Bài Thi Kệ của Thiền Sư Mãn Giác (1052-1096)

Bài thi kệ của Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096)

春 去 百 花 落
Xuân khứ  bách hoa   lạc
春 到 百 花 開
Xuân đáo  bách  hoa khai
事 逐 眼 前 過
Sự   trục   nhãn  tiền   quá
老 從 頭 上 來
Lão  tòng   đầu thượng lai
莫 謂 春 殘 花 落 尽
Mạc   vị    xuân   tàn   hoa    lạc   tận
庭 前 昨 夜 一 枝 梅
Đình  tiền  tạc   dạ     nhất    chi   mai.

Bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ:

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai

 

Nguyễn N Ngọ (trình bày)

 

Views: 387

Tuổi Trẻ Ông Phó Quận Phạm Thành Châu

Nguyễn Ngọc Cảnh, Ph.D.

Pham Thanh Chau

Phạm Thành Châu

Tác giả truyện ngắn Phạm Thành Châu và tôi quen nhau từ thuở học cùng lớp ở Trung Học Trần Quí Cáp, Hội An. Tôi không biết có phải vì mình nay tuổi đã ngoại thất tuần và vì đã xa nhau hơn 50 năm nên tôi không còn nhớ là hai đứa bắt đầu biết nhau từ năm nào mà chỉ còn nhớ là cả hai cùng học Đệ Nhất C niên khóa 1962-1963. Hay cũng có thể là vào những năm trước Tú Tài I bạn Châu của tôi không gây nhiều ấn tượng cho tôi như vào năm Đệ Nhất? Vào năm ấy tôi còn nhớ rất rõ Phạm Thành Châu là một học trò tinh nghịch nhứt lớp nhưng lại là làm Trưởng ban trật tự của lớp! Tôi không nhớ thủ tục bầu bán như thế nào nhưng tôi được lãnh cái danh dự làm Trưởng lớp còn PTC bị lãnh cái nợ làm Trưởng ban trật tự. Tình thật mà nói nếu Trưởng lớp có quyền chọn các trưởng ban để làm việc hiệu đoàn với mình chắc có lẽ tôi đã “bổ nhiệm” ông bạn quí hóa của tôi làm “Trưởng ban mất trật tự”!

Phạm Thành Châu tinh nghịch nhưng rất ngộ nghĩnh nên ai nếu không thương thì cũng không ghét được. Mỗi tuần Châu ngồi ghi vào vở cô giáo Anh văn trẻ đẹp Lê Thị Tường Loan mỗi buổi dạy mặc áo dài màu gì, cầm xách tay màu gì, và đi giày cao gót màu gì để đến thứ Hai tuần sau “bá cao” cho cả lớp biết! Phòng học của lớp Đệ Nhứt C nằm sát lộ chính chạy từ dưới Trường Nam Tiểu học ở huớng đông lên hướng tây qua trước mặt Trung học Trần Quí Cáp bên tay trái và trại lính Công binh bên tay phải. PTC ngồi ở cuối bàn gần cửa sổ sau; nếu ngoãnh đầu lại thì nhìn ngay vào cổng chính của trại Công binh nơi xe nhà binh thường xuyên ra vào khá ồn ào. Những xe Jeep nhỏ có tiếng máy “tao nhã” hơn thường không lấn áp tiếng giảng bài của giáo sư trẻ ở trong phòng học của chúng tôi. Nhưng những tiếng máy gào thét “thô lỗ” của xe vận tải “rêm xê” thì lúc nào cũng làm cho học trò lũ chúng tôi chẳng nghe thầy nói gì ở trên bảng! Chính vì vậy mà mỗi khi nghe như có tiếng xe ra cổng, Cô Tường Loan thường muốn biết là xe lớn hay nhỏ để có thể dừng giảng bài chờ cho xe ra khỏi cổng. Một hôm cô gọi “Châu, xem có xe ra hay không?” Ông bạn tinh nghịch của tôi lanh lẹ trả lời “Thưa Cô có!” Cô Loan hỏi “Xe gì?” “Dạ thưa Cô xe đạp.” Châu đáp lại! Cả lớp phát lên cười rộ. Trưởng ban trật tự có nhiệm vụ phân công tác chùi bảng mỗi ngày. Có một hôm phiên trực rơi trúng vào một đồng môn vắng mặt; thế thì Trưởng ban trật tự phải thay thế. PTC lên bảng tìm không ra khăn lau bảng trong khi giáo sư sắp bước vào lớp, Châu lanh lẹ sè hai bàn tay mình ra và nói lớn “Hãy xem Trưởng ban trật tự làm việc” và dùng hai bàn tay xóa sạch bài viết của giờ học trước còn để lại!

Đó là nói chuyện trong lớp khi có thầy. Còn lúc lớp buổi sáng trước 8 giờ trong lúc ngồi chờ thầy vào lớp, Châu thường cầm đầu diễu cô Thúy Quỳnh “xết xi” trẻ đẹp dạy ở Trường Nam Tiểu Học. Sáng nào cô cũng ỏng ẹo đi bộ ngang trường chúng tôi. Mỗi khi thấy cô, Châu và đồng bọn bắt chước mấy đứa nhỏ bán bánh mì buổi tối thường rao “Bánh mì nóng dòn đây” và cùng la lớn ” Thúy Quỳnh nóng dòn đây”!

Thời tinh nghịch vô tình vô tội của tuổi học trò đứng hàng ba sau ma quỉ ấy nay đã xa tịt mù trong quá khứ dài hơn nữa thế kỷ. Tôi xa PTC sau khi đậu Tú tài II năm 1963. Tôi ngược ra hướng bắc vào Đại học Sư phạm Huế còn bạn tôi xuôi hướng nam vào Sài Gòn học Quốc gia Hành chánh. Sau bao năm lên voi làm Phó Quận Trưởng thời Việt Nam Cộng Hòa rồi xuống chó làm tù cải tạo của thời “Bắc thuộc” cho đến khi đi tìm được tự do ở đất Cờ Hoa. Sách có câu “thời thế tạo anh hùng” và vì hoàn cảnh đổi thay mà nay PTC đã trở thành một văn sĩ viết truyện ngắn hay ít ai sánh kịp.

Anh đã xuất bản được 4 tập truyện ngắn nhan đề:

– Bức Họa Khỏa Thân

– Nhớ Huế

– Lý Lẽ của Trái Tim

– Lời Tỏ Tình

sach PTCĐây là những câu chuyện cười ra nước mắt phản ảnh trung thực cuộc đời đầy khổ nhục của những anh hùng Việt Nam tự do sống dưới chế độ nô lệ của Hà Nội sau 1975.  Người chồng có thể hiểu trong đầu mình cái đau quặn người của vợ khi sinh đẻ nhưng là đàn ông, vì không bao giờ có kinh nghiệm bản thân “đau đẻ”, không bao giờ có thể đồng cảm được cơn đau vô tả của người đàn bà khi sinh con. Tương tợ như thế, một số người may mắn như tôi không bị sống trong trại tập trung của Cộng sản vẫn có thể hiểu trong đầu mình những khổ nhục thể xác và tinh thần mà bạn bè bị kẹt lại ở Miền Nam phải trải qua nhưng không thể nào cảm thông được trong tim mình những nổi não nề trong tinh thần của cuộc sống lao tù chính trị dưới chế độ vô nhân bản của Cộng sản. Nhưng một điều rất đáng ngac nhiên mà tôi phải cảm ơn PTC là qua những truyện ngắn của nhà văn tị nạn này tôi đã nhận ra được cái não nề, quằn quọi trong tinh thần của những người bạn đi “cải tạo” khiến tôi không cầm được nước mắt. Đó là cái tài thiên phú ít có.

Văn của PTC nhẹ nhàng, hài hước, và lôi cuốn khiến ít ai có thể bỏ đọc nửa chừng. Tuy văn có vẻ như đùa cợt, nội dung thật là sâu sắc thâm trầm. Tuy tác giả trải qua nhiều kinh nghiệm đắng cay, PTC vẫn không hoàn toàn mất tin tưởng vào thiện tính của con người. Đây là một trong những yếu tố đặc thù phản ảnh nhân tình của tác giả. Ý thức hệ phi nhân bản có thể xóa mờ tâm tính của một số người Việt chúng ta, nhưng truyện của PTC cho những ai trong chúng ta còn giữ lại được chút nghĩa “đồng bào” thấy còn hé mở một tia ánh sáng, dầu yếu ớt, trong cái tâm mù lòa của những người đã đi lầm đường trước năm 1975.

Cảm ơn bạn Châu đã cho tôi những giây phút vui buồn vì nhân tình thế thái trong đất nước Việt Nam thân yêu vào giai đoạn lịch sử loạn ly. Bạn là một trong những chứng nhân lịch sử quan trọng của dân tộc Việt cho một giai đoạn khổ nhục nhất của người Việt sống trong cảnh anh em đô hộ anh em.

Nguyễn Ngọc Cảnh, Ph.D.

Lưu ý: Độc giả có thể liên lạc với nhà văn Phạm Thành Châu qua số ĐT (571)480-3276 hoặc (703)569-0124, hay địa chỉ email: chaupham3276@gmail.com

Views: 112

Ông Phó Tổ Chức Bầu Cử

Phạm Thành Châu 

baucu

Ảnh: http://hinhanhvietnam.com

Bây giờ tôi xin kể qua chuyện bầu cử các định chế tổng thống, thượng viện, hạ viện, hội đồng tỉnh, hội đồng xã…

Vùng lục tỉnh (miền tây) việc bầu cử không căng thẳng như các tỉnh miền Trung, nhất là tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế, là nơi các thầy ở các chùa Phật giáo khống chế hầu như toàn thể người dân địa phương. Các thầy là người tu hành, lòng dạ ngay thẳng, thánh thiện, tưởng ai cũng như mình nên ai “nói ngọt” (chuyện cứu dân độ thế) là các thầy tin ngay. Mà Việt Cộng thì rất giỏi khoa tuyên truyền, dụ dỗ, lừa phỉnh, khủng bố… nên các thầy bị họ giật giây. Các thầy lúc nào cũng sẵn sàng “hi sinh thân xác vô thường để cứu độ chúng sanh”. Sau năm 1975, chiếm được miền Nam, Việt Cộng công bố rằng: Trước 1975, ở miền Nam, họ đã gài được hơn ba mươi nghìn (30,000) cán bộ Cộng Sản, xâm nhập các chùa chiền Phật giáo trong Nam. Tôi xin đưa ra vài sự kiện để chứng minh. Thích Trí Quang, đội lốt nhà tu. Trong “Trí Quang Tự Truyện” có viết “Lại biết từ lâu, Pháp làm cỏ các phái chống họ, mà cao điểm là pháp trường Yên Bái, thì còn ai nữa để lựa chọn ngoài VM (trang 56)” Theo tình báo Việt Nam Cộng Hòa thì. Năm 22 tuổi, Trí Quang ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, nhận nhiệm vụ vào Nam diệt “loài quạ lang”. Năm 1949, Tố Hữu kết nạp Trí Quang vào đảng Cộng Sản tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa, Thừa Thiên. Ngày 6 tháng 6 năm 1966, Trí Quang ra lịnh cho đoàn sinh viên Quyết Tử đến từng tư gia ở Huế và ngoại ô, bắt dân chúng đem bàn thờ Phật xuống đường, dĩ nhiên có cả hình và tượng Phật. (Bàn thờ, tượng Phật là vật thiêng liêng, phải để nơi cao quí, trang trọng, sao lại  để chỗ cống rãnh, rác rưỡi dơ dáy?!) Thích Trí Quang ra lịnh đình công bãi thị, xe rác không làm việc được, dân Huế đem rác vất thành đống hôi thối (chuột chết, đầu tôm xương cá, đồ ăn thừa…) bên cạnh bàn thờ Phật, tượng Phật bên lề đường. Là người tu hành, không ai làm chuyện đó. Trong “Trí Quang Tự Truyện”, Trí Quang chối tội nhưng lại viết “Nỗi ân hận về bàn thờ Phật cùng nỗi thán phục Vân (tự thiêu), cho đến nay không nguôi trong tôi” (trang 207) Ðại họa cho dân Huế năm Mậu Thân 1968, gần chục nghìn người vô tội bị Viêt Cộng đập đầu, chôn sống cũng nhờ sự tiếp tay của quí thầy. Việt Cộng xâm nhập vùng nào đều đặt bộ chỉ huy ở các chùa (không ai dám bắn vào chùa, nhà thờ), khai thác tình báo thì có các sư đi lấy tin tức. Ai dám hạch sách quí thầy? Năm Mậu Thân, sư Thích Ðôn Hậu bị lộ nên theo Việt Cộng ra Bắc. Ðầu năm 1975, miền Nam sắp sụp đổ, chỉ mới nghe tin đồn chính phủ Mỹ sắp viện trợ nhân đạo (tổng thống Ford dự định 250 triệu để cứu trợ đồng bào tị nạn Cộng Sản)) thì các dân biểu phe Phật giáo Ấn Quang đánh điện yêu cầu chính phủ Mỹ đừng viện trợ nhân đạo. Mỹ dẹp luôn chương trình đó. Ngày 28 tháng 3 năm 1975, chư tăng chùa tỉnh hội Ðà Nẵng ra tận đèo Hải Vân mừng đón quân đội Việt Cộng. Chư tăng hớn hở ngồi trên xe tăng T54 tiến vào Ðà Nẵng. Ngày 19 thánh 5 năm 1975, chư tăng Ấn Quang long trọng làm lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh… (còn nhiều sự kiện nữa).  Sau năm 1975, Trí Quang bị cô lập vì như Trần Bạch Ðằng, cán bộ tuyên huấn của Việt Cộng phát biểu “Trí Quang là loại CIA chiến lược. Anh Út Nguyễn Văn Linh giận Trí Quang lắm”. Thời đó (sau 1975) các báo Cộng Sản ở Sài Gòn có viết về một ông sư “TQ” đã nhận hai triệu đô la của CIA để trang trải các chi phí nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, lập chính phủ mới để ông ta đưa Phật giáo thành quốc giáo và ông ta làm “Quốc Phụ” kiểu như sư Vạn Hạnh (Lý Khánh Vân) thời nhà Lý (1010-1225). Trong “Trí Quang Tự Truyện” có đoạn “Tất cả các chi phí không nhỏ cho việc của Pg miền Trung mà tôi phải lo liệu…” (trang 193) Sau 1975, mất nước, họ vênh váo, tưởng mình là công thần của Việt Cộng, không ngờ bị khinh bỉ, xem như giẻ rách. Những kẻ phản trắc (ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản) đó, kể cả cái chính phủ bù nhìn “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”, đều bị họ vất bỏ, thành thân tàn ma dại, ai cũng ghê tởm, né tránh.

Trở lại chuyện bầu cử năm 1973 tại Thừa Thiên, Huế. Sau đại nạn Mậu Thân, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn không suy giảm. Cả tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế, trung tâm văn hóa của miền Trung, biết bao trí thức, nhân tài mà thầy ra lịnh bầu cho một người đàn bà từ Sài Gòn ra, bà Kiều Mộng Thu, và bà ta đắc cử dân biểu hạ viện một cách vẻ vang. Bà ta chỉ tuyên bố với báo chí một câu “Tôi cảnh cáo cho các thầy ở Huế biết. Nếu các thầy không ra lịnh cho người ta bầu cho tôi, để tôi thất cử, thì tôi sẽ nói huỵch toẹt chuyện tôi với các thầy”. Báo chí Sài Gòn đăng chuyện đó như tin tức bình thường vì họ biết rõ từ lâu.

Giai đoạn tôi làm việc ở Thừa Thiên, các cuộc bầu cử năm 1971 và 1973 diễn ra trong bầu không khí căng thẳng giữa hai thế lực chính trị: Ðảng Dân Chủ thân chính quyền và Phật giáo thân cộng (dưới cái lốt Thành Phần Thứ Ba). Phe Phật giáo cho phật tử đi khắp hang cùng ngỏ hẻm rỉ tai từng người “Chính quyền bảo gì cũng vâng dạ, nhưng vào phòng kín (phòng bầu phiếu) thì bỏ cho ứng cử viên của thầy, không ai biết được”. Trong các cuộc bầu cử, phe Phật giáo chỉ chờ một sơ hở nhỏ của các phòng phiếu là la ó lên rằng “Chính quyền gian lận bầu cử. Ðàn áp Phật giáo” Nếu ứng cử viên Phật giáo thất cử thì họ kích động dân chúng biểu tình, đòi hủy bỏ cuộc bầu cử, tổ chức bầu cử lại. Các chùa chiền (tỉnh hội) ở thành phố hay (khuôn hội) ở thôn quê được Việt Cộng đội lốt nhà sư, xâm nhập, tổ chức, điều hành rất có hệ thống. Trong các cuộc bầu cử, các chùa vận động rất tỉ mỉ, khôn khéo nhờ cán bộ Cộng Sản (nằm trong chùa) chỉ đạo. Ngoài việc vận động cử tri bỏ phiếu cho “người của thầy”, chùa còn cử phật tử (đã được huấn luyện) làm đại diện ứng cử viên Phật giáo đến từng phòng phiếu theo dõi việc bầu cử, hễ có gì bất thường là đòi lập biên bản để sau nầy vu vạ là chính quyền gian lận.

1967_Elections

Ảnh: Wikipedia

Diễn tiến tổ chức một cuộc bầu cử như sau. Trước giờ mở cửa phòng phiếu, các thùng phiếu được mở tung để xác nhận không có gì trong đó. Khi đóng nắp thùng phiếu xong phải dán giấy niêm phong, có chữ ký của đại diện các ứng cử viên rồi khóa lại. Từ giờ phút đó, các đại diện ứng cử viên (Phật giáo) không rời thùng phiếu nửa bước. Họ mang theo thức ăn, nước uống, ngồi nhìn không rời mắt thùng phiếu, cán bộ phòng phiếu đi đâu mặc kệ, họ cứ ngồi nhìn thùng phiếu, chỉ thay nhau đi vệ sinh vài phút rồi quay lại. Ðến giờ qui định, phòng phiếu đóng cửa, lập biên bản, di chuyển thùng phiếu về nơi kiểm phiếu, phật tử (đại diện ứng cử viên) theo sát thùng phiếu. Họ sợ chính quyền tráo thùng phiếu, nhét thêm phiếu của ứng cử viên đảng Dân Chủ (thân chính quyền) vào thùng phiếu. Khi kiểm phiếu, họ săm soi từng lá phiếu rất kỹ để tìm lá phiếu (của đối phương) bất hợp lệ. Nếu có, tức khắc họ đòi lập biên bản. Xem thế đủ biết việc tổ chức bầu cử của chính quyền bao giờ cũng phải đúng luật bầu cử.

Tôi làm phó quận hành chánh tức trưởng ban tổ chức bầu cử quận, chịu trách nhiệm theo dõi, giải quyết các trở ngại. Việc giữ an ninh phòng phiếu đã có chi khu (cơ quan quận sự quận) và cảnh sát lo, đề phòng Việt Cộng phá hoại. Thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, có đảng Dân Chủ là đảng thân chính quyền. Dù không có chỉ thị nhưng tôi (đã được chỉ định làm chủ tịch đảng bộ Dân Chủ quận) cũng phải quan tâm theo dõi. Nhân viên, cán bộ xã ấp, nhiều lần tổ chức bầu cử nên rất thông thạo mọi việc. Theo qui định. Mỗi xã có một số phòng phiếu rải rác để tiện cho cử tri khỏi đi xa. Trong phòng phiếu có một phòng kín, có đủ chỗ cho ba cử tri vào đó chọn lựa (lá phiếu) ứng cử viên mà mình muốn bầu, bỏ phiếu bầu đó vào phong bì, đem ra, bỏ phong bì vào thùng phiếu để công khai trước mặt các đại diện ứng cử viên. Vậy là xong nhiệm vụ cử tri. Khi một cử tri bỏ phiếu xong đi ra thì một cử tri khác vào lãnh phiếu bầu và đi vào phòng kín. Cứ lần lượt như thế. Tôi là người ma mãnh. Trước ngày bầu cử, tôi họp cán bộ xã ấp hướng dẫn “Tuyệt đối phải làm đúng luật bầu cử. Không làm điều gì khiến các đại diện ứng cử viên khiếu nại. Bất cứ việc gì xảy ra trong phòng phiếu, dù nhỏ nhặt cũng phải lập biên bản để đề phòng họ làm to chuyện, tố cáo chính quyền gian lận bầu cử. Ðể tránh buổi sáng thì chen nhau đi bỏ phiếu, mất thì giờ người dân chờ đợi, trễ nãi việc đồng áng, đến chiều thì vắng hoe. Xin các xã lên lịch đi bầu từng ấp, gửi lên quận. Cử tri mỗi ấp có khoảng một giờ đến phòng phiếu. Ðến giờ qui định, ông trưởng ấp và phó ấp tập trung cử tri trong ấp mình, hướng dẫn đến phòng phiếu, sau khi bỏ phiếu, đồng bào lần lượt ra về trong trật tự”

Sau buổi họp, tôi dặn các xã, cho từng trưởng ấp lên gặp riêng tôi. Khi gặp riêng, tôi yêu cầu ông ta đi đến nhà đồng bào trong ấp mình giải thích “Nếu không muốn bị đập đầu chôn sống như vụ Mậu Thân lần nữa thì đừng bầu cho các ứng cử viên Phật giáo mà các phật tử đã đưa tên cho đồng bào” Ông trưởng ấp thắc mắc “Mình dặn thì họ vâng dạ, nhưng vô phòng kín, họ bỏ cho “người của thầy” thì làm sao biết được?” Tôi mới nói rằng “Ðó là lý do tôi mời anh lên gặp riêng tôi. Ấp anh có một giờ bầu phiếu theo lịch trình của xã. Anh cũng biết phòng bỏ phiếu kín thường dành cho ba cử tri. Ðến giờ dân ấp của anh lần lượt vào bỏ phiếu anh cũng vào lãnh phiếu bầu, vào phòng kín như những cử tri khác, nhưng anh đứng trong phòng kín đó nửa giờ, nửa giờ sau, ông phó ấp vào thay thế. Luật bầu cử không qui định cử tri vào phòng kín trong bao lâu. Dân ấp anh thấy ông trưởng ấp hoặc ông phó ấp bên cạnh nhìn chừng thì họ bỏ phiếu cho ứng cử viên Dân Chủ cho yên thân. Sau nửa giờ, anh bước ra bỏ phiếu vào thùng thì ông phó trưởng ấp bước vào, làm nhiệm vụ công dân, nhưng cũng đứng trong phòng kín đó cho đến khi dân ấp anh bầu xong. Tuyệt đối không cho ai biết những gì tôi nói với anh. Vì ấp anh có nhiều phật tử đi vận động quá nên anh là trưởng ấp duy nhất trong quận tôi hướng dẫn cách đó”. Kết quả bầu cử năm đó. Cử tri quận Quảng Ðiền bầu cho ứng cử viên đảng Dân Chủ (thân chính quyền) lên đến 89% mà phe Phật giáo  không moi ra được một khiếu nại, vu cáo nào để làm to chuyện. Không ai biết vì sao “phe ta” ở quận Quảng Ðiền thắng cử vẻ vang?

Nghe nói, trung ương (đảng Dân chủ) dự định sẽ đưa tôi về tỉnh nào mà đảng Dân Chủ “yếu thế”, nhưng sau đó thì mất nước.

Phạm Thành Châu

Views: 413

Biển, Cá Và Người

Trần Văn Lương

bien ca va nguoi

Đứng sững nhìn rừng cá chết nằm phơi,
Lửa uất hận nung mắt người rát bỏng.
Dãy thuyền gỗ kẹt trên bờ lóng ngóng,
Đoàn ngư dân tuyệt vọng ngước nhìn trời.

Đã mấy chục năm rồi,
Biển đã biến thành nơi chứa xác.
Với chế độ bạo tàn độc ác,
Đến trùng dương cũng tan tác tả tơi.

                          ****

Biển ngày xưa vốn là chốn vui chơi,
Nhưng từ buổi đổi đời đau thương đó,
Khi dân phải trốn chạy làn sóng đỏ,
Đã thành nơi máu lệ đổ tuôn dòng.

Tháng Tư đen, bao bất hạnh chất chồng,
Ách nô lệ đã tròng lên nước Việt.
Giặc Cộng giở trò trả thù khốc liệt,
Bao anh hùng gặp cái chết không may.

Vì tự do nên chấp nhận lưu đày,
Toàn dân Việt đêm ngày lo vượt biển.
Triệu người dấn thân vào nơi nguy biến,
Có mấy phần được đến bến bình an.

Nào biên phòng, nào hải tặc Thái lan,
Cái chết vẫn tham lam đeo từng bước.
Đem tính mạng trả treo cùng sóng nước,
Đáy biển đen chôn ước nguyện không thành.

                               ****

Biển ngày nay vẫn đậm máu dân lành,
Dù súng đạn chiến tranh không còn nữa.
Đất nước khổ hơn cả thời khói lửa,
Dân mỏi mòn đợi mãi chữ tự do.

Sống phập phồng trong hốt hoảng âu lo,
Vì lũ Vẹm luôn bày trò đốn mạt.
Với Tàu Cộng, chúng khom lưng hèn nhát,
Nhưng hung hăng tàn ác với dân mình.

Những ngư dân, vì sinh kế gia đình,
Phải hứng chịu khổ hình trên sóng cả.
Thuyền bè Chệt, chúng gọi là “tàu lạ”,
Giết dân lành, giành cá, lấn biển khơi.

Chúng thông đồng rải chất độc khắp nơi,
Sau chim cá, đến con người bị diệt.
Của độc hại, ai ai mà chẳng biết,
Nhưng đói đành liều chết nuốt qua cơn.

                              ****

Biển ngày mai rồi sẽ thảm thê hơn,
Khi dân Việt chịu thêm hờn mất nước,
Khi mảnh đất của tổ tiên ngày trước
Lọt vào tay bầy xâm lược Bắc phương.

Dân giờ đây đã đến lúc cùng đường,
Mất căn cước, quê hương cùng ngôn ngữ,
Mất luôn cả mấy ngàn năm lịch sử,
Trên đất nhà, làm lữ khách lưu vong.

Trong đau buồn, ngày ngày hướng biển Đông,
Thân nhiễm độc, ngóng trông giờ giải thoát,
Ôm bệnh hoạn, tật nguyền cùng đói khát,
Bất lực nhìn Tàu phá nát non sông.

Tự do không và tổ quốc cũng không,
Kẻ mất nước chợt đau lòng nhận thấy,
Đường giải thoát, sống chết gì cũng vậy,
Cuối cùng rồi chỉ còn đáy biển sâu.

Sau này ai có hỏi: – Nước anh đâu?
Kẻ sống sót đành cúi đầu lặng lẽ,
Thương khóc chốn xưa kia là quê mẹ,
Nay xót xa thành tỉnh lẻ của Tàu.

Nếu hỏi dồn : – Thế dân Việt anh đâu?
Sẽ được chỉ về biển sâu trước mặt,
Kèm theo tiếng trả lời trong nước mắt:
– Đấy là nơi người sẽ gặp dân tôi.

                         ****

Đêm đen dài, bối rối giọt sương rơi,
Trên bãi cạn, bóng ma Hời thấp thoáng.

Trần Văn Lương (CH8)
Cali, 5/2016

Views: 214

Ngẫm Chuyện Xưa Nay: Bài Thơ Yêu Nước

Lão Trượng

Trong thi ca Việt Nam từ cổ chí kim, có nhiều bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, nói lên niềm đau, nỗi nhục khi bị ngoại xâm dày xéo quê hương. Nhiều bài thơ đã đánh thức lương tri con dân Việt trước hiểm họa đất nước được lưu truyền lại hậu thế.

Xin đơn cử một trong số bài thơ đó: Vịnh Bức Dư Đồ Rách của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu vào đầu thế kỷ 20.

tandaNhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) sinh tại làng Khê Thượng (Bất Bạt, Sơn Tây), cạnh Núi Tản Viên cạnh sông Đà. Năm 1916 Tản Đà công bố tác phẩm đầu tay Còn Chơi, ngay lập tức được dư luận chú ý! Trong 23 năm (1916 - 1939), Tản Đà cho ra đời 35 tác phẩm đủ thể loại bao gồm: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Tạp Luận, Dịch Thuật...

Bài thơ "Vịnh Bức Dư Đồ Rách’’ là một sự kiện văn học, nổi tiếng thời kì Tản Đà sung sức.  Để tìm hiểu thấu đáo về sự kiện Bức Dư Đồ Rách chúng ta đi ngược thời gian về những năm đầu của thế kỉ 20:

Sau khi quân Pháp đánh chiếm Hà thành, Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thực dân Pháp tạm thời bình ổn được tình hình. Thực hiện chính sách chia để trị bằng cách: Chia Việt Nam thành 3 Kỳ (vùng): Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ. Bắc và Trung Kỳ đặt dưới chế độ Bảo Hộ của Pháp. Chính quyền do chính phủ Nam Triều - Vua quan nhà Nguyễn - trực tiếp điều hành. Nhưng thực chất Pháp vẫn gián tiếp lãnh đạo. Ngay đến việc để vua nào lên ngôi… phế truất vua nào (như trường hợp các vua Duy Tân, Hàm Nghi) cũng do chính quyền Pháp quyết định.

Còn Nam Kỳ bị Pháp thiết lập chế độ Thuộc địa. Nam Kỳ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương.

Ở mỗi vùng, miền, mỗi địa phương lại có những quan quân đặt ra luật riêng… khiến đất nước không còn là đất nước được trọn vẹn chủ quyền của người Việt Nam. Tấm bản đồ vẽ trên mặt giấy thể hiện chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia, chỉ là bức vẽ, còn trên thực tế, Bức Dư Đồ - thực chất đã “rách” tả tơi!

Trước thực trạng tang thương của đất nước bởi hiểm họa ngoại xâm, Tản Đà viết bài thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng mình trước đất nước bị họa xâm lăng: Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 1 ra đời trong hoàn cảnh này. Bài thơ in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà và sau khi hoàn thành 4 bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách được đăng trong Tản Đà, Khối Tình Con Thứ Ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932                 

Vịnh Bức Dư Đồ Rách

“Nọ bức dư đồ thử đứng coi

Sông sông núi núi khéo bia cười

Biết bao lúc mới công vờn vẽ

Sao đến bây giờ rách tả tơi

Ấy trước ông cha mua để lại

Mà sau con cháu lấy làm chơi

Thôi thôi có trách chi đàn trẻ

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi”.

Nhìn hoàn cảnh đất nước, các nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác giả, lên tiếng hưởng ứng, ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng cách có nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền viết bài họa lại thứ 2 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 2, đăng trên Đông Phương Thời báo, số 635, năm 1927:

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi

Ta bồi cho chúng chị em coi

Giận cho con cháu đà hư thế

Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.

Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ

Có hồ có giấy dễ mà chơi.

Bởi chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.

Được sự đón nhận và đồng cảm của giới sĩ phu, văn nhân có tâm huyết, yêu đất nưóc, dân tộc cùng tham gia họa lại Bức Dư Đồ Rách… Tản Đà viết tiếp bài thứ 3 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 3, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 636, năm 1927:

“Đành chịu ngồi trông rách tả tơi

Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!

Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ

Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi

Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó

Non sông ai hỡi đợi chờ ai?

Còn núi còn sông còn ta đó

Có lúc ta bồi chúng bạn coi”.

Cuối cùng Tản Đà tổng kết cuộc họa thơ do ông khởi xướng bằng bài Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 4, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 643 - năm 1927:

“Có lúc ta bồi chúng bạn coi

Chị em nay hãy tạm tin lời

Dẫu cho tài có cao là thánh

Chưa dễ tay không vá nổi trời

Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn

Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi

Việc nhà chung cả ai ai đó

Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?”

Trong số những bài họa, có hai bài của cụ Phan Bội Châu, cũng cùng năm 1927.

I

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi,

Ta bồi cho chúng chị em coi.

Giận cho con cái đà hư thế,

Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài.

Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ,

Có hồ, có giấy dễ như chơi,

Vì chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.

II

“Hóa rách ra lành thế mới hay

Trời giăng giấy khắp, đất hồ đầy,

Non sông sẵn vóc thêu hoa gấm,

Gan óc ghe phen trổ gió mây.

Trắng úa, hồng tươi tùy thợ ý,

Bột rền, keo dẻo cốt thầy tay.

Người đà mới mới ta nên mới,

Bồi vá mà chi, kéo khuấy rầy”.

*******

Gần một thế kỷ trôi qua, đất nước bị Cộng Sản thống trị đã “hèn với giặc, ác với dân” không biết bao nhiêu bài viết, thơ, văn đã phơi bày thực trạng đau thương, phủ phàng nầy.

Là người dân địa phương Hà Tĩnh chứng kiến hình ảnh cá chết hàng loạt ở ven biển, ngày 6/4 ngư dân địa phương phát hiện cá chết vùng biển một số xã thuộc Kỳ Anh ở Hà Tĩnh. Bốn ngày sau, hiện tượng tiếp diễn tại vùng biển ở huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đến ngày 19/4, hiện tượng cá chết hàng loạt xuất hiện ở vùng biển Quảng Trị và tiếp tục lan rộng  4 tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thứa Thiên vào Thừa Thiên – Huế... theo giới quan sát thì nguyên nhân xảy ra do “yếu tố gây độc trong môi trường nước” nên thảm họa hiện tượng cá chết bởi ô nhiễm nguồn nước do các nhà máy tại khu công nghiệp Vũng Áng, huyện Kỳ Anh xả thải gây độc. Ngư dân Hà Tĩnh phát hiện do ống thải nước ngầm của nhà máy thép Formosa dưới biển thải chất độc gây nên. Trước thảm họa gây nguy hại cho người dân các tỉnh ven biển nhưng CSVN không thực tâm truy tìm “thủ phạm” mà lấp liếm “vòng vo tam quốc” phó mặc cho người dân cam chịu!

Trước tình cảnh đó, cô giáo Trần Thị Lam, nếu xem qua vài dòng tiểu sử thì cô giáo ở Hà Tĩnh nầy được “đãi ngộ” (Tổ trưởng Ngữ Văn trường PTTH, có bằng khen của UBND Hà Tĩnh) nhưng lương tâm nhà giáo trước thực trạng đất nước quá tồi tệ đã viết bài thơ từ trong nước, được lan truyền rộng rãi và được mọi người đón nhận.

Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh

Trần Thị Lam

“Đất nước mình ngộ quá phải không anhtranthilam

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...

 Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...

Đất nước mình buồn quá phải không anh

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...

 Đất nước mình thương quá phải không anh

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...

 Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...”. 

******

Bài viết của Luật Sư Đào Tăng Dực: Đất nước mình ngộ quá phải không anh? Trả lời cô giáo Trần Thị Lam. Trích dẫn:

“… Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc…”

Bài thơ của cô giáo Trần Thị Lam được cho là bài thơ gây chấn động trên mạng lưới toàn cầu và có tiềm năng làm rung chuyển chế độ. Công an CSVN đã phải câu lưu và thẩm vấn cô, nhưng chưa dám truy tố hình sự vì sợ hãi phản ứng của nhân dân và công luận thế giới.

Dân tộc Việt có một nền văn hóa sâu dày hơn 4000 năm lịch sử trong đó tiềm tàng những tình tự đậm đà và tư tưởng uyên thâm, giúp dân tộc vượt qua những cơn ba đào của lịch sử.

Mặc dầu suốt 7 thập niên liên tục, người CSVN đã ra sức hủy diệt nền văn hóa này và thay thế trước hết bằng ý thức hệ giáo điều Mác Lê duy vật (Marxist dogmatic ideological materialism) và sau đó bằng chủ nghĩa duy lợi trần truồng (naked utilitarianism), nhưng những cố gắng của họ chỉ là vô vọng.

Những dòng nhạc của thế hệ trẻ như Việt Khang và nhất là bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” của cô giáo Trần Thị Lam chứng minh hùng hồn rằng, nền văn hóa ngàn đời của dân tộc vẫn luân lưu mạnh mẽ trong tâm thức của toàn dân và khi mùa xuân dân chủ khởi động, thì vươn lên như những đóa hoa sen, từ chốn bùn nhơ nhớp xã hội chủ nghĩa, đem lại hương thơm và tô điểm sắc màu cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Tuy nhiên, bài thơ đầy cảm xúc này không những khẳng định tình trạng tồn vong mong manh và nghiêm trọng của đất nước mà còn nêu ra những vấn nạn cần giải đáp.

Phân Tích:

Khi chúng ta phân tích bài thơ này, chúng ta sẽ có những nhận định như sau:

Bốn chương (khổ thơ) đầu trên hình thức là những câu hỏi, nhưng một cách mặc thị (implicit) là những khẳng định (affirmations) về tình trạng bi thương của đất nước dưới chế độ CSVN.

Chẳng hạn tuy có 4 ngàn năm văn hiến mà vẫn cam chịu nhục nhằn trước bất công từ bạo quyền, những tượng đài tôn sùng cá nhân hoang phí trong khi khinh bỉ mạng người, guồng máy thống trị tham ô và vô trách nhiệm đưa đến cái chết thê thảm của môi trường thiên nhiên, và nợ công chồng chất ngập đầu các thế hệ hiện tại lẫn tương lai.

Chương cuối cùng chỉ có 4 câu thơ nhưng hàm chứa 2 câu hỏi quan trọng:

  1. Một câu hỏi mặc thị (implicit): Lý do vì đâu đất nước nên nông nỗi này?
  2. Câu hỏi minh thị (explicit): Đất nước rồi sẽ về đâu anh?

Sau cùng thi sĩ tha thiết kêu gọi “Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu?”

Như một người công dân có trách nhiệm, tôi xin đáp ứng lời kêu gọi ấy và trả lời như sau.

Giải thích nguyên nhân:

Theo quan điểm của tôi, nguyên nhân gây ra tai họa cho đất nước rất nhiều, nhưng tựu trung có 2 tai họa lớn lao nhất:

Một là ngọn gió độc giáo điều ý thức hệ (ideological dogmatism) và

Hai là hiện tượng quái thú định chế hóa cực đoan (extreme institutionalization).

Đây là những ý niệm tương đối trừu tượng, nhưng thảm họa chúng gây ra cho dân tộc vô cùng hiện thực và chúng ta cần tìm hiểu (investigate), nhận diện (identify) và dứt khoát loại bỏ ra khỏi nền văn hóa, tâm thức và hiến pháp của dân tộc trong tương lai.

  1. Ý thức hệ giáo điều:

Trước hết khái niệm “giáo điều ý thức hệ” (ideological dogmatism), hoặc “ý thức hệ giáo điều” (dogmatic ideology) không đơn giản và nhiều người, kể cả tôi, đã tốn nhiều giấy mực để viết về khái niệm này. Tuy nhiên, trong phạm vi hôm nay, tôi xin mạn phép đơn giản hóa, dùng văn xuôi và một số hình ảnh vẽ lên một bức tranh ý niệm hầu chuyên chở đến độc giả.

Nếu chúng ta coi dân tộc Việt Nam như một thực tại thì chúng ta có thể mường tượng thực tại đó như một dòng sông tư tưởng và tình tự (a river of thoughts and feelings) luân lưu từ thủa bình minh của lịch sử cho đến bây giờ và vươn tới tương lai. Đó là một thực tại vô cùng sinh động bao gồm 2 yếu tính. Một là “hằng” và hai là “chuyển”. “Hằng” là có một bản sắc riêng biệt bất biến làm cho chúng ta nhận diện rõ đây là dân tộc Việt chứ không phải một dân tộc khác. “Chuyển” là luôn thay đổi, từng phút, từng giây, như ý nghĩa chuyển dịch của dịch lý hay trong thuyết tiến hóa của Darwin.

Những tư tưởng và tình tự trong dòng sông thực tại có thể ví như các loài thủy tộc, các giọt nước li ti, các loài thủy sản , rong rêu và muôn triệu vi sinh nương tựa vào dòng sông để sinh tồn và hài hòa phát triển.

Ý thức hệ giáo điều có thể được định nghĩa như một cấu trúc trí năng (an intellectual construct) giam hãm tư tưởng con người vào một khung sườn cố định và tước đi sự sống cũng như tính sáng tạo của tư tưởng tự do. Lịch sử loài người đã từng trải qua rất nhiều ý thức hệ giáo điều, nhưng hiện đại nhất của nhân loại ngày hôm nay là các ý thức hệ Mác- Lê và Hồi Giáo cực đoan.

Các ý thức hệ giáo điều này có thể ví như những cơn lạnh cực kỳ lớn lao, trùm lên dòng sông thực tại của những dân tộc dưới vòng kiềm tỏa của chúng, biến toàn thể dòng sông và những sự sống trong dòng sông thành băng tuyết. Tuy dưới mắt của một đệ tam nhân, hình ảnh của dòng sông, các loài thủy tộc và thủy sản vẫn còn, nhưng dòng sông đã mất sự sống chân thực.

Các xã hội dưới sự khống chế của các ý thức hệ giáo điều như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hôm nay đều bi đát như thế…

… Đảng CSVN cũng như tất cả các đảng cộng sản từ Âu sang Á, từ trước đến giờ, cùng với các đảng Đức Quốc Xã và Phát Xít độc tài, đều là những con quái thú, hậu quả của tiến trình định chế hóa cực đoan và ăn tươi nuốt sống nhà nước lẫn xã hội dân sự.

Nhân dân Việt Nam bất hạnh lớn lao vì hoàn cảnh lịch sử đã biến dân tộc thành nạn nhân gần một thế kỷ của cơn lạnh vĩ đại ý thức hệ giáo điều Mác Lê và con quái thú định chế cực đoan mà đảng CSVN là hiện thân trung thực…

… Nếu chúng ta hóa giải cơn lạnh ý thức hệ giáo điều, nhổ răng và móng vuốt của quái thú định chế hóa cực đoan, thì với bàn tay và khối óc được tôi luyện qua chiều dài nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt sẽ hồi sinh.

Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ đạt được nhanh chóng chiều cao thực sự của mình, trong cộng đồng nhân loại văn minh”.

(Trích bài của LS Đào Tăng Dực)

*

Trích bài Vài Lời Biện Minh Cho Cô Giáo Trần Thị Lam của Phạm Đức Nhì

“Tuần vừa qua bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? của cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh được rất nhiều người đọc ở hải ngoại ca ngợi. Tôi nhận được một email cho biết đã có 6 nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ. Tôi đã nghe nhạc, đọc thơ và rất xúc động.

Tôi có người bạn làm ăn khá thành công ở Mỹ. Mấy năm gần đây về Việt Nam hùn hạp đầu tư địa ốc. Gặp tôi tháng trước nó than: “Dành dụm được chút vốn dưỡng già bị thằng em họ lừa lấy hết. Giờ lại trắng tay”. Tôi chửi nó “Mày hơn sáu chục tuổi rồi mà khờ như đứa con nít; làm ăn cứ nắm lưỡi còn để người ta nắm cán”. Vợ nó chĩa vào “Chỉ khờ mấy năm nay thôi, chứ sáu chục năm trước ông ấy khôn như rận váy”. Tôi không phân định rạch ròi như vợ người bạn nhưng tự nghĩ câu chửi của tôi chẳng có gì sai sót cả. Làm thơ thỉnh thoảng tôi cũng nhận trong người mình có dòng máu của bà Triệu, bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung để có thêm tự tin, hào khí nhưng cũng có khi tôi bước vào trận chiến đơn thân độc mã (giả vờ quên hết những nhân vật lịch sử kia) để lúc chiến thắng có thể mạnh tay vỗ ngực tự hào. Trường hợp cô giáo Trần Thị Lam tặng thêm 4 ngàn tuổi cho mỗi người Việt Nam để làm nổi bật sự thơ dại, yếu đuối của họ trước chính quyền, theo tôi, hoàn toàn hợp tình hợp lý. Đó là một trong những quyền căn bản của thi sĩ.

… Về hình thức, bài thơ được viết theo thể Thơ Mới trường thiên, gồm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu thường là 8 chữ nhưng khi cần cũng được thay đổi một cách tự nhiên, vần trắc liên tiếp ở câu 2 và câu 3.

Về nội dung, bài thơ có 5 đoạn nhưng hồn cốt nằm ở đoạn thứ nhất:

Đất nước mình ngộ quá phải không anh?

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Cái “ngộ” lớn nhất là đất nước mình đã 4 nghìn tuổi mà “dân không chịu lớn”. Ở đây cô giáo đã sử dụng một ẩn dụ thật hay – ví người dân Việt nam như đứa bé chưa rời vú mẹ, vẫn còn bú mớm vì “Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi”. Lời lẽ của đoạn thơ rất đúng, rõ ràng và trong sáng, không cần và cũng không thể giải thích gì thêm nữa. Chúng như một lưỡi dao dài và sắc đâm thẳng vào trái tim mỗi người Việt Nam. Bạn là người Việt Nam ư? Nếu có chút kiến thức, còn chút lương tri, danh dự khi đọc những dòng thơ này đều sẽ tự động cúi đầu nuốt nhục.

Cái hay, cái tài của cô giáo Trần Thị Lam là lời lẽ của cô vừa chân thật vừa nhẹ nhàng, khéo léo nên lưỡi dao của cô đâm nát tim gan của không biết bao nhiêu người - từ người dân bình thường đến đám đông tự xem mình là sĩ phu yêu nước -  nhưng họ không những không thể nào ghét cô được mà nhiều khi còn quý mến, kính trọng, cảm phục cô nữa.

Những bất công lớn trong đất nước mình được cô giáo liệt kê ở những đoạn thơ sau:

Bất Công Đến Lạ Lùng

Đất nước mình lạ quá phải không anh?

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

Cái bất công đầu tiên là “Sinh mạng con người chỉ bằng cái móng tay” nhưng người ta lại vung hàng nghìn tỉ vào những dự án, những công trình phù phiếm, không phục vụ lợi ích của người dân. Mà điều lạ là không ai nhận lãnh trách nhiệm, hậu quả về việc phí phạm tài sản chung đó.

Bất Công Đến Buồn Thảm

Đất nước mình buồn quá phải không anh?

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

Tài nguyên của quốc gia cạn kiệt, một phần bị khai thác phí phạm để quan chức bỏ túi riêng, một phần lãnh đạo ngậm miệng ăn tiền để ngoại bang tự tung tự tác.

Bất Công Đến Đáng Thương

Đất nước mình thương quá phải không anh?

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

Nợ công chồng chất trong khi giới lãnh đạo chóp bu mỗi người có tài khoản hàng trăm triệu, nhiều người hàng tỉ đô la ở ngân hàng ngoại quốc. Số nợ công to lớn ấy sau này lại đè nặng trên lưng, trên vai của con cháu chúng ta.

Đất Nước Sẽ Về Đâu?

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Cuối cùng là câu hỏi đau xé ruột cho mỗi người Việt Nam: “Đất nước sẽ về đâu?”

Khi đọc những đoạn sau nếu độc giả thấy dậy lên trong đầu mình một câu hỏi thì cứ quay lại đoạn đầu. Đó là phần quan trọng nhất, đoạn hay nhất của bài thơ; nó là nguyên nhân, là câu trả lời cho những câu hỏi “Tại Sao?”

dat-nuoc-minh-ngo-qua-phai-khong-anh-tin8-5… Tóm lại, Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh là bài thơ rất hay. Hình thức tương đối phóng khoáng tuy không có gì mới lạ lắm. Nhưng nội dung thì không chê vào đâu được; những “bất công” (đoạn 2+3+4 hỗ trợ cho đoạn 1) được chọn lựa kỹ, có tính điển hình, ngôn ngữ chính xác mà gợi cảm, tứ thơ cô đọng, sâu sắc, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, đặc biệt phép ẩn dụ ở đoạn 1 thật tuyệt vời. Đọc xong, thi vị của bài thơ - nỗi bàng hoàng đau đớn - vẫn còn vương vấn mãi trong tâm hồn.

Có thể nói đây là bài thơ của một người Việt Nam chửi con người Việt Nam tàn tệ nhất, xúc phạm đến danh dự người Việt Nam nặng nề nhất. Điều đáng nói là hàng bao nhiêu triệu người bị chửi - đặc biệt là những người góp phần to lớn tạo ra những bất công, những trí thức khoa bảng, nhà văn nhà thơ - đều cúi mặt ngậm tăm. Tại sao vậy? Vì bài thơ chửi đã hội đủ 5 điều kiện sau đây:

1/ Chửi đúng điều đáng chửi: những kẻ bị chửi không cãi vào đâu được.

2/ Chửi “nặng” nhưng lời lẽ nhẹ nhàng, khéo léo: chửi sỗ sàng, ngoa ngắt quá thì chúng coi là đồ hạ cấp, không thèm để ý, không thèm nghe; chửi nhẹ quá thì không đủ ép – phê

3/ Chửi “đúng thời vụ”: nhân vụ xả độc ở Vũng Áng, cá chết lền khên, gây thảm họa môi trường, toàn dân Việt và cả thế giới quan tâm.

4/ Chửi bằng tấm lòng chân thật: cảm xúc dạt dào.

5/ Chửi hay: tứ thơ hay quá, ẩn dụ tuyệt vời, càng đọc, càng nghe, càng ngẫm nghĩ càng thấm

Kết Luận

Chỉ cần tứ thơ, hồn thơ thấm vào tim một phần trăm (1%) dân số Việt Nam khiến họ không thể chịu được nỗi nhục nhã ê chề, đứng lên kêu đòi thay đổi thì chúng ta sẽ có cả gần một triệu người dấn thân, tạo thành một làn sóng, một phong trào, nước Việt mến yêu của chúng ta sẽ có cơ may thoát khỏi tình trạng bi đát hiện nay. Nếu được như thế bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? sẽ hiên ngang bước vào văn học sử và cô giáo Trần Thị Lam sẽ trở thành một anh hùng lịch sử của dân tộc Việt.

Mong được như thế lắm thay!.

(Trích bài của Phạm Đức Nhì)

*

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của Trần Thị Lam được các nhạc sĩ cảm hứng và sáng tác thành nhiều ca khúc được phổ biến trên internet. Cũng như bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách của nhà nhơ Tản Đà đã được nhiều bài họa.

Bài họa của Vĩnh Đường:

Hôm nay rảnh rỗi ngồi đọc lại bài thơ của cô Trần Thị Lam và nảy ý họa lại. Bài thơ này đã được khá nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và truyền bá khắp nơi. Khi họa lại, Vĩnh Đường chợt nảy ý là phải họa làm sao cho mỗi chữ bằng trắc trong câu phải thật ăn khớp với nguyên tác để khi hát, người hát có thể lấy bài thơ họa này để dùng làm liên khúc với thi phẩm được phổ mà không cảm thấy trúc trắc gì khi trình diễn. Tuy nhiên, vì không hiểu biết nhạc lý và vì thời gian có hạn nên sai sót chắc chắn là không thể tránh khỏi. Mong quý độc giả và thân hữu thẳng thắn góp ý khi thấy đoạn nào không ổn để Vĩnh Đường chỉnh sửa lại cho được hoàn hảo hơn. Xin chân thành đa tạ quý vị. Trân trọng. Vĩnh Đường

Lãnh Đạo Mình Nhục Quá Phải Chăng Em

“Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em

Đã ngần tuổi mà sao chưa được lớn

Đã ngần tuổi mà vẫn thèm sống mớm

Hiến cả núi sông để yên kiếp tôi đòi !

Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em

Những dải đất xưa vô vàn kiều vỹ

Chẳng ngại bán, đền nợ nần hàng tỉ

Dâng nạp cho Tàu chỉ qua cái ngoéo tay!

Lãnh đạo mình tồi quá phải chăng em

Bản Giốc, Hoàng Sa, thác ngà núi biếc

Giờ đã mất, nằm sõng soài như chết

Để Tiên Rồng ngùi nhớ nước non xa !

Lãnh đạo mình ngu quá phải chăng em

Mỗi tấc đất giang san chẳng nhọc nhằn ra công giữ lại

Xương máu ông cha ta ngút dài thế kỷ qua đem vun trải

Chẳng biết noi theo, toàn cam cảnh phủ đầu !

Lãnh đạo mình mà vẫn hèn thưa em

Dân ta sống muôn đời sau khó được

Khi Hán tặc kè bên, cứ vờn sau, vờn trước

E chóng chầy gì tổ quốc chẳng còn đâu!

Trả lời bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh” của Cô giáo Trần Thị Lam, Hà Tĩnh của anh Lê Đức Luận ở Miền Đông Hoa Kỳ:

“Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “ngộ”

Tiến sĩ đầy đường mà đảng ta vẫn dốt

Liệt sĩ, anh hùng đếm hoài không hết

Biển, đảo mất dần chẳng biết làm sao?

Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “lạ”

Biển bạc, rừng vàng dân mình vẫn khổ

“Cá chết trắng bờ bởi dân mình ra đái

Chứ phải nào đâu hóa chất của Tàu” (1)

Ừ! Đất nước mình “buồn” quá em ơi!

Biển bạc, rừng xanh dân nào được hưởng

Chúng nó bán rừng, rồi dâng luôn biển đảo

Một mai đây nước Việt sẽ không còn…

Ừ! Đất nước mình “thương” quá em ơi!

Đứa trẻ sơ sinh ăn nhằm sữa độc

Mảnh áo tả tơi, tấm thân gầy guộc

Bây giờ đã thế, sao dám nghĩ tương lai

Ừ! Em đi hỏi: “người sau, kẻ trước”

Còn anh đây sẽ đi hỏi đảng: “Cớ sự làm sao bi đát thế này?”

Em cứ hỏi: “người trước, kẻ sau”

Anh sẽ hỏi Trời cao, Đất rộng: “Đến chừng nào Đảng được đem chôn?”

Nhưng xin Em đừng hỏi: “Đất nước sẽ về đâu?…”

Mà hãy hỏi: “Khi nào ta đứng dậy?…”

(1).- Có tin đồn nói ra như vậy để làm mờ bớt tội lỗi của nhà máy luyện thép Formosa.

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của cô giáo Trần Thị Lam được đăng lên Facebook vào 8 giờ tối  ngày 25.4.2016. Hôm sau công an Hà Tĩnh đã mời cô giáo Lam lên trụ sở “làm việc” và   áp lực cô phải rút bài thơ này xuống. Mặc dầu sau đó bài thơ bị rút xuống, nhưng đã quá trễ, bài thơ được phổ biến rộng rãi khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại, và chắc chắn sẽ còn lưu lại trong lòng người Việt Nam trong một thời gian rất dài như một dấu tích của một giai đoạn đau thương nhất của đất nước VN.

Giáo viên giỏi cấp tỉnh và gắn bó với trường gần 20 năm nay, trao đổi với VietNamNet, cô giáo Lam cho hay, đây là bài thơ được sáng tác theo cảm hứng nhất thời chứ không nhằm mục đích nào khác. Do sức ép dư luận, trong ngày 27/4, cô giáo Lam đã xóa bài thơ và tự khóa Facebook cá nhân của mình. Hiện nay, cô đã mở tài khoản trở lại.

Như đã đề cập ở trên, trước thực trạng xảy ra vụ cá chết bởi nhà máy luyện thép Formosa, người dân phẫn nộ nên biểu tình chống đối bị CSVN đàn áp thẳng tay cho thấy chế độ độc tài đảng trị chỉ biết tham nhũng trục lợi, thối nát và hại dân!

Chúng ta sống trên mảnh đất tự do mà bỏ đi “căn cước” tỵ nạn Cộng Sản mà quay lưng với nỗi thống khổ xảy ra tại quê nhà thì “bức dư đồ rách” nầy càng ngày càng tả tơi!

Lão Trượng

 

Views: 998

Thục Anh

Phạm Thành Châu

thuc-anh-image            Chúng tôi có sáu đứa con, ba trai, ba gái. Nếu vợ tôi không cằn nhằn thì giờ đây tôi có thể khoe có hơn chục đứa không chừng. Dĩ nhiên con cái đông phải cắm cổ mà cày, thấy mình còn thua con trâu, nhưng bù vào đó là cái thú được hi sinh cho con cái. Thỉnh thoảng ngó lại, ngạc nhiên thấy con mình sao mau lớn quá, áo quần đứa trước đã phải để cho đứa sau mặc rồi. Vợ tôi đi làm về còn phải lo phục vụ chúng. Giặt giũ, nấu nướng, dọn dẹp… Bà la hét đứa nầy, nạt nộ đứa kia rồi lại lầu bầu với tôi đủ chuyện, nhưng tôi chẳng hề bận tâm, tôi biết bà rất thú vị khi làm như vậy, đó là hạnh phúc của bà. Vợ tôi thương con đến độ thương luôn các vật dụng của chúng nữa, từ đồ chơi lúc nhỏ đến quần áo cũ, giấy bút không dùng…bà đều coi như của quí, đem cất vào kho. Bà thương luôn cả đến bạn bè của chúng, đứa nào đến bà cũng mừng rỡ, săn sóc “Con ăn gì chưa? Ngồi xuống đây, bác lấy gì cho con ăn nghe!” Bà giới thiệu tất cả sản phẩm bà có trên bếp, trong tủ lạnh, đứa nào chịu ăn bà thích lắm, nếu khen mấy tiếng “ Ngon quá!” là bà phổng mũi cứ bổn cũ soạn lại, lần sau lại bắt chúng ăn như thế, chúng cũng khen nhưng có vẻ đau khổ, tôi lại phải nhắc chừng để bà đổi món khác, rồi bà lại mời, lại hồi hộp chờ được khen. Sở dĩ không đứa bạn nào của con tôi dám chê vì có mục đích, chúng nhắm vào đứa con gái lớn trong nhà. Nó tên Thục Anh. Khi sinh ra nó, tôi đặt tên mà không hiểu ý nghĩa gì cả. Chỉ vì lúc còn dưới trung học tôi mê một cô bé học lớp đệ ngũ tên Thục Anh. Tuổi mới lớn, yêu chỉ để mơ mộng nên tên gọi là phần quan trọng nhất, vì không lẽ buổi tối đang học bài, bỏ vài phút ra mơ mộng mà lại viết tên người đẹp là Ổi, Ốc hay Cơm, Canh…lồng vào tên mình giữa hình một quả tim?!… Sau nầy, dung nhan cô bé đó, tôi không nhớ rõ, chỉ còn ấn tượng đó là một cô bé ngây thơ, vui tươi, nhí nhảnh, đôi mắt thông minh, trong sáng. Nhiều cô đẹp hay làm kiêu. Cô Thục Anh đẹp nhưng rất tử tế với bạn bè. Tôi thường tìm dịp ngắm cô và yêu thầm. Và tên Thục Anh đã thành một âm vang dịu dàng trong mối tình học trò thuở nào. Tôi lấy tên cô ta để đặt tên cho con gái tôi. Dĩ nhiên vợ tôi đâu biết điều bí mật đó, nên cũng đồng tình “Tên Thục Anh, nghe hay đó chứ!”. Thường con cái trong nhà, mỗi đứa tôi thương một cách. Tôi không khó tính như mẹ chúng. Với con trai tôi nhìn thấy tôi của thời đi học. Cũng mê gái, cũng cãi lời cha mẹ một cách vô ý thức. Với con gái tôi thấy giống mẹ chúng, đúng hơn, giống bất cứ cô gái mới lớn nào khác, thế thôi. Trong nhà thì lười biếng, chỉ siêng soi gương chải đầu, ra đường làm bộ trang nghiêm, áo quần đẹp, ăn nói nhỏ nhẹ. Riêng con bé Thục Anh thì đúng là yểu điệu thục nữ. Bình thường trông nó thật thảm hại. Người ốm, hơi cao, mặt trái xoan dài, trông hơi xanh xao như thiếu dinh dưỡng, hai mắt to vẻ ngái ngủ. Tóc tai lượt bượt, vướng víu, khi làm bếp, thỉnh thoảng phải dùng cánh tay gạt ra phía sau, nhưng khi ra đường, mái tóc dài đen mượt của nó là một giòng suối chảy xuống bờ vai thon nhỏ, dịu dàng. Còn đôi mắt ngái ngủ, không hiểu nó tô điểm cách nào mà trông vừa buồn buồn vừa ngơ ngác một cách dễ thương. Trang phục của nó cũng đơn giản, những hàng vải mềm, màu trang nhã hòa hợp với khuôn mặt và dáng người, trông thước tha và quí phái khiến các cậu vừa thấy đã xao xuyến nhưng cũng ngậm ngùi vì có vẻ cao sang quá, mình chẳng đáng hi vọng chút nào. Nghệ thuật làm xiêu lòng lũ con trai không phải ngẫu nhiên, nó phải luyện tập gian khổ như một nghệ sĩ tập tuồng vậy. Từ cách ăn mặc, đi đứng cho đến cách chuyện trò. Chẳng biết nó nghiên cứu đâu ra những phương pháp kỳ cục. Trong nhà, nó thường đặt trên đầu một quyển sách, cần gì sai nó, nó cứ lững thững đi trông như người máy. Tôi tưởng nó bị bịnh tâm thần, nó cãi “Ba không biết gì hết, khi nào con đi nhanh mà quyển sách không rớt xuống đất, con sẽ đi đẹp lắm đó”. Thục Anh che giấu khuyết điểm của nó một cách tài tình. Nó gây lộn với các em nó không bao giờ thua. Với các anh, nó chỉ cần thút thít là các anh nó bối rối ngay. Tuy nhiên Thục Anh biết giữ khoảng cách vừa phải đối với bạn bè của anh nó. Với đứa nào nó cũng lễ phép và không thân mật quá khiến các cậu mê mệt mà không dám tỏ tình. Ðúng là cha mẹ sinh con trời sinh tính. Em nó, con bé Ðỗ Quyên lại khác, tuy dáng dấp và khuôn mạt tương tự nhưng bản tánh mạnh mẽ như con trai. Nó không lượt là như Thục Anh mà lúc nào cũng quần jean, áo pull, tóc thì cột túm phía sau bằng một sợi giây thun, trong nhà ra đường đều thế, chẳng hề thấy điểm phấn tô son bao giờ. Nói chuyện với con trai, nó đáp chát thẳng thừng, bọn con trai tiếp xúc với nó cũng tự nhiên như với em gái thực sự. Có điều lạ là đứa nào muốn tặng quà cho Thục Anh phải qua Ðỗ Quyên, nếu không Thục Anh sẽ không thèm nhận. Các cậu đã tốn tiền còn phải quị lụy chỉ để được người đẹp thưởng cho nụ cười và hai tiếng cám ơn. Nhưng có nhìn thấy Thục Anh nhận quà mới hiểu được sự sung sướng của người tặng. Nó mở quà một cách chậm rải nhưng đầy vẻ hồi hộp, tò mò, rồi nó kêu lên “Ôi, đẹp quá!” mắt mở lớn, ngước nhìn nạn nhân “Cám ơn anh nhiều lắm, sao anh biết em đang cần món quà nầy? Em thích quá, cám ơn anh!” Cách suýt soa, trân trọng món quà của nó khiến khối chàng si tình muốn bê luôn ngôi nhà của cha mẹ đem dâng người đẹp. Ðâu biết rằng, khi khách đã ra về, chỉ còn lại người nhà, nó vất cho mấy đứa em “Cho tụi bây, có thích thì lấy đi”. Trong số các ứng viên có mấy anh chàng mà vợ tôi chấm là có đủ điểm để lọt vào vòng chung kết, đó là các cậu đang học y khoa “Không nghề nào tự do lại nhiều tiền bằng”. Ngoài ra còn có một cậu coi bộ cũng si Thục Anh ghê lắm nhưng cũng rụt rè không kém. Cậu vượt biên qua Mỹ một mình, vừa đi học vừa đi làm, quần quật cho bản thân còn tiếp tế cho gia đình ở Việt Nam nữa. Chẳng bao giờ thấy quà cáp cho Thục Anh, chỉ thỉnh thoảng mang đến vài tờ nguyệt san, báo chí gì đó để ở phòng khách, có ai buồn tình thì giở ra đọc giết thì giờ. Thục Anh như thấy được thế kém của anh chàng nên thỉnh thoảng có săn sóc, hỏi han rất thân tình, có lẽ vì lòng trắc ẩn muốn cân bằng tương quan giữa các cậu, để cậu ta khỏi nản mà bỏ cuộc, vì các bà, các cô tuy không yêu nhưng lại muốn càng nhiều người say mê mình, càng thích. Mỗi lần ăn uống trong gia đình, cậu chỉ được ngồi tít xa người đẹp, lo cắm cúi ăn. Vợ tôi tuy cho cậu ra ngoài danh sách ứng viên khách đông sàng, nhưng lại thương nhiều vì cậu côi cút, thật thà, nhất là khen bà nấu ngon “Con ăn McDonald, hot dog riết ngán quá, thèm cơm, bác lại cho ăn ngon nên lần nào con cũng muốn bể bụng…” Cậu ta, dĩ nhiên bị các đối thủ loại ra vì không có ưu điểm nào đáng ngại cả. Ăn mặc xuề xòa, thường là bộ đồng phục của tiệm ăn vì cậu là bồi bàn. Chiếc xe cũ xì, trong bỏ đầy báo chí sách vở. Người cao, mặt mũi cũng tạm nhưng tóc tai hớt ngắn như lính. Chỉ chừng đó cũng biết cậu chắc chắn đã thất bại trước khi tham gia cuộc đua chạy đến trái tim người đẹp rồi, đúng hơn cậu cũng chạy, nhưng lẽo đẽo theo sau để xem thử các bạn mình ai sẽ đến đích chứ riêng cậu chẳng thấy quyết tâm gì. Thế nên vợ tôi gọi cậu là “anh chàng Cá Kèo”, ý nói đứng hạng chót trong danh sách các ứng viên.

            Có lẽ người Mỹ bị bịnh tâm thần, đau tim nhiều cũng vì những con số. Cái gì cũng tính bằng số, chết rồi cũng đem linh hồn ra cân ! Lũ trẻ Á Châu ở Mỹ bây giờ cũng bị qui luật đó chi phối. Tình yêu vốn vô hình, vậy mà chúng biểu lộ được bằng những con số. Chúng nghĩ đơn giản, tình cảm cũng như một món hàng, hễ yêu ai cứ cho thật nhiều quà đắt tiền tức là yêu nhiều. Tôi muốn nói về những quà cáp của các chàng Sơn Tinh, Thủy Tinh tân thời đem dâng người đẹp nhân ngày sinh nhật của nàng. Ngày sinh nhật của Thục Anh cũng khoảng vào ngày nó tốt nghiệp trung học. Vợ chồng tôi muốn làm một lễ sinh nhật tươm tất để mừng nó tốt nghiệp luôn một thể. Chúng tôi định cho Thục Anh vào đại học ở một tiểu bang khác nhưng vợ tôi lại sợ con gái xa nhà sẽ gặp nhiều khó khăn. Bà mẹ Việt Nam nào cũng muốn các con dù khôn lớn đều phải nằm trong đôi cánh của mình hay ít ra cũng lẩn quẩn đâu đó trong tầm mắt, bà mới yên tâm, hoặc khi đi xa phải có bạn đồng hành giúp đỡ nhau để tránh lỗi lầm, sa ngã. Vợ tôi nói với Thục Anh “Con lớn rồi, phải quyết định lấy cuộc đời mình. Trong số các bạn trai của anh con, con có thể chọn được một anh mà con có cảm tình, ba mẹ không có quyền chen vào nhưng cần biết quyết định của con để yên lòng. Mẹ thấy đứa nào cũng đàng hoàng, xứng đáng cả. Ðừng để chúng nản, chúng đi hết” Thục Anh chỉ dạ, cười cười mà không nói. Vợ chồng tôi chẳng hiểu nó nghĩ gì, Tuy chưa hề thấy nó biểu lộ tình cảm đặc biệt cho riêng một cậu nào, nhưng lối cười của nó, tôi biết nó đã có đối tượng, có chủ đích.

            Hôm tiệc sinh nhật, mới sáng, các bạn bè đã lục tục mang quà đến để đầy phòng khách. Không hiểu có phải qua Ðỗ Quyên không, hình như cậu nào cũng biết rằng Thục Anh sẽ lộ ý cho biết ai là ý trung nhân của cô trước khi lên đường đi học xa, và cậu nào cũng tin rằng mình đã nằm trong mắt xanh người đẹp rồi. Một cái TV ngạo nghễ chiếm một góc phòng, bên cạnh là một cái máy CD, DVD gì đó, có mấy gói quà nho nhỏ tuy khiêm nhường nhưng nổi bật nhờ giấy gói rực rỡ… Trong lúc chờ đợi chúng tụ tập ở phòng khách chuyện trò rôm rả. Vợ tôi tuy chuẩn bị trước, nhưng nấu nướng các món không phải đơn giản, các cô con gái và cả tôi nữa đều phải xuống bếp phụ một tay. Một lần, trong khi Thục Anh đang ở trong bếp thì anh chàng cá kèo xuất hiện, cậu ta đi có vẻ mạnh dạn lắm nhưng không che dấu được sự rụt rè, thiếu tự tin. Cậu đến bên Thục Anh đưa ra một gói nho nhỏ, hình như một quyển sách trong một phong bì màu xám “Anh tặng Thục Anh… để mừng sinh nhật” “Anh cho gì đây? Quyển sách hả, anh để trên phòng khách, lát nữa em sẽ mở quà, bây giờ tay em dơ lắm” “Anh không thích để trên đó, không thích ai biết trừ Thục Anh” “Ðược rồi, em mở ngay bây giờ, quyển sách phải không?” “Một tập thơ” “Thơ của ai?” “Thơ của anh” Thục Anh không lộ vẻ gì ngạc nhiên, nó giở từng trang, nhìn thoáng qua “Em có đọc mấy bài nầy rồi, trong các tờ báo…” “Ðúng rồi, anh làm thơ tặng Thục Anh đó” “Hèn gì, bài thơ nào cũng thấy đề “Tặng Thục Anh” em biết ngay là anh” Con bé chỉ hững hờ nói cám ơn rồi bảo Ðỗ Quyên đem tập thơ vào phòng. Có lẽ cậu cá kèo đang chờ đợi một tiếng kêu ngạc nhiên của Thục Anh kèm một cái ngước mắt nhiều cảm động và biết ơn, giống như lúc nhận quà của mấy cậu kia. Không ngờ vẻ lạnh lùng của Thục Anh khiến cậu ta như bị một cú đấm bất ngờ. Phải rồi, tập thơ chẳng có giá trị gì cả, cũng chẳng biết dùng vào việc gì?! Mặt cậu tái nhợt, cậu nói vội vã như hụt hơi “Anh về nghe!” rồi cậu lễ phép với chúng tôi “Xin phép hai bác con về, con bận có chút việc” Vợ tôi vội chận lại “Có chuyện gì gấp vậy? Con ở lại với bạn bè cho vui, hay để bác dọn riêng, con ăn trước rồi hãy về” Thấy vẻ bẽ bàng lúc nãy, tôi đoán cậu thất vọng nhiều lắm nên cần rời nơi nầy, tìm một chỗ yên tĩnh để gặm nhấm nổi buồn nên tôi không chen vào. Vừa lúc Thục Anh đến “Anh về em giận lắm đó. Ở lại, nghe chưa!” Lối ra lịnh như thế khiến tôi cũng bất bình, cậu cá kèo đành nghe theo. Có lẽ lúc sượng sùng nhất của cậu là khi mở quà vì cậu chẳng có tặng vật gì ở đó cả. Tôi ngồi ngắm những nhân vật của vở kịch đời, thấy rõ tâm lý hiện lên trên từng nét mặt. Với món quà nào Thục Anh cũng có một lối mừng riêng, nó khéo léo đến độ anh chàng có món quà ít giá trị coi bộ còn sung sướng hơn người khác nữa. Thục Anh quì giữa đống quà và những giấy gói đủ màu sặc sỡ trông nó dễ thương và ngây thơ như một đứa bé. Tôi nhìn nó lòng vui sướng và ngạc nhiên, mới năm nào sinh ra, nó chỉ có chút xíu, ngọ ngoạy chân tay một cách vụng về, miệng cười thơ dại, thơm nức mùi sữa mẹ, bây giờ thành một cô thiếu nữ xinh đẹp. Ðiều làm tôi phân vân, trông gương mặt nó sáng sủa, thông minh nhưng sao tâm hồn nó không giống vợ chồng tôi, nó không biết giá trị cao quí của tình cảm. Những bài thơ của anh chàng sinh viên nghèo kia dù không hay chăng nữa cũng nói lên những rung động chân thành đối với nó. Cậu sinh viên kia, trong góc phòng, lặng lẽ, núp kín sau bạn bè như muốn biến mình thành mây khói để thoát ra khỏi nơi ồn ào nầy. Tôi không hiểu cậu đang nghĩ gì? Có xót xa cho hoàn cảnh mình không đủ tiền mua một món quà đắt giá dâng người đẹp, hay ân hận mình đã yêu lầm một người không có tâm hồn?! Anh chàng Trương Chi tân thời nầy tuy không xấu trai nhưng chỉ có tiếng hát của hồn thơ và cô Mỵ Nương đời nay tuy có đọc thơ chàng từ trước trong những tờ báo đặt ở phòng khách chứ không phải lần đầu nhìn thấy, nhưng rõ ràng cô không quan tâm. Trong lúc dự tiệc, anh chàng cá kèo vẫn giữ vị trí xa người đẹp nhất. Những lần trước cậu thường lặng lẽ ngắm Thục Anh, thỉnh thoảng góp chuyện với bạn bè, lần nầy cậu im như thóc, mặt buồn thiu, cầm đôi đũa vầm vầm món gì đó trong chén chứ không ăn, có điều cậu uống bia hơi nhiều, mặt bắt đầu đỏ, trông lầm lì, dữ tợn. Cũng như mọi khi, bọn trẻ tha hồ nói thánh nói tướng về mình, về mọi chuyện, nhất là chuyện người đẹp, cậu nào cũng ra vẻ ta đây có số đào hoa, con gái chạy theo thiếu khối mà không thèm (Ý muốn nói chỉ để ý một người thôi) Rồi chúng xoay qua anh chàng cá kèo để chọc phá “ Còn mầy thì sao? Kể ra xem, trước giờ có được mấy em theo mầy?” “ Có mấy con cháu bà Só!” Cả bọn ngớ ra, nhưng vợ tôi cười rộ lên giải thích “ Cháu bà Só là chó bà Sáu đấy” Thấy có người hiểu được mình lại thêm chút rượu trong người, cậu bắt đầu triết lý “Con trai là nam châm, con gái là sắt, thép; có cứng bao nhiêu cũng chạy theo nam châm” “Mầy ngon, vậy chứ có mấy cục sắt chạy theo mầy rồi?” “Chưa có, nhưng muốn lúc nào là có ngay” Cả bọn nhao nhao “Thằng nầy xạo, biểu diễn coi, bữa nào đưa một em đến đây cho tụi tao xem, hay dẫn một em xấu hoắc thì đúng là sắt rỉ, nói làm gì” “Ðâu đến nổi, tụi bây chấm được mới kể, nhưng phải thong thả, ít ra cũng vài ba ngày, hẹn hò đàng hoàng chứ thình lình như đâu trên trời rớt xuống được” Chúng tôi bắt đầu ái ngại cho cậu ta, có lẽ vì bị Thục Anh lạnh nhạt trước món quà vô duyên đó nên cậu tự ái, một phần vì ngấm rượu cậu đã bị các bạn đưa vào bẫy thách đố, nhưng trông còn vẻ bình tĩnh tôi đoán cậu có cách thoát ra “Thứ bảy nầy đi, mầy đưa người đẹp đến đây, dám không?” “Có ngay, nhưng em vô nhà hay không tùy quyền em. Tụi bây đông quá, em khớp, đâu dám” “OK, đứng trước sân đủ rồi, chín giờ sáng thứ bảy, được chưa?” Vợ tôi và mấy đứa con gái cũng bị kích động theo, anh chàng cù lần nầy làm sao kiếm được một cô bạn nhanh như thế, hắn không có bà con quen biết để nhờ đóng vai người bạn tạm bợ “Sáng thứ bảy mấy đứa ghé đây ăn sáng, bác sẽ nấu phở cho mà ăn” Lát sau cậu ta xin kiếu từ về trước, thấy lối đi ngất ngưỡng, vợ tôi bảo “Con ra phòng khách ngồi nghỉ một lát, tỉnh rượu hãy về, cảnh sát gặp thì nguy” “Dạ, không sao đâu bác, con đi trong xóm chứ không ra ngoài lộ đâu”

            Sáng thứ bảy, bọn trẻ đã tụ tập tại nhà tôi chờ xem anh chàng cá kèo đem người đẹp đến trình diện. Tôi không quan tâm đến chuyện trẻ con đó, nhưng tò mò xem cậu ta giải quyết sự thách đố ra sao. Trước chín giờ cậu ta đã đến, cả bọn nhao nhao “Người đẹp đâu?” “Mười phút nữa em sẽ đến” “Mầy không đón em đến đây à?” “Em đến đón tao chứ xe tao em nào thèm ngồi” “Thằng nầy ngon, chà bữa nay áo quần coi bộ láng quá há!” Tôi cũng nhận thấy cậu ta ăn mặc lịch sự, tóc tai gọn gàng, áo quần mới thẳng nếp lại thêm chiếc cà vạt hoa lá cành trông rất bảnh bao, coi bộ còn đẹp trai hơn các bạn nữa. Vợ tôi bảo “Mỗi đứa vào bếp lãnh tô phở rồi ra phòng ăn mà ngồi” “Thưa bác, lát nữa con đi ăn điểm tâm với cô ta” Bỗng có tiếng còi xe, cả bọn ùa ra cửa. Cậu cá kèo chửng chạc đi ra. Chiếc xe đời mới, cũng rực rỡ như cô gái trong xe. Cậu ta nói gì đó, cô gái ra khỏi xe, cười thật tươi, vẫy tay chào trong nhà. Tuy cô không đẹp lắm nhưng cách ăn diện ra người đứng đắn, quí phái. Dự đoán một cô tào lao nào đó không đứng vững. Cô gái nhường tay lái cho cậu cá kèo và xe vụt chạy đi. Hơn một giờ sau xe quay lại, cô gái lại ra khỏi xe vẫy tay chào trong nhà, cậu cá kèo nói gì đấy cô ta cười gật đầu từ biệt. Bây giờ thì cậu ta chẳng còn chút buồn nào nữa, vợ tôi cũng vui lây, có lẽ bà cảm thấy như có lỗi vì cách đối xử của Thục Anh hôm trước, nay đã có một cô gái thay thế con gái bà trong quả tim anh chàng tội nghiệp nầy rồi. Rồi đây, khi Thục Anh chọn được một đối tượng, các cậu kia cũng sẽ buồn như vậy, có khi buồn hơn vì ấp ủ nhiều hi vọng hơn.

            Vợ chồng tôi cứ áy náy về cách xử sự vụng về của Thục Anh, cho nên chúng tôi dự định một dịp nào đó sẽ bắt Thục Anh xin lỗi cậu ta và chúng tôi sẽ nói mấy lời an ủi để cậu khỏi buồn. Một buổi tối, chúng tôi gọi Thục Anh ra phòng khách, tôi nói “Ba mẹ thấy con đã lớn mà không tế nhị chút nào. Các bạn của anh con, đứa nào cũng đứng đắn, học hành chăm chỉ, ăn nói lễ độ. Dĩ nhiên ba mẹ không ép con thương người nầy hay ghét người kia, nhưng dù gì con cũng phải chứng tỏ mình tế nhị, lịch sự. Riêng tập thơ bạn con tặng, coi bộ con dững dưng quá. Con có biết, khi người ta yêu, chỉ với tâm hồn say đắm mới làm được những bài thơ. Thơ dỡ không phải vì yêu ít. Nhưng ba đoán thơ đã được đăng trên báo ít ra nó cũng có giá trị về một khía cạnh nào đó chứ không phải hoàn toàn không đọc nổi. Ba mẹ rất vui khi thấy con bày tỏ lòng biết ơn với các anh tặng quà, biết cách làm cho mọi người vui vẻ dù giá trị món quà ra sao đi nữa, tại sao con không làm như thế với tập thơ? Lẽ ra lúc đó, sau khi mở quà, con phải đem ra một bài thơ để ngâm hay đọc lên cho mọi người cùng thưởng thức, con có thể không nói tên tác giả, nhưng để chứng tỏ rằng con hiểu được tình cảm của anh ta, chứng tỏ con có những nét đẹp cao quí đã làm rung động tâm hồn người khác. Ai cũng có thể cho bao nhiêu quà tùy thích, nhưng thơ thì chịu. Ðó là ân sủng của Thượng Ðế, người ta đã đem tặng con với tất cả tấm lòng, với bao tình yêu thương…

            Ba nói hơi nhiều, bây giờ ba đề nghị thế nầy, sáng mai chủ nhật con mời anh ta đến và nói lời xin lỗi cũng như cám ơn tấm lòng của anh ta, ba tin con biết cách nói cho anh ta hiểu rằng con rất hãnh diện và cảm động được anh ta quan tâm thương yêu, nhưng thời gian sẽ giúp con trả lời và những bài thơ đó con sẽ giữ gìn như một kỷ niệm quí nhất, đẹp nhất trong đời”

            Thục Anh đứng yên lặng nghe, nó có vẻ buồn buồn, tôi không hiểu nó đang nghĩ gì, nhưng lòng tôi rung động một tình phụ tử. Tôi tưởng nó đã lớn, đã thay đổi rồi, nhưng giờ đây trước mắt tôi, khuôn mặt, đôi mắt, chiếc miệng đó vẫn y nguyên như thời thơ ấu, nhất là khi nó sắp khóc, khiến tôi nhớ lại lúc nó còn nhỏ mỗi khi tôi giận dữ, la mắng điều gì, hễ mắt nó rơm rớm là lòng tôi chùng xuống, giận dữ tiêu tan, chỉ còn tình thương đứa con bé bỏng. Tôi ân hận, có lẽ đã nặng lời với nó chăng? Hay nó có tâm sự gì buồn? Vợ tôi cảm thấy điều đó, bà ôm Thục Anh vào lòng, nó bỗng khóc nấc trên vai bà. Tôi hôn lên đầu nó và thì thầm” Ba xin lỗi con!”.

            Sáng chủ nhật hôm sau, anh chàng cá kèo đến, Thục Anh tiếp ở phòng khách. Chúng tôi không muốn xen vào, chỉ ngồi ở phòng ăn. Tôi uống cà phê, vợ tôi loay hoay trong bếp nhưng đôi tai vẫn hướng về phòng khách. Phòng ăn sát với phòng khách, chúng tôi loáng thoáng nghe được cuộc đối thoại “Hôm trước thấy anh uống rượu mà ghê, tưởng bị cảnh sát bắt nhốt rồi chứ” “Ðâu có say, uống cho vui” Im lặng…“Mấy bữa nay đi với người đẹp vui không? Em thấy chị ấy đẹp lắm đó, em cũng phải mê, lại có xe mới tinh. Chúc mừng anh hạnh phúc” “Mới quen thôi. Buồn quá… Chứ có gì vui đâu!” Lại im lặng, tôi nhìn vợ tôi lắc đầu, cuộc hòa đàm coi bộ đi lạc đề rồi. Có tiếng giấy sột soạt “Cho em gửi lại anh tập thơ, em không xứng đáng để anh ca tụng, bây giờ có người đẹp hơn, thơ anh phải hay hơn rồi. Lúc tối, đọc tập thơ nầy em mắc cỡ quá, em xấu xí vụng về, nhà quê quá nên anh chọn người khác cũng phải, chắc anh hối hận ghê lắm khi đã lỡ làm thơ về em” “Không có đâu, không ai làm thơ ca tụng hoa hậu cả. Nhưng anh đã thề sẽ không bao giờ làm thơ nữa” “Sao vậy?” “Vì em không hiểu anh” “Sao anh biết em không hiểu? Mấy năm nay… Em đọc thơ anh đến thuộc lòng” “Hiểu mà không thèm để ý” “Sao anh biết? Không lẽ em phải la to lên là em để ý anh sao? Anh phải biết chứ. Em tức quá!” “Ðể ý sao thấy lạnh lùng!” “Em tưởng anh đã biết những gì em nghĩ về anh rồi. Tại anh không nhìn em. Anh chỉ giỏi nhìn trộm, khi em nhìn lại thì ngó lơ chỗ khác… Em không muốn ai biết gì hết, không muốn ai xen vào” “Thật hả? Anh buồn quá, cứ ân hận, thà đừng tặng tập thơ. Coi như yêu thầm phải sung sướng hơn không. Em biết anh làm thơ về em mà khi tặng tập thơ, em vẫn hững hờ… Anh nghĩ rằng em không có chút cảm tình nào với anh cả” “Em tức quá! Thôi được rồi, vì em không có cảm tình với anh nên anh tìm người khác. Bây giờ xin anh đừng nghĩ gì đến em nữa. Cho em gửi lại tập thơ, anh về chỉ cần xóa tên em, viết tên người đẹp vào đem tặng người ta, anh sẽ được người ta vồn vã, ân cần chứ không giống em, xấu xí, lạnh lùng” “Người đẹp nào?” “Con nhỏ hôm rồi chứ người nào nữa! Chuyện trò, cười nói thân mật quá, lại còn đem xe đến rước đi ăn điểm tâm nữa” “Anh thề với em, anh mới gặp lần đầu và hôm đó là lần duy nhất” “Anh đừng xạo nghe! Không lẽ anh thuê nó đến đón anh? Em không phải con nít đâu mà nói láo, không ai tin đâu” Có tiếng giấy sột soạt “Ðây, hình cô ta trên báo đây, có phải cô đó không? Chữ realtor (trung gian mua bán nhà) rành rành. Cô nầy còn đẹp hơn nữa. Anh muốn cho mấy đứa ngán thôi chứ đâu có gì” “Anh lợi dụng người ta để chọc tức em chứ gì? Anh không mua nhà mà giả bộ tìm nhà để người ta đưa đón, anh có thấy xấu hổ không?” “Anh đi coi nhà thực mà, tìm giùm nhà cho người bạn” “Ðừng chối quanh. Bạn anh làm gì có tiền. Ði học thì tiền đâu mua nhà?” “Gọi là bạn chứ anh ta cũng lớn tuổi rồi. Lúc vượt biên ở đảo, bọn anh sống với nhau, qua đây anh ta làm hai jobs, để dành tiền mua nhà đón vợ con qua” Lại yên lặng… “Em mà không đi học xa đừng hòng em nói cho mà biết. Người ta thương!.. Chưa gì đã lăng nhăng. Lúc tối em tức phát khóc…” Rồi nó lớn tiếng “Bây giờ về đi, chứ ngồi đó làm gì nữa? Ðưa lại em tập thơ. Ðứng lên!.. Cúi xuống! Cúi xuống nữa! Sao cao quá vậy?!” Vẫn giọng lạnh lùng đó, như đang đốp chát với mấy đứa em nó! Vợ tôi lầu bầu “Con nhỏ nầy… Sau nầy ăn hiếp chồng dữ lắm!” Và bà nhỏm dậy, định ra giữ thằng bé lại ăn điểm tâm, nhưng mới đến cửa, bà khựng lại, ngoắc tôi đến.

            Tôi biết rõ Thục Anh, bao nhiêu con trai đến nhà tôi thường xuyên, đố đứa nào đụng được chéo áo nó. Nó giữ ý, nghiêm trang lắm. Vậy mà giờ đây nó đang hôn lên trán anh chàng thi sĩ si tình mấy cái. Rồi vừa cười nho nhỏ, nó vừa vò vò đầu cậu ta như đang đùa với một em bé.

Phạm Thành Châu

Views: 874

Hèn!

Lê Văn Tư

Nhà văn Nguyễn Minh Châu (hàm đại tá quân đội), trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, báo Văn nghệ số kép 49-50 ra ngày 5-12-1987: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn”.
Ông Trần Hưng Quốc thú nhận: “Tôi cũng mong một ngày nào đó tôi hết hèn, dám chê đảng một cách thẳng thắn, chính trực mà không phải dùng tên nặc danh thế này. Chứ bây giờ, nghĩ đến đảng là tôi đã run lên như cầy sấy rồi, sợ cái cảnh phải như các anh Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, …” (Bài Trò chuyện cùng ông NT).

tohaithanghen
Tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Nụ cười sơn cước, nhạc sĩ Tô Hải viết tự truyện «Hồi ký của một thằng Hèn», trong đó ghi nhận: «Tất cả nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, nhà kịch, nhà nọ, nhà kia, … đến nay còn bám cái vú đảng đều là … thằng Hèn! Riêng những thằng kiếm chác bằng cách bợ đít, bưng bô cho đảng … thì chữ hèn đối với chúng cũng không xứng đáng!».
Có thể coi định nghĩa chữ hèn của Tô Hải là khá «ấn tượng» (bám vú, bợ đít, bưng bô) và hoàn chỉnh, vì hễ ai hèn thì đều bị khinh khi, gọi bằng thằng (giống như «Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.»), chớ không gọi bằng ông hay một danh xưng nào khác.
Theo giáo sư Nguyễn Đình Cống: «Cái sai rõ ràng nhiều người thấy mà mình không thấy thì mang tội u mê, nếu thấy rồi mà không dám nói thì mang tội hèn.», ông nói rõ: «Trừ một số rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay các vị trí thức có một chút dũng cảm vừa phải nào đó, dám nói một cách trung thực ý kiến của mình không đồng ý với lãnh đạo tại các cuộc họp công khai của Quốc hội, của Chính phủ, còn lại phần lớn là hèn.».
Tổng quát, hèn được ông phân làm 3 mức độ:
A- Hèn nhất là loại xu nịnh, luôn tìm cách ca ngợi, chứng minh đã là lãnh đạo, là có quyền thì luôn luôn sáng suốt, bao giờ, cái gì cũng đúng.
B- Hèn vừa vừa là loại mũ ni che tai, có biết có thấy sự thật sai trái nhưng sợ quá, không dám nói, chỉ lo làm tròn bổn phận.
C- Hèn ít, nhưng vẫn cơ bản là hèn, đó là loại hơi có một chút trung thực, dám nói nhưng chỉ nói ở trong nhà, nói giữa vài ba người bạn, nói mà không muốn cho nhiều người nghe được, càng không dám nói cho cấp trên nghe, sợ bị liên lụy.»
Ông đặt tên những trí thức hạng C là «một lũ chó sủa vườn hoang» và tự xếp mình vào hạng đó.
Thật sự mà suy, giống như sám hối hay xưng tội được giải tội, những ai dũng cảm công khai cái hèn của mình rồi thì không còn hèn nữa, như nhạc sĩ Tô Hải từ bỏ đảng cộng sản ngay sau ngày gọi là thống nhất đất nước, phơi bày cuộc đời nhẫn nhục trong sách «Hồi ký của một thằng Hèn», hay giáo sư Nguyễn Đình Cống đã công khai «thông báo từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 03 tháng 02 năm 2016. Yêu cầu tổ chức Đảng xóa tên tôi khỏi danh sách.» ngay sau ngày kết thúc đại hội XII.
Theo các chuẩn mực trên, thành phần thứ ba ở miền Nam trước 1975 đều thuộc hạng u mê kế đến là hèn, mức độ hèn có thể giảm dần theo thời gian.
U mê vì chống chế độ miền Nam một cách điên cuồng nhưng không lượng định được hậu quả tai hại ra sao như trong bài “Sặc mùi cộng sản”, Nguyễn Ngọc Lan viết: “tôi cũng xin cương quyết lặp lại, bao lâu còn gót giày lính Mỹ nện trên quê hương này, còn chống Mỹ cứu nước. … điều độc nhất đáng kể đối với chúng ta là toàn dân ta đều cần cơm mà sống, vốn cần cơm mà sống, sẽ còn cần cơm mà sống. Mỹ không ăn cơm thì đi chỗ khác chơi.” (Báo Tin Sáng số 733, 27-8-71).
U mê vì hậu thuẫn cho việt cộng nhưng chẳng hiểu gì về cộng sản như Lý Quý Chung thú nhận trong cuốn Hồi ký không tên: “Sự mù tịt về “Việt cộng” và sự thiếu hiểu biết sâu sắc về mục tiêu lý tưởng đấu tranh của “những người ở bên kia nửa phần Tổ quốc””.

U mê vì bị cộng sản giựt dây mà cứ tưởng mình đóng vai trò chủ động như linh mục Chân Tín đóng vai chủ tịch ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù, nhưng tổng thư ký là sinh viên Việt Cộng Trần Văn Long.
Họ lợi dụng tự do ngôn luận để ra báo chống đối chế độ như lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan (báo Đối Diện), lm Trương Bá Cần (báo Công giáo và Dân tộc, tựa đề có công giáo nhưng không thuộc giáo hội), Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận (tờ Tin Sáng), Lý Quý Chung (Tiếng nói dân tộc), Hồng Sơn Đông (Điện Tín), …
Họ lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, một số sư sãi (Trí Quang, Quảng Long, Huỳnh Liên, …), linh mục (Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, …) dùng các nơi thừa tự để tập họp, tuyên truyền xách động quần chúng, chứa chấp bọn nằm vùng.
Họ lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra các tổ chức chống chế độ như Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù của lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phong trào bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ đứng đầu, Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống của bà Ngô Bá Thành, Phong trào dân tộc tự quyết của luật sư Nguyễn Long, Lực lượng hoà giải dân tộc của luật sư Trần Ngọc Liễng , Mặt trận Nhân dân cứu đói của đại đức Thích Hiển Pháp.
Họ lợi dụng quyền bất khả xâm phạm để công khai ủng hộ những kẻ gây hỗn loạn trật tự công cộng, bao che việt cộng như các dân biểu Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, …, đặc biệt là tướng Dương Văn Minh “Xét về “gốc tích” thành phần của nhóm ông Minh… lộ ra sau 1975, … Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTDTGPMN như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh mục Lan, luật sư Liễng…”. (Lý Quý Chung kể trong cuốn Hồi ký không tên).
Ngay sau ngày 30/4/1975, mọi tờ báo đều bị đóng cửa, các tổ chức trên hay cái gọi là thành phần thứ ba đều bị khai tử không kèn không trống, chẳng thấy có một phản ứng nhỏ nhoi nào, điều này xác nhận họ hầu hết chỉ là công cụ giai đoạn của cộng sản, một số đã từng vào mật khu như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân, …) hay được móc nối như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, …
Tùy theo công trạng đóng góp cho “cách mạng (!)” mỗi cá nhân được thưởng công, khỏi đi tù cải tạo như Dương Văn Ba hay một số dưới trướng Dương Văn Minh, cho làm đại biểu quốc hội (Ngô Bá Thành, Lý Chánh Trung, Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, …), phần lớn được phong các chức hàm trong mặt trận tổ quốc, trong các hội đồng nhân dân, thậm chí còn cho ra báo trở lại như bán nguyệt san Đứng Dậy của lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, nhật báo Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, nhưng rồi lần lượt đều bị đóng cửa (gọi tự ý đình bản năm 1978, hay “hoàn thành nhiệm vụ” năm 1981).
Qua giai đoạn u mê, họ bước qua giai đoạn hèn, một số tiếp tục tâng bốc chế độ độc tài như Hồ Ngọc Nhuận: “Đặc biệt, tháng 9-1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong “Đoàn đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp thương Thống Nhất”. Khi trở về, trong bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết: “Chúng tôi tin rằng, độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội” (1), như Lý Chánh Trung (1985): “Tuy không phải là người Cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi cho rằng chỉ chủ nghĩa Cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước.” (bài Làm và tin), có người ca tụng cuộc sống người dân miền Bắc một cách lố bịch đến độ “Họ bảo nhau: “bao nhiêu năm trời bọn mình đã phải khốn khổ vì thiếu đói, vì chế độ tem phiếu, bây giờ tự dưng một gã làm báo từ Sài-gòn chân ướt chân ráo ra đây rồi thanh minh, biện hộ, ca tụng cái thiếu đói ấy. Rõ khỉ!” (Hà nội tôi thế đó -Nguyễn Ngọc Lan)
Đến năm 1988 thì hơi thức tỉnh, Lý Chánh Trung viết trên báo Tuổi trẻ: “Triết học Mác Lênin là môn chẳng ai muốn học, mà cũng chẳng ai muốn dạy”, “Tôi (2) nghe thiên hạ đồn rằng bây giờ ông bạn giáo sư đang bị “rét”, vì bị Tổng bí thư ” xát xà bông” làm sao đó. Sự thực ra sao vậy?” Anh Trung liền trả lời : “Quả là bây giờ có sự Đổi mới rồi, chứ nếu không, thì mình bị “lấy mất cái đầu đi rồi” đấy!”, một số ngậm miệng làm thinh như Nguyễn Ngọc Lan (chuyên viên chơi chữ), có ai hỏi ” bây giờ đang làm gì?” – tác giả tỉnh queo đáp ” làm thinh” (theo Thế Phong kể), Kiều Mộng Thu thì kể như câm miệng hến luôn.
Điều trớ trêu là những người cả tiếng tranh đấu cải thiện chế độ lao tù ở miền Nam, năm 1990, lm Chân Tín được chế độ mới cho đi an trí 3 năm ở tại xã Cần Thạnh, huyện Duyên Hải cách trung tâm thành phố 70 cây số, Nguyễn Ngọc Lan bị quản thúc tại gia 3 năm ở Sài Gòn; sống dưới chế độ “Mỹ -Ngụy” (!) thì được cộng sản bảo vệ nên không hề chi (!) (3), đến khi được sống dưới chế độ cộng sản thì lại bị tông xe suýt toi mạng (4); trước 1975 thì viết báo công khai chống chính quyền, sau 1975 thì viết nhật ký (Nguyễn Ngọc Lan), Hồi ký (Hồ Ngọc Nhuận) để than thân trách phận cũng bị cấm in, phải ấn hành ở ngoại quốc, phổ biến chui vào trong nước, muốn bày tỏ bất mãn thì phải luồn lách, vận dụng ngôn từ, nói bóng nói gió như bài “Hà Nội tôi thế đó”, Nguyễn Ngọc Lan bị gán cho là ngầm tả oán chế độ (chữ tôi có thể ngầm hiểu thành tồi, thành tội).
Tại sao trước khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam thì họ tỏ ra hùng dũng thế mà giờ thì lại hèn hạ đến thế?
Câu chuyện cây quất trồng ở bắc sông Hoài thì ngọt, trồng ở nam sông Hoài thì chua (sứ giả Tề Án Anh đối đáp với Sở Linh Vương) giúp giải thích lý do, đó chẳng qua là chế độ cộng sản đã biến giới trí thức thuộc thành phần thứ ba ở miền Nam đã trở thành những thằng hèn như bao thằng hèn ở miền Bắc, bây giờ thì “hèn hóa” cả nước.
Ngẫm lại, lịch sử chỉ là sự tái diễn, giới trí thức miền Bắc năm 1954 cũng lâm cảnh y như vậy, chỉ sau thời gian ngắn chỉnh huấn, nhiều văn nghệ sĩ đã tự lột xác như:
– Nguyễn Tuân: “Khi đã tự mình vạch hết những lỗi lầm cũ, Nguyễn Tuân, con người xưa kia kiêu bạc bao nhiêu, nay đã chẳng nề hà lớn tiếng tuyên bố:
‘’Nhờ ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê của đảng mở mắt cho thấy rõ ý nghĩa và phương hướng của nghệ thuật chân chính sau mười ba năm, in cuốn sách đầu tiên, nay tôi nhận rõ giá trị của sự nghiệp văn chương cũ của tôi chỉ là một mớ sai lầm và tội lỗi. Cái mà tôi vẫn tự phụ là sự nghiệp đó chỉ là những tội lỗi mà nhân dân khoan hồng đã tha thứ cho để tôi chuộc tội từ nay bằng những sáng tác phục vụ được cho lợi ích cách mạng…’’
– Xuân Diệu: “nhà thi sĩ chuyên môn: ‘’Run với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây’’
Xuân Diệu đã vỗ ngực mà thề rằng: ‘’Bây giờ thì phải dứt!’’
Dứt thế nào? Chúng ta hãy nhận xét Xuân Diệu mới qua bài thơ làm sau kỳ chỉnh huấn:
Trước Đây Bốn Tháng
Trước đây bốn tháng, đến Trường
Hồn tôi nghiêng ngả, trí thường hoang mang,
Đường đi quên ánh sáng vinh quang
Bạn thù lẫn lộn, trái ngang cảm tình
Kéo dài tâm trạng lênh đênh
Sống mà lắm lúc như mình bỏ đi.
Hôm nay hết học kỳ chỉnh đảng
Thấy bốn phương trời ánh sáng ùa vào
Bước đầu tuy chửa là bao
Nhưng nghe đã rộng, đã cao vô ngần!»
… (5)
Tương tự, giới họa sĩ như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Văn Tỵ,… giới nhạc sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Yên, … đều tự lên án mình, nguyện trung thành với đảng, phục vụ giai cấp công nông. (5)
Cái ưu việt của đảng cộng sản là biến cả một dân tộc không hề biết khuất phục trước ngoại bang đành an phận đớn hèn trước kẻ thống trị trong nước.hencaption 2
Hãy nghe Thái Bá Tân luận về thân phận giới trí thức dưới chế độ cộng sản:
Thương cái thằng trí thức,
Mặc dù chúng khá đông,
Không được thành giai cấp
Như hai bác công, nông.
Mà thằng này lạ lắm.
Phải nói cực kỳ hiền.
Lại nhũn nhặn, lễ độ,
Đến mức tưởng hắn hèn.
Thế mà hắn bị ghét,
Bị coi là cục phân,
Dù hắn ăn mặc đẹp
Và sạch hơn nông dân.

Lê Văn Tư

____________________

Ghi chú:
(1) Bên thắng cuộc của Huy Đức
(2) Đoàn Thanh Liêm -người cùng nhóm với Lý Chánh Trung trước 1975
(3) Tôi nhớ, ở chiến khu, Bí thư T.Ư Cục – anh Phạm Hùng có lần bảo tôi chú ý bảo vệ Nguyễn Ngọc Lan, nghe đâu ông đi lại bằng một chiếc xe gắn máy cũ kỹ, rất dễ bị ám hại. Tôi truyền đạt ý trên cho anh Tạ Bá Tòng, người trực tiếp liên hệ với Nguyễn Ngọc Lan, (bài Tiễn biệt anh, anh Nguyễn Ngọc Lan của Trần Bạch Đằng: http://thanhnien.vn/thoi-su/tien-biet-anh-anh-nguyen-ngoc-lan-386749.html)
(4) Nhật Ký của Nguyễn Ngọc Lan của Minh Võ: “Đầu tháng 5 năm 1998 NNL chở Linh Mục Chân Tín trên xe gắn máy tới viếng Nguyễn Văn Trấn tức Bảy Trấn vừa qua đời, thì bị xe tông bị thương nặng, suýt chết. Theo lời tường thuật của ông sau đó ít lâu thì rõ ràng người ta đã âm mưu ám hại ông.”
(5) Việt Nam máu lửa của Nghiêm Kế Tổ

Views: 744