiến thì trị bệnh cho ai đây. Chính vì thế mà cậu chỉ làm ở nhà thương trị bệnh chiếu lệ hằng ngày cho dăm ba người còn thì chú tâm về nghiên cứu mấy cái bệnh thường xảy ra ở xứ nghèo đói. Vợ chồng Vinh hỏi tại sao học cái ngành “ác ôn côn đồ giải phóng miền Nam” nầy thì cậu trả lời gọn ơ:
– Trước hết quan niệm sống của con là không cần nhiều tiền để phải học chuyên môn như cardiologist, radiologist, ophthalmologist…Thứ hai là tại các nước nghèo đói con người dễ sinh bệnh tật mà lại thiếu bác sĩ chuyên môn. Con muốn giúp những người đó vì họ rất cần bàn tay y sĩ.
Nghe cậu nói vậy thì vợ chồng Vinh phải chịu thua chứ làm sao cãi lại tinh thần “ lương y như từ mẫu” của cậu ta được.
Thời gian vẫn trôi nhanh trong cuộc sống êm đềm của gia đình Vinh. Một hôm Đức đi làm về nói có chuyện quan trọng muốn thưa với vợ chồng Vinh. Vinh Huyền theo chân cậu ta vào phòng khách với hy vọng là đó là tin cậu phải lòng cô nào. Sau khi mọi người an tọa, Đức chậm rãi thưa:
– Đã từ lâu, con muốn về Việt Nam để giúp trị bệnh cho đồng bào mình vốn khốn khổ từ sau 75 nhưng vì bên đó thiếu thốn mọi phương tiện y học nên con còn chần chừ. Hôm nay có bệnh viện của Đức ở Sài Gòn mới thành lập, họ đang cần bác sĩ. Con muốn xin ba mẹ cho con qua bên ấy để thực hiện hoài bảo mình là đem khả năng và kinh nghiệm chuyên môn để phục vụ đồng bào. Nếu ba mẹ cho phép con sẽ apply thì trong vòng một tháng đi liền vì bên ấy họ cần gấp. Lương rất cao so với giá sinh hoạt Việt Nam, nhưng điều đó không quan trọng. Điều chính yếu là con có cơ hội giúp đở đồng bào mình cũng như phát triển nghề nghiệp.
Xong cậu ta còn nói đùa bằng cách chơi chữ là:
– Con tên Đức thì làm việc cho bệnh viện Đức là đúng quá rồi.
Huyền nghe xong phản đối liền vì nàng lo buồn phải xa con và sợ con ở một mình bên Việt Nam rồi không ai lo miếng ăn giấc ngủ, nắng gió trở trời nhất là môi trường tệ hại. Riêng Vinh thì thực tế hơn vì chàng biết rõ cá tính của con trai mình, cậu ta đã quyết định rồi mới thưa sau với vợ chồng chàng, có ngăn cản cũng đâu có được.
Thế là một tháng sau, Đức từ giã cha mẹ, các em cháu để lên đường sang Việt Nam “cứu nhân độ thế” theo tâm niệm của cậu.

6) Mối tình tiền định:

Vì bệnh viện rất cần bác sĩ ngoại quốc- chứ không phải bác sĩ quốc doanh-nên Đức với tư cách là một bác sĩ chuyên khoa tốt nghiệp tại Canada- được nhiều ưu đãi, đã lương cao cộng thêm phụ cấp nhà cửa xe cộ và luôn cả tài xế. Cậu làm việc với tất cả lương tâm nhiệt tình lại hòa mình cởi mở nên được mọi người từ ban giám đốc, nhân viên, bệnh nhân thảy đều quý mến. Ngoài ra, cậu nói tiếng Việt khá rành nên sự thông đạt với những người chung quanh cũng dễ dàng. Những lúc rỗi rảnh, cậu thường phone về Toronto để nói chuyện và thăm hỏi ba mẹ và các em cháu. Tội nghiệp Huyền nóng ruột con trai cưng nên cứ hỏi cậu ăn ngủ được không? Làm việc cực không? Có quen khí hậu Việt Nam không? Nàng yêu cầu con cứ 5,3 tháng bay về thăm nhà cho nàng đỡ nhớ. Nhưng cậu con say mê công việc nên gần cả năm mà chưa về một lần.
Tại bệnh viện, có một cô trưởng phòng kế toán tên Thủy thiệt là đẹp và duyên dáng, cô cũng rất vui vẻ hiền hòa nên thu phục cảm tình nhiều người trong đó có Đức. Thủy tốt nghiệp đại học Kinh tế Tài chánh và Anh văn nên được thu dụng ngay vào bệnh viện.
Nếu ngày xưa ở Toronto, Đức ít nói bao nhiêu thì bây giờ cậu hoạt bát mau mắn bấy nhiêu nhất là đối với cô trưởng phòng kế toán xinh đẹp. Riêng về Thủy thì xem ra cô cũng quý chàng bác sĩ vừa phúc hậu lại vừa goodlooking. Có một điều cô không ngờ là chính cô là người đã làm cho một người mà ngày xưa rất hà tiện lời ăn tiếng nói là Đức mà bây giờ lại chịu khó mở miệng. Theo thời gian, mối giao hảo của hai người đã đến độ “tình trong như đã mặt ngoài còn hoa lá cành trăng lên lều vải” chút chút vậy thôi.
Có một lần, hệ thống computer nhà thương bị down hơi lâu nên lương tháng của tất cả nhân viên chậm trễ. Đây là trở ngại kỹ thuật chung chứ có gì quan trọng lắm đâu mà cô trưởng phòng chận bác sĩ Đức lại để thanh minh thanh nga:
– Em xin lỗi bác sĩ vì computer hư nên lương tháng nầy của bác sĩ hơi chậm trễ nha. Bác sĩ thông cảm giùm nha!.
Nghe giọng nói ngọt như mật “ nha!nha!” của người đẹp, Đức thấy lòng xao xuyến rung động, cậu cười tủm tỉm đáp:
– Trước hết tôi xin Thủy cho tôi “mua đứt” hai tiếng bác sĩ đi vì nó nghe xa cách quá đối với hai người cùng làm chung cơ quan với nhau. Thứ nữa, Thủy đừng bận tâm vì phát lương trễ, thực ra Thủy giữ luôn cũng được cơ mà.
“Thủy giữ luôn cũng được cơ mà” Thủy vừa ngạc nhiên vừa bồi hồi sung sướng thấy ông bác sĩ nhìn mình cười cười rồi nói một câu sao mà giống thả trái balloon ái tình quá vậy nên nàng cũng vui vẻ trêu lại Đức:
– Em không thèm giữ một tháng lương của bác sĩ đâu. Em chỉ muốn giữ lương cả đời luôn.
Sự thể đến đây thì Đức không còn đường tháo lui mà phải đánh tapis luôn và đổi cách xưng hô liền:
– Nếu Thủy muốn giữ lương của anh suốt đời thì xin nhốt cả trái tim anh luôn đi Thủy.
Thủy cũng lên tông ngay:
– Biết anh có thực sự muốn cho em giữ trái tim anh hôn?
Vị bác sĩ trẻ chụp ngay cơ hội bằng vàng:
– Nếu được em bằng lòng giữ chặt tim anh thì đó là diễm phúc cả đời anh vậy.
Đó! Tình yêu hai người khởi sự như thế đó. Lúc bấy giờ, Đức đã 35 tuổi còn Thủy mới 25 xuân xanh. Kể từ hôm đó, bệnh viện Đức quốc có hai tâm hồn cùng một nhịp đập trong hạnh phúc tuyệt vời. Riêng Đức thì chưa bao giờ cậu thấy quyết định về Việt Nam phục vụ thật tốt đẹp cho bằng lúc nầy. Giá mà trước đây, cậu nghe lời mẹ ở lại Canada thì thiệt là uổng phí hết đời trai và mất cả một cơ hội tuyệt vời như vậy.
Kể ra thì Đức cũng tốt số lắm vì trước đó có rất nhiều vương tôn công tử đỏ vây quanh tán tỉnh Thủy, nhiều chàng hỏi xin cưới nàng với của hồi môn hàng triệu mỹ kim tham nhũng của ông cha còn cộng thêm lời hứa sẽ mang nàng đi sống tại các quốc gia Âu Mỹ bằng thế lực đảng viên cao cấp, nhưng nàng thẳng thắn từ chối vì nàng thực sự không thể có mối cảm tình- chứ đừng nói tới yêu – cái đám người trẻ tuổi loại công tử đỏ ngu dốt, du thủ du thực thiếu nhân cách chỉ biết dựa thế đại gia của cha ông gian ác cửa quyền để hống hách và phá của. Nhưng kể từ khi gặp Đức rồi thấy tâm lòng vị tha hy sinh cũng như tư cách đứng đắn phúc hậu của chàng, Thủy cảm nhận ngay chàng chính là con người lý tưởng mà nàng đã từ lâu mơ ước. Riêng phần Đức tuy đã giao du với bao nhiêu cô gái xinh đẹp trí thức ở Toronto nhưng chưa có cô nào hòa hợp được tính tình bình dị chân thật và nhất là lòng yêu thương nhân loại bao la của chàng cho tới lúc gặp Thủy thì chàng tin rằng Trời Phật đã mang nàng đến cho chàng rồi đây. What a match up!
Gia đình Thủy chỉ có hai chị em, chị nàng có chồng con ở Cần Thơ, ba Thủy mất từ lâu nên chỉ có mình nàng ở với mẹ. Khi vừa mới yêu nhau, Thủy dẫn Đức về nhà thăm mẹ. Đó là người đàn bà tuổi đã ngoài lục tuần nhưng trông vẫn còn xuân sắc và yêu kiều. Thực vậy, ngày xưa với nét đẹp chín muồi của gái hai con, bà đã có nhiều người theo đuổi nhưng bà nhất quyết ở vậy nuôi con.
Sau khi nghe Thủy giải bày là đã có người yêu là một chàng trai ở Canada trí thức khiêm tốn và có lòng nhân, bà đã bảo Thủy dẫn Đức đến gặp bà.
Và không như một số các bà mẹ khác nghe con có người yêu Việt Kiều là tươm tướp gài độ cho dính, trái lại trong lần gặp gỡ đầu tiên, bà đã đã điều tra cặn kẻ thiếu điều như hỏi cung Đức về gốc gác gia đình chàng. Và Đức đã hết sức thành thật khai báo mọi chi tiết. Nghe xong bà có vẻ hơi ngạc nhiên rồi ôn tồn bảo chàng trai:
– Nếu cháu thực sự yêu con Thủy và muốn tính chuyện gia đình với nó thì cháu phải mời anh chị sang đây để nói chuyện với bác.
Được lời như cởi tấc lòng, chàng Đức nhà ta vội hối hả mua vé máy bay gấp về Toronto với lý do chính đáng là để thăm ba mẹ và các em. Nghe tin nầy cả nhà mừng quýnh lên nhất là Huyền lăng xăng chuẩn bị đón rước thằng con trai cưng.
Đức trở về lại home town sau hơn năm trời xa cách trong nỗi vui mừng nghẹn ngào của những người thân yêu. Thiệt đúng là con trai muốn vợ, ngay sau bữa cơm đoàn tụ gia đình, chàng đã vội vàng trình bày thẳng vấn đề với ba mẹ trước mặt mấy đứa em. Chàng xúc động nói:
– Ba mẹ! Hôm nay con về đây trước là thăm ba mẹ với mấy em, sau nữa con có câu chuyện quan trọng muốn thưa cùng ba mẹ.
Huyền nhanh nhẩu trong hồi họp hỏi con trai:
– Chuyện gì vậy con? Vui hay buồn vậy con?
Đức chậm rãi vào đề luôn:
– Theo con nghĩ là chuyện vui. Đó là trong thời gian ở Việt Nam vừa qua, con có thương một người con gái tên Thủy 25 tuổi, cùng làm chung nhà thương với con. Cô ấy xinh đẹp hiền lành nết na và gia thế cũng đàng hoàng. Con muốn cưới Thủy làm vợ thì mẹ cô nói ba mẹ phải qua Việt Nam hỏi cưới đàng hoàng. Con biết ba mẹ từ lâu cũng mong muốn con có gia đình thì dịp đó đã đến. Con xin ba mẹ thương con mà chịu khó về Việt Nam trước là thăm lại quê hương sau nữa lo bề gia thất cho con.
Nghe đến đây cả Vinh lẫn Huyền đều lặng người sửng sốt với hai tâm trạng khác nhau. Vinh thì nửa mừng nửa lo, mừng là con đã có ý nghĩ lập gia đình ổn định cuộc đời còn lo là không biết cô Thủy này có đúng là nề nếp gia phong như lời Đức nói hay không hay là cậu ta vì yêu thương quá đổi rồi sơn son phết vàng, tô lục chuốt hồng thêm cho cô nàng. Còn Huyền thì với bản năng bà mẹ thương con lúc nào cũng muốn gìn giữ con như gà mẹ muốn bảo vệ gà con cả đời nên cảm nghĩ đầu tiên là nàng nghi ngờ cô Thủy nầy muốn đi ngoại quốc nên chài mồi con trai nàng. Cả hai đều thẳng thắn nói ra ý nghĩ mình về “nàng dâu tương lai”. Đức như đoán được ý cha mẹ nên đã chuẩn bị lời ăn tiếng nói sẵn sàng mà trình bày rành mạch về gia đình Thủy nề nếp, kiến thức, tư cách hiền hòa phúc hậu của nàng cũng như nàng đã nhắt quyết từ chối những cơ hội giàu sang phú quý kể cả việc xuất ngoại mà bao người sẵn sàng dâng cho vì họ thuộc những gia đình cán bộ bất nhân và bất lương. Chàng cũng ca ngợi bà mẹ nàng như một biểu tượng người đàn bà tiết hạnh Việt Nam thờ chồng nuôi con.
Riêng Diễm, Thúy hai em gái chàng với quan niệm sống cởi mở hơn nên hai cô tán đồng việc hôn nhân của anh và đề nghị ba mẹ về Việt Nam một chuyến để xem tình hình ra sao.
Với sự thể như vậy và cũng vì lòng thương con, hơn nữa hai vợ chồng Vinh cũng đã về hưu nên thu xếp về Việt Nam một tháng không khó khăn gì.

7) Những chuyện bất ngờ trong mối lương duyên:

Vợ chồng Vinh theo Đức đáp chuyến bay Air Canada tới Sài Gòn. Thủy cùng tài xế của Đức ra đón họ tại sân bay. Nghe Đức nói Thủy đi đón mình, thoạt tiên Vinh và Huyền cứ nghĩ rằng sẽ gặp một cô gái phấn son lòe loẹt ăn mặc tóc tai đợt sóng mới theo kiểu thời trang đua đòi lố bịch ở Sài Gòn bấy giờ nhưng tới chừng gặp Thủy thì cả hai vợ chồng bật ngửa ra vì trước mặt họ là một cô gái trẻ đẹp đoan trang thùy mị nói năng lễ phép dịu dàng và mặc chiếc áo dài màu thiên thanh trang nhã. Những thành kiến lúc ban đầu lần lần tan biến nhất là sau nói chuyện với Thủy, họ càng thấy nàng một mực lễ phép, khôn khéo tế nhị nên từ ác cảm đã đột nhiên trở thành thiện cảm trong lòng vợ chồng Vinh lúc nào không hay. Nói tóm lại, chỉ trong môt buổi gặp gỡ ban đầu, Thủy đã chiếm trọn cảm tình cha mẹ chồng tương lai của mình. Người sung sướng nhất là Đức vì chàng đã cảm nhận mọi việc diễn tiến một cách tốt đẹp. Chàng nhìn người yêu với ánh mắt đầy cảm phục yêu thương.
Nghỉ ngơi tại Sài Gòn một ngày cho tạm quen giờ giấc rồi sau đó phút giây trọng đại đã đến:vợ chồng Vinh tới thăm mẹ của Thủy để tính chuyện hôn nhân.
Nhà Thủy ở đường Tự Đức quận Nhứt Sài Gòn trong khu gia cư sang trọng êm ả. Mẹ Thủy ra tận cổng ngoài đón khách…nhưng khi gặp nhau, Vinh bỗng giật mình biến sắc run run và kinh ngạc mà cho dù nằm mơ chàng cũng không dám mơ như vậy…vì…vì mẹ của Thủy chính là…là…Thanh Nguyên ngày xưa. Hình ảnh yêu kiều của cố nhân mà cho dù đã cách xa 26 năm, chàng cũng không bao giờ quên dù cho thời gian có nhạt nhòa theo năm tháng. Trời ơi! Thanh Nguyên đây sao? Còn Huyền thì cảm thấy người đàn bà nầy sao hơi quen quen, hình như mình đã gặp ở đâu rồi. Riêng mẹ Thủy thì không hiểu bà có cảm giác gì hay không mà thấy bà cười cười tỉnh bơ vui vẻ mời khách vào nhà.
Sau khi hối Thủy mang trà nước ra cho khách, mẹ Thủy bảo nàng và Đức ra vườn nhà sau chơi để người lớn nói chuyện. Bà nhìn vợ chồng Vinh rồi bắt đầu câu chuyện:
– Không biết anh chị có còn nhận ra em không chứ riêng em thì em nhớ rõ anh là anh Nguyễn Tấn Vinh còn chị là Lê thị Huyền. Còn em là …
Ngay lúc đó Vinh cướp lời:
– Huỳnh thị Thanh Nguyên
Rồi trong phút bàng hoàng xao xuyến, chàng trầm giọng tiếp theo bằng một câu đầy ý nghĩa:
– Anh…..và chị không bao giờ quên em.
làm Thanh Nguyên xúc động nhìn chàng.
Sau đó, chàng đã thay mặt vợ kể lại tuần tự chuyện ngày xưa, chàng đã tìm mọi cách liên lạc Thanh Nguyên từ hồi còn ở đảo cho tới 3 tháng sau lúc định cư Toronto đã gởi liên tiếp cho nàng nhiều thơ nhưng vẫn biệt vô âm tính làm cho vợ chồng chàng lo rầu biết bao là không biết chuyện gì xảy đến cho Thanh Nguyên. Sau đó chàng chỉ biết cầu nguyện ơn trên ban phước lành cho nàng.
Huyền cũng nhắc lại chuyện thôi thúc Vinh thư từ thăm hỏi và tỏ lòng tri ơn nàng nhưng tất cả chỉ là tuyệt vọng.
Thanh Nguyên bồi hồi cám ơn thâm tình của Vinh Huyền rồi nghẹn ngào kể:
– Chuyện hôn nhân của Đức – Thủy đã đến nước này thì em phải đánh liều bất kể danh giá hậu quả để kể rõ ngọn ngành cho anh chị nhất là chị nghe:
Số là trước khi đưa anh chị xuống tàu ở Rạch Giá Vượt biên, anh Vinh ở tại nhà em. Thú thực là trước đó em đã yêu anh Vinh rồi nhưng em cố ngăn cơn sóng tình bộc phát vì thấy tội lỗi quá nhất là quý mến chị. Kịp đến khi anh ở chung với em thì hoàn cảnh lửa gần rơm lại thêm cảm cái ơn cứu mạng ba em và hơn nữa cứ nghĩ là trong thời gian ngắn nữa là vĩnh viễn xa nhau nên em đã mềm yếu ngã vào vòng tay Vinh. Sau khi anh chị đã đi rồi em tưởng rằng mọi việc đã chấm dứt nhưng không ngờ chỉ một tháng sau, em phát giác ra rằng Vinh đã để lại một giọt máu trong em. Em không ân hận gì cả vì có đứa con với người mình yêu là điều hạnh phúc cho dù người đó đã ở một phương trời xa thẳm cách biệt nào rồi. Nhưng vấn đề là danh tiết em đối với xã hội và sở làm. Mặc dù là con người Cộng Sản vô thần không biết đến đời sống tâm linh danh giá nhưng với riêng em, tiết hạnh là cả một vấn đề nhất là em vốn tự hào là đã thờ chồng nuôi con cho dù em không thực sự thương yêu chồng em mà vẫn muốn mang cái võ hư danh đó. Thế nên em phải dấu nhẹm việc không chồng mà chửa bằng một hy sinh thật lớn lao là từ bỏ chức vụ Giám Đốc Sở Công An thành phố và xin giải ngủ luôn để về làm phục viên bình thường tại Vĩnh Bình. Chính vì thế mà anh chị không liên lạc được với em còn em thì cũng không có cách nào để biết anh chị ở đâu mà thư từ thăm hỏi. Từ đó, em cùng con Phượng Nguyên ở ẩn dật trong tình thương của ba má em cho tới ngày sanh đứa con gái đặt tên là Huỳnh thị Bình Thủy. Sở dĩ em đặt tên con là Bình Thủy vì anh Vinh nhớ có lần em nói với anh là thân phận chúng mình như bình thủy tương phùng…nên em lấy hai chữ đó mà đặt cho con. Em và hai con thơ ở Vĩnh Bình tới lúc Phượng Nguyên lên Đại Học Sài Gòn thì em cũng lên thành phố mua căn nhà nầy để dễ dàng lo việc học hành hai con. Sau đó Phượng Nguyên tốt nghiệp ngành giáo dục đổi xuống Cần Thơ rồi có chồng con dưới đó luôn, còn Thủy làm ở bệnh viện Đức Quốc rồi quen biết và yêu thương Đức. Hôm nó dẫn Đức tới thăm em. Em đã hỏi cặn kẻ gia thế Đức thì em muốn chết giấc khi biết Đức…là con trai anh chị. Trời ơi! Sao mà định mệnh ác độc chi thế nầy! Anh em cùng máu mủ mà lại yêu nhau. Lúc phát giác ra sự thật động trời em sửng sờ nín thở và điếng hồn muốn té xỉu luôn. Sau đó em dần tỉnh lại và làm ra vẻ tự nhiên rồi quyết định bằng mọi cách phải chia cách chúng. Em bảo Đức mời anh chị sang đây gặp em để chúng ta bàn tính giải quyết để ngăn cản chúng. Từ ngày xưa, em nói với Thủy là ba nó đã mất lúc nó còn nhỏ cho nó yên tâm mà học hành, em cũng định một ngày nào đó sẽ cho nó biết sự thực ba nó là anh Vinh ngày đó cũng đã đến rồi mà đến trong đại họa. Bây giờ anh chị phải tiếp tay với em trong cái oan trái nầy, chớ còn em thì rối trí quá rồi đó.
Nghe xong câu chuyện thì Huyền choáng váng cả mặt mày, đầu óc quay cuồng. Trời ơi ! không ngờ người chồng mà nàng hằng yêu thương tin tưởng và người đàn bà mà nàng xem như là người ơn và luôn quý trọng lại cùng nhau phản bội nàng. Nhớ lại lúc nàng hối thúc Vinh thư từ cho Thanh Nguyên mà nàng thấy tức tối vô cùng, đúng là nàng đã nối giáo cho giặc. Cảm thấy quá ấm ức trong lòng, nhưng với bản chất khoan hòa và nhất là đối với công ơn lớn lao của Thanh Nguyên nên nàng còn cả nể, nàng chỉ biết quay sang cằn nhằn ông chồng đa tình quá quắc của mình:
– Thấy chưa? Ông quậy quá trời tới không để đức cho con cháu mà.
Vinh trả lời cũng ăn trớt đi ngoài câu chuyện “đại họa”
– Hổng để đức mà tụi nó nên danh phận hết à!
Thanh Nguyên nóng ruột:
– Thôi! Em xin anh chị đừng đôi co nữa và xin chị hãy rộng lượng tha thứ cho em về chuyện xưa giữa anh Vinh và em. Bây giờ chuyện cấp bách là mình hãy bàn thẳng vấn đề con Thủy thằng Đức.
Rồi nàng chặc lưỡi tiếp:
– Mà cũng hổng hiểu Trời Đất gì lại xui khiến hai anh em đứa phương Đông đứa trời Tây mà lại xáp nhau làm chung một chỗ rồi yêu thương nhau mới khổ như vầy đây.
Vinh tỉnh bơ trả lời:
– Thì cái đó mới gọi là duyên nợ đó chớ!
Thanh Nguyên bực bội:
– Giờ phút nầy mà anh còn giỡn được hả anh Vinh?
Vinh trả lời :
– Anh đâu có giỡn hồi nào đâu!
Thanh Nguyên sẵn giọng:
– Vậy chớ chuyện anh em ruột thịt lấy nhau mà anh bảo là duyên nợ cái gì?
Vinh lại ỡm ờ:
– Anh nói hai đứa kết duyên nhau cũng được mà.
Hết chịu đựng nỗi nữa, Thanh Nguyên giận dữ:
– Anh nói cái gì kỳ mà bậy bạ vậy anh Vinh? Anh muốn hai đứa nó loạn luân với nhau hả? Tui hổng thèm nói chuyện với anh nữa đâu. Còn chị Huyền chị tính can ngăn cách nào đây hả chị?
Đến bây giờ Huyền mới chậm rãi lên tiếng:
– Nói thiệt với cô Thanh Nguyên là thằng Đức vốn không phải là con ruột của vợ chồng tôi…Số là ngày xưa, anh Vinh và tôi ăn ở nhau bốn năm trời mà không có con làm cha mẹ hai bên đều lo lắng. Sẵn con em gái tôi nó cứ đẻ sồn sồn năm một nên má tôi bảo tôi xin đứt một đứa mà là con trai để làm con nuôi lấy hên nên tụi tôi mới xin thằng Đức, lúc nó mới hơn một tuổi. Vợ chồng đứa em gái thấy thương tụi tôi, vả lại giao con cho Dì ruột nuôi thì cũng như trong nhà nên mới thuận cho và làm khai sanh lại cho Đức là con ruột của vợ chồng tôi. Từ đó cả hai gia đình chị em tôi giấu biệt vụ nầy luôn vì sợ con cái nó buồn. Như vậy con Thủy và thằng Đức đâu cùng huyết thống gì nên anh Vinh mới nói tụi nó lấy nhau vẫn được là vậy đó.
Tới lúc nầy, Thanh Nguyên tươi cười vừa thở phào nhẹ nhỏm như trút được gánh nặng ngàn cân, nàng thành khẩn chắp tay rồi lâm râm khấn vái “con tạ ơn Trời Phật có lòng thương chứng giám lời nguyện của con”. Xong nàng quay sang nói với vợ chồng Vinh:
– Thiệt em mừng còn hơn trúng số độc đắc. Từ mấy tháng nay, bị cái chuyện rầu buồn nầy mà em có ăn ngủ gì được đâu. Muốn bịnh luôn vậy đó. Đúng là anh chị đã mang tin mừng và may mắn đến cho em.
Huyền căn dặn thêm:
– Lỡ xảy ra chuyện oái oăm vừa qua nên tôi mới tiết lộ bí mật cho cô biết nhưng mình cũng nên tuyệt đối giữ kín chuyện nầy nhất là với tụi nhỏ nha cô Thanh Nguyên.
Thanh Nguyên nói nhỏ như sợ Đức Thủy nghe mặc dù tụi nó đã dẫn nhau ra gốc mít sau nhà để tâm tình từ lâu rồi:
– Trời ơi! Chuyện tày trời nầy thì sống để bụng chết mang theo chứ ai mà dám tiết lộ. Trước đây em định nói sự thực cho con Thủy nghe để ngăn cản việc hôn nhân của nó chứ bây giờ sự việc sáng tỏ như thế nầy, thì ai ngu gì mà nói. Mà con Thủy như vậy vừa là con gái anh Vinh vừa là con dâu thì cũng tốt quá rồi.
Sau đó Thanh Nguyên gọi Thủy – Đức vào nhà để cả ba người lớn đồng thanh tuyên bố chấp nhận tác hợp cho đôi trẻ trong tiếng cười hân hoan hạnh phúc của Thủy Đức. Thừa thắng xông lên, Đức hăng hái thưa:
– Tụi con vô cùng cám ơn ba và hai má đã thương tình chấp thuận cho hai con nên vợ chồng. Ông bà mình có nói là “Cưới vợ thì cưới liền tay- Đừng để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên tụi con xin ba và hai má có thương thì thương cho trót cho phép tụi con được làm đám cưới ngay trong thời gian ba má còn ở Việt Nam”
Vinh cười trả lời:
– Cái thằng ăn nói phải giữ lời, mầy cứ “ba và hai má, ba và hai má” hoài, rủi ai nghe được người ta hiểu lầm tao sao mậy!
Đến đây thì Huyền và Thanh Nguyên cùng hè nhau sáp lại mỗi người một bên véo ông chồng và người tình một cái đau điếng và cùng nghiến răng:
– Cho bỏ tật nghèo mà ham. Già rồi mà khoái nói bậy.
Sau cùng thì cả “ba” và “hai má” cùng đồng ý làm đám cưới cho Đức – Thủy trong 3 tuần nữa . Vinh hân hoan bảo con :
– Tụi bây thiệt đúng là cuộc tình không biên giới.
Vừa nói chàng vừa liếc Thanh Nguyên ngụ ý với nàng là “tình mình ngày xưa cũng là tình không biên giới vậy, phải không em?”.
Riêng Phượng Nguyên thì rất vui mừng khi biết em gái mình sắp trở thành dâu của “cậu Vinh”, người mà nàng từng thương như cha ruột và cũng là người yêu tuyệt vời của mẹ nàng, và nay mới biết cậu Vinh cũng là cha của em gái nàng. Nàng cười tươi nói với Vinh:
– Cậu thiệt là giữ đúng lời hứa là sẽ trở về với mẹ con của con. Bây giờ biết Bình Thủy (hổng phải bình thủy đựng nước sôi đau nha) là em một mẹ khác cha với con nhưng con thực sự xem nó như là em cùng cha cùng mẹ vì từ lâu con đã xem cậu như ba của con rồi.
Trong buổi tiệc cưới, thấy Vinh đường hoàng ngồi giữa Huyền và Thanh Nguyên trên bàn danh dự, bạn bè cũ ở Việt Nam thời trước bèn hỏi đùa:
– Ông ngồi chính giữa hai bà như vậy thì ai mà biết bà nào là bà xã còn bà nào là bà sui.
Vinh cười ha hả rồi phán ra một câu mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi:
– Bà nào cũng là bà xã mà bà nào cũng là bà sui cả. Phải không hai em? Ha! Ha! Ha!
Nghe thấy vậy, cả Huyền và Thanh Nguyên cùng nguýt Vinh bằng hai cái đuôi con mắt dài sọc.

Nguyên Trần

Toronto Dec 17, 2008

 

Views: 343