Phường chèo tại rạp Ba Đình Hà Nội

Lê Văn Tư

Kỳ họp Quốc hội khóa 13 tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 21 tháng 3, 2016

Sau đại hội XII đảng cộng sản ngày 28/1/2016, ba nhân vật chóp bu (bộ tam sênh) mới được chỉ định (Nguyễn Thị Kim Ngân, Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc) vào các chức vụ nổi (chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước và thủ tướng), họ sẽ thay thế ba nhân vật hết thời (Nguyễn Sinh Hùng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng).
Thông thường ai cũng tưởng việc thay thế này sẽ diễn ra sau khi có quốc hội mới dự trù được bầu vào tháng 5/2016, nhưng nào ngờ việc thay thế này lại diễn ra vội vã ngay trong khóa họp cuối cùng của quốc hội hiện nay (21/3 – 12/4/2016), lý do chính thức nêu ra là «cần phải có đội ngũ nhân sự có trách nhiệm phân công bắt tay ngay vào công việc», hóa ra đội ngũ nhân sự cũ là vô trách nhiệm à?
Liệu có mấy người tin?
Theo giáo sư Nguyễn Đình Cống: «Tam trụ còn lại là việc của Quốc hội khóa mới, nhưng vì lý do nào đó mà Đảng không chờ được, phải thay ngựa giữa dòng. Việc này, người thì cho là đảo chính, người lại bảo là vi phạm hiến pháp. … Để cho có vẻ thuận chiều thì phải tạo ra việc Tam trụ đồng loạt xin từ chức. … Cả 3 vị đều ngậm ngùi bị buộc phải ngậm bồ hòn xin từ chức.»
Luật sư Lê Quốc Quân tự hỏi «lý do gì quan trọng đến mức mà Đảng có thể xổ toẹt lên tất cả Hiến pháp, công khai thể hiện quyền lực tối thượng một cách vô lối của mình bằng việc thúc ép “tam trụ” phải nghỉ. Lý do đó phải gấp đến mức buộc người ta phải phải bốc cá ăn ngay chứ không còn thời gian dùng nồi để nấu.» (bài «Miễn nhiệm là ‘đảo chính hợp hiến’?» -BBC 27 tháng 3 2016)
Cái tựa đủ chuyển tải quan điểm của tác giả, cũng có người cho sự thay đổi kiểu «chạy tang» này là bình thường, Gs Nguyễn Minh Thuyết dẫn Điều 74 và 88 của Hiến pháp, theo đó Quốc hội có thể miễn nhiệm chủ tịch nước và thủ tướng, và nhắc lại một số tiền lệ (sau Đại hội Đảng Cộng sản IX thì ông Nguyễn Văn An đã được giới thiệu để thay chức vụ của ông Nông Đức Mạnh vì ông Nông Đức Mạnh đã được bầu làm tổng bí thư, “Sau đó khi Đại hội Đảng X không bầu ông Nguyễn Văn An vào Bộ Chính trị nữa thì Quốc hội lại họp tháng 6 năm đó để bầu ông Nguyễn Phú Trọng thay ông Nguyễn Văn An, sau này bầu ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng thay cho ông Phan Văn Khải, ông Nguyễn Minh Triết làm chủ tịch nước thay cho ông Trần Đức Lương.”), ông cũng «cho rằng chuyện miễn nhiệm cũng hợp lý vì nếu không “chẳng lẽ thủ tướng, người đã không còn là ủy viên Bộ Chính trị, lại nhận lệnh của phó thủ tướng hay bộ trưởng là ủy viên bộ chính trị.”».
Điều lý thú là ông nhắc lại «cách đây ít năm khi Đại biểu Dương Trung Quốc đặt câu hỏi với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về khả năng từ chức của ông thì Thủ tướng cũng đã nói rõ ràng “Tôi không có chạy, không có xin mà Đảng phân công thì tôi làm.”
“Thế thì lần này Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam không bầu ông Nguyễn Tấn Dũng vào vị trí ủy viên Bộ Chính trị, không bầu ông Trương Tấn Sang vào ủy viên Bộ Chính trị và ông Nguyễn Sinh Hùng cũng tương tự. Như thế có nghĩa là Đảng đã không phân công các ông tiếp tục …»

Nói qua hiến pháp, nhắc lại tiền lệ chẳng qua là để thể hiện sự hiểu biết của một «trí thức» (học vị tiến sĩ, tước giáo sư), cuối cùng ông vẫn khẳng định đảng cộng sản là trên hết, muốn làm gì thì làm (thế là hết ý!).
Sự khẳng định này cho thấy đảng chà đạp hiến pháp, một sự vi hiến trắng trợn.
Họ bày trò miễn nhiệm, theo nghĩa thông thường, miễn nhiệm, tức «miễn chức cũng gọi là giải chức hay bãi chức, lột chức phận, không cho làm chức vụ nhà nước nữa.» (Tự điển Lê Văn Đức), theo Đại từ điển Tiếng Việt ở trong nước thì “miễn nhiệm” nghĩa là “không cho giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ”, như vậy «được miễn nhiệm» là «bị truất phế» vì một tội gì đó cần phải được nêu rõ trong cáo trạng, còn ở đây, tội của họ là bị đảng loại ra khỏi bộ chính trị, khoản tội này như một điều luật bất thành văn, mọi đảng viên phải tuân thủ, dĩ nhiên các đại biểu quốc hội không thể làm khác (con rối là ở chỗ đó!).
Ngoài sự vi hiến, việc bầu những người thay thế còn là điều phi lý, đó là quốc hội cũ lại bầu những người chưa là đại biểu quốc hội, theo hiến định: “Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch Quốc hội (điều 83), tức chủ tịch của một quốc hội chưa có, một quốc hội gồm những đại biểu ma (quái đản!), Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội (điều 87), Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội (điều 98)”.

Không những bầu bộ tam sênh, họ còn miễn nhiệm và bầu mọi chức chưởng khác trong cơ cấu quyền lực như các phó chủ tịch quốc hội, phó chủ tịch nước, các ủy viên ủy ban thường vụ quốc hội, chủ tịch hội đồng dân tộc, chủ nhiệm các ủy ban của quốc hội và tổng kiểm toán nhà nước, …, có nghĩa là họ được cho đắc cử trước khi được dân bầu (khôi hài!), từ đó có thể suy ngược lại là số phận hẩm hiu dành sẵn cho ai đã bị miễn nhiệm và không được bầu vào một chức vụ nào khác, quốc hội như thế rõ ràng là một cơ cấu tiền chế, chức danh đại biểu quốc hội được coi như phần thưởng dành cho những kẻ trung thành với đảng, chấp nhận làm thân khuyển mã gọi dạ bảo vâng.
Đây là một tiền lệ nguy hiểm vì từ nay, đảng muốn truất phế ai thì chỉ cần loại tên đó ra khỏi bộ chính trị hay ban chấp hành trung ương, quốc hội căn cứ vào đó làm thủ tục miễn nhiệm và bầu bất cứ một tên nào khác thay thế bất kể là có là đại biểu quốc hội hay không?

muaroiTừ đầu chí cuối toàn là độc diễn, vậy mà cũng bày đủ trò «thông qua danh sách ứng cử, nghị quyết, biểu quyết, kiểm phiếu, công bố kết quả, …», mọi diễn tiến y hệt một vở phường chèo, các diễn viên gọi là mới lại toàn là đào kép cũ xào đi xào lại, như vậy thì còn hòng gì có sự thay đổi, nên chẳng mấy ai tin lý do viện dẫn, đúng như nhận xét của tướng Trần Độ: “Nói thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. … Ôi, cay đắng thay!”. (Nhật ký rồng rắn)

Vậy thử suy đoán động cơ nào dẫn đến việc làm phi hiến, phi lý này.
Trong đại hội đảng, Nguyễn Phú Trọng đã thành công trong việc hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng, mọi diễn tiến hấp tấp hiện nay cho thấy Nguyễn Phú Trọng muốn dứt điểm Nguyễn Tấn Dũng càng sớm càng tốt, đồng thời cày sẵn người của mình vào guồng máy cai trị mới, cũng có thể loại nốt tàn dư của Dũng trong kỳ bầu quốc hội tới.
Liệu mọi chuyện có dễ dàng như vậy hay không?
Liệu quốc hội mới có chấp nhận một việc làm vi hiến trắng trợn này không?
Cứ theo logique mà suy thì sự căng thẳng giữa Dũng và Trọng đã âm ỉ từ lâu với cường độ ngày càng tăng, cao điểm là đại hội đảng vừa qua, cuộc quyết đấu chỉ kết thúc một mất một còn, tuy đang vị thế thượng phong, Trọng vẫn luôn nơm nớp lo sợ thế cờ bị lật ngược, việc đặt để Nguyễn Xuân Phúc (kẻ thân tín) làm thủ tướng cốt để chặt hết tay chân của Dũng ở các cơ quan hành pháp; vốn là tay mưu sĩ (từ bạch đinh vượt lên tận tột đỉnh vinh quang nào có vừa gì?) lại ôm mộng tranh bá đồ vương, cả chục năm trên chót cao thực quyền, Dũng tất đã ngầm tạo nhiều thanh thế, ơn mưa móc rưới ra cùng khắp, vây cánh hẳn hiện diện khắp nơi, cứ xem trước đây cặp Trọng – Sang muốn hạ bệ đồng chí X còn làm không nổi, ngay trong cuộc truất phế tại quốc hội hiện nay, số người chống miễn nhiệm Dũng cũng cao hơn Sang (68 phiếu [13,77 %] so với 26 phiếu, chiếm [5,26 %]) và chắc Dũng cũng thủ sẵn nhiều hồ sơ thuộc loại thâm cung bí sử của các đối thủ chính trị, chỉ chờ dịp tung ra, ngoài ra còn bao nhiêu của nổi của chìm cần phải được bảo vệ, do đó Dũng khó «thanh thản» ra đi như tuyên bố.
Màn giác đấu kế tiếp chắc hứa hẹn nhiều gay cấn!
Quốc hội mới có thể là đấu trường quyết liệt giữa hai phe Trọng – Dũng, sóng gió có thể nổi lên từ lúc ra ứng cử, tranh cử, kẻ mất thế quyền lực tất phải dựa vào sức mạnh của luật pháp, chống lại mọi áp đặt, đòi hỏi thực thi công bằng giữa các công dân, đặc biệt là giữa các ứng cử viên, đây là dịp các ứng cử viên độc lập, các phong trào đấu tranh dân chủ phải chuẩn bị đáp ứng mọi tình huống, phe Dũng muốn sống còn chắc phải dựa vào lực lượng dân chủ, một khi len vào được quốc hội, hình thành một khối liên minh độc lập, chừng ấy nghị trường không còn là mảnh vườn hoang cho phe độc tài mặc tình múa gậy, tùy theo tương quan lực lượng, quốc hội mới có thể bác bỏ mọi quyết định vi hiến của quốc hội trước, tức xóa bài làm lại, chế độ độc tài toàn trị coi như cáo chung, ứng với nhiều tin loan truyền: «đại hội XII là đại hội cuối cùng của đảng cộng sản».
Cùng tắc biến, biến tắc thông, hy vọng đã vươn lên!
God bless our country!

Lê Văn Tư

Views: 436

Ban Mê Thuột, Trận Mở Đầu Cộng Sản Việt Nam Tổng Công Kích 1975

Vũ Thụy Hoàng

VTT-ZZNOV-11-SaiGonTuyenTrangLGT: Với sự chấp thuận của tác giả, chúng tôi đăng lại bài bút ký dưới đây, trích từ tác phẩm “Sài Gòn Tuyết Trắng” (ấn bản lần thứ tư, xuất bản năm 2000)  của Vũ Thụy Hoàng, một khuôn mặt quen thuộc trong số các nhà văn, nhà báo tên tuổi  ở Virginia. Vũ Thụy Hoàng từng ở trong ngành báo chí 49 năm, trong đó có 33 năm với Washington Post,  là tác giả của 4 tác phẩm: Rồng Vàng Vượt Biển, Sài Gòn Tuyết Trắng, Quê Hương Thương Ghét Múa Bút.

Vũ Thụy Hoàng cũng là một hội viên viễn cư của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ, hiện đang cư ngụ tại California.

anloc051

Ban Mê Thuột vào chập tối hôm 9 tháng 3, 1975 vẫn là địa đàng đối với cuộc sống cặp kè cạnh tử thần của Thiếu Úy Thám Báo Nguyễn Công Phúc. Ở đây Phúc có người tình say đắm ngóng chờ. Ở đây Phúc được thưởng thức hương vị thơm nóng của ly cà phê, ngồi phà nhẹ làn khói thuốc, ru lòng nghe tiếng hát ngọt ngào của những ca sĩ qua loa âm thanh nổi. Đó là những thứ Phúc thèm nhớ nhất trong những ngày lẩn lủi ở rừng sâu giữa lòng địch.
Trẻ tuổi, quả cảm, ưa thích văn nghệ, Phúc vừa trở lại Ban Mê Thuột lúc chiều. Mười ngày qua Phúc cùng đại đội thám báo được phái đến Bandon, một địa điểm heo hút cách Ban Mê Thuột chừng 40 cây số về phía tây bắc gần sát biên giới Kampuchia. Bandon trước kia là một căn cứ của Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu được Biệt Kích Mỹ huấn luyện, rồi sau đấy chuyển sang thành Biệt Động Quân Biên Phòng. Căn cứ nằm trấn ngang hành lang đường mòn Hồ Chí Minh của quân Bắc Việt xâm nhập vào nam.
Thám báo được coi là những binh sĩ thuộc loại ưu tú nhất, thiện chiến nhất và gan dạ nhất. Thiếu Úy Phúc là trung đội trưởng thuộc đại đội thám báo của Trung Đoàn 45, Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Hậu cứ của sư đoàn đặt tại Ban Mê Thuột.
Trong những đêm rải quân ra ngoài nằm giữa núi rừng vắng lặng, Phúc và đồng đội nghe thấy tiếng xe di chuyển, hoặc tiếng đốn cây sửa đường của Cộng quân. Không phải chỉ gần đây Cộng quân mới ồ ạt và gần như công khai di chuyển người và vũ khí trên đường mòn Hồ Chí Minh. Từ hơn một năm trước, Phúc và những toán thám báo đã khám phá nhịp độ gia tăng và xâm nhập rầm rộ của Cộng quân.
“Mình báo cáo hoài mà chẳng thấy cấp trên làm gì cả. Có lần thượng cấp còn bảo ‘báo cáo nhiều quá rồi, khỏi cần báo cáo nữa,'” Thiếu Úy Phúc kể lại những ngày lặn lội nguy hiểm ở hậu cứ địch để trinh sát. “Thế mà họ vẫn thảy mình vào chỗ chết như chơi. Nhảy vào sau tuyến địch. Ở giữa vùng địch, nếu bị lộ, khó chạy thoát. Chỉ có chết hoặc bị bắt. Chết thì còn đỡ. Bị bắt mới khổ. Nó tra tấn hành hạ. Mình là tai, là mắt của quân đội, nó có thể móc mắt, xẻo tai để trả thù. Trước kia đi công tác xong, có trực thăng đến đón về. Sau này trực thăng ít, có lần phải lội bộ mà về. Chỉ mới hơn tháng trước ngày Tết, tụi này mất sáu toán trinh sát ở gần Thuần Mẫn, một quận lỵ nằm trên đường 14 nối liền Ban Mê Thuột với Pleiku.
“Không có những vụ đi nhảy vào hậu cứ địch, thì lại đi tăng phái. Cứ chỗ nào gay cấn, khó khăn, đánh nhau dữ, thì họ lại đưa mình tới để tăng phái cho đơn vị khác. Tăng phái là đi làm rể với họ, mở đường cho họ đi hành quân. Mình đi đầu lãnh đủ.”
Đang ở Bandon, Phúc và đồng đội được lệnh đi tăng phái cho Đức Lập, một quận nằm về phía tây nam Ban Mê Thuột. Chưa kịp đến thì nghe tin Đức Lập mất, Phúc và đại đội được lệnh về Ban Mê Thuột. Nhưng đường bộ đi Ban Mê Thuột cũng đã bị cắt đứt, xe không đến được để chở đại đội. Một trực thăng Chinook được phái tới và phải bay hai chuyến mới chở hết đại đội có 70 người.
Đến Ban Mê Thuột, đại đội được cử tăng phái cho Trung Đoàn 53 đóng gần phi trường Phụng Dực. Vì đến bất ngờ, và vì doanh trại của trung đoàn không đủ chỗ, đại đội thám báo được chỉ định ra đóng quân ở địa điểm sát phi trường.
Đi rừng nhiều ngày về, lại không được thông báo về tình hình, binh sĩ thám báo như chim được xổ lồng, bay nhảy ra ngoài. Một số binh sĩ muốn về thăm thân nhân. Đại đội trưởng cùng Phúc và mấy sĩ quan khác lên xe Jeep vào thành phố. Chỉ còn đại đội phó và một số lính khác ở lại địa điểm đóng quân.
Phúc muốn ghé lại thăm người tình ở thành phố. Biết ý, đại đội trưởng bảo: “Mày cứ ở đây, Có gì tao cho xe lại bốc.” Phúc cũng không muốn để các bạn lẻ loi lâu, nên hẹn sẽ gặp các bạn ở quán cà phê đường Hai Bà Trưng.
Thành phố Ban Mê Thuột tối chủ nhật 9/3/1975 vẫn sinh hoạt như thường lệ. Tiệm ăn, quán nước, phòng trà, rạp chiếu bóng vẫn mở cửa.
Ban Mê Thuột là thành phố lớn của vùng cao nguyên với dân số chừng 150,000 người, trong đó có nhiều người Thượng. Thành phố đất đỏ này còn nổi tiếng về cà phê, và là nơi trước kia quốc trưởng Bảo Đại thường đến nghỉ ngơi và săn bắn. Với vị thế chính trị và kinh tế đó, Ban Mê Thuột còn là bản doanh của Sư Đoàn 23.
Trong kỳ tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, Cộng quân đã tấn công vào thành phố,và giao tranh ác liệt đã xảy ra trong ba ngày.
Từ đầu năm 1975 Ban Mê Thuột đã mấy lần được báo động là Cộng quân có thể tấn công. “Tin nói Việt Cộng sẽ tấn công đã xảy ra nhiều lần,” Nguyễn Ngọc Vỵ, phó tỉnh trưởng Darlac mà tỉnh lỵ là Ban Mê Thuột, nhớ lại tình hình hồi đó. “Trước Tết đã có tin nói Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, nên quân dân đều chuẩn bị. Một số người đã tản cư đi, không ăn Tết. Sau không thấy gì, họ trở về. Đến khi lại có tin Việt Cộng sẽ tấn công, tâm lý mọi người là nửa tin, nửa nghi. Ngày 8 tháng 3, đại tá tỉnh trưởng họp, cho biết tình hình nghiêm trọng, Cộng sản sẽ tấn công nhưng không biết ngày nào.”
Ban Mê Thuột vào tối ngày 9/3 như con nai còn thản nhiên nhấm búp non trên cành cây. Nghe tiếng động sột soạt ở gần, nai không biết có cọp dữ núp sau lùm cây sắp sửa nhảy ra vồ.
Từ một địa điểm trong rừng sâu cách Ban Mê Thuột mấy chục cây số, Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu đang nóng lòng ngồi chờ “giờ giao thừa,” (1) giờ nổ súng tiến đánh Ban Mê Thuột. Dũng là tổng tham mưu quân đội Bắc Việt được cử vào miền nam trước đó hơn một tháng để trực tiếp chỉ huy trận đánh Ban Mê Thuột, mở màn cuộc tấn công vùng cao nguyên trung phần.
Cuộc tấn công đã được quyết định dứt khoát vào ngày 9/1/1975 tại Hà Nội. Ý kiến đánh Ban Mê Thuột do Tướng Trần Văn Trà đề xướng, thúc đẩy và vận động, trong khi Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt dè dặt chưa muốn (2). Trà là tư lệnh chiến trường B2 bao gồm Nam Bộ và một phần của vùng II. Trước đó Bộ Chính Trị Bắc Việt trong một phiên họp 20 ngày từ 18/12/1974 tới 8/1/1975 đã chấp thuận kế hoạch chiến lược trong hai năm 1975-76, theo đó năm 1975 Cộng quân mở cuộc tấân công lớn và rộng khắp miền nam để tạo điều kiện mở cuộc tổng công kích vào năm 1976.(3) Sau khi phiên họp Bộ Chính Trị bế mạc, ban Thường Trực Quân Ủy Trung Ương họp bàn việc thi hành quyết nghị. Trà được sự tán đồng của Lê Đức Thọ, nhân vật quyền thế thứ hai sau Lê Duẩn. Khi Quân Ủy đang họp, Thọ tới dự, bảo “Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Ban Mê Thuột. Ta có gần năm sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được là thế nào”” (4)
Hà Nội chọn Tây Nguyên làm chiến trường chủ yếu, và Ban Mê Thuột làm điểm tấn công vì cho rằng chiếm được Ban Mê Thuột sẽ “tạo ra một thế trận hiểm và cơ động có thể làm thay đổi nhanh cục diện chiến trường” và “dẫn đến việc giải phóng miền Nam.” (5)
Ban Mê Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế và có vị trí chiến lược xung yếu ở vùng cao nguyên. Võ Nguyên Giáp, một chiến lược gia của Hà Nội đã từng nói chiếm được cao nguyên là kiểm soát được Đông Dương. Giáp ranh với Miên, Lào ở phía tây, vùng cao nguyên nối liền với duyên hải bằng quốc lộ 19 từ Pleiku đi Qui Nhơn, và quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột đi Ninh Hòa. Quốc lộ 14 bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam chạy xuyên cao nguyên qua những tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột xuống tới An Lộc và Tây Ninh. Vì vậy kiểm soát được Ban Mê Thuột là kiểm soát được những con đường ở phía tây đi xuống vùng Sài Gòn. Đã hai lần vào năm 1965 và năm 1972 Cộng quân đã tấn công mạnh ở cao nguyên, mưu toan tiến xuống duyên hải cắt Nam Việt Nam làm đôi.
Vùng cao nguyên này đất rộng, người thưa, nhiều rừng núi và Cộng quân đã dùng làm hành lang xâm nhập người và chiến cụ từ bắc vào nam. Để ngăn chặn những xâm nhập của Cộng quân, Mỹ Việt đã cho thiết lập nhiều căn cứ dọc theo biên giới. Những đoàn Dân Sự Chiến Đấu, trong đó hầu hết là người Thượng, đã được CIA và Biệt Kích Mỹ huấn luyện từ năm 1961. Vùng cao nguyên từng là nơi xảy ra nhiều cuộc giao tranh khốc liệt giữa Cộng quân và các lực lượng Việt Mỹ như trận đánh ở Ia Drang năm 1965 giữa bộ đội Bắc Việt và sư đoàn 1 Không Kỵ của Mỹ mới tới Việt Nam. Trong trận này Mỹ bị 305 người chết, cùng với hàng ngàn Cộng quân (6). Trận đánh dữ dội khác ở Dak To năm 1967 cũng gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên: 287 người Mỹ chết, 985 bị thương, cùng với 347 binh sĩ Nam Việt Nam thiệt mạng; phía Cộng quân 1.200 chết. (7)
Vùng cao nguyên vẫn thường được dự đoán là nơi Cộng quân nhắm vào mỗi khi mở cuộc tấn công lớn, nhưng đoán biết được điểm mà địch sẽ tấn công là điều không dễ.
Để thực hiện kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột, bộ tham mưu Hà Nội chọn phương châm “mạnh bạo, bí mật, bất ngờ và nghi binh rất nhiều.” (8)
Trong việc chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột, Cộng quân huy động tới năm sư đoàn và 15 trung đoàn thiết giáp, pháo binh, phòng không và công binh, với tổng số binh sĩ từ 75.000 đến 80.000.(9) Một phần lực lượng này được bố trí để bao vây, chia cắt và cô lập Ban Mê Thuột với các tỉnh lân cận và đồng bằng thuộc Quân Khu II, đồng thời chặn đánh quân tiếp viện đến giải tỏa cho Ban Mê Thuột. Quốc lộ 19 và quốc lộ 21 vì vậy bị Cộng quân cắt đứùt từ mấy ngày trước khi Ban Mê Thuột bị đánh.
Lực lượng quốc gia phòng thủ ở Ban Mê Thuột chỉ có Trung đoàn 53 thuộc sư đoàn 23, một liên đoàn Biệt Động Quân cùng những đơn vị cơ hữu của hậu cứ, và Địa Phương Quân, Nghĩa Quân.(10) Hai trung đoàn 44, 45 của sư đoàn được đưa đi tăng cường ở vùng Pleiku. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23, do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, chỉ huy cũng đã di chuyển lên đóng ở Hàm Rồng gần Pleiku. Tại Ban Mê Thuột chỉ còn bộ chỉ huy nhẹ của sư đoàn và do Đại Tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn, điều hành.
Cộng quân như vậy chiếm ưu thế cả về bộ binh, thiết giáp và trọng pháo trong trận đánh Ban Mê Thuột. Theo Văn Tiến Dũng, bộ binh Cộng quân gấp năm lần rưỡi, xe tăng và xe bọc thép gấp 1,2, pháo lớn gấp 2,1 (11)
Để bảo toàn bí mật, để trận đánh khởi tiến bất ngờ, Cộng quân tìm cách dấu kín lực lượng, bố trí kín đáo các đơn vị và tạo thế nghi binh, làm quân lực Việt Nam Cộng Hòa ước tính sai lầm hướng tấn công của đối phương. Làm như nhắm đánh vào Kontum và Pleiku, Văn Tiến Dũng cho gia tăng những cuộc quấy rối, pháo kích vào hai vùng đó, đánh chiếm đoạn đường trên quốc lộ 19 đi Qui Nhơn, và huy động dân đi làm đường, sửa đường ở vùng họ chiếm đóng. Dũng ra lệnh “đánh một la mười.” (12)
Trong lúc khoa trương khí thế ở phía bắc, Cộng quân âm thầm di chuyển quân xuống phía nam. Tình báo Mỹ cũng bị Cộng quân đánh lừa. Sư đoàn 320 của Bắc Việt kéo quân xuống vùng Ban Mê Thuột, nhưng vẫn để bộ tư lệnh giả ở vùng Đức Cơ gần Kontum và tiếp tục gửi các tín hiệu vô tuyến đi, làm ban kiểm báo của Mỹ và Việt đều tin là sư đoàn đó vẫn ở mạn bắc. (13)
Dũng có ý tập trung ba sư đoàn ở phía nam để bất ngờ đánh như “sét giáng” (14) vào Ban Mê Thuột..
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Khu 2, vẫn tin rằng mặt trận Kontum, Pleiku là mục tiêu chính của Cộng quân. Khi Cộng quân tấn công và pháo kích vùng Pleiku mấy ngày trước khi tấn công Ban Mê Thuột, Phú còn điều động trung đoàn 45 lên tăng viện cho Pleiku. Tướng Phú định xuống Ban Mê Thuột để xem xét tình hình hôm 8/3, nhưng sau lại hoãn chuyến đi. Cùng ngày đó, Cộng quân cô lập hẳn Ban Mê Thuột bằng cách cắt đứt nốt đường 14, đánh chiếm Thuần Mẫn ở phía bắc, Đức Lập và Dak Song ở phía nam. Chiều ngày 9/3 Tướng Phú mới đáp trực thăng xuống Ban Mê Thuột để họp bàn tình hình. Lúc ông rời đấy, thành phố đang là con mồi làm đích cho những đoàn Cộng quân sắp sửa xuất phát,
Khoảng 10 giờ tối Phúc cùng mấy sĩ quan còn ngồi ở quán cà phê nghe nhạc. Ngoài đường xe Quân Cảnh chạy qua khu thị tứ của Ban Mê Thuột để tìm kiếm quân nhân còn lai vãng ngoài doanh trại. Thấy mấy sĩ quan còn ở quán, quân cảnh đến chào và thông báo Ban Mê Thuột đã có lệnh báo động đỏ, các binh sĩ phải trở về ngay đơn vị, và Cộng quân có thể nổ súng bất cứ lúc nào. Phúc cùng đồng bạn vội nhảy lên xe Jeep, phóng ngay về Phụng Dực.
Phúc và đồng đội nhận lệnh bố phòng và phân chia vị trí phòng thủ. Phúc đốc thúc binh sĩ đào hố cá nhân. Đất cứng, trời lại tối, việc đào hố thật vất vả, lại phải làm gấp rút.
Đi kiểm soát và thanh sát ngoại vi phòng thủ, Phúc bắt gặp đường giây điện thoại dã chiến giăng mắc ở vài nơi. “Cộng quân như vậy đã ở xung quanh mình, có lẽ chỉ cách vài trăm thước. Chúng có thể thấy mình mà không nổ súng vì chưa có lệnh. Lúc ấy vào khoảng nửa đêm,” Phúc kể lại.
Đúng hai giờ sáng ngày 10/3 Cộng quân khai hỏa. Cuộc tấn công Ban Mê Thuột khởi đầu bằng những cuộc pháo kích “bão lửa,” đồng thời xe tăng, đại bác, cao xạ, bộ binh xuất quân, trong lúc những đội đặc công xâm nhập thành phố. Chiến xa địch ở cách Ban Mê Thuột 40 cây số lên đường, dùng phà vượt sông, tiến về Ban Mê Thuột. (15) Mấy mục tiêu chính lúc đầu là sân bay quân sự L19 ở trong thị xã, kho đạn Mai Hắc Đế, tiểu khu Darlac, tòa hành chánh tỉnh, bộ tư lệnh sư doàn 23, và hậu cứ của trung đoàn 53 sát phi trường Phụng Dực.
Tại phi trường L19 một trực thăng bay lên bị bắn rớt. Các máy bay khác bị tiêu hủy. Tại kho đạn đại úy chỉ huy bị nội công bắn chết khi vừa ở trong phòng bước ra.
Lúc Việt Cộng bắt đầu pháo kích, Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ đang ở tòa hành chánh tỉnh. Tòa tỉnh sau cũng bị pháo,Vỵ liền đưa gia đình, gồm vợ và sáu con nhỏ từ 2 đến 11 tuổi, ra khỏi tòa hành chánh, đến ở nhà một người dân ngoài phố, rồi quay trở lại tòa tỉnh. Sau đợt pháo, từ bốn giờ trở đi, Vỵ nghe có tiếng súng nhỏ ở mấy nơi xa xa. Vỵ ra thăm lại gia đình. Dọc đường Vỵ gặp mấy người Thượng chạy vào cho biết Việt Cộng đã kéo về đầy buôn của họ. Vỵ dặn gia đình nếu có bề gì thì trà trộn lẫn vào trong đám đông đồng bào.
Khoảng gần 7 giờ Vỵ chạy sang tiểu khu. Một trái đạn pháo của địch nổ cách Vỵ có mấy thước. Chiếc xe bị lật. Vỵ bị tung khỏi xe, lăn xuống đường. Lính đưa Vỵ vào trong tiểu khu và Vỵ liên lạc được với Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng.
Đến khoảng 9 giờ, tiểu khu cháy gần hết vì bị pháo, trừ khu truyền tin. Đại Tá Luật cùng Vỵ chạy sang bản doanh sư đoàn. Vừa ló ra khỏi tiểu khu, “thấy Việt Cộng đông như vịt,” Vỵ phải chạy trở lại tiểu khu và tòa hành chánh. Vỵ và một thiếu tá dùng súng bắn nhau với Việt Cộng. Mấy phút sau, một trái đạn pháo kích nổ cách chỗ hai người chừng năm sáu thước, Hai người thấy tình hình nguy hiểm, tìm lối rời bộ chỉ huy tiểu khu. Tiểâu khu lúc ấy không còn mấy ai. Hai người đến được bộ tư lệnh sư đoàn, lính canh không chịu mở cổng. Đại Tá Luật cũng tới nơi, phải xưng danh, sau đấy Đại Tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn phải ra nhận diện rồi cho lệnh, lính mới mở cửa.” Vỵ vào được bộ tư lệnh khoảng 11 giờ rưỡi.
Bộ tư lệnh sư đoàn đến lúc này vẫn chưa bị tấn công và vẫn tiếp tục liên lạc với sư đoàn, quân đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Qua máy truyền tin, Thiếu Tá Hy, trưởng phòng 3, còn báo cáo đã diệt được 12, 13 xe tăng của địch. Bộ tư lệnh cho rằng sớm muộn Cộng quân sẽ cho xe tăng đến tấn công, nên đã bố trí sẵn bốn khẩu súng bắn chiến xa 57 ly ở cổng chính và đặt chiến xa ở vòng ngoài. Ban Mê Thuột cũng xin Không Quân đến oanh kích những địa điểm tập trung của Cộng quân, và yểm trợ bộ binh để đánh lui các cuộc tấn công của địch.

Đêm đó, tình hình lắng đọng, “một thứ yên lặng ghê sợ,” theo lời Phó Tỉnh Vỵ. Mọi người đều hồi hộp chờ đợi cuộc tấn công nữa của Cộng quân. Lúc này Vỵ thấy đói. Lương thực cũng như đạn dược lại nằm ở ngoài vòng đai của Bộ Tư Lệnh.
Sáng ngày 11, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 phấn khởi khi được tin có những phi vụ bạn đến oanh kích Cộng quân. Máy bay tới liền bị súng phòng không địch bắn lên dữ dội. Phi cơ bay tít trên cao và thông báo không thấy rõ mục tiêu oanh kích. Ban Mê Thuột được biết nửa giờ sau sẽ có phi vụ khác.
“Lúc 7 giờ 5 phút, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 bị trúng ngay trái bom của phi cơ thả xuống. Máy truyền tin bị tê liệt, không liên lạc được với bên ngoài. Mọi người hoang mang, mất tinh thần, lo chạy ra khỏi hầm. Vừa lúc đó, một trái bom khác nổ, làm sập cửa hầm, bít kín mất lối ra. Ai nấy sợ hãi, tuyệt vọng, mò mẫm trong đường hầm tối thui để tìm lối thoát. Có người dẫm cả vào thương binh. Moi móc gạch vụn mất 15 phút sau mới tìm thấy lỗ để chui ra. Mới ngoi lên khỏi hầm thì thấy xe tăng Cộng quân ở phía xa. Dãy nhà tôn ở gần đấy đã bay mất mái có lẽ vì sức ép của hai trái bom. Lính cũng chạy ra theo Đại Tá Luật. Đại Tá Quang đứng ở trên, một tay cầm khẩu Colt, tay kia chống nạng sườn, hỏi ‘Đại Tá Luật đâu” PC (bộ chỉ huy) sập, phải tái lập.'”(16)
Đại Tá Quang chỉ lối chạy sang khu thiết giáp nằm khuất sau bệnh viện. Một số lính chạy theo. Khu thiết giáp còn hơn chục chiếc thiết vận xa M113 và một số lính. Thấy không thể ra lối trước vì sẽ đụng đầu với xe tăng của địch, Đại Tá Quang ra lệnh cho thiết giáp cán lên hàng rào kẽm gai ở phía sau mà đi.
Toán quân có chừng 200 người thoát xuống được thung lũng, đến suối Đốc Học là chỗ khuấât và hơi kín. Suối lúc này cạn vì là mùa khô. Tưởng là thoát nguy, nhưng rồi thấy Việt Cộng ở cách đó không xa. Lính được dàn ra, bố trí, mai phục sẵn. Đại Tá Quang định tử thủ tại đấy, nhưng Đại Tá Luật cho chỗ đó trống trải quá. Hai người bàn cách đến trung tâm huấn luyện binh sĩ của sư đoàn để từ đấy bắt liên lạc lại với các đơn vị. Trung tâm này lại nằm phía bên kia thị xã Ban Mê Thuột. Muốn đến đó, phải theo đường đi qua thị xã, hoặc băng rừng vòng quanh thị xã. Đại Tá Quang, từng ở Nhảy Dù, muốn liều dẫn quân xâm nhập qua thành phố vào lúc đêm tối để tới trung tâm. Ông cho rằng Cộng quân có thể chưa kịp nắm vững tình thế ở thị xã đêm đó. Đại Tá Luật thấy lối đó táo bạo và nguy hiểm, muốn đi đường vòng qua rừng để đến trung tâm. Bàn luận một hồi, hai ông quyết định phân tán, cho lính muốn theo ai thì chọn. Có chừng 50 người theo Đại Tá Luật. Số còn lại theo Đại Tá Quang. Hai toán chia tay nhau vào khoảng 11 giờ.
Vỵ là phó tỉnh nên theo Đại Tá Luật, tỉnh trưởng. Toán này lội bộ đến Buôn Ky gần đồn điền cà phê của cựu Trung Tướng Thái Quang Hoàng. Đi một lúc, Đại Tá Luật bảo mình đi lạc xa mục tiêu cả bảy cây số. Vừa vượt qua một ngọn đồi trọc, toán quân thấy xe tăng của Cộng quân. Cộng quân cũng nhìn thấy họ.
“Xe tăng quạt mấy loạt liên thanh. Đoàn người chạy trở lại phía sau đồi. Chạy mới được 10 thước, Đại Tá Luật té đánh bịch. Mọi người lo chạy cho lẹ. Cố theo nhau mà chạy. Lúc chạy trốn, mình không sợ chết, mà chỉ sợ lạc. Chạy được ba bốn cây số, sang tới một đồi khác, toán của Vỵ chỉ còn một thiếu tá, một đại úy và một trung úy. Ai nấy quần áo tơi tả, rách bươm. Có người chỉ còn may ô, quần đùi,” Vỵ kể lại.
Áo của Vỵ rách nát vì vướng cành cây, bụi rậm. Lẩn vào khu trồng cà phê, Vỵ tựa người vào gốc cây. Vừa đói, vừa mệt, Vỵ ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Vỵ chỉ giật mình thức dậy khi nghe nói “Chúng mày ngụy!” Vỵ mở mắt, thấy mấy mũi súng đang chĩa vào mình. Mấy thanh niên mặt trẻ măng nhìn chằm chặp vào Vỵ. Rồi chúng xông vào trói Vỵ, giải đi.
Ba ngày sau được đến chỗ mới, Vỵ gặp lại Đại Tá Luật bị giam cùng một chổ. Đại Tá Quang bị Việt Cộng bắt ở một địa điểm khác.
Được tin Ban Mê Thuột bị tấn công, Quân Đoàn II điều động lực lượng của sư đoàn 23 ở Pleiku về tiếp cứu. Bộ Tư Lệnh lúc đó đang ở Hàm Rồng. Binh sĩ sư đoàn rất nóng lòng về cứu Ban Mê Thuột vì nhiều người có gia đình tại thành phố hậu cứ của sư đoàn. Cả lính kèn cũng tình nguyện về, theo lời Trung Úy Trần Hùng thuộc phòng 3 của sư đoàn. Vì phải đợi có trực thăng, quân tiếp viện mãi hai ngày sau mới được đưa về Phước An, cách Ban Mê Thuột chừng 30 cây số về phía đông. Trên đường vào giải vây cho Ban Mê Thuột, quân tiếp viện mới đi chừng 10 cây số thì bị chặn đánh, tiến không nổi vì địch có chiến xa. Theo Philip B. Davidson, binh sĩ khi về đến Phước An lo đi tìm kiếm vợ con, và khi gặp vợ con thì bỏ hàng ngũ đưa gia đình đi. (16)
Những cơ sở đầu não ở Ban Mê Thuột bị đánh chiếm trong hai ngày đầu Việt Cộng tấn công vào thành phố. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì chiến trận còn tiếp diễn ở khu gần phi trường nằm phía ngoài thị xã. Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến là một đại đội chừng 70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn luyện đặc biệt và quyết tâm hăng say chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê Thuột ngay từ ngày đầu, và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là đại đội thám báo mà Thiếu Uý Nguyển Công Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và thiếu thốn súng đạn, lương thực. Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn chống trả lại những đợt tấn công mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa độ hướng dẫn pháo binh bạn bắn vào những vị trí địch.
Một trong những yếu tố để đại đội đạt được thành tích trên và tồn tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Ban Mê Thuột là Cộng quân không biết vị trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại đội. Cộng quân khi tấn công Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì không biết có đại đội thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy bay ở phi trường và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội mới nhận vị trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ bị phát hiện.
Trong những giờ đầu của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt trận qua máy truyền tin. Được trang bị hệ thống truyền tin tối tân hơn những đơn vị bộ binh thông thường khác, đại đội thám báo có thể liên lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả với mấy đơn vị theo hàng ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Nhờ vậy Phúc biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến. Trong đêm tối, giữa những tiếng gầm thét và những tia chớp lóe sáng của đạn pháo kích, Phúc nghe qua âm thanh hỗn loạn của máy truyền tin tiếng những đơn vị bạn gọi nhau ơi ới, báo cáo tình hình, yêu cầu bắn yểm trợ hoặc điều quân tiếp cứu.
Trung Đoàn 53 đêm đầu bị pháo kích mạnh. Đến 5 giờ sáng căn cứ bị địch tấn công từ hai phía đông bắc và đông nam. Địch chiếm được một phần căn cứ. Vào khoảng 8 giờ, quân trú phòng phản công, Cộng quân bị đánh dạt sang một bên. Một cánh quân Việt cộng đã chạy về phía tây nam qua khu đất trống của phi trường. Họ trở thành “những con mồi, những mục tiêu bắn bia,” theo lời Phúc, cho những tay súng thám báo nằm phục sẵn ở bìa rừng cao su gần phi đạo.
Thu dọn chiến trường vào buổi chiều, đại đội thám báo đếm được trên 40 xác Việt Cộng bỏ lại, cùng với hơn 100 nón cối, tịch thu một số vũ khí, đạn được và quân trang, trong đó có năm hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Một số súng đạn này sau được dùng để bắn lại Cộng quân trong mấy ngày sau.
Cuốn nhật ký tịch thu trên người một đại đội trưởng Việt Cộng cho biết anh ta thuộc tiểu đoàn K5 của sư đoàn 316 từ Bắc Việt xâm nhập. Đây là một sư đoàn cơ giới trên đường xâm nhập vào Nam đã sử dụng trên 500 chiếc xe lớn để chuyên chở binh lính, trong đó có cả chiến xa, xe bọc thép, đại bác tầm xa, cao xạ và những loại xe vận tải khác. (17) Nhiều xác lính Việt Cộng còn mang theo những khẩu hiệu “Mình Đồng, Vai Sắt.” “Ăn No, Đánh Thắng” “Bí Mật, Bất Ngờ.”
Hăng say với thắng lợi ngày đầu, Phúc và binh sĩ thám báo hôm sau càng thêm mừng rỡ, phấn khởi hơn nữa khi hay tin quân tiếp viện được đưa về giải vây cho Ban Mê Thuột. Trung Đoàn 44 được gửi tới gần Buôn Hồ ngày 11/3. Ngày hôm sau Trung Đoàn 45, là trung đoàn gốc của đại đội, được trực thăng vận xuống Phước An.
Nhưng niềm phấn khởi đó bị xẹp mau, khi được biết tiểu khu Darlac bị mất, bộ tư lệnh sư đoàn 23 bị chiếm, rồi quân tiếp viện không vô nổi và đã bỏ chạy lúc đụng đầu với xe tăng Việt Cộng.
Binh sĩ thám báo cũng thấy nao núng, mất bình tĩnh khi thấy trực thăng tản thương bị bắn rơi, thương binh không được di tản. Họ cũng tiếc xót nhìn những dù tiếp tế không rơi xuống phần đất của mình, mà nằm vật vờ trên mặt đất trống giữa mình với địch. Bên nào mon men định ra kéo dù vào liền bị bên kia bắn chặn. Những dù đó nằm suốt ngày ngoài nắng, chờ đêm tối mới có người liều lĩnh ra kéo.
Trong những ngày chiến đấu kế tiếp với Việt Cộng, Phúc và đồng đội còn trải qua nhiều nguy hiểm, gian lao, khổ cực. Không có đủ lương thực và súng đạn, họ phải dùng súng đạn và lương thực tịch thu được của Việt Cộng. “Lương khô của chúng được ép thành miếng như bánh đậu xanh. Ăn vào khát nước muốn chết. Anh em phải xuống con suối ở cạnh ngọn đồi cuối phi đạo để lấy nước. Quân mình đã dặn nhau đi lấy nước cũng phải mang súng theo. Thấy tên nào lấy nước mà không có súng, thì đó là địch, được quyền bắn.
“Đánh nhau, quần áo bị rách nát hết. Phải lấy quần áo tịch thu được trong túi đeo lưng của xác Việt Cộng. Mấy anh em mặc đồ Việt Cộng và dùng súng Việt Cộng đi đánh nhau, nên có lúc bị binh sĩ Trung Đoàn 53 tưởng là Việt Cộng, bắn chối chết. Mình phải la lên trong máy, họ mới thôi,” Phúc nhớ lại.
Trong cả tuần lễ liên tiếp giao tranh và bị địch pháo kích, Phúc và đồng đội mệt mỏi vì thiếu ăn thiếu ngủ. Phúc nói: “Đêm không được chợp mắt. Phải lo bố phòng, sợ địch xâm nhập. Sáng ra, chia nhau thành toán nhỏ, đi đánh giải tỏa vòng vây. Đánh theo kiểu những toán trinh sát, nhảy dù, di động luôn để giải tỏa áp lực, rồi tránh né, rút lẹ, chứ không theo kiểu dàn trận của tiểu đoàn bộ binh. Vì vậy địch không biết đơn vị có bao nhiêu người, không biết chiến tuyến chỗ nào. Lúc không đánh nhau thì núp trong hố cá nhân để địch không nhìn thấy. Hố được đào khoét trong những ụ đất có sẵn để bảo vệ máy bay. Cao bốn năm thước, bề dày hai ba thước, những ụ đất này là nơi ẩn nấp tốt cho mình và đồng đội.
“Vừa đói khát, lại không được nghỉ ngơi, anh em mệt mỏi cả thể chất lẫn tinh thần. Đầu óc căng thẳng, hồi hộp khi nhìn thấy đồng đội bị bắn banh xác, người bị thương kêu la rên rỉ, thật như sống trong cảnh địa ngục. Lúc chưa vào cuộc thì sợ, nhưng khi ở trong cuộc rồi, mất sợ hết trơn. Anh em giữ được tinh thần cũng nhờ kỷ luật nghiêm khắc. Tới lúc đó, bất tuân lệnh là có quyền bắn bỏ.”
“Đêm ngày 16/3, Việt Cộng pháo tàn bạo như địa chấn. Thám báo liên lạc với trung đoàn. Gọi trung đoàn mãi, không có trả lời. Chỉ có im lặng. Mình cảm thấy nỗi cô đơn ghê sợ. Cô đơn và tuyệt vọng. Đau đớn và chán chường. Muốn khóc. Muốn nổi khùng. Thế là hết. Thì ra họ đã rút chạy.
“Chỉ còn mấy chục anh em ở lại, lọt giữa lực lượng đông đảo của địch. Mình liên lạc được với quân đoàn, xin cho máy bay đến oanh kích địch sáng hôm sau để anh em mở đường máu chạy thoát. Quân đoàn đồng ý.
“Gần sáng Việt Cộng cho xe tăng tấn công căn cứ Trung Đoàn 53. Bộ binh Cộng quân theo xe tăng vào chiếm căn cứ. Chiếm xong, Cộng quân chuẩn bị tiến sang phía phi trường thanh toán nốt những ổ cuối cùng còn sót lại của đại đội thám báo. Đúng lúc Cộng quân đang tập trung quân, phi cơ được thám báo hướng dẫn đến dội bom xuống đầu địch. Nhờ những trái bom thả đúng lúc, chặn đứng đà tiến của xe tăng và quân địch, đại đội thám báo còn lại hơn năm chục người rút chạy, lẩn vào khu rừng cao su.
“Thoát khỏi trận chiến, đoàn thám báo lúc này tơi tả, hốc hác và kiệt sức mà vẫn phải cố lết đi, tìm đường xuống phía nam nhắm hướng về Đà Lạt. Đến gần chi khu Lạc Thiện, một quận thuộc tỉnh Darlac, đám quân còn chừng 30 người mừng rỡ bắt được liên lạc vô tuyến với chi khu. Họ vui sướng tìm mau chỗ nghỉ chân sau những ngày sống sát thần chết. Chi khu yêu cầu cho biết chỗ đang ở.
“Ít phút sau, đạn pháo rơi ào ào xuống toán thám báo còn đang nằm lăn ra nghỉ. Rồi địch nổ súng tấn công. Lại chạy tứ tán. Người chết, người bị thương.”(18)
Phúc chỉ còn 15 người chạy theo được. Thấy đường đi về phía Đà Lạt không thành, Phúc tìm đường đi về hướng đông, hy vọng tới những tỉnh vùng duyên hải. Qua một hai ngày băng rừng, vặt lá đào cây để ăn, nhóm của Phúc lại lọt vào một ổ phục kích của Cộng quân. Phúc và một y tá thoát ra khỏi ổ phục kích, nhưng rồi rút cục cũng bị bắt lúc đang vục mặt xuống vũng nước để uống. Hôm đó là ngày 22/3.
Sau này vào trại cải tạo, Phúc gặp một sĩ quan ở chi khu Lạc Thiện, liền trách cứ vụ bị pháo kích. Sĩ quan cho biết Cộng quân đã chiếm Lạc Thiện từ mấy ngày trước và vẫn dùng tần số cũ để liên lạc với những toán quân khác của quân đội Cộng Hòa. Lúc ấy Phúc mới biết mình mắc bẫy khi tiết lộ tọa độ đóng quân.

Vũ Thụy Hoàng

________________________________________________________________
Chú Thích
1. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 79
2. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 758-762
3. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 35
4. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 37
5. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 44-45
6. Moore, Harold G. & Galloway, Josepht L., We were Soldiers Once…and Young, trang xvi
7. Tucker, Spencer C., Vietnam, trang 135
8. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 37
9. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 768
10. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 770
11. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 57
12. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 69
13. Snepp, Frank , Decent Interval, trang 171
14. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 52, 91
15. Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, trang 81
16. Nguyễn Ngọc Vỵ, nói chuyện ngày 5/1/1980 và 1999
17. Davidson, Phillip B., Vietnam at War , trang 773; Hosmer, Stephen & Kellen, Konrad & Jenkins, Brian M., The Fall of Vietnam, trang 85.
18. Nguyễn Công Phúc, nói chuyện năm 1978 và 1999.

Views: 1596

Nhắn Kẻ Trở Cờ

Trần Văn Lương

thangtuden

Hỡi người bạn trở cờ theo lũ giặc
Đang nắm quyền sinh sát ở quê tôi,
Đừng chỉ vì chút canh cặn cơm ôi,
Mà thay chúng nói rặt lời dối trá.

Chúng luôn mồm ra rả,
Đánh lừa thiên hạ khắp nơi.
Và chẳng may, đâu đâu cũng có người,
Vẫn nhẹ dạ tin trò chơi bịp bợm.

Này bạn hỡi, đừng đem lời chúng mớm,
Để qua đây luôn sớm tối kêu gào.
Bạn giết người mà chẳng dụng gươm dao,
Khi theo chúng rêu rao điều gian dối.

Đừng dẫn chứng đám cò mồi múa rối,
Bọn thầy tu giả mạo mới ra lò,
Rồi phùng mang trợn mắt hót líu lo,
Rằng đất nước có tự do tôn giáo.

Chúng tóm kẻ chức quyền cao trong đạo,
Cho xênh xang áo mão để reo hò,
Để thổi phồng chiếc bánh vẽ "xin cho",
Hoặc trình diễn lắm trò hề tương tự.

Chúng bắt chẹt tình cảm người xa xứ,
Dụ họ về bằng hai chữ "quê hương",
Bằng những câu giả dối ngọt như đường,
Bằng hình ảnh của "vườn" kia "trái" nọ.

Rồi hốt trọn bầy "cá hồi" vô rọ,
Vắt cạn tiền, xong vất bỏ thẳng tay.
Chuyện sờ sờ trước mắt chẳng chịu hay,
Sao bạn vẫn luôn cối chày ngụy biện?

Đừng núp bóng dưới chiêu bài "từ thiện",
Miệng oang oang toàn nói chuyện thương người,
Nhưng thực ra là về để ăn chơi,
Cùng đóng kịch mong được đời ca ngợi.

Đừng lợi dụng chuyện thiên tai lụt lội,
Để làm giàu trên nỗi khổ của dân.
Thiên hạ ai cũng biết rõ trăm phần,
Mà sao bạn vẫn trần thân lải nhải?

Đừng ong óng toàn những câu nhai lại,
Nào " giao lưu", nào "hòa giải", "thứ tha".
Sao bạn không dám bảo bọn tà ma,
Ngưng bách hại người sa cơ thất thế?

Đừng trâng tráo nói "không làm chính trị",
Khi chính mình xin tỵ nạn nơi đây,
Khóc sụt sùi khai với Mỹ, với Tây,
Vì sao phải đắng cay rời quê cũ.

                         *****

Thân nhược tiểu, mong manh quyền tự chủ,
Bị "đồng minh" bán cho lũ sài lang.
Nên chúng tôi phải đau đớn tan hàng,
Chua xót đứng nhìn giang san tơi tả.

Vì lương thiện, chúng tôi đà trả giá,
Bằng khăn tang của cả triệu người thân,
Bằng những dòng lệ ngập mắt cá chân,
Bằng sinh mạng ngàn quân dân cán chính.

Vì tưởng chúng còn mảy may nhân tính,
Nên bao người đã dính phải tai ương,
Kẻ bỏ mình trong núi thẳm mù sương,
Kẻ giũ kiếp giữa trùng dương sóng gió.

Cũng vì bởi những người như bạn đó,
Mà quê ta, giặc đỏ vẫn cầm quyền,
Sống giàu sang, phung phí những đồng tiền
Từ xa trút liên miên về chốn cũ.

Bạn hỡi bạn, sao đang tâm hưởng thụ,
Trên vết thương đầy máu mủ dân mình,
A tòng theo bọn bán nước cầu vinh,
Để tiếp tục làm điêu linh đất tổ.

Dân tộc Việt chỉ hoàn toàn hết khổ,
Khi lũ này không còn chỗ dung thân,
Khi Cờ Vàng phất phới giữa trời xuân
Theo nhịp bước đoàn quân Nam anh dũng.

                         *****

Bốn mươi mấy năm từ khi buông súng,
Quá khứ buồn giờ chắc cũng phôi pha.
Bao triệu người, còn mấy kẻ xót xa,
Khi nhớ đến một quê nhà đã mất.

Trần Văn Lương (CH 8)
Cali, đầu mùa Quốc Hận,
4/2016

thang tu den 3

Views: 363

Còn Gì Để Lại

Nguyễn Quang Dũng

congidelai-nnb-image

 1.  Những tấm hình gần nhất trước ngày D…

Ngày chủ nhật 7 tháng 2, 2016 tôi gặp Thầy Nguyễn Ngọc Bích và Cô Đào Thị Hợi tại Chợ Tết Cộng Đồng Người Việt Vùng Hoa Thịnh Đốn. (Tôi gọi GS Nguyễn Ngọc Bích là Thầy vì Thầy Bích có thời gian giảng dạy ở Đại Học George Mason, Virginia:  Thầy phụ trách giảng dạy  lớp  Truyện Kiều, bằng tiếng Việt, tiếng của người mình).  Thầy Bích đang lui hui bày những cuốn sách của Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ trên bàn. Tôi đến chào Thầy và lấy xuống xem một cuốn sách sử ký của sử gia Lê Mạnh Hùng mà Thầy trưng bày ở chổ cao nhất trên giá đựng sách. Chắc Thầy nghĩ tôi chỉ đến xem cho vui, hay mua một cuốn “ủng hộ” gian hàng sách của  Thầy. Nhưng khi tôi thưa với thầy là tôi muốn mua trọn bộ 5 quyển “Nhìn Lại Sử Việt”  thì Thầy vui lắm. Thầy nói với tôi: “Lẽ ra trọn bộ giá $133, nhưng tôi sẽ “discount” cho anh và chỉ lấy $100”. Thầy cho 5 cuốn sách vào túi nylon xong thì tôi xin chụp Thầy và Cô một tấm hình kỷ niệm dưới đây:

DSC01095

Ngày thứ hai 8 tháng hai, 2016, mồng một Tết Bính Thân, tôi gặp lại Thầy Bích trong bộ quốc phục cổ truyền , áo dài, khăn đóng, với khăn quàng cổ màu vàng  ba sọc đỏ. Thầy cười vui trong buổi lễ Chào Cờ đầu năm mới  Bính Thân 2016 do Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức. Tôi đang đứng cạnh anh Nguyễn Kim Hương Hỏa, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông nên mời Thầy chụp chung một tấm hình với anh Hương Hỏa.  Thầy và Hội Hành Chánh vốn thân thiết với nhau đã lâu, năm nào Thầy Bích và Cô Hợi cũng là khách mời danh dự của buổi tiệc Hội Ngộ Tân Niên Quốc Gia Hành Chánh  đầu năm dương lịch.

DSC01309

Trong tấm hình tôi chụp hôm đó, Thầy Bích cười, tươi tắn.  Và sau này tôi nhận ra trên nhiều tấm hình chụp, Thầy lúc nào cũng có nụ cười hiền hòa cố hữu đó.

Ngày thứ bảy 20 tháng hai, 2016. Hội Người Việt Cao Niên vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức Lễ Tổ tiên và Chúc Thọ năm Bính Thân 2016. Buổi tối thứ sáu, tôi lo trình bày, in và chuẩn bị nhiều khung hình chúc thọ cho các vị Hội viên cao niên với tuổi thọ từ 70, 80, 90 đến 100. Ở xứ Hoa Kỳ này, tôi thấy các “cụ” 70 hay 80 của Hội Cao Niên vùng này rất mạnh khỏe và năng động. Bảy mươi như anh chị phóng viên Đào Hiếu Thảo thì không thể gọi là người “già” mà phải gọi là người trẻ của Hội Cao Niên. Tôi biết rất nhiều vị trên 70 từ chối gia nhập Hội “Cao Niên” chỉ vì họ nghĩ là họ chưa …già. Cho nên trên bản tin Cao niên tháng hai, 2016 tôi không “dám “ gọi các cụ 80 mà dùng chữ “quý vị 80”. Quả vậy, trong số các “cụ” 80  Hội Cao Niên chúc thọ năm nay, có GS Kim Oanh,  Bà Tuyết Ngọc…những vị cao niên năng động  này không thể gọi là người già được. Tôi  có thấy tên GS Nguyễn Ngọc  Bích trong số các “cụ” 80 (tính theo tuổi ta). Tôi nghĩ đến  Thầy Bích và nụ cười của Thầy trong Lễ Chúc Thọ vào ngày mai.congidelai-nnb-chuctho80

Tiếc thay thứ bảy hôm sau đó, Thầy và Cô Hợi bận lễ chùa nên đến trễ;  Lễ Tổ Tiên và Chúc Thọ đã xong, Nhưng Thầy cũng tham dự Lễ mừng sinh nhật chung, Thầy tham gia sinh hoạt văn nghệ. Anh Nguyễn Văn Đặng chụp tấm hình dưới đây, lúc Thầy Bích đang hát:

DSC01310

Ngày 2 tháng 3, 2016, giờ Hoa Thịnh Đốn,  sáng vào mở email từ anh Bùi Mạnh Hùng, tôi biết tin Thầy Nguyễn Ngọc Bích mất trên chuyến bay đến Manila, Phi Luật Tân dự Hội nghị về Biển Đông.  Trên vùng trời cách không xa lắm quê hương Việt Nam yêu dấu, lúc đó là ngày 3 tháng 3,  Thầy Bích bị nghẽn mạch máu cơ tim.  Theo lời Cô Hợi kể lại: Thầy nói với Cô Hợi là Thầy mệt lắm chưa bao giờ mệt như vậy. Và chỉ như vậy, Thầy đi.

Tin Thầy Bích mất làm tôi lặng người.  Mới vừa đây, hai tuần trước, Thầy còn đó.

Sống và Chết, quả tình chỉ cách nhau một hơi thở – tôi còn nhớ nhiều Phật tử thường hay nhắc nhau câu nói này. Từ lâu,  tôi cũng như nhiều người khác thường hay nghĩ rằng đời sống của mình hãy còn ngày rộng tháng dài. Rằng  mình – mới 60, 70 hay dầu đã 80- vẫn còn khỏe. Cái chết  là chuyện xa vời, không ai màng nghĩ  đến. Trong lúc,  thực ra, nỗi chết rình rập mọi lúc, mọi nơi và không kể trẻ hay già.

Sáng nay, tôi phải tự nhắc để tôi nhớ,  đừng quên, không được quên điều này: Chuyện gì làm được,  đừng chờ đến ngày D. vì đến lúc đó có hối tiếc thì mọi sự đã muộn màng.

Ngày Đi hay viết tắt là ngày D, chữ tôi dùng cho ngày chết, hay nói cho có vẻ văn chương chữ nghĩa hơn – ngày vĩnh biệt cõi đời, là cái ngày mà tôi và vài ông bạn già rất thân thiết – như  Cụ Hà Bỉnh Trung (đã đi) hay anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao (đã trên 70, vẫn còn nhất định chưa chịu nhận là mình già) -vẫn thường cười cười nói với nhau khi có dịp gặp mặt: “ Đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng, khi nào có “vé” là lập tức  lên đường “. Anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao còn chu đáo hơn nữa, anh sáng tác rất nhiều thơ lục bát về Phật giáo, in thành sách hơn mấy chục tập và biếu không đến người đọc. Anh nói, tôi làm vậy là để có “quỹ” mua vé trước nên tôi biết tôi sẽ “đi” về đâu.

2. Cơ Hội Không Còn…

Tôi vẫn tự trách tôi hoài, về cái tính lần lửa không kết thúc nhiều việc, nhiều chuyện có thể kết thúc được. Việc tôi tự trách tôi lần này khi biết tin Thầy Bích vĩnh viễn vắng bóng liên quan đến công việc tôi đang góp tay với Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn và Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền Đông Hoa Kỳ. Tôi thiết kế hay nói nôm na là “dựng lên” hai cái website ( tiếng Việt mình chưa có nhiều chữ diễn tả cho đúng quá nhiều thuật ngữ kỹ thuật của thế kỷ 21 nên tạm thời có nhiều chỗ tôi phải để nguyên chữ tiếng Anh ở đây.) Ở hai website này, ban chủ trương vẫn mong thực hiện được việc chia sẻ đến người đọc khắp nơi những tin tức, kiến thức, kinh nghiệm hay sáng tác từ những người viết tài tử hay chuyên nghiệp với điều kiện là những bài viết này là những bài viết nguyên thủy từ những người viết mà ban biên tập website biết được tác giả là ai. Nói khác đi, những người trong ban chủ trương muốn thực hiện một  website không cóp nhặt, sao chép tùy tiện.

Tháng trước, tôi có đọc mấy bài viết của Thầy Nguyễn Ngọc Bích, ký tên dưới bút hiệu Tâm Việt.  Và tôi vẫn thường hay gặp Thầy trong những buổi hội hàng tháng của Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn, mà Thầy Bích là Phó Hội Trưởng Ngoại Vụ của Hội. Tôi tự nhủ không có cơ hội nào tốt hơn nữa là gặp Thầy vào phiên hội đầu tháng tới; mời Thầy tham gia, giúp tay, và sau đó được phép chuyển tải các bài viết của Thầy lên  website caoniendc.com hay website quocgiahanhchanhmd.com và thử bàn với thầy về một hướng hợp tác giữa  nhà in của tôi và  Tổ hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ do Thầy chủ trương, nhất là tìm một giải pháp mới cho tình trạng bế tắc về việc phát hành sách báo tiếng Việt tại hải ngoại.

Vậy mà tất cả các dự trù, cơ hội và cái “lợi thế” thiên thời, địa lợi và nhân hòa để có sự hợp tác và giúp tay của Thầy Bích với Hội Cao Niên và Hội Hành Chánh về mặt báo chí và website bỗng nhiên tan biến trong chớp mắt.

Lúc đọc lại  tiểu sử của Thầy Bích về những trách vụ Thầy từng đảm trách lúc sinh tiền, tôi chợt nhớ ra rằng tôi đang đứng trước một  Thái Sơn của làng thông tin báo chí.

Từ 1971 đến 1975, Thầy Nguyễn Ngọc Bích từng là Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại thuộc Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi, Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã, sáng lập viên Viện Đại Học Cửu Long và là sứ giả đặc trách của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu trong cuộc vận động sau cùng với Quốc Hội Hoa Kỳ về viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam.

Năm 1975, Thầy Bích trở lại Hoa Kỳ, quê hương thứ hai của Thầy, từ đó mở ra  chuỗi dài của những hoạt động không ngưng nghỉ trong đủ mọi lĩnh vực  xã hội, chính trị, giáo dục, nhân quyền, dịch thuật, biên khảo, bảo tồn văn hóa Việt ở xứ người. Thầy Bích đã từng nắm giữ những trách vụ cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ như Phó và sau đó Quyền Giám đốc Office of Bilingual Education and Minority Languages Affairs thuộc Bộ Giáo Dục Liên Bang dưới thời Tổng Thống George W. Bush, Giám Đốc Ban Việt Ngữ  Đài Á Châu Tự Do (RFA)  từ  năm 1997 đến 2003.

3. Còn Gì Để Lại …

Quan trọng hơn hết là tinh thần dấn thân của Thầy Nguyễn Ngọc Bích trong rất nhiều công việc liên quan đến cộng đồng Người Việt hải ngoại và những công cuộc đấu tranh hướng về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và tiến bộ.  Người khen, kẻ chê Thầy cũng nhiều, nhưng không ai có thể phủ nhận được tấm lòng và tinh thần làm việc hướng về lợi ích chung cho cộng đồng người Việt của Thầy.

Dấn thân và phục vụ là hai nhân tố căn bản và trọng yếu nhất thể hiện trong đời sống của Thầy Bích. Cũng có thể vì cái gì Thầy cũng muốn làm, chỗ nào Thầy cũng tình nguyện, cho nên những công việc và mục tiêu Thầy theo đuổi cũng trải rộng và do vậy khó lòng nhìn thấy hay lượng định hết những thành tựu hay kết quả đạt tới. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người trong cộng đồng người Việt Hải ngoại đến tuổi 80 còn có được khả năng, sức làm việc và tinh thần hoạt động không ngừng nghỉ cho cộng đồng người Việt như Thầy Bích?

Đối với tôi, Thầy Bích lúc nào vẫn là một người Việt Nam khả kính, đa năng  và đáng quý. Thầy Bích dạy tôi được một bài học căn bản xuyên suốt qua đời sống phục vụ của Thầy cho đến hơi thở cuối cùng  là: Hãy sống bằng trái tim Việt Nam với tất cả tấm lòng dâng hiến.

Xin cảm ơn và vĩnh biệt Thầy Nguyễn Ngọc Bích.

Nguyễn Quang Dũng  (ĐS22)
VA Tháng 3/2016

(Xin bấm vào hình để xem hình ảnh tang lễ GS Nguyễn Ngọc Bích do Phóng Viên Quân Đội Trần Bửu Khánh ghi lại)

 nnb-phuco-web

Views: 311

Hương Nhớ

Luân Tâm

rose-557797

 

Giặc giã qua rồi hương cố nhân
Trắng tay vẫn lạnh bước phong trần
Thanh gươm cổ tích sầu chinh chiến
Vó ngựa già nua bước ngập ngừng

Mắt mỏi trăng sao mộng ước nào
Cũng đành trả sách lại nghìn sau
Con đường mơ ước xa gần mất
Màu áo thương yêu cũng bạc màu

Tóc rụng những đêm thổn thức sầu
Gió khuya sương sớm lắm bể dâu
Dấu chân thơ dại quên hò hẹn
Nửa giận nửa mừng buổi gặp nhau

Dòng sông thề hứa mộng xuân xanh
Áo gấm vinh qui tình trọn tình
Đồng quê mắc cỡ hoa em thẹn
Chiếc nón nghiêng nghiêng ngây ngất nhìn

Mấy kiếp phong sương  mấy dặn dò
Biển xa sông rộng vẫn buồn lo
Người yêu bé bỏng sầu muôn thuở
Khói lửa làm cho lỗi hẹn hò

Nhớ tiếng cười vui như gió xuân
Nhớ bàn tay nhỏ dáng thiên thần
Khói sương thơm tóc mơ tình sử
Giọng nói chim ca bước ngập ngừng

Xa cách muôn trùng tiếng võng trưa
Bờ tre già đổ lá hững hờ
Hè sang cánh phượng ve sầu nhớ
Lớp học thân quen vẫn đợi chờ

Tâm sự trắng đêm đầu bạc đầu
Rượu nào chung thuỷ ấm môi nhau
Tha hương tuyết lạnh vai gầy nhớ
Áo ngủ mong manh giọng ngọt ngào

Có phải hư không những cõi lòng
Vai kề má tựa vẫn xa xăm
Người xưa hận hải mang mang hận
Một kiếp phù sinh mấy nhánh rong

Phân vân lạc lối bướm về đâu
Đêm tối bơ vơ bỗng lệ trào
Thân sao lận đận đường tăm tối
Lỡ bước phong sương lạc áo màu

Nhớ những đêm trăng gác trọ buồn
Lang thang phố nhỏ bước mù sương
Thềm ga vắng đợi con tàu vắng
Gió lạnh đường khuya tủi mặt đường

Gặp gỡ mùa thu áo mộng nào
Hàm răng tình tứ nhớ thương sao
Về mơ sao rụng hôn dòng tóc
Đầm ấm vòng tay thơm má đào

Cười vui chưa trọn giấc mơ hoa
Tiếng quốc thâu canh lẫn tiếng gà
Đường cũ trăng xưa đêm ngại bóng
Thương nhớ điên cuồng nát thịt da

Chén cạn hương thề thơm tóc mai
Nhìn nhau nghi hoặc tiếng thở dài
Buâng khuâng trời nước xanh màu áo
Em vẫn là hoa mộng kiếp nầy

Năm tháng hững hờ đêm nhớ đêm
Hồn thơ tình sử cũng là em
Trời thương màu mắt hiền nguyên thủy
Ai nhớ trần ai ai nhớ tiên

Bồ đào mỹ tưủ nhớ người xưa
Ta cạn thời gian quên gió mưa
Tri âm vẫn đẹp trăng mười sáu
Mây khói bờ vai áo lụa đùa

Mộng thực thiên thu sầu nối sầu
Hẹn hò mấy kiếp nỡ xa nhau
Cải trời dang dở tình rau đắng
Phận bạc lênh đênh gửi chốn nào

Suối cạn khô rồi nước về đâu
Cành rong tiền sử chết phương nào
Xin cho một bóng chim tăm cá
Mang lệ nghìn xưa khóc nghìn sau

Vĩnh biệt lòng đau thực không đành
Hồn đau vương vấn áo em xanh
Xin cho một chút hương chăn gối
Kiếp khác tìm nhau sẵn để dành…

MD 01/01/03
LuânTâm

Views: 331

Năm Thân Nói Chuyện Khỉ

Phạm Thành Châu

nam con khi newTôi viết tào lao về Con Khỉ để quí vị đọc cho vui trong mấy ngày Tết. Phê bình tôi viết thế nầy, thế kia chỉ uổng công quí vị.

Xưa nay, báo chí Việt Nam có một lệ đáng yêu là: Năm Mới, cầm tinh con vật nào thì có một bài giới thiệu thân thế, sự nghiệp của con vật đó. Đồng bào ta, ở Âu, Mỹ vẫn giữ truyền thống sinh hoạt dân gian theo âm lịch. Không ai giỗ chạp theo dương lịch bao giờ. Vong linh những người quá cố chỉ căn cứ vào âm lịch để về với con cháu. Quan trọng nhất là ngày Tết âm lịch, là dịp để mọi người thân đoàn tụ, cúng lễ tổ tiên, lì xì mừng tuổi cho bọn trẻ, ăn uống, vui đùa.

Ở Mỹ, chỉ những tiểu bang đông người Việt, trên tờ “dương lịch” (lịch tây) mới có thêm phần “âm lịch” (lịch ta). Nhưng người bán lịch lại đặt in bên Đài Loan, bên Tàu nên phần âm lịch ghi chữ Tàu. Người Việt sống rải rác các tiểu bang khác chỉ biết có dương lịch, thế nên mới có chuyện vui như sau: “A lô! Chị Loan đó hả? Chúc mừng năm mới!”  “Năm mới gì? Bữa nay đã tháng hai rồi, còn mới mẻ gì nữa?” “Tôi chúc tết Âm lịch đó bà ơi!” “Ủa tết hồi nào vậy? Tôi đi làm, tối tăm mặt mũi. Thôi chết! Lát nữa, đi làm về, tôi phải vất mấy trái quít vô thùng rác. Năm mới xui lắm! ” “Sao vất đi, phí của. Quít có tội tình gì mà kiêng cử?” “Số là thế nầy. Để tôi kể cho bà nghe. Ông xã tôi đi làm mà than cực, than buồn, sợ ổng bỏ việc thì nguy. Không phải chuyện tiền bạc, mà mấy ông về hưu, không biết làm gì, ở không sinh bịnh. Bên Cali. của bà, cứ ra tiệm cà phê thì thiếu khối gì bạn bè để trò chuyện, lại có mấy em bưng cà phê, đưa đùi đưa ngực.”  “Các ông ngắm giải trí thì có liên hệ gì đến mấy trái quít mà đi vất thùng rác.”  “Thôi đi bà ơi! Bộ bà không biết quit là quit job à? Để quít trong nhà là báo điềm ông xã tôi quit job. Thôi! Tôi gọi lại sau nghe.Thằng xếp tới!”

Đồng bào miền Nam chúng ta, tính tình xuề xòa, sinh hoạt cũng xuề xòa. Để mấy trái mãn cầu, dừa, đu đủ, xoài trên bàn thờ thành điều ước cho năm mới. Cầu vừa đủ xài. Họ không cầu mong sức khỏe dồi dào, tiền vô như nước, vạn sự như ý. Tiền nhiều để làm gì mà phải bon chen, giành giật, gian dối? Chỉ cần có chút đỉnh đủ xài mỗi ngày là “an nhiên tự tại”. Về sức khỏe thì khỏi nói. Sống được ngày nào thì nhậu ngày đó. Trời kêu ai nấy dạ. Cũng chẳng thấy ai đứt gân máu, nằm một đống báo hại vợ con. Chỉ thỉnh thoảng có ông, nhậu xỉn, về nhà, giữa đường lủi vô bụi cây rồi khiêng về chôn. Đám ma bao giờ cũng có ca vọng cổ và nhậu. Đó là nói về thời trước 1975. Từ khi đảng và nhà nước Việt Cộng từ miền Bắc tràn vào chiếm miền Nam thì dân miền Nam te tua. Đất ruộng bị cướp, nhà bị chiếm, cơ sở sản xuất, tiệm buôn bị tịch thu. Rồi thêm mấy đợt đổi tiền, dân miền Nam trắng tay. Hàng trăm nghìn gia đình bị tống lên vùng núi rừng cao nguyên, gọi là Kinh Tế Mới, chết dần vì bịnh tật, đói khát. Thêm hàng mấy trăm nghìn quân, cán, chính, thầy tu, nhà buôn miền Nam bị đày ra Bắc, chết liệt địa.

Kể chuyện tết nhất ở miền Nam sau 1975 thì bi thảm lắm. Bi thảm nhất là người dân ở thôn quê, đặc biệt là vùng kinh tế mới. Xin được mấy giòng về xã hội kinh tế mới nghĩ gì, làm gì trong mấy ngày tết? (Tôi đi tù Cộng Sản, không đi kinh tế mới chỉ nhờ đọc báo mà kể lại cho quí vị nghe) Ngày tết, nhà tranh vách lá, trống trước trống sau, gạo không có, nhang tàn, khói lạnh, lấy gì làm lễ vật dâng cúng ông bà, tổ tiên? Họ ước gì? Thời “cầu vừa đủ xài”qua rồi. Ở kinh tế mới, họ tự chúc mình “ác liệt” hơn nhiều. Họ “phát huy sáng kiến”! Một ông tha về một trái xoài, ra chỗ sửa xe đạp lượm cái líp xe (ổ trục sên xe đạp), thêm cái bọt ba ga” (giá chở đồ sau xe đạp) người ta vất đi, đem về để trên bàn thờ, thành câu (tự chúc): “Xài líp ba ga”(xài thoải mái). Một ông thể hiện ý nghĩ tuyệt vọng của mình bằng cách chưng trên bàn thờ một gói tiêu, một tán đường,  thành “Tiêu tán đường.” Một ông khác trình bày tiếng thở dài của mình rất “ấn tượng.” Ông ta để trên bàn thờ một trái đu đủ, một trái điều, một trái bí đao, một trái khổ qua, thành: “Đủ điều đau khổ”. Cha mẹ sinh con thường đặt tên theo ước vọng ở tương lai. Con trai thì Hùng, Dũng, Anh Tài, con gái thì Hoa, Hồng, Ngọc, Ngà, Tuyết. Nhưng những gia đình trên kinh tế mới thì nhìn thấy tương lai đen tối của các con. Một ông sinh được ba đứa con, mỗi đứa có một tên, Tên Xui, tên Tận, tên Mạng. Một ông y tá ”ngụy”đặt tên con. Một đứa tên Hết, một đứa tên Thuốc, một đứa tên Chữa. Thật “Hết thuốc chữa!” Những ngày lễ lớn của đảng ta, dân kinh tế mới được tập họp lại để học tập Mừng đảng, ơn bác. Lại được ca hát cho thêm hồ hởi, phấn khởi (chới dới, bứt gân!). Có câu hát “Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác.” Dân ngồi dưới (đất) thì thầm với nhau: Con đường bác đi là con đường bi đát”

Bây giờ nói về năm Thân, tức là năm Con Khỉ. Tôi có kể cho bạn nghe một chuyện vui, bây giờ nhắc lại. Có một ông có bồ, kiểu sáng chở cơm đi ăn phở, trưa chở phở đi ăn cơm” (cơm là vợ, phở là bồ). Phải dấu kỹ! Vậy mà một sáng chủ nhật, cô bồ mò đến nhà ông ta. Thấy từ xa, ông ta hoảng kinh, chạy ra chận lại. Đi ngay.Trong nhà có con khỉ già ngồi trong đó! Con khỉ già là mụ dzợ ! Một chuyện khác, thuộc loại phản động, chỉ có người Bắc, thâm thúy và cay đắng mới nghĩ ra: Một cậu bé hỏi cô giáo: Thưa cô, Bác Hồ nóiTổ tiên ta là loài khỉ. Có đúng không ạ? “Đúng rồi! Tổ tiên bác Hồ là loài khỉ.” Và cô hỏi cả lớp: Có em nào trông giống bác Hồ không? Dạ không!

Trở lại với con khỉ. Các nhà sinh vật học chia các loài động vật thành nhiều chủng loại để dễ nghiên cứu. Loài gặm nhấm có chuột, thỏ.Loài có móng như trâu, bò. Có loài được gọi là thượng đẳng” (primates) gồm ba giống là khỉ (monkeys), giả nhân (apes) và loài người. Charles Darwins, người Anh, cho rằng: Khỉ tiến hóa thành người. Chỉ mấy ông bà vô thần cộng sản mới tin chứ chẳng ai tin. Vì trong các hóa thạch, chẳng thấy sinh vật trung gian nào giữa khỉ và người, chứng minh rằng khỉ tiến hóa thành người. Vả lại, bộ óc khỉ rất nhỏ so với óc người, không có hóa thạch khỉ trung gian”nào có bộ óc lớn gần với bộ óc người. Mà cũng chẳng thấy con khỉ nào trong rừng hay trong sở thú tiến hóa dần để thành con người. Chỉ có trong truyện Chiêu Quân Cống Hồ”của mấy chú chệt, vua phịa, rằng: Có ông Tô Vũ, làm quan nhà Hán (đầu Công Nguyên), đi sứ vào nước Hung Nô (rợ phương bắc nước Tàu) bị vua Hung Nô cho bốn “lịnh” (mỗi lịnh ba năm) tập trung cải tạo lên vùng sa mạc hoang vu, chăn mấy trăm con dê. Đến mùa đông tuyết phủ, vì đói và lạnh, Tô Vũ ngất xỉu. Tỉnh dậy, thấy có con khỉ cái đang đốt lửa cho ông ta sưởi, còn cho ăn, săn sóc tận tình. Thế là họ có với nhau bốn người con. Mười năm sau, xét thấy đương sự học tập tốt, lao động tốt, yên tâm cải tạo,vua Hung Nô tha về sum họp với gia đình, trở thành công dân chân chính, góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng. Thời đó không có cell phone, không có camera nên không thể chụp hình bốn đứa nhỏ, con của Tô Vũ hình dáng, mặt mũi ra sao? Ở miền Nam ta, trước 1975, báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà có đăng chuyện Người Lấy Khỉ”, rất hấp dẫn, báo in ra bao nhiêu, người ta xúm nhau mua đọc. Các báo khác ế nhè, bán không được tờ nào. Giận quá, các báo làm phóng sự, phịa lai lịch bà Bút Trà, bảo rằng Bà Bút Trà là con của ông người”với bà khỉ”đó.

Có Mấy Loài Khỉ? Nhiều vô số. Từ con khỉ nhỏ cỡ ngón chân cái đến con giả nhân, khỉ đột, cao to, nặng hàng trăm ký lô. Tôi thấy có hai loại khỉ. Loại có đuôi và loại không đuôi. Loại không đuôi thì quí vị có thấy rồi. Lúc nhỏ tôi nghe mấy ông kể chuyện Trong rừng có con đười ươi, người đi rừng bị đười ươi bắt được thì nó cầm hai tay người đó cứng ngắt rồi ngửa mặt lên trời, nhắm mắt, nhe răng cười suốt ngày cho đến khi mặt trời lặn thì moi ruột người đó ăn. Vì thế, người đi rừng phải thủ sẵn hai ống tre. Thấy đười ươi thì xỏ tay vô ống tre, đưa cho nó nắm, chờ khi nó nhe răng, nhắm mắt cười thì rút tay ra khỏi ống tre, bỏ chạy. Đó là chuyện xưa. Bây giờ ở Việt Nam, vô phước cho con đười ươi nào gặp mấy ông đi rừng thì chính mấy ông đi rừng đó nhe răng, nhắm mắt cười với nhau rồi móc ruột đười ươi ra nấu lẩu, đưa cay cũng được mấy xị. (Thế nên, vừa rồi, báo chí ở Việt Nam có đăng tấm hình một con đười ươi đưa hai tay có xỏ ống tre cho mấy ông đi rừng cầm, chờ mấy ông đó nhe răng, nhắm mắt cười là rút tay của nó ra, bỏ chạy). Tôi có thấy mấy tấm hình chụp một con khỉ bị người ta giết, cạo lông, để nằm chờ xẻ thịt, trông giống hệt đứa bé chết nằm đó.

Ở Châu Phi, vẫn còn những phiên chợ bán thịt rừng phơi khô, có bán khỉ khô, là khỉ nguyên con, phơi khô. Con khỉ khô nhe răng, tứ chi co rút lại như xác ướp. Người mua chỉ việc lột da, xé ăn, khỏi nấu nướng. Người Việt mình chưa hề thấy con khỉ khô xấu xí cỡ nào, nhưng có lẽ quí vị từng nghe đối đáp giữa cậu và cô như sau: Em yêu anh không?”Yêu cái con khỉ khô!” (Thà yêu con khỉ khô còn hơn yêu ông”). Vì ăn khỉ khô kiểu đó mà người châu Phi bị bịnh Ếch nhái”AIDS. Virus HIV (bịnh liệt kháng) tìm thấy trong khỉ đuôi xồm và khỉ mũi đốm. Virus Ebola (sốt xuất huyết không chữa được) và bệnh đậu khỉ (monkey pox) cũng do mấy ông bà ăn khỉ khô mà các bịnh đó lan tràn ra khắp thế gian. Ở Việt Nam, thời còn phe xã hội chủ nghĩa, Liên Xô nghiên cứu vũ khí hóa học hay chiến tranh vi trùng”gì đó phải dùng khỉ làm mẫu (vật thí nghiệm). Có lẽ là chất kịch độc, sợ thí nghiệm ở bên Liên Xô, rủi có chuyện gì xảy ra thì dân Nga lãnh đủ, nên các khoa học gia Liên Xô đem qua Việt Nam thực hiện thí nghiệm, có nguy hiểm, chết chóc do vi trùng hay chất độc thoát ra ngoài thì dân Việt chết, ráng chịu. Hiện nay mấy con khỉ làm vật thí nghiệm đó tồn tại” trên một hòn đảo ở Nha Trang, gọi là đảo Khỉ.

Đừng khinh loài vật sống theo bản năng, không suy nghĩ. Năm 1990, Christophe Boersch quan sát một bầy hắc tinh tinh ở rừng Tai, thuộc xứ biển Ngà. Chúng thường đập những trái cây có vỏ cứng bằng một hòn đá trên gốc cây. Một con khỉ con đập mãi không được, mẹ nó đến, xoay cạnh hòn đá thì đập được, lấy ruột của quả cho con ăn. Năm 1953, tại đảo Koshima (Nhật), ông Masao Kawai thấy một con khỉ cầm củ khoai dính đầy đất bẩn đem ra một dòng nước rửa sạch mới ăn. Sau bốn năm, phân nửa bầy khỉ đem khoai đi rửa trước khi ăn. Quí vị xem TV thường thấy cảnh mấy con khỉ dùng một cọng cỏ, đút vào lỗ của ổ kiến hoặc ổ mối rồi kéo ra. Kiến, mối bu vào, khỉ bỏ cọng cỏ vào mồm, ăn chúng. Con rái cá, mò mấy con sò dưới sông, nằm ngửa trên mặt nước, để con sò trên bụng, dùng con sò nầy đập lên con sò kia cho bể vỏ sò, lấy thịt ăn. Thú vật thường đùa giỡn nhau là thường. Có một con quạ có trò chơi rất lý thú. Mùa đông, tuyết phủ mái nhà, nó lấy cái lá hay gì đó, để trên nóc nhà rồi đứng lên trên. Cái lá (có con quạ trên đó) trượt trên tuyết xuống phần thấp của mái nhà. Con quạ chơi trò trượt tuyết như người. Chưa hết. Nó ngậm cái lá đó, đem lên nóc nhà, lại đứng lên lá và trượt tuyết tiếp. Con quạ, tuy vậy không khôn bằng con vẹt. Nó biết nói, biết suy diễn theo Tam đoạn luận”đàng hoàng. Chuyện như thế này. Có cô gái nuôi một con vẹt. Nhà không có ai, cô tắm xong, chả mặc áo quần, cứ thế thổn thệnh đi khắp nhà. Con vẹt nghiêng đầu nhìn và kêu lên:Thấy hết rồi nghe!” Lần nào cũng lải nhải câu đó khiến cô gái bực mình vặt trụi lông đầu con vẹt. Từ đó con vẹt chỉ ngắm mà không dám nói. (Tam Đoạn Luận tập 3, trang 50 chỉ rõ: Thấy thì làm thinh mà ngắm. Ngắm thì đừng nói. Nói thì bị vặt lông” ?!). Một lần có nhà sư vào nhà cô gái. Thấy đầu nhà sư không có tóc, con vẹt ngạc nhiên, hỏi Ủa! Thầy cũng thấy hết rồi sao?” Tôi ước được làm con vẹt đó. Nhưng miệng, lưỡi dùng vào việc khác. Dại gì nói để bị vặt lông.

Năm Khỉ, nhiều vị kể chuyện Tôn Ngộ Không, một con khỉ có tài thần thông biến hóa, theo phò Tam Tạng qua Ấn Độ thỉnh kinh Phật về Tàu. Có vị kể chuyện bà Từ Hi thái hậu đãi sứ thần tám nước Âu Mỹ, có món óc khỉ. Mấy chuyện bên Tàu đó, xưa rồi, ai cũng biết.

Tôi xin kể chuyện bên Ấn Độ, ít người biết. Người Ấn thờ hàng trăm,hàng nghìn thần. Thờ từ vật vô tri đến súc vật. Họ thờ thần bò. Mấy con bò đi nghênh ngang có khi nằm nghỉ ở ngã ba, ngã tư, người phải tránh ngài”. Ngài bò có đến các sạp rau quả xơi hết cũng phải kính cẩn đứng nhìn, không được xua đuổi. Tôi xem phóng sự thấy có đền thờ chuột. Chuột bò đầy trong đền, trên bàn thờ, trên cột đền trông thật dơ dáy. Tôi xem mà ghê người, tưởng như ngửi được mùi hôi thối của phân chuột. Người giữ đền có bổn phận nuôi chúng. Buổi sáng, ông ta bưng một khay sữa vào cho quí ngài chuột điểm tâm… Tại sao phải thờ súc vật? Người Ấn tin rằng. Mỗi con vật có thể là hiện thân của ông thần nầy hoặc bà thánh kia. Họ còn tin rằng có thể đó là tổ tiên, ông bà của họ, chết đi, đầu thai thành súc vật.

Vì là bài viết về con khỉ nên tôi xin mấy dòng về tục thờ khỉ ở Ấn Độ. Theo truyền thuyết, tại xứ Kishkinda, một vương quốc khỉ bên Ấn Độ, có một tướng khỉ, tên Hanuman, rất tài giỏi và nhiều phép thần thông. Có lần, Hanuman chơi nghịch, ngậm  cả mặt trời khiến khắp nơi tối thui, người ta phải năn nỉ Hanuman mới nhả mặt trời ra. Hanuman có thể biến thành to lớn, khổng lồ hoặc tự thu nhỏ bằng ngón tay. Về võ thuật, Hanuman có thể phóng lên mây, nhảy một cái xa ngàn dặm. Hanuman, chỉ với một tay, bưng nguyên một quả núi với đầy đủ cây cối trên đó. (Trong Tây Du Ký, tác giả đã chế biến thần Hanuman của Ấn Độ thành con khỉ Tôn Ngộ Không của Tàu. Thì ra, làm hàng giả, ăn cắp bản quyền của người ta (không chỉ hàng hóa mà cả trong văn hóa, nghệ thuật!) đã là bản chất chệt, có tự ngàn xưa rồi!) Vì tin chuyện thần thoại đó là có thật nên dân Ấn Độ làm tượng thờ khắp nơi. Quí vị du lịch Ấn Độ ắt thấy nhiều tượng thần khỉ Hanuman ở các công viên, nơi công cộng. Ở đâu tượng thần khỉ Hanuman cũng cao lớn, có đuôi dài, tay phải cầm cây trùy, tay trái bê quả núi. Dân Ấn tin rằng, khỉ là hiện thân của thần Hanuman nên lập nhiều đền thờ và nuôi khỉ. Ở New Delhi, khỉ có mặt khắp nơi, nhất là khu đồi Raisina. Khỉ nhảy nhót, leo trèo, phá phách trên đường phố, cướp giật hàng hóa, lục giỏ xách người đi chợ. Có con leo cột đèn, bị điện giật chết, người ta phải tổ chức lễ an táng ngài” thật long trọng. Có đánh trống, thổi kèn như đám ma của người Tàu ở Chợ Lớn (nhưng không thổi bài Love Story như đám ma của mấy chú thiếm Chợ Lớn). Đạo quân (Tam phủ) khỉ phá quá! Chịu hết nỗi, tòa án ra lịnh dời đền khỉ vào rừng, cấm không cho khỉ ăn nhưng chẳng ai dám động đến quí ngài khỉ, và vẫn cung phụng ngày ba bữa, tắm rửa thoải mái cho quí ngài. Đúng là trò khỉ!

Ở Việt Nam ta có tương truyền rằng mẹ ông Mạc Đỉnh Chi vào rừng bị khỉ hiếp, sinh ra ông, người nhỏ, tướng xấu xí, chân tay dài thòng, mắt láo liên như con khỉ nhưng rất thông minh. Ông thi đậu tiến sĩ, được nhà vua cử đi sứ sang Tàu. Nhân khi công chúa (Tàu) chết, vua Tàu muốn thử tài sứ Mạc Đỉnh Chi nên đề nghị ông làm một bài văn tế về cái chết của công chúa với chỉ một chữ Nhất. Trạng Mạc Đỉnh Chi hạ bút ngay:

Thiên hương nhất đóa vân.

Hồng lô nhất điểm tuyết.

Thượng uyển nhất chi hoa.

Giao trì nhất phiến nguyệt.

Ô hô!

Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết

(Trên trời một áng mây/ Lò hồng một giọt tuyết/ Thượng uyển một cành hoa/ Giao trì một vầng nguyệt/ Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết).

Quá hay!

Để chấm dứt bài nầy, tôi xin kể chuyện đức Phật, trong một lần thuyết pháp, có nhắc đến con khỉ để nêu một ẩn dụ: Trong kinh A Hàm có chép, Phật kể đại ý rằng: Có người thợ săn lấy nhựa cây gài bên thức ăn để nhử đàn khỉ. Có con khỉ đến bốc thức ăn, ngờ đâu dính nhựa cây, không gỡ ra được. Khỉ lấy tay kia gỡ ra, lại bị dính vào, khỉ lấy hai chân gỡ ra, cũng bị dính nốt. Khỉ dùng đuôi gỡ ra, cũng bị dính. Sau cùng khỉ dùng miệng cạp, cũng dính luôn. Thợ săn chỉ việc đến bắt khỉ. Đức Phật dạy: Này các tì kheo. Nhựa cây kia ví như lục dục, sáu bộ phận bị dính vào nhựa ví như lục căn. Như chú khỉ kia, khi lục căn bị dính vào lục dục thì sẽ bị ma quỉ tùy ý dẫn đi”.

Tuoi-Than

Phạm Thành Châu

Views: 614

Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Florida Tổ Chức Họp Mặt Liên Khóa 2016

Xin mời theo dõi các thông báo dưới đây của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Florida về việc tổ chức Họp Mặt Liên Khóa 2016 tại Florida, Hoa Kỳ.

Mọi việc liên quan đến Họp Mặt Liên Khóa CSV QGHC 2016 tại Florida, xin vui lòng liên lạc trực tiếp với Hội CSV QGHC Florida.

Phiếu ghi danh có thể tải xuống máy của bạn bằng cách bấm vào nút “download” ở phần dưới cùng của trang thông báo (chổ có mũi tên chỉ xuống, gần chữ “zoom 100%  secure“)

Views: 534

Đợi Chờ

Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng, điểm phấn trang hồng với ai?
Chinh Phụ Ngâm

Vũ Bá Hoan

doicho image

1-

Ánh nắng của buổi sáng sớm mùa hè, xuyên qua kính cửa sổ, chiếu dọi lên bức tường trong phòng ngủ vợ chồng Hoàng, khiến căn phòng trở nên sáng rực, và làm Hoàng tỉnh thức sau một giấc ngủ nướng. Thỉnh thoảng một luồng gió nhẹ thổi qua, đem theo mùi hương thơm thoang thoảng của cây hoa hoàng lan trồng ngoài vườn bên cạnh cửa sổ, tràn vào phòng ngủ, làm Hoàng cảm thấy khoan khoái dễ chịu sau một đêm ngủ đẫy giấc. Ngoài vườn, tiếng chim hót líu lo trên cành cây như chào đón ánh nắng ban mai của một ngày hè đẹp trời, khiến Hoàng nhớ đến bài hát “Hè Về” của Hùng Lân, anh cao hứng hát nho nhỏ: “Trời hồng hồng, Sáng trong trong. Ngàn phượng rung nắng ngoài song. Cành mềm mềm, gíó ru êm. Lọc mầu mây bích.ngọc qua mầu duyên… Đàn nhịp nhàng hát vang vang. Nhạc hòa thơ đón hè sang “. Hôm nay là ngày thứ bẩy, ngày cuốí tuần, Hoàng được nghỉ. Mặc dù đã 9 gìờ sáng, nhưng Hoàng vẫn không muốn ra khỏi giường, anh nằm nán lại để thư giãn bắp thịt  trong thân thể và như để đền bù vào những buổi sáng trong tuần, anh phải dậy sớm vào lúc 5 giờ  sáng để sửa soạn đi làm. Vợ Hoàng đã thức dậy từ sáng sớm, và đã ra khỏi nhà để đến sở làm vào lúc 6:30 . Ba đứa con ở tuổi teenage của vợ chồng Hoàng vẫn đang say sưa giấc điêp trong các phòng ngủ riêng của chúng. Căn nhà yên tịnh, ngoại trừ, thỉnh thoảng tiếng “tính, tình, tang, tình “   từ chiếc đồng hồ Grandfather ở phòng khách, đánh vang lên mỗi khi đổi giờ.

Vẫn nằm dài trên giường, Hoàng xoay nghiêng người, với tay lượm tờ báo Việt ngữ trên sàn nhà mà vợ anh đã đọc và vất xuống đó từ tối hôm qua, trước khi nàng đi vào giấc ngủ. Hoàng vừa mới đưa mắt lướt qua những tít trên trang nhất của tờ báo, thì tiếng điện thoại reọ, anh đưa tay nhắc ống liên hiệp ở chiếc điện thoại đặt trên nightstand cạnh đầu giường:

– Allo. Hoàng tôi nghe.

– Tôi, Hải đây.

–  Chào ông.

– Cậu có rảnh không? Đến tôi chơi, tôi có chút việc muốn nói với cậu.

– Có chuyện gi quan trọng không, thưa ông?

-Thì cứ đến, rồi sẽ biết.

Hoàng chần trừ một giây, rồi trả lời:

-Tôi sẽ đến vào lúc 11:00 giờ.

Ông Hải là cựu Thiếu Tá, Quận Trưởng. và là xếp cũ của Hoàng khi anh vừa mới tốt nghiêp ban Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, về nhận chức vụ Phó Quận Trưởng Hành Chánh vào đầu năm 1966 tại một quận thuộc tỉnh Phong Dinh. Cuối năm 1967, sau khi được vinh thăng Trung Tá, ông Hải thuyên chuyển về Saigòn, và kể từ đó, Hoàng không có dịp gặp lại ông. Khi còn làm việc chung ở quận, cách xưng hô giữa hai người theo chức vụ. Hoàng gọi ông Hải là Thiếu Tá, ông Hải gọi Hoàng là ông Phó Hành Chánh. Kể từ ngày gặp lại nhau trên đất nước Cờ Hoa – khi mà” hia mão “ và “ấn tín” của hai người đã rớt xuống Thái Bình Dương,  trong lúc bỏ của chạy lấy người, leo lên  tầu chạy trốn Việt Cộng –  họ đã thay đổi cách xưng hô. Ông Hải hơn Hoàng 15 tuổi, nên ông coi Hoàng như người em. Cùng chạy Cộng Sản sang Mỹ vào thời điểm miềm Nam rơi vào tay Cộng Sản hồi cuối tháng 4 năm 75 , Hoàng và ông Hải, như có duyên tiền định sống gần nhau, nên hai người  đã “tái ngộ” sau cuộc “ biển dâu “, và cùng định cư tại vùng Alexandria, tiểu bang Virginiạ, Hoa Kỳ

Vừa mở cửa bước vào trong nhà, Hoàng đã thấy ông Hải ngồi trên ghế đợi anh ở phòng khách, trước mặt ông, trên mặt bàn, có một bao thư. Ông Hải đưa tay ra dấu mời Hoàng ngồi xuống chiếc ghế đối diện ông:

– Cậu ngồi xuống đây, uống nước trà nóng.

Hoàng vừa kéo ghế ngồi, vừa hỏi ông Hải:

– Có chuyện gì vậy ông?

Ông Hải yên lặng, không trả lời ngay câu hỏi của Hoàng, cầm bình rót nước trà nóng mời Hoàng uống. Sau đó, ông cầm bao thư trên mặt bàn đưa cho Hoàng:

– Cậu có thư của người ở Việt nam mới qua gửi cho cậụ

Hoàng đưa tay đỡ lấy bao thư, và trước khi mở thư ra đọc, anh cầm chung trà nóng tỏa mùi hoa nhài thơm ngát, uống một hớp, nước trà nóng trôi qua cuống họng, Hoàng cảm thấy hơi đăng đắng; nhưng sau vài giây, anh laị cảm thấy vị ngọt đọng lại ở cổ. Hoàng nói:

– Trà này uống lúc đầu thấy đắng, nhưng một lúc sau lại có vị ngọt.

Ông Hải cầm bình trà rót thêm vào chung cho Hoàng :

–  Người ghiền và sành uống trà thì phải loại trà này mới ngon. Chính ra phải dùng nước mưa để pha trà, thì hương trà mớí giữ được nguyên chất, nước trà mới ngon. Không có nước mưa, tôi dùng nước máy để pha trà nên đã làm giảm mất phần nào hương trà.

Nhìn nét chữ viết tay ngoài bì thư đề tên ông Nguyễn Văn Hải, Hoàng thấy hơi quen, nhưng không biết là của ai, vì ngoài bì thư không có tên người gởi, mà chỉ có địa chỉ. Anh nói với ông Hải :

-Thư này gởi cho ông, chứ đâu phải cho tôi.

-Cậu cứ mở thư ra đọc thì sẽ biết.

Hoàng rút bức thư từ trong phong bì, mở ra đọc:

Ngày..  tháng .. năm ….

   Kính thăm bác,

 Thưa bác, nhìn ngoài bì thư, chắc bác đã đoán ra được cháu là con bé nào rồi! Cháu là con bé Thu, con của ông Trung Tá Nhân, bạn của bác đó bác. Cũng đã gần 20 năm rồi, chắc bác không còn nhớ đến cháu đâu; nhưng cháu thì nhớ rõ bác lắm. Bác bây giờ có lên được cân nào không? hay bác vẫn cao, vẫn gầy, vẫn khắc khổ như những ngày ở quê hương cũ? Hồi còn ở Viêt Nam, sau khi đi tù cải taọ về, Ba cháu thường nhắc đến bác luôn, ông thường kể những kỷ niệm hồi ông và bác làm việc ở cùng một đơn vị.

 Cách đây mấy bữa, cháu ghé thăm ba má cháu, và má cháu cho cháu hay ba cháu mới nhận được thư bác. Không biết vô tình hay cố ý, má cháu có tiết lộ một chút xíu, môt chút xíu thôi về tình trạng của một người mà cháu quí mến nhất, kính trọng nhất, người ấy luôn luôn ở trong lòng cháu bao nhiêu năm dàị, cháu muốn nói anh Hoàng, anh Hoàng làm Phó Quận Trưởng dưới quyền bác hồi còn ở Việt Nam, mà bác đã nói đến anh ấy trong thư gởi cho ba cháu, đó bác!.

 Cháu thật không ngờ, anh ấy vẫn còn sống và đã ở đây, an toàn trong gần 20 năm! Khi cháu nghe má cháu nói: “Thằng Hoàng và ông Hải chạy cùng một lượt vào cuối tháng 4/75 và hiện đang ở gần nhau, tiểu bang Virginiạ”. Cháu nghe vậy, nhưng không nói câu nào, phải nói là chưa nóí câu nào, thì bà lại tiếp theo một câu ngắn luôn “ thằng Hoàng  “bồ” của mầy hồi còn ở Việt Nam đó “. Cháu vừa nghe bà nói vậy, thì lặng người đi, cháu cảm thấy như có ai thò tay vào vặn trái tim cháu vậy! Viết đến đây cháu cảm thấy hai tay cháu run lên. Đêm đó cháu không ngủ được, cháu khóc rất nhiều, những giọt nước mắt sung sướng, vui mừng, những giọt nước mắt buồn tủi, uất ức. Cháu mừng vì anh Hoàng vẫn còn sống, cháu càng mừng hơn nữa là anh ấy không hề chịu một sự cực khổ đọa đầy trong trại cải tạọ. Cháu đau đớn, uất ức vì cháu đã chờ đợi anh trong gần 10 năm dài! Lúc ấy cháu nghĩ chắc anh đang ở trong trại cải tạo, nhưng cháu chờ đợi mãi vẫn không thấy một cái thư nào. Ngày nào cháu cũng nghĩ mình sẽ có thư của anh ấy, có tin của anh ấy. Cháu khổ biết bao, khóc bao nhiêu lần trên gối; mơ thấy mình sục sạo tìm kiếm anh ấy khắp nơị. Cháu vẫn mơ thấy anh Hoàng; cũng như mơ thấy cháu đi về chốn cũ để tìm gặp anh ấy rất thường, rất thường. Nói một cách thật lòng với bác, ảnh như cái bóng ma ám ảnh cháu suốt mười tám năm nay! Trong gần mười năm chờ đợi ảnh, cháu đã không care đến bề ngoài của mình nữa. Cháu có nhờ những người quen cũng đi tù, lục tìm tên ảnh trong các traị cải tạo. Nhưng …. sau cùng, cháu đã phải nghĩ anh ấy đã chết rồi, hoặc là trong những ngày ly loạn, hoặc là trong trại cải tạo nào đó. Vì có lý nào anh ấy không viết cho cháu một cái thư trong bao nhiêu năm. Cháu vẫn mơ thấy anh luôn, rất thường xuyên cháu thấy anh đến đón cháu đi chơi. Có lúc cháu đợi, mà không thấy anh tới. Cháu đã không mơ nữa cách đây 3 tuần, cháu đã không thấy anh ấy trong mơ nữa, mà trong lòng cháu muốn gặp  anh, hay it ra nói chuyện trực tiếp vớí ảnh, để hỏi anh, tại sao lại đối xử độc ác với cháu như vậy ? . Cháu vẫn cầu nguyện Bề Trên cho cháu một cơ hội được gặp lại anh ấy một lần cuối ở một chốn nào đó, dù là cõi chết, để hỏi anh một vài điều: anh đã làm gì, anh đã ra sao trong bao nhiêu năm nay?

 Thưa bác, sở dĩ cháu phải nóí với bác nhiều như vậy, cháu chỉ mong bác giúp cháu một chuyện mà thôi: cháu xin bác cho cháu biết địa chỉ của anh Hoàng, cháu chỉ muốn hỏi anh “tại sao”.  Cháu muốn ảnh cho cháu một lời giải thích. Và cháu muốn nói với anh rằng trong lòng cháu rất đau đớn. Rồi sau khi đã make clear xong mọi điều uất ức mà cháu để  trong lòng hơn 18 năm, cháu nghĩ rằng sẽ để anh lại behind mà sống cuộc đời bình thường của cháu, cuộc đời mà lẽ ra cháu phải có cách đây 18 năm !

Bác ơi! Cháu đã trải hết lòng mình cho bác thấy, bác hiểụ. Điều này sẽ không hề xẩy ra nếu cháu còn 18 tuổi, nhưng nay cháu đã già rồi, cháu biết cháu đang làm gì. Xin bác viết cho cháu vài hàng hay gọi điện thọai cho cháu. Cháu rất muốn gọi điên thoại cho bác, nhưng cháu không có số phone của bác.

 Xin bác liên lạc với cháu sớm lúc nào hay lúc ấỵ. Cháu rất cám ơn bác.

 Địa chỉ của cháu :——————

 Số phone nhà  cháu : ————-

 Xin bác gọi điện thọai cho cháu vào ngày thứ bẩy, cháu chờ tin bác nghe bác.

                                                                                                   Cháu ,

                                                                                          Nguyễn thi Anh Thu

 Đọc xong bức thư, Hoàng rất xúc động, ngồi yên lặng như người mất hồn, mặt anh trở nên thẫn thờ, xa vắng …  Hoàng không ngờ Thu đã qua Mỹ và đã tìm đươc anh. Từ ngày lâp gia đình khi mới qua Mỹ năm 1975, Hoàng đã cố gắng quên hình bóngThu trong dĩ vãng để sống trọn vẹn với tình yêu của người vợ ngoan, hiền hiện tại. Anh không bao giờ nghĩ có ngày sẽ gặp laị Thu, vì trong cảnh hỗn loạn, khi bỏ nước chạy trốn Việt Cộng ngày 30-4-75, kẻ ra đi, người ở lại, cách nhau nửa vòng trái đất, không biết bao giờ mới gặp lại được nhau. Giờ đây, trong phút chốc, tất cả những kỷ niệm của  thời hoa niên và hình bóng Thu, cùng mối tình dang dỡ với nàng, đã chôn vùi trong ký ức Hoàng gần 20 năm, nay đột nhiên bùng dậy như một  thước phim  sống động diễn ra trước mắt Hoàng.

2-

Sau tết Mậu Thân1968, lệnh tổng động viên được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành. Tất cả những sinh viên thuộc 14 phân khoa của viện đaị học Saigòn, và công tư chức có bằng Tú Tài trở lên, thuộc lớp tuổi từ 20-25 đều phải nhâp ngũ khoá sĩ quan trừ bị Thủ Đức ( khóa 1 hoặc 2/68) .Sau vụ tổng công kích Tết Mậu thân của Việt Cộng, chiến sự miền Nam càng ngày trở nên khốc liệt. Nhu cầu chiến trường cần thêm nhiều sĩ quan và binh sĩ để đốí phó với  những trận chiến khốc liệt do Cộng Sản Bắc Việt đưa quân vào đánh phá khắp 4 vùng chiến thuật.

Lần đầu tiên trong lịch sử trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, các tân binh sĩ quan được đưa đến huấn luyện quân sự taị Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, nơi huấn luyện các tân binh quân dịch (trước đây, từ khoá 1 đến khóa 27, các tân binh sĩ quan được huấn  luyện tại trường Bộ Binh Thủ Đức). Hơn một ngàn tân binh sĩ quan chia thành hai tiểu đoàn: Khóa 1/68 thuộc Tiểu Đoàn Nguyễn Huệ; khóa 2/68 thuộc tiểu đoànTrần Bình Trọng . Cả hai khóa được huấn luyện cùng lúc trong 9 tuần lễ về căn bản quân sự của người lính tác chiến, đây là giai đoạn 1. Sau kỳ thi sát hạch giai đoạn 1, những tân binh sĩ quan đủ điểm, được gởi đến trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, học tiếp giai đoạn 2 thêm 6 tháng nữa, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy Những tân binh sĩ quan không đủ điểm trong kỳ thi sát hạch giai đoạn 1, được đưa ra trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế Nha Trang thụ huấn, ra trường vớí cấp bậc Trung Sĩ.

Hoàng vâng theo tiếng gọi Tổ Quốc, nhập ngũ khoá 2/68 sĩ  quan  trừ bị Thủ Đức, đã đủ điểm trong kỳ thi sát hạch giai đọan 1, được đưa qua trường Bộ Binh Thủ Đức học tiếp giai đoạn 2. Sau khi tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy,bộ Quốc Phòng trả Hoàng về bộ Nội Vụ, và anh được  bổ nhiệm làm trưởng ty Kinh tế tỉnh Gò Công.  Nơi đây anh đã gặp và yêu Thu. Hoàng yêu Thu không phải chỉ vì sắc đẹp mộc mạc không son phấn của Thu mà còn vì Thu có một tâm hồn phong phú hơi lạ thường . Anh có cùng một quan điểm với Trương về tình yêu đối với người con gái : “ Yêu một người con gái chỉ đẹp thôi,không có một tâm hồn phong phú hơi lạ thường, thì tình yêu ấy chỉ là vật chất tầm thường “ ( Trương là nhân vật trong tiểu thuyết Bướm Trắng của Nhất Linh ) .Mối tình của hai người đã gắn bó thắm thiết, với những mộng ước xây đắp cho tương lai. Hoàng chờThu ra Trường Dược,anh sẽ cưới Thu .Hiện tại anh mới chỉ “cầu  hôn “với Thu bằng hai câu thơ mà anh đã ghi vào trang đầu cuốn nhật ký của Thu :Lậy Trời! Thu mãi chung tình. Khi em thôi học, chúng mình lấy nhau”. Nhưng định mệnh và duyên số của Hoàng và Thu đã cùng nổi trôi theo vận nước vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, ngày  Bắc Cộng bức tử  Việt Nam Cộng Hoà, đồng thời cũng là ngày bức tử mối tình giữa Hoàng và Thu .

3-

Năm Hoàng quen Thu, nàng vừa tròn 18 tuổi, đang học đệ nhất ban A taị trường công lập Gò Công.  Dáng người Thu nhỏ nhắn, đầy đặn, nước da trắng hồng, khuôn mặt trái xoan, khi cười để lộ đôi hàm răng trắng đều như những hạt bắp. Thu thường nhéo yêu vào cánh tay Hoàng mỗi khi anh đọc câu thơ cuả Lưu Trọng Lư (?) để khen ngợi đôi mắt to tròn, đen láy, long lanh dưới cặp chân mày lá liễu của Thu: “Mắt em là một gìòng sông. Thuyền ta bơi lội trong giòng mắt em.”

Là nữ sinh của một tỉnh nhỏ thuộc miền Tây Nam Phần, mặc dầu gia đình khá giả, nhưng Thu ăn mặc rất giản dị, khi đi học, nàng thường mặc đồng phục áo dài trắng, như những nữ sinh đồng trang lứa với nàng.Thu là người con gái rất đa cảm, rất dễ xúc động trước cảnh thương tâm. Một hôm  nhìn thấy những người lính Địa Phương Quân bị thương nặng trong cuộc giao tranh với Việt Cộng ở chiến trường, được tải thương vào Quân Y Viện Gò Công, mắt nàng đã nhỏ lệ xót thương họ. Có lẽ vì bản tính đa cảm của Thu nên nàng thích mầu tím. Mỗi khi đi chơi với Hoàng nàng thường mặc áo dài màu tím hồng và quần trắng, trên đầu thắt chiếc Headband vải đồng mầu với chiêc áo dài mầu tím. Cách trang phục này, trông Thu chững chạc và đẹp thêm ra. Thu để tóc xõa xuống bờ vai, và hương thơm thoang thoảng mùi bồ kết gội đầu tỏa ra từ tóc Thu, khiến Hoàng nhớ đến hai câu thơ mà anh đã đọc khi còn học trung học: “Có ai bên cửa ngồi hong tóc. Để chảy lan thành một suối hương”.

Vào những ngày thứ bẩy cuốí tuần, Hoàng thường đến xin phép ba má Thu để chở nàng đi chơi. Hoàng đã tỏ ý với ba má Thu là anh muốn kết hôn với Thu. Vì anh là Trưởng Ty Kinh Tế của tỉnh, ba má Thu tin tưởng Hoàng sẽ không làm những điều sai trái để mất thanh danh giữa anh và gia đình Thu, nên ông bà rất vui vẻ để Thu tự do đi chơi vớí Hoàng.

Khi rảnh rỗi, Hoàng thưòng kèm toán và Anh văn cho Thu, nên Thu rất khá về hai môn nàỵ, và năm1971,Thu đã đậuTú Tài 2 hạng Bình. Sau đó, ba má Thu đã gởi nàng lên Saìgon học  Dược Khoa.

Một hôm đi chơi, ngồi trên bờ đá công viên sông Tiền Giang, dưới bóng mát của một cây đa lớn, Thu tâm sự vớí Hoàng :

–  Ba má em muốn em học Dược, để khì em trở thành Dược Sĩ, ba má em sẽ mở tiệm thuốc tây  để lấy lợi tức sinh sống vào lúc tuổi già .

– Vậy ba má em phải “hối lộ” anh, anh mới cấp giấy phép mở tiệm thuốc.

Thu tủm tỉm cười:

– Anh lấy bao nhiêu tiền?

Hoàng ẫm ờ:

– Anh không lấy tiền.

– Vậy anh lấy gì ?

– Anh “lấy” em!

Thu đưa ngón tay trỏ dí nhẹ vào trán Hoàng :

–  Ai thèm lấy anh. Cho anh sống suốt đời không vợ .

Cả hai cùng cười. Hoàng nắm bàn tay trắng, mềm maị với những ngón tay thon dài của Thu,   hỏi:

–  Lên Saigòn học Dược, em ở đâu?

–  Ba má em sẽ gởi em ở nhà dì Ba tại đường Cống Quỳnh. Tháng trước Dì Ba  xuống thăm, má em ngỏ lời, và dì đã vui vẻ chấp thuận, Dì còn nói với ba má em “ Con Thu ở nhà vợ chồng tôi để làm gương cho con Thảo nó học “

Thảo bằng tuổi Thu, là con gái duy nhất của dì dượng Ba, nên được nuông chìu, vì thế Thảo không học hành chăm chỉ, thi Tú Tài I bi rớt một năm 2 khoá liền, mãi đến năm sau mới đậu. Dì Ba là em gái má Thu, hai chị em rất thân và thương yêu nhau. Bà ngoại Thu mất sớm, khi má Thu và dì Ba còn nhỏ, được ông bà nội nuôi nấng, chăm sóc , dậy dỗ và cho ăn học .

Hoàng cầm bàn tay trái Thu đặt vào lòng bàn tay phải  anh, bóp  thật nhẹ, rồi âu yếm nói :

– Khi em lên Saigòn học, chắc anh nhớ em lắm, vì anh không được gặp em hằng ngày. Rồi dường như mới nghĩ ra một điều gì, Hoàng tiếp :

– Anh sẽ dùng xe gắn máy về Saigòn mỗi tuần vào ngày thứ Bẩy hoặc Chúa Nhât để được gặp em. Gò Công cách Saigòn không xa, đi xe Honda Dame qua cầu Nổi, phía Cần Đước chỉ mất 1 giờ là cùng.

Thu ngồi yên lặng không nói gì, tay phải nàng vân vê tà áo dài , theo đuổi ý nghĩ riêng của nàng: chương trình học Dược kéo dài 5 năm. Trong thời gian 5 năm dài, không biết Hoàng có chờ đợi nàng được không, hay anh sẽ theo đuổi một hình bóng nào khác .

Hoàng là người yêu đầu đời của Thu, nàng yêu Hoàng với tất cả tình yêu của người con gái trinh nguyên mới lớn .Thu chưa hề có kinh nghiệm yêu đương. Nàng chỉ hiểu đàn ông qua kinh nghiệm đọc tiểu thuyết và sách tâm lý học hoặc nghe các bà bạn của má Thu nói với nhau  rằng đàn ông dễ thay lòng đổi dạ và không chung tình ” Đàn ông năm bẩy lá gan, lá ở cùng vợ, lá toan cùng ngườì “ Thấy  vẻ mặt Thu trầm ngâm, Hoàng hỏi :

–  Em nghĩ gì vậy?

–  Em nghĩ về anh.

–  Em nghĩ về anh ra sao?

Thu nghiêng đầu nhìn thẳng vào mắt Hoàng :

–  Em biết hiện tại anh rất yêu em. Nhưng khi em xa anh, em sợ anh thay lòng đổi dạ. Người xưa thường nói: xa mặt, cách lòng. Riêng em, em hứa với anh: em chỉ yêu một mình anh, dù  được ở gần anh hay phải sống xa anh, lúc nào  em cũng nghĩ đến anh .

Hoàng âu yếm nắm bàn tay trắng ngần của Thu áp vào ngực anh nơi tim anh đang thổn thức về những lời yêu thương của Thu :

–  Cám ơn Thu về tình yêu của em dành cho anh. Anh chưa có ý định lập gia đình trong vài năm tới. Năm nay 25 tuổi, anh còn trẻ, hơn nữa anh mới ra trường, nên chưa muốn lập gia đình ngay lúc này. Ít nhất phải 5 năm nữa, anh mới nghĩ đến chuyện lập gia đình. Vì vậy trong 5 năm nữa là thời gian lý tưởng để chúng ta chờ đơị nhau. Lúc ấy anh vừa tròn 30 tuổi, em là cô Dược Sĩ ở tuổi 23. Chúng ta sẽ ăn mừng “đại đăng khoa và tiểu đăng khoa“cùng một lúc.! Rồi như để làm cho Thu yên tâm thêm, Hoàng nói tiếp :

–  Anh dự định ở Gò Công thêm một vài năm nữa, rồi sẽ nhờ người quen giúp thuyên chuyển về quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Như vậy anh sẽ được ở gần em và đồng thời anh có cơ hội trở lại học luật để lấy cho xong chứng chỉ cuối cùng  cuả văn bằng cử nhân. Em có  muốn như vậy không ?

Thu chớp mắt xúc động :

–  Được như vậy, em đâu còn đòì hỏi gì nữa. Em sẽ yên tâm học hành để ra trường đúng như  chương trình trường Dược đã ấn định. Và nhất là để không phụ công anh chờ đợi em.

Hoàng đưa cánh tay phải quàng qua eo Thu, kéo nàng sát vào người anh . Mùi thơm da thịt săn chắc của Thu thoang thoảng tỏa ra qua lớp áo dài mỏng của nàng, làm Hoàng ngây ngất. Hơi ấm cuả  hai người quyện vào nhau ,khiến Hoàng có ảo giác như hai thân xác đã hòa thành một. Hai người ngồi với nhau như vậy trong thinh lặng, không ai nói với ai một lời., để cho tình yêu thấm nhập vào từng thớ thịt cuả mỗi người .Thỉnh thoảng Hoàng lại ghì chặt Thu sát thêm vào người anh , khiến áo nịt ngực của nàng hơi căng ra, và mặt Thu hơi ửng  đỏ …

Thu rất vui mừng vì đã biết rõ ý định Hoàng chờ đơị nàng, và sẽ cưới nàng ngay sau khi nàng ra trường Dược .Thu muốn về nhà để nói cho ba má nàng biết về ý định của Hoàng, nhìn đồng hồ đeo tay, Thu  gỡ tay Hoàng ra khỏi hông nàng :

–  Mình ra đây ngồi từ lúc ăn trưa ở nhà hàng ra tới gìờ, đã lâu lắm rồi. Thôi về đi anh. Kẻo ba má em trông.

Chiều xuống chậm, nắng đã nhạt, gíó từ mặt nước sông thổi lên mát rợị. Xa xa giữa giòng sông những chiếc ghe máy chở đầy trái cây, rau cải, gà vịt…. đang vội vã chạy ngược xuôi về bến đậu. Phía bên kia bờ sông, mặt trời như một trái banh thật lớn đỏ vàng sáng rực, treo lơ lửng trên không trung, và đang từ từ đi xuống khuất sau rặng cây và dẫy núí ở cuối chân trời. Trên nền trời xanh bao la, từng đàn chim nhạn đang tung cánh bay về phương trời xa thẳm….

Hoàng hôn lên mái tóc thề đen mượt , thơm mùi bồ kết ở đầu Thu. Anh đứng dậy trước, nắm bàn tay trái Thu kéo nàng dứng lên. Hai người tay trong tay lững thững đi ra khỏi công viên, đến chỗ gửi xe gắn máy để lấy xe trở về nhà …

4.

Tình hình chiến sự miền Nam vào đầu tháng 2 năm 1975 đã trở nên sôi động tại các tỉnh ở miền Trung, nhưng thành phố Sàigòn vần còn yên ổn, người dân  Sài thành vần tổ chức đón mừng xuân Ất Mão, tuy không tưng bừng như mọi năm ..

Trước ngày về quê xum họp với gia đình đón mừng xuân Ất Mão, Thu và Hoàng ( lúc này Hoàng đã được thuyên chuyển về Gia Định ) được mời tham dự tiệc Tất Niên do một số nam nữ sinh viên trường Dược tổ chức tại một biệt thự khá lớn của bố mẹ một cô bạn rất thân cùng lớp ở trường Dược với Thu, tại đường Hiển Vương, quận 3 Sàigòn, vào chiều ngày 29 giáp tết. Ất Mão .Tiệc Tất Niên có khoảng 30 nam nữ sinh viên năm thứ tư trường Dược tham dư. Họ ăn uống, ca  hát,khiêu vũ, vui chơi để tiễn đưa năm cũ và đón mừng năm mới .

Thu có giọng hát rất truyền cảm và nàng hát khá hay. Thu yêu thích những bản nhạc trữ tình, đặc biệt, những nhạc phẩm ca tụng tình yêu lứa đôị. Hồi còn học lớp đệ Nhất ban A trung học Gò Công, Thu là trưởng ban văn nghệ của trường. Có lầnTiểu khu Gò Công tổ chức liên hoan chào mừng chiến thắng của một đại đội điạ phương quân tại sân vân động của tỉnh, ban văn nghệ trường Trung Học Gò Công được mời phối hợp với ban Tâm Lý Chiến của tiểu khu trong chương trình văn nghệ gíup vui cho quân nhân. Hôm ấy Thu đã hát bản “Hoa Soan Bên Thềm Cũ “ cuả nhạc sĩ Tuấn Khanh, được thính giả nhiệt liệt vỗ tay khen ngợi. Có người nói rằng nếu Thu tiếp tục con đường cầm ca, Thu sẽ là con “Nhạn Trắng” thứ 2 của Gò Công. Thu chỉ thích hát kiểu tài tử để mua vui với bạn bè, thâm tâm nàng không bao giờ muốn theo nghiệp cầm ca để trở thành ca sĩ chuyên nghiệp, nàng muốn theo đuổi con đường học vấn để trở thành Dược Sĩ như ba má nàng mong muốn để đền đáp công ơn dưỡng dục sinh thành của song thân nàng

Một số bạn trường Dược thân quen, biết Thu hát hay, đã yêu cầu nàng hát trong buổi tất niên  hôm ấy. Thu đã vui vẻ nhận lời, và nàng đã yêu cầu Hoàng đệm guitar cho nàng hát.. Trong lúc Hoàng đang so lại dây đàn guitar, Thu nói nhỏ vừa đủ để Hoàng nghe :

–  Em hát bài “Ngàn Thu Áo Tím” của Hoàng Trọng để riêng tặng anh trong đêm naỵ  Chắc hẳn anh còn nhớ ngày đầu tiên anh gặp em trong đám cưới con nhỏ bạn em, em cũng mặc áo tím như đêm naỵ Và hôm đó anh đã nói với em rằng :” màu tím là màu buồn, màu của chia lìa xa cách. Anh không thích mầu tím “…Em đã không “cãi” lại anh, và chỉ nhủ thầm : “ anh là người tin  nhảm “. Nói xong, Thu cầm tay Hoàng kéo anh đứng dậy đi ra chỗ đứng hát.

Tiếng đệm đàn dương cầm của Phương, người bạn gái chủ nhà , hòa âm với tiếng guitar của Hoàng đã làm Thu say đắm để hết tâm hồn diễn tả lời và nhạc của bản “Ngàn Thu Áo Tím “ : (1)

“Ngày xưa xa xôi em rất ưa mầu tím,

Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến,

Chiều xuống áo tím thường thướt tha

Bước trên đường gẩm hoa

Ngắm mây chiều lướt xa       

Từ khi yêu anh, anh bắt xa mầu tím

Sầu thương cho em, mơ ước chưa kịp đến

Trời đã rét mướt cùng gíó mưa

Khóc anh chiều tiễn đưa

Thế thôi tàn giấc mơ.                        

Anh xa xôi bóng mưa giăng mờ lối

Anh xa xôi áo bay trong chiều rơi

Anh xa xôi áo ôm tim lẻ loi

Tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi           

Từ khi xa anh, em vẫn yêu và nhớ

Mà sao anh đi ,đi mãi không về nữa

Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ

Khóc  trong chiều gíó mưa

Khóc thương hình bóng xưa …                      

Ngàn thu mưa rơi trên áo em mầu tím

Ngàn thu đau thương, vương áo em mầu tím

Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau

Tháng năm còn lướt mau

Biết bao giờ thấy nhau …..

Tiếng hát vừa chấm dứt, một tràng pháo tay vang dội nổi lên. Thu mỉm cười, cúi đầu chào đáp lễ. Rồi nàng âu yếm nắm tay Hoàng  cùng đi về chỗ ngồị .

Cuộc vui kéo dài đến nửa đêm thì chấm đứt. Trước khi ra về, mọi người vui vẻ bắt tay, chúc nhau những điều tốt đẹp nhất cho năm mới, hẹn gặp lại nhau tại trường Dược vào năm mới .

Trời đã về khuya, đường phố vắng xe chạy. Thỉnh thoảng một vài cơn gíó thổi qua, làm cành  lá trên các cây me hai bên lề đường va chạm mạnh vào nhau, phát ra tiếng kêu xào xạc trong đêm khuya. Vầng trăng thượng tuần lơ lửng trên nền trời trong xanh, tỏa ánh sáng yếu ớt xuống mặt đường phố Sàigòn. Thỉnh thoảng, một vài tiếng đại bác từ xa vọng về trong đêm khuya, và những ánh hỏa châu sáng rực được bắn lên trời định kỳ từ những đơn vị quân đội Việt Nam Cộng Hoà giữ an ninh cho vòng đai thủ đô Saigòn , như nhắc nhở người dân saìgòn đừng quên chiến tranh tàn khốc đang tiếp diễn trên quê hương ,ngay cả vào những ngày Tết  dân tộc cổ truyền thiêng liêng nhất..

Các sinh viên nam nữ trường Dược cười, nói vui vẻ, lần lượt rủ nhau ra về…Hoàng đưa xe gắn máy ra khỏi cổng biệt thự, anh ngồi lên yên xe, rồi bảo Thu :

-Em ngồi lên xe , nhớ ôm chặt lấy anh, kẻo té.

Thu yên lặng, ngoan ngoãn như một đứa trẻ nhỏ, làm theo lời người lớn bảo. Nàng vén tà áo dài phía sau, ngồi nghiêng lên yên xe, phía sau Hoàng. Tay trái nàng giữ tà áo dài trong lòng nàng, còn tay phải nàng vòng qua hông Hoàng ôm chặt lấy anh. Ngồi ở tư thế này, nửa thân phía trên người Thu áp sát vào lưng Hoàng, khiến hơi ấm da thịt Thu chuyền vào người Hoàng, làm anh cảm thấy rạo rực êm đềm và có cảm tưởng như Thu đã là vợ anh rồi. Khi thấy Thu đã ngồi an toàn trên xe, Hoàng rồ máy cho xe chạy về cuối phố, rồi quẹo phải ra đường chính để về nhà Thu.

Tình hình chính trị và quân sự tại miền Nam Việt Nam vào đầu tháng 3 và tháng 4 năm 1975 thay đổi rất nhanh nên Hoàng không có thì giờ xuống Gò Công để báo cho Thu biết về quyết định anh bỏ nước chạy trốn khi Cộng quân tiến chiếm Thủ đô Saì gon. Lần cuối cùng Hoàng gặp Thu là ngày anh đưa Thu về Gò Công nghỉ Têt sau buổi tiệc Tân Niên tại ngôi biệt thự của ba má người bạn gái Thu. Hoàng và Thu không còn cơ hội gặp lại nhau nữa và đã mất liên lạc với nhau kể từ ngày đó.

5.

Hoàng đọc đi đọc lại nhiều lần bức thư Thu viết cho ông Hải – thực ra chính là viết cho Hoàng. Anh suy nghĩ rất nhiều về viêc có nên gặp Thu theo lời nàng yêu cầu trong thư hay không. Tình yêu của Hoàng đối với Thu giờ đây giống như một đống lửa chỉ còn cháy âm ỷ trong tận cùng  cốt lõi của nó. Nói khác đi, trong thâm tâm Hoàng, anh vẫn còn yêu Thu, nhưng tình yêu của anh đối với Thu không còn mãnh liệt như 20 năm trước đây. Hoàng được biết, qua ông Hải, theo lời thân phụ Thu cho ông Hải biết, nàng đã lập gia đình vào năm 1985 với một cựu sĩ quan quân lực VNCH đi tù cải tạo về, và nay đã có 2 con.  Hoàng nửa muốn gặp Thu nửa lại không muốn. Anh muốn gặp mặt Thu dể nói lời xin lỗi và tạ từ tình yêu của anh đối với Thu .Đằng khác, Hoàng không muốn gặp lại Thu vì anh sợ chồng Thu biết được cuộc gặp gỡ giữa anh và Thu, sẽ hiểu lầm, khiến hạnh phúc gia đình nàng bị đe dọa. Điều này là mối quan tâm nhất đối Hoàng .Anh nhớ đến câu thơ của Hồ Dzếnh : “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở. Đời hết vui khi đã vẹn câu thề” .Nghĩ vậy, Hoàng quyết định không gặp Thu, để Thu giữ mãi hình ảnh anh ngày còn trai trẻ, và anh cũng giữ mãi hình ảnh Thu đẹp ở thời thanh xuân của ngườì con gái mới lớn. Hoàng để tâm hồn anh lắng đọng một thời gian, sau đó anh quyết định viết cho Thu:

                           Ngày      tháng      năm      

  Thu yêu mến,

Anh rất mừng em đã thoát khỏi Việt nam,và đã đến được bến bờ tự do. Anh thật không ngờ có ngày chúng mình biết được tin nhau sau gần 20 xa cách! Tuy chúng ta chưa gặp mặt , nhưng ít ra, anh đang “gặp” lại em trên những trang giấy này. Đọc thư em, anh rất buồn. Anh không ngờ đã vô tình làm em buồn khổ, chờ đợi anh trong gần 10 năm dài. Anh thật đáng trách và có lỗi với em. Giờ đây anh không biết nói gì hơn ngoài lời tạ tội với em và mong em tha thứ cho anh. Anh cám ơn em về tình yêu của em đã dành cho anh trong những ngày em sống xa vắng anh.

Anh.bỏ saìgon ra đi vào giờ phút chót, ngoài dự định của anh. Trong lúc hốt hoảng, bối rối và quá gấp rút, anh không có thì giờ xuống Gò Công để nói cho em biết về quyết định ra đi của  anh. Anh được người bạn là sĩ quan Hải Quân, chỉ huy trưởng một chiến hạm, đưa anh lên tầu hải quân tại bến Bạch Đằng vào đêm 29-4-1975, thoát khỏi Việt nam trước khi Cộng quân tiến vào Saìgòn trưa ngày 30-4-75.

 Trên đường chạy trốn, anh hồì tưởng lại đêm tất niên tại ngôi biệt thự của bạn gái em. Đêm ấy, em đã hát bài “Ngàn Thu Áo Tím“, trong đó có những câu : “Khóc anh chiều tiễn đưa. Thế thôi tàn giấc mơ” và “ Mà sao anh đi, đi mãi không về nữa..  Khóc thương hình bóng xưa v..v..”.  Anh tự hỏi tại sao em hát bài đó để tặng riêng anh trong khi em thuộc nhiều bài hay  hơn, em lại không hát?. Phải chăng em đã “nói gở” báo trước ngày chúng mình phải xa cách nhau, mà  em đã “vô thức” biểu lộ ra  bằng những lời trong bài hát ? Phải chăng định mệnh đã an bài, và mối tình đôi ta bắt đầu chấm đứt từ đêm hôm ấy ?

 Em yêu, sở dĩ  anh không viết thư cho em là  vì anh không nhớ địa chỉ nhà em.Khi muốn đến nhà em, anh vừa đi vừa nhắm mắt cũng tới được. Vậy nhớ điạ chỉ để làm gì ? Hơn nữa Mỹ và Việt Nam là hai nước thù địch từ sau ngày 30-4-75, không có quan hệ ngoại giao, nên thư từ rất khó khăn.Và vì vậy ,anh coi chúng ta như đang sống ở hai thế giới âm dương cách biệt . Muốn gặp lại nhau, phải đợi tới khi chết .

  Khi việc định cư ở Mỹ tạm ổn định , anh đã lập gia đình với người con gái do người chị họ anh giới thiệu .Việc hôn nhân của anh theo “cách thức cổ điển “, tức là có người mai mối .Anh không hề date với cô ấy như anh đã từng date vói em hơn 4 năm .Sau khi quen cô ấy trong một thời gian ngắn, anh thấy cô ấy ngoan, hiền nên anh ngỏ lời cầu hôn, và cô ấy đã nhận lời . Con-thuyền-anh bắt đầu đậu tại bến-bờ-này từ đâỵ Vợ anh năm nay 38 tuổi, hơn em  một tuổi. Gia đình cô ấy không được khá giả nên sau khi học hết lớp12, cô ấy phải đi làm gíup đỡ gia đình, không có cơ hội được lên học đại học như em. Hiện nay anh và vợ anh sống rất hạnh phúc bên nhau và đã có 3 con .Kinh nghiệm cho anh thấy rằng tình yêu đến sau hôn nhân chỉ thiếu phần lãng mạn so với tình yêu đến trước hôn nhân . Nhưng nếu tình yêu đến trước mà hôn nhân  không thành, thì chỉ làm cho người trong cuộc đau buồn mà thôi …

 Em thấy đó, việc anh gặp vợ anh  như có ” duyên tiền định” đã xếp đặt từ trước .Định mệnh đã an bài, anh không thể biết trước, mà cũng không thể tránh được. Việc đến, nó sẽ phải đến . Cũng như việc anh và em phải chia lià xa cách nhau mà mình không thể tiên đoán được .

 Vợ anh làm teller cho nhà bank. Còn anh, mấy năm đầu ở Mỹ, anh làm cho một tiệm bánh, đến năm 1979, anh đi học accounting, và sau khi tốt nghiệp, anh làm cho hãng bảo hiểm nhân thọ từ dó đến nay. Đọc đến đây, em đã rõ cưộc đời riêng của anh hiện giờ ra sao.

 Anh đưa thư của em cho vợ anh đọc. Đọc xong, cô ấy bảo anh rằng cô ấy trả anh lại cho em, để 2 người yêu nhau cho trọn kiếp, nhưng với điều kiện : anh phải ra đi tay không, để lại 3 đứa con cho cô ấy, cùng căn nhà đứng tên chung…Anh không biết cô ấy nói thiệt hay nói đùa, nhưng trong thâm tâm anh, anh ước có phép thần để làm đảo ngược lại thời gian cách đây 20 năm, hoặc làm anh trẻ lại ở tuổi 30, để anh có thể làm lại cuộc đời  hầu đáp lại tình yêu của  em dành cho anh. Nay thì đã quá muộn, và anh thì chẳng có phép thần. Anh nay ở tuổi đã về già, đâu còn sức lực để làm lại cuộc nữa, anh không thể mang lại hạnh phúc cho em được ,nên dù thâm tâm anh có muốn, anh cũng đành give up. Hơn nữa vợ anh không phản bội anh, anh đâu có lý do phản bội cô ấy, và còn 3 đứa con anh nữa …

  Thu thương mến, mặc dầu anh không được diễm phúc cưới em làm vợ, nhưng anh vẫn thương yêu em như tình yêu người anh dành cho người em gái, và anh hằng cầu mong em luôn được hạnh phúc bên chồng con. Chúng ta đã gặp nhau trên đường đời, nhưng chúng ta không có duyên nợ với nhau, nên chúng ta đã không thành vợ chồng. Nay em đã yên phận gia đình bên chồng con, còn anh, anh có trách nhiêm với vợ con anh. Chúng ta hãy coi mối tình năm xưa là một kỷ niệm đẹp của tuổi thanh xuân trong cuộc đời chúng ta .

 Anh đã trải lòng mình (anh mượn chữ của em) trên 2 trang giấy, anh mong em hiểu và tha thứ  những lỗi lầm anh đã phạm trong quá khứ,làm em buồn khổ trong gần 20 năm xa cách nhaụ .Anh mượn 4 câu thơ của một nhà thơ tiền chiến để nói với em tất cả tình của anh dành cho em ở kiếp này :  

Hẹn đến luân hồi sẽ gặp nhau

Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau,

Chờ anh dưới gốc sim già, nhé  ,

Anh hái đưa em đóa mộng đầu .

 Vâng, anh hái trao em đóa mộng đầu để làm quà sính lễ xin cưới em làm người vợ muôn thuở .

                                                                                                                       Anh,

                                                                                                                      Hoàng

Hoàng viết xong bức thư, gấp lại, bỏ vào phong bì, rồi để vào trong ngăn kéo bàn viết. Ngày mai anh sẽ ra bưu điện gửi bảo đảm để chắc chắn thư sẽ đến tay Thu .

Chiếc đồng hồ Grandfather ở phòng khách ngân vang “tính, tình, tang tình”’ rồi gõ một tiếng “coong” độc nhất: báo hiệu một giờ đêm. Trong phòng ngủ, vợ và  3 đứa con Hoàng đang đắm chìm trong giấc điệp. Ngoài trời vạn vật chìm đắm trong đêm khuya yên tịnh. Hoàng vươn vai đứng dậy đi ra khỏi bàn viết, mở cửa phòng khách, bước xuống bậc tam cấp trước cửa nhà, rồi làm vài động tác hít thở. Một cơn gió nhẹ thổi qua, đem theo hơi lạnh ban đêm, làm mấy chiếc lá vàng trên cây phong lan trồng giữa vườn trước nhà, rơi lác đác xuống bãi cỏ xanh dưới ánh trăng  thu . Hoàng  buột miệng nói một mình:

–  Trời hơi se lạnh., đã bắt đầu chớm thu rồi .

Bất giác Hoàng ngẩng đầu nhìn lên bầu trời trong xanh đầy sao, ngay lúc ấy, một vì sao vừa đổi ngôi.  Hoàng lẩm bẩm  lặp lại câu Thu nói năm xưa, khi Thu và Hoàng ngồi chơi trong vườn sau nhà Thu, dưới ánh trăng rằm :

– Một linh hồn vừa lìa duơng thế .

Nói xong và nghe tiếng mình nói, Hoàng nhớ lại Thu nói với  anh : ngày xưa khi Thu còn bé, bà nội Thu  giải thích choThu về hiện tượng sao đổi ngôi : Hễ mỗi lần trên trời có một vì sao đổi ngôi, thì ở dưới thế có một linh hồn vừa mới lìa trần. Lớn lên Thu vẫn ngây thơ tin như vậy .

Ngoài đường lớn, một chiếc xe cứu thương chạy ngang qua khu nhà Hoàng, vừa chạy vừa hú còi ré  lên inh ỏi, phá tan sự tĩnh mịch trong đêm khuya….

Virginia , mạnh thu 2011

Vũ Bá Hoan

(1) Xin phép Nhạc Sĩ Hoàng Trọng cho trích lời bài nhạc “Ngàn Thu Áo Tím “ .

Views: 458

Quanh Đại Hội XII Đảng Cộng Sản Việt Nam

Lê Văn Tư

Viet_party_congress_640x360_getty_nocredit

Trong một đất nước dân chủ, việc quan trọng nhất đối với người dân là bầu cử vị lãnh đạo tối cao, để chọn mặt gởi vàng, mọi người phải biết chương trình hành động, khả năng thuyết phục của từng ứng cử viên, khuynh hướng chung của cử tri thể hiện qua các cuộc thăm dò dư luận, không khí tranh cử nhờ thế thật hào hứng, kết quả bầu cử được mọi người háo hức chờ đợi, khác hẳn với các nước độc tài độc đảng như Việt Nam, người dân không có quyền bầu người lãnh đạo thực sự của mình, việc hệ trọng này do đảng quyết định một cách bí mật, người dân bị cấm xía vô, mặc dầu hiến pháp (HP) ghi rõ: «Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân» (Điều 2 HP), HP như vậy chẳng khác gì tờ giấy lộn, người dân chỉ ăn bánh vẽ.
Như đại hội (ĐH) đảng cộng sản hiện nay, mọi quyết định sinh mệnh đất nước do một nhóm người thuộc đảng cộng sản thu hẹp trong bộ chính trị (BCT), hiện gồm 16 người, từ đó họ đưa ra 4 nhân vật nắm quyền trong guồng máy cai trị, được coi là tứ trụ triều đình (tứ nhân bang), đó là tổng bí thư (TBT), chủ tịch nước (CTN), thủ tướng (TT) và chủ tịch quốc hội (CTQH).
Theo HP: «Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.» (Đ 86), TT là người đứng đầu chính phủ, mà «Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp.» (Đ 94), cả hai đều do QH bầu và chịu trách nhiệm trước QH, nhưng vai trò của chủ tịch QH lại rất mờ nhạt: «Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; … » (Đ 72), tuy 3 nhân vật này được qui định trong HP nhưng thực quyền lại thuộc nhân vật thứ tư không có nêu danh trong HP.
HP ghi rõ: «Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.» (Đ 119) nhưng không có điều khoản nào dành cho tên thứ tư này cả, tức không có qui định trách nhiệm hay quyền hạn nào nhưng quyền uy lại bao trùm cả nước, đó là TBT đảng cộng sản.
Tưởng cũng cần nhắc qua về cơ chế quyền lực bắt đầu từ ĐH đảng, mỗi 5 năm họp một lần, kỳ này gồm 1510 đại biểu cấp cơ sở, đại diện cho 4,5 triệu đảng viên, họ bầu ra BCHTƯ gồm ủy viên chính thức và dự khuyết (180 ủy viên chính thức, 20 dự khuyết), «Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Uỷ viên Bộ Chính trị; thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Uỷ viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công và một số Uỷ viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương.» (Đ17 Điều lệ đảng); điểm cần ghi nhận là TBT trước hết phải là thành viên BCT, tức coi như được bầu 2 lần.
Thoạt nhìn tưởng là dân chủ lắm, nhưng kỳ thực mọi ủy viên trung ương và thành viên trong BCHTƯ, BCT, … đều được sắp xếp trước theo đúng tiêu chuẩn định sẵn, nhưng lần sắp xếp này có điều bất thường trong nhóm chóp bu, nhiều tin tức tiết lộ là có sự tranh chấp gay gắt giữa Nguyễn Phú Trọng (NPT) được BCT hậu thuẫn và Nguyễn Tấn Dũng (NTD) được BCHTƯ hậu thuẫn, việc hục hặc giữa 2 nhân vật này âm ỉ từ lâu, lộ rõ nhứt là từ khi BCT toan tính hạ bệ đồng chí X (ám chỉ NTD) trong hội nghị BCHTƯ 6 (tháng 10-2012) bằng biện pháp kỷ luật nhưng BCHTƯ lại không chấp thuận, khiến blogueur Trương Duy Nhất “đặt câu hỏi: “Tại sao cái tên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng- người bị BCT yêu cầu kỷ luật cũng không dám công khai, phải nói trại ra là “một đồng chí ủy viên BCT” như kiểu không dám gọi đích danh mấy loại tàu cướp của Trung Quốc mà phải gọi là “tàu lạ” vậy?» (trong bài tựa: Không nêu tên ‘đồng chí X’ là hèn hạ?), khiến ông Lê Đăng Doanh ngạc nhiên: «Điều đáng chú ý là, Bộ Chính trị đã 100% đồng ý là xin nhận khuyết điểm, và xin Ban Chấp hành Trung ương kỷ luật tập thể Bộ Chính trị và một thành viên, một Ủy viên của Bộ Chính trị. Điều đáng ngạc nhiên là sau đó, Ban Chấp hành Trung ương đã không đồng ý, cả kỷ luật Bộ Chính trị, cũng như kỷ luật «đồng chí».
Thật vậy, NTD không những chẳng bị hạ bệ mà còn được BCHTƯ xếp vào hàng được tín nhiệm nhứt (hơn cả Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng), theo kết quả đánh giá trong hội nghị 10 vào đầu năm 2015:

Nguyễn Tấn Dũng: 152 điểm tín nhiệm cao

Trương Tấn Sang: 149

Nguyễn Phú Trọng: 135

Nguyễn Sinh Hùng: 126

Sự kiện này xác nhận uy thế của NTD trong đảng hơn NPT, xét về mặt quyền hạn thì thủ tướng đứng hàng thứ 3 trong tứ trụ nhưng quyền lợi hơn hẳn mấy tên kia, nên hục hặc nhau cũng chẳng qua là trâu cột ghét trâu ăn, nhờ có phương tiện nên NTD mua chuộc được nhiều đàn em, gây thanh thế trong BCHTƯ, dựa vào đó mà nhiều nhà bình luận trong cũng như ngoài nước đều suy đoán là NTD nắm thế thượng phong trong cuộc tranh giành quyền lực hiện nay.
Nhưng nhiều tin tức tiết lộ gần đây, thế cờ đã đảo ngược, phe NPT đang thắng thế, áp đặt mọi rào cản ngăn chận phe NTD phản phé như trước đây:
– một mặt dựa vào điều lệ đảng, quy chế bầu cử, điều 13 Quyết định số 244/QĐ-TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng: «Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.», tức BCT nắm độc quyền giới thiệu người vào BCT, gọi là «chốt danh sách» (hiểu là khóa sổ ghi danh), một khi NTD bị gạt ra khỏi danh sách đề cử hay ứng cử vào BCT thì con đường hoạn lộ coi như chấm dứt.
– một mặt đặt ra nhiều tiêu chuẩn khắc khe (các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi, ..tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc…), xem qua ai cũng biết là nhắm vào NTD, đặc biệt là cho đàn em tung ra những đòn hạ tiện để bôi bác lẫn nhau.
Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A: « ….Về mặt tranh giành quyền lực, họ sử dụng những biện pháp vô cùng thô bỉ và bẩn thỉu để sát hại lẫn nhau. Điều đó chỉ chứng tỏ những người như thế và một cái tổ chức như thế không có tư cách để làm lãnh đạo…. » (trả lời phỏng vấn đài RFI ngày 11-1-2016)

Cứ nhìn vào những điều bất thường trong việc chuẩn bị ĐH tất thấy mức độ tranh chấp khốc liệt là dường nào!

Về sắp xếp nhân sự, các phiên họp BCHTƯ 13 (từ 14 đến 21-12-2015) và 14 (từ 1 đến 13-1-2016) chỉ cách nhau mươi ngày, cách đại hội một tuần lễ (từ 21 đến 28-1-2016), vấn đề sắp xếp nhân sự vẫn chưa ngã ngũ, hôm bế mạc hội nghị trung ương 13, TBT phát biểu: «Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ và biểu quyết, nhất trí cao thông qua danh sách đề cử các đồng chí Ủy viên Trung ương khóa 11 (cả chính thức và dự khuyết) trong độ tuổi và các đồng chí Ủy viên Trung ương khóa 11 thuộc trường hợp “đặc biệt” tái cử khóa 12.», nhưng thật sự đã có sự bất đồng nghiêm trọng đến độ phải gấp rút tổ chức thêm hội nghị 14, gọi là để «Tiếp tục hoàn thiện công tác nhân sự chủ chốt khóa XII, thảo luận, xem xét, quyết định công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII và chuẩn bị nhân sự lãnh đạo chủ chốt khóa XII.»

Về tuổi tác, NPT tuy quá tuổi qui định, lại lớn tuổi nhứt trong BCT, cách 5 tuổi so với nhóm kế tiếp (72 tuổi trong khi Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, 67, NTD chưa tới 67) vẫn được quyền ở lại vài năm nữa, gọi đó là thuộc trường hợp “đặc biệt” tái cử khoá XII, qua phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ hôm 16-1-2016, ông Vũ Ngọc Hoàng – ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương cho biết: «Trung ương đã thông qua nhân sự là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI thuộc trường hợp “đặc biệt” giới thiệu tái cử khóa XII. Trước hết Trung ương bỏ phiếu quyết định chọn phương án một trường hợp “đặc biệt”, hai trường hợp “đặc biệt” hay ba trường hợp “đặc biệt”. Cuối cùng Trung ương quyết định chọn phương án một trường hợp “đặc biệt”, vì yêu cầu cần trẻ hóa, yêu cầu ổn định, cần có một sự kế thừa trong tình hình hiện nay, đoàn kết, tập hợp lực lượng. Bộ Chính trị cũng đề nghị như thế.»
Tiết lộ này giải mã tin đồn nếu cho NTD ngồi lại (hai trường hợp “đặc biệt”) thì Trương Tấn Sang cũng đòi ngồi lại (ba trường hợp “đặc biệt”), cuối cùng chọn phương án một trường hợp “đặc biệt”, điều này xác nhận Trương Tấn Sang cùng phe NPT trong âm mưu triệt hạ đồng chí X; cũng cần nhắc lại các tiêu chuẩn nhằm loại NTD trong đó có tiêu chuẩn «tham vọng quyền lực», nay chính Nguyễn Phú Trọng lại là người tham quyền cố vị.
Lưu dụng một tên già nua nhứt cầm chịt đảng có nghĩa là các đảng viên khác đều thiếu khả năng (toàn một lũ ăn hại đái nát!), việc lưu dụng tạm thời có thể hiểu là việc tranh ăn vẫn chưa ngã ngũ.

Về việc bảo vệ an ninh ĐH, đảng phải huy động «hơn 5.000 cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng công an nhân dân, quân đội nhân dân cùng các phương tiện trang, thiết bị chuyên dụng chống bạo động, khủng bố với quyết tâm bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, với tinh thần, chủ động trong mọi tình huống, không để bị động bất ngờ.», làm gì cần phải huy động một lực lượng hùng hậu chống bạo động, khủng bố để bảo vệ một phiên họp giữa các đồng chí với nhau, sự kiện này cho thấy sự rạn nứt nội bộ nghiêm trọng đến độ là họ đang sống trong hoảng loạn.

Trong cuộc thư hùng sống mái này, hai bên thắng thua đều sứt đầu mẻ trán, đảng cộng sản như con quái vật bị chấn thương, mối thâm thù Trọng -Dũng sẽ di căn, bọn thắng chắc chắn sẽ tiếp tục đè bẹp phe thua, phe thua sẽ tìm mưu kế phản ứng lại, biết đâu đây lại là cơ may để người dân nhập cuộc hơn nữa, tạm thời có thể thúc đẩy phe muốn chuyển hóa đất nước theo chiều hướng dân chủ, đà dân chủ hóa sẽ được tăng tốc, còn phe phản động đang lâm vào thế yếu, đà dân chủ cũng có thể nhờ đó mà vươn lên.
Nghĩ thật khôi hài mấy tiêu chí đại hội:”Đoàn kết, Dân chủ, Kỷ cương, Đổi mới”.

Thực tế chứng minh hoàn toàn ngược lại:
– «Đoàn kết» giữa các đồng chí là những đòn ngầm sát phạt lẫn nhau,

– «Dân chủ» là những người cũ hay sắp sửa ra đi chọn trước thành phần lãnh đạo mới,

– «Kỷ cương» là tùy tiện sửa đổi những nguyên tắc căn bản về ứng cử bầu cử, tự cho mình có quyền lưu nhiệm,

– «Đổi mới mà thực ra là chúng ta lùi lại chứ không phải đổi mới. Đổi mới là so với những cái chúng ta đã làm sai 20 năm thì gọi là đổi mới.» (Gs Trần Phương góp ý ở ĐH11), đúng như Bộ trưởng KH&ĐT Bùi Quang Vinh vạch ra trong bài tham luận trước ĐH ngày 22-1-2016: «Nhìn lại thực tế 30 năm qua, thành tựu lớn nhất, bao trùm nhất của công cuộc đổi mới là đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.», xem thế thì đủ biết đảng cộng sản đã kéo lùi đà tiến của dân tộc là dường nào!

Đúng như các nguồn tin tiết lộ, kết quả bầu cử BCHTƯ và BCT đúng theo dàn dựng trước, tứ nhân bang được xếp vào hàng đầu BCT:
1. Nguyễn Phú Trọng (1), tái Tổng Bí thư.
2. Trần Đại Quang, Bộ trưởng Công an
3. Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch Quốc hội

6. Nguyễn Xuân Phúc, Phó TT

Trong đó, 3 nhân vật được chỉ định trước:
Chủ tịch nước: Trần Đại Quang (2)
Thủ tướng; Nguyễn Xuân Phúc (3)
Chủ tịch quốc hội: Nguyễn Thị Kim Ngân
các đại biểu QH chỉ làm nhiệm vụ hợp thức hóa quyết định của đảng, các đại biểu đảng viên phải làm theo chỉ thị đã đành, kỳ dư cũng chỉ là những con rối.

(1) Nguyễn Phú Trọng, không có lời nào phản đối ngay khi Tàu đặt dàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 2014
(2) Trần Đại Quang, gốc bộ trưởng công an, người ra lịnh đàn áp thô bạo các cuộc xuống đường chống quân xâm lược Tàu
(3) Nguyễn Xuân Phúc, gốc phó Thủ Tướng, người hô hào chống tham nhũng nhưng có nhiều nhà cửa nguy nga cả trong lẫn ngoài nước, con cái du học ăn chơi trác táng, cũng là người cấu kết với Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang trong âm mưu hạ bệ NTD (theo blog Chân dung quyền lực: http://chandungquyenluc.blogspot.ru/, tuy đã ngưng hoạt động nhưng vẫn có thể vào xem các tài liệu lưu trữ).
Một ít «thành tích» đối với quân xâm lược và đất nước của họ cho thấy việc mong đợi «đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để phát triển» như tham luận của ông Bùi Quang Vinh hãy còn xa vời.

Dầu trong tình huống nào, khuynh hướng dân chủ hóa không ngừng gia tăng, các yếu tố thiên thời -địa lợi -nhân hòa đang dần dần hội đủ, phong trào xã hội dân sự đang phát triển, một khi các tổ chức dân sự độc lập bành trướng thì các hoạt động chính thống và ngoại vi của đảng sẽ teo tóp dần (báo tư nhân xuất hiện, không ai đọc báo đảng, nghiệp đoàn độc lập ra đời, công nhân sẽ bỏ công đoàn nhà nước, …

Khởi điểm của một quá trình kết thúc chế độ độc tài đảng trị bắt đầu.
Một vận hội mới đang mở ra.

Lê Văn Tư (ĐS 8)

Views: 529