Vi Phạm Nhân Quyền và Dân Quyền Tại Việt Nam Trong Lãnh Vực Kinh Tế

Nguyễn Bá Lộc

Chính quyền cộng sản cưỡng chế đất đai dân chúng khu đô thị mới Thủ Thiêm

1.Tổng quan

Luật quốc tế cũng như luật của nhiều nước tiến bộ đều có qui định về nhân quyền trong lãnh vực kinh tế. Tổng quát, đó là quyền sống của con người. Trong một quốc gia dân chủ pháp trị thì dân quyền là một mặt khác của nhân quyền. Người dân phải được luật pháp bảo vệ quyền tự do mưu cầu cuộc sống, tự do trong việc làm, quyền không bị bị kỳ thị hay ngược đãi nơi làm việc và trong kinh doanh, quyền được bảo vệ tài sản riêng và công sản quốc gia. Chẳng hạn trong bản liệt kê của cơ quan National Economic & Social Rights Initiatives (NESRI) có liệt kê hai quyền chánh yếu về mặt kinh tế là: Quyền Được Bảo Đảm Về Thực Phẩm (The Right to Food) và Quyền Lao Động (The Right to Work). Hoa kỳ và Âu châu có nhiều luật qui định về nhân quyền và dân quyền là một điều kiện trong mậu dịch quốc tế (U.S. trade law, free trade agreement, labor right litigation…)
Trên thực tế có nhiều quốc gia vi phạm các quyền trên, nhứt là tại các nước có chế độ độc tài trong đó có Việt Nam. Hậu quả các vi phạm đó là gây ra nhiều tai hại cho cá nhân nạn nhân và cả cho sự phát triển đất nước.
Mặt khác, trong hội nhập toàn cầu, một vấn đề tối sanh tử của Việt Nam, Việt Nam rất cần giao thương với nhiều nước, nhứt là các nước tư bản tự do. Và các nước nầy đều có qui định điều kiện nhân quyền trong sự hợp tác đầu tư ngoại quốc và trong ngoại thương. Trên thực tế, về kinh tế đối ngoại Việt Nam vi phạm nhiều điều luật quốc tế, từ nhiều năm qua cho tới bây giờ.
Trong những năm gần đây, Việt Nam cộng sản chẳng những không giảm bớt vi phạm nhân quyền mà còn gia tăng ở mức độ nghiêm trọng.
Tự do, Dân chủ và Nhân quyền là những nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển kinh tế bình thường và bền vững. Tại Việt Nam thì những nguyên tắc nầy bị xâm phạm và đưa đến những hậu quả tai hại về kinh tế và xã hội.
Trong bài nầy chúng tôi tóm tắt những vi phạm Nhân quyền và Dân quyền trên phương diện kinh tế, và xảy ra trong năm vừa qua, dưới các mục sau đây:

2. Sự cưỡng đoạt đất đai của dân

Cưỡng chế thu hồi đất của dân là một vi phạm nhân quyền trầm trọng nhứt tại Việt Nam từ hàng chục năm nay. Tình trạng nầy vẫn còn tiếp diễn trong năm qua. Về luật nhân quyền đó là “quyền sống” và “quyền sở hữu”.
Chánh quyền Việt Nam đã lạm dụng và lợi dụng nguyên tắc của Luật Đất Đai 1993 (và bổ sung 2013) , gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn dân khi bị di dời đến nơi định cư mới. Tình trạng nầy còn làm thiệt hại cho kinh tế chung.
Năm 2018 có nhiều vụ cưỡng chế lớn khắp mọi nơi. Có ba vụ lớn là:

Vụ cưỡng chế sai luật và lạm quyền tại khu đô thị mới Thủ Thiêm: Về phương diện nhân quyền các vi phạm là: Chánh quyền lấy đất của dân bồi thường giá rất thấp rồi bán lại cho công ty tư doanh với giá gấp nhiều chục lần cao hơn. Đó là hành động của chánh quyền cướp đoạt tài sản của dân, chánh quyền đoạt quyền thương lượng, quyền trực tiếp bán đất của người dân với người mua nhà đất là tư doanh. Đặt biệt trong đó có khoảng 160 hộ dân cư nằm ngoài khu vực đã được qui hoạch , nhưng chánh quyền thành phố HCM vẽ lại bản đồ, và thu hồi đất nầy. Chánh quyền không định cư đầy đủ cho người dân bị cưỡng chế, để cuộc sống của họ rất thảm thương trong thời gian dài. Dùng bạo lực thu hồi đất là vi phạm quyền sở hữu tư và xử dụng sai trái nguyên tắc công quyền. Chánh quyền làm sai nguyên tắc là: trưng thu đất tư là chỉ cho công ích. Trong đại dự án nầy có nhiều khu vực không nhằm cho công ích mà giao cho tư doanh xây nhà cao ốc, hay chánh quyền thực hiện dự án không cần thiết là Nhà Hát Giao Hưởng..

Một vụ vi phạm luật đất đai to lớn khác là vụ quân đội chiếm lấy một phần đất của phi trường Tân Sơn Nhất giao cho tư doanh khai thác sân golf và nhà hàng, khách sạn. Công trình nầy không phải là công ích. Mà nhu cầu mở rộng phi trường rất khẩn thiết, rất quan trọng. Sự việc tới nay chưa giải quyết.

Vụ thứ ba tại Thành Phố HCM hồi đầu năm nay là chánh quyền cưỡng bức trắng trợn đất của khoảng 200 gia đình dân Lộc Hưng, quận Tân Bình. Đây là vụ điển hình của sự lấy quyền sống của dân, thể hiện tính hung bạo của cường quyền cộng sản, người dân không được lấy ý kiến, không được thông báo trước khi thi hành lịnh cưỡng chế. Dân chúng phản đối mãnh liệt. Đa số người định cư ở đây có từ hơn 60 năm từ Bắc di cư vào Nam, những gia đình nghèo, sống bằng nghề trồng rau. Nhu cầu công vụ để thu hồi đất của những người dân không thích hợp cho xây dựng công ích không quan trọng và không khẩn thiết. Xây một trường học có thể tìm một nơi khác không khó khăn. Cho nên chỉ xét sơ qua về nhu cầu và về cách cưỡng chế tàn nhẫn, không tuân thủ luật lệ của chánh quyền, làm cho nhiều người nghĩ tới bên sau vụ nầy có tư sản đỏ, như hàng ngàn vụ lấy đất dân đã xảy ra.

Vụ cưỡng chế đất đai người dân tại vườn rau Lộc Hưng , Tân Bình ngày 9/1/2019

3.Vi phạm quyền người lao động (Labor Rights)

Quyền của người lao động là một quyền quan trọng của nhân quyền. Quyền nầy được Công Ước Quốc Tế về nhân quyền công nhận và Tổ chức Lao Động Quốc Tế (International Labor Organization) ghi rõ ràng. Trong đó có các quyền căn bản: được thành lập công đoàn độc lập, quyền thương lượng tập thể, quyền được làm việc nơi an toàn và có vệ sinh, quyền không bị kỳ thị. Việt Nam có ký công nhận luật quốc tế về người lao động, nhưng trên thực tế chánh quyền Việt Nam không thi hành.
Năm qua có hai sự việc liên quan đến quyền lao động là: Cộng Đồng Âu châu không phê chuẩn Hiệp ước thương mại với Việt Nam (EVFTA) hồi tháng 11/2018 vì cho rằng Việt Nam chưa làm đủ yêu cầu nhân quyền, nhứt là quyền người lao động. Sự việc thứ hai là Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại CPTTP với 11 thành viên, không có Hoa kỳ (tháng 11/2018). Trong Hiệp định nầy, đó có điều quan trọng buộc Việt Nam phải cải sửa Luật Lao Động theo như luật quốc tế, tức là Việt Nam phải cho công nhân được thành lập công đoàn độc lập và quyền thương lượng tập thể để bảo vệ quyền lợi của mình. Việt Nam hứa nhưng chưa ban hành luật mới nầy. Từ trước tới nay, Công Đoàn của Việt Nam không độc lập, nó là một bộ phận của đảng.
Tuy nhiên với Hiệp định CPTPP 11 nước đã ký và Hiệp định Mậu Dịch Tự Do Âu châu – Việt Nam dù chưa chánh thức thì việc tranh đấu cho công đoàn độc lập và một số quyền khác, có cơ hội thuận lợi để công nhân và quần chúng tranh đấu bảo vệ nhân quyền.

4.Tình trạng tham nhũng

Trong năm qua nổi lên nhiều vụ tham nhũng kinh khủng. Các yếu tố tác động là do sự tranh đấu của dân, do chương trình đánh tham nhũng của TBT Nguyễn Phú Trọng, và do một phần áp lực quốc tế.
Ở Việt Nam tham nhũng là một đại họa. Nguyên nhân chánh là từ bản thể chế độ XHCN. Trong hai năm qua có các vụ tham nhũng lớn có thể tóm tắt như sau:
Vụ Tập Đoàn Dầu Hỏa VN (PVN): Tháng ba 2018, Đinh La Thăng và các viên chức lớn của PVN tiếp tục bị xử thêm tội đưa tiền gởi ở ngân hàng Ocean trái luật, gây thất thoát cho công quỹ ngàn tỷ đồng. Mới đây PVN bị đưa ra thêm một vụ rất to lớn nữa là Liên doanh khai thác dầu giữa Việt Nam và Venezuella. Việt Nam hùn với Venezuella khoảng 1,2 tỷ mỹ kim (40% vốn đầu tư). Sau 4 năm dự án nầy phá sản. Việt Nam mất tổng cộng gần một tỷ mỹ kim. Đây là trường hợp rất điển hình của đại tham nhũng cốt lõi quốc doanh và làm mất mát của công theo đúng qui trình và qui luật của chế độ XHCN.
Vụ Vũ nhôm (tên thật là Phan Anh Vũ) ở Đà Nẵng: Đây là vụ chiếm đoạt tài sản công qui mô tại Đà Nẵng và bị đưa ra xử trong năm qua. Vũ nhôm với danh nghĩa công ty địa ốc tư do các tướng Công an đứng phía sau, đã vừa móc ngoặc nhiều viên chức cao cấp của chánh quyền vừa ép buộc chánh quyền Đà Nẵng bán rất rẽ các lô đất công sản rất quí giá, không qua đấu thầu theo nguyên tắc. Sau đó đem bán lại cho tư nhân với giá rất cao, làm thiệt hại hàng trăm triệu mỹ kim công quĩ. Nội vụ chưa xong vì còn nhiều liên hệ đến một số viên chức khác, Vũ nhôm đang bị tù.
Vụ Mobifone: Là vụ đại tham nhũng do cấu kết giữa viên chức rất cao cấp của chánh quyền Việt Nam và tư sản đỏ. Công ty điện thoại di động của nhà nước Mobifone mua công ty AVG của tư nhân (2016) với giá 8,889 tỷ đồng ($391 triệu). Ngay việc công ty tư nhân đi bán cho quốc doanh là đi ngược chánh sách cổ phần hóa. Nhưng do sự cấu kết của viên chức cao cấp của Bộ Thông Tin, Công ty Mobifone (quốc doanh) mua công ty AVG (tư doanh) với giá cao 10 lần của giá thực tế. Sự cấu kết nầy làm thiệt hại công quỹ trên 300 triệu đô. Mặc dù khi đổ bể, AVG trả lại hợp đồng mua bán nầy. Dù vậy, đầu năm nay nội vụ bị đưa ra xử lý hình sự. Tổng Giám đốc và một số viên chức Mobifone và hai cựu Bộ trưởng Thông Tin, Trần Bắc Sơn và Trương minh Tuấn, bị bắt giam. Đây là vụ tham nhũng do lạm quyền và có cấu kết của các viên chức cao cấp nhứt, và là vi phạm lộ liễu nhứt.

Vụ tham nhũng Mobifone mua cổ phần tư doanh AVG. Mobifone là công ty viễn thông quốc doanh lớn thứ hai tại VN

Vụ bán công sản ở Thành phố HCM: TP/ HCM, một nơi coi như mỏ vàng của chánh quyền XHCN. Nên những vụ tham nhũng có thể nói to lớn nhất, kinh khủng nhất, vi phạm luật lệ và nhân quyền trắng trợn nhất, ngay từ khi CS chiếm miến Nam. Trong năm qua lòi ra các vụ viên chức chánh quyền bán nhà đất công sản không qua đấu giá, lớn nhất là khu đất vàng đường Lê Duẩn quận I, khu đất Nhà bè, khu đất giải tỏa trong đại dự án đô thị mới Thủ Thiêm.
Một vụ tham nhũng chỉ có ở nước Cộng Sản xảy ra trong năm qua là vụ hai tướng Công an tổ chức và bao che cho sòng bài qui mô hàng triệu đô la. Tổ chức đánh bạc ngay trên mạng CA, các viên chức lớn nầy lấy 20% tiền đánh bài. Hai tướng Phan văn Vĩnh và Nguyễn Thanh Hóa bị tù.
Tham nhũng là vi phạm nhân quyền lớn nhất trên thế giới. Tại Việt Nam thì nó quá kinh khủng. Nhờ một phần “chương trình đánh tham nhũng” của TBT Nguyễn Phú Trọng lòi ra nhiều vụ lớn và hoàn toàn do đảng viên cao cấp chủ mưu, cố ý và thiệt hại cho dân quá nhiều. Các nhóm đảng viên như loại siêu mafia thời XHCN. Dù việc triệt hạ nầy có tánh cách phe phái trong đảng đánh nhau để tranh giành quyền lợi.

5. Bước xâm lăng kinh tế Trung Quốc (TQ) tiến mạnh hơn

Trong năm qua TQ đẩy mạnh hơn nữa tiến bước xâm lăng kinh tế của TQ. Một tình trạng mà CSVN vừa bị ép buộc vừa tự cấu kết với TQ. Mức độ rất nguy hiểm và gây tai họa kinh tế cho mọi người dân. Các tiến bước cụ thể trong mấy năm vừa qua:
Sự thay đổi luật cư trú cho người ngoại quốc: Theo luật mới 2015 thì VN cho phép người ngoại quốc có Visa được quyền mua nhà ở, được cư ngụ 50 năm và sau đó có thể được gia hạn.Người TQ có thể mua nhà và ở Việt Nam dễ dàng. Giá nhà cửa tăng ngay. Người TQ mua nhà nhiều nhứt là tại TP/HCM, Nha Trang và Đà Nẵng.
Liên kết các tuyến giao thông mới: Các con đường bộ và đường xe lửa xuyên qua biên giới VN- TQ đã cải thiện và hoàn thành trong hai năm qua. Người TQ có thể qua lại dễ dàng.
Viet Jet Airline mở đường bay Đà Nẵng – Quảng Đông, 2017. Hãng Vietnam Airline cũng mở thêm các đường bay Nha Trang – Nam kinh, Quảng châu. Spring Airline của TQ mới mở thêm chuyến bay Shanghai- TP/HCM (2017).
Việt Nam cho Visa mới cho du khách TQ dễ dàng hơn. Du khách TQ tăng trung bình 51 % mỗi năm trong vài năm qua. Số người TQ tràn qua đông đảo như vậy làm nhiều xáo trộn cho dân chúng
Đầu tư TQ vào Việt Nam gia tăng nhanh từ hạng 9 (2014) lên hạng 3 (2017). TQ đầu tư đủ loại cạnh tranh với tư doanh Việt Nam.
Việt Nam cho phép xài tiền Yuan tại các tỉnh biên giới VN-TQ. Đó là sự vi phạm chủ quyền quốc gia.
VN- TQ cấu kết thành lập các Đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc với nhiều ưu đãi về thời gian thuê đất, thời gian miễn thuế. Đặc biệt là cho mở casino và khu nghỉ dưỡng nhằm thu hút đầu tư TQ và di dân TQ.
Các liên kết với TQ nêu trên trực tiếp hay gián tiếp làm TQ xâm nhập vào VN và gây nhiều xáo trộn xã hội.

6. Nhận xét và đề nghị

Qua sự tóm tắt về những vi phạm nhân quyền trầm trọng xảy ra gần đây, chúng ta có thể có những nhận xét:
Tổng quát những vi phạm nhân quyền, nhứt là tham nhũng làm cho VN bị mất mát khoảng 25% tài sản kinh tế và làm gia tăng mức cách biệt giàu nghèo quá cao cách khác thường (58 lần, theo World Bank 2013). Phần lớn các nghiên cứu quốc tế về VN có nhận xét tham nhũng từ trong cơ quan cảnh sát, thuế vụ, giấy phép hành nghề, xin sổ nhà đất. Thực sự những vụ tham nhũng lớn là từ đảng viên rất cao, như Bộ Chánh Trị, Trung Ương đảng , Tỉnh ủy..
Căn nguyên chánh yếu của vi phạm nhân quyền trên mặt kinh tế là do bản chất chế độ XHCN. Chánh quyền dùng luật pháp và nguyên tắc Hành chánh, Tổ chức Hành chánh chính thức và bán chính thức, cán bộ đảng viên, cấu kết nhau thành hệ thống vi phạm nhân quyền có chủ đích .
Mức độ vi phạm rất cao và bền vững. Hậu quả là mất niềm tin của dân chúng và của quốc tế.
Cụ thể là qua những cuộc biểu tình phản đối trong nước trong năm qua và những chỉ trích VN mạnh mẽ trong các buổi họp quốc tế về nhân quyền hay mậu dịch .
Những vụ sai trái quá lớn được lòi ra do chương trình đánh tham nhũng của TBT Nguyễn phú Trọng chủ trương phần lớn là đánh diệt phe phái tranh giành quyền lợi. Đó chỉ đánh một số nhỏ cá nhân đảng viên chớ không thể diệt và cải thiện nhiều tệ trạng được nếu CS còn.
Những vụ tham nhũng lớn làm mất công quỹ hàng tỷ đô la một năm. Và chỉ thu hồi lại được qua các vụ xử lý chỉ khoảng 30% số cướp đoạt. Những vụ mà chánh quyền nêu ra chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng chục ngàn vụ không đem ra xử trị.
Chánh quyền cấu kết với tư sản đỏ qua nhóm lợi ích. Đó là sự cấu kết đương nhiên và phải có trong mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Có quá nhiều thí dụ từ các khu xây dựng cao cấp ở Hà nội , Saigon, Phú quốc , Vân đồn.. Các trạm thu phí BOT trên nhiều tuyến đường.
Sự lệ thuộc kinh tế TQ là một đại họa chỉ nhìn trên khía cạnh nhân quyền về mặt kinh tế. CSVN và CSTQ đã cấu kết nhau càng ngày càng nhiều lên. Từ mậu dịch quá bất quân bình, đến các vụ thầu to lớn, không qua đấu thầu công khai. Ví dụ cụ thể gần đây là đường xe hỏa cao tốc Cát Linh – Hà đông, các nhà máy điện ở Bình Thuận, Trà vinh.. Thiệt hại nhiều tỷ với công trình kém phẩm chất.

Đề nghị:

Vấn nạn tham nhũng tại VN sẽ tồn tại khi chế độ XHCN còn ngự trị. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay trong nước và quốc tế, nhứt là lợi dụng nhu cầu hội nhập thế giới của VN, phối hợp tranh đấu có hoạch định, có bài bản, hy vọng có thể cải tiến cuộc sống tệ hại của dân chúng.
Trong nước, dân chúng và những Hội đoàn dân sự tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền, gồm trên mặt kinh tế, ít nhứt trên bốn lãnh vực:
Về sự cưỡng chế đất đai, trong nước cũng như quốc tế biết rất rõ những vụ nầy, cho nên sự kết hợp tranh đấu có kết quả ít nhiều.
Về quyền người Lao động: Dựa theo qui định của Hiệp định CPTPP và mậu dịch tự do của Âu châu, có thể tranh đấu thành lập Công đoàn độc lập.Vấn đề nầy có cơ sở luật lệ quốc tế và căn bản gốc quần chúng rộng rãi, chánh đáng. Cho nên cần khôn khéo tranh đấu . Cần sự trợ giúp của cộng đồng người Việt hải ngoại và các cơ quan quốc tế.
Về tham nhũng: Các Hội đoàn và dân chúng lợi dụng chiến dịch chống tham nhũng của đảng nêu ra các vụ nghiêm trọng bị dấu nhẹm từ trước. Khi các phe phái đánh nhau sẽ bể ra nhiều vụ lớn nữa. Ít nhứt đảng viên có chút lo sợ phải “vào lò đốt”. Sự lộ ra những vụ tham nhũng lớn là cho các nước có đối tác mậu dịch hay đầu tư với VN sẽ có cớ ép VN dần đi theo luật lệ quốc tế.
Cách cụ thể là cố gắng phối hợp đưa một số vụ tham nhũng lớn cho Bộ ngoại giao Hoa kỳ và Canada áp dụng Luật Magnisky. Luật nầy chế tài viên chức tham nhũng lớn, vi phạm nhân quyền không được vào Hoa Kỳ và tài sản ở Hoa kỳ và Canada bị đóng băng. Năm qua Hoa kỳ đã áp dụng cho một số vụ xảy ra ở Yemen, Panama.
Các tổ chức người Việt ở ngoại quốc cần báo cáo đều đặn, và đầy đủ những vi phạm nhân quyền cho Liên Hiệp quốc và các cơ quan quốc tế khác và một số chánh phủ.
Về sự xâm lăng kinh tế TQ: Chỉ riêng vịệc cấu kết giữa VN – TQ về sự chiếm đoạt quá đáng tài sản, tài nguyên của nước VN và sự việc giao cho công ty TQ thi công nhiều công trình lớn là sự vi pham nhân quyền kinh tế. Dân chúng và các nhà trí thức đã phản đối và nên tiếp tục chống lại chánh quyền CS về các vụ giao thầu cho công ty TQ và vay quá lớn tiền viện trợ TQ.

Nguyễn Bá Lộc (ĐS9/CH1)

Cali ngày 10 tháng tư – 2019

Views: 173

Kinh Tế Việt Nam 2018 và Căn Nguyên Trở Lực Tồn Tại

Nguyễn Bá Lộc

Dự án Tuyến Đường Sắt Cao Tốc Cát Linh – Hà Đông

Theo tin tức từ cơ quan chánh thức của VN thì năm 2018 kinh tế VN phát triển tốt hơn năm rồi. Thậm chí tốt hơn Trung Quốc.

Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn phiến diện hay không thật đúng từ phía chánh quyền, và thường là thế.  Dù có tiến bộ, nhưng nếu đi sâu vào thực chất và thực tế, kinh tế VN chưa bước qua được  giai đoạn hứa hẹn là sẽ đạt được sự bền vững, và có đủ sức tự lực vươn ra thế giới cách bình thường, có thể cải tiến thực sự mức sống của đa số người nghèo khó.

Cho tới nay, sau 40 năm đổi mới, những trở lực lớn có căn nguyên sâu xa vẫn tồn tại. Những trở ngại nầy là những bức tường ngăn cản, là phong ba tàn phá những cố gắng của toàn dân hầu xây dựng một Việt Nam khá hơn về nhiều phương diện.

I. TÓM LƯỢC KINH TẾ VN NĂM 2018

Toàn cảnh nền kinh tế VN 2018:

Chánh quyền đưa ra những con số mà họ cho rằng kinh tế có tiến bộ. Cứ tạm nhận các thống kê đó. Song, bên cạnh cái tổng quát đó, có những tiêu cực kèm theo trong mọi lãnh vực kinh tế.

Tỷ suất phát triển đạt 7.08%, cao nhứt trong 10 năm qua. Năm 2017 là 6.8%. Nhưng theo World Bank thì tỷ lệ nầy vào khoảng 6.7%.

Nếu thực sự có đạt mức nầy thì kinh tế VN là khá hơn các nước Đông nam Á, kể cả Trung Quốc. Năm rồi TQ bị nhiều khó khăn hơn, theo ước lượng của các chuyên gia quốc tế, chỉ đạt 6.5%.

Vì kinh tế nội thuộc rất tệ hại, VN chỉ còn con đường duy nhứt là đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Đó là đầu tư ngoại quốc và xuất cảng, hai lãnh vực VN có nhiều lợi thế nhứt làm tăng trưởng kinh tế chung.

Đầu tư ngoại quốc (FDI) tăng khá hơn, trên doanh số $35.5 tỷ mk, tăng 12% so với năm qua. FDI chiếm hơn 30% tổng số đầu tư.  Mặt khác, năm qua, TQ gia tăng đầu tư ở VN trong mục tiêu xâm chiếm kinh tế, tiến hành dự án Belt & Road, và né tránh chiến tranh mậu dịch với Hoa kỳ.

Theo các nhà nghiên cứu, cho tới nay thì nhân công rẻ vẫn còn là yếu tố thu hút mạnh nhứt FDI (giá nhân công VN nay bằng 50% TQ, và 40% Thái Lan). Tuy nhiên năng xuất công nhân VN hãy còn quá thấp, nhứt là trong lãnh vực công nghệ cao.

Xuất nhập cảng: Xuất cảng tăng 16% so với 2017. Hàng xuất cảng từ các công ty ngoại quốc chiếm khoảng 25% GDP, tỷ lệ rất cao so với nhiều nước ở Á châu.

Các hàng hóa xuất cảng chánh yếu là:  Linh kiện điện tử , quần áo may mặc, giầy dép. Hai thị trường lớn của xuất cảng VN là US (tăng 12.5%) và TQ đều tăng (7%). Trong đó cá basa qua Mỹ, dù tăng, nhưng nay sẽ gặp khó khăn hơn vì US có đạo luật mới chuyển sự kiểm soát cá từ FDA qua cho Bộ Canh nông.

Nhập cảng cũng tăng. Do đó nhập siêu vẫn tăng tại một số thị trường quan trọng như Hoa kỳ. Mặc dù nhập siêu với TQ có giảm, hàng TQ vào VN chiếm vị trí thứ nhứt, với đủ thứ, chưa kể hàng lậu từ biên giới ước lượng 20 tỷ mk / năm.

Nông nghiệp không có tiến bộ lạc quan. Giá cả nông sản vẫn không ổn định. Vùng đồng bằng sông Cửu Long gặp khó khăn vì các đập thủy điện bên Lào do TQ xây cất và bão lụt lớn ở miền Trung. Hàng lậu hàng giả TQ tràn qua.

Về hạ tầng cơ sở vẫn còn nghịch lý to lớn là chánh quyền với những dự án rất lớn hàng tỷ mỹ kim xây các đường cao tốc, trong lúc đó ngay tại Saigon và Hà nội rất nhiều con đường bị bể bị nghẻn bị nước ngập tại các khu nghèo, hàng chục năm rồi vẫn thế.

Một nghịch lý khác về đầu tư phát triển gia cư. VN có nhiều khu gia cư cao tầng, khu nghỉ dưỡng sang trọng cho người giàu có bất thường, và người Tàu mới di cư tới. Trong khi đó có rất nhiều nhà ổ chuột ở thành phố của công nhân, và nhà lá rách nát của nông dân, đáng lý phải có chương trình gia cư xây nhà rẻ bán góp cho cho những người dân nghèo khỗ nầy.

Dầu khí sản xuất bị giảm, ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngoại tệ. Các công ty quốc tế khai thác dầu lo ngại về sự căng thẳng thêm ở biển đông.

Tổng quát chỉ số giá cả tăng 3.6% so với năm trước (theo báo Nhân Dân Online). Chánh yếu do tăng giá xăng .

Mặt khác, chỉ số tiêu thụ của giới có lợi tức trung bình tăng. Điều nầy làm cho một số nước có xuất cảng mạnh có hy vọng hơn về thị trường VN, như Hoa kỳ , Âu châu , Nhựt, Đại hàn, Trung quốc. Các món hàng có triển vọng nhập cảng tăng như hàng tiêu xài cao cấp, thuốc men, máy móc, xe hơi (gia tăng 27% năm qua) và cả sản phẩm quốc phòng.

Tài chánh/ngân hàng: Nợ công rất cao, không giải quyết nổi. Tỷ lệ nợ công thực tế lên tới 210%/GDP. Vì khu vực quốc doanh vẫn lỗ nặng . Chánh phủ vay thêm nợ mới phần lớn chỉ để trả nợ cũ. Do đó nợ xấu rất cao 15 % tổng số tín dụng, (theo Lowy Institute), các nước Á châu chỉ vào khoảng 3-5%.  75% nợ xấu là thuộc quốc doanh.

Tính đến cuối quí ba năm2018 có 13 ngân hàng trong 17 ngân hàng lớn báo cáo là có nợ xấu gia tăng. Ngân hàng quốc doanh lớn là VietinBank có nợ xấu tăng 34.5% so với năm trước. Ngân hàng quân đội có nợ xấu tăng 45%. (Theo VN Express)

Về hội nhập toàn cầu:  Trở lực quan trọng là VN chưa được Hoa kỳ và một số nước công nhận là nền kinh tế thị trường. Khi chưa là nền kinh tế thị trường thì các nước nầy có thể đánh thuế phá giá hay hạn chế nhập cảng mặc dầu VN là thành viên WTO.

Hoa kỳ rút ra khỏi TPP và chưa tái gia nhập. Năm qua, Hiệp định TPP với 11 nước có tên CPTPP và VN đã chánh thức là thành viên.

Về Hiệp định Mậu dịch tự do VN – Âu châu (EVFTA) chỉ xong ở giai đoạn một hồi tháng 10/2018. Nhưng  phải qua quyết định chung cuộc vào đầu năm 2019.

(Chi tiết về mậu dịch quốc tế của VN sẽ được trình bày ở phần dưới bài nầy.)

Nói tóm lại, tình hình kinh tế VN 2018 có một số tiến triển. Nhưng bên cạnh đó còn quá nhiều khó khăn như nói ở trên.

Và nếu đi sâu vào thực trạng kinh tế chánh trị, tương lai nền kinh tế vẫn bị vướn kẹt những trở lực nghiêm trọng có căn nguyên rất sâu xa, được tóm tắt dưới đây.

II.TRỞ LỰC KINH TẾ SÂU XA TỒN TẠI

1. Trở lực do bản thể chế độ và cơ cấu kinh tế

Vì là chế độ độc tài, không dân chủ tự do về chánh trị, nên khi có chuyển đổi qua phần nào kinh tế thị trường, nền kinh tế chung vẫn đi cách khập khểnh và nhiều mâu thuẩn .

Mô hình “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”, trên thực tế là một mô hình lưỡng thể. Nó vừa là sự hòa hợp vừa tương tác, vừa thuận lợi vừa đối nghịch.

Các năm qua, chánh quyền chỉ cởi trói các lãnh vực nhỏ, và tới nay chánh quyền vẫn nắm chặt các bộ phận cốt lõi và quan trọng. Đường hướng đó vừa có tánh tản quyền vừa tập quyển.  Vì thế có nhiều áp bức, nhiều va chạm, vừa siết vừa buông.

Trong một guồng máy công quyền như vậy, hầu hết cán bộ viên chức, ngày này qua ngày nọ, đầu óc luôn chỉ suy nghĩ, tính toán kiếm tiền vừa trả “hụi chết”, vừa tạo cuộc sống thật giàu có cho gia đình. Những suy tư cho công ích cho tiến bộ đất nước chỉ là phụ. Đó là một trong các trở ngại của bộ máy nhà nước .

Các trở lực đó kéo dài vì bản thể chánh trị không thay đổi nên các hình thái kinh tế vĩ mô không thay đổi.

Triết lý và nguyên tắc căn bản của hành chánh công, mà chánh quyền CSVN đã thể hiện với  nhiều sai lạc, qua các công đoạn của một tiến trình quản lý hành chánh công:

Về xác định đúng nhu cầu đất nước: Mục tiêu sau cùng của VN là Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) như CSVN từng tuyên bố ‘Mục đích sau cùng là XHCN”, nên vẫn phải giữ “quốc doanh là chủ đạo” . Ngay bước đầu tiên là một bức tường chắn rồi. Như vậy rất khó có nền kinh tế thị trường thực sự. Hiện nay, chánh yếu phải dựa vào kinh tế đối ngoại, tức là dựa vào kinh tế các nước tự do dân chủ, đó là cái sân chơi quốc tế. Nên mâu thuẩn và cản trở đương nhiên phải có. Mặt khác, sự lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế TQ cũng là một sai lầm và nguy hiểm cho sự phát triển bền vững và tự chủ.

Về xác định và chọn lựa mục tiêu ưu tiên: VN tiến hành gần như trái ngược. Có những mục tiêu không ưu tiên thì làm trước. Công việc làm và sửa chửa đường và cống rảnh bị bể nát , bị ngập nước trong thành phố đáng lẽ phải là ưu tiên hơn làm dự án rất tốn kém như dự án Metro Bến Thành – Suối Tiên với chi phí trên 2 tỷ mỹ kim. Dự án cao tốc Cát Linh – Hà Đông tốn gần một tỷ mỹ kim. Cả hai dự án sau 4-5 năm nay vẫn chưa xong.

Sài Gòn chưa mưa đã lụt….

Về quyền chuẩn phê dự án:  Ở VN sau khi đổi mới, hệ thống đảng và chánh quyền có sự tản quyền từ trung ương xuống địa phương. Điều nầy đúng vì làm cho công vụ nhanh hơn hữu hiệu hơn. Nhưng thực tế, Bộ Chánh Trị và chánh quyền trung ương dành lại quyền tuyệt đối nắm cái cốt lõi, và không có thể thống đứng đắn trong chọn lựa và chuẩn phê dự án. Như việc trung ương nắm hết viện trợ, địa phương nào biết điều thì được phân bổ. Nguyên tắc của VN là nếu dự án trị giá từ 10.000 tỷ đồng (độ $500 triệu mỹ kim) trở lên phải qua Quốc hội cứu xét. Thực tế không có. Như dự án Cát Linh-Đông Hà, dự án Nhiệt điện Duyên Hải, dự án Thủ Thiêm, dự án Bauxite… Các đại dự án do Bộ Chánh Trị quyết định, gần đây như dự án “Ba đặc khu Hành chánh kinh tế” năm qua. Dù Quốc hội hoãn biểu quyết luật, nhưng Bộ Chánh Trị đã quyết định và chỉ thị thực hiện từ 2017. Quốc hội chỉ để trang trí thôi.

Về hoạch định dự án phải tương đối chính xác về hai mặt kỹ thuật và tài chánh. Về kỹ thuật không thể có quá nhiều sai trái lệch lạc. VN thì làm kế hoạch nhiều sai trái. Giữa giai đoạn thi công phải thay đổi kỹ thuật, chậm trễ thời gian dài gấp đôi. Điểm thứ hai là phải tính toán kỹ càng chi phí. Nếu công trình phải làm lâu ba bốn năm, trên nguyên tắc, chi phí có thể phải điều chỉnh, vì vật giá gia tăng. Nhưng thông thường không quá 10-20%. Đằng nầy các dự án của VN thường đội vốn tức tăng chi phí lên từ 50-100% sau khoản ba năm thi công. Ví dụ như dự án cao tốc Cát Linh – Đông Hà đội vốn thêm lên 60 %. Hoặc nhiều công trình bị hư hỏng quá sớm  trước thời hạn, như đập thủy điện Sông Đà. Tài chánh chi phí thì rất quan trọng, nhứt là trong nước nghèo, ngân sách luôn thiếu hụt. VN không coi trọng nguyên tắc “tối thiểu phí tổn tối đa lợi ích”. Tiền nhà nước là tiền chùa. Dự án nào cũng bị cướp mất độ 30% vào túi viên chức liên hệ. Có nhiều lắm, từ trung ương tới địa phương, từ cầu cống , xa lộ, bến cảng, phi trường, các đoàn kinh tế, hầu hết giao thầu nhứt là giao cho TQ, thay vì cho đấu thầu thì tiết kiệm nhiều tiền công quỹ (mỗi năm đầu tư công của VN từ 10-20 tỷ mỹ kim).

Về cơ cấu quyền lực: Năm 2018 có sự thay đổi quan trọng về hình thức, nhưng trên thực tế không gì quan trọng. Đó là “nhứt thể hóa” Tổng Bí Thư Đảng và kiêm Chủ Tịch Nước. Vẫn có hai bộ phận hai văn phòng với ngân sách to lớn và mức độ độc tài mạnh hơn. Khâu thanh tra kiểm soát các công trình nguyên tắc rất quan trọng. Nhưng VN coi thường khâu nầy cách cố ý. Vì vậy hầu hết các công trình rất sai sót, và khi sử dụng bị hư hỏng thì mới lòi ra.  Thanh tra chánh phủ không có quyền đề nghị biện pháp chế tài cho các viên chức cấp từ Bộ trưởng, Phó Bí Thư, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân cấp tỉnh, thành phố trở lên nếu chưa có ý kiến của Ban Thanh Tra đảng. Đó là nơi  “chủ đạo” của đại tham nhũng.

Nguyên tắc tôn trọng luật lệ là một trong những nguyên tắc chánh của một nước theo pháp trị. Ở VN thì luật pháp và công lý không phải bảo vệ dân mà chỉ là bảo vệ đảng. Khi vào quốc tế, VN  phải tôn trọng luật lệ quốc tế, không thể gian dối, như luật lao động phải theo luật của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhưng tới nay VN chưa hoàn tất. Trong lúc đó thì VN lại ban hành nhanh chóng luật có hại như luật an ninh mạng. Theo các nhà đầu tư ngoại quốc thì luật nầy có tác dụng bất lợi cho kinh tế.

Về mô thức kết hợp công tư: Hầu hết các quốc gia đều có sự kết hợp khu vực công và tư trong một số công tác.  Ở VN khi theo mô hình kinh tế thị trường, thì phải có thành phần kinh tế tư doanh. Nhưng VN tạo dựng doanh nhân tư như là bàn tay nối dài của chánh quyền. Tại VN có hai loại tư doanh. Loại nhỏ, hay rất nhỏ thì độc lập hay nằm ngoài quỹ đạo chánh quyền. Còn loại tư doanh lớn, có bà con bạn bè với đảng viên, thì nằm trong quỹ đạo của chánh quyền, đó là bọn tư sản đỏ. Khi quốc doanh còn chủ đạo bắt buộc phải có tư sản đỏ để cùng viên chức đảng viên hợp tác, chia sẻ chiếm đoạt bóc lột tài sản công. Tình trạng nầy thật khủng khiếp, không tưởng tượng nỗi, chỉ có ở nước XHCN.

2. Trở lực do bộ máy công quyền và sự cấu kết cướp đoạt tài sản

Tệ hại của bộ máy quản lý kinh tế: Bộ máy hành chánh của VN quá kém, quá xấu về nhiều phương diện. Trong bài nầy, tôi chỉ nêu hai điểm liên hệ là: Thứ nhứt chính bộ máy đó là một cản trở cho phát triển. Thứ hai chính viên chức trong guồng máy đó cấu kết tạo nhũng lạm.

Thứ nhứt, bộ máy công quyền là một cản trở cho phát triển.

Nguyên tắc thông thường bộ máy công quyền có nhiệm vụ chánh là thi hành các mục tiêu của quốc gia. Nước nào cũng phải có bộ máy đó. Phải có khối người làm việc trong bộ máy đó. Bộ máy đó phải giúp dân, phải làm cho tốt, phải phục vụ dân và xây dựng đất nước. Đó là “bổn phận” chứ không phải “quyền”. Ở VN  bộ máy đó cản trở con đường đi tới của dân bằng luật lệ và bằng cơ quan nhà nước các cấp như:

Luật đất đai: Quyền sở hữu bị tước đoạt. Quyền tư hữu là một kích thích sự gia tăng hiệu quả lao động. Chánh quyền làm trung gian thu hồi đất trả giá thấp bán lại cho công ty gấp chục lần cao hơn đưa tới hai hệ quả: người bán đất bị thiệt mất một số tiền, đáng lẽ họ phải có, để họ có thể dùng cho công việc làm ăn hay ruộng vườn nơi cư trú mới, hầu gia tăng phát triển thêm. Mặt khác, công ty kinh doanh bị cơ quan đứng giữa với giá quá cao, làm cho chi phí kinh doanh cao, giá thành phẩm hay dịch vụ cao, hạn chế phát triển kinh tế.

Việc thiết lập dự án và thực hiện dự án tốn kém quá nhiều vì qua nhiều cơ quan, nhiều viên chức, và kéo dài thời gian. Có rất nhiều dự án đã làm như vậy. Chẳng hạn dự án Đô Thị Mới Thủ Thiêm, dự án đường cao tốc Cát linh-Đông hà. Cùng một phương cách làm việc, con đường ấy đi vòng vo , từ Trung ương đảng, Bộ chánh trị , Ban cán sự Trung ương đảng , Ban cán sự đảng cấp Bộ , hay Tỉnh. Bộ phận nhận lịnh của Bộ (hay Tỉnh) phải hội thảo lấy ý kiến các Bộ , cơ quan khác. Mời cơ quan tư vấn. Đi ngoại quốc nghiên cứu thực tế. Lên kế hoạch chi tiết trình cơ quan bên Chánh phủ. Rồi trình lên văn phòng đảng lấy sự chấp thuận. Đến giai đoạn giao thầu (không đấu thầu là sai nguyên tắc) cho tư doanh lại phải tìm “phe ta” hay công ty nào “lợi quả” cao nhứt. Thường các dự án lớn phải điều chỉnh nhiều lần trong giai đoạn thi công. Thì phải qua nhiều trạm gần như trước. Mỗi lần nhờ một cơ quan để xin ý kiến là phải biết điều. Chưa kể các Ban Kiểm Tra. Như vậy khi đầu tư dự án lớn, trên vài trăm triệu mỹ kim thường phải tăng chi phí gấp từ 50-100% và thời gian thực hiện cũng gấp đôi là chuyện thường tình ở VN. Chi loại không chánh thức quá nhiều. Thời gian kéo dài thêm làm tăng tiền lãi các món nợ và thì giờ làm việc. Hệ quả là thiệt hại cho mức độ và chất lượng phát triển, nghĩa là thiệt hại cho ngân sách và cho nền kinh tế chung.

Thứ hai, bộ máy công quyền chủ mưu tạo ra tham nhũng.

Tham nhũng ở VN là quốc nạn, ai cũng biết. Trên thế giới có nhiều quốc gia có nạn tham nhũng. Nhưng ở VN thì chính các bộ phận của đảng và chánh phủ trực tiếp với đa số tuyệt đối viên chức của các bộ máy đó. Cho nên có thể nói cách tổng quát chính bộ máy lưỡng thể đó là chủ mưu trực tiếp tham nhũng trong các vụ lớn, và gián tiếp trong các vụ nhỏ. Viện chức trong bộ máy đó cấu kết hàng ngang và hàng dọc tạo ra sự cướp đoạt nhiều loại tài sản công và tư.

Cho nên đánh tham nhũng là tự đảng CS đánh “đảng ta”. Nếu đánh hết thì còn ai làm việc, toàn bộ máy chánh quyền bị đóng cửa.

Trong năm qua, chiến dịch đánh tham nhũng của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khá “hấp dẫn, khá vui”. Đây là lần đầu tiên đảng đánh đảng, lớn và nhiều. Nhiều đảng viên lớn, bị vào tù. Trong đó có thể kể các vụ:  Petro VN với Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, sơ khởi thiệt hại cho công quỹ vài trăm triệu đô. Vụ công ty Mobifone , gần 500 triệu đô, vụ bán đất quận 2, đất Thủ Thiêm, đất Nhà Bè của TP HCM có lẽ cả tỷ mk, vì nội vụ chưa xong. Vụ công trình đường cao tốc Cát Linh- Đông Hà, Metro Bến Thành-Suối Tiên mất mát nhiều trăm triệu đô. Vụ Vũ Nhôm Đà Nẵng tóm thu nhiều khu nhà đất quí ở Đà Nẵng không qua đấu thầu, rồi bán lại cho tư doanh giá gấp vài chục lần cao hơn, thiệt hại ngân quỹ nhà nước nhiều trăm triệu Mỹ kim.  Vụ các ngân hàng Agribank, BIDV, Ocean Bank, ngân hàng Đông Á,.. vi phạm luật lệ, cấu kết tư sản đỏ lấy tiền ngân hàng đầu tư nhà đất và bị mất gần hết. Và còn rất nhiều vụ nữa xẩy ra hầu hết trên cả nước cũng có cái kiểu gần như vậy.

Đinh La Thăng hầu tòa

Các vụ tham nhũng to lớn đó rõ ràng cho thấy tình trạng tham nhũng ở VN là có kế hoạch, đúng qui trình, có tham dự của viên chức cao cấp, và thiệt hại quá lớn. Trong các vụ tham nhũng lớn như vậy, người dân thường không dính vào, chỉ có loại “công dân đặc biệt” là “tư sản đỏ” mới dính vào, mới được chia lợi.

Sự cấu kết giữa viên chức với tư bản đỏ là một hình thái đặc biệt của VN và TQ. Lợi dụng nền kinh tế đa thành phần và mục tiêu làm giàu của đảng viên, sự kết hợp công (tư sản nhà nước) và tư (tư bản đỏ) là công thức tốt nhứt cho đảng . Nhà nước có nhiệm vụ huy động tiền bất cứ từ nguồn nào. Bộ chánh trị và các bộ của chánh phủ nghĩ ra các mục tiêu (không cần đúng với nhu cầu đất nước). Lập ra hay thảo luận với nhóm tư sản đỏ, là bà con hay bạn bè đảng viên cao cấp, từ Tổng bí thư, Thủ tướng, Bộ trưởng, Tướng lãnh. Giao các dự án hay nhà đất công sản cho “công ty tư sản đỏ” số 1. Công ty số 1 nầy giao lại cho công ty số 2 với chia chác tiền thầu. Nhiều công trình lớn đều làm như vậy. Cứ như thế “công tư hợp tác lưỡng lợi”. Đất nước thiệt . Đảng viên giàu lên. Tỷ phú VN nẩy nở thêm.

3.Trở lực do lệ thuộc kinh tế TQ và Hội nhập toàn cầu

Chủ trương của VN là mở rộng mậu dịch quốc tế càng nhiều càng tốt. Đó là vấn đề sanh tử cho kinh tế VN. Mặc dù có kết quả tốt. Nhưng tới năm qua, khó khăn lớn vẫn còn . Ở đây tôi chỉ nói tới hai thị trường lớn là Trung quốc và Âu Mỹ.

Việt Nam và Trung Quốc . Trên bình diện kinh tế đối ngoại, VN vừa bị TQ ép, VN vừa tự muốn gia tăng hợp tác kinh tế với TQ. Cả hai mặt, VN đều có những khó khăn to lớn, tôi xin tóm tắt:

Mậu dịch hai chiều.  Tiếp tục gia tăng. Mặc dù có chút cải thiện là xuất cảng hàng VN qua TQ gia tăng tỷ lệ cao hơn gia tăng hàng nhập từ TQ.

Trong 9 tháng đầu năm 2018 VN nhập của TQ $47.26 tỷ hàng hóa, và xuất sang TQ $28.8 tỷ.

Công ty truyền thông VN xử dụng đa số sản phẩm của công ty Huawei và ZTE, hai công ty bị US chế tài, và nhiều nước tẩy chay. Đây là ví dụ về sự áp đặt rõ ràng và tệ hại.

VN tiến hành nhanh chóng dự án “Hai hành lang một con đường” với TQ. Đó còn là một nguy hiểm về an ninh. Sức ép tiếp tục ngày càng nặng thêm. Đặc biệt VN cho phép chánh thức xài tiền TQ (yuan) tại 7 tỉnh biên giới. Một hình thức mất chủ quyền quốc gia.

Viện trợ :  TQ với dự trù chi $1,000 tỷ mk cho đại dự án Belt & Road, nên tung tiền ra nhiều cho các nước kể cả VN với tiến trình thực hiện mục tiêu “Giấc mộng Trung hoa”. Tiền vay có hai bước. Lần đầu lãi suất ưu đãi, sau đi nữa chừng vay với lãi suất cao. Không trả nợ được sẽ bị sai áp đất đai, cảng, phi trường.

Người Tàu du lịch qua VN nhiều hơn (tăng 50% năm qua). Tương lai sẽ có những khu nghỉ dưỡng cho họ.

Ba Đặc khu Hành chánh – kinh tế Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc: Trung ương đảng và Bộ chánh trị đã quyết định hồi năm 2017. Và  đưa dự luật qua Quốc hội biểu quyết cho có hình thức hồi tháng 6/2018. Nhưng bị dân chúng chống đối mạnh mẽ, Quốc hội cho hoãn lại. Về hình thức lẫn nội dung, ba Đặc khu nầy gần như là VN lập ra theo như kế hoạch của TQ trong Belt & Road, nhứt là các điểm vô lý và nguy hiểm như cho thuê đất 99 năm, vay số tiền rất lớn TQ (nhiều tỷ mk) cho hạ tầng, đầu tư casino, đầu tư nhà đất kể cả khu nghỉ dưỡng.

Đọc tiếp…

Views: 200

Lessons From The Vietnam War

Dr. Ta Van Tai


Dr. Tai, born in North Vietnam, came south with his family after the 1954 Geneva Conference along with a million other northern refugees. He has a law degree from the University of Saigon and a Master degree and doctorate from the University of Virginia in International Relations.
In 1965, he returned to Vietnam to work as an attorney and professor of law and political science. Having fled Vietnam in 1975 for the U.S., he earned a law degree from Harvard in 1985, passed the Massachusetts bar in 1986, and has practiced as an attorney ever since.
Concurrently, he continued his association with Harvard as a research fellow and lecturer in Chinese-Vietnamese law. His many books and articles include The Vietnamese Tradition of Human Rights, Immigrants in American Courts, and The Code of the Le Dynasty (co-author). He has returned to Vietnam in a variety of academic roles.
Dr. Tai appears in Who’s Who in American Law, Who’s Who in the World, Who’s Who in America, and Who’s Who Among Asian Americans.

LESSONS FROM THE VIETNAM WAR

Lessons? For whom? They are different for the different parties. An American might be tempted to fix on who “lost” Vietnam – Congress, the executive, the military or the media. A South Vietnamese would surely name the U.S. pullout as a major factor in his country’s defeat and draw some obvious conclusions. As for the victorious North Vietnamese, Foreign Minister Nguyễn Cơ Thạch once gave an arrogant reply to Robert McNamara’s proposal for a lessons-learned symposium: “We won the war; why would we need to learn any lesson from it?” Yet the Communists, it can be said, lost the peace for the first decade after the war ended in 1975, because they suffered an embargo, were denied normalization with the U.S., and presided over a backward country that kept their people’s lives miserable for many years in comparison with other Southeast Asian nations.

For the Communists, too, there are lessons to be learned. Despite an autocratic regime which does not tolerate political dissent, and which abuses human rights, perhaps they have learned some lessons. According to the World Bank in 2018, for example:
“Vietnam’s development record over the past 30 years is remarkable. Economic and political reforms under Đổi Mới [an economic reform program], launched in 1986, have spurred rapid economic growth and development and transformed Vietnam from one of the world’s poorest nations to a lower middle-income country.”  (155)
Despite the complexities, I will try to answer the lessons-learned question as a conscientious historian who was a member of South Vietnamese society and is now a grateful U.S. citizen, and as a person who looks back at his motherland with his best wishes for the people there, even as he criticizes certain Vietnamese government policies. I will try to take the long view of history.
I see five lessons from the Vietnam War of 1960 to 1975, so called to distinguish it from the 1945 to 1954 Indochina War.:

  1. First, changing national interests in the Vietnam war led to drastic changes in the war’s nature and the strategy needed to fight it successfully.
  2. War should end with a negotiated peace, and with a political solution that sees an end to the intransigence that is appropriate for war but not for peace.
  3. The people are the final arbiter on a war’s conduct. War should be referred to the people as the ultimate arbiter. War should not be between armed forces directed solely by generals and their leaders but should be supported by the population as a whole, who should be consulted when war is declared and when peace is negotiated.
  4. If peace is to be enduring, war should end with reconciliation.
  5. South Vietnamese and American Presidential leadership was one factor in the Vietnam War’s outcome.

Hindsight, of course, makes the war’s lessons easier to understand. But a scholar’s well-researched views on the lessons of history can still serve policy-makers well, even during urgent deliberations, because they can enable sound solutions with fewer missteps. Confucius, Sun Yu, Aristotle and others contributed by their advice to wise statecraft, just as modern European and American governments benefit from the work of think tanks and universities. Thus, the utility of the exercise we are engaged in today. Here are my five lessons from the Vietnam War:

1.The first lesson: Changing national interests in the Vietnam war led to drastic changes in the war’s nature and the strategy needed to fight it successfully.

In Vietnam, a civil war became uncontrollable because it became an internationalized proxy war, with outside powers intervening to suit their interests, and with the United States then abandoning the fray because its interests had changed. (156)
Vietnam’s protracted, bloody Communist-nationalist civil war became an internationalized conflict promoted by the two big power blocs, and the two sides in the small country of Vietnam were touted as a vanguard of the Socialist Bloc and the bulwark of the Free World. Both sides depended on the big powers’ political, military and economic support. Once the United States started cooperating with China after Kissinger’s and Nixon’s trips to Beijing, the Americans had no more national security interest in devoting resources to defend South Vietnam.

So the U.S. abandoned South Vietnam. It made many concessions to North Vietnam (the Democratic Republic of Vietnam, or DRV) in the Paris Peace Accords of 1973, agreeing to a “leopard skin” ceasefire in South Vietnam (the Republic of Vietnam, or RVN) that left North Vietnamese troops in place, jeopardizing the South’s survival, and aiming to bring home American troops and prisoners of war to satisfy the American public. At the same time, the U.S. failed to replace lost South Vietnamese arms and ammunition on a one-for-one basis, as promised, or even to permit South Vietnam to use the American Aid Fund (Quỹ Đối Giá) to pay the salaries of its soldiers and police.

When North Vietnam’s all-out invasion caused the South to collapse in 1975, Secretary of State Kissinger hid from Congress the promise of President Nixon in his letters to President Thiệu to come to the rescue of South Vietnam with B52 bombing and arms aid; thus, both Congress and President Ford talked at the end only about the evacuation of the Americans from Vietnam. U.S Ambassador Graham Martin, visiting Washington at that time, condemned the American stance. “I think all over the world, everyone has reached a conclusion very harmful to us. That is it would be better to be an ally of Communism than to have the woe of being an ally of the United States.”

The South Vietnamese leaders, of course, should have been aware long before 1975, of the impermanency of big-power support and an eventual U.S. withdrawal due to changing national interest. The South Vietnamese leadership might have guessed that although in 1954 the U.S. wanted to replace France in South Vietnam as part of the containment policy against Communist encroachment in Asia, and although the Americans had supported the Ngô Đình Diệm regime as a “bulwark against Communism in Southeast Asia” and called President Diệm the “Churchill of Vietnam,” in later years there would likely be an American disengagement due to war weariness among the public and the surging anti-war movement. The result was President Johnson’s loss of hope and his decision not to run for re-election in 1968.
I began around that time to express, as a scholar-professor, my worry of the impact of decreased United States support for relevant South Vietnamese officials, such as the colonels and generals who studied at the National Defense College in Sài Gòn. (157)

With the U.S. disengagement and drastically fewer supplies, the South Vietnamese had to face by themselves the continued civil war waged by the Vietnamese Communists, who launched their final offensive with maximum assistance in arms and transportation from China and the Soviet Union. After the resignation of President Thiệu in late April 1975, the successive South Vietnamese governments of Trần Văn Hương and Dương Văn Minh tried to negotiate a cease-fire, as if the civil war could be settled among “Vietnamese brothers,” with the encouragement and good offices of French Ambassador Merillon, trying to carry on for the fading Americans.
But the victorious North Vietnamese forced the Dương Văn Minh government to accept unconditional surrender Dương Văn Minh on April 30, 1975. The political compromise that Thiệu could have pursued with the signing of the Paris Accords in 1973 was no longer available in the face of the now-lopsided imbalance of power (Thiệu himself had previously said that South Vietnam’s military potential had decreased by 60 percent). The South Vietnamese were now aiming mainly at a short humanitarian interregnum for those who feared for their lives under the Communists to leave Vietnam, as in 1954, when hundreds of thousands of refugees moved from the North to South Such a cease-fire was also meant to avoid the burial of Sài Gòn under a sea of firepower (biển lửa) at the hands of Communist troops. (158)
The Americans, even after abandoning South Vietnam as a result of their changing view of their national strategic interests, did not abandon their humanitarian instincts. In 1975, President Ford proposed to Congress that the U.S. fund the rescue of Vietnamese refugees from inside Vietnam or from the South China Sea, and bring them halfway around the world to the United States, welcoming them to their second homeland at a time when they might have been regarded as simply the flotsam and jetsam of the Vietnam War. For this, Vietnamese in the United States will always thank the American people.
On the issue of whether the Vietnam War was a civil war or an international war by proxy, the answer is not a simple one. It was first a civil war, beginning, from 1945 and before the French attempted to return to Indochina. Then, gradually, it was internationalized by the British, the Nationalist Chinese, the French, the Americans and finally the People’s Republic of China, all injecting into Indochina their concern for their own national interests. Finally, after the 1973 Paris Peace Accords and the withdrawal of American troops and the return of American prisoners, the war returned to its civil-war status.
After the Việt Minh under Hồ Chí Minh seized power in August 1945, there was, early in September some friction between the Việt Minh and the Vietnamese Nationalist forces. The latter accused the Việt Minh of being Communists; the Việt Minh, in turn, denounced their opponents — the Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội VNCMĐMH, or Vietnam Revolutionary Alliance) and the Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ, or Vietnam Nationalist Party) — as reactionaries. These Nationalist forces planned to rely on the support of China’s Kuomintang (the Nationalist Party of Chiang Kai Shek) – support they had enjoyed since their exile to China after the failed rebellion of Nguyễn Thái Học in 1930 — in their plot to overthrow the Provisional Coalition Government of Vietnam (Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam), formed by Hồ Chí Minh on January 1, 1946, even though they already had a few representatives inside that government.

But these Nationalist parties could not carry out their plan; they lacked unity and had no popular base inside Vietnamese society due to their years in exile. They had only the hoped-for support of the corrupt Chinese generals who were coming to disarm the Japanese. Moreover, in organizing demonstrations and countering propaganda, the Vietnamese Nationalists were less skilled than the Việt Minh , who had abundant experience in these matters since Hồ Chí Minh, with the approval of Nationalist Chinese General Zhang Fakui, returned from China to Vietnam in 1941 ( under the name of the Vietnam Revolutionary Alliance, of which the Việt Minh was a member).
Moreover, the Việt Minh had the support of Chinese Nationalist generals Lu Han and Tieu Van, whom they bribed with opium and gold collected from the people, and these Chinese generals forced the Vietnamese Nationalists to stay, albeit reluctantly, in the Communist-dominated Provisional Coalition Government of Vietnam. The Việt Minh also had support from the Third Communist International and the Office of Strategic Services (OSS), the wartime intelligence agency of the United States. The Việt Minh organized meetings, marches and exhibitions with pictures of their cadre killed by the Nationalists.
There was some restraint. A Communist party member asked Hồ Chí Minh, “Dear Uncle, why let those murderous traitors live? Please just give the order and we will liquidate all of them in one night.” Ho just smiled. ”If there was a mouse in this room, would you throw a stone at it or try to catch it? Using a stone will break precious things. To achieve great work, we must have farsightedness.”
The Nationalist-Communist friction might conceivably have stopped right there, allowing Hồ Chí Minh and the leaders of the Nationalist parties to avoid civil war. In previous times, as exiles in China, the two had shared dangers, and Nationalist leaders Nguyễn Hải Thần and Vũ Hồng Khanh had helped save the life of Hồ Chí Minh by intervening in Liuzhou, China with the Nationalist Chinese general who detained him. After capturing power in the August 1945 Revolution, Hồ Chí Minh tried to win the cooperation of the Nationalists for the new government before the returning French sowed disunion.
Hồ embraced Nguyễn Hải Thần of the Vietnam Revolutionary Alliance (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội) and implored the Nationalist parties to cooperate with him. The Provisional Coalition Government of Vietnam included representatives of the Nationalists, such as Vũ Hồng Khanh of the Vietnam Nationalist Party (Việt Nam Quốc Dân Đảng, or VNQDĐ), Nguyễn Tường Tam of the Đại Việt (Greater Vietnam) group, and Nguyễn Hải Thần of the Vietnam Revolutionary Alliance. The government, if coupled with Hồ Chí Minh ‘s restraining his Communist cadres from assassinating the Nationalist leaders, could have avoided the civil war. (159)

Unfortunately, later in 1946, while Hồ Chí Minh was attending the Fontainebleau Conference in France and at the same time trying to invite Nationalist intellectuals in France to come home to help Vietnam, lower-level Communist leaders back in Vietnam such as Võ Nguyên Giáp, then Minister of Interior), ordered Việt Minh assassination squads (Bạn ám sát) to kill the Nationalists and destroy their headquarters and hinterland bases. By that time, the Nationalists no longer had the protection of the Nationalist Chinese generals. The Fontainebleau Agreements were a proposed arrangement between France and the Vietminh, made in 1946 before the outbreak of the First Indochina War. The agreements affiliated Vietnam under the French Union. At these meetings Ho Chi Minh pushed for Vietnamese independence, but the French would not agree to this proposal.
In the North, the Nationalist leaders who were killed or made to disappear were Ly Dong A, and Khai Hung and Truong Tu Anh, who set the example of an ascetic life and who slept in a bed made out of a window, according to his assistant, Bùi Tường Huân, who was later a Sài Gòn Law School professor), As for Vũ Hồng Khanh and Nguyễn Hải Thần, they had to flee to China.

In the South, leaders of the Trotskyite Fourth International such as Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Lương Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, and Trần Văn Thạch were killed or made to disappear. Non-Communist leaders were also liquidated. These included Hồ Vân Nga, Huỳnh Vân Phương, Dương Văn, Hồ Vĩnh Ký, Henriette Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Phú Sổ, and other Cao Đài and Hòa Hảo notables. When the South’s National Assembly met on October 28, 1946, only 291 of the 444 representatives were present, and only 37 of the 70 representatives of the Vietnam Nationalist Party and the Vietnamese Revolutionary Alliance came, the others having been arrested. Later on, the 34 attending members also disappeared. Consequently, the Nationalist parties took an anti-Communist path. Some ran for cover (“chùm chăn”) i.e., became inactive, and, later, many adopted the Bảo Đại solution, joining the camp of the ex-Emperor.

I cite this long list of victims of the Việt Minh’s liquidation campaign to provide evidence for an objective historical evaluation of the Leninist terrorist strategy the Communists used to monopolize political power, which was the root cause of Vietnam’s civil war and involved the loss of leaders who could have contributed to the nation’s development.
This terrorist strategy was not necessary for the Việt Minh’s ascendancy, which could have been achieved via electoral majority — as in Hitler’s takeover of the Weimar regime or Putin’s hold on power. The terrorist strategy only damaged the Việt Minh’s status as the standard-bearer for Vietnam’s struggle for independence against the French. After many French provocations, it was only on December 28, 1946, that the Vietnam Resistance Government, the successor to the Provisional Coalition Government, withdrew from Hanoi into the hinterland.)

It is also true that the Provisional Coalition Government of Vietnam could have continued with the sharing of power between Nationalists and Communists without changing a civil war into an internationalized war by proxy, if there had been no intervention in Vietnam’s political and military arenas by France, Great Britain and the Republic of China.
As for the United States, it could have aided Vietnam’s struggle for independence under the Provisional Coalition Government of Vietnam if it had intervened earlier and more properly in accordance with President Roosevelt’s desire to prevent a French return to Vietnam. Once Roosevelt had passed away and was replaced by President Truman, the U.S. ignored Hồ Chí Minh’s eight letters to U.S. Presidents and Secretaries of State requesting support against the French attempt to return to Vietnam. Truman thought the U.S. needed France in the incipient Cold War against the Soviet Union.

French forces were helped in their reoccupation of South Vietnam by the British army, which was in Indochina to disarm the Japanese. Pursuant to the Chunking Agreement of February 28, 1946, between France and the Republic of China, which provided among other thingsfor disarming the surrendering Japanese troops in North Vietnam ‒, France brought military units to North Vietnam. U.S. vessels brought the French expeditionary forces Hải Phòng and Sài Gòn, that is, both to North Vietnam and to the South.

By way of background, on March 6, 1946, France and North Vietnam concluded a Preliminary Agreement in Fontainbleau, France, whereby France recognized North Vietnam as a “free state” within the French Union with limited powers, and North Vietnam agreed “to receive the French army in friendly fashion” in relief of Chinese forces. The agreement was signed by Hồ Chí Minh representing North Vietnam, Vũ Hồng Khanh, the delegate of the North Vietnamese Council of Ministers, and Jean Sainteny, the delegate of Admiral Georges Thierry d’Argenlieu, the High Commisioner of France in Indochina. (160)

On September 14, 1946 in Paris, France and North Vietnam issued a joint declaration and concluded a modus vivendi. The joint declaration stated that the Fontainbleau Agreement of March 6, 1946, was still in effect. The modus vivendi provided provisional solutions of urgent problems, including reciprocal recognition of “democratic rights” and property rights, and a cease-fire in Cochinchina. The joint declaration and modus vivendi were signed by Hồ Chí Minh and Minister of Overseas France Marius Moutet. (161)  France sided with the Viet Minh in the latter’s anti-Nationalist activities. France considered the Nationalists’ position extremist, as they had vigorously opposed the Preliminary Agreement, the Joint Declaration and the Modus Vivendi.

For their part, the Vietnamese Nationalists protested Ho’s accommodations with the French. They condemned, for example, North Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Tường Tam’s absence at the signing of the Preliminary Agreement. They also leveled the serious charge of “traitor” against Hồ,who had to present an explanation in Hà Nội at the Grand Opera House, where he swore, “I would rather die than sell out my country.”
The civil-war character of the Vietnam War was revealed by, among other things, the fratricidal murders in later years, the atrocious land reform of 1953-54 in North Vietnam, and the killing of innocent people in Huế during the 1968 Tet offensive.

As for the internationalization of the Vietnam War, we must say that at the start it was not a war by proxy, because the Việt Minh government, on its own initiative, resisted the French attempt to take back Vietnam. This was a war of national liberation in which all Vietnamese patriots participated, not one in which the Soviet Union or Communist China entrusted the fighting to the Vietnamese. (Stalin, in fact, still treated Hồ Chí Minh badly, as revealed in Kruschchev ‘s memoirs; and Mao’s forces were still busy fighting Kuomintang China and had not yet reached the border of Vietnam.) French President François Mitterrand visited the unified Vietnam in 1993.. Speaking at Điện Biên Phủ, he regretted that France had made the mistake of returning to recolonize Vietnam in a war the Vietnamese people considered a war of national liberation.

Later, the French commander-in chief in Indochina, General Jean de Lattre de Tassigny, saw that the 280,000 men of the French Far East Expeditionary Corps could not do the job by itself. He thus allowed the Nationalist Vietnamese in the Bảo Đại camp to have a 70,000-man army, which was mobilized by the French. Before then, the French colonialists wanted to fight the war by themselves. In 1946, they brought Emperor Duy Tân from his place of exile to Paris, but his plane crashed in Africa under suspicious circumstances. Later, the French debated brushing aside Bảo Đại and using Queen Nam Phương as Regent, but finally settled on the Bảo Đại solution.
When in 1954 the Americans replaced the French in Vietnam in support of Ngô Đình Diệm, Vietnam was engaged more fully in a civil war in which each side had its own distinct territory, government, and population. The war, however, became more internationalized and more of a war by proxy. North Vietnam took on the international mission of spreading communism with the help of the Soviet Union and China in addition to the task of struggle for national unification for the Vietnamese. Vietnamese Communist Party General Secretary Lê Duẩn said: “Our fight is the fight for the Soviet Union and China.” South Vietnam, at the same time, was called an outpost of the Free World by some Americans, who entrusted the country with a mission, but a limited one. The Vietnamese were assigned a territorial-defense role only when the war reached its most intense stage.
At the beginning, the U.S. government’s decision to engage in the war was supported broadly by the press and public opinion; thus, the Americans started as advisors, then sent U.S. Army Special Forces, and finally dispatched tactical ground combat troops who, among other things, launched ”search and destroy” operations.
At its peak in 1968, the American military presence was 536,000 men and women on the ground. About 2,700,000 American men and women served in Vietnam from 1957 to 1975 with, in addition, the Navy and the Air Force operating from the 7th Fleet and Thailand. (162)

In his memoir, South Vietnam’s former ambassador to Washington, Bùi Diễm, described the way the Americans invited themselves into the War in 1965. After field observation visits, U.S. Defense Secretary McNamara and the U.S. Chairman of the Joint Chiefs of Staff asked Diễm to draft a “letter of invitation” requesting American troops for Vietnam, bypassing both the U.S. Congress and the American people. This American self-invitation was buried in the joint communiqué prepared by Diễm, then a minister in the Vietnamese Prime Minister’s Office, to save South Vietnam’s face. Even then-U.S. Ambassador to Vietnam, General Maxwell Taylor, was taken by surprise. Almost all of South Vietnam’s military and civilian officials opposed the Americanization of the war, just as President Diệm in his tenure had opposed the debarkation in Vietnam of American combat troops.But the Americans came and then, finally, disengaged. Their departure began to happen when rising U.S. casualties appeared vividly on American TV screens, stoking the antiwar movement, first among the young and then more widely, and giving popularity to the idea of withdrawal from the war and the return of American prisoners.
The growing unpopularity in the United States of the war helped give traction to the strategy of Vietnamization within the Nixon administration. By that time, however, even the survival of South Vietnam as a nation-state was no longer of concern to many Americans. The idea of entrusting the war effort to the Vietnamese, with American assistance and war-materiel support for the defense of what some called a bulwark of The Free World, was abandoned by the U.S. after the signing of the Paris Peace Accords, the return of the prisoners of war, and the improved relations with China and the Soviet Union, the main powers on the other side.
A lesson: a small country entrusted with a military role by a big power, or assisted by that power, should think in advance about what to do when the big power abandons it and the small country has to sign a separate peace agreement or resort to some other strategy to defend its national interests. With this in mind, let us look back to 1956. If President Diệm had not regarded as part of his role to be an American-imposed bulwark of the Free World, but had followed a more independent path, he could have begun negotiations with North Vietnam, in accordance with the with the unsigned Final Declaration on Indochina of July 1954, to organize “free general elections by secret ballot” in 1956 under the supervision of the International Supervisory Commission. (163) If so, there might have been no Vietnam War, but instead, there might have emerged a unified Vietnam wherein Communists and Nationalists had to coexist peacefully, at least relatively so, tolerating setbacks such as assassinations. That solution might be called, “A tense peace is better than war,” and could have been a creative way to avoid war. More on this later.
As for the United States, one lesson from the Vietnam War is to avoid sending combat troops to fight a land war that could result in American casualties, lead to antiwar protests at home, and produce a quagmire with no respectable exit. For South Vietnam, that could have meant war-materiel support, but no deployment of ground combat units, as a U.S. contribution to the deterrence of Communist expansion. The tiger fighting for its own survival in its own territory has every incentive to fight for its self-preservation. The U.S. should think out in advance an exit strategy for any conflict in order to satisfy the American public and to counter an enemy’s protracted conflict strategy, such as that of the Chinese Communists under Mao, who talked of a “ten-thousand-year war,” or the Islamists of today. This lesson from the Vietnam War concerns the optimum strategy of entering and exiting the war, and not the war’s objective, which was to deter or limit Communist expansion in Southeast Asia. That objective was a valid one, and it succeeded to a degree. Although the domino theory – that other Southeast Asian countries would fall to communism after Vietnam fell ‒ did not happen, the American intervention gave them time to consolidate themselves. There was also a certain psychological domino effect in the area of disrespect for American determination elsewhere in the world after 1975, and it might have contributed, for example, to the detention of American diplomats in Iran. As for the leaders in North Vietnam, they considered themselves revolutionary pioneers in Southeast Asia, became overambitious in their desire to assist other communist parties in Cambodia, Laos, Thailand and elsewhere. According to archives of the Soviet Union, declassified after its dissolution, weapons from Vietnam were delivered to Africa via Cuba.
But Vietnam’s overstay in Cambodia (more than 10 years), after completing the praiseworthy mission of freeing it from the genocidal Pol Pot regime, and its failure to turn power over to the Cambodian people, led Vietnam into a quagmire and earned it China’s hostility for many years. This damaged Vietnam’s security interests and led to the border war launched by China in 1979 to, in the words of Deng Xiao Ping, “teach Vietnam a lesson.” Vietnam’s Cambodian adventure has been called “Vietnam’s Vietnam.”
On the other hand, the U.S., as a big power, overcame its Vietnam syndrome and is still the dominant superpower. It was able to take revenge against Vietnam by isolating the country by implementing in 1975 a punishing trade embargo that lasted until 1994.. Vietnam, for its part, pushed for better relations with the U.S.
The transition from enemy to friend was made clear in many declarations, especially the 2005 observation by U.S. Ambassador to Vietnam Michael Marine that, after a period of dark relations, “…it is clear now that Vietnam and the U.S. have no strategic differences,” and that “the U.S. respects the sovereignty and territorial integrity of Vietnam and will resist firmly all plots to sow disunion or threat at the borders of Vietnam. We have many common interests in regional and world security. Our current defense cooperation is the first step toward our common confrontation with the security challenges of the 21st century.”

2. The second lesson: War should end with a negotiated peace, a political solution that sees an end to the intransigence that is appropriate for war but not for peace.

South Vietnam was a small country under the tutelage of a big power, the United States, which became a paper tiger at the end for being unwilling to continue supplying weapons to South Vietnam. At the same time, South Vietnamese President Thiệu responded unrealistically to the signing of the Paris Peace Accords in January 1973 with his “Four No’s” (Bốn Không), including no coalition government with the Communists, despite his weak military position. (164) When Stalin asked, “How many divisions does the Pope have,” he was pointing out that moral legitimacy without military force is ineffective in time of war. For Vietnam, the right path was a comprehensive political strategy based on accommodation.

If President Diệm had agreed with North Vietnam to national elections in 1956 in both parts of Vietnam in accordance with the unsigned Final Declaration of the Geneva Conference on Indo-China of July 1954, , there might have been a national assembly in which South Vietnam had at least nearly half the delegates. This could have resulted in a unified Vietnam in which the two sides coexisted under the observation of the international community.
Moreover, the Vietnam War (1960-1975) could have ended with a negotiated peace agreement with national elections to follow, as provided by the 1973 Paris Peace Accords, but President Thiệu worried too much about such elections and resisted preparing and organizing for them. ) (165)
At the beginning of 1975, Nguyễn Văn Hiếu, a delegate of the National Liberation Front (the Việt Cộng) at the Paris Peace Talks, asked South Vietnamese General Trần Văn Đôn to relay to President Thiệu a request to include the Front in President Thiệu ‘s cabinet and to form a coalition government to resist Hanoi’s controlling influence. Thiệu told Đôn to check with the Americans, and Đôn said later that the Americans had rejected that solution. In other words, Thiệu did not dare adopt a political solution crafted by North Vietnam.
There was another time, in 1971, when Thiệu reacted similarly. U.S. Assistant Secretary of Defense for International Security Affairs G. Warren Nutter, a former professor of economics at the University of Virignia and a teacher of Dr. Nguyễn Tiến Hưng , asked Dr. Hưng, then an advisor to Thiệu , to suggest to Thiệu that South Vietnam should have an independent initiative for a peaceful solution to the war. Dr. Hưng proposed that Thiệu seek trade relations with the North and a rail line between the North and the South to create one market and to develop the Mekong Delta.
Thiệu mentioned these points in an October 1, 1971, election speech. But he still worried about the American reaction, and ordered that it be checked with the U.S. State Department. The American answer was “too late,” and Secretary of State Kissinger cabled U.S. Ambassador to Vietnam Graham Martin that all negotiations had to be between the United States and North Vietnam, and must take place in Paris. Thus, Thiệu did not dare invoke national sovereignty or try to persuade the United States to follow his small country’s initiative, and thereby was pulled along in a war that was really conducted by the big power. (President Diệm had been a little better. Although he agreed with the United States not to hold elections throughout Vietnam in 1956, he resisted foreign combat troops in Vietnam and at one point sent his counselor, Ngô Đình Nhu to central Vietnam to talk peace in secret with a North Vietnamese emissary, Phạm Hùng.)
Obsessed with his rigid and unrealistic policy of the Four No’s, and consequently eschewing negotiation and accommodation, and relying on only his hope for American B-52 bombers and logistical support if attacked, Thiệu resigned when the Americans drew down their military support and pressured him to resign. Thiệu went on national television on April 21, 1975, announced his resignation, and excoirated the Americans for the “inhumane act” of refusing “to aid an ally” and for “abandoning” South Vienam. (166) At this point, South Vietnam’s armed forces lost their morale.

In April 1975, every day I called my cousin, Colonel Nguyen Mong Hung, chief of the Fifth Bureau of the South Vietnamese High Command, in hopes that he would tell me the real situation. In a weak, dispirited voice, he murmured: “ Tài! The soldiers no longer fight!” (Previously, they had fought valiantly to repel the North Vietnamese attacks at Tết 1968 and in the 1972 battle of Quang Tri.) I asked officials in the political section of the U.S. Embassy, and they told me that satellite photos showed that military trucks and tanks were moving southward, bumper to bumper. The North Vietnamese probably knew that there would be no retaliation by the Americans, despite Nixon’s promises to Thiệu . Thus, the U.S. had decided to leave South Vietnam, to grant far-reaching concessions in the Paris Peace Accords that permitted North Vietnamese troops to remain inside South Vietnam in exchange for the return of American prisoners of war as demanded by the American public, and then discontinued the promised supply of arms to South Vietnam. Finally, the Americans even objected to the use of American economic aid funds to pay the salaries of the South Vietnamese armed forces and police.
President Gerald Ford during an address at Tulane University on April 23, 1975, declared: “Today America can again regain the sense of pride that existed before Vietnam. But it cannot be achieved by refighting a war that is finished ‒ as far as America is concerned.”167 By 1975, however, the last year of this civil war, the Communist troops were receiving maximum help the Chinese and Soviets in terms of the arms, trucks and tanks used in their rush to Sài Gòn. Today, America can regain the sense of pride that existed before Vietnam.
The authority to settle between 1973 and 1975 the Vietnam War in should have belonged to the partner that shed blood, South Vietnam, and should not have been vetoed by the big power that was fading out of the picture. President Thiệu could have adopted a more independent war-and-peace strategy that took into account South Vietnam’s sovereignty and interests, and dared direct negotiation between North and South Vietnam, probably through the good offices of France, and put the Americans before a fait accompli. Despite the American disengagement during 1973-1975, President Thieu was still afraid of a coup d’etat and murder similar to those terminating the Diem regime.”
Adhering too faithfully, out of fear, to the demands of the big power would never have guaranteed that power’s friendship or respect, and therefore did not support the small power’s interests. If Thiệu had started working on a separate peace with North Vietnam early in the period of American disengagement (1973-75), a political compromise might have been found that would have avoided the decision of North Vietnam in 1975 to launch an all-out military push on Sài Gòn. The need for policy autonomy by a small power also applies to North Vietnam. During both the Indochina War (1945-54) and the Vietnam War of 1960-1975, North Vietnam depended on military and economic aid from the Soviet Union and China, whose interests were not necessarily the same as those of North Vietnam, which later discovered that following its own interests might have been more advantageous. Specifically, North Vietnam found it might be have been better off escalating the fighting, contrary to the wish of the big powers.

The 1954 Geneva Accords imposed the big powers’ decision to divide Vietnam into two parts at approximately the 17th parallel, with reunification awaiting elections in 1956. This plan was only reluctantly accepted by North Vietnam, whose representative, Tạ Quang Bửu, demanded that the line of partition be at the 13th parallel as the just prize for victory over the French at Diên Biên Phu. Chinese Prime Minister Zhou Enlai, however, worried the Americans would jump in to help South Vietnam, Laos and Cambodia in response to such a demand.
After consulting French Prime Minister Pierre Mendès France, Zhou Enlai proposed that North Vietnam refrain from more offensives and withdraw from Cambodia and Laos. Zhou Enlai also promised Cambodia and Laos that they would be put under the influence of China, not of North Vietnam. And he accepted partition at the 17th parallel, not the 16th , as Hồ Chí Minh had suggested in a previous meeting in Liuzhou. The Soviet Union also wanted partition at the 17th parallel.
In 1956, South Vietnamese President Ngô Đình Diệm refused to hold talks for national elections for reunification on the grounds that South Vietnam had not signed Final Declaration of the Geneva Conference on Indo-China. The United States supported Diệm’s position.
North Vietnam felt that its goal of reunification had been frustrated by the big powers’ arrangement at Geneva, even after its victory on the battlefields in 1954. North Vietnam, therefore, planned to pursue unification later. When Zhou Enlai asked Võ Nguyên Giáp in 1954, ”If the Americans do not intervene, how long it will it take to defeat the French and unify the country,” Giap answered, “only two more years.” After about six years of only a relatively low-level insurgency, North Vietnam in 1960 created the National Liberation Front, which launched the Vietnam War of 1960-1975 .
During the Vietnam War, China seemed unenthusiastic about Vietnam’s reunification. For example, Mao said: “Our Vietnamese comrades’ broom does not have a handle long enough to sweep up all Vietnam.” And Zhou Enlai once told Ngô Đình Luyện, the South Vietnamese Ambassador to the United Kingdom, that China wished to see him in Beijing as Ambassador. Although China provided food and weapons aid to North Vietnam for the war, it never wanted a strengthened, unified Vietnam capable of challenging China. North Vietnam, therefore, relied more heavily on Soviet arms aid for military campaigns like the 1968 Tet Offensive and the 1975 invasion. In any event, Soviet and Chinese military aid allowed Lê Duẩn to pursue a military solution. As long as a big power does not dare use its overwhelming force to reduce to the stone age a stubborn small country that is willing to fight “a thousand-year war,” the small country has a chance at final victory. But if the big power dares to use maximum force, the small power that pushes its ambition too far without searching for a negotiated peace will be defeated. For Vietnam in the period 1975-90, its ambition to be the dominant power in Southeast Asia was defeated by the long resistance of the Pol Pot forces with determined Chinese support. After sacrificing men and materiel in to support North Vietnam in its war against the United States, China responded to Vietnam’s intervention in Cambodia by an invasion of northern Vietnam in February 1979. The Chinese troops withdrew in March 1979, but border skirmishes continued throughout the 1980’s. Armed conflict only ended in 1989 after the Vietnamese withdraw their troops from Cambodia. After the collapse of the Soviet Union in 1991, Vietnam and China normalized both party-to-party and state-to-state relations. Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Cơ Thạch declared that from then on, Vietnam would not send young men abroad for war.

3. The third lesson: War should be referred to the people as the ultimate arbiter. War should not be between armed forces directed solely by generals and their leaders but should be supported by the population as a whole, who should be consulted when war is declared and when peace is negotiated.

Modern war often drags in the whole population. Especially in a democratic society, families across the nation must approve a war or the government will not get popular political support for it. The United States Constitution gives Congress the power to declare war. On August 7, 1964, at the request of President Johnson, Congress passed the Tơnkin Gulf Resolution, which Johnson signed into law three days later, and which stated that “Congress approves and supports the determination of the President, as Commander in Chief, to take all necessary measures to repeal any armed attack against the forces of the United States and to prevent any further aggression.” President Johnson, and later President Nixon, relied on the resolution as the legal basis for their military policies and activities in Vietnam. (168)
The resolution was supposedly passed in reaction to two attacks by North Vietnamese torpedo boats on the U.S. destroyers Maddox and C. Turner Joy in the Gulf of Tonkin on August 2 and August 4, 1964. In 1995, Võ Nguyên Giáp, who had been the North Vietnamese Defense Minister at the time of the supposed attacks, acknowledged the August 2 attack on the Maddox but denied that the North Vietnamese had launched another attack on August 4.169 It was later revealed that the U.S. administration had drafted the resolution six months before the supposed attacks on the U.S. destroyers.170 The resolution was repealed on January 13, 1971. Toward the end of the war, when popular support for it had declined, Congress on November 7, 1973, passed the War Powers Act over President Nixon’s veto to restrict presidential war powers.
There were two basic mistakes in the Vietnam War strategy of the United States: The first mistake was the decision to escalate the war gradually to produce a graduated deterrent effect. There was no strategy to win a rapid victory in a few months with overwhelming firepower and to avoid tiring out both the Vietnamese and American people in a protracted conflict, which is the usual strategy of the Communists. The error of not trying to achieve a decisive victory within a short time to take account of the lack of patience of the American public was shown in the protracted Paris peace talks. The long wait for a negotiated peace yielded only a leopard-skin cease-fire in place followed eventually by the hasty withdrawal of the Americans in the wake of the Communist offensive ending on April 30, 1975.
The second mistake was the lack of popular participation in the constitutional process, including a declaration of war by Congress. There should have been a better strategy for mobilizing American public opinion. But President Thiệu revealed President Nixon’s letters of support only in the last days of the War when he gave some of them to Professor Nguyễn Tiến Hưng, when he sent him to United States for a last-ditch appeal for help. Before that, Vietnamese Senate President Trần Văn Lắm, Vietnamese House of Representatives President Nguyễn Bá Cẩn and Vietnamese Foreign Minister Vương Văn Bắc advised that the South Vietnamese should not protest the decrease in American aid too loudly or base their position on Nixon’s letters. lest South Vietnam be accused of interfering in U.S. domestic affairs. But it was they who did not understand the U.S. political system. A president’s letters of commitment were valid state papers that should have been published and shown to the U.S. Congress as a way to rally congressional and public support.
As for South Vietnamese popular support, President Thiệu should have presented the secret Nixon letters to the National Assembly to enable the representatives of the people of Vietnam to appeal to the U.S. Congress in a kind of people-to-people diplomacy. Without the above actions, South Vietnam was subject to United States diplomacy, which in the final analysis disregarded South Vietnamese public opinion.
Without the above actions, South Vietnam became the victim of the kind of one-man-show diplomacy of Kissinger, who followed the diplomatic style of early 19th century European leaders Metternich and Talleyrand, the powerful foreign ministers who at the Congress of Vienna in 1814-1815 rearranged, without consulting the people’s representatives, the European chessboard nine days before Napoleon’s defeat at Waterloo in 1815.On the other hand, the Vietnamese Communists appreciated the importance of popular support. They used the terms “people’s war, people’s army,” words repeated in a book by General Võ Nguyên Giáp. The Vietnamese Communists were worried by a budding democratic regime in the Republic of Vietnam, by the election of a Constitutional Assembly that enacted a constitution in 1967, by the elections for the Senate and House of Representatives in 1967, and by the elections for half of the Senate in 1970,all with the enthusiastic participation of all strata of the people, including the various religions and political parties.
Especially noteworthy was the opposition religious bloc that had boycotted the regime previously for suppressing its struggle for a constituent assembly, the Ấn Quang Buddhists. ThAis bloc had the greatest mass following among the population. South Vietnam’s democratizing activities had the support and encouragement of the American Ambassador, Ellsworth Bunker, a diplomat with a dignified appearance and an intense focus on democracy-building in South Vietnam and a desire to reduce the government’s military character to help it gain more legitimacy and popular support. He had help from U.S. Embassy political officers, who contacted domestic groups, including Catholic and Buddhist forces.
One prominent civilian leader with the ability to increase popular support for the regime was the charismatic law professor Nguyễn Văn Bông, Rector of the National Institute of Administration, which trained middle-to high-level civil servants. Bông wrote about democracy and about a loyal opposition. Bong had a large following within the national administrative apparatus. He and colleagues such as professor Nguyễn Ngọc Huy organized the National Progressive Movement (Phong trào Quốc gia Cấp tiến).
Ambassador Bunker said Professor Bông was a household name in Vietnam. When Kissinger came to visit President Thiệu to encourage the naming of Professor Bông as Prime Minister, the Communists assassinated him, using men directed by the R Office (the Communists’ core leadership group in the South) to firebomb his car as he was driven home from his office. Among the Vietnamese Communists, there were some wise ones who did consult the people on the issue of war and peace. After Vietnam invaded Cambodia in 1978 ‒resulting in China launching a bloody border war to “teach Vietnam a lesson,” in the words of Deng Xiaoping ‒ Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Cơ Thạch said that Vietnam would never again send young Vietnamese abroad to fight. Thach’s position on disengaging Vietnam from Cambodia while protecting Vietnam’s interest in a different way than the Chinese way did not endear him to China and caused China to encourage the Vietnamese Politburo to force his retirement.

4. The fourth lesson: if peace is to be enduring, war should end with reconciliation.

Post-war reconciliation requires humanity, modesty and reason from all sides, including the winning side. The Communists and Nationalists should have followed the example of Nelson Mandela in South Africa on how to address the war’s aftermath and achieve reconciliation.. What might have been done?
On April 30, 2005, i.e., 30 years after the downfall of South Vietnam, I published an article on the website Talawas calling for reconciliation among Vietnamese in the spirit of and following the example of Nelson Mandela of South Africa. On December 5, 2013, the whole world mourned the passing of Mandela, the world’s model of a peaceful liberator and conciliator. Speaking to media such as the BBC, many Vietnamese wondered why Vietnam had not had the luck to adopt such a pathway to reconciliation. The Vietnamese Communists might have opened their doors to welcome back overseas Vietnamese for visits, trade and investment. They could have worked to attract experts to return to help national development. The children of high Vietnamese officials could have gone to the United States and other countries to learn about the strength of Western capitalism. Now, this is happening. (I myself heard then-Vietnamese Vice-Premier Phan Văn Khải, at a dinner thank Harvard for being the first American university to welcome Vietnamese students.) Vietnam could have adopted policies that permitted citizens to make their living freely and to keep what they earn within a market economy. These are ideas advocated by South Vietnamese expatriates.. The adoption of these ideas in Vietnam today, ideally with expatriate help, could help the overseas Vietnamese recover from the humiliation of clandestine flight and escapes by sea, and make use of the successful careers they have built in the United States and elsewhere. In this way, both sides could be said to have won.
But there is still one obstacle to reconciliation: the wounds remaining from the long years of internment in “reeducation” camps (i.e., concentration camps). The Vietnamese Communist Party, for all its success in battle, has not been enlightened or generous enough to follow Lincoln’s advice at his Second Inaugural Address on March 4, 1865, shortly before the end of the American Civil War:
“With malice toward none, with charity for all, with firmness in the right as God gives us to see the right, let us strive on to finish the work we are in, to bind up the nation’s wounds, to care for him who shall have borne the battle and for his widow and his orphan, to do all which may achieve and cherish a just and lasting peace among ourselves and with all nations.”
The result is that the overseas Vietnamese who spent years in concentration camps after 1975, and their families, cannot forget the suffering, the ruined health, the social dislocation or the painful readjustment to life after their internment that in some cases included the loss of wives and children.
Among the ordinary citizens of Vietnam, especially among relatives and friends on both sides, reconciliation has been easy; there have for some time been many cases of families reuniting after decades of living apart, full of tears and laughs, with no more estrangement. The younger generations especially, not yet born or still children when the war ended, have merged naturally with one another when overseas Vietnamese returned home, or when people have left Vietnam to go abroad for study or other reasons. Indeed, romances have sometimes developed.

But closure requires an official apology from the high officials of government responsible for the cruelty of the re-education camps instituted in 1975. Many of these officials were in their thirties and forties in 1975, and are now in their seventies or eighties.. Only with the issuance of such an apology will the overseas Vietnamese sigh, “That’s it,” and be willing to bring their money, talent, and even their family members back to Vietnam for nation-building.
Đỗ Mười, former General Secretary of the Vietnamese Communist Party, named two policy mistakes: (a) the 1953 to 1955 land reform that violated the rule of law, according to Professor Nguyễn Mạnh Tường and others, and the 1979 anti-bourgeois campaign that destroyed businesses and delayed Vietnam’s growth for a generation.
Đỗ Mười may have been the right person to make such an apology, since he towered over other leaders in age and political seniority. Other high-level Vietnamese leaders have made gestures of reconciliation. Including former North Vietnamese Public Security Minister Trần Quốc Hoàn, and the old Nationalist politician Vũ Hồng Khanh, who spent time in a re-education camp, and who, as indicated above, had long ago helped save the life of Hồ Chí Minh by intervening in Liuzhou, China, with the Nationalist Chinese general who detained him. There are other examples of Vietnamese leaders who at times at least voiced sympathy for their political opponents. Hồ Chí Minh, for example, said: “Ngô Đình Diệm is a patriot in his own way.”  And retired Vietnamese Communist Prime Minister Võ Văn Kiệt said: “It is about time we recognize the great contribution of many strata of Vietnamese patriots living inside the old regime, who are now still inside the country or residing overseas.” There are, of course, non-Vietnamese examples of apologies to advance reconciliation. The Japanese, after years of dragging their feet, apologized to the Chinese for the massacre of thousands of innocent people in Nanjing. (171) Pope John Paul II has apologized many times for the Catholic church’s behavior toward the Jews and the Russian Orthodox. There are also examples of winners extending a gesture of reconciliation. The Communist Party of China did so with its long-time foe, the Kuomintang (Nationalist Party of Taiwan), when Hu Jintao, General Secretary of the Communist Party of China extended a smiling welcome, to Lien Chan, Chairman of the Kuomintang,, when the latter visited the mainland in April 2005. (172) Chinese media promoted this visit as an important event in China’s national history. (Note that Taiwan also invested hundreds of billions on the mainland.)
After World War II, General MacArthur allowed the Japanese Emperor to remain on the throne. even though the American occupying forces would administer Japan. The United States provided reconstruction aid to Japan and Germany, which became close American allies.
In strictly military terms the United States was not defeated in Vietnam. Nevertheless, it decided on unilateral disengagement after the Paris Peace Accords. Thus, the U.S. could not impose peace terms and for a while, it suffered from the so-called Vietnam syndrome.
But then, with its superpower status, it was in a position to regain its confidence.

Reconciliation was, however, at first stopped by Vietnam’s ridiculous suggestion of American war reparations after the Communists had violated the Paris Peace Accords with their offensive of 1975. One result, as mentioned above, was that in 1975 the U.S. imposed a trade embargo on Vietnam that would last until 1994..
On April 9, 1991, U.S. officials had presented a “road map” to Vietnamese and Cambodian officials that called for the normalization United States diplomatic and economic relations over two years, provided that: (a) the Vietnamese increased their cooperation in accounting for U.S. personnel listed as missing in action (MIA); (b) Vietnam withdrew all its and advisers from Cambodia; and (c) U.N.-supervised elections and the seating of a new National Assembly took place in Cambodia. (173)
President Clinton lifted the trade embargo on February 3, 1994, after the Vietnamese government had increased its cooperation in finding the remains of the 2,238 Americans still listed as MIA’s and under pressure from U.S. companies wanting to do business in Vietnam. (174) On July 11, 1995, President Clinton announced the formal normalization of diplomatic relations.
During the roadmap period, from 1991 to 1995, the United States looked like the winner of the peace. It imposed conditions for reconciliation, and Vietnam was eager for normalcy after its wars in Cambodia and on its northern border with China. Moreover, during the Vietnam war, the United States, with some atrocious exceptions, such as My Lai, acted humanely toward the civilian Vietnamese. In fact, American civilian aid programs gained much goodwill among the South Vietnamese people. These programs even gained some goodwill from the North Vietnamese, who were so eager to reconcile with the Americans that they were willing to forgive the terrible destruction caused by wartime bombing. (175)
The advantages are obvious for the Communist Vietnamese regime of a reconciliation with overseas Vietnamese, who are scattered across all five continents. Only when their resentment over the re-education camps subsides, will Vietnam’s diplomats be able to roam the world easily and proudly, without meeting with boos and demonstrations. As for the recipients of the apology, i.e., the Vietnamese who suffered, what can we learn about them and for them? Some overseas Vietnamese are beyond reconciliation; no apology can make them forget the North’s murderous land reform program, the slaughter of innocents during the Tết offensive in Huế, or the destruction of the South’s middle class. Only the collapse of the Communist regime will satisfy them. For my part, I think that the majority of the people who were mistreated in the camps can and should gradually calm their anger, recognizing that they are, in their moral position, the final winners.

The victims should also make a distinction between the few implementers of the “re-education” policy and the great majority of the Vietnamese people. A Jewish woman who survived the Holocaust said at the 2005 anniversary of Allied victory, “We cannot attribute this crime to the whole German people,” and described her survival as the victory of all humane people against Nazi wickedness. In South Africa, Nelson Mandela, later President, declared, “Only by forgiving the past can we move toward the future.” In South Vietnam itself, when the hungry and ill-clad prisoners were paraded along the road from reeducation camp to work site, they were given food secretly by villagers who sought to relieve their pain.
Without forgiveness and national reconciliation, those overseas Vietnamese who remain angry will never enjoy visiting their fatherland, the streets or the villages where they grew up, or meet again their relatives and friends in Vietnam. At most, they will send back their wives and children; they themselves might go back clandestinely for a short visit.
Besides dealing with the re-education camp days, one must also be concerned about the future of the people inside Vietnam, so that they are able to live under the rule of law and enjoy their human rights. Today there is rampant discrimination, as exemplified by the report of an official trying to fine a disabled South Vietnamese veteran who was given a wheelchair by a foreign humanitarian aid agency without going through government channels. (176)
Overseas Vietnamese want their compatriots inside Vietnam, among them their relatives and friends, to be able to enjoy the democratic rights they have tasted abroad. Hồ Chí Minh himself copied from the American Declaration of Independence for that of Vietnam, and read from it in Ba Đình Square in Hà Nội on September 2, 1945. Overseas Vietnamese have, with the rule of law and democracy in their adopted lands of residence, turned themselves from wretched refugees into prosperous citizens, using the same creativity and productivity possessed by the Vietnamese in Vietnam. As for those who died in the war, the overseas Vietnamese, especially those with relatives and friends buried north of Sài Gòn in the Bình An Cemetery, formerly the Biên Hòa Military Cemetery, want reconciliation with the dead by the regime in the form of good maintenance of the cemetery and permission for loved ones to visit. The U.S. ambassador went there with a delegation to light an incense stick for the fallen soldiers to give an example of how reconciliation might proceed and how Vietnam might strengthen its reputation internationally.

5. The fifth lesson: South Vietnamese and American Presidential leadership was one factor in the Vietnam War’s outcome.

Did the assassination of President Diệm create the condition for the loss of South Vietnam to the Communists?
Some authors, such as Dartmouth College Professor Edward Miller, think the United States might have been better off backing Diệm. I disagree.
Miller thinks the United States had wrongly backed the 1963 coup, and that if Diem had survived, South Vietnam would not have been lost. But the fact is that, in 1975, the North Vietnamese won by brute force of arms and not via popular support; thus, even if Diệm at that point had had the support of the people, it would have made no difference. The North Vietnamese were determined to wage a protracted conflict, with the support of the Soviet Union and China, to a victorious end..
Meanwhile, there was the attrition of U.S. public support for the war that led to South Vietnam’s defeat. The mistake that led to the 1975 defeat was not Diem’s death 12 years before, but Johnson’s unwise, unilateral decision to introduce U.S. ground combat units into South Vietnam in 1965. This pre-empted a strategy of having the South Vietnamese fight their own war and handed the North Vietnamese the propaganda advantage of calling the South Vietnamese American stooges. President Kennedy, had he lived, might have done differently.
Diệm, moreover, would not have protected American interests, either by preventing the Vietnam war when that was possible, or by improving the legitimacy of the American effort in South Vietnam when the war had already started.
The war might have been prevented by consenting to elections in 1956 in accordance with the 1954 unsigned Final Declaration of the Geneva Conference on Indo-China, Elections leading to peaceful unification of the country would have given the North no reason to create the National Liberation Front in 1960 to carry out an insurgency, which was followed by full conventional war. If the North Vietnamese gained a a majority in the National Assembly, any internecine struggle would have likely involved low-level violence, but not full-scale war. Consequently, the United States. would not have been drawn into a civil war.. Moreover, the United States would have benefited only from a President Diệm with enough political foresight and courageous statesmanship to agree to a peaceful contest with Hồ Chí Minh in a national election.
By 1963, when Diệm had been overthrown, it was too late to persuade him to run a democratic government with respect for human and religious rights and with the ability to gain the people’s support for the war against the Communists. Diệm’s rule was autocratic and nepotistic. An American scholar called him “the last Confucian mandarin.” Diệm followed the old imperial practice of giving free rein to his brothers, and his whole clan trampled on the civil rights of the people.
In May 1963 in the Buddhist stronghold of Huế, Catholics were encouraged to fly Vatican flags to celebrate Archbishop Ngô Đình Thục’s 25th anniversary as a prelate. A week later, Buddhists were prohibited from hanging the Buddhist flag during celebrations marking the birth of Buddha. This resulted in a peaceful protest meeting of young Buddhists at the radio station, which the Army and security forces dispersed with bullets and grenades. Nine civilians were killed. (177)
This brutal suppression, added to previous years of discriminatory practices in favor of the Catholics, started six months of peaceful protests throughout South Vietnam, including a monk’s self-immolation that shook consciences around the world. Further suppression involved raids on many temples and the imprisonment of monks.
A younger brother of Diệm, Ngô Đình Cẩn, was a feudal overlord in Huế to whom civil servants had to kowtow and pay tribute. Another younger brother, Ngô Đình Nhu, Diệm was Diệm’s counselor (Ông Cố Vấn). Nhu’s wife, Trần Lệ Xuân (known as Madame Nhu or the Dragon Lady), wielded excessive power, including control of the feared secret police of the government’s Personalist Labor Revolutionary Party (Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Ðảng).
The Diệm regime’s suppression of Buddhist religious rights in 1963 provoked a major political crisis and helped deprive South Vietnam of the legitimacy and popularity necessary for waging war. In addition, the suppression of the Buddhists, together with the nullification in 1959 of the election of Dr. Phan Quang Đán, one of only two successful opposition candidates for the National Assembly, were clear examples of the Diệm brothers’ contempt for human rights and democracy. This reduced President Diệm’s legitimacy and stood in contrast to his wise resistance to the proposed introduction of American combat troops into South Vietnam. According to Dr. John Prados of the National Security Archive: (178)

  •  A White House tape of President Kennedy from October 29, 1963, “captures the highest-level White House meeting immediately prior to the coup [against Diệm].” The tape “confirms that top U.S. officials sought the November 1, 1963 coup against then-South Vietnamese leader Ngo Dinh Diem without apparently considering the physical consequences for Diem personally (he was murdered the following day).”
  •  “The documentary record is replete with evidence that President Kennedy and his advisers, both individually and collectively, had a considerable role in the coup overall.
  •  “The CIA also provided $42,000 in immediate support money to the plotters the morning of the coup, carried by Lucien Conein, an act prefigured in administration planning.”
  •  The NSC staff record of the discussion shows that Attorney General Robert F. Kennedy warned “against precipitate action” and was “seconded by Joint Chiefs of Staff chairman General Maxwell D. Taylor and CIA director John McCone.”
  •  In addition, the transcript of Diệm’s last phone call to U.S. ambassador Henry Cabot Lodge shows Lodge asking “what the attitude of the U.S. is” towards the coup then underway. Lodge “dissembled” that he was not “well enough informed at this time to be able to tell you.”
  •  The weight of the evidence “supports the view that President Kennedy did not conspire in the death of Diem.” Both Secretary of Defense Robert McNamara and historian Arthur M. Schlesinger, Jr. recorded that when President Kennedy learned on November 2 of the death of Diem, “Kennedy blanched at the news and was shocked at the murder of Diem.” Historian Howard Jones noted that “CIA director John McCone and his subordinates were amazed that Kennedy should be shocked at the deaths, given how unpredictable were coups d’etat.”

The South Vietnamese military were afraid Diệm might stymy the coup, as he had done in 1960, and then execute them. Consequently, they did not spare the life of Diệm, as Burmese General Ne Win and his followers had spared the life of Prime Minister U Nu, who was instead detained in an army camp from 1962 to 1966.

Although a fervent Catholic, it would be unfair to characterize President Diệm as an anti-Buddhist bigot. One of Diệm’s Foreign Ministers, the Buddhist Vũ Văn Mẫu, upon resigning in 1963 during the Buddhist crisis, received a moving good-bye from President Diệm:”Please let us not forget each other!”- “Xin đừng quên nhau nhé!”.Some of Diệm’s Buddhist as well as Catholic advisors had respect for Diệm’s devotion to a life of public service. And the murders of Diệm and his brother Ngô Đình Nhu created an enduring resentment not only among some Catholics and but also among some Buddhists. American support for the military leaders of the regime from 1963 to 1967 that followed Diệm was, in my opinion, morally and politically justifiable. So, too was Ambassador Bunker’s supporting 1967 for the creation of a civilian regime under a new constitution. This new constitution provided for a civilian President a National Assembly consisting of a Senate and a House if Representatives, and led to the mid-term senatorial elections of 1970 that saw the election of Buddhist-supported opposition senators, including Professor Bùi Tường Huân of Huế University and Professor Vũ Văn Mẫu of the Sài Gòn Law School.
The period from 1967 to 1971 was one of relative success for South Vietnam both militarily including the turning back of the 1972 Communist offensive, the recapture of territory in the lead-up to the Paris Accords, and democracy in South Vietnam from 1967 up to 1971 when President Thiệu ran a one-man election). This relative success at democracy-building occurred without Ngô Đình Diệm and with American help. Thus, the (hypothetical) survival of Ngô Đình Diệm as an autocratic, anti-democratic president from 1963 until 1975, alone, would not have saved South Vietnam for the U.S., as Professor Edward Miller implies. His rule during that period might have even worsened the situation.
What about the impact on the war of the leadership style of President Nguyễn Văn Thiệu? Many overseas Vietnamese have accused President Thiệu of contributing to the downfall of South Vietnam in the last days of the war by issuing confusing, inconsistent, and panicky military commands, and by ordering the withdrawal of the armed forces from the Central Highlands, Huế and Đà Nẵng. Overseas Vietnamese have also condemned his farewell speech to the nation on April 21, 1975 ‒in which, as stated above, he announced his resignation and excoriated the Americans for the “inhumane act” of refusing “to aid an ally” and for “abandoning” South Vietnam. (179)
Thiệu was a soldier-politician who did not rise to the level of statesman, due to his mistrustfulness, narrow-mindedness, and fear of overstepping and betraying his subordinates, as in his unreasonable, short detention of Special Assistant a Nguyễn Văn Ngan who had helped him organize the Democratic Party. He further showed his lack of statesmanship during the presidential election of 1971, during which he stopped the candidacy of Vice-president Nguyễn Cao Kỳ to avoid dividing pro-government votes in a contest that featured General Dương Văn Minh as the only other competitor. Professor Nguyễn Ngọc Huy, my university colleague, described Thiệu’s mistrustfulness to me later when we worked together at Harvard. “He would shake hands with others and, once at home, look at his hand to check whether he still had five fingers.” Thiệu distributed work in segments to different advisors, none knowing about other segments assigned to another advisor, as a way of controlling each advisor. This prevented the creation of a brain trust of talented advisors who might have pooled their knowledge to provide wise advice and long-range perspectives. The Paris Peace talks required knowledge of diplomacy, military strategy, economics, American politics, the Vietnam Communist Partys policies, and the situation in North Vietnam. Yet, Thiệu gave compartmented assignments to Phạm Đăng Lâm, Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Phú Đức, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Cao Kỳ, and Nguyễn Tiến Hưng. Even when working with one advisor, Thiệu would hold back the totality of documents and work issues necessary for that advisor to offer sound advice. For example, Professor Hưng said he was given the role of advising Thiệu on relations with the United States, but was not given briefings on the military situation; and when he was asked by Thiệu to go to the United States to appeal for military aid in the final days before the collapse, he was given only a few of the 30 secret letters from Presidents Nixon and Ford. Thiệu kept the others for himself, rather than sharing them with close advisors dealing with South Vietnamese national security.
Despite these criticisms, we must recognize that the people of South Vietnam—with the elites at the top, including the presidents–achieved remarkable nation-building successes during both the six-year period of relative peace from 1954 to 1960 and the long war-time period of 1960 to 1975.
The Vietnamese Communists learned from the Chinese Maoists) how to fight a war of national liberation, including how to conduct a peasants’ revolt and how to wage war against city areas. Based on lessons learned from the Chinese, the Vietnamese retreated to the countryside and highlands when the French returned to Hải Phòng and Hà Nội, and began the 1945 to 1954 Indochina War.
With Chinese coaching, the Vietnamese established a bloody land reform program soon after the establishment of the People’s Republic of China in 1949. Under the Vietnamese program, landless peasants were goaded by propaganda to a paroxysm of hatred against landlords for imaginary or exaggerated crimes. This led to executions of the landlords and the redistribution of their property, which induced the peasants to give their political support to the Communist regime.. So many bloody crimes occurred that Hồ Chí Minh himself had to agree to a rectification (sửa sai) campaign, during which the most ringing indictment against the reform program was a commissioned report by law professor Nguyễn Mạnh Tường. The report was so devastating that the regime discarded it and banished Professor Tường to live in isolation and hunger for the rest of his life.
By contrast, Presidents Diệm and Thiệu both pushed for a more peaceful land reform. Diệm sent officials to Taiwan to learn about the moderate land reform program carried out by President Chiang Kai-shek’s Kuomintang party. There, under the “land-to-the-tiller” policy, landowners received land bonds and stock in state-owned enterprises in return for transferring land to peasants. (180) Harvard scholars considered it one of the world’s ten grand strategies for national development.
The land reform programs of Presidents Diệm and Thiệudiffered. Diệm put equal emphasis on land redistribution and the reduction of land rental rates for tenant farmers. Thiệu emphasized confiscation of the land in favor of the peasants (“land to the tiller”) with fair compensation for landlords. He was very proud of his land reform program, which earned him the gift of a statue commemorating land reform successes from the country’s peasants as “a token of gratitude to the President.” (181)

Under Presidents Diệm and Thiệu, South Vietnam achieved some successes in the administrative, economic, social, educational and legal fields despite the ongoing war. A National Institute of Administration (NIA), for example, expanded over the years, and trained middle- and high-level civil servants in the same manner as the famed Ecole Nationale d’Administration in France. The Americans supported the NIA with the help of Michigan State University.
State enterprises were strengthened in banking, sugar, cement and other sectors. Private enterprise was also encouraged under the Center for Industrial Development. Foreign investment laws were promulgated, including oil and gas regulations, with the latter resulting in the discovery of oil in the South China Sea by Mobil Oil in 1973. (182)
Social reforms in South Vietnam included the enhancement of workers’ rights with modern labor laws and a strong labor movement, with leaders such as Trần Quốc Bửu, who received advice from the AFL-CIO. Also advanced was gender equality, which was already defended in Vietnamese traditional law, but further promoted by the new family law which was pushed by Trần Lệ Xuân (Madame Nhu) during President Diệm’s regime, and which abolished polygamy. Moreover, Vietnamese women’s economic activities blossomed as they replaced the men fighting the war.
Secondary and university education made remarkable progress, with new teaching and research approaches that better encouraged creativity than the French or North Vietnamese systems. In addition, new educational institutions were founded throughout the country, including both public and private universities.
The South Vietnamese government put in place new international trade and investment laws, as well as new civil, criminal, commercial, procedural, administrative, and labor law codes. By contrast, the Vietnamese Communists in North Vietnam, and from 1975 to 1986, throughout Vietnam, abolished law schools and governed with only a relatively few disparate laws, even though they had French-trained lawyers available.. Most law codes and economic and social laws came into being only later, starting with the Đổi Mới (Renovation) period of economic reform 1986, when the United Nations Development Program and then Western countries came in to help.
The achievements of South Vietnam in nation building during wartime were such a success that when Prime Minister Võ Văn Kiệt asked advice from Singapore Prime Minister Lee Kwan Yew after the Đổi Mới period started, Lee replied, “Just ask the experts who managed South Vietnam prior to 1975.” (183)

By the time of the Paris Peace Accords in 1973, the South Vietnamese, with American support, had achieved many civilian and military successes, including the retaking of Quang Tri in 1972 after bloody battles with the attacking North Vietnamese troops.
Another victory for the South Vietnamese in tactical military terms was the Tết offensive of January and February 1968, when the Communists suffered heavy losses and failed to produce a popular uprising. The South Vietnamese exploited this victory by consolidating control over most of their territory by the time of the Paris Peace Accords in 1973.
At the same time, however, the Tết offensive was a strategic political victory for the Communists, because it played a key role in turning American public opinion against the war. Many Americans thought the offensive showed that they had been deceived by their government’s overly optimistic portrayal of the military situation. Faced with diminished popular support, Johnson on March 31, 1968, announced on TV: “I shall not seek and I will not accept the nomination of my party as your President.” (184)
The South Vietnamese collapse came later, in 1975, mainly because of the phasing out of American arms aid between 1973-1975.
In foreign relations, the Republic of Vietnam, which lasted from 1955 to 1975, became an independent state within the meaning of the 1933 Montevideo Convention definition of a state, i.e., with territory, population, government and ability to conduct foreign relations, and was entrusted with the administration of the Paracel and Spratly islands in the South China Sea (Biển Đông) by the 1954 Geneva Accords. Thus, under international law, South Vietnam was one of the two Vietnamese states with a legitimate claim of sovereign rights over the Paracels and the Spratlys, buttressed by its record of having fought valiantly in 1974 against a Chinese naval attack and illegal occupation of the Paracels in order to hold on to its legal claim.

The Socialist Republic of Vietnam had to recognize South Vietnam’s sovereignty over the Paracels and part of the Spratleys in order to assert its own claim of sovereignty in its protest to the UN against China’s placement of the H981 oil rig on the continental shelf of Vietnam in 2014. The Socialist Republic of Vietnam (SRV) had, in other words, to acknowledge itself as the successor state to the Republic of Vietnam (ROV), thereby recognizing the ROV as a legitimate state, to advance the SRV’s own claim of sovereignty. (185)

Draft done on Patriots Day, April 16, 2018, in Massachusetts, USA

___________________________________________________________________________

Author Tạ Văn Tài, Ph.D. in Political Science/Foreign Affairs (University of Virginia), LL.M. (Harvard Law School), former professor, Law Schools of Saigon, Sài Gòn, Hue and Can Tho Universities, National Institute of Administration, Vạn Hạnh University, Political Warfare College and National Defense College, Vietnam; also former lecturer and research associate, Harvard Law School.


Notes:

(155)  “Vietnam Overview,” https://www.worldbank.org, accessed 13 August 2018.

(157) See my article “American money, Vietnamese blood,” published in the 1970 issue of the National Defense Journal (Tập San Quốc Phòng). There, and in my lecture at the Vietnamese National Defense College on President Nixon’s Vietnamization of the war, I predicted that when the Americans no longer had their husbands or sons fighting and risking death, they would be more stingy in providing military aid to South Vietnam, even as the Vietnamese continued to shed blood. I also opined that without the American backbone, the Southeast Asia Treaty Organization would be a paper tiger. Probably the high-ranking officers at the National Defense College agreed with me, although we still hoped for better days when we together visited an American aircraft carrier and armada in the South China Sea and listened to General Ngô Quang Trưởng , commander of South Vietnam’s First Army Corps, lecturing on his troops’ efforts to obstruct the infiltration routes from North Vietnam to Central Vietnam.

(158) This reduced objective was conveyed to me in April 1975 from Professor Bùi Trường Huân, Dương Văn Minh’s Minister of Defense and my brother-in-law.

(159) The story was told by Vũ Hồng Khanh in a reeducation camp after 1975 to his roommate, Colonel Bùi Thế Dũng, the author’s brother-in-law, who eventually relocated to Massachusetts after 12 years of detention. Colonel Dũng was named Deputy Minister of Defence in the short-lived Dương Văn Minh government, anh Khanh treated Dũng as one of his sons. Khanh said that in the early 1940’s, Hồ Chí Minh, then using the name Lý Thụy and pretending to be blind. was travelling with two young men from Pác Bó in northern Vietnam to Liuzhou in southern China when they were arrested by the Kuomintang army. The two young men escaped. Khanh later surmised they were Phạm Văn Đồng and Võ Nguyên Giáp. A Vietnamese named Lý Sanh then asked Khanh and Vietnamese Nationalist Nguyễn Hải Thần to approach the Chinese Province Chief General Zhang Fakui, for help.
At first, General Zhang said, “This Communist guy, we must cut him into two pieces,” but he later released Lý Thụy (Hồ Chí Minh so he could go stay with Khanh, Nguyễn Hải Thần and Lý Sanh. Khanh related that Nguyễn Hải Thần was fond of the lively [Noted from James Yellin: Hồ wq Vietnamese man, who was also trusted by General Zhang, who gave him work assignments. When, in 1943, the Vietnamese Revolutionary Alliance discussed sending someone back to Vietnam to set up a base for the revolution, Lý Thụy volunteered to be the man. Later, in 1945, when the Việt Minh seized power, President Hồ Chí Minh invited Vũ Hồng Khanh and Nguyễn Hải Thần to join the Coalition Government. It was only then, as they all sat together for lunch on a mat in the presidential palace in Hanoi, that they recognized that Hồ Chí Minh was the d man they had known as Lý Thụy and that the Vietnamese Communist Hoàng Văn Hoan was Lý Sanh.
Years later, in 1977, after Vũ Hồng Khanh had been arrested in South Vietnam and put in a re-education camp in the north, Minister of Security Tran Quoc Hoan visited him in the camp and ordered the release of Khanh and allowed him to live with his eldest daughter, then aged 53, who remained in North Vietnam after 1954, in their home province of Vĩnh Phúc. If, in 1945 and 1946, the Communist leaders under Hồ Chí Minh had treated the Nationalist leaders with that same respect instead of assassinating them in large number, the civil war might not have happened.

(160) Bulletin Hebdomadaire Ministère de la France d’Outremer, no. 67 (March 18, 1946) translated in Harold R.Isaacs (ed.), New Cycle in Asia (1947), pp. 161-162 cited in “Agreement on the Independence of Vietnam, » www.vietnamwar50th.com, accessed August 26, 2018.

(161) The Ambassador in France (Caffery) to the Secretary of State, September 17, 1946, Foreign Relations of the United States, 1946, The Far East, history.state.gov, accessed August 26, 2018.

(162) Sources:
“Vietnam War Allied Troop Levels 1960-73,” www.americanwarlibrary.com, accessed August26, 2018; 

“Vietnam: U.S. Department of Veterans Affairs Military Service History,” https:www.va.gov, accessed August 26, 2018.

(163) Indochina Documents Prepared by the International Secretariat of the Geneva Conference The Final Declaration on Indochina,” Foreign Relations of the United States, 1952–1954, The Geneva Conference, Volume XVI, history.state.gov, accessed August 22, 2018.

(164) The Four No’s were: no negotiations with the Communists; no Communist or neutralist political activities south of the Demilitarized Zone (DMZ); no coalition government with the Communists; and no surrender of territory to the Communists. [Source: Phillip B. Davidson, Vietnam at War: The History: 1946-1975, (Oxford University Press, 1988), p. 740.

(165) As pointed out by a June 17, 2012, Information Paper of the U.S. Office of the Secretary of Defense, when the Vietnam War began for the United States is “to open a can of worms.” As the Information Paper points out, three of the dates used as the beginning are as follows:1950, when the United States established the Military Assistance Advisory Group (MAAG), Indochina, in Sài Gòn.
1955: when the United States redesignated MAAG, Indochina as MAAG, Vietnam and also created a MAAG, Cambodia.
1961, when President John Kennedy decided to substantially increase the level of U.S. military assistance to South Vietnam.Source: “Info paper Vietnam War and US Start Date,” www.vietnamwar50th.com, accessed 14 August 2018.

(166) “President Nguyen Van Thieu resigns (1975),” Alpha History, https://alphahistory.com, accessed August 22, 2018.

(167) “President Ford’s Speech on the Fall of Vietnam, 24 April 1975,” www.vietnamwar.net, accessed August 22, 2018.

(168) Our Documents, Tonkin Gulf Resolution (1964), https://ourdocuments.gov, accessed August 15, 2018.

(169) The Editors of Encyclopaedia Britannica, “Gulf of Tonkin Resolution,” Britannica.com, last updated July 29, 2018, https://.britannica.com, accessed August 15, 2018.

(170) “Tonkin Gulf Resolution.” West’s Encyclopedia of American Law, cited in Encyclopedia.com, http://encyclopedia.com, accessed August 15, 2018

(171) According to the Encyclopedia Britannica, the number of Chinese killed in the massacre has been subject to much debate, with most estimates ranging from 100,000 to more than 300,000.
[Source: The Editors of Encyclopaedia Britannica, “Nanjing Massacre.” Britannica.com, last updated June 20, 1918, https://britannica.com, accessed August 17, 2018.]

(172) I myself saw the ceremony on television in a Beijing hotel.

(173) Don Oberdorfer, “U.S. DETAILS PLAN FOR NORMALIZING VIETNAM RELATIONS,” April 10, 1991, Washington Post, https://washingtonpost.com, accessed August 16, 2018.

(174) Sources:“US finally ends Vietnam embargo,” The Independent, February 04, 1995, www.independent.co.uk, accessed August 16, 2018;“Clinton ends trade embargo of Vietnam , Feb 03, 1994, This Day in History, https://www.history.com, accessed August 16, 2018.

(175) During the process of normalization, they invented the story of the giant tortoise in Hoan Kiem Lake (Hồ Hoàn Kiếm) in Hanoi emerging from the bottom of the lake, where it, or its lineage, has lived since the Le Dynasty (Nhà Hậu Lê) liberated Vietnam from Ming China. The tortoise had two characters on its back: Mã Quy (Horse Tortoise). If pronounced in reverse, words with similar sounds, Mỹ Qua, mean roughly “the Americans are coming.” Vietnam is now a pro-Americancountry; U.S.ambassadors have felt so safe in public that one rode a motorcycle in Hanoi with his wife in the back seat (Pete Peterson) and another went by bicycle the whole way from North Vietnam to South (Ted Olsius).

(176) Report of Japanese reporter Yoshigata Yushi, April 2005.

(177) “Buddhist crisis,” Wikipedia, accessed August 24, 2018.

(178) John Prados, “JFK and the Diem Coup: Declassified Records, National Security Archive Electronic Briefing Book No. 101, posted November 5, 2003, nsarchive.gwu.edu, accessed August 18, 2018.]

(179) “President Nguyen Van Thieu resigns (1975),” Alpha History, https://alphahistory.com, accessed August 22, 2018.

(180) ‘SA 55. LAND REFORM IN TAIWAN by Chen Cheng (preface) 1961, www.landisfree.co.uk,
accessed August 18, 2018.

(181) I saw this statue still standing in 1991 in the hallway of Independence Palace (now Unification Palace), when I attended an Investment Forum there, with Vietnamese Communist Party General; Secretary Nguyễn Văn Linh and other high officials milling around. Ironically, a few years earlier, the government of unified Vietnam had had to abandon its failed land reform program, which included agricultural cooperatives in South Vietnam , for lack of cooperation from the farmers, who feared the loss of their land to the cooperatives. Some evaded collectivization by cutting down their orchards and killing their buffaloes and selling the meat in Sài Gòn.

(182) Mobil told my law office in 1974 that there was no commercial-quantity oil in the wells they had drilled and then capped in South Vietnamese waters. But they had lied to us because the Communists were approaching. After the war, the Vietnamese-Russian joint venture Vietsopetro drew oil from South Vietnamese waters. That was the beginning of the oil era in Vietnam

(183) Lee described this in detail in his memoir From Third Word to First.

(184) “Johnson Says He Won’t Run,” The New York Times, www.nytimes.com, accessed August 20, 2018.

(185) The Socialist Republic of Vietnam put this argument on the website of its Mission to the UN.

Views: 781

Đặc Khu Hành Chánh – Kinh Tế Việt Nam và Vành Đai Biển của Trung Quốc

Nguyễn Bá Lộc

Trong vài tháng qua, dân chúng VN đã dũng mãnh, trên hầu hết các thành phố lớn, biểu tình phản đối chính quyền CSVN tiến hành thực hiện ba Đặc Khu Hành Chánh–Kinh Tế (SAEZ) Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, gọi tắt là Đặc Khu (ĐK).
Điểm chánh yếu mà người dân nêu lên trong các lần biểu tình là: Phản đối việc cho thuê đất ĐK tới 99 năm và chống lại CSVN có ý đồ bán nước từng phần cho Trung quốc.

Ba đặc khu nầy là mô hình mới, lạ thường và có nhiều âm mưu mờ ám xét trên nhiều phương diện như: “Pháp chế và Tổ chức Hành chánh”, “ Những ưu đãi cho nhà đầu tư” hay “Sự cấu kết của CSVN và CSTQ”, “Sự hoành hành của tư bản đỏ và nhóm lợi ích”. Và hơn thế nữa là đặt ba Đặc Khu này trong kế hoạch đại dự án “Vành Đai Biển” của Trung quốc, thì nỗi lo âu về hậu quả bi thảm từ ba ĐK là có căn cứ, là chánh đáng, là phải ngăn cản.

Điều chúng tôi xin trình bày dưới đây là cái căn nguyên, cái dính dáng và sự trùng lập của ba ĐK với siêu dự án “Belt & Road Initiative” của Trung quốc. Đây không phải chỉ là một ưu tư cho dân tộc Việt mà còn là vấn nạn lớn cho nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nhiều nước đã vướn vào và thật khó khăn chưa có lối thoát.

Belt and Road Initiative (Nguồn: World Bank)

1.  Khái lược “Vành Đai Biển” của Trung quốc

* Sự hình thành đại dự án “Vành Đai và Con đường” (Belt & Road Initiative Project)

Vành đai biển (Maritime Belt) là một phần quan trọng của đại Dự án Belt & Road Initiatives, BRI.
BRI là một siêu dự án với tham vọng lớn của TQ được thành hình năm 2013 với 65 quốc gia thành viên tham gia hợp tác với TQ. BRI gồm hai phần. Một vành đai biển dọc theo biển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương, đến vài biển khác ở Châu phi, gọi là Maritime Belt hay Vành Đai Biển. Và một con đường bộ từ TQ đến Nam Á qua Nga đến Trung đông sang Phi Châu và cuối cùng là một phần Âu Châu (còn gọi là New Silk Road). Trong hai năm 2016-2017, TQ đầu tư $20 tỷ cho 9 cảng hải ngoại trong dự án Maritime Belt và đến tháng 9- 2017, TQ đã đầu tư 34 cảng trên thế giới. (Nguồn tin: China’s expanding investment in global ports, Economist Intelligence Unit’s Research.)

Trong thông điệp đầu năm 2018, Tập Cẩn Bình có nói đến đại dự án BRI như sau: “Nhân dân TQ sẵn sàng hợp tác với các dân tộc khác cùng xây dựng một tương lai thịnh vượng , hòa bình, và nhân đạo.” (Theo Ralph Jennings, đăng trong Forbes, Jan/8/2018)
TQ đã thành công về kinh tế trong vài chục năm qua. Nay TQ muốn thực hiện tham vọng bá quyền với khẩu hiệu “Going Global”. Mô hình toàn cầu hóa của TQ với nhiều điểm khác Tây phương. Phương thức TQ tiến hành là vừa dụ dỗ vừa cưỡng bức. Đó là một loại “thực dân mới” rất nhiều nguy hiểm cho nước “muốn hợp tác” hay “bị hợp tác “ với TQ. TQ kết hợp vừa kinh tế vừa chánh trị khi thương thảo với các nước. TQ không bao giờ đặt điều kiện về đạo đức chánh trị hay nguyên tắc tự do, dân chủ, nhân quyền của một chánh thể. Bất cứ quốc gia nào, một chánh thể nào miễn chịu vào bẫy và thòng lọng của TQ là được. (Theo tài liệu “China File Conversation”, của Aazon Halegua, New York University- Law School)
BRI là một dự án quốc tế lớn nhứt từ trước tới nay. Riêng TQ bỏ ra 1000 tỷ mỹ kim. TQ ký từng dự án song phương với từng quốc gia. Các dự án đều do TQ chủ trì hay thống lãnh. Đại loại trong các công trình lớn như: Xa lộ, Cầu cống, Đường xe lửa, Phi trường , Hải cảng, Khu chế xuất, Đặc khu kinh tế, Hành lang kinh tế, Khai thác nhiên liệu khoáng sản…

* Phương thức xâm lăng kinh tế của TQ

Khi nền kinh tế đã khá mạnh, TQ muốn thực hiện mộng ngàn đời của họ là đi ra khỏi biên cương và lần nầy đi thật xa, thật rộng với sự tính toán khôn ngoan hơn xưa. Nhưng mục tiêu vẫn là chinh phục và khuất phục thiên hạ bằng kinh tế kèm theo chánh trị và quân sự. (Theo tài liệu “A new Model for Chinese Oversea Investment” tác giả Liu Jia Hua, May 12-2017). Mộng bá quyền TQ hay “China Dream”, mơ ước của TQ là “Tương lai mọi con đường quan trọng trên thế giới đều phải qua Bắc kinh” (Theo Wade Shepard, trong bài ”China’s challenges abroad: Why the Belt & Road Initiative will succeed”).
Các phương thức thực hiện có thể tóm tắt:

Viện trợ kinh tế và cho vay: Từ 2000 đến 2014 TQ tung ra viện trợ quốc tế $354.4 tỷ so với Hoa Kỳ là $394.6 tỷ (Theo College of William & Mary ‘s Aid Data)
Ngân hàng Asian International Investment Bank (quốc doanh TQ) cùng với một số ngân hàng TQ khác cho vay ở ngoại quốc với tổng số tiền nhiều hơn hai Ngân hàng Thế giới (World Bank, WB) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ( Asian Development Bank ADB) cộng lại (theo tài liệu Yale University, Yale Global Online 10/04/2017). Riêng Ngân Hàng Import-Export Bank của TQ cho vay tổng số hơn các ngân hàng WB + ADB + Inter American Development Bank cộng lại (Theo tài liệu Boston University’s Global Govenance Initiative).

Đầu tư trực tiếp (FDI): TQ tăng rất nhanh khắp thế giới. Tổng số FDI của TQ từ 2000 đến 2014 là 354.3 tỷ MK so với Hoa kỳ 394.6 tỷ cùng thời gian (Theo nguồn tin: Aid Data của William & Marry College). Trong mấy năm gần đây thì nhịp độ tăng của TQ nhanh qua kế hoạch BRI.
Tại Á châu tăng từ $38.01 tỷ mỹ kim năm 2005 lên $307.1 tỷ năm 2017. FDI của TQ thực hiện hoặc vốn 100%, hoặc liên doanh với nước chủ nhà. FDI TQ chủ yếu nhắm vào nhiên liệu, nguyên liệu là chánh để phục vụ cho kỹ nghệ trong nước. Loại đầu tư có lời nhanh và cao là casino, du lịch và địa ốc. Một số mặt hàng khác của FDI TQ là hàng có thể bị ảnh hưởng chiến tranh mậu dịch như thép, đồ điện tử.

Thầu các công trình lớn. Một tiến công mạnh mẽ của TQ là thầu các công trình lớn. Chương trình nầy đi kèm với viện trợ. Viện trợ hay vay tiền từ TQ luôn buộc phải đi kèm với điều kiện giao cho công ty TQ thầu, và TQ có quyền đem công nhân theo cũng như mua trang thiết bị TQ. Thông thường công ty TQ có phẩm chất kém và giữa chừng tăng kinh phí lên cao. Rốt cuộc tiền TQ lại có một phần lớn chạy về TQ.

Xuất nhập cảng: TQ phát triển đầu tiên là nhờ xuất cảng. Xuất cảng bằng mọi giá mọi cách miễn sao thu về nhiều ngoại tệ là tốt. TQ vẫn theo đuổi con đường nầy như là một cách để giải quyết thất nghiệp, tạo mãi lực tại nước đang phát triển và đồng thời đánh bại hàng sản xuất từ các nước phát triển cao.
Về nhập cảng TQ hạn chế nhập hàng từ nước ngoài. Vì vậy TQ có số xuất siêu cao và ngoại tệ tích lũy rất lớn. TQ đang cố gắng sản xuất các loại hàng với kỹ thuật rất cao kễ cả sản phẩm quốc phòng để cạnh tranh với Hoa kỳ.

*Điều kiện và phương thức hợp tác giữa TQ và các nước tham gia dự án:

Về phía TQ: dùng sức mạnh và ưu thế kinh tế của mình là tiền, là thị trường lớn, là nhu cầu lớn về nguyên liệu nhiên liệu cần cho phát triển kinh tế, là hàng hóa mọi thứ với giá rất rẽ.

Về phía nước chủ nhà: phần lớn là nước rất nghèo, thiếu tiền để đầu tư vào các dự án lớn. Khi nước có phát triển thì đó là điều kiện để bảo vệ chế độ và chánh quyền. Nhứt là một chánh quyền tham quyền cố vị, không có hay có ít tự do, dân chủ và lại tham nhũng nghiêm trọng nên Bắc Kinh dụ dỗ dễ dàng vì cả hai bên đều có lợi. Chính vì vậy mà có rất nhiều dự án không có hiệu quả, tốn kém.
Trong kế hoạch Vành Đai Biển, VN là một mắc xích quan trọng, là con đường của TQ nối với Đông Nam Á Châu, một vùng biển chiến lược của TQ và các nước khác. Mặt khác VNCS lệ thuộc Tàu rất sâu và rất lâu về mọi phương diện. Cho nên ba ĐK là một phần trong Vành Đai Biển, là cần thiết, là bắt buộc phải có theo áp lực, hay nói khác là theo lịnh TQ.

2. Đặc Khu Kinh Tế trong Kế Hoạch Vành Đai Biển của TQ

Kế hoạch Belt & Road mà một nửa là Vành Đai Biển là phần quan trọng của sách lược Toàn Cầu Hóa của TQ hiện nay.
Các Đặc khu kinh tế thì đã có từ hơn 50 năm nay. SEZ trước kia giúp nhiều cho phát triển kinh tế. Hiện trên thế giới có khoảng 4000 ĐKKT. Một số thành công, cũng có một số thất bại. Phần lớn ĐKKT do TQ thống lãnh là thất bại hay có vấn đề. Chính vì vậy mà gần đây các ngân hàng TQ yêu cầu kiểm điểm lại việc cho vay vì có một số nước không có tiền trả nợ.
Dưới đây là các ĐKKT (SEZ) do TQ thống lãnh, áp đảo hay ảnh hưởng đã đưa tới nhiều hiểm họa nghiêm trọng. Mà đó cũng là dáng dấp, là hình ảnh, là nội dung, là thân phận của ba ĐKHCKT của VN trong tương lại.

Cambodia:
Cambodia lệ thuộc hoàn toàn TQ về kinh tế lẫn chánh trị. Những đặc khu kinh tế (SEZ) của Cambodia do TQ thống lãnh gần như hoàn toàn. Nhứt là các ĐKKT nằm ven biển, tức là trong đại dự án ”Belt & Road Initiative”. Trường hợp rõ nét nhứt là ĐK Shihanoukville (SSEZ).
SSEZ được thành lập 2008 tại cảng Shihanouk, một cảng có từ lâu. Nhưng đến 2012, chánh quyền Cambodia ký với TQ và TQ đầu tư mở rộng SSEZ .Trong khu biệt lập nầy có trên 110 xí nghiệp sản xuất và độ 100 cơ sở thương mại và khu gia cư. Trong khu biệt lập khác là một cao ốc gồm có apartments và các casino ở từng dưới, tất cả do TQ làm chủ. Trong đó, người TQ chiếm hết 80 % và đang xây thêm 300 cơ sở thương mại sẽ do người Tàu làm chủ. Các khu nầy nằm trên bờ biển. SSEZ hiện nay có khu China Town to lớn. Tới nay SSEZ đã xong 30 casino và đang xây thêm 70 cái nữa. Các casino cũng do người Tàu làm chủ. Đó còn gọi là New Macau. Cạnh đó là một miếng đất có vị trí tốt cũng được cho TQ thuê 99 năm để xây nhà ở. Vốn cho dự án này tới $5.7 tỷ mỹ kim và làm giá nhà đất ở SSEZ tăng vọt.
Người Tàu ở Cambodia càng ngày càng đông. Theo luật Cambodia thì người ngoại quốc không được làm chủ đất đai. Nhưng người Tàu mới thì họ mua quốc tịch Cambodia với giá $100,000. Sihanuokville càng ngày càng phồn thịnh. Du khách đến tấp nập, phần lớn là người Tàu đến để chơi bài. Mặt khác tiền bạc từ TQ ra và vào ĐK nầy gần như không có kiểm soát. Nhưng người dân địa phương vẫn nghèo và khổ hơn vì tệ trạng xã hội gia tăng. Ngoài ra, TQ yểm trợ hết mình cho T T Hunsen tiếp tục lãnh đạo Cambodia. TQ ký với Cambodia cho viện trợ lên tới 7 tỷ trong năm qua.

Malaysia:
Thủ tướng Najib trước 2018 đã đi quá sát TQ . Malaysia đã nhận quá nhiều viện trợ từ TQ. Malaysia là một mắc xích rất quan trọng của Vành Đai Biển. TQ phải kéo nước nầy. Malaysia đã cho TQ xây đảo nhân tạo để xây nhà ở cao cấp, Forest City, và do công ty TQ làm chủ với tổng số tiền đầu tư là $100 tỷ. Hiện 70% người mua các nhà nầy là Tàu. TQ đã viện trợ Malaysia đến 13 tỷ cho nhiều công trình trong số tổng cộng TQ hứa là 34,2 tỷ (số viện trợ lớn nhứt ớ Á châu trong chương trình Belt & Road). Điều kiện Malysia phải nhận là cho nhiều công nhân TQ qua làm việc và mua trang thiết bị và nguyên liệu từ TQ. TQ đã cho Malaysia vay $14 tỷ và xây một con đường sắt chiến lược từ Đông sang Tây Malaysia nối Biển Đông qua Ấn Độ Dương.
Thủ tướng mới đắc cử, ông Mahathir, cho rằng những hợp tác quá đáng với TQ là hành động bán nước. Nên khi đắc cử, TT Mahathir xét lại một số dự án đã do TT Najab ký. (Theo tin Liz Lee, Reuter April 27-2018).

Lào:
Mặc dù không nằm trong Vành Đai Biển, nhưng Lào là nước gắn chặt với TQ trong “Belt & Road” dưới nhiều dự án dọc biên giới TQ và Lào. TQ giúp Lào lập nhiều SEZ. Mà chánh yếu là cho kỹ nghệ casino và các trò giải trí khác cho khách đa số là người Tàu.

Sri Lanca:
ĐK kinh tế ở Sri Lanca do TQ thống lãnh là một trường hợp điển hình về sự kết hợp mục tiêu kinh tế & quân sự của TQ trong Vành Đai Biển và hậu quả là Sri Lanca mất một phần đất về TQ.
Dưới sự chiêu dụ của TQ, Tổng thống Sri Lanca, ông Srajapaksa, ký thỏa hiệp thiết lập hải cảng quốc tế Hambantota, gần Ấn độ, năm 2010. Ngoài cảng to lớn còn có phi trường quốc tế, xa lộ. Vốn hoàn toàn do TQ viện trợ. Lần đầu là $307 triệu. Sau khi hoàn thành lúc nợ đáo hạn, Sri Lanca không chạy đâu ra tiền trả nợ, phải vay thêm TQ lần nhì $757 triệu với lãi xuất 6.3% chớ không còn ưu ái như lần đầu là 2%. Đến năm 2012, cảng bắt đầu hoạt động và lèo tèo mấy chục chiếc tàu quốc tế, hàng không quốc tế chỉ có một hảng. Lại thêm tham nhũng quá đáng. Cảng nầy bị lỗ nặng.
Năm 2015, TT Srajapaksa thất cử, nhưng để lại một số nợ TQ quá lớn mà TT kế nhiệm không có khả năng giải quyết. TQ buộc Sri Lanca phải trả nợ bằng cách giải quyết cho TQ thuê lại toàn bộ cảng nầy với 15.000 mẫu đất, với $1.1 tỷ trong 99 năm. Sau đó, 2017, TQ lại ép buộc Sri Lanca cho thuê xây một khu kỹ nghệ cạnh cảng quốc tế cũ là cảng Colombo và hoàn toàn do công ty TQ quản lý. Công ty TQ là China Merchants Port Holding Company có vốn 85% của cảng và thời gian thuê là 99 năm.
Sri Lanca thiếu nợ TQ do Kế hoạch Vành Đai Biển là 1,0 64 tỷ và mất hai vùng đất. Thực sự Srilanca nợ TQ tổng cộng với các món nợ khác lên tới 5 tỷ trong hoàn cảnh kinh tế không khả quan. (Theo tin báo New York Times).

Pakistan:
Theo tin từ Yale Global Online trong bài” Pakistan’s Costly Plunge Into China Debt” thì Pakistan là nước nhận hậu quả tai hại nhứt do viện trợ của TQ. Điều kiện nhận viện trợ TQ như tại các nơi khác là phải cho công nhân TQ đến làm việc và mua máy móc TQ. Và dự án thi công phải giao cho công ty TQ, không có đấu thầu. TQ đầu tư trực tiếp 22 tỷ tại Pakistan. Nhưng năm rồi chánh quyền mới của Pakistan rút bỏ thỏa ước TQ viện trợ $14 tỷ để xây cái đập thủy điện, vì TQ đòi nắm quyền sở hữu đập nầy. Cho tới nay Pakistan có tổng số nợ TQ lên tới $62 tỷ.

Phi Châu:
Trong cùng mục tiêu và sách lược bành trướng của TQ trong dự án “Belt & Road”, TQ thực hiện nhiều công trình to lớn như cảng , phi trường, cầu cống, tại nhiều nước Phi châu như Nigeria, Ethiopia, Nam Phi.. với cùng công thức: dùng tiền mua chuộc chánh quyền, thực hiện nhiều công trình lớn. Đưa công ty TQ qua với máy móc trang bị TQ. Khai thác khoáng sản. Và chiếm cứ các điểm trọng yếu. Khả năng hấp thu của các nước Phi châu yếu kém, nên hiện nay gặp một số khó khăn.

Và một số quốc gia khác:
Quan trọng có Thổ nhĩ kỳ với viện trợ TQ rất lớn nhằm nối đầu cầu nầy với Âu châu. Còn ở Úc châu, TQ nắm phần quan trọng của hải cảng Darwin, thuê 99 năm với giá 506 triệu Úc kim, TQ coi đây là trạm cuối của Maritime Belt .

* Tóm tắt hậu quả chung của các ĐK do TQ thống lãnh
Không ai chối cải là ĐKKT, kể cả Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ kỹ thuật cao.. của thập niên 1950 – 1970 khá thành công. Nhứt là tại một số nước đang phát triển và có nền Dân chủ và guồng máy công quyền tốt như Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Nam Hàn. Vì SEZ thực sự là công cụ cho phát triển kinh tế.
Nhưng trong khoảng 10 năm nay, TQ xem SEZ như là một công cụ của sự xâm lăng kinh tế, công cụ của sự vươn lên để đạt vai trò bá chủ trong thiên hạ, thì SEZ trở thành phức tạp và có nhiều tai họa cho khá nhiều nước mà tôi vừa tóm tắt trên đây.
Thực tế khá rõ. Đó là những bài học cho VN và cho một số nước khác.
Mặc dù khi hợp tác với TQ về kinh tế nước chủ nhà có một số lợi nhứt định tùy quốc gia. GDP tăng lên. Mặc cảm nghèo đói bớt đi. Nhưng bên trong các quốc gia nầy nhận chịu nhiều vết thương đớn đau và thật lâu dài. Những khó khăn đó là:
• Lệ thuộc TQ về mặt chánh trị, nhiều hay ít tùy quốc gia
• Mắc nợ TQ quá lớn. Có nước không còn cách nào trả nợ đành phải giao đất cho Tàu.
• Một số vùng quan trọng của đất nước bị người Tàu chiếm định cư lâu dài.
• Tài nguyên bị cạn dần trong khi đó kinh tế và xã hội không sáng sủa hơn bao nhiêu.
• Tệ trạng và bất công xã hội tăng thêm vì hậu quả của các khu cờ bạc, điếm đàng to lớn và công khai.
• Tham nhũng nghiêm trọng và tràn lan không thể tiêu diệt hay cải thiện.

3. Ba Đặc Khu VN trong Kế Hoạch “Vành Đai Biển” TQ

Ba Đặc Khu là dự án ĐKKT lớn nhứt và mới lạ của VN. Đây là dự án rất lớn và nằm trên ba địa điểm rất quan trọng về phương diện địa lý – chánh trị. Đó là Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh, Bắc Vân Phong thuộc tỉnh Khánh Hòa, và Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang.
Trong bài nầy tôi chỉ nói một khía cạnh của ba ĐK. Đó là những điểm tương quan và gần giống mô hình các ĐKKT TQ thống lãnh hay nắm phần quan trọng mà tôi vừa trình bày ở phần trên. (Các phần khác về ba ĐK tôi trình bày ở bài khác). Các ĐKKT do TQ chiếm giữ nằm trong “Vành Đai Biển” đã và đang gặp nhiều tai họa và rất có thể là của VN tương lai.
Các điểm ghi dưới đây là trích từ các văn bản hay qua các buổi họp của Bộ Chính Trị, của Chánh phủ, của Bộ Đầu Tư , của Dự Thảo Luật Đặc Khu và của các phát biểu của các viên chức cao cấp .

* Thực hiện sự cam kết lệ thuộc Tàu của CSVN:
Chúng tôi đã nhiều lần trình bày đại họa lệ thuộc kinh tế TQ. Với ba ĐK mới là một trong những thòng lọng thêm vào. Trong chuyến đi rất sớm của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, sau khi tái đắc cử, qua TQ (2016) và hai bên ký nhiều thỏa hiệp kinh tế quan trọng trong đó có các dự án lớn. Sau đó, Bộ Đầu Tư & Phát Triển (BĐTPT) nhận chỉ thị của Bộ Chánh Trị soạn gấp Dự Án Ba ĐK. Bộ Chánh Trị quyết định nhanh chóng và đưa chỉ thị các bộ phận đảng và chánh phủ xúc tiến bởi văn thư số 21 TB/WT ngày 22 tháng 3/2017 của Trung Ương Đảng. Trong các lần họp để chi tiết hóa, BĐTPT có nhiều lần bàn thảo với các chuyên gia hàng đầu của TQ về Belt & Road Initiative, các công ty casino, công ty tài chánh đến từ TQ. Tới giờ, 90% công việc của Dự Án đã được phân công và một số công tác đã tiến hành. Theo mô thức tổ chức chánh quyền CS, Quốc Hội biểu quyết luật chỉ là hình thức và không thể đảo ngược quyết định Bộ Chánh Trị.
Như vậy chống ĐK là chống đại họa đã có, nay chỉ thêm một lần nữa để thấy thêm sự bi đát của tương lai. Dự án nầy phù hợp với ba nhu cầu quan trọng: Thực hiện đại dự án Belt & Road của TQ, giải quyết khó khăn kinh tế tài chánh rất lớn của VN, và đẩy mạnh tham nhũng của CSVN & CSTQ.

* Tổ chức Hành chánh và điều hành ĐK có nhiều điều lạ và nguy hiểm
Thông thường Đặc Khu Kinh Tế (SEZ ) trên thế giới cũng như VN trước kia thì về tổ chức hành chánh chỉ có SEZ, không có kết hợp Đặc khu Hành chánh và ĐK kinh tế. Vì SEZ là một phần khá nhỏ trong một đơn vị Hành chánh. SEZ được quản lý riêng, nhưng đơn vị hành chánh có SEZ phải quản lý theo luật Tổ chức Hành chánh toàn quốc gia. Khi nói đến Đặc khu Hành chánh có tổ chức và điều hành riêng thì thường nghĩ tới “Khu tự trị”.
Trong dự thảo Luật Ba ĐK thì Bộ ĐTPT đề nghị hai mô hình quản lý hành chánh: Một là không có Hội đồng nhân dân và Ủy Ban nhân dân. Chỉ có Ủy Ban điều hành mà người đứng đầu do Thủ tướng bổ nhiệm. Thứ hai là vẫn có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo thể thức bình thường của một đơn vị hành chánh cấp huyện. Như vậy theo dự trù thì toàn thể lãnh thổ của ba ĐK có nhiều ưu đãi, nhiều miễn thuế cho các nhà đầu tư, chớ không riêng gì đầu tư trong các “khu chức năng” như “khu công nghiệp”, “khu thương mại tự do”,” khu yểm trợ”, khu vực “casino và giải trí”. Điều nầy làm nghĩ tới các đầu tư cho khu nghĩ dưỡng, gia cư cho người ngoại quốc, nhứt là đầu tư cho các công trình lớn như phi trường, hải cảng, xa lộ, cũng được hưởng các đặc miễn. Các công trình nầy đòi hỏi vốn rất lớn. Mà theo kinh nghiệm của các SEZ ở Cambodia, Thái lan, Lào , Malaysia thì phần chánh yếu là từ các nhà đầu tư TQ thực hiện.
Về thời hạn thuê đất 99 năm mà CSVN cho rằng cần phải theo trào lưu hiện nay là các SEZ do Tàu thống lãnh hầu hết là 99 năm. Đó là theo ý Tàu, theo mô hình TQ. Đó là đúng chiến thuật chiếm cứ lâu dài từng mảnh đất nhỏ ở hải ngoại vừa để di dân, để làm kinh tế và để xây dựng thêm “lực lượng Hoa kiều hải ngoại”. Các nhà đầu tư không phải Tàu thì không ai nghĩ đến việc cần trụ lại quá lâu ở một nước khác, trong tình trạng khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực hiện nay và trong một thế giới có nhiều biến đổi.

* Nhắm tới FDI cho Casino, Du lịch, Gia cư và công trình hạ tầng cơ sở lớn
Theo nguyên tắc các lãnh vực đầu tư trong ba ĐK là gồm nhiều thứ, mới xem qua thì nó giống như bình thường. Nhưng đọc kỹ và nghe những gì CSVN bàn thảo thì thấy được ẩn ý và âm mưu của CSVN là chiêu dụ hay bị ép buộc mở cửa cho các lãnh vực chánh là : casino, du lịch, khu an dưỡng và công trình hạ tầng cơ sở. Trong dự luật (điều 3, chương I) mà dự luật gọi là “nhà đầu tư chiến lược”. Thực sự đó là cái đích, cái yêu cầu và nhu cầu của TQ đã thực hiện ở các khu do họ thống lãnh. Vì các lãnh vực trên có nhiều lời, tương đối dễ, nhứt là casino ở đâu cũng lời rất cao, và dễ chiếm lâu dài vùng đất thuê. Nhưng có điều vô lý là kỹ nghệ cờ bạc thì theo qui hoạch được coi là ngành chiến lược và cũng được miễn thuế doanh nghiệp 100% trong 4 năm. Trong khi đó ai cũng có thể biết là casino có lời ngay trong năm đầu và thuế trong ngành nầy là một nguồn thu nhập rất lớn cho ngân sách và cho quan chức tham nhũng.
“Nhà đầu tư ngoại quốc được quyền sở hữu căn hộ khách sạn, biệt thự nghĩ dưỡng, văn phòng làm việc lưu trú “ (điều 35, Mục 2 của Dự luật)
Các nhà đầu tư Tây phương họ đến VN là vì công nhân rẽ, nguyên liệu nhiều, hàng hóa tiêu thụ được nhiều trên những thị trường lớn, ổn định chánh trị. Họ đâu có cần ở lâu dài hay nghĩ dưỡng, hay đến cả đám đông quậy phá lung tung.

* Sức mạnh và cái thế TQ
Dựa theo cách hành xử của TQ tại các ĐK nói trên và dựa theo sức ép TQ đối với VN trong quá khứ, thì sức ép của TQ đối với ba ĐK là to lớn, đảng và chánh quyền VN rất khó cưỡng lại. Đối với TQ thì CSVN không còn ở giai đoạn dụ dỗ mà là ở giai đoạn chia chác quyền lợi và cưỡng bức.
Các chiêu mà TQ thực hiện ở ba ĐK ở VN :
Viện trợ, vì VN làm gì có khoảng $70 tỷ cho đầu tư cơ bản cho ba ĐK.
Thầu các công trình lớn. Hiện nay một công ty TQ đang làm xa lộ Mong cái – Vân Đồn với tổng số đầu tư là $300 triệu. Chắc chắn TQ sẽ chiếm hết công công trình của ba ĐK.
Công nhân và người già du khách sẽ tăng nhiều hơn nữa. Nhiều khu Chinatown nhỏ sẽ mọc thêm. Du khách nhiều thì có lợi về kinh tế, nhưng kiểu du khách Tàu thì có nhiều tệ hại do họ mang tới.
TQ sẽ ép và phối hợp với VN cho TQ lấy chứng nhận xuất xứ để xuất cảng qua Mỹ và một số nước khác trong chiến tranh mậu dịch với Hoa kỳ.
TQ sẽ kèm kẹp mạnh hơn đảng CSVN. Các thành phần có khuynh hướng thân Mỹ sẽ bị triệt hạ.
TQ sẽ can thiệp vào các vụ biểu tình của dân chúng chống TQ
Tham nhũng sẽ gia tăng. Không có cách nào trị được. Các vụ rữa tiền sẽ được hợp thưc hóa và thực hiện ngay trong ĐK do qui chế chuyển tiền độc lập cho các nhà đầu tư tại ĐK.
Một làn sóng mới mạnh mẽ từ TQ do từ ba ĐK nầy sẽ tạo thêm bất công kinh tế giữa nhà đầu tư trong ĐK và doanh nghiệp VN. Và tệ trạng xã hội quá tồi tệ hiện sẽ gia tăng thêm do các casino đem tới.

4. Phối hợp cho một Phong trào thế giới chống “Thực dân Trung quốc”

* Cần nhận ra đại họa TQ
Cách tổng quát trên quả đất nầy, dù là thời nào, ai cũng mong mọi người nên giúp đỡ nhau cách hòa bình và lương thiện. Nhưng thực tế thì khác, có một số nước, một số chánh quyền manh nha ý đồ muốn đàn áp, muốn xâm lấn dân tộc khác, trong đó có TQ. Trong quá trình lịch sử lâu dài, gần như lúc nào các vua , các lãnh đạo TQ cũng muốn dùng sức mạnh uy hiếp nước khác. Có thể vì TQ quá lớn, quá nghèo? Thực sự dân Tàu, nước Tàu có khá nhiều ưu điểm và ưu thế để sống và theo con đường bình thường, không gian ác thì cũng có đời sống vật chất và tinh thần ở mức cao.
Nhưng TQ nay muốn ở mức cao nhứt. Đó là vấn đề, là đại họa cho nhiều dân tộc khác.
Những làn sóng xô tới quá mạnh. Giờ thì mọi người cần phải cảnh giác hơn và tìm cách chống đỡ. Mặc dù “Bão TQ” có khi quay ngược lại tàn phá chính mình. Và sức mạnh cản ngăn trên thế giới nay gần như sẵn sàng.

* Sự phối hợp cần thiết
Trong phạm vi Việt Nam
Về mục tiêu tranh đấu: Chống cho thuê 99 năm hay 70 năm đó là đúng. Nhưng có nhiều mặt khác của ĐK rất tai hại cần hiểu rõ, thì lý do và lập luận cho việc phản đối ba ĐK vững vàng hơn và lâu dài hơn, dễ kết hợp hơn. Các điểm chánh yếu có thể nêu ra là: Lệ thuộc kinh tế TQ quá lớn. Tai hại của casino. Không chấp nhận cư dân TQ du nhập bừa bãi và phi pháp. Tẩy chay hàng TQ. Chống phá cơ sở TQ nếu tình thế bắt buộc.
Phương thức đấu tranh: Các cuộc biểu tình lớn vừa qua rất có kết quả, cả trên bình diện quốc tế. Cần liên tục trong tương lai. Truyền thông trong nước cần phát ra đầy đủ và có sáng tạo , có ý nghĩa và phong phú. Huy động và vận động các tổ chức nghề nghiệp, tôn giáo, sinh viên, và nông dân chống đối dưới nhiều hình thức.
Trên bình diện quốc tế
Sự vận động cho “Phong trào quốc tế chống Thực dân TQ”.
Đã đến lúc thế giới cần phối hợp chống một loại Thực Dân TQ nguy hiểm hơn bất cứ loại đế quốc nào trước đây. Tôi nghĩ thế giới đã hiểu, nhưng những phản ứng chưa đủ mạnh . Mặt khác thi TQ biết khai thác các ưu thế của mình và nhu cầu các nước đang phát triển, nên TQ đã đạt một số thành công trên sách lược toàn cầu hóa của họ, tức là kiểu TQ.
Sách lược của TQ tiến tới trên toàn cầu bằng 4 mặt: Kinh tế, Chánh trị ngoại giao quốc tế, Quân sự khi cần và Khoa học kỹ thuật, cả Văn hóa.
Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh. Phải ý thức về mối họa TQ
Hợp tác và đoàn kết giữa các quốc gia đang gặp tai họa từ TQ . Điều nầy khó khăn vì phần lớn chánh quyền ở đấy độc tài hay bán độc tài. Tuy nhiên cũng có một số nước có dân chủ , tình trạng có thể đổi thay như ở Malaysia chẳng hạn.
Vận động các nước mạnh và có tôn trọng giá trị Tự do, Dân chủ và Nhân quyền
Các tổ chức đấu tranh của người Việt trong và ngoài nước sẽ là một trong những nước khởi dầu cho Phong trào.
Lực cản ngăn và làm tan biến “Thực Dân Tàu” dĩ nhiên là phải có sự kết hợp của các nước có Dân chủ Tự do và Nhân quyền và các định chế quốc tế.
Nếu thế giới xử dụng hữu hiệu hơn, hợp tác hơn về sức mạnh tinh thần, kinh tế và vũ lực tôi thiển nghĩ đại họa TQ sẽ tan dần.
Đây có thể coi như Phong trào quốc tế chống thực dân thuộc địa cũ hay Phong trào chống cộng của những thập niên trước. Một trật tự thế giới ổn định và tiến bộ là ước mong của con người.

Chúng tôi đóng góp một số ý kiến và dữ liệu trong bài nầy với sự kính trọng và sự cảm xúc về sự dấn thân, về những hy sinh cao quí của những người đã và đang tham gia bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xưa kia và gần đây.

Nguyễn Bá Lộc (ĐS9/CH1)
Cali, August 10 – 2018

Views: 318

Kinh Tế Việt Nam 2017 và Đại Họa Lệ Thuộc Kinh Tế Trung Quốc

Nguyễn Bá Lộc

Năm 2017 là một mốc thời gian quan trọng của Việt Nam. Chế độ độc tài CS tiếp tục thêm nhiệm kỳ nữa. Nội bộ CSVN đấu đá mãnh liệt hơn trước qua chiêu bài “chống tham nhũng” trong sự tranh giành quyền lực nội bộ, và trong chủ trương tạo bề ngoài như một “ý chí phục thiện” để lấy niềm tin.

Về phương diện kinh tế, năm 2017 cũng là thời điểm quan trọng. Sau 30 năm “đổi mới” nửa vời và nhiều lệch lạc, bịnh tình kinh tế VN không hết mà còn tệ hại hơn. Mọi người chờ sự “đổi mạnh” “đổi đúng” và “đổi thật”. Nhưng, thực tế không như mong đợi. Những khó khăn kinh tế nghiêm trọng vẫn tồn tại và đe dọa tương lai. Mối nguy lớn nhứt của những vấn nạn nghiêm trọng năm qua là bước tiến nhanh của sự lệ thuộc kinh tế Trung quốc (TQ).

Qua vài con số rất tổng quát được chánh quyền công bố hồi đầu năm nay, kinh tế có vẻ như khá hơn. Chánh quyền muốn bày tỏ với dân và quốc tế có chút lạc quan trên con đường đang đi tới.   Nhưng thực sự các con số đó chưa nói hết thực trạng kinh tế hiện nay. Những cản trở quá lớn và đã kéo dài từ hàng chục năm qua hãy còn đó, và không hy vọng sớm giải quyết ổn thỏa.

Bên cạnh một số chỉ tiêu kinh tế có khá hơn so với năm 2016 về tỷ suất phát triển nhờ sự gia tăng xuất cảng và đầu tư ngoại quốc. Song, tiến triển nầy còn rất thấp, rất nhỏ, so với mức trung bình của các nước đang phát triển khác.

Để hiểu một phần nào thực trạng kinh tế đang vật lộn với những khó khăn lớn tồn tại cùng cái họa kinh tế từ TQ, chúng tôi xin trình bày tóm lược dưới đây qua hai phần chánh:

. Tiến bộ và trở ngại của Kinh tế Việt nam 2017

. Tai họa của sự lệ thuộc kinh tế Trung quốc

I. Tóm Lược Kinh Tế Việt Nam Năm 2017

Trên một một số lãnh vực trọng yếu, và với cái nhìn chung, thì kinh tế VN 2017 có được chút tiến bộ, so với thời kỳ kinh tế suy sụp nặng (2008-2015) và so với chính bản thân mình.

Nhưng với cái nhìn tổng quát và có nghiên cứu sâu hơn thì nền kinh tế hiện nay không có gì lạc quan, nó sống với nhiều mảnh bể lớn, nhiều hố sâu, nhiều mục nát, bên cạnh một vài hình ảnh kinh tế có vẻ hào nhoáng bề ngoài và gợi cảm cho những ai chỉ hiểu biết nó cách dễ dãi.

1. Một số tiến bộ kinh tế được công bố

Theo các con số đưa ra a Tổng cục thống kê cũng như một báo chí trong tháng đầu năm nầy, chúng ta ghi nhận

 Năm                                      2010            2012                2016                2017

*Tỷ số phát triển                   6.4%              5.2 %               6.2 %               6.8% (1)

(1)  Theo Tổng cục thống kê VN và báo Xinhua, TQ tỷ suất là 6.8%. Theo Ngân Hàng Thế Giới ước lượng 6.3%. Chỉ tiêu Quốc Hội đặt ra là  6.7%

Khó nói các con số thống kê của VN chính xác đến mức nào. Chỉ có thể nói kinh tế có khá hơn so với những năm từ 2009 đến 2015, và kém hơn các năm 2001-2008 đã đạt tỷ suất phát triển trung bình 8%.

Dù có đạt 6.8% thì hãy còn yếu. Vì các nước có mức độ phát triển tốt như Đài Loan, Nam Hàn Singapore trong giai đoạn đầu của phát triển luôn có tỷ xuất trên 9%. Và theo nhận xét của một số cơ quan quốc tế như World Bank, thì nếu VN muốn có sự phát triển tương đối bền vững để giữ có mức lợi tức đầu người trung bình cao, thì mức độ phát triển phải đạt từ 7% trở lên.

Một số chỉ tiêu có tiến triển khác:

   Năm                                                 2010                 2012                  2016                  2017

Tổng sản lượng  (tỷ mỹ kim)             $115.9              $135.5                    $195                $221  (*)

Đầu tư ngoại quốc (tỷ mỹ kim)         $19.9                   $16.3                     $18                   $33 (*)

Xuất khẩu   (tỷ mỹ kim)                     $72.2                $114.57               $175.94          $213.77 (*)

(*) theo Tổng cục thống kê

Theo báo cáo của VN thì năm 2017 tổng trị giá xuất nhập khẩu ước lượng 400 tỷ mk, và có xuất siêu 3.2 tỷ mk lần đầu sau 10 năm. Các năm trước thì có số nhập siêu trung bình 12.5 tỷ mk/năm trong khoảng thời gian 2006-2010, thời gian tung hoành của các tập đoàn kinh tế.

So với năm 2016, Đầu tư ngoại quốc tăng  82%  và Xuất khẩu tăng  20%

Trong FDI tăng cao chánh yếu là do đầu tư của TQ, chiếm vị thế thứ ba, từ vị trí thứ 9 trong trung bình 5 năm trước.

Hàng xuất khẩu chủ lực  2017 là: Dầu lửa, điện tử, quần áo giầy dép , thủy sản, gạo, cà phê. Các công ty ngoại quốc chiếm 65% tổng số hàng xuất cảng.

Tuy nhiên, nhập khẩu vẫn gia tăng. Đây là một trở ngại lớn. Đặc biệt  nhập siêu từ Trung quốc và làm VN lệ thuộc TQ tới mức nguy hiểm. Tổng trị giá xuất nhập VN – TQ 2017 tăng thêm 23% so với năm 2016. TQ là thị trường lớn thứ nhì của VN, Hoa kỳ thứ nhứt.

2. Hình ảnh kinh tế tổng thể

Mặc dù theo báo cáo, kinh tế 2017 có tiến bộ, nhưng nhìn chung hiện nay nó vẫn không bình thường và yếu kém. Trong 30 năm đổi mới kinh tế, chỉ có 10 năm là khá còn 20 năm kia là yếu hay suy sụp. Mặt dù bề ngoài có vẻ đi lên như một nước tân hưng.

Kinh tế VN giống như một chiếc xe song mã. Một con ngựa biểu trưng kinh tế nội địa thì vừa bịnh vừa đói, chạy không nổi. Còn con ngựa kia biểu trưng cho kinh tế đối ngoại có mạnh khỏe hơn, cố kéo con ngựa què. Chiếc xe ngựa đó lại còn bị nhiều cản trở, nhiều tai nạn hủy hoại  tiềm năng và khả năng của người dân và của đất nước.

Các đặc điểm kinh tế 2017 có thể tóm tắt như sau:

Chủ trương và sách lược kinh tế không thay đổi. Vẫn là mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Mặc dù Tổng Bí Thư và Thủ Tướng có tuyên bố hồi 2017 là sẽ đẩy mạnh khu kinh tế tư doanh thêm. Nhưng thực tế chưa có làm được điều gì có ý nghĩa. Về kinh tế đối ngoại, ở Hội nghị APEC hồi tháng 11/2017, chánh phủ có xác nhận với quốc tế, với doanh nhân quốc nội, là VN mở cửa cho kinh doanh, và cổ võ cho quyết tâm thực hiện chánh sách hội nhập, gia tăng mậu dịch và tạo điều kiện tốt cho doanh nhân nước ngoài.

Sức kinh tế còn yếu kém và không đủ sức “cất cánh” mà theo thông thường khi nền kinh tế một nước qua mức $2000/lợi tức đầu người, thì phải cố vươn lên, cố thoát bớt viện trợ vì không còn viện trợ với lãi xuất ưu đãi. Cải tiến kinh tế quốc nội, để bớt lệ thuộc kinh tế thế giới.

Trong hội nhập kinh tế, VN muốn cầu cạnh, muốn lợi dụng từ mọi quốc gia, nhứt là từ Hoa kỳ và TQ. Trong tình hình toàn cầu hóa hiện nay, nước nào cũng có yêu cầu của nước họ. Với sự mở rộng xuất cảng của TQ, Hoa kỳ xem lại các Hiệp ước mậu dịch mà Hoa kỳ chủ trương cần phải có sự công bằng trong giao thương quốc tế. Tuy nhiên Hoa kỳ vẫn giữ nguyên tắc về tự do và nhân quyền trong mậu dịch quốc tế.Còn TQ có con đường đi khác hơn, vừa dụ dỗ vừa ép buộc để kinh tế lẫn “tâm hồn” VN từ từ thành một bán thuộc địa. Hoa kỳ nay chủ trương công bằng trong hợp tác kinh tế, sự xuất siêu quá lớn với Hoa kỳ cần điều chỉnh lại và phải có qua có lại và tôn trọng những nguyên tắc quốc tế.

II. Những Vấn Nạn Nghiêm Trọng Vẫn Tồn Tại

Chúng tôi xin tóm tắt những vấn nạn kinh tế nghiêm trọng đã có từ lâu kéo dài tới ngày nay.

1. Về thực hiện sách lược kinh tế

VN không có chuyển biến thay đổi đáng kể về sách lược. Vẫn “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Chánh phủ có xác nhận yểm trợ, tạo điều kiện nhiều hơn cho kinh doanh tốt hơn cho khu vực tư. Trong khu vực tư có hai loại doanh nhân, loại chân chánh và loại gọi là “nhóm lợi ích”.

Trong kinh tế đối ngoại, Chánh phủ VN tuyên bố xác nhận mở rộng hội nhập toàn cầu (trong buổi họp APEC hồi tháng 11/2017), dù có kết quả tương đối khá, nhưng hãy còn nhiều trở lực không dễ giải quyết sớm. Một số vấn nạn cần sửa đổi như: Điều chỉnh luật lệ cho đúng theo quốc tế. Cho phép Công đoàn độc lập. Có Nhân quyền trong mậu dịch. Bảo vệ tác quyền. Ban hành cần thiết và theo tiêu chuẩn quốc tế như Luật lệ về đấu thầu, luật ngân hàng và tín dụng, Vấn đề sử dụng hữu hiệu viện trợ.Đặc biệt đối với TQ công minh về đầu tư về thầu dự án, về mậu dịch . Hàng hóa dư thừa công lao động thất nghiệp tuôn vào VN không được kiểm soát đàng hoàng.

2. Về khu vực kinh tế nhà nước

Có một số vấn đề nan giải

* Quốc doanh, cái bướu ung thư lớn. Mặc dù theo đuổi “kinh tế thị trường”. Nhưng vẫn theo chủ thuyết CS là “quốc doanh là chủ đạo”, nghĩa là “Tư bản nhà nước” phải trên hết, phải ưu tiên. Tư doanh bị chèn ép nhiều thứ, mặc dù khu vực nầy thu dụng nhân công rất nhiều hơn quốc doanh, và hiệu quả kinh tế lớn hơn quốc doanh nhiều lần.

Đầu tư công bừa bãi kéo dài từ hàng chục năm rồi. Quản lý kém và tham nhũng , mất mát thiệt hại trung bình 20% vốn đầu tư (hàng năm có khoảng 4-5 tỷ mỹ kim bị thất thoát). Đầu tư công không giảm trong năm rồi, mà còn chiếm tỷ phần quan trọng trong kế hoạch ngũ niên 2016-2020. Mức đầu tư công gia tăng gấp 3 lần mức phát triển kinh tế.  10 trên 11 Tập đoàn kinh tế bị lỗ nặng, 92 Tổng công ty thì chỉ có 30% có lời đóng góp cho ngân sách. Hàng trăm công ty nhỏ hơn nay vẫn còn. Chưa kể loại “kinh tế đặc biệt” do Quân đội, Công an, Tình báo nắm và gần như “bất khả xâm phạm” với nhiều tai hại. Trong hai năm qua chánh phủ có cắt giảm bớt một số dự án đầu tư công. Nhưng điều rõ ràng là khi chế độ CS còn thì đầu tư công vẫn giữ mức độ quan trọng. Vì đó là nguồn tiền của lớn chảy vào đảng viên và nhóm tư bản thân thuộc hay nhóm lợi ích.

Chương trình giải tư (hay cổ phần hóa).  Chương trình cổ phần hóa tiến triển rất chậm và nhiều mất mát do tham nhũng. Năm 2017 dự trù cổ phần hóa 137 quốc doanh , nhưng chỉ thực hiện được 44 cái (đạt 32%) , trong đó có 2 công ty “ngon” là Bia Saigon (Sabeco), công ty sữa (Vinamilk).  Còn 11 tập đoàn và nhiều tổng công ty chưa đụng tới dù phần lớn gần như tan nát .

3. Về Tài chánh công:

Ngân sách càng ngày càng thiếu hụt nhiều hơn. Chánh quyền phải tăng thuế (thuế Trị giá gia tăng VAT từ 10% lên 12%); đồng thời phải vay trong nước qua phát hành thêm công trái để bù sự thiếu hụt ngân sách. Thiếu hụt ngân sách lớn như hiện nay là một trong các nguyên nhân của lạm phát và cản trở sự phát triển.

Hệ thống ngân hàng vẫn còn là lãnh vực dơ bẩn, nhiều lạm dụng nhứt. Vì đó là một loại kinh doanh dễ sinh lời và dễ cố ý làm sai trái và có thể thu lợi nhanh chóng và to lớn. Tình trạng ngân hàng cụ thể vi phạm được phát hiện và bị ra tòa trong hai năm rồi. Đó là các ngân hàng Ocean Bank, Đông Á, Saigon Bank, Á châu. Còn nhiều ngân hàng có nhiều sai trái và tai hại cho nền kinh tế, cho dân chúng, chưa được chấn chỉnh và bị chế tài.

Công nợ gia tăng rất mạnh từ 10 năm qua và năm rồi tiếp tục gia tăng: Từ $64.49 tỷ mk năm 2012 lên $134.54 năm 2017.

Mức công nợ nói trên là nợ chánh phủ vay trực tiếp, chưa kể phần chánh phủ bảo lãnh cho quốc doanh, nếu kể vào (theo như nguyên tắc kế toán của quốc tế) thì lên tới 200 tỷ mk, 105% GDP (Thái lan 41% và Indonesia 56% ). Đó là tỷ lệ quá cao, nhứt là trong tình trạng ngân sách và tài chánh công quá suy yếu, dễ phá sản. Chánh phủ phải trả 4 tỷ mk năm rồi cho nợ quốc tế.  Trong đó thì nợ đáo hạn không trả nỗi (nợ xấu) rất cao và hết 70% là từ nợ quốc doanh . Tức là một phần tiền vốn của quốc doanh tiêu tan theo mây khói,

4. Về Hội nhập toàn cầu

Mặc dù trong nhiều năm VN có sự gia tăng về đầu tư ngoại quốc và xuất cảng. Nhưng hãy còn nhiều khuyết điểm, trở ngại  lớn.

Về đầu tư ngoại quốc, VN còn phải tiếp tục sửa đổi luật lệ cho đúng theo quốc tế. Những vấn đề chánh mà VN phải chuẩn bị và phải thực hiện. Đó là:  cho phép thành lập công đoàn độc lập. Xây dựng và bổ xung luật lệ và thực thi việc bảo vệ tác quyền. Công nhân rẽ nhưng năng xuất rất kém, kiến thức kỹ thuật yếu không đáp ứng với nhu cầu.

Về xuất nhập khẩu dù có gia tăng . Nhưng nhìn chung không bình thường. Đối với các đối tác Hoa kỳ, Âu châu, Nhựt bản là ba thị trường lớn nhứt và khó thay thế của VN thì còn nhiều bất cân bằng. Thứ hai là VN vẫn có trò ma giáo bán phá giá, và cho TQ mượn giấy xuất xứ để bán dùm cho TQ hàng dư thừa qua Mỹ và một số nước khác. Vấn đề nhập siêu, nhứt là mức dộ nhập siêu quá cao từ TQ . Điều nầy phải chấn chỉnh , nếu muốn giử được thị trường Hoa kỳ và Tây âu. VN phải khôn hơn, bớt sợ TQ bớt lệ thuộc kinh tế TQ .

5. Về Quản lý kinh tế vĩ mô và Bộ máy công quyền.

Bộ máy công quyền là công cụ quan trọng nhứt để thi hành mọi chánh sách. VN có bộ máy nầy quá tệ hại. Nó cồng kềnh và trùng lập hai bộ máy đảng và chánh phủ, nên chi phí điều hành quá lớn. Viên chức cán bộ không hiệu năng và tham nhũng cả hệ thống .

Bộ máy đó không vì dân và cho dân, nên thường có mâu thuẩn giữa dân và cán bộ. Tình trạng nầy làm cho sức phát triển yếu đi.

Tình trạng tham nhũng từ bộ máy Hành chánh hủy diệt phần lớn những kiến tạo . Tham nhũng ở VN thì quá kinh khủng và ai cũng biết. Tham nhũng có hệ thống, cán bộ đảng viên tạo ra  tham nhũng, vẽ ra luật lệ để cấu kết tham nhũng theo qui trình.

Tham nhũng chẳng những gây ra tai hại kinh tế rất lớn mà còn là nguyên nhân của vi phạm nhân quyền. Ai cũng biết mức độ và nguyên nhân tham nhũng ở VN. Nhưng năm qua nhờ chiến dịch chống tham nhũng, người ta thấy cụ thể hơn rõ ràng hơn tham nhũng VN qua các vụ Petro VN, các ngân hàng quốc doanh ngân hàng cổ phần, các trạm thu tiền lưu thông BOT.

III. Đại Họa Của Sự Lệ Thuộc Kinh Tế Trung Quốc

1. Khái lược kinh tế toàn cầu của TQ

Bá quyền TQ là chánh sách từ muôn đời. Dùng “sức mạnh TQ” đưa ra ngoài để giải quyết những vấn đề nội địa. Sau chiến tranh lạnh “ Bá quyền TQ” tiến mạnh hơn nhưng với những điều chỉnh mới và khôn hơn. Mục tiêu rộng lớn hơn. TQ khá thành công về kinh tế và đang xây dựng quân sự mạnh.

VN là một nước nằm trong ưu tiên cao của TQ. TQ thực hiện xâm lăng kinh tế VN rất nhanh và rất nguy hiểm. Đó là tai họa lớn nhứt, hơn cả sự nghèo đói của người dân.

Ngày nay, bá quyền TQ là một kết hợp của tinh thần cai trị và xâm chiếm của các bạo chúa Tàu,  của triết lý văn hóa phong kiến của một nước vĩ đại, của cái chủ thuyết CS không tưởng và gian manh, của Chủ nghĩa thực dân mới quỷ quyệt, và của chủ nghĩa thực tiễn. Trên phương diện kinh tế, TQ đi nước cờ dụ dỗ bằng tiền, sự hợp tác dựa trên căn bản lưỡng lợi. Và sau cùng có thể dùng bá đạo, áp bức nếu cần. Từng bước qua các hình thái gọi cách tượng trưng : “Cái bánh”, “Cái bẩy” và “ Dây thòng lọng”.

Kinh tế VN lệ thuộc Trung quốc (TQ) từ hơn 20 năm nay. VN đã bị dụ, đã mắc bẩy và đã vào tròng. VN – TQ đã ký kết nhiều thỏa ước kinh tế. Gần đây nhứt là vào tháng 11/2017, Tập Cận Bình và Trần Đại Quang ký kế hoạch hợp tác kinh tế 5 năm tại Hà nội. Khi Hoa kỳ rút ra khỏi Hiệp định TPP, thì TQ càng xâm nhập kinh tế VN nhiều hơn nữa. Năm qua, VN gia nhập các đại dự án quốc tế do TQ dứng đầu như dự án “One Belt one Road”.

2. Tóm tắt tiến trình xâm lấn kinh tế

Về mặt chiến lược, TQ  coi VN là một quốc gia ưu tiên số một cần nắm chặt. Còn CSVN ở thế yếu, cần chỗ dựa chắc, nên thường không cưỡng lại ý đồ của TQ.

Các sự kiện về sự xâm lăng kinh tế được ghi nhận như dưới đây .

Cam kết mạnh mẽ và rõ ràng giữa hai đảng và hai chánh phủ bắt đầu từ 1991. Năm 2007, Thành lập Ủy ban Hợp tác Kinh tế Thương mại. Mới nhứt là Thỏa ước hợp tác kinh tế toàn diện kỳ hồi tháng 11/2017 giữa Trần đại Quang và Tập cận Bình. Hai bên trao đổi qua các hiệp ước song phương và đa phương.

Sự trao đổi giữa hai lãnh đạo thường dễ dàng vì có chủ thuyết và mô hình kinh tế của hai nước  giống nhau .

Trên quan điểm và sự cấu kết, hai nước Việt Trung cụ thể hóa các Thỏa ước, đã có nhiều phái đoàn chánh phủ cũng như doanh nhân hai bên trao đổi kế hoạch đầu tư và mậu dịch cụ thể.

Về Đầu tư trực tiếp và thầu công trình lớn: TQ là một trong 4 nước có đầu tư ngoại quốc cao nhứt tại VN. TQ đầu tư gia tăng: 2 tỷ mỹ kim (năm 2012) lên $10.5 tỷ mk (2016) từ hạng 13 lên hạng 8, và năm 2017 nhiều hơn nữa. Theo báo cáo của  Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì chỉ riêng tháng giêng 2017, TQ đã đầu tư trực tiếp $340 triệu mk (chiếm 22% tổng số đầu tư ngoại quốc tại VN), và đứng hạng ba sau Singapore và Nam Hàn. Từ khi Hiệp định TTP được ký hồi đầu năm 2016, TQ đẩy rất mạnh đầu tư ở VN. Chỉ trong 10 tháng năm 2017, TQ đầu tư 214 dự án với tổng số vốn $1,6 tỷ mk (theo Vietnam Business News, tháng giêng 2018). Một mặt chận bớt ảnh hưởng kinh tế Hoa kỳ và đồng minh, mặt khác mượn chỗ xuất cảng hàng TQ  đang có nhiều khó khăn với Hoa kỳ. Các dự án đầu tư lớn như: thép, hóa chất , quặng mỏ, ciment, thủy điện, vải sợi, đồ gỗ. Vài năm gần đây chánh quyền TQ có chánh sách khuyến khích doanh nhân TQ sang nước khác mở cơ sở làm ăn cỡ vừa và nhỏ.

TQ thầu thực hiện các dự án đầu tư công lớn, trên 100 triệu mỹ kim, thì tổng quát từ 5 năm nay, 80% các dự án xây dựng hạ tầng , điện nước hầm mỏ, chánh quyền VN giao cho TQ thực hiện. Các dự án lớn TQ thực hiện như:

Khai thác quặng nhôm ở miền Trung, Lâm đồng và Gia lai, năm 2008, với kinh phí hai dự án lên 950 triệu mỹ kim giao hết cho TQ. Dự án kéo dài hơn dự trù và phải tăng thêm kinh phí 20% vì kỹ thuật TQ kém và trang bị máy móc cũ đưa từ TQ qua. Nhôm xản xuất ra hai năm rồi, và bị lỗ vì TQ mua ép giá.

TQ thầu được nhiều dự án lớn: nhà máy điện Bình Tuy , Vĩnh Bình.. tổng cộng trên 2 tỷ mỹ kim,

Dự án Đường xe lửa Cát Linh- Hà Đông (2008) với chi phí đầu tư lúc đầu $552.89 triệu mk, trong đó tiền vay TQ $419 triệu. Đến 2016 tổng chi phí được điều chỉnh lên $868.04 triệu mk. Dự trù tới 2018 mới hoàn thành. Vì TQ cho vay nên buộc phải giao cho thầu TQ thực hiện. Hiện nay, mỗi năm VN phải trả nợ cho TQ  $28.8 triệu mk cho dự án nầy.

Dự án rất lớn khác là Dự án Hành lang Việt Trung (từ 2007) bao gồm các xa lộ nối TQ với 6 tỉnh biên giới VN và đường xe lửa nối Côn Minh thủ phủ Vân Nam, ngang qua Hà nội, đến Hải phòng. Kinh phí sơ khởi lên tới 2 tỷ mk, phân nửa do Ngân Hàng Phát Triển Á Châu cho vay và TQ bỏ vào phần lớn phần còn lại. Đến 2012 một số đoạn xa lộ được khánh thành. Năm rồi, hoàn tất tiếp dự án nầy. Khi ký thỏa ước hợp tác kinh tế hồi tháng 11/2016 hai chủ tịch nước cũng có nhắc lại việc hoàn thành đường xe lửa Vân Nam – Hải phòng.

Đáng lưu ý là hai năm vừa qua TQ đầu tư trực tiếp $300 triệu mk cho các dự án vải tơ sợi ở Đồng Nai , Tây Ninh. Chủ đích của TQ khi lập các nhà máy nầy là đi trước để cung cấp nguyên liệu cho ngành may mặc của VN khi có Hiệp định TPP, vì theo qui định của TPP thì hàng may mặc xuất cảng không được xử dụng nguyên liệu nhập từ nước không phải là thành viên của TPP. Trong tương lại TQ sẽ đầu tư trực tiếp nhiều hơn cho thị trường VN và cho xuất cảng với chứng chỉ xuất xứ là VN.

Hàng hóa Trung Quốc chuyên chở qua các cửa khẩu tràn ngập Việt Nam

Về xuất nhập khẩu: Trung bình từ năm 2010 -2016 hàng nhập từ TQ tăng 18%/năm, năm 2017 ước lượng tăng 15.3%. Theo Vietnam Business Forum tháng giêng 2018, thì tổng trị giá xuất nhập năm 2016 là 73 tỷ mk, và 11 tháng năm 2017 lên tới 82 tỷ mk, ước tính nguyên năm 2017 là 100 tỷ mk. Cộng xuất nhập hai chiều thì TQ là khách hàng giao thương lớn nhứt của VN.

Nhập siêu tăng từ $9 tỷ mk  (2007) lên $17.3 tỷ (2012) $28.9 tỷ (2015) 39 tỷ (2016) .

Về Du lịch: Du khách TQ đến VN rất đông. Có 2,7 triệu khách du lịch người Tàu đến VN trong năm 2016 (chiếm 27% tổng số khách). Và 11 tháng 2017 đó tới 3,6 triệu (chiếm 35%). (Theo Vietnam Business Forum, tháng giêng 2018).

3. Tai hại của sự lệ thuộc kinh tế TQ

Trong hoàn cảnh mà VN càng ngày càng lệ thuộc kinh tế TQ , những bi đát thấy được và chạm phải, cho VN trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Chủ trương bá quyền và mộng lên cường quốc kinh tế số một của TQ , làm VN khó thoát ra được sự kềm kẹp. Nhứt là với lãnh đạo cao cấp của CSVN muốn yên vị và có nhiều tiền của dễ bị mua chuộc. Trong sự tranh chấp Hoa kỳ và TQ, VN dường như muốn chủ trương đứng giữa trung lập kinh tế để lợi dụng nhiều phía, trong Hội nhập toàn cầu . Trên thực tế kinh tế cho tới nay như chúng ta thấy, VN vướn kẹt TQ quá nhiều và tại hại rất lớn. Cái thế mạnh của TQ khiến VN lệ thuộc kinh tế sâu hơn là vì hai nước cùng là CS, hai nước có chung biên giới khá dài, TQ có quá nhiều tiền.

Chánh sách TQ về viện trợ, đầu tư và mậu dịch không cần có điều kiện tự do, nhân quyền và dân quyền. Điều mà CSVN thấy thoải mái hơn thực hiện các thỏa ước với Hoa kỳ Tây Âu hay các nước tự do dân chủ khác.

Cách làm ăn chung hay thực thi các cam kết thì tiền bạc, chia chác sòng phẳng là trên hết, là đúng với “4 tốt và 16 chữ vàng”. Cho nên các viên chức VN muốn ký kết trao đổi với TQ hơn bất cứ quốc gia nào khác.

Do vậy, chuyện gì cũng xong, như nhập máy móc trang bị cũ bị loại ra ở TQ, đem qua VN bán lại với giá cao, rồi chia nhau tiền sai biêt. Thầu cho giá thấp sau đó xin tăng lên.

VN trở thành một kho hàng lớn của những hàng hóa dư thừa của TQ hay nơi tạm nhập hàng hay cấp giấy xuất xứ để xuất cảng qua Mỹ và Âu châu, để tránh né bớt thuế quan và sự bảo vệ mậu dịch của Hoa kỳ. (Như vụ VN xuất cảng thép qua Mỹ với thép của TQ chớ không phải thép VN sản xuất. Quan thuế Mỹ bắt được, bị Hoa kỳ đánh thuế 500 % cho các lô thép nầy hồi năm 2017).

Nông nghiệp và tư doanh VN bị doanh nhân TQ cạnh tranh và phá hoại gây nhiều thiệt hai cho nông dân.

Môi trường sống bị hại do việc TQ đẩy một số kỹ nghệ dơ bẩn ô nhiễm qua VN (như Formosa và công ty thép, xi măng).

Hàng hóa TQ tràn ngập VN, trong đó có hàng giả và hàng độc hại.

Do sự tiếp thu hoạt động kinh doanh nhập cư của TQ dễ dãi, đưa đến phiền lụy khác về an ninh và văn hóa.

Trên bình diện quốc tế, TQ không thể nhẹ tay với VN hay nói khác Biển Đông là vùng rất quan trọng đối với TQ. Biển Đông vừa có nhiều tài nguyên vừa là con đường giao thông hàng hải huyết mạch nối Thái bình dương và Ấn độ dương. Năm rồi, TQ ngang ngược đe dọa hay đuổi các công ty dầu khí Tây Ban Nha, Ấn độ đã ký hợp đồng khai thác dầu khí với VN.

IV. Hệ Lụy Nghiêm Trọng và Sự Vận Dụng Quốc Tế

1. Các hệ lụy nghiêm trọng

Chúng xin tóm tắt các hệ lụy quan trọng từ các vấn nạn kinh tế trình bày ở phần trên.

  • Chánh sách và đường lối kinh tế:

CSVN không muốn nền kinh tế được có Tự do , Dân chủ, Nhân quyền,  dù VN muốn chơi và lợi dụng khối tư bản để nhằm cũng cố đảng và để tham nhũng. Nếu VN không thay đổi chủ trương nầy thì kinh tế không thể có tiến bộ thực sự. Nếu không có con đường đúng, VN khó đạt tới lợi tức đầu người mức tối thiểu cần thiết khoảng $4000 Mỹ kim thì khó bước tới giai đoạn “cất cánh”và có khả năng tự điều chỉnh , và bớt bị “xâm lăng kinh tế”.

  •  Bất công kinh tế xã hội.

Qua các vụ án Petro VN ( Đinh La Thăng , Trịnh xuân Thanh), người dân thấy mức độ bất công quá lớn. Chỉ có khoảng 10% dân là cán bộ và tư bản thân thuộc tự ý và cố ý chiếm đoạt tài sản khổng lồ của quốc gia “theo qui trình”. Trong lúc đó 70% dân , nhứt là vùng quê, sống rất thiếu thốn và cơ cực. Bất công kinh tế xã hội làm cho dân không có niềm tin ở chánh quyền. Một nước muốn phát triển tốt thì phải có niềm tin của người dân và niềm tự hào dân tộc.

  • Quản lý sai phạm về ngân sách và tài chánh công.

Cổng chào (chi phí trên 20 triệu MK ) ở Quảng Ninh

Lý thuyết và thực tế của CS là coi tài sản tiền bạc của công là của đảng. Cho nên chánh quyền chi bừa bãi trong khi đất nước còn quá nghèo. ( Ví dụ hồi năm rồi tỉnh Quảng Ninh làm cổng chào trên 20 triệu mk , rồi Thái bình cũng thực hiện cổng chào tốn khoảng 30 triệu mk). Ngân sách thiếu tiền thì vay nợ hay tăng thuế. Đó là trở ngại cho kinh tế. Còn vay ở ngoại quốc thường là bị điều kiện chánh trị kèm theo, nhứt là vay của TQ, tưởng nhẹ lãi nhưng cuối cùng bị rơi vào những cái bẫy khác không dứt ra được.

Ngân sách VN chi tới 75% cho chi phí điều hành, đó là chi tiêu không tạo ra sản phẩm, nghĩa là không làm gia tăng tổng sản lượng quốc gia.

  • Bộ máy công quyền rất tệ hại.

Ai cũng thấy. Nhưng chánh quyền không muốn cải cách thực sự. Chương trình cải cách hành chánh trong 20 năm qua tốn rất nhiều chi phí nhưng không không kết quả. Hai vấn đề chủ yếu là nhân sự và các mục chi của ngân sách. Nhân sự thừa ít nhứt 30%,  nhưng không giảm được. Như vậy chứng tỏ sự tuyển mộ viên chức phần lớn là thân thuộc, tài năng không là điều kiện cần. Tệ trạng gần như công khai trong một số chức vụ quan trọng hay chức có cơ hội tham nhũng, sự bổ nhiệm có tánh cách cha truyền con nối hay chạy chọt tiền. Ngân sách chi cho Văn phòng Trung ương đảng chiếm 41% ngân sách điều hành, nó cao hơn chi phí điều hành của Văn phòng chánh phủ ( Theo Tờ Asia times tháng 1/2018, thì từ 2009-2015 ngân sách chi cho Văn phòng Trung ương đảng là 11.8 tỷ đồng).

Qua chiến dịch chống tham nhũng vừa qua, lòi ra sự tệ hại không tưởng tượng nỗi của hệ thống đảng và bộ máy công quyền và quốc doanh cấu kết với nhau rồi lại cấu kết chia phần (như các dự án BOT) với tư bản đỏ mà những người nầy là bà con thân thích hay chuyên gia làm kinh tài cho các quan chức lớn. Dĩ nhiên tài sản dân bị thiệt thòi. Các Vụ PVN, vụ các Ngân hàng nói trên đã bị xử tội “cố ý làm trái luật gây thiệt hại nghiêm trọng và tham nhũng “là điển hình của “văn hóa tham nhũng XHCN”. Và còn biết bao vụ vi phạm trầm trọng như vậy liệu Tổng bí thư có lôi ra không để tiếp tục chiến dịch làm trong sạch đảng?

2. Liệu có khả năng CSVN “hoàn lương“ không?

Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế để thoát ra cảnh nghèo nàn lạc hậu thì phải có ít nhứt 3 điều:

– Một ý chí lựa chọn đường đi đúng, có quyết tâm.

– Một thiện tâm đặt quyền lợi đất nước trên quyền lợi cá nhân và phe nhóm.

– Và một tinh thần quốc gia dân tộc.

Nhưng qua 40 năm, CSVN tự vẽ cho mình một đường đi, một đám người tự nhận mình là từ dân. Tạo ra một bộ máy tự cho nó quyền tối thượng thu tóm hầu hết tài sản công và tư và quyền tiêu xài tài sản đó. Nền kinh tế VN ngày nay là sản phẩm của tập thể đó. Tập đoàn CSVN phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lụng bại của nền kinh tế.

Liệu tương lai, có khả năng CSVN “hoàn lương” không?  Dựa vào quá khứ, căn cứ trên những gì họ đã làm, cũng như dựa trên các cá nhân lãnh đạo của CSVN, thì hy vọng CSVN  tự diễn biến, tự thay đổi thì rất khó. Không ai tin rằng CSVN thực lòng muốn tự “phục thiện” hay tự “hoàn lương”.

Vậy muốn có sự thay đổi mạnh về kinh tế để đa số người dân có được cuộc sống bình thường ít khổ đau, thì cần phải có nhiều tác động từ phía dân chúng và từ quốc tế.

3. Vận dụng yếu tố kinh tế quốc tế cho sự tranh đấu cho Nhân quyền và Dân chủ

Trong hoàn cảnh hiện tại về kinh tế lẫn chánh trị, tác động từ yếu tố kinh tế quốc tế VN có thể đem lại nhiều kết quả tốt.

Chúng ta có thể lợi dụng và vận dụng các qui định ràng buộc  quốc tế mà VN phải theo khi thi hành các Hiệp định mậu dịch và đầu tư ngoại quốc. VN bắt buộc phải tuân thủ các qui định nếu không sẽ không có quyền lợi. Những qui định quốc tế nầy trực tiếp hay gián tiếp tác động tốt chẳng những về kinh tế mà còn giúp cho quá trình tranh đấu cho Dân chủ và Nhân quyền.

Chúng ta có thể vận dụng được những gì? Những yếu tố tích cực khả dĩ nào?

Vận dụng các nguyên tắc của các Hiệp định mậu dịch tự do mà VN đã ký và sẽ ký. Như WTO, APEC, TPP11, VN – Âu châu và một  số Hiệp định song phương, như  VN với Hoa kỳ ,

Các quốc gia trên đều là các nước tư bản và theo nền kinh tế thị trường. Kể cà các cơ quan viện trợ hay kinh tế quốc tế đều theo chánh sách kinh tế tự do, như World Bank, IMF, UNDP, ADB…

VN rất cần đến những quốc gia và cơ quan quốc tế nầy.

Trong mọi thỏa ước kinh tế song phương hay đa phương đều có những qui định có tác dụng cải thiện dân quyền , nhân quyền , tự do và dân chủ trong kinh doanh, trong lao động, bảo vệ môi trường, bảo vệ công lý và chống tham nhũng. Dù CSVN không muốn hay né tránh hay giả dối trong những cam kết, khi đã vào sân chơi quốc tế là phải minh bạch và có trách nhiệm tuân thủ.

Vận dụng Luật Magnisky toàn cầu . Một trong các công cụ tranh đấu cải thiện Nhân quyền do Tham nhũng ở VN là thông qua luật Global Magnitsky Act. (Luật Magnitsky toàn cầu) mà Hoa kỳ ban hành hồi tháng 12/ 2017 và Canada hồi tháng 9/2017, và cả Anh, và một số nước nữa ở Âu châu. Tổng quát theo luật nầy Hoa kỳ chế tài cá nhân dính liu tham nhũng lớn và vi phạm nhân quyền bằng hai biện pháp: đóng băng tài sản viên chức liên hệ và cả thân nhân và cấm những người nầy vào Mỹ. Hoa kỳ vừa áp dụng luật nầy đối với một viên chức Miến Điện và vài viên chức Afganistan. Luật nầy sẽ có thể áp dụng cho các viên chức tham nhũng lớn và ác độc hiện dấu tài sản ở Mỹ, Canada.

Vận động quốc tế trong công cuộc chống TQ. Cả thế giới ngày nay e sợ mộng bá quyền và thực dân mới của TQ .  Những trường hợp kinh doanh hay viện trợ ma đầu và dối gạt của TQ  tại nhiều quốc gia. Một số nơi dân chúng đứng lên chống đối. Cho nên chúng ta cần tìm những cơ hội để phối hợp với những tổ chức chống TQ trên thế giới, nêu lên các vụ lừa gạt, đàn áp  vi phạm nhân quyền và luật pháp quốc tế của TQ. Chống xâm lăng kinh tế TQ là một chánh nghĩa để tiến tới một trật tự thế giới tương đối bình an và lạc phúc.

Các Hội đoàn, Truyền thông trong và ngoài nước nay cần phối hợp với nhau cho một vận động mới  cho công cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế.  Khi đạt được tiến bộ về Tự do, Dân chủ  kinh tế thời sẽ có tác dụng tốt về chuyển biến Chánh trị và Nhân quyền.

Nguyễn Bá Lộc (ĐS9/CH1)

California, 30 tháng Giêng – 2018.

Views: 395

Ý Niệm Về Sự Trị Vì Của Luật Pháp (The Rule of Law) Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa

Lê Văn Bỉnh

… as in absolute governments, the King is law, so in free countries the law ought to be the king; and there ought be no other. (… vì trong các chính quyền chuyên độc, Vua là luật, vậy thì trong các quốc gia tự do, luật phải là Vua; và không nên có gì khác nữa,)

Thomas Paine (Commense Sense, Jan. 1776)

Từ khi Liên Bang Xô Viết tan rã và hình thành những quốc gia độc lập và bắt đầu xây dựng nền dân chủ non trẻ, đồng thời thế giới càng ngày càng tiến xa trên đường toàn cầu hoá, thì ý niệm về sự trị vì của luật pháp càng ngày càng được phổ biến.  Các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, các ứng cử viên vào các chức vụ cấp quốc gia cũng như địa phương tại các quốc gia dân chủ, cũng như độc tài đều đề cập đến ý niệm này một cách say sưa nồng nhiệt.  Mọi người xem đó là viên thuốc trị bá bệnh giúp ổn định trật tự xã hội, xây dựng dân chủ, tôn trọng nhân quyền, phát triển kinh tế, cải thiện guồng máy công quyền nói chung, và hành chánh nói riêng vv.  Tại Hoa Kỳ, khi vận động tranh cử Donald Trump, ứng cử viên chức vụ tổng thống của đảng Cộng Hòa không ngừng hô hào “luật pháp và trật tự” (law and order); ứng cử viên không thành công Clinton của đảng Dân Chủ và Tổng Thống Obama cũng lần lượt nói đến “sự trị vì của luật pháp” (the rule of law) trong bài diễn văn liền sau khi cuộc bầu cử kết thúc.

Trong hơn thập niên vừa qua, các cơ quan kinh tế, luật pháp thuộc Liên Hiệp Quốc đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu, huấn luyện cho các quốc gia giao thời nói trên, cũng như cho các quốc gia đang phát triển.   Hoa Kỳ, Canada, Liên Âu v.v. cũng dành không ít ngân quỹ và nhân sự để giúp cho việc cải tổ pháp luật, truyền bá và rao giảng “sự trị vì của pháp luật” ở các nước vừa nói, hy vọng rằng khi “nguyên tắc” này được tôn trọng, hay “lý tưởng” này được tiến gần, thì mọi sự tốt đẹp sẽ đến từng các quốc gia, cũng như cho toàn thế giới.

Về Thuật Ngữ Tiếng Việt

 Trong bài viết này, thuật ngữ “sự trị vì của luật pháp” được dịch theo nguyên ngữ tiếng Anh “the rule of law”. Nó có thể hiểu một cách đơn giản là trong việc cai trị đất nước, luật pháp đứng trên hết, trên cả vua (nếu đó là vương quốc), nhà nước, các đảng phái chính trị và dân chúng.  Nói cách khác, mọi người thuộc mọi tầng lớp trong nước đều là đối tượng bình đẳng trước luật pháp.  Chính vì vậy mà “sự trị vì của luật pháp” còn được gọi là “tính thượng đẳng của luật pháp” (the supremacy of the law).  Chúng tôi chọn cách dịch sát nghĩa, nhưng không ngắn gọn này, vì nó dễ hiểu và hy vọng sẽ tránh được sự hiểu lầm cho một người đọc vốn quen với một số thuật ngữ thông dụng hiện nay, chẳng hạn “pháp trị”, “pháp quyền”.   Hơn nữa, nguồn gốc của thuật ngữ này là từ tiếng Anh, chứ không phải từ tiếng Pháp, tiếng Hoa, hay tiếng nước khác được dịch sang tiếng Anh. Theo từ điển The Oxford Encyclopedic English Dictionary, 1996, trang 1262, thì trong thuật ngữ này, “rule” có nghĩa là government (cai trị) hay dominion (chế ngự); do đó chúng tôi đề nghị dịch là “sự trị vì” để nói lên tính thượng đẳng của luật pháp; hơn nữa trong lịch sử Anh quốc, có lúc luật pháp đã thật sự đứng trên vua. (sẽ đề cập trong bài).

Để cho ngắn gọn trong sự trình bày, chúng tôi còn dịch “rule of law” thành “luật trị”, tức sự trị vì/ sự cai trị của luật pháp, để đối chiếu với đảng trị, gia đình trị mà người ta thường nghe và hiểu rõ nội dung.  Theo cách dùng chữ này, thì “luật trị” có ý nghĩa khác biệt với “pháp trị” và “pháp quyền” như sẽ được đề cập phần sau. Nhưng ngay từ đây, xin đừng hiểu “luật trị” là cai trị bằng luật pháp. Nói cách khác, trong phần còn lại của bài viết 2 nhóm từ sự trị vì của luật pháp” và “luật trị” được dùng thay thế cho nhau. Cũng cần nói thêm là trong thời kỳ chuyển tiếp, nhiều chế độ “cai trị bằng chính sách” trong khi chưa có đủ luật lệ mới để điều hành guồng máy nhà nước — Việt Nam sau 1975 là một thí dụ.  Đối với một xã hội văn minh, tình thế này không thể tồn tại trong một thời gian dài.

Khoảng 9-10 năm trước đây, khi bản dự thảo hiến pháp (về sau thành Hiến Pháp 2013) của Việt Nam Cộng Sản được đưa ra thảo luận trong nước, đã có sự tranh luận về việc dùng thuật ngữ “pháp trị” hay “pháp quyền” để dịch thuật ngữ tiếng Anh “the Rule of Law”.  Nhóm chủ trương dùng chữ “pháp trị” giải thích “pháp trị” là dùng pháp luật nghiêm khắt để cai trị, một chủ trương của nhóm pháp gia thời xa xưa bên Trung Hoa, mà tiêu biểu là Công Tôn Ưởng thời Đông Chu Liệt Quốc. Đối nghịch với trường phái “pháp trị” này là trường phái “nhân trị”, tức dùng lòng nhân để mà cai trị. Với ý nghĩa đó, “nhân trị” còn được coi như là đức trị (rule of virtues). Trước năm 1975, các sinh viên năm thứ nhất của Đại Học Luật Khoa và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đều được học bài học nhập môn này; do đó, khi ra trường và hòa mình vào xã hội có luật pháp kỷ cương, chẳng mấy ai dám liều lĩnh, quên “nguyên tắc thượng tôn luật pháp”, vì biết rằng luật pháp sẽ chẳng tha nếu mình vi phạm.

Nhóm chủ trương sử dụng chữ mới “pháp quyền” khẳng định “pháp quyền” là “rule of law”, nhưng khi đọc bản dịch, thì người ta không còn thấy dấu vết của “rule of law” ở đâu nữa.  Thật vậy, Điều 2, khoản 1 tiếng Việt là:

Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Trong các bản dịch sang tiếng Anh này, giống hệt nhau trên mạng khiến người viết nghĩ là chỉ từ một bản dịch “chính thức” của nhà nước, Điều 2 khoản 1 trên đây được dịch như sau:

The Socialist Republic of Vietnam is a socialist state ruled by law and of the People, by the People and for the People. [Người viết thêm dấu gạch dưới].

Nếu hiểu “nhà nước pháp quyền” là nhà nước chịu sự chi phối cuả luật pháp theo lối viết tiếng Anh này, thì người viết thiết nghĩ dịch như sau có thể gọn gàng hơn:

The Socialist Republic of Vietnam is a law-ruled (or (or a law-governed) sate of the People, by the People and for the People.

Cũng cần nhớ lại là 2 chữ “pháp quyền” này mới được ghi thêm vào Hiến Pháp 2013, chứ không có trong các hiến pháp trước đó. Từ câu tiếng Anh này, người đọc có thể hiểu pháp quyền có nghĩa là cai trị bằng /bởi luật pháp; và cả câu sẽ có nghĩa nôm na như sau: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa [thừa] được cai trị bằng luật pháp, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhưng theo Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Ủy Viên Trung Ương Đảng, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao trong bài Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta trên Tạp Chí Cộng Sản Thứ Hai 14/11/2007, thì “Nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng vv.” [Người viết cho in nghiêng].  Người viết nghĩ với học vị và chức vụ của ông, ý kiến của TS Hiệu phản ảnh trung thực ý muốn của những người soạn thảo Hiến Pháp. Điều đó có nghĩa là “nhà nước pháp quyền” là nhà nước trọng nguyên tắc sự trị vì của luật pháp, do đó dịch sang tiếng Anh “rule of law state” như bản dịch “không chính thức” (unofficial) dưới đây của International Institute for Democracy and Electoral Assistance (viết tắt International IDEA) là chuẩn vì vẫn giữ được cái lõi “rule of law” quen thuộc trong ngôn ngữ của giới nghiên cứu chính trị và luật pháp nước ngoài:

The Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule of law state of the People, by the People and for the People.   [Người viết thêm dấu gạch dưới]

Tuy nhiên, chữ “state” có nhiều nghĩa trong đó có 2 nghĩa đáng lẽ không nên lẫn lộn:  nước (quốc gia), và nhà nước (tổ chức chính quyền của nước đó).  Do đó, người viết thiết nghĩ Khoản 1 bản tiếng Việt có thể dịch gọn (không luộm thuộm như trong bản dịch phía Việt Nam và rõ nghĩa hơn so với trong bản dịch “không chính thức” của International IDEA), như đề nghị dưới đây:

The State of the Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule-of-law state of the People, by the People and for the People. (có thể không cần hai dấu gạch nối, như International IDEA)

Thật ra “sự trị vì của luật pháp” tuy đã có một lịch sử lâu dài, nhưng vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng. Theo người viết, dù chỉ là một ý niệm chưa được định nghĩa rõ ràng, hay một lý tưởng muốn theo đuổi, nếu nay được đưa vào hiến pháp thì e rằng nó sẽ khiến Hiến Pháp trở thành quá tải! Hay nói đúng hơn là Hiến Pháp quá ôm đồm và tạo thêm mơ hồ khi nó phải gánh thêm ý niệm “sự trị vì của luật pháp”, ngoài cái lý tưởng “chủ nghĩa xã hội” mà đến nay vẫn chưa được định nghĩa cụ thể. Lý tưởng luật trị, cũng như các lý tưỏng chính trị khác như xã hội dân sự, dân chủ, nhân quyền, tự do cá nhân v.v. đã được làm sống lại và hiện đại hóa trong thời đại toàn cầu hiện nay, nhất là từ sau khi chủ nghĩa cộng sản không còn đất đứng như trước đây.

 Bài viết này đề cập đến các phần sau đây:

  • Sơ lược về sự phát triển của ý niệm luật trị
  • Vài quan điểm kinh điển về luật trị
  • Luật trị trong thời đại toàn cầu hóa
  • Đo lưòng nguyên tắc luật trị

 1. Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Ý Niệm Luật Trị

Trong lịch sử Tây phương, ý niệm luật trị phát triển từ Hy Lạp, chậm nhất cũng từ thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch. Thời đó, Hy Lạp có một nền dân chủ đại chúng. Trong lĩnh vực xử kiên, các nam công dân thành Athens (trừ nô lệ) từ 30 tuổi trở lên lần lượt được cử làm phán quan để xử kiện. Các phán quan này phải căn cứ theo luật pháp để phán quyết, ai vi phạm luật pháp hiện hành sẽ bị nghiêm trị. Triết gia Socrates đã bị đưa ra xét xử vì ông chế nhạo các vị thần mà dân thành Athens thờ phượng, là thầy của một người học trò theo giặc (thành Sparta), cũng là bạn của một nhóm chống đối chính quyền đương thời. Socrates có thể trốn thoát ngục tù với sự giúp đỡ của một môn đệ, nhưng ông từ chối. Ông cho rằng bỏ trốn tức là phủ nhận và do đó làm tổn thương thành Athens, cũng như thủ tục tố tụng của nó. Theo ông, luật pháp của thành Athens không có trách nhiệm đối với cái án tử hình ông mang, mà chính những kẻ kết án ông, do thiên lệch, mới là những kẻ có tội. (Philosophy: History and Readings, S. E. Stumpf & J. Fieser, 8th ed, trang 40)

Một môn đệ khác của Socrates là Plato đồng ý là chính quyền phải dựa vào luật pháp. Theo ông, khi luật pháp là đối tượng của một quyền lực khác, mà không phải là của chính mình, thì nhà nước sẽ sụp đổ; nhưng nếu luật pháp là chủ nhân ông của chính quyền, và chính quyền là đầy tớ, thì tình thế sẽ đầy hứa hẹn và người ta sẽ hưởng ân sủng của các thần linh gieo rắc. Ông còn cho rằng luật pháp phản ảnh trật tự thiêng liêng, phù hợp với điều Thiện; nếu trái lại, thì đó chỉ là luật giả (bogus law, tiếng lóng gọi là “luật dõm”).  (On The Rule of Law, Brian Z Tamanaha, trang 9)

Aristotle, một môn đệ uyên bác của Plato, khẳng định rằng luật pháp cai trị thì tốt hơn là người cai trị. Và ông chủ trương những người phụ trách về luật pháp cũng phải tuân theo luật.  Do đó mà nhiều người cho rằng chính Aristotle là người đầu tiên đưa ra ý niệm mà cách dịch hiện đại sang tiếng Anh là “rule of law”, mặc dù câu viết của ông được dịch sát sẽ như sau: “It is better for the law to rule than one of the citizens and so even the guardians of the laws are obeying the law.” (Luật pháp trị vì thì tốt hơn là một trong những công dân trị vì, thế nên ngay cả những người phụ trách luật cũng tuân theo luật.)  Cũng từ đó, nhiều người cho rằng Aristotle đối kháng “rule of law” với “rule of men” (The Rule of Law, Tom Bingham, trang 3). Ở đây, cũng cần lưu ý là nếu dịch “rule of men” là “nhân trị”, thì lại gây thêm rối rắm! Vì viết theo chữ quốc ngữ, nhân là người mà cũng có thể hiểu là lòng nhân.

Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về luật trị (rule of law) đều cho rằng luật gia người Anh, A.V. Dicey, tác giả quyển Introduction to the Study of the Constitution, nền tảng cho việc nghiên cứu về luật trị, xuất bản năm 1886 (sẽ bàn thêm ở phần dưới), là cha đẻ của thuật ngữ này.  Nhưng theo 2 tác giả hiệu đính Pietro Costa và Danil Zolo trong tác phẩm The Rule of Law: History, Theory and Criticism in năm 2007, thì Dicey đã viết rằng luật gia William Edward Hearn giới thiệu thuật ngữ này năm 1867. Người viết đọc Dicey thì không tìm ra xác minh đó. Tuy nhiên, khi đọc William Ed. Hearn lý luận về căn cứ quyết định của các quan tòa, (trong quyển The Theory of Legal Duties and Rights: An Introduction to Analytical Jurisprudence, xuất bản lần đầu vào năm 1883) người viết thấy một đoạn như sau đây:

The policy of this rule is the urgent need of certainty in law. “It is generally more important, said Lord Cottenham, that the rule of law should be settled than that it should be theoretically correct.” [người viết cho in nghiêng]

Lord Cottenham tên thật là Charles Christopher Pepeys (1781-1851) là một luật gia và chính trị gia nước Anh, từng giữ nhiều chức vụ cao cấp trong đó Solicitor General).  Tuy nhiên, theo Wikipedia, thì trước đó, Samuel Rutherford (1600-1666), một nhà thần học đã dùng thuật ngữ này trong tác phẩm Lex, Rex (The Law of the Prince), xuất bản năm 1644.

Đến đây, về phương diện nguồn gốc, chúng ta có thể tạm xem Samuel Rutherford là cha đẻ của thuật ngữ “rule of law”.

Trước Samuel Rutherford trên 400 năm, quan điểm luật pháp đứng trên tất cả đã được long trọng ghi vào bản tuyên ngôn Magna Carta bằng tiếng Latin, ra đời năm 1215 sau sự thắng thế của giới quý tộc Anh đối với vua King John. Theo tinh thần của bản tuyên ngôn này, thì không ai sẽ bị bắt giữ, bị cầm tù, bị tước đoạt quyền hay tài sản, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị lưu đày, hay bị áp chế bằng vũ lực v.v. trừ phi được xét xử công bằng và theo luật.

Mặc dù về sau, Hoàng Gia Anh cũng như Giáo Hội La Mã lấy lại quyền lực của mình, nhưng tinh thần tuyên ngôn Magna Carta vẫn bàng bạc trong dân chúng. Mãi đến hơn 500 năm sau, tuyên ngôn Magna Carta mới thực sự hồi sinh. Thực vậy, sang Thời Đại Bừng Sáng (the Enlightenment) thế kỷ 18, tính chính đáng/chính danh (legitimacy) của vương quyền cũng như của Giáo Hội La Mã bị thử thách mạnh mẽ.  Các nhà triết gia chính trị như John Loke, J.J. Rousseau viện dẫn lý lẽ, luật thiên nhiên, cũng như sự đồng thuận của nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực nhà nước và nghĩa vụ chính trị của công dân.  Năm 1770, William Pitt the Elder, một nghị sĩ của  Viện Quý Tộc (The House of Lords), một người rất có cảm tình với các thuộc địa Mỹ Châu, gọi tuyên ngôn này là “Thánh Kinh của Hiến Pháp nước Anh” (the Bible of the English Constitution.”  Thật ra nước Anh không có một “Bản Hiến Pháp” như chúng ta thường thấy ở những quốc gia khác; mà Hiến Pháp của Anh chỉ là tập hợp những bộ luật, những nguyên tắc, và Magna Carta vẫn còn duy trì trong Satute Book cho đến khi luật cải cách the Law of Reform Act ra đời năm 1863. Được mang sang các thuộc địa châu Mỹ, Magna Carta ảnh hưởng không ít đến Hiến Pháp Hoa Kỳ và luật lệ của hầu hết các tiểu bang. (Theo 1215 The Year of Magna Carta, do Danny Danziger & John Gillingham, nxb Touchstone, 2003, trang 267-268) .  Trước khi trở thành tổng thống thứ hai (1797-1801) của Hoa Kỳ, và khi chưa tin tưởng Hoa Kỳ sẽ độc lập khỏi Anh, John Adam trong một bài viết đăng trên tờ Massachusetts Gazettes ra ngày 6 Feb. 1775 đã viết: “Họ [Aristote, Livy, và Harrington] định nghĩa một nền cộng hòa là sự trị vì của các luật, chứ không phải của con người. Nếu định nghĩa này đúng, thì hiến pháp nưóc Anh, là một thể chế cộng hòa, không hơn không kém, trong đó nhà vua là vị phán quan thứ nhất.” (They define a republic to be government of law, and not of men.  If this definition be just, the British constitution is nothing more or less than a republic, in which the king is first magistrate.) Tiếp theo, ông bàn về sự truyền ngôi báu trong hoàng gia và các hoạt động của quốc hội Anh, để lập luận rằng vì các thuộc địa trên thực tế không thể có đại diện tại nước Anh, cho nên các thuộc địa phải có đại diện tại bộ phận lập pháp tại vùng đất mới này; bằng không thì nước Anh sẽ mất các thuộc địa. [“John Adams: The Rule of Law and the Rule of Men”, trong The Annals of America, Vol. 2, trang 308-310]

Muốn tìm hiểu thêm về lịch sử của ý niệm luật trị, quý độc giả có thể nghiên cứu thêm tác phẩm The Rule of Law của Tom Bingham (2010) nói trên, hoặc tác phẩm On The Rule of Law: History, Politics, Theory của Brian Z. Tamanaha (2014).

Ở đây cũng xin nói thêm về khái niệm luật trị trong hệ thống pháp luật của nước Pháp.  Theo Danilo Zolo, một trong 2 người hiệu đính quyển The Rule of Law nói trên, thì lý thuyết về “nhà nước pháp quyền” (l’État de droit, thường được dịch sang tiếng Anh là “law-ruled state”) được hình thành khá trể, do Raimond Carré de Malberg vào thời Đệ Tam Cộng Hòa, chịu ảnh hưởng phần lớn ý niệm Rechtsstaat của Đức (được sử dụng đầu tiên vào thập niên 1830, coi tự do cá nhân là mục tiêu chính của các hoạt động của nhà nước). Theo ông, sự bảo vệ các quyền tự do cá nhân chống lại sự tùy tiện của nhà nước là mục tiêu chính của nhà nước pháp quyền.  Để đạt mục tiêu này, nhà nước pháp quyền phải tự hạn chế thẩm quyền của mình bằng cách tuân theo những qui định có giá trị chung cho xã hội và cho từng cá nhân.  Ông cũng đề nghị xét lại thẩm quyền của Quốc Hội (Đệ Tam CH), và chủ trương thẩm quyền của nó cũng như tất cả thẩm quyền của các định chế khác phải tôn trọng tinh thần luật trị.  Cũng theo ông, nhà nước hợp pháp (État légal) chưa nhất thiết là nhà nước pháp quyền đúng nghĩa.  Một nhà nước pháp quyền còn phải cung ứng cho các cá nhân những phương tiện hợp pháp để chống lại ý chí của cơ quan lập pháp mỗi khi cơ quan này vi phạm những quyền cơ bản của nhân dân. (trang 13-15)

Ngoài l’État de droit, tùy theo trường hợp, người Pháp còn dùng các nhóm từ khác như la primauté de la loi, hay l’autorité de la loi v.v. để chỉ ý niệm luật trị.

2. Vài Quan Điểm Về Ý Niệm Luật Trị

Như được đề cập ở phần trên, luật trị là một ý niệm chưa có một nội dung được mọi người đồng ý.  Tuy nhiên, nó đã được nghiên cứu khá nhiều.  Dưới đây, xin trình bày ngắn gọn một vài công trình nghiên cứu được coi như kinh điển và làm nền móng cho nhiều nghiên cứu sau đó.

Trước hết phải kể đến Albert V. Dicey (1835-1922). Trong tác phẩm đề cập ở trên, ông chủ trương luật trị bao gồm 3 yếu tố sau đây:

  • Không ai bị trừng phạt hay chịu thiệt thòi về thân thể hay của cải, trừ phi vi luật và được xét xử theo thủ tục bình thường trước tòa;
  • Không ai đứng trên luật pháp, mọi người đều bình đẳng trước tòa;
  • Các quyết định ảnh hưởng đến tự do cá nhân bắt nguồn từ hiến pháp, hay các định chế mà các quan tòa phải hành xử.

Albert V. Dicey (1835-1922)

 Điều quan trọng ở điểm (3) này là Dicey tin tưởng vào các cơ chế và tổ chức đã bàng bạc hay ăn sâu trong lòng dân chúng –tức dân Anh– hơn là các bản hiến pháp thành văn hay bản tuyên bố của các nước khác. Nhận định này của ông bị nhiều nhà nghiên cứu công kích, với lý do là nếu chưa có được một truyền thống như nước Anh, thì sẽ lấy gì làm khởi điểm để từ đó nuôi dưỡng và phát huy tinh thần tôn trọng nguyên tắc luật trị?  Đây là trường hợp của Hoa Kỳ, nơi mà tiến trình học hỏi qua những khuyết điểm hay thất bại (learning curve) giúp quốc gia này củng cố và phát triển trên nhiều lãnh vực, trong đó có sự tôn trọng luật pháp và các quyền tự do. Ngoài ra, quan điểm của Dicey đã trở nên quá giản dị trong thời đại hiện nay, khi mà lập pháp phải đương đầu với nhiều vấn đề hơn, và bộ máy hành pháp và hành chánh thừa hành phải thi hành –kịp thời, chi tiết, chính xác –nhiều điều luật liên quan đến kỷ thuật tân tiến và mối liên lập phức tạp với thế giới bên ngoài mà các nhà lập pháp không tiên liệu được khi thông qua các bộ luật.

Lon L. Fuller (1902-1978), một giáo sư luật nổi danh của Harvard University, trong quyển The Morality of Law, xuất bản năm 1969, chủ trương rằng căn bản tinh thần nội tại của luật pháp (the internal moral basis of law) phải hội đủ 8 yếu tố sau đây:

  • luật phải tổng quát (general), không đi vào các trường hợp đặc biệt;
  • luật phải được công bố (public), nghĩa là dân chúng phải biết trước để liệu bề mà hành động;
  • luật phải cho tương lai (prospective), không hồi tố (non-retroactive); đó là hệ luận của điều (2), tức luật áp dụng phải ban hành trước khi vụ án xảy ra và sau đó bị đem ra xử;
  • luật phải đầy đủ, rõ ràng (comprehensive, clear), để người bình thường cũng có thể hiểu;
  • luật phải không mâu thuẩn nhau (noncontradictory), có nghĩa là người chịu sự chi phối của luật lệ chỉ phải theo một điều và không phải theo điều ngược lại; nếu có sự mâu thuẩn, thì phải có sự hướng dẫn của hệ thống tư pháp;
  • luật có thể thi hành được (possible to perform; able to conform person’s behavior), nghĩa là không vượt quá khả năng thể chất, trí tuệ, tài chánh v.v. của công dân;
  • luật phải tương đối ổn định (relative stable), tức không thường xuyên thay đổi đến nỗi người dân không biết đâu mà lường; và
  • luật phải phù hợp (congruent) với luật lệ hiện hành, tức luật mới không được trái với luật hiện hành.

Lon L. Fuller (1902-1978)

Một số nhà nghiên cứu cho rằng 8 yếu tố mà Fuller đưa ra trên đây chỉ là khía cạnh hình thức (formal aspect) và người ta có thể ban hành một đạo luật hội đủ các điều kiện hình thức này, nhưng về thực chất nó không bảo đảm được nhân quyền hay đưa đến kỳ thị. Một số luật gia lại cho rằng, khi ra một luật mới, những nhà lập pháp luôn luôn muốn bày tỏ hoặc bảo vệ một giá trị, một mục tiêu nào đó, và các yếu tố mà Fuller đưa ra là nhằm giúp đạt được giá trị hay mục tiêu đó.  Ngày nay, khi guồng máy hành pháp và hành chánh càng ngày càng cồng kềnh, thì các đòi hỏi nói trên sẽ trở thành những hướng dẫn hữu hiệu cho các quyết định thi hành luật mới.

Bàn về luật trị, thì không thể không nói đến Friedric von Hayek (1899-1992), một học giả gốc người Áo, di cư sang Hoa Kỳ năm 1950 và dạy ở University of Chicago (1950-62). Ông từng được Giải Nobel Kinh Tế (1974, chia với Gunnar Myrdal), và huy chương Presidential Medal of Freedom (1991) do Tổng Thống G.H. W. Bush trao tặng. Trong quyển The Road to Serfdom (xb năm 1944 khi ông sống ở Anh), ông đồng ý nguyên tắc luật trị là hòn đá tảng của tự do, và đưa ra nhận xét rằng sự bành trướng của bộ máy hành chánh với tính chất cưỡng bách của nó ảnh hưởng không ít đến nguyên tắc luật trị vốn được trân quý.  Ông lý luận rằng nguyên tắc này bảo vệ cũng như cổ vũ tự do vì nó giúp cho người dân tiên liệu được hậu quả của việc làm để từ đó mà định hướng hành động của mình.

Trong một công trình nghiên cứu đồ sộ khác, The Constitution of Liberty (xb lần đầu năm 1960, và được hiệu đính công phu bởi R. Hamowy, do The University of Chicago Press xb năm 2011), ông lược xét nguồn gốc, bàn về ảnh hưởng của nguyên tắc luật trị đối với tự do, đối với chính sách kinh tế; cùng các mối quan hệ giữa tự do và những vấn đề hiện đại, và trở thành những đề tài tranh luận nóng bỏng mỗi khi có bầu cử ở Hoa Kỳ trong mấy chục năm nay, gồm sự vươn lên của nhà nước an lạc (welfare state), nghiệp đoàn và nhân dụng; an sinh xã hội; thuế khoá và tái phân lợi tứ; khung tiền tệ; trợ cấp nhà cửa; nông nghiệp; giáo dục v.v.

Friedric von Hayek (1899-1992)

Hayek ít bàn về tòa án và các thủ tục pháp lý, mà thay vào đó, triển khai các yếu tố hình thức như tính tổng quát, sự bình đẳng và tính chắc chắn của nguyên tắc luật trị.Theo ông, tổng quát có nghĩa là luật phải trừu tượng, áp dụng cho mọi người trong những tình huống đã được mô tả sẵn.  Bình đẳng là áp dụng cho mọi người mà không có sự phân biệt tùy tiện; nếu có thì phải có sự chấp thuận của đa số, chẳng hạn sự phân biệt nam nữ trong vấn đề gia nhập quân đội. Tính chắc chắn (certainty) có nghĩa là nguời ta biết trước được luật sẽ hiệu lực như thế nào đối với hành động của mình.  Ba yếu tố đó giúp con người định hướng được hành động của mình, muốn làm gì thì làm miễn luật không cấm; không phải lo sợ sự tùy tiện của nhà cầm quyền cũng như những người cầm cán cân công lý, nghĩa là nguyên tắc luật trị giúp bảo vệ tự do.

Theo Tamanhana, “Đối với Hayek, công lý sống bám vào dân luật về quyền sở hữu, khế ước, và quyền lợi dân sự (torts); và luật hình sự… Công lý sự thi hành các luật ban hành trước. Tiêu chuẩn công lý của ông ta thì trống rỗng về thực chất, vì nó không kéo theo sự đánh giá luân lý nào cả và không phải thỏa mãn tiêu chuẳn nào khác trừ tiêu chuẩn phổ quát (universality)” … Công lý của Hayek là sự diễn đạt nguyên tắc luật trị theo cách khác mà thôi. (Sách đã dẫn, trang 70-71).

Thật ra, Hayek có đề cập đến một thứ công lý, nhưng chỉ để lập luận chống lại nó. Ông viết: “Sự đòi hỏi chính quyền phải thực hiện không những công lý hình thức (formal justice), mà còn công lý thực chất nữa (substantive justice), tức là công lý phân phối (distributive justice) hay công lý xã hội (social justice) đã được đẩy mạnh từ cuộc Cách Mạng Pháp.”   Tiếp theo, Hayek trích lời chế nhạo của Anatole France, như sau:”Sự bình đẳng hoành tráng trước pháp luật cấm cản người giàu và kẻ nghèo ngủ dưới gầm cầu, đi ăn xin ngoài đường, và ăn cắp bánh mì.” (Nguyên văn tiếng Pháp ghi ở Chú Thích: của sách: ‘La majestueuse égalités de lois, qui interdit au riche come au pauvre de coucher sous les ponts, de mendier dans les rues et de voler du pain’).   [The Constitution, trang 342-3]

Hayek còn cho rằng sự bình đẳng trước pháp luật có thể tự nhiên sẽ đưa tới sự bình đẳng làm ra luật pháp, và điều sau có thể hủy bỏ đìều trưóc, vì đây là hai nguyên tắc hoàn toàn khác nhau. Để bài bác cái công lý xã hội nói trên, ông đưa ra một giả thuyết cực đoan rằng một chính quyền độc đoán áp chế cử tri phổ thông nhưng bảo vệ nguyên tắc luật trị có thể duy trì chế độ dân chủ tốt hơn nền dân chủ thích can thiệp vào guồng máy kinh tế và phân phối xã hội.  (Spectrum: From Right to Left in the World of Ideas, do Perry Anderson, Verso xb 2005, tr. 15-16)

Từ các yếu tố thuộc khía cạnh hình thức của các quan điểm kinh điển trên, người ta cũng có thể rút ra những hệ luận lý thú. Chẳng hạn, đối với 2 yếu tố không ai được đứng trên luật pháp, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, thì người ta suy ra rằng phải có những định chế “đứng ngoài”, “tách biệt”, tức là phải có một hệ thống tư pháp với tòa án và các quan tòa độc lập.  Hay là từ các yếu tố luật phải tổng quát, phải được công bố, phải tương đối ổn định, chúng ta thấy được sự cần thiết của một thứ luật tổng quát hơn, ổn định hơn và phải được soạn thảo và công bố long trọng hơn; đó là luật hiến pháp, thường được gọi tắt là hiến pháp.  Từ yếu tố luật phải được công bố, người công dân bình thường có quyền suy diễn rằng một khi đã được công bố, thì phải được áp dụng khi luật bắt đầu có hiệu lực, vì không áp dụng có nghĩa tiếp tục duy trì những bạc đãi hay ưu đãi cũ cho một số đối tượng nào đó. Chẳng hạn một quốc gia ban hành đủ mọi luật cải tiến quyền lợi người khuyết tật, nhưng nhà cầm quyền nấn ná không áp dụng, tức tiếp tục bạc đãi họ. Hay ban hành luật lệ môi sinh tiên tiến không kém các nước kỹ nghệ phát triển, nhưng không áp dụng cho các nhà máy hay cơ xưởng nào đó, nhất là do người ngoại quốc làm chủ, tức là tiếp tục ưu đãi họ.

3. Luật Trị Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa

Đối với nhiều người –nhất là ở các nước độc tài — nếu nguyên tắc luật trị hội đủ những yếu tố mà các tác giả kinh điển đưa ra thì quả là gần đạt đến lý tưởng rồi. Tuy nhiên, qua một số nhà phê bình, chúng ta lại thấy lóe ra một khía cạnh khác của nguyên tắc này: đó là khía cạnh thực chất (substantial aspect).  Trong vài thập kỷ nay, cả hai khía cạnh càng ngày càng được nghiên cứu sâu rộng hơn.  Tại Hoa Kỳ, Hiệp Hội Triết Lý Chính Trị và Luật Pháp (American Society for Political and Legal Philosophy, ASPLP) đã có 2 hội nghị thường niên về nguyên tắc luật trị. Lần đầu tổ chức vào tháng Giêng năm 1992 mà kết quả cụ thể là quyển The Rule of Law, xuất bản năm 1994. Lần thứ hai tổ chức vào tháng Giêng năm 2010, với quyển Getting to The Rule of Law ra đời năm 2011.

 Viện Nghiên Cứu Về Việc Quốc Tế Hóa Luật Pháp Hague (The Hague Institue for the Internationalisation for Law, HiiL) cũng đã tổ chức 2 hội nghị quốc tế. Lần đầu năm 2009, cho ra đời quyển Rule of Law Dynamics: In An Era of International and Transitional Governance ra đời năm 2012.  Lần sau, năm 2012 với quyển The Rule of Law at National and International Levels xuất bản năm 2016.

Ngoài ra, còn có hằng chục công trình nghiên cứu khác mà tựa đề thường có nhóm chữ “The Rule of Law” kèm theo.  Nhiều tác phẩm về chính trị, luật pháp, kinh tế, phát triển, trị quản (governance) xuất bản trong những năm gần đây hâu như không thiếu những chương hay mục bàn về nguyên tắc luật trị và ảnh hưởng của nó đối với lãnh vực nghiên cứu liên hệ.

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, các chính phủ Hoa Kỳ, Canada, Úc, một số nước trong Liên Âu, cùng nhiều tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc đã dồn không ít công của để cổ vũ, huấn luyện và tổ chức giúp các nước Cộng Sản cũ, cũng như các nước đang phát triển, cải tiến guồng máy chính trị, hành chánh, kinh tế dưới ngọn cờ nguyên tắc luật trị.

Dưới đây là một số quan điểm về luật trị qua các nghiên cứu vừa kể.

  • Theo Joseph Raz, “Một hệ thống luật pháp không dân chủ dựa trên sự phủ nhận nhân quyền, sự nghèo đói tràn lan, sự phân biệt chủng tộc, sự bất bình đăng về giới tính, và sự thù ghét về tôn giáo, có thể, về nguyên tắc, phù hợp với những đòi hỏi của nguyên tắc luật trị, hơn cả những hệ thống luật pháp của các nền dân chủ tiến bộ Tây phương … Nó sẽ xấu xa khôn lường, nhưng nó sẽ vượt trội về một phương diện: nó phù hợp về hình thức (conform) với nguyên tắc luật trị … Một đạo luật  […] có thể hình thành chế độ nô lệ mà vẫn không vi phạm nguyên tắc luật trị.” (The International Rule of Law Movement, hiệu đính bởi David Marshall, do Human Rights Program Harvard Law School xb năm 2014, trang 6).  Nói khác đi, nếu chỉ được chuyên chú khía cạnh hình thức thuần túy, thì người ta có thể tước đoạt nội dung của nguyên tắc luật trị.
  • Donal Dworkin đề nghị một phương pháp lý luận  mới về luật pháp, và gọi đó là một hình thức lý luận luân lý (a form of moral reasoning). Ông cho rằng “Không gì bảo đảm rằng luập pháp chúng ta [Anh Quốc] sẽ công bằng (just).  Điều đó không có nghĩa là chúng ta tách rời mối liên hệ giữa luật pháp và luân lý; mà điều đó có nghĩa là chúng ta làm phức tạp thêm sự liên hệ giữa luật pháp và luân lý.”  Trong quyển Justice for Hedgehogs, ông cho rằng cái lớn lao của đời người là giá trị, mà nội dung là các câu trả lời cho các câu hỏi như: sự thực là gì, đời sống có ý nghĩa gì, những đòi hỏi về luân lý là những gì, đòi hỏi công lý được định nghĩa ra sao.  Theo ông, mỗi người đều có trách nhiệm về cuộc đời quý báu của mình, và có bổn phận tôn trọng những điều kiện mà theo đó những kẻ khác có thể thể hiện trách nhiệm của họ. “Đó là ý nghĩa của ‘uy tín con người’ (human dignity) đối với mình, và nó yểm trợ cả những nguyên tắc về trách nhiệm (the principles of responsibility), vốn rất quan trọng về khía cạnh công bằng mà con người may mắn có, lẫn những nguyên tắc về tương kính (the principles of mutual respect) được đại diện trong nguyên tắc luật trị. (Ronald Dworkin: An Appreciation do Jeremy J. Waldron đọc ngày 6/5/2013 tại London, nhân Lễ Tưỏng Niệm Dworkin). Nói cách khác, uy tín này bao gồm sự tôn trọng chính mình và sự đề phòng việc đối xử tùy tiện của kẻ khác đối với mình; và đó chính là ý nghĩa thực chất của nguyên tắc luật trị. (Getting to The Rule of Law, tr. 53-61).

Quan điểm của Dworkin quả đã làm sáng tỏ và làm phong phú thêm triết lý chính trị của luật pháp nói chung, và của nguyên tắc luật trị nói riêng.  Nó cần phải đưọc cổ vũ trong mọi xã hội, và phải được coi là nền tảng, là bước bắt đầu cho mọi công cuộc cải tổ pháp lý và hành chánh, nhất là tại những quốc gia mà chính quyền độc tài và toàn trị. Tại các nước dân chủ, nếu quần chúng không nhận ra được rằng nhà cầm quyền đã hành xử tùy tiện, thì các tổ chức xã hội dân sự, các luật gia, các nhà trí thức, thậm chí các công dân bình thường sẽ tức khắc lên tiếng qua các phương tiện truyền thông, thậm chí phương tiện pháp lý, khiến nhà cầm quyền phải chùn bước và kiểm điểm lại hành động của mình.  Trong khi đó, tại các nước độc tài, độc đảng, người dân vốn đã được giáo dục nhồi sọ từ nhỏ rằng lãnh tụ, rằng đảng cầm quyền luôn luôn lãnh đạo tài tình sáng suốt, không bao giờ sai, cho nên một mặt họ cảm thấy mình bé nhỏ, ít hiểu biết, do đó “phải” tuân lệnh nhà cầm quyền. Mặt khác, họ còn sợ hãi vì sự bất tuân hay chống lại dễ dẫn đến sụ trù dập, tù tội v.v. Trong những năm gần đây, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước khác, tình thế này được cải tiến một phần nhờ các phương tiện truyền thông, cũng như nhờ sự dũng cảm của một số nhà tranh đấu dân chủ, luật sư, bloggers –những đốm sáng trong các xã hội tăm tối. Mặc dầu một số những người này đã và đang bị đàn áp, tù đày, nhưng nhờ họ đưa tin và hướng dẫn, mà người dân bình thường đã bớt mặc cảm thấp bé, cảm thấy tự trọng và cảnh giác về cách hành xử bất hợp pháp của nhà cầm quyền, không những đối với mình, mà còn đối với những thành viên khác trong cộng đồng nữa. Đó là bước đầu tốt cho một xã hội luật trị.

  • Nguyên tắc luật trị được chủ trương áp dụng không những trong phạm vi quốc gia, mà còn trong phạm vi quốc tế nữa. Trước năm 2012, theo Liên Hiệp Quốc, một nền luật pháp tôn trọng nhân quyền khi nó tôn trọng nguyên tắc tối thượng của luật pháp, sự bình đẳng trước pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật, công bằng trong việc áp dụng, tam quyền phân lập, nhân dân được quyền tham dự vào việc làm ra luật, tính chắc chắn của luật pháp, tránh hành động tùy tiện, minh bạch về thủ tục và pháp lý.  (United Nations Secretary General 2004). Nói khác đi, tôn trọng khía cạnh hình thức của nguyên tắc luật trị là đủ bảo đảm nhân quyền.

 Tuy nhiên đến năm 2012 thì quan điểm của LHQ đã thay đổi, chú trọng cả khía cạnh nội dung. Theo Tuyên Ngôn về Nguyên Tắc Trị Vì Của Luật Pháp của LHQ (The 2012 Declaration on The Rule of Law), thì giữa các quyền con người, nguyên tắc luật trị và dân chủ liên kết nhau và hỗ tương củng cố cho nhau. Louise Arbour, cựu Uỷ Viên Nhân Quyền LHQ (UN High Commissioner for Human Rights (2012), lý luận như sau về luật trị:

Nguyên tắc luật trị chính hiệu là phần thực chất và bao trùm những đòi hỏi về quyền con người.  Nó phản ảnh ý tưởng bình đẳng về thực chất: không phải chỉ có nghĩa là không ai được đứng trên luật pháp, mà còn có nghĩa là mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và chịu sự chi phối của pháp luật, và đuợc quyền hưởng sự bảo vệ và các lợi lộc một cách bình đẳng….Với sự hiểu biết có tính cách thực chất này, luật pháp phải phục vụ cho một mục tiêu cao hơn là chỉ điều hành đơn thuần và trật tự về cách cư xử của con người; luật pháp phải tăng tiến tự do, an ninh và công bằng, và phấn đấu đạt được sự quân bình toàn hảo giữa luật pháp và công lý.”  (The International Rule of Law Movement, trang 7-8)

Vì LHQ có nhiều bộ phận thi hành, bảo vệ và cổ súy nguyên tắc luật trị, nên LHQ chia các hoạt động liên hệ đến nguyên tác này thành 3 nhóm sau đây nhằm mang lại hiệu quả, hiệu năng và trách nhiệm cho các cơ quan thuộc 3 nhóm đó:

(1) Luật trị ở mức độ quốc tế, gồm các hoạt động liên hệ đến Hiến Chương LHQ, các hiệp ước đa phương, các cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế, công lý tội phạm quốc tế, san định và huấn luyện luật quốc tế, v.v.

(2) Luật trị với nội dung liên hệ đến tình trạng xung đột và hậu xung đột, gồm các hoạt động liên hệ đến công lý tại các quốc gia chuyển đổi chế độ; tiến trình tư vấn; các định chế nhân quyền trong nước, v.v.

(3) Luật trị với nội dung liên hệ đến sự phát triển dài hạn, gồm có các hoạt động tăng cường các định chế pháp lý và tư pháp; cảnh sát; cải tổ hình phạt; chống tham nhũng; tội phạm và lậu chuyển xuyên quốc gia; yểm trợ an ninh; giáo dục về pháp lý, v.v.

Trong các chương trình đào tạo và huấn luyện về nguyên tắc luật trị tại các quốc gia hậu Cộng Sản hay các chế độ giao thời khác, các cơ quan thuộc 3 bộ phận kể trên cũng như các quốc gia Liên Âu, Hoa Kỳ, Canada, Úc v.v.  sử dụng một trong 2 phương pháp sau đây:

Phương Pháp Cải Tổ Từ Trên Xuống (Top-Down Reform), dựa trên các giả định là (1) Nhà nước và các định chế là trung tâm quyền lực; (2) Các định chế pháp lý và an ninh độc quyền sử dụng quyền lực; (3) Các định chế phục vụ nhân dân; (4) Luật pháp chế ngự các hoạt động của nhà nước và trách nhiệm của công dân (nguyên tắc luật trị).

Chủ trương cải tổ từ tên xuống bị chỉ trích từ nhiều lý do. Trước hết, một sự cải tổ sâu rộng như thế sẽ đòi hỏi nhiều công sức, và nhất là phải mất nhiều năm mới thấy được kết quả.  Những người đang làm việc trong cơ chế sẽ bị biến mất hay cải tổ nhiều, cũng như những công dân hưởng lợi lộc nhờ cơ chế đó, thường phản đối và bất hợp tác.  Kế đến, những chính trị gia, các quan chức ngành tư pháp và cảnh sát cảm thấy uy tín và quyền hành bị tước đoạt. Nói một cách tổng quát, người ta sẽ viện dẫn lý do văn hóa, cũng như sự chưa chuẩn bị về dân trí, chính trị để chống đối, bất hợp tác, trì hoãn hay chỉ hợp tác chiếu lệ với sự thay đổi mà những ý niệm, định chế bị họ coi là “áp đặt, “ngoại lai” hoặc cả hai. Công cuộc cải tổ tại Nga, và một số nước trước đây thuộc Liên Bang Xô Viết, và một số nước Đông Âu là những cải tổ tương đối không thành công theo phương pháp này.  Cuộc cải tổ tại Iraq sau khi Sadam Hussein bị lật đật đổ là một trường hợp điển hình.

Phương Pháp Cải Tổ Từ Dưới Lên (Bottom-Up Reform)

Ở một nước chưa có một nền tảng về nguyên tắc luật trị, hay chưa có một ý chí chính trị vững chắc cho công cuộc cải tổ, thì làm sao phổ biến nguyên tác luật trị theo phương pháp “từ trên xuống” khi mà nhân dân không thể chờ đợi?

Những người chủ trương phương pháp “từ dưới lên” cho rằng nền tảng căn bản của nguyên tắc luật trị là các mối liên hệ.  Các mối liên hệ quan trọng nhất ở cấp địa phương là mối liên hệ với nhau giữa cơ quan hành chánh địa phương, tòa án địa phương, công an cảnh sát địa phương, đại diện đảng cầm quyền địa phương vv. và đặc biệt là với nhân dân địa phương. Một điều khoản được long trọng ghi trong hiến pháp, một đạo luật được quốc hội thông qua, một văn kiện dưới luật được các phủ bộ hay địa phương ban hành lại được chính quyên địa phương giải thích một cách tùy thiện, bất nhất và áp dụng khắc nghiệt đối với nhân dân thì họ sẽ nghĩ ngay rằng những văn kiện này không tôn trọng nguyên tắc luật trị về hình thức lẫn nội dung.  Tuy nhiên, nếu sự thi hành chỉ được nghiêm chỉnh thực hiện sau khi có sự tham khảo ý kiến rộng rãi giữa các cơ quan chính quyền với nhau, nhất là với các tổ chức xã hội dân sự, tôn giáo, và ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân, thì nhân dân mới có thể xem đấy là nền tảng của nguyên tắc luật trị và từ đó các cải tổ “từ dưới lên” mới có cơ hội thành công.

  • Ngày nay, với sự lan tỏa của hiện tượng toàn cầu hóa, qua sự lớn mạnh của các tổ chức trực thuộc Liên Hiệp Quốc, qua sự tăng gia các tổ chức chính trị kinh tế vùng, qua nhiều hiệp định đa phương, thì ngay cả tại những quốc gia vốn có một nền tảng pháp lý truyền thống lâu dài và vững chắc, nguyên tắc luật trị của họ cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của các nguyên tắc luật trị, về phương diện hình thức lẫn nội dung, của LHQ và của các nước khác.  Ngược lại ý niệm về nguyên tắc luật trị của họ cũng như của các luật gia cũng ảnh hưởng đến LHQ và các nước đối tác. Sự ảnh hưởng hổ tương của nguyên tắc luật trị của một quốc gia và thế giới bên ngoài là điều khó phủ nhận.  Tuy nhiên, sự vận dụng nguyên tắc luật trị được nghiên cứu và đề nghị bởi các cơ quan LHQ và các học giả nổi tiếng để thay đổi nội dung và hình thức nguyên tắc luật trị trong nước đã bắt đầu từ nhiều năm nay và tại nhiều quốc gia; nhưng sự thiết lập nguyên tắc luật trị phổ quát (a universal rule of law) ở mức độ quốc tế, thì chỉ mới bắt đầu chưa tròn thập kỷ nay.

Tuy nhiên ảnh hưởng qua lại đó chỉ mới là hình thức.  Sự tương tác về nội dung mới là quan trọng.  Trong Phần Giới Thiệu quyển The Rule of Law xb 2016 đã đề cập ở trên, André Nollkaemper giải thích rằng “Quyển sách được hình thành là vì càng ngày sự chồng lấp lên nhau về nội dung giữa luật quốc tế và luật quốc gia càng tăng, đã khiến cho có mối tương tác giữa các định chế quốc tế và quốc gia. Luật quốc tế và các định chế quốc tế mô tả các tiêu chuẩn liên quan chẳng hạn đến nhân quyền, tội phạm, thương mại, và đầu tư, tất cả được qui định giống như bởi luật quốc nội. Sự thi hành các tiêu chuẩn này ở trong nước được xem xét lại bởi các định chế quốc tế, chẳng hạn như các tòa án về nhân quyền, tòa án hình sự, tòa hòa giải về đầu tư, và các bộ phận giám sát không có tính cách xử kiện (trang 5). Tổng Thư Ký LHQ Annan trong phúc trình lên phiên họp cao cấp của Đại Hội Đồng năm 2012, trước hết đề cập đến “sự tuân thủ” (compliance) luật quốc tế như là bước đầu để tăng cường nguyên tắc luật trị quốc tế (international rule of law).  Sự giúp sức của các tòa án và các cơ quan phán xử đặc biệt quốc tế (international courts and tribunals) cho thấy rõ sự quan trọng của “sự tuân thủ”, được coi là yếu tố cốt lõi của pháp lý và nguyên tắc luật tri.

Tuy nhiên, trên thực tế, có không ít quốc gia tranh biện (contest) bằng cách tránh né, giải thích lại, tái xét, hay bác bỏ luật quốc tế hay qui định quốc gia thi hành luật quốc tế. Nói cách khác, nguyên tắc luật trị quốc tế còn đang thời kỳ phôi thai, chưa được lý thuyết hóa chặt chẽ, chưa thuyết phục được các quốc gia có chủ quyền phải tuân theo.  Chúng ta không quá lạc quan là một ngày gần đây, nó được hoàn toàn tôn trọng; nhưng với sự phát triển của các tổ chức pháp lý, và sự tương tác giữa luật pháp quốc nội và luật pháp quốc tế, với sự hợp tác càng ngày càng tăng về kinh tế, thương mại, y tế, khí hậu v.v., các quốc gia sẽ thấy lợi hơn nếu tôn trọng nguyên tắc này – dĩ nhiên phải được hiện đại hóa và được chấp nhận.

4. Đo Lường Nguyên Tắc Luật Trị

Như đã nói, luật trị là một ý niệm trừu tượng, có tính cách qui phạm với những yếu tố mà các luật gia mong muốn nó có.  Từ những yếu tố — đôi khi mang tên khác nhau –được khá nhiều các luật gia đồng ý rằng nếu hội đủ, thì nguyên tắc luật trị đáng được coi là mẫu mực.  Hiện nay trên thế giới có khoảng 10 tổ chức hằng năm đưa ra những nghiên cứu của mình về luật trị.  Lâu đời nhất có lẽ là Vera Innstitue of Justice, thành lập 1961 tại Hoa Kỳ, chuyên nghiên cứu về tình hình pháp lý tại Hoa Kỳ. Năm 2008, Vera hợp tác với tổ chức World Justice Project — một sáng kiến của America Bar Association—mới ra đời 2 năm trước đó– để đưa ra dự án Vera-Altus Indicators Project nhằm bổ sung Rule of Law Index hiện hành bằng cách thích ứng các tiêu chuẩn pháp lý (de jure standards) với những biện pháp thực tế (de facto measures), và được sử dụng trong các cuộc thăm dò tại 4 thành phố lớn: New York City (Mỹ), Santiago (Chile), Lagos (Nigeria) và Chandigarh (Ấn Độ). Sau đó, Vera hợp tác với Liên Hiệp Quốc (bộ phận duy trì Hoà Bình) để nghiên cứu nguyên tắc luật định dưới khía cạnh an ninh trật tự tại Haiti, Liberia và South Sudan, và đưa ra cẩm nang UN-backed Guide for Rule of Law Indicators mà khi công bố ngày 6/7/2011, Ivan Sinomovic,  Phụ Tá Tổng Thư Ký Đặc Trách Nhân Quyền, đã tuyên bố: “Nguyên tắc luật trị là điều kiện tiên quyết nhằm đạt được 3 mục tiêu trụ cột lớn của Liên Hiệp Quốc –hòa bình và an ninh, phát triển và các quyền con người.” (The Rule of Law is a pre-condition for achieving the three pillars of the United Nations –peace and security, development and human rights.).

Ngân Hàng Thế Giới cũng có nghiên cứu về luật trị, nhưng trong khuôn khổ một đề tài rộng rãi hơn –chúng tôi tạm gọi là trị quản (governance), một lãnh vực được khai thác mạnh mẽ từ sau cuộc cải tổ hành chánh trên toàn thế giới khởi sự từ đầu thập niên 1990; bao gồm cai trị trong lãnh vực công và quản lý trong lãnh vực tư.

Sau đây, chúng tôi xin đề cập đến vài công bố hằng năm của World Justice Project.  Với sự yểm trợ tài chánh ban đầu năm 2006 của Bill & Melinda Gates Foundation, hiệp hội các luật gia Mỹ American Bar Association nói trên, một tổ chức vô vị lợi, còn được sự trợ giúp của nhiều tổ chức, công ty cũng như cá nhân, bắt đầu nghiên cứu sự thi hành nguyên tắc luật trị, dưới cái tên World Justice Project (WJP).  WJP phân chia nguyên tắc luật trị ra làm 4 nguyên tắc dưới đây:

  1. Chính phủ và các viên chức, cơ quan thuộc quyền chịu trách nhiệm trước pháp luật;
  2. Các đạo luật rõ ràng, được công bố, ổn định và công bằng, và bảo vệ các quyền căn bản, kể cả sự an toàn của con người và tài sản;
  3. Thủ tục, theo đó các đạo luật được thì hành, quản lý và cưỡng hành, được tiếp cận một cách công bằng và có hiệu năng;
  4. Các đạo luật được củng cố, và sự tiếp cận công lý được cung ứng bởi các viên chức cưỡng hành, luật sư, hay những người đại diện, những vị quan tòa tất cả đều có đủ khả năng, độc lập, và đạo đức, mà những người này phải đủ số, có nguồn gốc thích hợp, và phản ảnh được đặc trưng của cộng đồng mà họ phục vụ.

Bốn nguyên tắc trên, theo J. Heckman, R. Nelson & L. Cabatingan (Global Perpectives on The Rule of Law, tr.255) ) có thể xếp tương đương với 4 nguyên tắc ngắn gọn và quen thuộc do R.H. Fallon, Jr. đưa ra năm 1997, tuần tự như sau:

  1. tính siêu đẳng của quyền lực pháp lý (legal authority) đối với công dân và các giới chức chính quyền ;
  2. tính ổn định của các luật lệ,
  3. tính hiệu quả của luật lệ, và
  4. tính khả dụng (availability) của các định chế cưỡng hành không thiên vị.

Ngoài ra, Fallon còn thêm một nguyên tắc nữa mà WJP không có. Đó là nguyên tắc về khả năng của luật lệ, những tiêu chuẩn hay những nguyên tắc hướng dẫn con người trong cách xử sự.

Trở lại với WJP, người ta nhận ra rằng mỗi năm, 4 nguyên tắc lớn này lại được phân ra thành một số yếu tố (factors) để tiện việc thăm dò: 16 yếu tố vào năm 2009; 10 vào năm 2010; 11 vào năm 2011; 9 vào năm 2012 v.v.   Đến năm 2016, thì 4 nguyên tắc đó được chia ra làm 8 yếu tố (lại còn được tế phân thành tổng cộng 48 chỉ số, indicators), và được áp dụng để nghiên cứu cho 113 quốc gia.  Dưới đây là điểm số và thứ hạng của mỗi yếu tố cho trường hợp Việt Nam năm 2016.

CÁC YẾU TỐ ĐIỂM SỐ

(0 -1.0)

THỨ HẠNG

(trên 113)

1.Hạn chế đối với quyền lực của chính quyền 0,49 81
2. Không nhũng lạm 0,45 67
3. Chính quyền cởi mở 0,43 92
4. Các quyền căn bản 0, 54 68
5. Trật tự và an ninh 0,79 35
6. Sư cưỡng hành luật lệ 0,43 91
7. Công lý dân sự 0, 47 80
8. Công lý hình sự 0,50 51

 Nguồn: WJP Rule of Law Index 2016

Thật ra, điểm số, chỉ số, thứ hạng v.v. đối với một ý niệm trừu tượng và qui phạm như nguyên tắc luật định chỉ có giá trị tương đối, không giống như các độ đo trên hàn thử biểu.  Khi đưa ra những nguyên tắc, những yếu tố và những chỉ số, các nhà nghiên cứu luôn cân trọng hai tính chất “mỏng” (thin) và “dày” (thick) của ý niệm luật định.  Quá “mỏng” có nghĩa là chú trọng rất ít đến các yếu tố thuộc lãnh vực hình thức; quá “dày” có nghĩa là chú trọng quá nhiều đến các yếu tố thuộc lãnh vực nội dung.  Văn hóa của một quốc gia, trong đó có phong tục, tập quán, tôn giáo, tình trạng dân trí, sắc tộc v.v. là một trong những tiêu chuẩn quan trọng dùng để cân trọng trong việc nghiên cứu và so sánh.

Kết Luận

Ý niệm luật trị được hồi sinh và phát triển chừng vài chục năm nay. Trong phạm vi quốc gia, nó được xem như là điều kiện căn bản để kiện toàn hệ thống luật pháp.  Tính tiêu cực của nó là nhằm ngăn chặn sự tùy tiện, bốc đồng và vô lý của nhà cầm quyền; đặt vấn đề đối với tính chính đáng của nguồn gốc quyền lực. Kế đến nó còn nhằm bảo đảm mọi công dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử. Khi nghiên cứu khía cạnh tiêu cực này, người ta có thể sẽ không lưu ý là nhiều khi luật pháp được áp dụng nhất quán và hợp lý, nhưng lại đưa đến hậu quả xấu, không như ý muốn của giới hữu quyền cũng như của công dân.

Trái lại, tính tích cực của nguyên tắc luật trị chú trọng đến nội dung và các cứu cánh mà nó phải phục vụ.  Các cứu cánh này bao gồm nhân quyền, dân quyền, dân chủ, công lý, công bằng xã hội — quả là những phạm trù triết lý chính trị lớn lao. Vô hình chung, vì “nhân danh” các mục tiêu, hay vì quá hăng say lao về các mục tiêu chưa được xác định rõ ràng, mà nhà nước có thể xem nhẹ giá trị của nguyên tắc luật trị, cũng như các thủ tục xét xử, hay cả quyền lợi của thiểu số.

Hiểu được tính tiêu cực và tích cực của ý niệm về sự trị vì của luật pháp, người công dân bình thường cũng có thể rút ra những kết luận khách quan thích hợp về các hoạt động của chính quyền trong cả ba lãnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp từ cấp trung ương đến điạ phương. Vì thế truyền bá và giáo dục rộng rãi ý niệm này đến quần chúng –đặc biệt là tại các nước đang phát triển mà trình độ văn hóa và ý thức chính trị còn thấp– là bước đầu cần thiết và vững chắc để tạo dựng một xã hội trật tự, để từ đó đưa đến no cơm ấm áo.

Áp dụng nguyên tắc “luật trị quốc nội” đã khó, áp dụng nguyên tắc “luật trị quốc tế” lại càng khó hơn, vì những định nghĩa bất đồng, nhất là đối với những mục tiêu lớn như hòa bình, trật tự xã hội, công bằng nhân loại v.v. cũng như không có những phương thức cưỡng hành rõ ràng đối với những nước có chủ quyền, nhất là đối với những nhà nước ngang ngược, hai mặt (double standards) và thủ đoạn, chỉ biết sử dụng luật kẻ mạnh.  Nguyên tắc luật trị quốc tế chỉ mới bắt đầu, và sự đồng thuận về hình thức lẫn nội dung còn đòi hỏi nhiều thử thách. Tuy nhiên, bắt đầu cũng có nghĩa là lóe lên những tia hy vọng.

Virginia, tháng 11 năm 2016

Lê Văn Bỉnh

 

Views: 780

Ngẫm Chuyện Xưa Nay: Bài Thơ Yêu Nước

Lão Trượng

Trong thi ca Việt Nam từ cổ chí kim, có nhiều bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, nói lên niềm đau, nỗi nhục khi bị ngoại xâm dày xéo quê hương. Nhiều bài thơ đã đánh thức lương tri con dân Việt trước hiểm họa đất nước được lưu truyền lại hậu thế.

Xin đơn cử một trong số bài thơ đó: Vịnh Bức Dư Đồ Rách của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu vào đầu thế kỷ 20.

tandaNhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) sinh tại làng Khê Thượng (Bất Bạt, Sơn Tây), cạnh Núi Tản Viên cạnh sông Đà. Năm 1916 Tản Đà công bố tác phẩm đầu tay Còn Chơi, ngay lập tức được dư luận chú ý! Trong 23 năm (1916 - 1939), Tản Đà cho ra đời 35 tác phẩm đủ thể loại bao gồm: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Tạp Luận, Dịch Thuật...

Bài thơ "Vịnh Bức Dư Đồ Rách’’ là một sự kiện văn học, nổi tiếng thời kì Tản Đà sung sức.  Để tìm hiểu thấu đáo về sự kiện Bức Dư Đồ Rách chúng ta đi ngược thời gian về những năm đầu của thế kỉ 20:

Sau khi quân Pháp đánh chiếm Hà thành, Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thực dân Pháp tạm thời bình ổn được tình hình. Thực hiện chính sách chia để trị bằng cách: Chia Việt Nam thành 3 Kỳ (vùng): Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ. Bắc và Trung Kỳ đặt dưới chế độ Bảo Hộ của Pháp. Chính quyền do chính phủ Nam Triều - Vua quan nhà Nguyễn - trực tiếp điều hành. Nhưng thực chất Pháp vẫn gián tiếp lãnh đạo. Ngay đến việc để vua nào lên ngôi… phế truất vua nào (như trường hợp các vua Duy Tân, Hàm Nghi) cũng do chính quyền Pháp quyết định.

Còn Nam Kỳ bị Pháp thiết lập chế độ Thuộc địa. Nam Kỳ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương.

Ở mỗi vùng, miền, mỗi địa phương lại có những quan quân đặt ra luật riêng… khiến đất nước không còn là đất nước được trọn vẹn chủ quyền của người Việt Nam. Tấm bản đồ vẽ trên mặt giấy thể hiện chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia, chỉ là bức vẽ, còn trên thực tế, Bức Dư Đồ - thực chất đã “rách” tả tơi!

Trước thực trạng tang thương của đất nước bởi hiểm họa ngoại xâm, Tản Đà viết bài thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng mình trước đất nước bị họa xâm lăng: Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 1 ra đời trong hoàn cảnh này. Bài thơ in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà và sau khi hoàn thành 4 bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách được đăng trong Tản Đà, Khối Tình Con Thứ Ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932                 

Vịnh Bức Dư Đồ Rách

“Nọ bức dư đồ thử đứng coi

Sông sông núi núi khéo bia cười

Biết bao lúc mới công vờn vẽ

Sao đến bây giờ rách tả tơi

Ấy trước ông cha mua để lại

Mà sau con cháu lấy làm chơi

Thôi thôi có trách chi đàn trẻ

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi”.

Nhìn hoàn cảnh đất nước, các nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác giả, lên tiếng hưởng ứng, ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng cách có nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền viết bài họa lại thứ 2 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 2, đăng trên Đông Phương Thời báo, số 635, năm 1927:

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi

Ta bồi cho chúng chị em coi

Giận cho con cháu đà hư thế

Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.

Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ

Có hồ có giấy dễ mà chơi.

Bởi chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.

Được sự đón nhận và đồng cảm của giới sĩ phu, văn nhân có tâm huyết, yêu đất nưóc, dân tộc cùng tham gia họa lại Bức Dư Đồ Rách… Tản Đà viết tiếp bài thứ 3 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 3, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 636, năm 1927:

“Đành chịu ngồi trông rách tả tơi

Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!

Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ

Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi

Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó

Non sông ai hỡi đợi chờ ai?

Còn núi còn sông còn ta đó

Có lúc ta bồi chúng bạn coi”.

Cuối cùng Tản Đà tổng kết cuộc họa thơ do ông khởi xướng bằng bài Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 4, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 643 - năm 1927:

“Có lúc ta bồi chúng bạn coi

Chị em nay hãy tạm tin lời

Dẫu cho tài có cao là thánh

Chưa dễ tay không vá nổi trời

Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn

Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi

Việc nhà chung cả ai ai đó

Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?”

Trong số những bài họa, có hai bài của cụ Phan Bội Châu, cũng cùng năm 1927.

I

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi,

Ta bồi cho chúng chị em coi.

Giận cho con cái đà hư thế,

Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài.

Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ,

Có hồ, có giấy dễ như chơi,

Vì chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.

II

“Hóa rách ra lành thế mới hay

Trời giăng giấy khắp, đất hồ đầy,

Non sông sẵn vóc thêu hoa gấm,

Gan óc ghe phen trổ gió mây.

Trắng úa, hồng tươi tùy thợ ý,

Bột rền, keo dẻo cốt thầy tay.

Người đà mới mới ta nên mới,

Bồi vá mà chi, kéo khuấy rầy”.

*******

Gần một thế kỷ trôi qua, đất nước bị Cộng Sản thống trị đã “hèn với giặc, ác với dân” không biết bao nhiêu bài viết, thơ, văn đã phơi bày thực trạng đau thương, phủ phàng nầy.

Là người dân địa phương Hà Tĩnh chứng kiến hình ảnh cá chết hàng loạt ở ven biển, ngày 6/4 ngư dân địa phương phát hiện cá chết vùng biển một số xã thuộc Kỳ Anh ở Hà Tĩnh. Bốn ngày sau, hiện tượng tiếp diễn tại vùng biển ở huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đến ngày 19/4, hiện tượng cá chết hàng loạt xuất hiện ở vùng biển Quảng Trị và tiếp tục lan rộng  4 tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thứa Thiên vào Thừa Thiên – Huế... theo giới quan sát thì nguyên nhân xảy ra do “yếu tố gây độc trong môi trường nước” nên thảm họa hiện tượng cá chết bởi ô nhiễm nguồn nước do các nhà máy tại khu công nghiệp Vũng Áng, huyện Kỳ Anh xả thải gây độc. Ngư dân Hà Tĩnh phát hiện do ống thải nước ngầm của nhà máy thép Formosa dưới biển thải chất độc gây nên. Trước thảm họa gây nguy hại cho người dân các tỉnh ven biển nhưng CSVN không thực tâm truy tìm “thủ phạm” mà lấp liếm “vòng vo tam quốc” phó mặc cho người dân cam chịu!

Trước tình cảnh đó, cô giáo Trần Thị Lam, nếu xem qua vài dòng tiểu sử thì cô giáo ở Hà Tĩnh nầy được “đãi ngộ” (Tổ trưởng Ngữ Văn trường PTTH, có bằng khen của UBND Hà Tĩnh) nhưng lương tâm nhà giáo trước thực trạng đất nước quá tồi tệ đã viết bài thơ từ trong nước, được lan truyền rộng rãi và được mọi người đón nhận.

Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh

Trần Thị Lam

“Đất nước mình ngộ quá phải không anhtranthilam

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...

 Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...

Đất nước mình buồn quá phải không anh

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...

 Đất nước mình thương quá phải không anh

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...

 Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...”. 

******

Bài viết của Luật Sư Đào Tăng Dực: Đất nước mình ngộ quá phải không anh? Trả lời cô giáo Trần Thị Lam. Trích dẫn:

“… Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc…”

Bài thơ của cô giáo Trần Thị Lam được cho là bài thơ gây chấn động trên mạng lưới toàn cầu và có tiềm năng làm rung chuyển chế độ. Công an CSVN đã phải câu lưu và thẩm vấn cô, nhưng chưa dám truy tố hình sự vì sợ hãi phản ứng của nhân dân và công luận thế giới.

Dân tộc Việt có một nền văn hóa sâu dày hơn 4000 năm lịch sử trong đó tiềm tàng những tình tự đậm đà và tư tưởng uyên thâm, giúp dân tộc vượt qua những cơn ba đào của lịch sử.

Mặc dầu suốt 7 thập niên liên tục, người CSVN đã ra sức hủy diệt nền văn hóa này và thay thế trước hết bằng ý thức hệ giáo điều Mác Lê duy vật (Marxist dogmatic ideological materialism) và sau đó bằng chủ nghĩa duy lợi trần truồng (naked utilitarianism), nhưng những cố gắng của họ chỉ là vô vọng.

Những dòng nhạc của thế hệ trẻ như Việt Khang và nhất là bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” của cô giáo Trần Thị Lam chứng minh hùng hồn rằng, nền văn hóa ngàn đời của dân tộc vẫn luân lưu mạnh mẽ trong tâm thức của toàn dân và khi mùa xuân dân chủ khởi động, thì vươn lên như những đóa hoa sen, từ chốn bùn nhơ nhớp xã hội chủ nghĩa, đem lại hương thơm và tô điểm sắc màu cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Tuy nhiên, bài thơ đầy cảm xúc này không những khẳng định tình trạng tồn vong mong manh và nghiêm trọng của đất nước mà còn nêu ra những vấn nạn cần giải đáp.

Phân Tích:

Khi chúng ta phân tích bài thơ này, chúng ta sẽ có những nhận định như sau:

Bốn chương (khổ thơ) đầu trên hình thức là những câu hỏi, nhưng một cách mặc thị (implicit) là những khẳng định (affirmations) về tình trạng bi thương của đất nước dưới chế độ CSVN.

Chẳng hạn tuy có 4 ngàn năm văn hiến mà vẫn cam chịu nhục nhằn trước bất công từ bạo quyền, những tượng đài tôn sùng cá nhân hoang phí trong khi khinh bỉ mạng người, guồng máy thống trị tham ô và vô trách nhiệm đưa đến cái chết thê thảm của môi trường thiên nhiên, và nợ công chồng chất ngập đầu các thế hệ hiện tại lẫn tương lai.

Chương cuối cùng chỉ có 4 câu thơ nhưng hàm chứa 2 câu hỏi quan trọng:

  1. Một câu hỏi mặc thị (implicit): Lý do vì đâu đất nước nên nông nỗi này?
  2. Câu hỏi minh thị (explicit): Đất nước rồi sẽ về đâu anh?

Sau cùng thi sĩ tha thiết kêu gọi “Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu?”

Như một người công dân có trách nhiệm, tôi xin đáp ứng lời kêu gọi ấy và trả lời như sau.

Giải thích nguyên nhân:

Theo quan điểm của tôi, nguyên nhân gây ra tai họa cho đất nước rất nhiều, nhưng tựu trung có 2 tai họa lớn lao nhất:

Một là ngọn gió độc giáo điều ý thức hệ (ideological dogmatism) và

Hai là hiện tượng quái thú định chế hóa cực đoan (extreme institutionalization).

Đây là những ý niệm tương đối trừu tượng, nhưng thảm họa chúng gây ra cho dân tộc vô cùng hiện thực và chúng ta cần tìm hiểu (investigate), nhận diện (identify) và dứt khoát loại bỏ ra khỏi nền văn hóa, tâm thức và hiến pháp của dân tộc trong tương lai.

  1. Ý thức hệ giáo điều:

Trước hết khái niệm “giáo điều ý thức hệ” (ideological dogmatism), hoặc “ý thức hệ giáo điều” (dogmatic ideology) không đơn giản và nhiều người, kể cả tôi, đã tốn nhiều giấy mực để viết về khái niệm này. Tuy nhiên, trong phạm vi hôm nay, tôi xin mạn phép đơn giản hóa, dùng văn xuôi và một số hình ảnh vẽ lên một bức tranh ý niệm hầu chuyên chở đến độc giả.

Nếu chúng ta coi dân tộc Việt Nam như một thực tại thì chúng ta có thể mường tượng thực tại đó như một dòng sông tư tưởng và tình tự (a river of thoughts and feelings) luân lưu từ thủa bình minh của lịch sử cho đến bây giờ và vươn tới tương lai. Đó là một thực tại vô cùng sinh động bao gồm 2 yếu tính. Một là “hằng” và hai là “chuyển”. “Hằng” là có một bản sắc riêng biệt bất biến làm cho chúng ta nhận diện rõ đây là dân tộc Việt chứ không phải một dân tộc khác. “Chuyển” là luôn thay đổi, từng phút, từng giây, như ý nghĩa chuyển dịch của dịch lý hay trong thuyết tiến hóa của Darwin.

Những tư tưởng và tình tự trong dòng sông thực tại có thể ví như các loài thủy tộc, các giọt nước li ti, các loài thủy sản , rong rêu và muôn triệu vi sinh nương tựa vào dòng sông để sinh tồn và hài hòa phát triển.

Ý thức hệ giáo điều có thể được định nghĩa như một cấu trúc trí năng (an intellectual construct) giam hãm tư tưởng con người vào một khung sườn cố định và tước đi sự sống cũng như tính sáng tạo của tư tưởng tự do. Lịch sử loài người đã từng trải qua rất nhiều ý thức hệ giáo điều, nhưng hiện đại nhất của nhân loại ngày hôm nay là các ý thức hệ Mác- Lê và Hồi Giáo cực đoan.

Các ý thức hệ giáo điều này có thể ví như những cơn lạnh cực kỳ lớn lao, trùm lên dòng sông thực tại của những dân tộc dưới vòng kiềm tỏa của chúng, biến toàn thể dòng sông và những sự sống trong dòng sông thành băng tuyết. Tuy dưới mắt của một đệ tam nhân, hình ảnh của dòng sông, các loài thủy tộc và thủy sản vẫn còn, nhưng dòng sông đã mất sự sống chân thực.

Các xã hội dưới sự khống chế của các ý thức hệ giáo điều như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hôm nay đều bi đát như thế…

… Đảng CSVN cũng như tất cả các đảng cộng sản từ Âu sang Á, từ trước đến giờ, cùng với các đảng Đức Quốc Xã và Phát Xít độc tài, đều là những con quái thú, hậu quả của tiến trình định chế hóa cực đoan và ăn tươi nuốt sống nhà nước lẫn xã hội dân sự.

Nhân dân Việt Nam bất hạnh lớn lao vì hoàn cảnh lịch sử đã biến dân tộc thành nạn nhân gần một thế kỷ của cơn lạnh vĩ đại ý thức hệ giáo điều Mác Lê và con quái thú định chế cực đoan mà đảng CSVN là hiện thân trung thực…

… Nếu chúng ta hóa giải cơn lạnh ý thức hệ giáo điều, nhổ răng và móng vuốt của quái thú định chế hóa cực đoan, thì với bàn tay và khối óc được tôi luyện qua chiều dài nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt sẽ hồi sinh.

Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ đạt được nhanh chóng chiều cao thực sự của mình, trong cộng đồng nhân loại văn minh”.

(Trích bài của LS Đào Tăng Dực)

*

Trích bài Vài Lời Biện Minh Cho Cô Giáo Trần Thị Lam của Phạm Đức Nhì

“Tuần vừa qua bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? của cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh được rất nhiều người đọc ở hải ngoại ca ngợi. Tôi nhận được một email cho biết đã có 6 nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ. Tôi đã nghe nhạc, đọc thơ và rất xúc động.

Tôi có người bạn làm ăn khá thành công ở Mỹ. Mấy năm gần đây về Việt Nam hùn hạp đầu tư địa ốc. Gặp tôi tháng trước nó than: “Dành dụm được chút vốn dưỡng già bị thằng em họ lừa lấy hết. Giờ lại trắng tay”. Tôi chửi nó “Mày hơn sáu chục tuổi rồi mà khờ như đứa con nít; làm ăn cứ nắm lưỡi còn để người ta nắm cán”. Vợ nó chĩa vào “Chỉ khờ mấy năm nay thôi, chứ sáu chục năm trước ông ấy khôn như rận váy”. Tôi không phân định rạch ròi như vợ người bạn nhưng tự nghĩ câu chửi của tôi chẳng có gì sai sót cả. Làm thơ thỉnh thoảng tôi cũng nhận trong người mình có dòng máu của bà Triệu, bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung để có thêm tự tin, hào khí nhưng cũng có khi tôi bước vào trận chiến đơn thân độc mã (giả vờ quên hết những nhân vật lịch sử kia) để lúc chiến thắng có thể mạnh tay vỗ ngực tự hào. Trường hợp cô giáo Trần Thị Lam tặng thêm 4 ngàn tuổi cho mỗi người Việt Nam để làm nổi bật sự thơ dại, yếu đuối của họ trước chính quyền, theo tôi, hoàn toàn hợp tình hợp lý. Đó là một trong những quyền căn bản của thi sĩ.

… Về hình thức, bài thơ được viết theo thể Thơ Mới trường thiên, gồm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu thường là 8 chữ nhưng khi cần cũng được thay đổi một cách tự nhiên, vần trắc liên tiếp ở câu 2 và câu 3.

Về nội dung, bài thơ có 5 đoạn nhưng hồn cốt nằm ở đoạn thứ nhất:

Đất nước mình ngộ quá phải không anh?

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Cái “ngộ” lớn nhất là đất nước mình đã 4 nghìn tuổi mà “dân không chịu lớn”. Ở đây cô giáo đã sử dụng một ẩn dụ thật hay – ví người dân Việt nam như đứa bé chưa rời vú mẹ, vẫn còn bú mớm vì “Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi”. Lời lẽ của đoạn thơ rất đúng, rõ ràng và trong sáng, không cần và cũng không thể giải thích gì thêm nữa. Chúng như một lưỡi dao dài và sắc đâm thẳng vào trái tim mỗi người Việt Nam. Bạn là người Việt Nam ư? Nếu có chút kiến thức, còn chút lương tri, danh dự khi đọc những dòng thơ này đều sẽ tự động cúi đầu nuốt nhục.

Cái hay, cái tài của cô giáo Trần Thị Lam là lời lẽ của cô vừa chân thật vừa nhẹ nhàng, khéo léo nên lưỡi dao của cô đâm nát tim gan của không biết bao nhiêu người - từ người dân bình thường đến đám đông tự xem mình là sĩ phu yêu nước -  nhưng họ không những không thể nào ghét cô được mà nhiều khi còn quý mến, kính trọng, cảm phục cô nữa.

Những bất công lớn trong đất nước mình được cô giáo liệt kê ở những đoạn thơ sau:

Bất Công Đến Lạ Lùng

Đất nước mình lạ quá phải không anh?

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

Cái bất công đầu tiên là “Sinh mạng con người chỉ bằng cái móng tay” nhưng người ta lại vung hàng nghìn tỉ vào những dự án, những công trình phù phiếm, không phục vụ lợi ích của người dân. Mà điều lạ là không ai nhận lãnh trách nhiệm, hậu quả về việc phí phạm tài sản chung đó.

Bất Công Đến Buồn Thảm

Đất nước mình buồn quá phải không anh?

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

Tài nguyên của quốc gia cạn kiệt, một phần bị khai thác phí phạm để quan chức bỏ túi riêng, một phần lãnh đạo ngậm miệng ăn tiền để ngoại bang tự tung tự tác.

Bất Công Đến Đáng Thương

Đất nước mình thương quá phải không anh?

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

Nợ công chồng chất trong khi giới lãnh đạo chóp bu mỗi người có tài khoản hàng trăm triệu, nhiều người hàng tỉ đô la ở ngân hàng ngoại quốc. Số nợ công to lớn ấy sau này lại đè nặng trên lưng, trên vai của con cháu chúng ta.

Đất Nước Sẽ Về Đâu?

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Cuối cùng là câu hỏi đau xé ruột cho mỗi người Việt Nam: “Đất nước sẽ về đâu?”

Khi đọc những đoạn sau nếu độc giả thấy dậy lên trong đầu mình một câu hỏi thì cứ quay lại đoạn đầu. Đó là phần quan trọng nhất, đoạn hay nhất của bài thơ; nó là nguyên nhân, là câu trả lời cho những câu hỏi “Tại Sao?”

dat-nuoc-minh-ngo-qua-phai-khong-anh-tin8-5… Tóm lại, Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh là bài thơ rất hay. Hình thức tương đối phóng khoáng tuy không có gì mới lạ lắm. Nhưng nội dung thì không chê vào đâu được; những “bất công” (đoạn 2+3+4 hỗ trợ cho đoạn 1) được chọn lựa kỹ, có tính điển hình, ngôn ngữ chính xác mà gợi cảm, tứ thơ cô đọng, sâu sắc, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, đặc biệt phép ẩn dụ ở đoạn 1 thật tuyệt vời. Đọc xong, thi vị của bài thơ - nỗi bàng hoàng đau đớn - vẫn còn vương vấn mãi trong tâm hồn.

Có thể nói đây là bài thơ của một người Việt Nam chửi con người Việt Nam tàn tệ nhất, xúc phạm đến danh dự người Việt Nam nặng nề nhất. Điều đáng nói là hàng bao nhiêu triệu người bị chửi - đặc biệt là những người góp phần to lớn tạo ra những bất công, những trí thức khoa bảng, nhà văn nhà thơ - đều cúi mặt ngậm tăm. Tại sao vậy? Vì bài thơ chửi đã hội đủ 5 điều kiện sau đây:

1/ Chửi đúng điều đáng chửi: những kẻ bị chửi không cãi vào đâu được.

2/ Chửi “nặng” nhưng lời lẽ nhẹ nhàng, khéo léo: chửi sỗ sàng, ngoa ngắt quá thì chúng coi là đồ hạ cấp, không thèm để ý, không thèm nghe; chửi nhẹ quá thì không đủ ép – phê

3/ Chửi “đúng thời vụ”: nhân vụ xả độc ở Vũng Áng, cá chết lền khên, gây thảm họa môi trường, toàn dân Việt và cả thế giới quan tâm.

4/ Chửi bằng tấm lòng chân thật: cảm xúc dạt dào.

5/ Chửi hay: tứ thơ hay quá, ẩn dụ tuyệt vời, càng đọc, càng nghe, càng ngẫm nghĩ càng thấm

Kết Luận

Chỉ cần tứ thơ, hồn thơ thấm vào tim một phần trăm (1%) dân số Việt Nam khiến họ không thể chịu được nỗi nhục nhã ê chề, đứng lên kêu đòi thay đổi thì chúng ta sẽ có cả gần một triệu người dấn thân, tạo thành một làn sóng, một phong trào, nước Việt mến yêu của chúng ta sẽ có cơ may thoát khỏi tình trạng bi đát hiện nay. Nếu được như thế bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? sẽ hiên ngang bước vào văn học sử và cô giáo Trần Thị Lam sẽ trở thành một anh hùng lịch sử của dân tộc Việt.

Mong được như thế lắm thay!.

(Trích bài của Phạm Đức Nhì)

*

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của Trần Thị Lam được các nhạc sĩ cảm hứng và sáng tác thành nhiều ca khúc được phổ biến trên internet. Cũng như bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách của nhà nhơ Tản Đà đã được nhiều bài họa.

Bài họa của Vĩnh Đường:

Hôm nay rảnh rỗi ngồi đọc lại bài thơ của cô Trần Thị Lam và nảy ý họa lại. Bài thơ này đã được khá nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và truyền bá khắp nơi. Khi họa lại, Vĩnh Đường chợt nảy ý là phải họa làm sao cho mỗi chữ bằng trắc trong câu phải thật ăn khớp với nguyên tác để khi hát, người hát có thể lấy bài thơ họa này để dùng làm liên khúc với thi phẩm được phổ mà không cảm thấy trúc trắc gì khi trình diễn. Tuy nhiên, vì không hiểu biết nhạc lý và vì thời gian có hạn nên sai sót chắc chắn là không thể tránh khỏi. Mong quý độc giả và thân hữu thẳng thắn góp ý khi thấy đoạn nào không ổn để Vĩnh Đường chỉnh sửa lại cho được hoàn hảo hơn. Xin chân thành đa tạ quý vị. Trân trọng. Vĩnh Đường

Lãnh Đạo Mình Nhục Quá Phải Chăng Em

“Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em

Đã ngần tuổi mà sao chưa được lớn

Đã ngần tuổi mà vẫn thèm sống mớm

Hiến cả núi sông để yên kiếp tôi đòi !

Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em

Những dải đất xưa vô vàn kiều vỹ

Chẳng ngại bán, đền nợ nần hàng tỉ

Dâng nạp cho Tàu chỉ qua cái ngoéo tay!

Lãnh đạo mình tồi quá phải chăng em

Bản Giốc, Hoàng Sa, thác ngà núi biếc

Giờ đã mất, nằm sõng soài như chết

Để Tiên Rồng ngùi nhớ nước non xa !

Lãnh đạo mình ngu quá phải chăng em

Mỗi tấc đất giang san chẳng nhọc nhằn ra công giữ lại

Xương máu ông cha ta ngút dài thế kỷ qua đem vun trải

Chẳng biết noi theo, toàn cam cảnh phủ đầu !

Lãnh đạo mình mà vẫn hèn thưa em

Dân ta sống muôn đời sau khó được

Khi Hán tặc kè bên, cứ vờn sau, vờn trước

E chóng chầy gì tổ quốc chẳng còn đâu!

Trả lời bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh” của Cô giáo Trần Thị Lam, Hà Tĩnh của anh Lê Đức Luận ở Miền Đông Hoa Kỳ:

“Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “ngộ”

Tiến sĩ đầy đường mà đảng ta vẫn dốt

Liệt sĩ, anh hùng đếm hoài không hết

Biển, đảo mất dần chẳng biết làm sao?

Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “lạ”

Biển bạc, rừng vàng dân mình vẫn khổ

“Cá chết trắng bờ bởi dân mình ra đái

Chứ phải nào đâu hóa chất của Tàu” (1)

Ừ! Đất nước mình “buồn” quá em ơi!

Biển bạc, rừng xanh dân nào được hưởng

Chúng nó bán rừng, rồi dâng luôn biển đảo

Một mai đây nước Việt sẽ không còn…

Ừ! Đất nước mình “thương” quá em ơi!

Đứa trẻ sơ sinh ăn nhằm sữa độc

Mảnh áo tả tơi, tấm thân gầy guộc

Bây giờ đã thế, sao dám nghĩ tương lai

Ừ! Em đi hỏi: “người sau, kẻ trước”

Còn anh đây sẽ đi hỏi đảng: “Cớ sự làm sao bi đát thế này?”

Em cứ hỏi: “người trước, kẻ sau”

Anh sẽ hỏi Trời cao, Đất rộng: “Đến chừng nào Đảng được đem chôn?”

Nhưng xin Em đừng hỏi: “Đất nước sẽ về đâu?…”

Mà hãy hỏi: “Khi nào ta đứng dậy?…”

(1).- Có tin đồn nói ra như vậy để làm mờ bớt tội lỗi của nhà máy luyện thép Formosa.

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của cô giáo Trần Thị Lam được đăng lên Facebook vào 8 giờ tối  ngày 25.4.2016. Hôm sau công an Hà Tĩnh đã mời cô giáo Lam lên trụ sở “làm việc” và   áp lực cô phải rút bài thơ này xuống. Mặc dầu sau đó bài thơ bị rút xuống, nhưng đã quá trễ, bài thơ được phổ biến rộng rãi khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại, và chắc chắn sẽ còn lưu lại trong lòng người Việt Nam trong một thời gian rất dài như một dấu tích của một giai đoạn đau thương nhất của đất nước VN.

Giáo viên giỏi cấp tỉnh và gắn bó với trường gần 20 năm nay, trao đổi với VietNamNet, cô giáo Lam cho hay, đây là bài thơ được sáng tác theo cảm hứng nhất thời chứ không nhằm mục đích nào khác. Do sức ép dư luận, trong ngày 27/4, cô giáo Lam đã xóa bài thơ và tự khóa Facebook cá nhân của mình. Hiện nay, cô đã mở tài khoản trở lại.

Như đã đề cập ở trên, trước thực trạng xảy ra vụ cá chết bởi nhà máy luyện thép Formosa, người dân phẫn nộ nên biểu tình chống đối bị CSVN đàn áp thẳng tay cho thấy chế độ độc tài đảng trị chỉ biết tham nhũng trục lợi, thối nát và hại dân!

Chúng ta sống trên mảnh đất tự do mà bỏ đi “căn cước” tỵ nạn Cộng Sản mà quay lưng với nỗi thống khổ xảy ra tại quê nhà thì “bức dư đồ rách” nầy càng ngày càng tả tơi!

Lão Trượng

 

Views: 997

Hèn!

Lê Văn Tư

Nhà văn Nguyễn Minh Châu (hàm đại tá quân đội), trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, báo Văn nghệ số kép 49-50 ra ngày 5-12-1987: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn”.
Ông Trần Hưng Quốc thú nhận: “Tôi cũng mong một ngày nào đó tôi hết hèn, dám chê đảng một cách thẳng thắn, chính trực mà không phải dùng tên nặc danh thế này. Chứ bây giờ, nghĩ đến đảng là tôi đã run lên như cầy sấy rồi, sợ cái cảnh phải như các anh Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, …” (Bài Trò chuyện cùng ông NT).

tohaithanghen
Tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Nụ cười sơn cước, nhạc sĩ Tô Hải viết tự truyện «Hồi ký của một thằng Hèn», trong đó ghi nhận: «Tất cả nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, nhà kịch, nhà nọ, nhà kia, … đến nay còn bám cái vú đảng đều là … thằng Hèn! Riêng những thằng kiếm chác bằng cách bợ đít, bưng bô cho đảng … thì chữ hèn đối với chúng cũng không xứng đáng!».
Có thể coi định nghĩa chữ hèn của Tô Hải là khá «ấn tượng» (bám vú, bợ đít, bưng bô) và hoàn chỉnh, vì hễ ai hèn thì đều bị khinh khi, gọi bằng thằng (giống như «Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.»), chớ không gọi bằng ông hay một danh xưng nào khác.
Theo giáo sư Nguyễn Đình Cống: «Cái sai rõ ràng nhiều người thấy mà mình không thấy thì mang tội u mê, nếu thấy rồi mà không dám nói thì mang tội hèn.», ông nói rõ: «Trừ một số rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay các vị trí thức có một chút dũng cảm vừa phải nào đó, dám nói một cách trung thực ý kiến của mình không đồng ý với lãnh đạo tại các cuộc họp công khai của Quốc hội, của Chính phủ, còn lại phần lớn là hèn.».
Tổng quát, hèn được ông phân làm 3 mức độ:
A- Hèn nhất là loại xu nịnh, luôn tìm cách ca ngợi, chứng minh đã là lãnh đạo, là có quyền thì luôn luôn sáng suốt, bao giờ, cái gì cũng đúng.
B- Hèn vừa vừa là loại mũ ni che tai, có biết có thấy sự thật sai trái nhưng sợ quá, không dám nói, chỉ lo làm tròn bổn phận.
C- Hèn ít, nhưng vẫn cơ bản là hèn, đó là loại hơi có một chút trung thực, dám nói nhưng chỉ nói ở trong nhà, nói giữa vài ba người bạn, nói mà không muốn cho nhiều người nghe được, càng không dám nói cho cấp trên nghe, sợ bị liên lụy.»
Ông đặt tên những trí thức hạng C là «một lũ chó sủa vườn hoang» và tự xếp mình vào hạng đó.
Thật sự mà suy, giống như sám hối hay xưng tội được giải tội, những ai dũng cảm công khai cái hèn của mình rồi thì không còn hèn nữa, như nhạc sĩ Tô Hải từ bỏ đảng cộng sản ngay sau ngày gọi là thống nhất đất nước, phơi bày cuộc đời nhẫn nhục trong sách «Hồi ký của một thằng Hèn», hay giáo sư Nguyễn Đình Cống đã công khai «thông báo từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 03 tháng 02 năm 2016. Yêu cầu tổ chức Đảng xóa tên tôi khỏi danh sách.» ngay sau ngày kết thúc đại hội XII.
Theo các chuẩn mực trên, thành phần thứ ba ở miền Nam trước 1975 đều thuộc hạng u mê kế đến là hèn, mức độ hèn có thể giảm dần theo thời gian.
U mê vì chống chế độ miền Nam một cách điên cuồng nhưng không lượng định được hậu quả tai hại ra sao như trong bài “Sặc mùi cộng sản”, Nguyễn Ngọc Lan viết: “tôi cũng xin cương quyết lặp lại, bao lâu còn gót giày lính Mỹ nện trên quê hương này, còn chống Mỹ cứu nước. … điều độc nhất đáng kể đối với chúng ta là toàn dân ta đều cần cơm mà sống, vốn cần cơm mà sống, sẽ còn cần cơm mà sống. Mỹ không ăn cơm thì đi chỗ khác chơi.” (Báo Tin Sáng số 733, 27-8-71).
U mê vì hậu thuẫn cho việt cộng nhưng chẳng hiểu gì về cộng sản như Lý Quý Chung thú nhận trong cuốn Hồi ký không tên: “Sự mù tịt về “Việt cộng” và sự thiếu hiểu biết sâu sắc về mục tiêu lý tưởng đấu tranh của “những người ở bên kia nửa phần Tổ quốc””.

U mê vì bị cộng sản giựt dây mà cứ tưởng mình đóng vai trò chủ động như linh mục Chân Tín đóng vai chủ tịch ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù, nhưng tổng thư ký là sinh viên Việt Cộng Trần Văn Long.
Họ lợi dụng tự do ngôn luận để ra báo chống đối chế độ như lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan (báo Đối Diện), lm Trương Bá Cần (báo Công giáo và Dân tộc, tựa đề có công giáo nhưng không thuộc giáo hội), Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận (tờ Tin Sáng), Lý Quý Chung (Tiếng nói dân tộc), Hồng Sơn Đông (Điện Tín), …
Họ lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, một số sư sãi (Trí Quang, Quảng Long, Huỳnh Liên, …), linh mục (Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, …) dùng các nơi thừa tự để tập họp, tuyên truyền xách động quần chúng, chứa chấp bọn nằm vùng.
Họ lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra các tổ chức chống chế độ như Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù của lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phong trào bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ đứng đầu, Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống của bà Ngô Bá Thành, Phong trào dân tộc tự quyết của luật sư Nguyễn Long, Lực lượng hoà giải dân tộc của luật sư Trần Ngọc Liễng , Mặt trận Nhân dân cứu đói của đại đức Thích Hiển Pháp.
Họ lợi dụng quyền bất khả xâm phạm để công khai ủng hộ những kẻ gây hỗn loạn trật tự công cộng, bao che việt cộng như các dân biểu Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, …, đặc biệt là tướng Dương Văn Minh “Xét về “gốc tích” thành phần của nhóm ông Minh… lộ ra sau 1975, … Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTDTGPMN như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh mục Lan, luật sư Liễng…”. (Lý Quý Chung kể trong cuốn Hồi ký không tên).
Ngay sau ngày 30/4/1975, mọi tờ báo đều bị đóng cửa, các tổ chức trên hay cái gọi là thành phần thứ ba đều bị khai tử không kèn không trống, chẳng thấy có một phản ứng nhỏ nhoi nào, điều này xác nhận họ hầu hết chỉ là công cụ giai đoạn của cộng sản, một số đã từng vào mật khu như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân, …) hay được móc nối như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, …
Tùy theo công trạng đóng góp cho “cách mạng (!)” mỗi cá nhân được thưởng công, khỏi đi tù cải tạo như Dương Văn Ba hay một số dưới trướng Dương Văn Minh, cho làm đại biểu quốc hội (Ngô Bá Thành, Lý Chánh Trung, Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, …), phần lớn được phong các chức hàm trong mặt trận tổ quốc, trong các hội đồng nhân dân, thậm chí còn cho ra báo trở lại như bán nguyệt san Đứng Dậy của lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, nhật báo Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, nhưng rồi lần lượt đều bị đóng cửa (gọi tự ý đình bản năm 1978, hay “hoàn thành nhiệm vụ” năm 1981).
Qua giai đoạn u mê, họ bước qua giai đoạn hèn, một số tiếp tục tâng bốc chế độ độc tài như Hồ Ngọc Nhuận: “Đặc biệt, tháng 9-1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong “Đoàn đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp thương Thống Nhất”. Khi trở về, trong bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết: “Chúng tôi tin rằng, độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội” (1), như Lý Chánh Trung (1985): “Tuy không phải là người Cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi cho rằng chỉ chủ nghĩa Cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước.” (bài Làm và tin), có người ca tụng cuộc sống người dân miền Bắc một cách lố bịch đến độ “Họ bảo nhau: “bao nhiêu năm trời bọn mình đã phải khốn khổ vì thiếu đói, vì chế độ tem phiếu, bây giờ tự dưng một gã làm báo từ Sài-gòn chân ướt chân ráo ra đây rồi thanh minh, biện hộ, ca tụng cái thiếu đói ấy. Rõ khỉ!” (Hà nội tôi thế đó -Nguyễn Ngọc Lan)
Đến năm 1988 thì hơi thức tỉnh, Lý Chánh Trung viết trên báo Tuổi trẻ: “Triết học Mác Lênin là môn chẳng ai muốn học, mà cũng chẳng ai muốn dạy”, “Tôi (2) nghe thiên hạ đồn rằng bây giờ ông bạn giáo sư đang bị “rét”, vì bị Tổng bí thư ” xát xà bông” làm sao đó. Sự thực ra sao vậy?” Anh Trung liền trả lời : “Quả là bây giờ có sự Đổi mới rồi, chứ nếu không, thì mình bị “lấy mất cái đầu đi rồi” đấy!”, một số ngậm miệng làm thinh như Nguyễn Ngọc Lan (chuyên viên chơi chữ), có ai hỏi ” bây giờ đang làm gì?” – tác giả tỉnh queo đáp ” làm thinh” (theo Thế Phong kể), Kiều Mộng Thu thì kể như câm miệng hến luôn.
Điều trớ trêu là những người cả tiếng tranh đấu cải thiện chế độ lao tù ở miền Nam, năm 1990, lm Chân Tín được chế độ mới cho đi an trí 3 năm ở tại xã Cần Thạnh, huyện Duyên Hải cách trung tâm thành phố 70 cây số, Nguyễn Ngọc Lan bị quản thúc tại gia 3 năm ở Sài Gòn; sống dưới chế độ “Mỹ -Ngụy” (!) thì được cộng sản bảo vệ nên không hề chi (!) (3), đến khi được sống dưới chế độ cộng sản thì lại bị tông xe suýt toi mạng (4); trước 1975 thì viết báo công khai chống chính quyền, sau 1975 thì viết nhật ký (Nguyễn Ngọc Lan), Hồi ký (Hồ Ngọc Nhuận) để than thân trách phận cũng bị cấm in, phải ấn hành ở ngoại quốc, phổ biến chui vào trong nước, muốn bày tỏ bất mãn thì phải luồn lách, vận dụng ngôn từ, nói bóng nói gió như bài “Hà Nội tôi thế đó”, Nguyễn Ngọc Lan bị gán cho là ngầm tả oán chế độ (chữ tôi có thể ngầm hiểu thành tồi, thành tội).
Tại sao trước khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam thì họ tỏ ra hùng dũng thế mà giờ thì lại hèn hạ đến thế?
Câu chuyện cây quất trồng ở bắc sông Hoài thì ngọt, trồng ở nam sông Hoài thì chua (sứ giả Tề Án Anh đối đáp với Sở Linh Vương) giúp giải thích lý do, đó chẳng qua là chế độ cộng sản đã biến giới trí thức thuộc thành phần thứ ba ở miền Nam đã trở thành những thằng hèn như bao thằng hèn ở miền Bắc, bây giờ thì “hèn hóa” cả nước.
Ngẫm lại, lịch sử chỉ là sự tái diễn, giới trí thức miền Bắc năm 1954 cũng lâm cảnh y như vậy, chỉ sau thời gian ngắn chỉnh huấn, nhiều văn nghệ sĩ đã tự lột xác như:
– Nguyễn Tuân: “Khi đã tự mình vạch hết những lỗi lầm cũ, Nguyễn Tuân, con người xưa kia kiêu bạc bao nhiêu, nay đã chẳng nề hà lớn tiếng tuyên bố:
‘’Nhờ ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê của đảng mở mắt cho thấy rõ ý nghĩa và phương hướng của nghệ thuật chân chính sau mười ba năm, in cuốn sách đầu tiên, nay tôi nhận rõ giá trị của sự nghiệp văn chương cũ của tôi chỉ là một mớ sai lầm và tội lỗi. Cái mà tôi vẫn tự phụ là sự nghiệp đó chỉ là những tội lỗi mà nhân dân khoan hồng đã tha thứ cho để tôi chuộc tội từ nay bằng những sáng tác phục vụ được cho lợi ích cách mạng…’’
– Xuân Diệu: “nhà thi sĩ chuyên môn: ‘’Run với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây’’
Xuân Diệu đã vỗ ngực mà thề rằng: ‘’Bây giờ thì phải dứt!’’
Dứt thế nào? Chúng ta hãy nhận xét Xuân Diệu mới qua bài thơ làm sau kỳ chỉnh huấn:
Trước Đây Bốn Tháng
Trước đây bốn tháng, đến Trường
Hồn tôi nghiêng ngả, trí thường hoang mang,
Đường đi quên ánh sáng vinh quang
Bạn thù lẫn lộn, trái ngang cảm tình
Kéo dài tâm trạng lênh đênh
Sống mà lắm lúc như mình bỏ đi.
Hôm nay hết học kỳ chỉnh đảng
Thấy bốn phương trời ánh sáng ùa vào
Bước đầu tuy chửa là bao
Nhưng nghe đã rộng, đã cao vô ngần!»
… (5)
Tương tự, giới họa sĩ như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Văn Tỵ,… giới nhạc sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Yên, … đều tự lên án mình, nguyện trung thành với đảng, phục vụ giai cấp công nông. (5)
Cái ưu việt của đảng cộng sản là biến cả một dân tộc không hề biết khuất phục trước ngoại bang đành an phận đớn hèn trước kẻ thống trị trong nước.hencaption 2
Hãy nghe Thái Bá Tân luận về thân phận giới trí thức dưới chế độ cộng sản:
Thương cái thằng trí thức,
Mặc dù chúng khá đông,
Không được thành giai cấp
Như hai bác công, nông.
Mà thằng này lạ lắm.
Phải nói cực kỳ hiền.
Lại nhũn nhặn, lễ độ,
Đến mức tưởng hắn hèn.
Thế mà hắn bị ghét,
Bị coi là cục phân,
Dù hắn ăn mặc đẹp
Và sạch hơn nông dân.

Lê Văn Tư

____________________

Ghi chú:
(1) Bên thắng cuộc của Huy Đức
(2) Đoàn Thanh Liêm -người cùng nhóm với Lý Chánh Trung trước 1975
(3) Tôi nhớ, ở chiến khu, Bí thư T.Ư Cục – anh Phạm Hùng có lần bảo tôi chú ý bảo vệ Nguyễn Ngọc Lan, nghe đâu ông đi lại bằng một chiếc xe gắn máy cũ kỹ, rất dễ bị ám hại. Tôi truyền đạt ý trên cho anh Tạ Bá Tòng, người trực tiếp liên hệ với Nguyễn Ngọc Lan, (bài Tiễn biệt anh, anh Nguyễn Ngọc Lan của Trần Bạch Đằng: http://thanhnien.vn/thoi-su/tien-biet-anh-anh-nguyen-ngoc-lan-386749.html)
(4) Nhật Ký của Nguyễn Ngọc Lan của Minh Võ: “Đầu tháng 5 năm 1998 NNL chở Linh Mục Chân Tín trên xe gắn máy tới viếng Nguyễn Văn Trấn tức Bảy Trấn vừa qua đời, thì bị xe tông bị thương nặng, suýt chết. Theo lời tường thuật của ông sau đó ít lâu thì rõ ràng người ta đã âm mưu ám hại ông.”
(5) Việt Nam máu lửa của Nghiêm Kế Tổ

Views: 742

Phường chèo tại rạp Ba Đình Hà Nội

Lê Văn Tư

Kỳ họp Quốc hội khóa 13 tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 21 tháng 3, 2016

Sau đại hội XII đảng cộng sản ngày 28/1/2016, ba nhân vật chóp bu (bộ tam sênh) mới được chỉ định (Nguyễn Thị Kim Ngân, Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc) vào các chức vụ nổi (chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước và thủ tướng), họ sẽ thay thế ba nhân vật hết thời (Nguyễn Sinh Hùng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng).
Thông thường ai cũng tưởng việc thay thế này sẽ diễn ra sau khi có quốc hội mới dự trù được bầu vào tháng 5/2016, nhưng nào ngờ việc thay thế này lại diễn ra vội vã ngay trong khóa họp cuối cùng của quốc hội hiện nay (21/3 – 12/4/2016), lý do chính thức nêu ra là «cần phải có đội ngũ nhân sự có trách nhiệm phân công bắt tay ngay vào công việc», hóa ra đội ngũ nhân sự cũ là vô trách nhiệm à?
Liệu có mấy người tin?
Theo giáo sư Nguyễn Đình Cống: «Tam trụ còn lại là việc của Quốc hội khóa mới, nhưng vì lý do nào đó mà Đảng không chờ được, phải thay ngựa giữa dòng. Việc này, người thì cho là đảo chính, người lại bảo là vi phạm hiến pháp. … Để cho có vẻ thuận chiều thì phải tạo ra việc Tam trụ đồng loạt xin từ chức. … Cả 3 vị đều ngậm ngùi bị buộc phải ngậm bồ hòn xin từ chức.»
Luật sư Lê Quốc Quân tự hỏi «lý do gì quan trọng đến mức mà Đảng có thể xổ toẹt lên tất cả Hiến pháp, công khai thể hiện quyền lực tối thượng một cách vô lối của mình bằng việc thúc ép “tam trụ” phải nghỉ. Lý do đó phải gấp đến mức buộc người ta phải phải bốc cá ăn ngay chứ không còn thời gian dùng nồi để nấu.» (bài «Miễn nhiệm là ‘đảo chính hợp hiến’?» -BBC 27 tháng 3 2016)
Cái tựa đủ chuyển tải quan điểm của tác giả, cũng có người cho sự thay đổi kiểu «chạy tang» này là bình thường, Gs Nguyễn Minh Thuyết dẫn Điều 74 và 88 của Hiến pháp, theo đó Quốc hội có thể miễn nhiệm chủ tịch nước và thủ tướng, và nhắc lại một số tiền lệ (sau Đại hội Đảng Cộng sản IX thì ông Nguyễn Văn An đã được giới thiệu để thay chức vụ của ông Nông Đức Mạnh vì ông Nông Đức Mạnh đã được bầu làm tổng bí thư, “Sau đó khi Đại hội Đảng X không bầu ông Nguyễn Văn An vào Bộ Chính trị nữa thì Quốc hội lại họp tháng 6 năm đó để bầu ông Nguyễn Phú Trọng thay ông Nguyễn Văn An, sau này bầu ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng thay cho ông Phan Văn Khải, ông Nguyễn Minh Triết làm chủ tịch nước thay cho ông Trần Đức Lương.”), ông cũng «cho rằng chuyện miễn nhiệm cũng hợp lý vì nếu không “chẳng lẽ thủ tướng, người đã không còn là ủy viên Bộ Chính trị, lại nhận lệnh của phó thủ tướng hay bộ trưởng là ủy viên bộ chính trị.”».
Điều lý thú là ông nhắc lại «cách đây ít năm khi Đại biểu Dương Trung Quốc đặt câu hỏi với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về khả năng từ chức của ông thì Thủ tướng cũng đã nói rõ ràng “Tôi không có chạy, không có xin mà Đảng phân công thì tôi làm.”
“Thế thì lần này Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam không bầu ông Nguyễn Tấn Dũng vào vị trí ủy viên Bộ Chính trị, không bầu ông Trương Tấn Sang vào ủy viên Bộ Chính trị và ông Nguyễn Sinh Hùng cũng tương tự. Như thế có nghĩa là Đảng đã không phân công các ông tiếp tục …»

Nói qua hiến pháp, nhắc lại tiền lệ chẳng qua là để thể hiện sự hiểu biết của một «trí thức» (học vị tiến sĩ, tước giáo sư), cuối cùng ông vẫn khẳng định đảng cộng sản là trên hết, muốn làm gì thì làm (thế là hết ý!).
Sự khẳng định này cho thấy đảng chà đạp hiến pháp, một sự vi hiến trắng trợn.
Họ bày trò miễn nhiệm, theo nghĩa thông thường, miễn nhiệm, tức «miễn chức cũng gọi là giải chức hay bãi chức, lột chức phận, không cho làm chức vụ nhà nước nữa.» (Tự điển Lê Văn Đức), theo Đại từ điển Tiếng Việt ở trong nước thì “miễn nhiệm” nghĩa là “không cho giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ”, như vậy «được miễn nhiệm» là «bị truất phế» vì một tội gì đó cần phải được nêu rõ trong cáo trạng, còn ở đây, tội của họ là bị đảng loại ra khỏi bộ chính trị, khoản tội này như một điều luật bất thành văn, mọi đảng viên phải tuân thủ, dĩ nhiên các đại biểu quốc hội không thể làm khác (con rối là ở chỗ đó!).
Ngoài sự vi hiến, việc bầu những người thay thế còn là điều phi lý, đó là quốc hội cũ lại bầu những người chưa là đại biểu quốc hội, theo hiến định: “Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch Quốc hội (điều 83), tức chủ tịch của một quốc hội chưa có, một quốc hội gồm những đại biểu ma (quái đản!), Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội (điều 87), Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội (điều 98)”.

Không những bầu bộ tam sênh, họ còn miễn nhiệm và bầu mọi chức chưởng khác trong cơ cấu quyền lực như các phó chủ tịch quốc hội, phó chủ tịch nước, các ủy viên ủy ban thường vụ quốc hội, chủ tịch hội đồng dân tộc, chủ nhiệm các ủy ban của quốc hội và tổng kiểm toán nhà nước, …, có nghĩa là họ được cho đắc cử trước khi được dân bầu (khôi hài!), từ đó có thể suy ngược lại là số phận hẩm hiu dành sẵn cho ai đã bị miễn nhiệm và không được bầu vào một chức vụ nào khác, quốc hội như thế rõ ràng là một cơ cấu tiền chế, chức danh đại biểu quốc hội được coi như phần thưởng dành cho những kẻ trung thành với đảng, chấp nhận làm thân khuyển mã gọi dạ bảo vâng.
Đây là một tiền lệ nguy hiểm vì từ nay, đảng muốn truất phế ai thì chỉ cần loại tên đó ra khỏi bộ chính trị hay ban chấp hành trung ương, quốc hội căn cứ vào đó làm thủ tục miễn nhiệm và bầu bất cứ một tên nào khác thay thế bất kể là có là đại biểu quốc hội hay không?

muaroiTừ đầu chí cuối toàn là độc diễn, vậy mà cũng bày đủ trò «thông qua danh sách ứng cử, nghị quyết, biểu quyết, kiểm phiếu, công bố kết quả, …», mọi diễn tiến y hệt một vở phường chèo, các diễn viên gọi là mới lại toàn là đào kép cũ xào đi xào lại, như vậy thì còn hòng gì có sự thay đổi, nên chẳng mấy ai tin lý do viện dẫn, đúng như nhận xét của tướng Trần Độ: “Nói thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. … Ôi, cay đắng thay!”. (Nhật ký rồng rắn)

Vậy thử suy đoán động cơ nào dẫn đến việc làm phi hiến, phi lý này.
Trong đại hội đảng, Nguyễn Phú Trọng đã thành công trong việc hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng, mọi diễn tiến hấp tấp hiện nay cho thấy Nguyễn Phú Trọng muốn dứt điểm Nguyễn Tấn Dũng càng sớm càng tốt, đồng thời cày sẵn người của mình vào guồng máy cai trị mới, cũng có thể loại nốt tàn dư của Dũng trong kỳ bầu quốc hội tới.
Liệu mọi chuyện có dễ dàng như vậy hay không?
Liệu quốc hội mới có chấp nhận một việc làm vi hiến trắng trợn này không?
Cứ theo logique mà suy thì sự căng thẳng giữa Dũng và Trọng đã âm ỉ từ lâu với cường độ ngày càng tăng, cao điểm là đại hội đảng vừa qua, cuộc quyết đấu chỉ kết thúc một mất một còn, tuy đang vị thế thượng phong, Trọng vẫn luôn nơm nớp lo sợ thế cờ bị lật ngược, việc đặt để Nguyễn Xuân Phúc (kẻ thân tín) làm thủ tướng cốt để chặt hết tay chân của Dũng ở các cơ quan hành pháp; vốn là tay mưu sĩ (từ bạch đinh vượt lên tận tột đỉnh vinh quang nào có vừa gì?) lại ôm mộng tranh bá đồ vương, cả chục năm trên chót cao thực quyền, Dũng tất đã ngầm tạo nhiều thanh thế, ơn mưa móc rưới ra cùng khắp, vây cánh hẳn hiện diện khắp nơi, cứ xem trước đây cặp Trọng – Sang muốn hạ bệ đồng chí X còn làm không nổi, ngay trong cuộc truất phế tại quốc hội hiện nay, số người chống miễn nhiệm Dũng cũng cao hơn Sang (68 phiếu [13,77 %] so với 26 phiếu, chiếm [5,26 %]) và chắc Dũng cũng thủ sẵn nhiều hồ sơ thuộc loại thâm cung bí sử của các đối thủ chính trị, chỉ chờ dịp tung ra, ngoài ra còn bao nhiêu của nổi của chìm cần phải được bảo vệ, do đó Dũng khó «thanh thản» ra đi như tuyên bố.
Màn giác đấu kế tiếp chắc hứa hẹn nhiều gay cấn!
Quốc hội mới có thể là đấu trường quyết liệt giữa hai phe Trọng – Dũng, sóng gió có thể nổi lên từ lúc ra ứng cử, tranh cử, kẻ mất thế quyền lực tất phải dựa vào sức mạnh của luật pháp, chống lại mọi áp đặt, đòi hỏi thực thi công bằng giữa các công dân, đặc biệt là giữa các ứng cử viên, đây là dịp các ứng cử viên độc lập, các phong trào đấu tranh dân chủ phải chuẩn bị đáp ứng mọi tình huống, phe Dũng muốn sống còn chắc phải dựa vào lực lượng dân chủ, một khi len vào được quốc hội, hình thành một khối liên minh độc lập, chừng ấy nghị trường không còn là mảnh vườn hoang cho phe độc tài mặc tình múa gậy, tùy theo tương quan lực lượng, quốc hội mới có thể bác bỏ mọi quyết định vi hiến của quốc hội trước, tức xóa bài làm lại, chế độ độc tài toàn trị coi như cáo chung, ứng với nhiều tin loan truyền: «đại hội XII là đại hội cuối cùng của đảng cộng sản».
Cùng tắc biến, biến tắc thông, hy vọng đã vươn lên!
God bless our country!

Lê Văn Tư

Views: 436

Quanh Đại Hội XII Đảng Cộng Sản Việt Nam

Lê Văn Tư

Viet_party_congress_640x360_getty_nocredit

Trong một đất nước dân chủ, việc quan trọng nhất đối với người dân là bầu cử vị lãnh đạo tối cao, để chọn mặt gởi vàng, mọi người phải biết chương trình hành động, khả năng thuyết phục của từng ứng cử viên, khuynh hướng chung của cử tri thể hiện qua các cuộc thăm dò dư luận, không khí tranh cử nhờ thế thật hào hứng, kết quả bầu cử được mọi người háo hức chờ đợi, khác hẳn với các nước độc tài độc đảng như Việt Nam, người dân không có quyền bầu người lãnh đạo thực sự của mình, việc hệ trọng này do đảng quyết định một cách bí mật, người dân bị cấm xía vô, mặc dầu hiến pháp (HP) ghi rõ: «Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân» (Điều 2 HP), HP như vậy chẳng khác gì tờ giấy lộn, người dân chỉ ăn bánh vẽ.
Như đại hội (ĐH) đảng cộng sản hiện nay, mọi quyết định sinh mệnh đất nước do một nhóm người thuộc đảng cộng sản thu hẹp trong bộ chính trị (BCT), hiện gồm 16 người, từ đó họ đưa ra 4 nhân vật nắm quyền trong guồng máy cai trị, được coi là tứ trụ triều đình (tứ nhân bang), đó là tổng bí thư (TBT), chủ tịch nước (CTN), thủ tướng (TT) và chủ tịch quốc hội (CTQH).
Theo HP: «Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.» (Đ 86), TT là người đứng đầu chính phủ, mà «Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp.» (Đ 94), cả hai đều do QH bầu và chịu trách nhiệm trước QH, nhưng vai trò của chủ tịch QH lại rất mờ nhạt: «Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; … » (Đ 72), tuy 3 nhân vật này được qui định trong HP nhưng thực quyền lại thuộc nhân vật thứ tư không có nêu danh trong HP.
HP ghi rõ: «Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.» (Đ 119) nhưng không có điều khoản nào dành cho tên thứ tư này cả, tức không có qui định trách nhiệm hay quyền hạn nào nhưng quyền uy lại bao trùm cả nước, đó là TBT đảng cộng sản.
Tưởng cũng cần nhắc qua về cơ chế quyền lực bắt đầu từ ĐH đảng, mỗi 5 năm họp một lần, kỳ này gồm 1510 đại biểu cấp cơ sở, đại diện cho 4,5 triệu đảng viên, họ bầu ra BCHTƯ gồm ủy viên chính thức và dự khuyết (180 ủy viên chính thức, 20 dự khuyết), «Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Uỷ viên Bộ Chính trị; thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Uỷ viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công và một số Uỷ viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương.» (Đ17 Điều lệ đảng); điểm cần ghi nhận là TBT trước hết phải là thành viên BCT, tức coi như được bầu 2 lần.
Thoạt nhìn tưởng là dân chủ lắm, nhưng kỳ thực mọi ủy viên trung ương và thành viên trong BCHTƯ, BCT, … đều được sắp xếp trước theo đúng tiêu chuẩn định sẵn, nhưng lần sắp xếp này có điều bất thường trong nhóm chóp bu, nhiều tin tức tiết lộ là có sự tranh chấp gay gắt giữa Nguyễn Phú Trọng (NPT) được BCT hậu thuẫn và Nguyễn Tấn Dũng (NTD) được BCHTƯ hậu thuẫn, việc hục hặc giữa 2 nhân vật này âm ỉ từ lâu, lộ rõ nhứt là từ khi BCT toan tính hạ bệ đồng chí X (ám chỉ NTD) trong hội nghị BCHTƯ 6 (tháng 10-2012) bằng biện pháp kỷ luật nhưng BCHTƯ lại không chấp thuận, khiến blogueur Trương Duy Nhất “đặt câu hỏi: “Tại sao cái tên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng- người bị BCT yêu cầu kỷ luật cũng không dám công khai, phải nói trại ra là “một đồng chí ủy viên BCT” như kiểu không dám gọi đích danh mấy loại tàu cướp của Trung Quốc mà phải gọi là “tàu lạ” vậy?» (trong bài tựa: Không nêu tên ‘đồng chí X’ là hèn hạ?), khiến ông Lê Đăng Doanh ngạc nhiên: «Điều đáng chú ý là, Bộ Chính trị đã 100% đồng ý là xin nhận khuyết điểm, và xin Ban Chấp hành Trung ương kỷ luật tập thể Bộ Chính trị và một thành viên, một Ủy viên của Bộ Chính trị. Điều đáng ngạc nhiên là sau đó, Ban Chấp hành Trung ương đã không đồng ý, cả kỷ luật Bộ Chính trị, cũng như kỷ luật «đồng chí».
Thật vậy, NTD không những chẳng bị hạ bệ mà còn được BCHTƯ xếp vào hàng được tín nhiệm nhứt (hơn cả Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng), theo kết quả đánh giá trong hội nghị 10 vào đầu năm 2015:

Nguyễn Tấn Dũng: 152 điểm tín nhiệm cao

Trương Tấn Sang: 149

Nguyễn Phú Trọng: 135

Nguyễn Sinh Hùng: 126

Sự kiện này xác nhận uy thế của NTD trong đảng hơn NPT, xét về mặt quyền hạn thì thủ tướng đứng hàng thứ 3 trong tứ trụ nhưng quyền lợi hơn hẳn mấy tên kia, nên hục hặc nhau cũng chẳng qua là trâu cột ghét trâu ăn, nhờ có phương tiện nên NTD mua chuộc được nhiều đàn em, gây thanh thế trong BCHTƯ, dựa vào đó mà nhiều nhà bình luận trong cũng như ngoài nước đều suy đoán là NTD nắm thế thượng phong trong cuộc tranh giành quyền lực hiện nay.
Nhưng nhiều tin tức tiết lộ gần đây, thế cờ đã đảo ngược, phe NPT đang thắng thế, áp đặt mọi rào cản ngăn chận phe NTD phản phé như trước đây:
– một mặt dựa vào điều lệ đảng, quy chế bầu cử, điều 13 Quyết định số 244/QĐ-TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng: «Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.», tức BCT nắm độc quyền giới thiệu người vào BCT, gọi là «chốt danh sách» (hiểu là khóa sổ ghi danh), một khi NTD bị gạt ra khỏi danh sách đề cử hay ứng cử vào BCT thì con đường hoạn lộ coi như chấm dứt.
– một mặt đặt ra nhiều tiêu chuẩn khắc khe (các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi, ..tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc…), xem qua ai cũng biết là nhắm vào NTD, đặc biệt là cho đàn em tung ra những đòn hạ tiện để bôi bác lẫn nhau.
Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A: « ….Về mặt tranh giành quyền lực, họ sử dụng những biện pháp vô cùng thô bỉ và bẩn thỉu để sát hại lẫn nhau. Điều đó chỉ chứng tỏ những người như thế và một cái tổ chức như thế không có tư cách để làm lãnh đạo…. » (trả lời phỏng vấn đài RFI ngày 11-1-2016)

Cứ nhìn vào những điều bất thường trong việc chuẩn bị ĐH tất thấy mức độ tranh chấp khốc liệt là dường nào!

Về sắp xếp nhân sự, các phiên họp BCHTƯ 13 (từ 14 đến 21-12-2015) và 14 (từ 1 đến 13-1-2016) chỉ cách nhau mươi ngày, cách đại hội một tuần lễ (từ 21 đến 28-1-2016), vấn đề sắp xếp nhân sự vẫn chưa ngã ngũ, hôm bế mạc hội nghị trung ương 13, TBT phát biểu: «Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ và biểu quyết, nhất trí cao thông qua danh sách đề cử các đồng chí Ủy viên Trung ương khóa 11 (cả chính thức và dự khuyết) trong độ tuổi và các đồng chí Ủy viên Trung ương khóa 11 thuộc trường hợp “đặc biệt” tái cử khóa 12.», nhưng thật sự đã có sự bất đồng nghiêm trọng đến độ phải gấp rút tổ chức thêm hội nghị 14, gọi là để «Tiếp tục hoàn thiện công tác nhân sự chủ chốt khóa XII, thảo luận, xem xét, quyết định công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII và chuẩn bị nhân sự lãnh đạo chủ chốt khóa XII.»

Về tuổi tác, NPT tuy quá tuổi qui định, lại lớn tuổi nhứt trong BCT, cách 5 tuổi so với nhóm kế tiếp (72 tuổi trong khi Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, 67, NTD chưa tới 67) vẫn được quyền ở lại vài năm nữa, gọi đó là thuộc trường hợp “đặc biệt” tái cử khoá XII, qua phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ hôm 16-1-2016, ông Vũ Ngọc Hoàng – ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương cho biết: «Trung ương đã thông qua nhân sự là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI thuộc trường hợp “đặc biệt” giới thiệu tái cử khóa XII. Trước hết Trung ương bỏ phiếu quyết định chọn phương án một trường hợp “đặc biệt”, hai trường hợp “đặc biệt” hay ba trường hợp “đặc biệt”. Cuối cùng Trung ương quyết định chọn phương án một trường hợp “đặc biệt”, vì yêu cầu cần trẻ hóa, yêu cầu ổn định, cần có một sự kế thừa trong tình hình hiện nay, đoàn kết, tập hợp lực lượng. Bộ Chính trị cũng đề nghị như thế.»
Tiết lộ này giải mã tin đồn nếu cho NTD ngồi lại (hai trường hợp “đặc biệt”) thì Trương Tấn Sang cũng đòi ngồi lại (ba trường hợp “đặc biệt”), cuối cùng chọn phương án một trường hợp “đặc biệt”, điều này xác nhận Trương Tấn Sang cùng phe NPT trong âm mưu triệt hạ đồng chí X; cũng cần nhắc lại các tiêu chuẩn nhằm loại NTD trong đó có tiêu chuẩn «tham vọng quyền lực», nay chính Nguyễn Phú Trọng lại là người tham quyền cố vị.
Lưu dụng một tên già nua nhứt cầm chịt đảng có nghĩa là các đảng viên khác đều thiếu khả năng (toàn một lũ ăn hại đái nát!), việc lưu dụng tạm thời có thể hiểu là việc tranh ăn vẫn chưa ngã ngũ.

Về việc bảo vệ an ninh ĐH, đảng phải huy động «hơn 5.000 cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng công an nhân dân, quân đội nhân dân cùng các phương tiện trang, thiết bị chuyên dụng chống bạo động, khủng bố với quyết tâm bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, với tinh thần, chủ động trong mọi tình huống, không để bị động bất ngờ.», làm gì cần phải huy động một lực lượng hùng hậu chống bạo động, khủng bố để bảo vệ một phiên họp giữa các đồng chí với nhau, sự kiện này cho thấy sự rạn nứt nội bộ nghiêm trọng đến độ là họ đang sống trong hoảng loạn.

Trong cuộc thư hùng sống mái này, hai bên thắng thua đều sứt đầu mẻ trán, đảng cộng sản như con quái vật bị chấn thương, mối thâm thù Trọng -Dũng sẽ di căn, bọn thắng chắc chắn sẽ tiếp tục đè bẹp phe thua, phe thua sẽ tìm mưu kế phản ứng lại, biết đâu đây lại là cơ may để người dân nhập cuộc hơn nữa, tạm thời có thể thúc đẩy phe muốn chuyển hóa đất nước theo chiều hướng dân chủ, đà dân chủ hóa sẽ được tăng tốc, còn phe phản động đang lâm vào thế yếu, đà dân chủ cũng có thể nhờ đó mà vươn lên.
Nghĩ thật khôi hài mấy tiêu chí đại hội:”Đoàn kết, Dân chủ, Kỷ cương, Đổi mới”.

Thực tế chứng minh hoàn toàn ngược lại:
– «Đoàn kết» giữa các đồng chí là những đòn ngầm sát phạt lẫn nhau,

– «Dân chủ» là những người cũ hay sắp sửa ra đi chọn trước thành phần lãnh đạo mới,

– «Kỷ cương» là tùy tiện sửa đổi những nguyên tắc căn bản về ứng cử bầu cử, tự cho mình có quyền lưu nhiệm,

– «Đổi mới mà thực ra là chúng ta lùi lại chứ không phải đổi mới. Đổi mới là so với những cái chúng ta đã làm sai 20 năm thì gọi là đổi mới.» (Gs Trần Phương góp ý ở ĐH11), đúng như Bộ trưởng KH&ĐT Bùi Quang Vinh vạch ra trong bài tham luận trước ĐH ngày 22-1-2016: «Nhìn lại thực tế 30 năm qua, thành tựu lớn nhất, bao trùm nhất của công cuộc đổi mới là đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.», xem thế thì đủ biết đảng cộng sản đã kéo lùi đà tiến của dân tộc là dường nào!

Đúng như các nguồn tin tiết lộ, kết quả bầu cử BCHTƯ và BCT đúng theo dàn dựng trước, tứ nhân bang được xếp vào hàng đầu BCT:
1. Nguyễn Phú Trọng (1), tái Tổng Bí thư.
2. Trần Đại Quang, Bộ trưởng Công an
3. Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch Quốc hội

6. Nguyễn Xuân Phúc, Phó TT

Trong đó, 3 nhân vật được chỉ định trước:
Chủ tịch nước: Trần Đại Quang (2)
Thủ tướng; Nguyễn Xuân Phúc (3)
Chủ tịch quốc hội: Nguyễn Thị Kim Ngân
các đại biểu QH chỉ làm nhiệm vụ hợp thức hóa quyết định của đảng, các đại biểu đảng viên phải làm theo chỉ thị đã đành, kỳ dư cũng chỉ là những con rối.

(1) Nguyễn Phú Trọng, không có lời nào phản đối ngay khi Tàu đặt dàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 2014
(2) Trần Đại Quang, gốc bộ trưởng công an, người ra lịnh đàn áp thô bạo các cuộc xuống đường chống quân xâm lược Tàu
(3) Nguyễn Xuân Phúc, gốc phó Thủ Tướng, người hô hào chống tham nhũng nhưng có nhiều nhà cửa nguy nga cả trong lẫn ngoài nước, con cái du học ăn chơi trác táng, cũng là người cấu kết với Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang trong âm mưu hạ bệ NTD (theo blog Chân dung quyền lực: http://chandungquyenluc.blogspot.ru/, tuy đã ngưng hoạt động nhưng vẫn có thể vào xem các tài liệu lưu trữ).
Một ít «thành tích» đối với quân xâm lược và đất nước của họ cho thấy việc mong đợi «đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để phát triển» như tham luận của ông Bùi Quang Vinh hãy còn xa vời.

Dầu trong tình huống nào, khuynh hướng dân chủ hóa không ngừng gia tăng, các yếu tố thiên thời -địa lợi -nhân hòa đang dần dần hội đủ, phong trào xã hội dân sự đang phát triển, một khi các tổ chức dân sự độc lập bành trướng thì các hoạt động chính thống và ngoại vi của đảng sẽ teo tóp dần (báo tư nhân xuất hiện, không ai đọc báo đảng, nghiệp đoàn độc lập ra đời, công nhân sẽ bỏ công đoàn nhà nước, …

Khởi điểm của một quá trình kết thúc chế độ độc tài đảng trị bắt đầu.
Một vận hội mới đang mở ra.

Lê Văn Tư (ĐS 8)

Views: 529