Kinh Tế Việt Nam 2017 và Đại Họa Lệ Thuộc Kinh Tế Trung Quốc

Nguyễn Bá Lộc

Năm 2017 là một mốc thời gian quan trọng của Việt Nam. Chế độ độc tài CS tiếp tục thêm nhiệm kỳ nữa. Nội bộ CSVN đấu đá mãnh liệt hơn trước qua chiêu bài “chống tham nhũng” trong sự tranh giành quyền lực nội bộ, và trong chủ trương tạo bề ngoài như một “ý chí phục thiện” để lấy niềm tin.

Về phương diện kinh tế, năm 2017 cũng là thời điểm quan trọng. Sau 30 năm “đổi mới” nửa vời và nhiều lệch lạc, bịnh tình kinh tế VN không hết mà còn tệ hại hơn. Mọi người chờ sự “đổi mạnh” “đổi đúng” và “đổi thật”. Nhưng, thực tế không như mong đợi. Những khó khăn kinh tế nghiêm trọng vẫn tồn tại và đe dọa tương lai. Mối nguy lớn nhứt của những vấn nạn nghiêm trọng năm qua là bước tiến nhanh của sự lệ thuộc kinh tế Trung quốc (TQ).

Qua vài con số rất tổng quát được chánh quyền công bố hồi đầu năm nay, kinh tế có vẻ như khá hơn. Chánh quyền muốn bày tỏ với dân và quốc tế có chút lạc quan trên con đường đang đi tới.   Nhưng thực sự các con số đó chưa nói hết thực trạng kinh tế hiện nay. Những cản trở quá lớn và đã kéo dài từ hàng chục năm qua hãy còn đó, và không hy vọng sớm giải quyết ổn thỏa.

Bên cạnh một số chỉ tiêu kinh tế có khá hơn so với năm 2016 về tỷ suất phát triển nhờ sự gia tăng xuất cảng và đầu tư ngoại quốc. Song, tiến triển nầy còn rất thấp, rất nhỏ, so với mức trung bình của các nước đang phát triển khác.

Để hiểu một phần nào thực trạng kinh tế đang vật lộn với những khó khăn lớn tồn tại cùng cái họa kinh tế từ TQ, chúng tôi xin trình bày tóm lược dưới đây qua hai phần chánh:

. Tiến bộ và trở ngại của Kinh tế Việt nam 2017

. Tai họa của sự lệ thuộc kinh tế Trung quốc

I. Tóm Lược Kinh Tế Việt Nam Năm 2017

Trên một một số lãnh vực trọng yếu, và với cái nhìn chung, thì kinh tế VN 2017 có được chút tiến bộ, so với thời kỳ kinh tế suy sụp nặng (2008-2015) và so với chính bản thân mình.

Nhưng với cái nhìn tổng quát và có nghiên cứu sâu hơn thì nền kinh tế hiện nay không có gì lạc quan, nó sống với nhiều mảnh bể lớn, nhiều hố sâu, nhiều mục nát, bên cạnh một vài hình ảnh kinh tế có vẻ hào nhoáng bề ngoài và gợi cảm cho những ai chỉ hiểu biết nó cách dễ dãi.

1. Một số tiến bộ kinh tế được công bố

Theo các con số đưa ra a Tổng cục thống kê cũng như một báo chí trong tháng đầu năm nầy, chúng ta ghi nhận

 Năm                                      2010            2012                2016                2017

*Tỷ số phát triển                   6.4%              5.2 %               6.2 %               6.8% (1)

(1)  Theo Tổng cục thống kê VN và báo Xinhua, TQ tỷ suất là 6.8%. Theo Ngân Hàng Thế Giới ước lượng 6.3%. Chỉ tiêu Quốc Hội đặt ra là  6.7%

Khó nói các con số thống kê của VN chính xác đến mức nào. Chỉ có thể nói kinh tế có khá hơn so với những năm từ 2009 đến 2015, và kém hơn các năm 2001-2008 đã đạt tỷ suất phát triển trung bình 8%.

Dù có đạt 6.8% thì hãy còn yếu. Vì các nước có mức độ phát triển tốt như Đài Loan, Nam Hàn Singapore trong giai đoạn đầu của phát triển luôn có tỷ xuất trên 9%. Và theo nhận xét của một số cơ quan quốc tế như World Bank, thì nếu VN muốn có sự phát triển tương đối bền vững để giữ có mức lợi tức đầu người trung bình cao, thì mức độ phát triển phải đạt từ 7% trở lên.

Một số chỉ tiêu có tiến triển khác:

   Năm                                                 2010                 2012                  2016                  2017

Tổng sản lượng  (tỷ mỹ kim)             $115.9              $135.5                    $195                $221  (*)

Đầu tư ngoại quốc (tỷ mỹ kim)         $19.9                   $16.3                     $18                   $33 (*)

Xuất khẩu   (tỷ mỹ kim)                     $72.2                $114.57               $175.94          $213.77 (*)

(*) theo Tổng cục thống kê

Theo báo cáo của VN thì năm 2017 tổng trị giá xuất nhập khẩu ước lượng 400 tỷ mk, và có xuất siêu 3.2 tỷ mk lần đầu sau 10 năm. Các năm trước thì có số nhập siêu trung bình 12.5 tỷ mk/năm trong khoảng thời gian 2006-2010, thời gian tung hoành của các tập đoàn kinh tế.

So với năm 2016, Đầu tư ngoại quốc tăng  82%  và Xuất khẩu tăng  20%

Trong FDI tăng cao chánh yếu là do đầu tư của TQ, chiếm vị thế thứ ba, từ vị trí thứ 9 trong trung bình 5 năm trước.

Hàng xuất khẩu chủ lực  2017 là: Dầu lửa, điện tử, quần áo giầy dép , thủy sản, gạo, cà phê. Các công ty ngoại quốc chiếm 65% tổng số hàng xuất cảng.

Tuy nhiên, nhập khẩu vẫn gia tăng. Đây là một trở ngại lớn. Đặc biệt  nhập siêu từ Trung quốc và làm VN lệ thuộc TQ tới mức nguy hiểm. Tổng trị giá xuất nhập VN – TQ 2017 tăng thêm 23% so với năm 2016. TQ là thị trường lớn thứ nhì của VN, Hoa kỳ thứ nhứt.

2. Hình ảnh kinh tế tổng thể

Mặc dù theo báo cáo, kinh tế 2017 có tiến bộ, nhưng nhìn chung hiện nay nó vẫn không bình thường và yếu kém. Trong 30 năm đổi mới kinh tế, chỉ có 10 năm là khá còn 20 năm kia là yếu hay suy sụp. Mặt dù bề ngoài có vẻ đi lên như một nước tân hưng.

Kinh tế VN giống như một chiếc xe song mã. Một con ngựa biểu trưng kinh tế nội địa thì vừa bịnh vừa đói, chạy không nổi. Còn con ngựa kia biểu trưng cho kinh tế đối ngoại có mạnh khỏe hơn, cố kéo con ngựa què. Chiếc xe ngựa đó lại còn bị nhiều cản trở, nhiều tai nạn hủy hoại  tiềm năng và khả năng của người dân và của đất nước.

Các đặc điểm kinh tế 2017 có thể tóm tắt như sau:

Chủ trương và sách lược kinh tế không thay đổi. Vẫn là mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Mặc dù Tổng Bí Thư và Thủ Tướng có tuyên bố hồi 2017 là sẽ đẩy mạnh khu kinh tế tư doanh thêm. Nhưng thực tế chưa có làm được điều gì có ý nghĩa. Về kinh tế đối ngoại, ở Hội nghị APEC hồi tháng 11/2017, chánh phủ có xác nhận với quốc tế, với doanh nhân quốc nội, là VN mở cửa cho kinh doanh, và cổ võ cho quyết tâm thực hiện chánh sách hội nhập, gia tăng mậu dịch và tạo điều kiện tốt cho doanh nhân nước ngoài.

Sức kinh tế còn yếu kém và không đủ sức “cất cánh” mà theo thông thường khi nền kinh tế một nước qua mức $2000/lợi tức đầu người, thì phải cố vươn lên, cố thoát bớt viện trợ vì không còn viện trợ với lãi xuất ưu đãi. Cải tiến kinh tế quốc nội, để bớt lệ thuộc kinh tế thế giới.

Trong hội nhập kinh tế, VN muốn cầu cạnh, muốn lợi dụng từ mọi quốc gia, nhứt là từ Hoa kỳ và TQ. Trong tình hình toàn cầu hóa hiện nay, nước nào cũng có yêu cầu của nước họ. Với sự mở rộng xuất cảng của TQ, Hoa kỳ xem lại các Hiệp ước mậu dịch mà Hoa kỳ chủ trương cần phải có sự công bằng trong giao thương quốc tế. Tuy nhiên Hoa kỳ vẫn giữ nguyên tắc về tự do và nhân quyền trong mậu dịch quốc tế.Còn TQ có con đường đi khác hơn, vừa dụ dỗ vừa ép buộc để kinh tế lẫn “tâm hồn” VN từ từ thành một bán thuộc địa. Hoa kỳ nay chủ trương công bằng trong hợp tác kinh tế, sự xuất siêu quá lớn với Hoa kỳ cần điều chỉnh lại và phải có qua có lại và tôn trọng những nguyên tắc quốc tế.

II. Những Vấn Nạn Nghiêm Trọng Vẫn Tồn Tại

Chúng tôi xin tóm tắt những vấn nạn kinh tế nghiêm trọng đã có từ lâu kéo dài tới ngày nay.

1. Về thực hiện sách lược kinh tế

VN không có chuyển biến thay đổi đáng kể về sách lược. Vẫn “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Chánh phủ có xác nhận yểm trợ, tạo điều kiện nhiều hơn cho kinh doanh tốt hơn cho khu vực tư. Trong khu vực tư có hai loại doanh nhân, loại chân chánh và loại gọi là “nhóm lợi ích”.

Trong kinh tế đối ngoại, Chánh phủ VN tuyên bố xác nhận mở rộng hội nhập toàn cầu (trong buổi họp APEC hồi tháng 11/2017), dù có kết quả tương đối khá, nhưng hãy còn nhiều trở lực không dễ giải quyết sớm. Một số vấn nạn cần sửa đổi như: Điều chỉnh luật lệ cho đúng theo quốc tế. Cho phép Công đoàn độc lập. Có Nhân quyền trong mậu dịch. Bảo vệ tác quyền. Ban hành cần thiết và theo tiêu chuẩn quốc tế như Luật lệ về đấu thầu, luật ngân hàng và tín dụng, Vấn đề sử dụng hữu hiệu viện trợ.Đặc biệt đối với TQ công minh về đầu tư về thầu dự án, về mậu dịch . Hàng hóa dư thừa công lao động thất nghiệp tuôn vào VN không được kiểm soát đàng hoàng.

2. Về khu vực kinh tế nhà nước

Có một số vấn đề nan giải

* Quốc doanh, cái bướu ung thư lớn. Mặc dù theo đuổi “kinh tế thị trường”. Nhưng vẫn theo chủ thuyết CS là “quốc doanh là chủ đạo”, nghĩa là “Tư bản nhà nước” phải trên hết, phải ưu tiên. Tư doanh bị chèn ép nhiều thứ, mặc dù khu vực nầy thu dụng nhân công rất nhiều hơn quốc doanh, và hiệu quả kinh tế lớn hơn quốc doanh nhiều lần.

Đầu tư công bừa bãi kéo dài từ hàng chục năm rồi. Quản lý kém và tham nhũng , mất mát thiệt hại trung bình 20% vốn đầu tư (hàng năm có khoảng 4-5 tỷ mỹ kim bị thất thoát). Đầu tư công không giảm trong năm rồi, mà còn chiếm tỷ phần quan trọng trong kế hoạch ngũ niên 2016-2020. Mức đầu tư công gia tăng gấp 3 lần mức phát triển kinh tế.  10 trên 11 Tập đoàn kinh tế bị lỗ nặng, 92 Tổng công ty thì chỉ có 30% có lời đóng góp cho ngân sách. Hàng trăm công ty nhỏ hơn nay vẫn còn. Chưa kể loại “kinh tế đặc biệt” do Quân đội, Công an, Tình báo nắm và gần như “bất khả xâm phạm” với nhiều tai hại. Trong hai năm qua chánh phủ có cắt giảm bớt một số dự án đầu tư công. Nhưng điều rõ ràng là khi chế độ CS còn thì đầu tư công vẫn giữ mức độ quan trọng. Vì đó là nguồn tiền của lớn chảy vào đảng viên và nhóm tư bản thân thuộc hay nhóm lợi ích.

Chương trình giải tư (hay cổ phần hóa).  Chương trình cổ phần hóa tiến triển rất chậm và nhiều mất mát do tham nhũng. Năm 2017 dự trù cổ phần hóa 137 quốc doanh , nhưng chỉ thực hiện được 44 cái (đạt 32%) , trong đó có 2 công ty “ngon” là Bia Saigon (Sabeco), công ty sữa (Vinamilk).  Còn 11 tập đoàn và nhiều tổng công ty chưa đụng tới dù phần lớn gần như tan nát .

3. Về Tài chánh công:

Ngân sách càng ngày càng thiếu hụt nhiều hơn. Chánh quyền phải tăng thuế (thuế Trị giá gia tăng VAT từ 10% lên 12%); đồng thời phải vay trong nước qua phát hành thêm công trái để bù sự thiếu hụt ngân sách. Thiếu hụt ngân sách lớn như hiện nay là một trong các nguyên nhân của lạm phát và cản trở sự phát triển.

Hệ thống ngân hàng vẫn còn là lãnh vực dơ bẩn, nhiều lạm dụng nhứt. Vì đó là một loại kinh doanh dễ sinh lời và dễ cố ý làm sai trái và có thể thu lợi nhanh chóng và to lớn. Tình trạng ngân hàng cụ thể vi phạm được phát hiện và bị ra tòa trong hai năm rồi. Đó là các ngân hàng Ocean Bank, Đông Á, Saigon Bank, Á châu. Còn nhiều ngân hàng có nhiều sai trái và tai hại cho nền kinh tế, cho dân chúng, chưa được chấn chỉnh và bị chế tài.

Công nợ gia tăng rất mạnh từ 10 năm qua và năm rồi tiếp tục gia tăng: Từ $64.49 tỷ mk năm 2012 lên $134.54 năm 2017.

Mức công nợ nói trên là nợ chánh phủ vay trực tiếp, chưa kể phần chánh phủ bảo lãnh cho quốc doanh, nếu kể vào (theo như nguyên tắc kế toán của quốc tế) thì lên tới 200 tỷ mk, 105% GDP (Thái lan 41% và Indonesia 56% ). Đó là tỷ lệ quá cao, nhứt là trong tình trạng ngân sách và tài chánh công quá suy yếu, dễ phá sản. Chánh phủ phải trả 4 tỷ mk năm rồi cho nợ quốc tế.  Trong đó thì nợ đáo hạn không trả nỗi (nợ xấu) rất cao và hết 70% là từ nợ quốc doanh . Tức là một phần tiền vốn của quốc doanh tiêu tan theo mây khói,

4. Về Hội nhập toàn cầu

Mặc dù trong nhiều năm VN có sự gia tăng về đầu tư ngoại quốc và xuất cảng. Nhưng hãy còn nhiều khuyết điểm, trở ngại  lớn.

Về đầu tư ngoại quốc, VN còn phải tiếp tục sửa đổi luật lệ cho đúng theo quốc tế. Những vấn đề chánh mà VN phải chuẩn bị và phải thực hiện. Đó là:  cho phép thành lập công đoàn độc lập. Xây dựng và bổ xung luật lệ và thực thi việc bảo vệ tác quyền. Công nhân rẽ nhưng năng xuất rất kém, kiến thức kỹ thuật yếu không đáp ứng với nhu cầu.

Về xuất nhập khẩu dù có gia tăng . Nhưng nhìn chung không bình thường. Đối với các đối tác Hoa kỳ, Âu châu, Nhựt bản là ba thị trường lớn nhứt và khó thay thế của VN thì còn nhiều bất cân bằng. Thứ hai là VN vẫn có trò ma giáo bán phá giá, và cho TQ mượn giấy xuất xứ để bán dùm cho TQ hàng dư thừa qua Mỹ và một số nước khác. Vấn đề nhập siêu, nhứt là mức dộ nhập siêu quá cao từ TQ . Điều nầy phải chấn chỉnh , nếu muốn giử được thị trường Hoa kỳ và Tây âu. VN phải khôn hơn, bớt sợ TQ bớt lệ thuộc kinh tế TQ .

5. Về Quản lý kinh tế vĩ mô và Bộ máy công quyền.

Bộ máy công quyền là công cụ quan trọng nhứt để thi hành mọi chánh sách. VN có bộ máy nầy quá tệ hại. Nó cồng kềnh và trùng lập hai bộ máy đảng và chánh phủ, nên chi phí điều hành quá lớn. Viên chức cán bộ không hiệu năng và tham nhũng cả hệ thống .

Bộ máy đó không vì dân và cho dân, nên thường có mâu thuẩn giữa dân và cán bộ. Tình trạng nầy làm cho sức phát triển yếu đi.

Tình trạng tham nhũng từ bộ máy Hành chánh hủy diệt phần lớn những kiến tạo . Tham nhũng ở VN thì quá kinh khủng và ai cũng biết. Tham nhũng có hệ thống, cán bộ đảng viên tạo ra  tham nhũng, vẽ ra luật lệ để cấu kết tham nhũng theo qui trình.

Tham nhũng chẳng những gây ra tai hại kinh tế rất lớn mà còn là nguyên nhân của vi phạm nhân quyền. Ai cũng biết mức độ và nguyên nhân tham nhũng ở VN. Nhưng năm qua nhờ chiến dịch chống tham nhũng, người ta thấy cụ thể hơn rõ ràng hơn tham nhũng VN qua các vụ Petro VN, các ngân hàng quốc doanh ngân hàng cổ phần, các trạm thu tiền lưu thông BOT.

III. Đại Họa Của Sự Lệ Thuộc Kinh Tế Trung Quốc

1. Khái lược kinh tế toàn cầu của TQ

Bá quyền TQ là chánh sách từ muôn đời. Dùng “sức mạnh TQ” đưa ra ngoài để giải quyết những vấn đề nội địa. Sau chiến tranh lạnh “ Bá quyền TQ” tiến mạnh hơn nhưng với những điều chỉnh mới và khôn hơn. Mục tiêu rộng lớn hơn. TQ khá thành công về kinh tế và đang xây dựng quân sự mạnh.

VN là một nước nằm trong ưu tiên cao của TQ. TQ thực hiện xâm lăng kinh tế VN rất nhanh và rất nguy hiểm. Đó là tai họa lớn nhứt, hơn cả sự nghèo đói của người dân.

Ngày nay, bá quyền TQ là một kết hợp của tinh thần cai trị và xâm chiếm của các bạo chúa Tàu,  của triết lý văn hóa phong kiến của một nước vĩ đại, của cái chủ thuyết CS không tưởng và gian manh, của Chủ nghĩa thực dân mới quỷ quyệt, và của chủ nghĩa thực tiễn. Trên phương diện kinh tế, TQ đi nước cờ dụ dỗ bằng tiền, sự hợp tác dựa trên căn bản lưỡng lợi. Và sau cùng có thể dùng bá đạo, áp bức nếu cần. Từng bước qua các hình thái gọi cách tượng trưng : “Cái bánh”, “Cái bẩy” và “ Dây thòng lọng”.

Kinh tế VN lệ thuộc Trung quốc (TQ) từ hơn 20 năm nay. VN đã bị dụ, đã mắc bẩy và đã vào tròng. VN – TQ đã ký kết nhiều thỏa ước kinh tế. Gần đây nhứt là vào tháng 11/2017, Tập Cận Bình và Trần Đại Quang ký kế hoạch hợp tác kinh tế 5 năm tại Hà nội. Khi Hoa kỳ rút ra khỏi Hiệp định TPP, thì TQ càng xâm nhập kinh tế VN nhiều hơn nữa. Năm qua, VN gia nhập các đại dự án quốc tế do TQ dứng đầu như dự án “One Belt one Road”.

2. Tóm tắt tiến trình xâm lấn kinh tế

Về mặt chiến lược, TQ  coi VN là một quốc gia ưu tiên số một cần nắm chặt. Còn CSVN ở thế yếu, cần chỗ dựa chắc, nên thường không cưỡng lại ý đồ của TQ.

Các sự kiện về sự xâm lăng kinh tế được ghi nhận như dưới đây .

Cam kết mạnh mẽ và rõ ràng giữa hai đảng và hai chánh phủ bắt đầu từ 1991. Năm 2007, Thành lập Ủy ban Hợp tác Kinh tế Thương mại. Mới nhứt là Thỏa ước hợp tác kinh tế toàn diện kỳ hồi tháng 11/2017 giữa Trần đại Quang và Tập cận Bình. Hai bên trao đổi qua các hiệp ước song phương và đa phương.

Sự trao đổi giữa hai lãnh đạo thường dễ dàng vì có chủ thuyết và mô hình kinh tế của hai nước  giống nhau .

Trên quan điểm và sự cấu kết, hai nước Việt Trung cụ thể hóa các Thỏa ước, đã có nhiều phái đoàn chánh phủ cũng như doanh nhân hai bên trao đổi kế hoạch đầu tư và mậu dịch cụ thể.

Về Đầu tư trực tiếp và thầu công trình lớn: TQ là một trong 4 nước có đầu tư ngoại quốc cao nhứt tại VN. TQ đầu tư gia tăng: 2 tỷ mỹ kim (năm 2012) lên $10.5 tỷ mk (2016) từ hạng 13 lên hạng 8, và năm 2017 nhiều hơn nữa. Theo báo cáo của  Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì chỉ riêng tháng giêng 2017, TQ đã đầu tư trực tiếp $340 triệu mk (chiếm 22% tổng số đầu tư ngoại quốc tại VN), và đứng hạng ba sau Singapore và Nam Hàn. Từ khi Hiệp định TTP được ký hồi đầu năm 2016, TQ đẩy rất mạnh đầu tư ở VN. Chỉ trong 10 tháng năm 2017, TQ đầu tư 214 dự án với tổng số vốn $1,6 tỷ mk (theo Vietnam Business News, tháng giêng 2018). Một mặt chận bớt ảnh hưởng kinh tế Hoa kỳ và đồng minh, mặt khác mượn chỗ xuất cảng hàng TQ  đang có nhiều khó khăn với Hoa kỳ. Các dự án đầu tư lớn như: thép, hóa chất , quặng mỏ, ciment, thủy điện, vải sợi, đồ gỗ. Vài năm gần đây chánh quyền TQ có chánh sách khuyến khích doanh nhân TQ sang nước khác mở cơ sở làm ăn cỡ vừa và nhỏ.

TQ thầu thực hiện các dự án đầu tư công lớn, trên 100 triệu mỹ kim, thì tổng quát từ 5 năm nay, 80% các dự án xây dựng hạ tầng , điện nước hầm mỏ, chánh quyền VN giao cho TQ thực hiện. Các dự án lớn TQ thực hiện như:

Khai thác quặng nhôm ở miền Trung, Lâm đồng và Gia lai, năm 2008, với kinh phí hai dự án lên 950 triệu mỹ kim giao hết cho TQ. Dự án kéo dài hơn dự trù và phải tăng thêm kinh phí 20% vì kỹ thuật TQ kém và trang bị máy móc cũ đưa từ TQ qua. Nhôm xản xuất ra hai năm rồi, và bị lỗ vì TQ mua ép giá.

TQ thầu được nhiều dự án lớn: nhà máy điện Bình Tuy , Vĩnh Bình.. tổng cộng trên 2 tỷ mỹ kim,

Dự án Đường xe lửa Cát Linh- Hà Đông (2008) với chi phí đầu tư lúc đầu $552.89 triệu mk, trong đó tiền vay TQ $419 triệu. Đến 2016 tổng chi phí được điều chỉnh lên $868.04 triệu mk. Dự trù tới 2018 mới hoàn thành. Vì TQ cho vay nên buộc phải giao cho thầu TQ thực hiện. Hiện nay, mỗi năm VN phải trả nợ cho TQ  $28.8 triệu mk cho dự án nầy.

Dự án rất lớn khác là Dự án Hành lang Việt Trung (từ 2007) bao gồm các xa lộ nối TQ với 6 tỉnh biên giới VN và đường xe lửa nối Côn Minh thủ phủ Vân Nam, ngang qua Hà nội, đến Hải phòng. Kinh phí sơ khởi lên tới 2 tỷ mk, phân nửa do Ngân Hàng Phát Triển Á Châu cho vay và TQ bỏ vào phần lớn phần còn lại. Đến 2012 một số đoạn xa lộ được khánh thành. Năm rồi, hoàn tất tiếp dự án nầy. Khi ký thỏa ước hợp tác kinh tế hồi tháng 11/2016 hai chủ tịch nước cũng có nhắc lại việc hoàn thành đường xe lửa Vân Nam – Hải phòng.

Đáng lưu ý là hai năm vừa qua TQ đầu tư trực tiếp $300 triệu mk cho các dự án vải tơ sợi ở Đồng Nai , Tây Ninh. Chủ đích của TQ khi lập các nhà máy nầy là đi trước để cung cấp nguyên liệu cho ngành may mặc của VN khi có Hiệp định TPP, vì theo qui định của TPP thì hàng may mặc xuất cảng không được xử dụng nguyên liệu nhập từ nước không phải là thành viên của TPP. Trong tương lại TQ sẽ đầu tư trực tiếp nhiều hơn cho thị trường VN và cho xuất cảng với chứng chỉ xuất xứ là VN.

Hàng hóa Trung Quốc chuyên chở qua các cửa khẩu tràn ngập Việt Nam

Về xuất nhập khẩu: Trung bình từ năm 2010 -2016 hàng nhập từ TQ tăng 18%/năm, năm 2017 ước lượng tăng 15.3%. Theo Vietnam Business Forum tháng giêng 2018, thì tổng trị giá xuất nhập năm 2016 là 73 tỷ mk, và 11 tháng năm 2017 lên tới 82 tỷ mk, ước tính nguyên năm 2017 là 100 tỷ mk. Cộng xuất nhập hai chiều thì TQ là khách hàng giao thương lớn nhứt của VN.

Nhập siêu tăng từ $9 tỷ mk  (2007) lên $17.3 tỷ (2012) $28.9 tỷ (2015) 39 tỷ (2016) .

Về Du lịch: Du khách TQ đến VN rất đông. Có 2,7 triệu khách du lịch người Tàu đến VN trong năm 2016 (chiếm 27% tổng số khách). Và 11 tháng 2017 đó tới 3,6 triệu (chiếm 35%). (Theo Vietnam Business Forum, tháng giêng 2018).

3. Tai hại của sự lệ thuộc kinh tế TQ

Trong hoàn cảnh mà VN càng ngày càng lệ thuộc kinh tế TQ , những bi đát thấy được và chạm phải, cho VN trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Chủ trương bá quyền và mộng lên cường quốc kinh tế số một của TQ , làm VN khó thoát ra được sự kềm kẹp. Nhứt là với lãnh đạo cao cấp của CSVN muốn yên vị và có nhiều tiền của dễ bị mua chuộc. Trong sự tranh chấp Hoa kỳ và TQ, VN dường như muốn chủ trương đứng giữa trung lập kinh tế để lợi dụng nhiều phía, trong Hội nhập toàn cầu . Trên thực tế kinh tế cho tới nay như chúng ta thấy, VN vướn kẹt TQ quá nhiều và tại hại rất lớn. Cái thế mạnh của TQ khiến VN lệ thuộc kinh tế sâu hơn là vì hai nước cùng là CS, hai nước có chung biên giới khá dài, TQ có quá nhiều tiền.

Chánh sách TQ về viện trợ, đầu tư và mậu dịch không cần có điều kiện tự do, nhân quyền và dân quyền. Điều mà CSVN thấy thoải mái hơn thực hiện các thỏa ước với Hoa kỳ Tây Âu hay các nước tự do dân chủ khác.

Cách làm ăn chung hay thực thi các cam kết thì tiền bạc, chia chác sòng phẳng là trên hết, là đúng với “4 tốt và 16 chữ vàng”. Cho nên các viên chức VN muốn ký kết trao đổi với TQ hơn bất cứ quốc gia nào khác.

Do vậy, chuyện gì cũng xong, như nhập máy móc trang bị cũ bị loại ra ở TQ, đem qua VN bán lại với giá cao, rồi chia nhau tiền sai biêt. Thầu cho giá thấp sau đó xin tăng lên.

VN trở thành một kho hàng lớn của những hàng hóa dư thừa của TQ hay nơi tạm nhập hàng hay cấp giấy xuất xứ để xuất cảng qua Mỹ và Âu châu, để tránh né bớt thuế quan và sự bảo vệ mậu dịch của Hoa kỳ. (Như vụ VN xuất cảng thép qua Mỹ với thép của TQ chớ không phải thép VN sản xuất. Quan thuế Mỹ bắt được, bị Hoa kỳ đánh thuế 500 % cho các lô thép nầy hồi năm 2017).

Nông nghiệp và tư doanh VN bị doanh nhân TQ cạnh tranh và phá hoại gây nhiều thiệt hai cho nông dân.

Môi trường sống bị hại do việc TQ đẩy một số kỹ nghệ dơ bẩn ô nhiễm qua VN (như Formosa và công ty thép, xi măng).

Hàng hóa TQ tràn ngập VN, trong đó có hàng giả và hàng độc hại.

Do sự tiếp thu hoạt động kinh doanh nhập cư của TQ dễ dãi, đưa đến phiền lụy khác về an ninh và văn hóa.

Trên bình diện quốc tế, TQ không thể nhẹ tay với VN hay nói khác Biển Đông là vùng rất quan trọng đối với TQ. Biển Đông vừa có nhiều tài nguyên vừa là con đường giao thông hàng hải huyết mạch nối Thái bình dương và Ấn độ dương. Năm rồi, TQ ngang ngược đe dọa hay đuổi các công ty dầu khí Tây Ban Nha, Ấn độ đã ký hợp đồng khai thác dầu khí với VN.

IV. Hệ Lụy Nghiêm Trọng và Sự Vận Dụng Quốc Tế

1. Các hệ lụy nghiêm trọng

Chúng xin tóm tắt các hệ lụy quan trọng từ các vấn nạn kinh tế trình bày ở phần trên.

  • Chánh sách và đường lối kinh tế:

CSVN không muốn nền kinh tế được có Tự do , Dân chủ, Nhân quyền,  dù VN muốn chơi và lợi dụng khối tư bản để nhằm cũng cố đảng và để tham nhũng. Nếu VN không thay đổi chủ trương nầy thì kinh tế không thể có tiến bộ thực sự. Nếu không có con đường đúng, VN khó đạt tới lợi tức đầu người mức tối thiểu cần thiết khoảng $4000 Mỹ kim thì khó bước tới giai đoạn “cất cánh”và có khả năng tự điều chỉnh , và bớt bị “xâm lăng kinh tế”.

  •  Bất công kinh tế xã hội.

Qua các vụ án Petro VN ( Đinh La Thăng , Trịnh xuân Thanh), người dân thấy mức độ bất công quá lớn. Chỉ có khoảng 10% dân là cán bộ và tư bản thân thuộc tự ý và cố ý chiếm đoạt tài sản khổng lồ của quốc gia “theo qui trình”. Trong lúc đó 70% dân , nhứt là vùng quê, sống rất thiếu thốn và cơ cực. Bất công kinh tế xã hội làm cho dân không có niềm tin ở chánh quyền. Một nước muốn phát triển tốt thì phải có niềm tin của người dân và niềm tự hào dân tộc.

  • Quản lý sai phạm về ngân sách và tài chánh công.

Cổng chào (chi phí trên 20 triệu MK ) ở Quảng Ninh

Lý thuyết và thực tế của CS là coi tài sản tiền bạc của công là của đảng. Cho nên chánh quyền chi bừa bãi trong khi đất nước còn quá nghèo. ( Ví dụ hồi năm rồi tỉnh Quảng Ninh làm cổng chào trên 20 triệu mk , rồi Thái bình cũng thực hiện cổng chào tốn khoảng 30 triệu mk). Ngân sách thiếu tiền thì vay nợ hay tăng thuế. Đó là trở ngại cho kinh tế. Còn vay ở ngoại quốc thường là bị điều kiện chánh trị kèm theo, nhứt là vay của TQ, tưởng nhẹ lãi nhưng cuối cùng bị rơi vào những cái bẫy khác không dứt ra được.

Ngân sách VN chi tới 75% cho chi phí điều hành, đó là chi tiêu không tạo ra sản phẩm, nghĩa là không làm gia tăng tổng sản lượng quốc gia.

  • Bộ máy công quyền rất tệ hại.

Ai cũng thấy. Nhưng chánh quyền không muốn cải cách thực sự. Chương trình cải cách hành chánh trong 20 năm qua tốn rất nhiều chi phí nhưng không không kết quả. Hai vấn đề chủ yếu là nhân sự và các mục chi của ngân sách. Nhân sự thừa ít nhứt 30%,  nhưng không giảm được. Như vậy chứng tỏ sự tuyển mộ viên chức phần lớn là thân thuộc, tài năng không là điều kiện cần. Tệ trạng gần như công khai trong một số chức vụ quan trọng hay chức có cơ hội tham nhũng, sự bổ nhiệm có tánh cách cha truyền con nối hay chạy chọt tiền. Ngân sách chi cho Văn phòng Trung ương đảng chiếm 41% ngân sách điều hành, nó cao hơn chi phí điều hành của Văn phòng chánh phủ ( Theo Tờ Asia times tháng 1/2018, thì từ 2009-2015 ngân sách chi cho Văn phòng Trung ương đảng là 11.8 tỷ đồng).

Qua chiến dịch chống tham nhũng vừa qua, lòi ra sự tệ hại không tưởng tượng nỗi của hệ thống đảng và bộ máy công quyền và quốc doanh cấu kết với nhau rồi lại cấu kết chia phần (như các dự án BOT) với tư bản đỏ mà những người nầy là bà con thân thích hay chuyên gia làm kinh tài cho các quan chức lớn. Dĩ nhiên tài sản dân bị thiệt thòi. Các Vụ PVN, vụ các Ngân hàng nói trên đã bị xử tội “cố ý làm trái luật gây thiệt hại nghiêm trọng và tham nhũng “là điển hình của “văn hóa tham nhũng XHCN”. Và còn biết bao vụ vi phạm trầm trọng như vậy liệu Tổng bí thư có lôi ra không để tiếp tục chiến dịch làm trong sạch đảng?

2. Liệu có khả năng CSVN “hoàn lương“ không?

Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế để thoát ra cảnh nghèo nàn lạc hậu thì phải có ít nhứt 3 điều:

– Một ý chí lựa chọn đường đi đúng, có quyết tâm.

– Một thiện tâm đặt quyền lợi đất nước trên quyền lợi cá nhân và phe nhóm.

– Và một tinh thần quốc gia dân tộc.

Nhưng qua 40 năm, CSVN tự vẽ cho mình một đường đi, một đám người tự nhận mình là từ dân. Tạo ra một bộ máy tự cho nó quyền tối thượng thu tóm hầu hết tài sản công và tư và quyền tiêu xài tài sản đó. Nền kinh tế VN ngày nay là sản phẩm của tập thể đó. Tập đoàn CSVN phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lụng bại của nền kinh tế.

Liệu tương lai, có khả năng CSVN “hoàn lương” không?  Dựa vào quá khứ, căn cứ trên những gì họ đã làm, cũng như dựa trên các cá nhân lãnh đạo của CSVN, thì hy vọng CSVN  tự diễn biến, tự thay đổi thì rất khó. Không ai tin rằng CSVN thực lòng muốn tự “phục thiện” hay tự “hoàn lương”.

Vậy muốn có sự thay đổi mạnh về kinh tế để đa số người dân có được cuộc sống bình thường ít khổ đau, thì cần phải có nhiều tác động từ phía dân chúng và từ quốc tế.

3. Vận dụng yếu tố kinh tế quốc tế cho sự tranh đấu cho Nhân quyền và Dân chủ

Trong hoàn cảnh hiện tại về kinh tế lẫn chánh trị, tác động từ yếu tố kinh tế quốc tế VN có thể đem lại nhiều kết quả tốt.

Chúng ta có thể lợi dụng và vận dụng các qui định ràng buộc  quốc tế mà VN phải theo khi thi hành các Hiệp định mậu dịch và đầu tư ngoại quốc. VN bắt buộc phải tuân thủ các qui định nếu không sẽ không có quyền lợi. Những qui định quốc tế nầy trực tiếp hay gián tiếp tác động tốt chẳng những về kinh tế mà còn giúp cho quá trình tranh đấu cho Dân chủ và Nhân quyền.

Chúng ta có thể vận dụng được những gì? Những yếu tố tích cực khả dĩ nào?

Vận dụng các nguyên tắc của các Hiệp định mậu dịch tự do mà VN đã ký và sẽ ký. Như WTO, APEC, TPP11, VN – Âu châu và một  số Hiệp định song phương, như  VN với Hoa kỳ ,

Các quốc gia trên đều là các nước tư bản và theo nền kinh tế thị trường. Kể cà các cơ quan viện trợ hay kinh tế quốc tế đều theo chánh sách kinh tế tự do, như World Bank, IMF, UNDP, ADB…

VN rất cần đến những quốc gia và cơ quan quốc tế nầy.

Trong mọi thỏa ước kinh tế song phương hay đa phương đều có những qui định có tác dụng cải thiện dân quyền , nhân quyền , tự do và dân chủ trong kinh doanh, trong lao động, bảo vệ môi trường, bảo vệ công lý và chống tham nhũng. Dù CSVN không muốn hay né tránh hay giả dối trong những cam kết, khi đã vào sân chơi quốc tế là phải minh bạch và có trách nhiệm tuân thủ.

Vận dụng Luật Magnisky toàn cầu . Một trong các công cụ tranh đấu cải thiện Nhân quyền do Tham nhũng ở VN là thông qua luật Global Magnitsky Act. (Luật Magnitsky toàn cầu) mà Hoa kỳ ban hành hồi tháng 12/ 2017 và Canada hồi tháng 9/2017, và cả Anh, và một số nước nữa ở Âu châu. Tổng quát theo luật nầy Hoa kỳ chế tài cá nhân dính liu tham nhũng lớn và vi phạm nhân quyền bằng hai biện pháp: đóng băng tài sản viên chức liên hệ và cả thân nhân và cấm những người nầy vào Mỹ. Hoa kỳ vừa áp dụng luật nầy đối với một viên chức Miến Điện và vài viên chức Afganistan. Luật nầy sẽ có thể áp dụng cho các viên chức tham nhũng lớn và ác độc hiện dấu tài sản ở Mỹ, Canada.

Vận động quốc tế trong công cuộc chống TQ. Cả thế giới ngày nay e sợ mộng bá quyền và thực dân mới của TQ .  Những trường hợp kinh doanh hay viện trợ ma đầu và dối gạt của TQ  tại nhiều quốc gia. Một số nơi dân chúng đứng lên chống đối. Cho nên chúng ta cần tìm những cơ hội để phối hợp với những tổ chức chống TQ trên thế giới, nêu lên các vụ lừa gạt, đàn áp  vi phạm nhân quyền và luật pháp quốc tế của TQ. Chống xâm lăng kinh tế TQ là một chánh nghĩa để tiến tới một trật tự thế giới tương đối bình an và lạc phúc.

Các Hội đoàn, Truyền thông trong và ngoài nước nay cần phối hợp với nhau cho một vận động mới  cho công cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế.  Khi đạt được tiến bộ về Tự do, Dân chủ  kinh tế thời sẽ có tác dụng tốt về chuyển biến Chánh trị và Nhân quyền.

Nguyễn Bá Lộc (ĐS9/CH1)

California, 30 tháng Giêng – 2018.

Views: 395

Đọc Lại Sách: Già Ơi … Chào Bạn của BS Đỗ Hồng Ngọc

Minh Tâm Xuân Đỗ

Trước năm 1975, tôi có đọc một số bài viết của Nhà văn Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên tập san Bách Khoa. Tôi rất thích lối viết nhẹ nhàng; nhưng các nhận định của ông rất sâu sắc về các vấn đề nhân văn, sức khỏe và tính nhân bản trong các bài viết đó.

Tháng Tư 75, thời cuộc đổi thay, Việt Nam rơi vào vòng cai trị hà khắc, độc đảng của chế độ Cộng Sản. Tôi may mắn đang làm việc tại thành phố miền biển Vũng Tàu, kịp thời lên ghe, chạy ra biển khơi trong làn pháo kích của quân Cộng Sản, tiến chiếm thành phố vào sáng sớm ngày 29 tháng Tư. Chúng tôi được một chiến hạm Đài Loan, trong chiến dịch cứu trợ người Tỵ Nạn Cộng Sản, thuộc Hạm đội 7 Hoa Kỳ, vớt đưa qua Phi Luật Tân và từ đó qua Mỹ làm kẻ mất quê hương, làm lại cuộc đời trong tuổi tam thập với một gia đình nho nhỏ, vợ và ba con thơ.

Trong viết lách và nhất là đọc sách báo, các bài viết trên báo mạng lưới điện toán, khi máy điện toán ra đời và mạng lưới điện toán phổ cập, đôi khi tôi có dịp “gặp” lại nhà văn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, cũng trong những đề tài trên, cũng vẫn giọng văn nhẹ nhàng, thấm thía hơn và chấp nhận hơn, thấm đượm tinh thần từ bi, hỉ xã, vô thường, sắc không của nhà Phật.

Năm 2005, khi đến tuổi hưu trí và con cái đã thành đạt, có gia đình, ở xa cha mẹ, chúng tôi     chuyển về miền Nam California, vùng Little Saigon, gần gia đình, anh chị em, bạn bè cũ mới, tìm lại không khí quê hương đã mất trong hơn ba mươi năm.

Một anh bạn… không còn trẻ cho tôi hai cuốn sách của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, do một nhóm Phật Tử ấn tống nhân mùa Vu Lan 2012. Hai cuốn sách này nhà văn Đỗ Hồng Ngọc viết và in năm 1999 ở Sài Gòn Việt Nam.

Cuốn “Gươm Báu Trao Tay” nói về bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, một bộ kinh quan trọng của nhà Phật. Và cuốn “Già Ơi… Chào Bạn” mà tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần và hôm nay giới thiệu … tuy khá muộn màn đến bạn bè.

***

Sách in khổ nhỏ, 6.5 x 6.5 inch, dày 134 trang, chữ cỡ 12, đọc dễ dàng, khỏi cần mang kính lão. Sách nhỏ có thể để trong tầm tay hay để trên đầu giường, trên xe hơi đang lái, khi xe ngừng, trong lúc đợi chờ bà xã đi mua thức ăn, đi shopping ở các malls…, mở sách ra đọc lại, các đoạn, các chương… bất cứ lúc nào thuận tiện, khỏi phải xem đồng hồ liên miên và thở phào nhẹ nhỏm, khi thấy bóng dáng nàng, bước ra khỏi tiệm. Trái lại, đọc Già Ơi… Chào Bạn, sao thấy thì giờ qua nhanh quá vậy, còn hỏi bà xã, “sao bữa ni em đi nhanh, mua đủ chưa?”.

Sách nhỏ, dày chỉ hơn 130 trang nếu đọc ngấu nghiến, chỉ khoảng chưa đến một giờ đồng hồ thì xong, nhưng đây là loại sách đọc chậm, từ từ, nhẩn nha, từng trang, từng mục, đôi khi ngừng lại, suy nghĩ hoặc tự cười thầm trước những nhận xét nho nhỏ, dí dõm của tác giả.

Các bài viết cũng kèm theo các hình vẽ minh họa, do chính tác giả vẽ, các nét chấm phá như những bức tranh thủy mặc Trung Hoa hay những bức tốc họa duyên dáng của nữ họa sĩ Bé Ký, hoặc những câu thơ sơ sài Haiku Nhật Bản, chứa đầy tư tưởng cao xa.

Sách có 8 chương, mục và một bài Lời Ngỏ ngắn, hai trang:

–  Già là gì?

–  Khi nào thì người ta già?

–  Mỗi người già một kiểu

–  Đời sống gia đình

–  Biết ơn mình

–  Những bệnh vô duyên

–  Một cách nhìn mới

–  Một tuổi già hạnh phúc

1/ Già là gì?

Làm sao định nghĩa được tình yêu cũng như làm sao định nghĩa được tuổi già. Hỏi ra “Già Là Gì”, thì câu hỏi trở nên ngớ ngẩn, “mát dây”, ai cũng biết, ai cũng hiểu nhưng bảo nói lên cho đầy đủ thì thật là khó. Không ai tự cho mình… già. Đó là một cảm giác chủ quan, rất chủ quan. Ai cũng nhìn người khác, thấy người khác… già hơn mình! Chúng ta đồng ý với tác giả điều này.

Đỗ Hồng Ngọc đưa ra các quan niệm của các nhà văn quốc tế làm dẫn chứng.

Nhà văn Pháp André Maurois có nói:” … thậm chí có khi ta chấp nhận tuổi đã cao đấy, tóc đã bạc đấy, nhưng vẫn có một trái tim không già, không muốn già”. Điều này cũng không xa lạ gì với các cụ nhà ta, cũng đã dõng dạc nói “ngũ thập niên tiền, nhị thập tam (năm mươi năm trước, (tớ) mới có hai mươi ba thôi!”, hay cợt nhã hơn “Già thì già mặt, già mày, chân tay già hết…lòng này còn non”, khi các cụ buông lời ong bướm, bị các cô chê “già…dịch! già mà …ham!”

Tác giả dẫn chứng tiếp, trong cuốn sách “Savoir se soigner pour bien vieillir” (biết tự chăm sóc để có một tuổi già khỏe mạnh) nói tiếp “năm tháng không có nghĩa lý gì!  Nó chỉ là yếu tố phụ. Có những người già lúc mới hai mươi vì không có niềm tin, không hy vọng và những người ngoài tám mươi còn trẻ vì đầy ắp những niềm tin và hy vọng, những kế hoạch không chỉ cho năm sau, tháng sau, mà còn cho ngày mai, ngày mốt….” Và họ khẳng định: “Tâm hồn không bao giờ già, nó trẻ vĩnh viễn.”.

Nghe các cụ này nói thật sướng, mình cảm thấy trẻ ra ngay. “Age is mostly a matter of mind. If you don’t mind, it doesn’t matter” (Tuổi tác là chuyện cái tâm, nếu ta không quan tâm, chả có vấn đề tuổi tác!”

Ông mang thêm Lâm Ngữ Đường ra thuyết phục độc giả :” Nghe một ông lão còn tráng kiện khoe mình còn trẻ, hoặc nghe người ta khen ông còn trẻ, tôi nghĩ có sự lầm lẫn về ngôn từ ở đây. Phải nói “Già mà khỏe” mới đúng chứ! Già mà khỏe là hạnh phúc nhất của con người, như vậy mà gọi là trẻ chả hóa ra làm giảm giá trị của hạnh phúc đi ư !  Không gì đẹp bắng một người già minh mẫn, hiền từ, khỏe mạnh, ôn tồn bàn về thế sự một cách từng trải…”.

Còn ai muốn cãi với tác giả không? (Hởi các ông bạn….già mà còn trẻ … hoặc trẻ mà đã già Quảng Nam… hay cãi của tôi ơi. Hết cãi nhé!).

Tác giả kết luận chương 1 này: ”Và như vậy già là một giai đoạn tất yếu của vòng đời, một chuyện đương nhiên khi người ta tích tuổi, cớ sao còn phải lảng tránh?  Có trẻ thì có già, đó là một nhịp điệu của vũ trụ, đâu cần phải khổ đau vì già, trái lại phải làm sao để có một tuổi già hạnh phúc”.

Khi đồng ý quan niệm được như vậy, theo tác giả, bạn có quyền nói :”Già Ơi!…. Chào Bạn”.

2/ Khi nào thì người ta già?

Chuyện tuổi già không còn là chuyện tầm phào, trà dư, tửu hậu nữa mà là chuyện …. quốc tế trong các hội nghị, có nghị trình, có tuyên ngôn đàng hoàng như Hội Nghị Quốc Tế về Tuổi Già tháng 7 năm 1996, tại Brazil, với tuyên ngôn Tuổi Già là một giai đoạn tất yếu, phổ quát, liên quan đến mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội.

Người già trên dân số thế giới càng ngày càng đông, nhất là phụ nữ (do tuổi thọ cao hơn nam giới). Phụ nữ lớn tuổi lại là một thành phần gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, cần được đặc biệt quan tâm giúp đỡ để họ có một tuổi già khỏe mạnh, hạnh phúc.

Già không phải là một cái bệnh, không thể tránh được, nhưng những bệnh tật, tàn phế của tuổi già, có thể tránh, hoặc giảm bớt bằng những biện pháp, chính sách, y học, xã hội, kinh tế và môi trường.

Vấn đề là làm sao có sự công bằng với người già trên thế giới vì sự chênh lệch, khác nhau giữa các châu lục, quốc gia, giàu nghèo, môi trường và điều kiện sinh sống.

Tổ chức Sức Khỏe Thế Giới (WHO) dự trù, đến năm 2020, sẽ có một tỷ người già trên tuổi 60. Làm sao cải tiến sức khỏe cho người già, để có một cuộc sống an vui, hạnh phúc? Câu hỏi rơi vào thinh không.

Câu trả lời cho vấn nạn “khi nào thì người ta già” vẫn rất mơ hồ. Người Á Đông quan niệm đời người chỉ vào khoảng sáu mươi năm. “60 năm là một kiếp người”, câu hát “60 năm cuộc đời” rất thời thượng trước đây nay không còn hợp nữa hoặc quan niệm “thất thập cổ lai hy” xưa và sai quá rồi. Ngày nay nam giới qua tuổi bảy mươi, tám mươi, bước vào 90 và  quí bà qua tuổi 80, 90 và bước vào 100 là chuyện không hiếm.

3/ Mỗi người già một kiểu

Đã biết rằng, trong thiên hạ, cứ 9 người thì có đến 10 ý. Vậy trong cuộc đời cứ 10 người, có đến…  11 kiểu già thì cũng dễ hiểu thôi! Mỗi người sống theo một ý, một cách, một quan niệm tùy thích. Mỗi người chịu ảnh hưởng của gia đình về di truyền. Mỗi người tùy thuộc vào tình trạng khá giả hoặc nghèo khó, có học vấn hay mù chữ. Có thể tùy thuộc về mọi phương diện của cuộc đời, từ khi còn trẻ, thì đến tuổi già, mỗi người già mỗi kiểu. Chẳng ai giống ai.

Có một chuyện khôi hài…. đen. Trong một cuộc phỏng vấn truyền hình về cách sống ảnh hưởng đến tuổi tác như thế nào. Người phóng viên phỏng vấn hai vị cao niên. Một vị đầu tóc bạc phơ, da thịt vẫn còn hồng hào, nói năng mạch lạc. Một trẻ hơn, mệt mỏi, xanh xao, chán nản.

Vị cao niên trả lời phỏng vấn: “Tôi năm nay hơn 80. Khi trẻ tôi sống điều độ. Cũng có một tí rượu chè, cà phê, cà pháo. Dục tình vừa phải. Tự chế”.

Cụ thứ hai thở ra, uể oải lắc đầu, khi trả lời: “Nghe cụ kia nói tôi mệt quá. Tôi đấy à, chơi thả dàn, tuốt luốt. Cuộc đời có bao lăm mà …khổ quá vậy”

Phỏng vấn viên vội hỏi trong ngạc nhiên, ngầm đôi chút… ngán: “Thế cụ năm nay bao nhiêu tuổi thọ…ạ?”

Ông ta lắc đầu: “Tôi đấy à? Tuổi tác làm gì? Tôi được… 35 tuổi rồi đấy! ».

Khán giả vỗ tay, cười vang.

Tác giả kể ra nhiều loại già: có kiểu già hóp, già sớm. Có kiểu già từ tốn, từ từ. Có kiểu già cái rụp, sau một cơn bịnh suýt chết. Có kiểu già do lo âu, buồn rầu, bất mãn với cuộc đời, « sinh bất phùng thời ». Có kiểu già hạnh phúc đem niềm vui cho gia đình, con cháu.

Có nhiều kiểu già khác nhau, khi nhìn những ngày sắp đến, ví dụ đến tuổi về nghỉ hưu. Có người  cảm thấy như được mới ra khỏi nhà tù trong bao năm phải làm việc. Trái lại có nhiều người nghe tin được nghỉ hưu, lo sợ những ngày sắp đến sẽ làm gì cho hết trong chán chường, thì giờ dư thừa!….Như nhà thơ Cao Tần đã than vào những ngày tháng đầu tiên trong đời lưu vong, làm kẻ mất quê hương ở Hoa Kỳ, sau tháng Tư đen  năm 1975, « ta làm gì cho hết nửa đời sau »!. (Thực sự sau hơn bốn mươi hai năm làm người mất quê hương, những người lưu vong đầu tiên đó, tiếp đến là những người không sợ chết, nhảy ra đại dương bao la trên những con thuyền tí hon, chống chỏi với bão tố, hải tặc, sự quay lưng vì mệt mỏi của lương tâm con người đã chai đá, rồi tiếp đến đợt nhưng kẻ bị xô đuổi ra khỏi quê hương bằng sự mặc cả với kẻ cựu thù Mỹ, đổi đồng tiền và sự công nhận chế độ Cộng Sản trên đất nước Việt Nam, bằng chương trình Tỵ Nạn Nhân đạo H.O. Lớp người đã chịu đày đọa dã man này đa số là tinh hoa của nền văn hóa tự do, nhân bản Việt Nam Cộng Hòa trong hơn hai mươi năm 1954-1975, đã ra đi mang thêm tinh hoa cho sự thành công của Người Di Dân Việt trên đất Hoa Kỳ và các nước tự do trên thế giới).

Nửa đời sau của người di dân Việt khá thành công cho chính họ và thế hệ con cháu tiếp theo, làm nên nhưng dự cảm của nhà thơ Cao Tần đưa đẩy người di dân Việt lấp đầy cuộc đời còn lại với niềm tin mãnh liệt vào tương lai, chứ không thất bại trong đau thương như sự lo ngại ban đầu.

Tuổi già được trọng vọng hay bỏ bê cũng tùy thuộc vào nền văn hóa của nơi người già đang sinh sống hết quảng đời còn lại của mình. Trong nền văn hóa kính lão đắc thọ thật sự của ta trước đây, cha mẹ, ông bà, khi về già được con cháu nuôi nấng, chăm sóc cung kính. Người già cảm thấy hạnh phúc, an vui và mãn nguyện về cuộc đời và gia đình.

Trái lại trong các nền văn hóa coi trọng giá trị  kinh tế, hiệu năng, tốc độ, sức mạnh, trẻ đẹp… người già trở thành lực cản, mang mặc cảm tự ti, dư thừa, chuẩn bị vào viện dưỡng lão. Nghe thật đau lòng nhưng như trên tôi đã nói, cũng tùy thuộc vào nền văn hóa họ mang trong dòng máu và thế hệ sau còn giữ lại phần nào hay không.

Già cũng nên giữ bề ngoài, cử chỉ, giao tiếp chừng mực của tuổi già. Tuổi già không thể se sua, diêm dúa , mạnh bạo…. như thời còn trẻ. Không tự ti cũng không tự tôn, cứ khoe khoang mãi một thời huy hoàng đã qua, thực hay quá cường điệu, hư cấu. Nên điều chỉnh chính mình cho hợp với hoàn cảnh, tạo niềm vui cho mình và mọi người chung quanh (Theo sách Làm Đẹp của Nguyễn Hiến Lê, bản dịch Lâm Ngữ Đường) do tác giả trích dẫn.

4/ Đời sống gia đình

Càng lớn tuổi, người già càng cần sống trong một gia đình có không khí yêu thương, kính trọng, hòa thuận. Anh bạn tôi cứ ngẩn ngơ đến rơm rớm nước mắt, khi nói chuyện đến con cái, khi cậu con trai út đi học xa. Tôi cười, chê anh ta «yếu» quá. Nhưng khi cậu con trai út tôi, 18 tuổi, xong trung học, được học bỗng đi học xa nhà như hai anh chị nó, tôi cũng buồn buồn nhưng bà xã thì cứ khóc hoài khi thấy mấy đứa con nhà hàng xóm chạy chơi nô đùa. Đó là khi chúng tôi chưa qua tuổi năm mươi, chưa già. Để khuây khỏa, chúng tôi buổi chiều đi bộ ngoài công viên hay trong các malls thương xá trước khi về nhà tắm rữa, đi ngủ ngon.

Trong hưu trí, bất cứ ông bà nội ngoại nào, khi có đứa cháu nội, ngoại đầu tiên đều trân quí, nâng niu, bồng ẳm, hơn xa khi có đứa con đầu lòng. Tưởng về hưu, rảnh rổi trong tuổi già, hóa ra lại bận tối tít lo cho cháu nội, ngoại. La khổ như bộng nhưng rồi vẫn ôm lấy cháu mà…khổ nhưng lại thấy rất sung sướng, hãnh diện, hạnh phúc.

Ở cái tuổi «chớm già», khi mới nghỉ hưu có nhiều cái «sốc» lắm như các nhà tâm lý học đã nói. Đầu tiên là «sốc» về đời sống tình dục lứa đôi….xuống cấp dần dần…. dần dần, rồi cũng nghỉ hưu. Và đến bệnh hoạn.Trong thời gian chủ nhân nó bận bịu tíu tít trong công ăn, việc làm, nó cũng nằm ngủ yên nơi nào đó. Nay thấy chủ nhân nó thảnh thơi, nó cũng ló mòi, cũng «ba cao, một thấp (cao mỡ, cao máu, cao đường và thấp khớp», xuất hiện. Vào tuổi thất thập, bát thập, tai bắt đầu nghểnh ngảng. Mắt thay kính hằng năm, vẫn mập mờ.

Theo các nhà tâm lý học, ở tuổi vào già hay chớm già, các bà hay buồn vu vơ, thường có cảm giác hụt hẩng, băn khoăn, dễ gây tranh cãi với chồng trong bất kỳ việc nhỏ nhặt nào. Các bà cảm thấy nơi ông chồng mà mình khâm phục khi còn trẻ nay sao ngớ nga. ngớ ngẩng, chậm chạp, rù rờ, « xuống cấp » nhanh quá.

Các ông thấy càng ngày càng ít tự tin. Có nhiều ông nhìn lại một thời huy hoàng, trẻ trung, trở nên tiếc nuối, dễ bị bực bội, khi bị chỉ trích, cãi nhau và càng ngày càng thu hẹp giao tiếp, càng rút về cố thủ tiền đồn cuối cùng, bên vợ và các cháu nội ngoại gần gũi.

Tuy nhiên có những gia đình, hai vợ chồng già sống bên nhau rất hòa hợp, an vui, chia xẻ các vấn đề từ gia đình, xã hội và hăng hái tham gia các nhóm bạn bè cùng lứa tuổi trong thể dục, giải trí, từ thiện, giúp đỡ người khác và tìm thấy niềm vui tưởng như đã mất.

Các nhà tâm lý học nhận thấy về già khi mình nhìn được người khác khổ hơn mình, cần trợ giúp về tinh thần hoặc vật chất, người già cảm thấy vui lên, thấy cuộc sống bên nhau quí nhất cho đến ngày xa nhau, về bên kia thế giới.

Tác giả, nhà văn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại trích thêm cuốn « Sống Đẹp » do ông Nguyễn Hiến Lê dịch của Lâm Ngữ Dường, kể chuyện họa sư danh tiếng đời Nguyên, Trung Hoa, là Triệu Mạnh Phú về già lại muốn cưới một người thiếp trẻ, xinh đẹp. Bà vợ già của ông viết mấy câu thơ :

…. Lấy một nắm đất sét,

Nắn thành hình anh,

Đắp thành hình em,

Rồi đập phá cả hai, nhào chung lại.

Lại nắn thành hình anh

Lại đắp thành hình em.

Trong chất đất của em, có anh

Trong chất đất của anh, có em….

Ông đọc bài thơ, cảm động, không đòi cưới bà thiếp nữa. Lâm Ngữ Đường ví von: “Trong hôn nhân, bà là nước, ông là đất sét. Nước thấm vào đất sét thành hình. Đất sét giữ nước. Nước lưu động, sinh hoạt trong đất sét…”

Ông Phan Khôi ngày trước có bài thơ “Tình Già” thì ngày nay các thế hệ hậu bối, khi vào già, chả lẽ không có những mối tình già cũng đẹp hoặc đẹp hơn sao!.

5/ Biết ơn mình

Đây là một nhận xét mà khi tôi đọc đến đoạn này, tôi bật cười và cảm thấy thấm thía với nhận xét dí dỏm nhưng sâu sắc này.

Ai cũng biết rằng, do sự dạy dỗ từ gia đình, học đường, cuộc sống, từ trẻ thơ đến tuổi trưởng thành, vào đời, ta luôn luôn biết ơn, cám ơn mọi người, từ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bà con lối xóm đến đồng bào cùng quốc gia, dân tộc, đến cả nhân loại, trực tiếp hay gián tiếp góp phần cho đời sống của ta, đến tuổi vào già. Nhưng ít khi có ai dạy cho ta biết…..ơn ta. Điều này bị cho là vị kỷ, lố bịch, kỳ cục.

Tác giả cho biết, trong thời gian ông giữ mục Phòng Mạch cho tờ báo Mực Tím, ông nhận được rất nhiều thư của độc giả trẻ, tuổi mới lớn kêu ca về hình thể, nhan sắc, tự sỉ vả mình thậm tệ. Nhiều em còn có ý muốn tự tử, muốn chết đi cho khuất mắt vì… vài vết mụn trứng cá trên mặt, làm mất vẻ đẹp của mình và chán đời.

Ngay cả người lớn tuổi cũng vậy.  Nếu hằng ngày soi gương thấy hình ảnh mình mỗi ngày càng già đi, da nhăn, tóc bạc, người bờ phờ, thì buồn bực, khổ sở. Các bà đi thẩm mỹ viện, các ông lo âu, buồn bực, càng sinh thêm bệnh hoạn, không biết than vãn cùng ai.

Nhưng có ai trên đời mà không …già, không bệnh hoạn khi tuổi càng ngày càng cao . Đó là lẽ đương nhiên của luật tuần hoàn, của lẽ vô thường.

Nhưng ông biết rằng nói chuyện với mấy ông già này rất khó. Để thuyết phục, tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết :”Có món đồ dùng nào mà xài vĩnh viễn đâu, ngay cả đến những máy móc tinh xảo nhất, được làm bằng những thứ kim loại tốt nhất…đến lúc nào đó, nó cũng phải hư, vất đi. Như vậy nhiều người trong chúng ta có thể vỗ  ngực nói rằng, mình đã xài đời mình đến sáu, bảy chục năm mà hãy còn ngon lành đó chứ! Vậy ta phải biết ơn ta nhiều hơn”.

Là một bác sĩ y khoa được đào tạo dưới thời Việt Nam Cộng Hòa còn sót lại tại Việt Nam ngày nay, ông đã đem hiểu biết, quan sát về y học, về kinh nghiệm điều trị để kêu gọi độc giả, nhất là độc giả ….không còn trẻ, hay độc giả….bạn già, hãy tự thương mình, biết ơn mình, săn sóc chính mình đúng hơn để có một cơ thể khỏe mạnh, một cuộc sống hạnh phúc.

Ông thử đưa ra vài ba ví dụ. Hãy thử xem bộ xương. Cơ thể ta có trên hai trăm cái xương, lớn nhỏ, nối kết lại với nhau nhờ các khớp. Đến tuổi già, có bao giờ bộ xương, các khớp được bôi dầu trét mở gì đâu, vậy mà nó vẫn làm việc trơn tru. Sao ta không biết ơn nó.

Thử xem tiếp bộ máy tuần hoàn. Trái tim mỗi ngày co bóp cả trăm ngàn lần để đẩy một khối lượng máu, khoảng 8000 kgs máu, không ngừng nghỉ, kể cả khi ta ngủ.

Đã vậy con người không những không nhớ, không biết ơn mà nhiều khi còn hành hạ, đầu độc nó bằng rượu, chè, cà phê, thuốc lá vv….Chưa kể trong văn, thơ, nhạc lại lên án trái tim, nào trái tim gian dối, trái tim ngục tù, trái tim phản bội. Đủ hết. Không ai thương nó, tội nghiệp cho nó.

Khi nó có vấn đề là nguy to, nào mổ tim bypass, thông tim, mang máy trợ tim … lúc đó buồn lo, thương tiếc thì đã hơi….muộn.

Trái lại tôn thờ cá nhân mình quá, thân xác mình quá mức như các ông Cộng Sản còn sót lại như Cộng Sản Việt Nam, cho mình là “đỉnh cao trí tuệ của loài người” (hơn cả con khỉ của nhà bác hoc Darwin) thì không còn ngôn ngữ nào để nói nữa.

Thôi ta nên bỏ cái đám cá kèo Việt Cộng vào giỏ rác lịch sử như các tiền nhân của Cộng Sản, các ông Marx, Hegel, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh…. để trở lại với các vấn đề nhân sinh bình thường….như đang bàn về cuốn sách nhỏ Già Ơi…Chào Bạn của Đỗ Hồng Ngọc.

Chương này là chương ông viết nhiều, kỷ lưỡng, sâu sắc và nghiên cứu công phu.

Mạch máu của ta cũng giống như ống nước. Khi còn mới thì nó dẻo dai, co giãn dễ dàng. Khi cũ đi thì nó giòn, dễ hư, dễ gãy. Mạch máu của các …bạn già ta cũng không khác gì. Lớn tuổi có thể bị cao áp huyết, dễ gây nhiều biến chứng. Cao áp huyết cộng với cao mỡ, tiểu đường có thể tạo nhiều nguy hiểm cho tim mạch, tai biến mạch máu não …

Rồi xem qua phổi. Đây là nơi không khí được trao đổi cho sự sống. Con người có thể nhịn đói, nhịn khát trong thời hạn nào đó, chứ không thể nhịn thở quá năm phút. Thiếu dưỡng khí (oxy) khoảng năm phút, các tế bào não sẽ bị hủy hoại, không phục hồi lại được.

Thở vào, thở ra quan trọng vô cùng cho sự sống. Đừng nghĩ rằng, thở chỉ là một cử động phản xạ của cơ thể và không thèm để ý đến nó.

Trái với các cơ phận khác của cơ thể, hơi thở và phổi con người có thể luyện tập được, để giữ sức khỏe tốt mà còn làm cho sức khỏe tăng cường thêm lên. Khi làm việc nặng nhọc, chạy nhanh, cơ thể mỏi rã rời, cần hít vào thật sâu, thở ra nhẹ nhàng, trong chốc lát, ta cảm thấy khỏe lại và có thể tiếp tục làm việc hay chạy tiếp.

Khi hít không khí vào thật sâu, không khí chạy xuống đến tân rún (gọi là huyệt đan điền), giúp cho các cơ phận nằm sâu trong cơ thể tiếp nhận dưỡng khí mới, tốt, khỏe lên, hoạt động tốt hơn là vậy. Do đó, càng lớn tuổi, ta cần tập thể dục đều đặn hơn, tập hít thở sâu vào, thở ra chậm rãi, đẩy thán khí ra khỏi buồng phổi, tránh được nhiều bệnh hơn cho phổi, tránh được các cơn ho sù sụ khi trái trời, trở lạnh, giao mùa. và ít phải uống các loại thuốc ho.

Hơi thở còn có tác dụng tâm lý nữa. Đó là khi ta hít vào thật sâu, thở ra nhẹ nhàng, thoải mái, ta cảm thấy khỏe hẳn ra, hết stress, hết lo âu, thấy yêu đời, yêu người, yêu…  tưng bừng, dù ở tuổi bảy mươi, tám mươi, chín mươi hay chuẩn bị qua bên kia Miền Cực Lạc.

Sau phổi, tác giả Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tiếp tục, qua kiến thức của một vị lương y, giới thiệu thêm cho các…. bạn già, biết thêm về hai cơ phận quan trọng khác mà ta không ngờ. Đó là cái miệng và cái bao tử.

Ông lấy kinh nghiệm của người xưa, để thuyết phục các bạn già. Đó là tư tưởng của triết gia Trung Hoa vào thế kỷ 16, Lý Lập Ông, trong cuốn Nhân Tình Ngẫu Hứng. Ông triết gia này bảo rằng “xét trong cơ thể con người, tai, mắt, mũi, họng, chân tay, thân thể, hết thảy đều cần thiết ….Chỉ có hai cái rất cần thiết cho con người, mà trời phú cho ta, là …. cái miệng và cái bao tử, nhưng lại là nguồn gốc của tất cả những hệ lụy của con người, từ ngàn xưa đến nay và có lẽ cả ngàn… sau nữa!.

Do cái miệng và cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, mới sinh ra những tranh chấp, mưu mô gian trá, mới phải đặt ra hình pháp….

Lâm Ngữ Đường đồng ý nên cũng bảo “Chúng ta có một cái bao không đáy, gọi là…. bao tử. Nó ảnh hưởng đến văn minh của nhân loại…. Các hội nghị quốc tế dù có căng thẳng đến mức thế nào đi nữa, đến giờ đói bụng, đều phải ngừng lại, để ăn cái đã….” Lâm Ngữ Đường tiếp :”Nếu con người có được cái diều như diều chim, có cái dạ dày của loài nhai lại, chắc là không có chiến tranh với nhau, từ cục bộ đến chiến tranh thế giời. Con vật loài ăn cỏ, ăn hạt, đều hiền lành. Loài ăn thịt đều dữ dằn, hiếu sát….” Ông diễu thêm :”Gà trống thích đá nhau không phải vì tranh thức ăn, mà chỉ vì ….gà mái.” Con người nếu chỉ có cái diều, chỉ ăn cỏ cây, hoa quả, cây trái và nhai lại, cũng có thể có các cuộc chiến tranh nhỏ nhỏ, không đến nỗi phải dùng bom đạn, nguyên tử, khinh khí, để tận diệt nhau và tận diệt cà trái đất này.

Nhưng tội nghiệp cho cái bao tử không đáy, nó phải làm việc cật lực, lo việc co bóp, nhào nặn thức ăn uống, suốt dêm ngày để cung cấp cho con người chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sống. Nó làm việc ngày đêm mà ta không hề hay biết.

Trái lại ta đâu có biết giá trị công việc khó nhọc của cái bao tử, chứ đừng nói đến biết ơn nó. Ngược lại ta sẵn sàng, tộn, xực, nhồi nhét, càng nhiều càng khoái chí. Ăn hết, không bao giờ ngừng nghỉ. Không bao giờ kể đó là rắn, rít, thằn lằn, tắc kè, chuột, bọ, cào cào, châu chấu, nghêu sò, ốc, hến…. Ta còn đổ vào bao tử rượu đế, bia, whisky  vv… Tới một lúc nào đó, bao tử chịu không nổi nữa, có vấn đề… mới chịu chạy thầy, chạy thuốc, đi nhà thương cắt bỏ một phần bao tử. Hối hận thì cũng muộn.

Hệ tiêu hóa được điều khiển bởi một hệ thần kinh tự động, ngoài ý muốn của ta. Các tình trạng căng thẳng, lo âu, sợ hãi hoặc vui vẻ quá mức, đều có tác dụng đến bộ phận tiêu hóa, như khi …vui quá, sợ quá, vãi… ra quần, tè…. ra quần mà không biết. Điều này được bác sĩ Ivan Pavlov (1849-1936), Nobel Y khoa năm 1904, một nhà Sinh vật học, người Nga thí nghiệm trên các con chó, để phân tích “phản xạ có điều kiện”. Khi cho chó ăn, ông đánh một tiếng kẻng. Nhiều lần thí nghiệm, lặp đi, lặp lại như vậy. Khi đánh tiếng kẻng mà không có thức ăn, con chó vẫn tiết ra nước miếng và chất vị toan trong hệ tiêu hóa.

Sau này Lenin áp dụng định luật này vào chính sách lương thực, hứa rằng, dưới chế độ Cộng Sản, con người làm theo sức mình, hưởng quyền lợi theo nhu cầu, làm chết đói bao nhiêu triệu dân Nga trong cuộc Cách Mạng Vô Sản (1917) và chế độ Cộng Sản tại Liên Bang Sô Viết (USSR), từ năm 1922 đến khi Cộng Sản sụp đổ năm 1991.

Tác giả Đỗ Hồng Ngọc lại kéo Lâm Ngữ Đường vui theo với nhận xét :”Đối với tôi, hạnh phúc trước hết là vấn đề tiêu hóa. Ruột ta mà vận động điều hòa, ta có hạnh phúc. Không thì ta khổ sở lắm”. Nói thẳng ra, khi ta kẹt quá trong việc muốn đi tiêu, đi tiểu mà chẳng kiếm đâu ra nhà vệ sinh hoặc nơi nào kín đáo, thì khổ sở vô cùng. Xã được cái “bầu tâm sự”, thì thật là hạnh phúc. Ai cho bạc triệu chưa chắc sung sướng hơn! Và những người táo bón quanh năm, mặt mày lúc nào cũng nhăn nhó, khổ sở, đăm chiêu. Diễu thiệt nhưng đúng quá chứ còn cãi gì được!

Trong hệ tiêu hóa, bộ răng cũng rất quan trọng. Khi còn trẻ, răng chưa có vấn đề, nhưng khi tuổi càng ngày càng cao, răng trở nên lung lay, đau nhức, là một vấn đề sức khỏe tốn kém.

Việt Nam cũng như các nước nghèo khác, vì nghèo nên ít chăm sóc bộ răng kỷ lưỡng từ khi còn trẻ, để đến khi bị đau nhức mới đi nhổ bởi các thợ nhổ răng, chứ không phải Nha Sĩ có học đầy đủ về y khoa và nha khoa đại học. (Đôi khi ra chợ nhổ răng quảng cáo, do các tên làm xiếc Sơn Đông mãi võ, vừa đánh trống, vừa đùa với con khỉ, nhổ răng bằng một sợi chỉ, cột vào chiếc răng đang  đau, úm ba la, giật thật mạnh, chiếc răng văng ra, máu đổ đầy miệng. Về nhà súc nước muối năm ba bữa mới hết đau. Sợ đến… già).

Theo tiết lộ của bác sĩ thân cận của Mao Trạch Đông, chính Mao buổi sáng thức dậy uống trà, dùng nước trà nóng súc miệng chứ không bao giờ đánh răng và không bao giờ săn sóc bộ răng. Ông trùm của bao nhiêu tỷ dân Trung Hoa mà cũng không biết thế nào là sự quan trọng của sức khỏe của răng, thì các tỷ dân Tàu lấy đó làm gương noi theo.

Các bộ phận khác như măt, tai, mũi, họng…. cũng vậy. Bộ phận nào trên cơ thể do cha mẹ sinh ra, đều quan trọng cho sự sống, không những ta phải biết ơn nó, săn sóc nó, vì đó là chính săn sóc cho ta đến cuối đời.

6/ Những bệnh vô duyên

Đã gọi bệnh là do đau ốm, thân thể có vấn đề. Còn bệnh vô duyên là gì? Tác giả Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ y khoa, luôn luôn gần gũi với bệnh nhân, với chữa trị bệnh, đã gọi những bệnh vô duyên:” đó là những bệnh không đáng có”.

Bệnh vô duyên có thể do chính thầy thuốc gây ra cho ta, dù là ngoài ý muốn (iatrogenic), có thể do sự nhầm lẫn của thầy thuốc, trong khi chẩn bệnh, chữa trị, trong lúc giải phẩu, cho toa  …

Có thể do chính ta, người thân trong gia đình, bạn bè, lối xóm, nhân viên tâm lý xã hội ….mách thuốc do biết người này, người kia có bệnh tương tự, chạy chữa cách này cách khác, lành bệnh, nay bày vẽ cho ta làm theo. Lành bệnh đâu không thấy, nhiều khi gây thêm bệnh, mới khổ.

Cơ thể của người cao tuổi, về khả năng thích ứng càng ngày càng yếu đi, thuốc men nhiều lại sinh thêm bệnh do sự hấp thụ thuốc chậm trong lúc khả năng đào thải ảnh hưởng thuốc lại càng chậm hơn, chưa kể còn tùy cơ thể từng người hợp với thuốc này, thuốc khác.

Ngoài ra, trong khi chữa trị, người bệnh thường được bác sĩ giới thiệu, hoặc do chính bệnh nhân muốn, đến các trung tâm thử nghiệm. Nhiều khi đi tùm lum, đủ nơi làm cho người bệnh mỏi mệt thêm, gây tình trạng gần như khủng hoảng tâm bệnh lý!

Trong lúc đó, nhiều lời nói ra, nói vào, góp ý nhưng lại làm cho người bệnh hoang mang. Nhiều khi rơi vào tình trạng “lắm thầy… thối ma, lắm người ta ….thối….”.

Bệnh vô duyên nhiều vô kể. Đã nói đó là … vô duyên thì thôi đừng nghe tào lao mà chẳng giúp ích gì, lại làm cho ta lo sợ… vô duyên thêm.

7/ Một cách nhìn mới

Đã biết rằng con người không làm sao tránh khỏi bệnh hoạn, ngay cả khi còn trẻ, khỏe mạnh. Trong tiến trình của đời người, sau sinh. lão, thì tới bệnh. Để hết bệnh hoạn, khi lâm bệnh thì lo việc thuốc men, tịnh dưỡng cho lành bệnh. Thuốc men có thể nhanh, làm dứt bệnh, trở lại lành mạnh, hạnh phúc. Có thể gặp bệnh nặng, thuốc men, chạy đủ thầy này, thầy nọ, bệnh vẫn chưa khỏi. Tác giả khuyên bệnh nhân hãy bình tỉnh, tiếp tục chữa chạy. Bệnh chưa nặng, chưa có gì nguy kịch mà đã rơi vào tình trạng ưu sầu, lo lắng quá độ, nhiều khi làm bệnh nặng thêm.

Tác giả lấy hai ví dụ làm bằng chứng:

a/ Bệnh cao áp huyết: là một bác sĩ điều trị, ông kể, có những bệnh nhân, khi mới có triệu chứng bệnh cao áp huyết, khi đo, đã hoảng hốt, ôm cái máy đo hằng giờ. Càng đo, mức chênh lệch trên máy càng nhảy lung tung, càng hoảng sợ. Lo sợ đến mất ăn, mất ngủ, làm người phờ phạc, bệnh càng có vẻ càng ngày càng tệ hại thêm. Thật sự, mức cao, thấp của áp huyết, lên xuống là chuyện bình thường. Càng lo sợ, hồi họp, tim càng đập nhanh chậm, làm mức đo lên xuống bất thường thêm. Hãy an tâm, tỉnh dưỡng, nghỉ ngơi, tập thể dục nhẹ, vui chơi với con cháu, đọc sách, làm vườn…. Khi khỏe trong người, với thuốc men bác sĩ cho, uống đúng liều lượng, áp huyết sẽ trở lại bình thường hoặc không còn lên xuống bất thường nữa.

b/ Bệnh tiểu đường: Bệnh tiểu đường là một bệnh mãn tính, do những rối loạn về sự điều hòa đường huyết, có thể đo đạt bằng máy móc điện tử, độ lên xuống của đường trong máu. Nhưng tác động của bệnh tiểu đường với từng người bệnh ra sao, với các quan hệ gia đình, xã hội, năng lực làm việc, đời sống kinh tế vv… của từng người bệnh từ lâu nay không được để ý đến.

Có những bệnh nhân khi khám phá ra mình bị bệnh tiểu đường, dù là tiểu đường loại 2 (có thể do di truyền), nhẹ thôi nhưng lại quá lo âu, sợ hãi, kiêng cữ quá độ, không còn biết đến ăn ngon, ngủ yên. Trong lúc đó người cũng bị bệnh tiểu đường như vậy mà lại  an vui, hoạt động khỏe mạnh, tích cực, vui sống, vẫn giữ bình thường các quan hệ xã hội, giao tế, vừa kiểm soát được lượng đường với những phương pháp y khoa và thuốc men ngày nay, vừa có cuộc sống bình thường, hạnh phúc.

Do kinh nghiệm khi chữa trị cho các bệnh nhân, tác giả nhận thấy rằng, việc thuyết phục bệnh nhân đừng quá lo lắng, sợ hãi khi khám phá ra mình đang bị các chứng bệnh thật bất trị, chết người, tuy thầm lặng, ít hy vọng được người nghe chấp nhận.

Để thuyết phục độc giả, tác giả đem quan niệm của cơ quan Sức Khỏe Thế Giới WHO, cho rằng, sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn thoải mái, hài lòng (well being) về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh tật.

WHO cũng đưa thêm bảng liệt kê, đánh giá về phẩm chất của cuộc sống, đó là hạnh phúc của con người. Đây lại là một vấn đề thật khó khăn tùy thuộc nhiều yếu tố như nền văn hóa nơi con người đang sinh sống và nhiều yếu tố khác. Như vậy có vẻ chủ quan, nó đòi hỏi cần một sự hiểu biết và thông cảm giữa bệnh nhân và thầy thuốc, để tạo bầu không khí tin tưởng trong sự điều trị. Một khuynh hướng chỉ có thể có ở các nước giàu mạnh, văn minh, có bảo hiểm y tế tốt và sự chăm sóc bệnh nhân tốt. Những nước nghèo và nền y tế trì trệ, xem thường sự chăm sóc và quyền được hưởng sự săn sóc kỹ lưỡng, không xem phẩm chất của nền y tế là quan trọng, thì khuynh hướng này thật khó có được..

Điều này bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đưa ra như một ước mơ lý tưởng của một vị lương y nhưng khó khăn tại các nước không tôn trọng quyền người dân như Việt Nam dưới sự cai trị độc dảng, hà khắc, cướp bóc tài sản của người dân chứ đừng nói đến tôn trong quyền của người dân.

8/ Một Tuổi Già Hạnh Phúc

Tuổi già và Hạnh phúc là hai yếu tố tương đối chủ quan, mơ hồ ít được mọi người đồng ý với nhau. Tuy nhiên nếu có thể nhân nhượng nhau, tránh tranh cãi ráo riết, có bốn yếu tố trong cuộc sống, người ta có thể tựu trung đồng ý với nhau về tuổi già và hạnh phúc. Đó là Sức khỏe, Nơi ăn chốn ở, Lợi tức (thu nhập), và Khả năng Hoạt động.

Bốn yếu tố này có thể trông thấy, đo lường được, dù chỉ tương đối. Khi bốn yếu tố trên tạm đầy đủ, thoải mái, con người có thể hưởng trạng thái Hạnh phúc, dù tuổi càng ngày càng cao.

Kahlil Gibran (triết gia, nghệ sĩ, nhà văn Mỹ gốc Lebanon 1883-1930) viết:

“ Wake at dawn with winged heart

and give thanks for another day of loving”

Chuyển qua Việt ngữ:

“ Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy

Ta được thêm ngày nữa để yêu thương”

(Nguyễn Nhật Ánh)

Thật đẹp.

***

Trong phần Lời Ngỏ, chính tác giả đã nói, “năm 1999 năm Quốc Tế Người Cao Tuổi, tôi viết cuốn sách nhỏ này để tặng…. mình và những bạn bè cùng lứa, những người đang bước vào bậc thềm của tuổi…. già và đã có thể mỉm cười rạng rỡ, “Già Ơi!….Chào Bạn”.

Để có thêm tài liệu giới thiệu độc giả cho bài Điểm Sách nhỏ này, tôi vào Google tìm thêm tiểu sử của Nhà văn, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, được biết, ông có trang nhà riêng, đầy đủ các bài viết của ông và các bạn văn, thường trao đổi với nhau.

Qua trang nhà của ông, Đỗ Hồng Ngọc người Phan Thiết. Năm 1954 ông học lớp Đệ Thất trường Trung Học Phan Bội Châu, Phan Thiết. Năm 1962, đậu Tú Tài II và do sự khuyến cáo của nhà văn, nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê, ông học PCP (Lý,Hóa, Nhiên), đại học khoa học, để vào học trường Đại Học Y khoa Sài Gòn.

Tốt nghiệp bác sĩ Y khoa đại học Y Khoa Sài Gòn, ngoài việc hành nghề y khoa, ông là Giảng Viên môn Nhi Khoa tại trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia từ năm 1972 đến năm 1975, thời Việt Nam Cộng Hòa và sau đó vẫn còn được giữ lại trong việc giảng dạy môn này đến năm 1982.

Ông có ba cái đam mê: dạy học, văn chương và nghề y (săn sóc sức khỏe cho con người). Ba đam mê này, ông theo đuổi đến cùng với lòng nhiệt thành, không do danh vọng, tiền tài, áp bức.

Tác giả bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không những là một vị thầy thuốc có lương tâm, nhưng còn là một lương y chấp nhận sống trong địa ngục Cộng Sản, để cứu vớt con người bị tước đoạt tất cả các quyền tự do của con người, trong đó quyền tự do mưu cầu sống còn, mưu cầu hạnh phúc của con người mà các quốc gia văn minh công nhận và bảo vệ.

Chúng ta những người Việt Nam sống ngoài sự kềm kẹp của chế độ phi nhân Cộng Sản từ sau ngày 30 tháng tư năm 1975, đã quằn quại đau đớn làm kẻ mất quê hương, từ những ngày Cộng Sản chiếm đoạt Miền Nam, đến những đợt người Việt Nam trong nước, không thể sống được dưới chế độ tàn ác, cướp bóc của chính quyền Cộng Sản, bỏ nước ra đi trên những con thuyền nhỏ bé dưới bão tố, hải tặc, sóng biển, nếu may mằn sống còn, được đến các bến bờ tự do, nhờ bàn tay nhân đạo của thế giới, cứu vớt. Tiếp đến những đợt được ra đi do thân nhân bảo lãnh, những đợt ra đi do các thương lượng giữa chính phủ Hoa Kỳ, Cộng Sản chịu chấp nhận để những người bị đày đọa, được đưa gia đình đi tìm tự do, sống còn và mang hy vọng cho con cháu, thế hệ tương lai.

Quên đi những đau thương ban đầu của kẻ bị tước đoạt tất cả, chịu tất cả nhục nhằn để sống còn, để bảo vệ con cháu. Chúng ta đã từ đau thương, đứng lên từ những đôi chân run rẩy, làm lại cuộc sống, đào tạo thế hệ con cháu có đầy đủ kiến thức, để vươn lên, sánh vai cùng bạn bè các giống dân đến trước, hòa nhập vào xã hội mới và sau một thời gian ngắn kỷ lục, đã là thế hệ di dân thứ hai thành công trên miền đất tự do.

Với các tiêu chuẩn sức khỏe tốt, nơi ăn chốn ở an toàn, thu nhập đầy đủ, và khả năng hoạt động còn tốt trong lứa tuổi hưu trí, người Việt hải ngoại hầu như đạt được hạnh phúc của con người.

Đỗ Hồng Ngọc là một nhà văn, thầy thuốc có từ tâm, có trái tim Bồ Tát, chấp nhận vào địa ngục để mong cứu vớt phần nào những kẻ khốn cùng trong xã hội Cộng Sản. Các điều ông viết lên là những ước mơ của người Việt Nam hiện nay chưa có được.

Chúng ta cầu mong các ước mơ của nhà văn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và của người Việt Nam thành hiện thực.

Minh Tâm Xuân Đỗ

Nam California chớm thu 2017

 

Views: 2263

Tóm Lược Sách: Writer, Sailor, Soldier, Spy: Ernest Hemingway’s Secret Adventures 1935-1961 của tác giả Nicolas Reynolds

ERNEST HEMINGWAY: NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU BÍ MẬT 1935-1961
Nhà Văn – Thủy Thủ – Chiến Binh – Gián Điệp

Lê Trung Hiếu

Ernest Hemingway là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên thế giới, đã được giải thưởng Nobel văn chương năm 1954. Nhiều truyện tiểu thuyết của ông được quay thành phim, hấp dẫn hằng triệu khán giả trên mọi lục địa. Tuy vậy, hầu như độc giả có rất ít thông tin về cuộc sống nội tâm đầy uẩn khúc và hoạt động sôi nổi của nhà văn. Nguyên nhân ông qua đời vào năm 61 tuổi vẫn còn là một nghi vấn từ hơn nửa thế kỷ nay. Vào tháng 3 năm 201, nhà xuất bản William Morrow đã phát hành tác phẩm “Writer, Sailor, Soldier, Spy: Ernest Hemingway’s Secret Adventures 1931 -1961”, tác giả là Nicolas Reynolds, một viên chức tình báo lâu đời của chính quyền Mỹ, nguyên là đại tá Thủy Quân Lục Chiến, tốt nghiệp Khoa Lịch Sử của Đại Học Oxford. Điều ngạc nhiên là nhan đề của cuốn sách. Những chữ Writer, Sailor và Soldier thì độc giả dễ dàng hiểu được qua sinh hoạt đời thường và cá tính của những nhân vật chính trong các tiểu thuyết A Farewell To Arms, For Whom the Bell Told, The Sun Also Rises, The Snow On The Kilimandjaro và nhiều truyện ngắn về chiến tranh. Nhưng chữ Spy là một thắc mắc thúc đẩy người đọc tìm hiểu. Tác giả Nicolas Reynolds dựa vào những công trình văn chương, cuộc sống hiện thực cũng như những hồ sơ mật được giải mã của các cơ quan tình báo KGB,OSS,FBI và bộ Ngoại Giao Mỹ để phác họa trung thực cuộc đời đầy sóng gió, lòng thương người, tình yêu quê hương và tổ quốc của Ernest Hemingway dành cho nước Mỹ.
Dựa vào tài liệu trong cuốn sách nói trên, chúng ta thử tìm hiểu cuộc sống của Ernest Hemingway trong thời gian năm 1935 -1961 qua các tiểu mục sau đây:
1. Nguyên nhân tiếp cận Liên-Xô
2. Ernest Hemingway và nội chiến Tây ban Nha
3. Ernest Hemingway đến Trung Hoa
4. Hoạt động của Ernest Hemingway trong thời Thế Chiến 2
5. Phóng viên chiến trường đến Paris và trở về Cuba
6. Nỗi bận tâm của Ernest Hemingway
7. Thời gian còn lại.

1. Nguyên nhân tiếp cận Liên Xô 1935

Ernest Hemingway nổi tiếng trên văn đàn nước Mỹ từ lúc còn trẻ. Đối thủ của ông ta chỉ là một nhóm nhỏ. Truyện của ông không những được độc giả Mỹ ưa thích mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng Nga và phổ biến rộng rãi ở nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Xô-Viết, đất nước mà văn chương được xem là công cụ tuyên truyền cho chế độ chính trị. Vào tháng 8 năm 1935, giới phê bình văn học ở Mỹ đã làm Hemingway mếch lòng và cảm thấy không được trọng vọng ở Mỹ. Trong lúc phân tâm, ông nhận được một bản dịch tiếng Nga những truyện của ông. Người dịch là Ivan Khaslin, một nhà văn nổi tiếng ở Liên-Xô. Hemingway rất sung sướng khi đọc bài giới thiệu của Ivan Khaskin. Nhà văn này khen ngợi văn tài Hemingway và cho biết truyện của ông đã làm say mê độc giả Liên Xô. Hemingway vội vã viết ngay một lá thư cám ơn Khaskin và ông thật là sung sướng biết bao khi có người hiểu được những điều mình viết ra,” không giống những cảm nghĩ mà giới phê bình văn học ở New York đã viết về ông”. Hemingway cũng nhấn mạnh rằng tuy ông hài lòng khi có thêm độc giả Liên-Xô, nhưng ông sẽ không bao giờ trở thành một người cộng sản hay một cảm tình viên cộng sản. Trong một lá thư khác, Hemingway bày tỏ : “nhà văn giống như dân du mục, họ không trung thành với bất cứ chính quyền nào,” và “sẽ không bao giờ ưa chuộng chính thể họ đang sinh sống.” Ông cũng tiết lộ bạn bè khuyên ông nên từ bỏ tình bằng hữu nếu Kashkin sử dụng đường lối duy vật của chủ nghĩa marxist để lôi cuốn ông vào địa bàn hoạt động của cộng sản Liên-Xô.
Thị trường chứng khoáng sụp đổ từ năm 1929 kéo dài tình trạng công nhân thất nghiệp ở Mỹ và nhiều nước tư bản khác là cơ hội để Liên Xô và giới khuynh tả Mỹ nhúng tay vào nội tình chính trị ở Mỹ. Luận điệu tuyên truyền của họ là dưới chế độ Marxist trong tương lai sẽ không còn cảnh người bóc lột người, không ai bị thất nghiệp và đói khổ. Nazi Đức và Fascist Ý chống đối tư tưởng này. Hitler kết án người Do Thái (Jews) và Cộng Sản là nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp ở Đức và toàn thế giới. Để giải quyết tình trạng thoái trào kinh tế, Hitler và Mussolini đề xuất các biện pháp: dẹp yên bạo loạn, động viên nhân lực vào chiến tranh, chiếm đoạt tất cả những gì chúng ta cần thiết từ quân thù. Chính khuynh hướng này giúp Mussolini cuốn hút thành phần thiên tả ở Mỹ.
Hemingway cùng với Gellhorn, người vợ thứ ba (1), dời nhà về Keys West trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào năm 1929. Keys West bao gồm nhiều đảo nhỏ trong vùng biển Caribean gần thành phố Miami. Tại đây, ông quen biết John Dos Passos, một nhà trí thức đến từ thành phố Baltimore, tiểu bang Maryland. Cả hai đều có cùng một sở thích: cuộc sống ngoài trời với săn bắn và câu cá. Từ năm 1930, thiên tai làm cho thị trấn trên tiễu đảo lâm vào tình trạng suy sụp kinh tế. Đến năm 1934, Keys West bị phá sản. Chi nhánh của Ngân Hàng Trung Ương Franklin Delano Roosevelt nhảy vào nắm quyền điều hành Federal Emergency Relief Administration (FERA). Theo Dos Passos, biện pháp cứu nguy của FERA không hữu hiệu vì đã biến “một thành phố của những ngư dân độc lập và những người sản xuất và bán hàng trái luật (bootleggers) trở thành những người nghèo khó.” Hemingway tán đồng nhận định này. Theo Hemingway, những cựu chiến binh và ngư dân phải chấp nhận làm cu-li vì họ không còn chọn lựa nào khác trong mùa mưa bão. Từ đó dư luận nẩy sinh ra cuộc phân biệt giai cấp giàu và nghèo. Joe North, một trong những chủ bút cộng sản ở tạp chí New Masses nắm lấy cơ hội, vội vã điện hỏi thăm sự việc xảy ra như thế nào. North đang cần có tin tức để bôi nhọ kế hoạch phục hồi kinh tế New Deal của Tân Tổng Thống Franklin Roosevelt. Theo quan điểm của những người cộng sản, chính quyền tổng thống Roosevelt chẳng khác gì chính quyền tổng thống Hoover, chỉ có ngoại lệ: tân tổng thống che giấu chính sách tư bản của ông ta bằng những nụ cười. Vì vậy North thuyết phục Hemingway viết bài phê phán cho báo New Masses. Tạp chí này đăng bài của Hemingway dưới tựa đề: “ Ai Đã Ám Sát Những Cựu Chiến Binh?” vào số báo ra ngày 17 tháng Chín năm 1935. Bài báo chỉ trích và gán cho chính quyền Roosevelt duy trì “nạn thất nghiệp, đói khát và chết chóc ” khi sử dụng những cựu chíến binh dưới hình thức cu-li để thực hiện các công trình ở Keys West. Ban chủ biên nêu ra nhiều câu hỏi như “ Ai đã đưa cựu chiến binh ra làm việc ở đảo ? “ Ai đã bỏ rơi họ trong suốt mùa mưa bão?” “Ai đã thất bại vì không di tản cựu chiến binh để bảo vệ họ ?”
Tiếng vang của bài báo lan rộng trong quần chúng. Trước tiên tạp chí Times đăng tải phát biểu của George Worley, luật sư tiểu bang Florida, “ không ai chịu trách nhiệm về sự thất bại vì không di tản những cựu chiến binh … trước khi mưa bão giết chết 458 người.” Hemingway phản biện và Times đưa lên báo câu hỏi của Hemingway: “ Những cựu chiến binh bị bỏ rơi cho đến chết như thế nào ?” Nhật báo Dailey Worker đi xa hơn nữa bằng cách in tên Hemingway với hàng tin chữ lớn “Tiểu thuyết gia tìm thấy thi thể những người đàn ông chết trên bờ biển Keys West.” Nhà văn Nga Kashkin dịch tiêu đề này ra tiếng Nga và đăng trên tạp chí văn chương của ông ta. Khi những gián điệp của Xô-Viết đọc bài báo của Hemingway, họ chú trọng đến đường hướng Hemingway chỉ trích nhà cầm quyền Mỹ. Nó vạch ra những tệ đoan người nghèo và những kẻ bị các viên chức quyền thế khinh thị phải chịu đựng không phải do trận bão gây ra mà xuất phát từ phía chính quyền Mỹ. Gián điệp Nga tin tưởng rằng người dân Mỹ chấp nhận lập luận chính trị của Hemingway vì ông là một nhà văn nổi tiếng và được kính trọng. Vì vậy cơ quan tình báo Xô-Viết tìm mọi cách gài nam hay nữ điệp viên để liên lạc và dụ dỗ Hemingway hoạt động cho họ.
Điêu khắc gia người Anh Jason Gurney là người có tư tưởng khuynh tả. Khi ông ta đến Tây Ban Nha để chiến đấu trong phe Republic, tiết lộ cho những chiến hữu ngoại quốc tình nguyện biết: tình báo Liên Xô gài người hoạt động cho Republic để truy tầm những người Nga theo phe Trosky đang hoạt động chính trị ở Tây Ban Nha. Theo Jason, tình báo Liên-Xô: “luôn luôn có nhà tù và nhiều trung tâm thẩm vấn bí mật tại một vài nơi trong vùng lân cận.” “Tình báo Liên-Xô biến dạng một trong những trung tâm này thành lò hỏa thiêu.” Tin tức về người bị mất tích và sau đó không bao giờ thấy là phổ biến trong dư luận ở Tây Ban Nha trong thời nội chiến. Vì vậy tuy Hemingway gặp gỡ điệp viên Nga nhưng ông cân nhắc lợi hại để hoạt động theo đường lối riêng biệt của ông. Ông thay đổi tầm nhìn chiến lược nhanh chóng. Trước tiên ông viết bài cổ vỏ cuộc đấu tranh của phe Republican và chê bai đường lối độc tài của phe Nationalist do tướng Franco lãnh đạo. Kế tiếp ông gởi đăng bài viết về sự quan tâm của ông đối với sự khổ đau của con người và tán dương thành quả chân lấm tay bùn của giới lao động và nói rõ ông không tán thành chế dộ Sô-Viết mặc dù nó ủng hộ phe Republican. Theo ông “Sô-viết là bộ mặt nhơ bẩn của người Nga, nhưng tôi không thích bất cứ chính phủ nào.”

2. Ernest Hemingway và nội chiến Tây Ban Nha 1936-1939:

Năm 1937, Hemingway đến Tây Ban Nha để viết phóng sự về cuộc nội chiến bùng nổ vào mùa hè năm trước giữa một bên là Lực Lượng Quốc Gia do tướng Francisco Franco lãnh đạo chống đối lại Chính quyền Cộng Hòa hợp pháp. Những người theo phe của tướng Franco cho rằng phe Cộng Hòa phạm phải hai điều quan trọng: điều hành không có hiệu quả và nhiều thành viên mưu toan đưa đất nước và dân tộc đi theo khuynh hướng thiên tả. Lực lượng của tướng Franco bao gồm những đại địa chủ (great landowners), giới quân sự, và tín đồ Thiên Chúa Giáo chống lại lực lượng Cộng Hoà bao gồm những người theo xã hội chủ nghĩa (socialists), cộng sản chủ nghĩa (communists), nghiệp đoàn thương mãi (trade union) và những người thuộc phái vô chính phủ (anarchists). Tình hình chiến tranh càng ngày càng trở nên phức tạp hơn khi nước ngoài can thiệp vào nội bộ của Tây Ban Nha. Hitler và Mussolini (Ý đại lợi) liên kết với Franco bằng cách trợ giúp vũ khí, cố vấn và quân lính. Stalin (Liên-Xô) viện trợ cho lực lượng Cộng Hòa các loại vật dụng chiến tranh như Hitler và Mussolini nhưng với số lượng ít hơn nhiều. Chỉ có điều khác biệt là Liên Xô cung cấp rất nhiều cố vấn và nhân viên mật vụ. Trong số này nổi bật một viên chức tên là Alexander Orlov.
Cơ quan tình báo Liên-Xô NKVD (People’s Commissariat for Internal Affairs) – về sau gọi là KGB – phái Orlov đến Tây Ban Nha vào tháng 8, 1936 để giúp phe Cộng hòa tổ chức tình báo và lực lượng hổ trợ bán quân sự (paramilitary support). Đồng thời Orlov cũng có nhiệm vụ phát triển thế lực của Liên-Xô và ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản Tây Ban Nha. Điệp viên Liên-Xô thường đến nghỉ ngơi tại khách sạn Gaylor sang trọng. Khi Hemingway trở lại Madrid vào tháng 9, 1937, ông đến khách sạn này để gặp Gustave Regler, bạn quen biết từ trước. Regler là người cộng sản Đức, phụ trách giảng giải chủ nghiã cọng sản cho thành viên trong Đoàn Tình Nguyện Quân Quốc Tế. Hemingway nói với Regler ông muốn đi tìm hiểu du kích quân Cộng Hoà (Republican Guerrillas). Regler báo cho Orlov biết ý muốn của Hemingway. Orlov sắp xếp cho Hemingway đến trại huấn luyện du kích bí mật ở trong khu vực của tình báo NKVD. Hemingway lấy làm cảm kích khi nghe trình chương trình huấn luyện qua từng giai đoạn cùng đi thăm hiện trường tác xạ và bắn súng do Nga chế tạo. Đến năm 1938, Orlov gặp lại Hemingway lần nữa và nghĩ rằng Hemingway chấp nhận hợp tác. Sau đó Orlov tiết lộ cho một viên chức tình báo Mỹ đã về hưu biết chính NKVD vận động Hemingway đến Tây Ban Nha để trở thành một nhân vật có tiếng nói quan trọng của phe Cộng Hòa. “ Thông qua những vận động của Liên-Xô và Liên Minh Báo New York, Chính Phủ Cộng Hòa đã ký một hợp đồng với Hemingway …” Theo FBI, điều cáo buộc này không đúng vì giới tình báo Mỹ biết sự kiện Hemingway đến Tây Ban Nha xuất phát từ nhiều lý do: Hemingway mến chuộng đất nước Tây Ban Nha, ông thật sự muốn tham gia vào cuộc chiến để có cảm giác mạnh, lãnh tiền nhuận bút lớn vì bài viết sẽ được tính tiền theo từng chữ. Nhà văn Josephine Herbst thân thiết với Hemingway từ hồi còn ở Paris hiểu rõ Hemingway hơn Orlov. Theo Herst, lúc bấy giờ Hemingway cũng như nhiều nhà văn khác“ đang ở trong quá trình chuyển biến tâm tư nên việc đi Tây Ban Nha chỉ có tính giai đoạn mà thôi .”
Cuộc nội chiến Tây Ban Nha chấm dứt với sự chiến thắng của phe Franco. Sau khi phe Franco chiếm thành phố Barcelona vào đầu năm 1939, hàng chục ngàn binh sĩ Cộng Hòa, người ủng hộ và cảm tình viên đổ xô tìm đường di tản chạy về nước Pháp. Những ai bị tình nghi là thành viên của phe Cộng Hòa đều bị đem ra xử bắn. Những chiến binh tình nguyện Anh, Canada và Mỹ trở về nước với mặc cảm bị nghi ngờ theo Cộng Sản vì đã chiến đấu trong lực lượng thân Liên-Xô. Giới tình báo Mỹ luôn luôn theo dõi những hoạt động của những công dân có khuynh hướng thiên tả và những cựu chiến binh Mỹ tình nguyện chiến đấu trong hàng ngũ Cộng Hoà Tây Ban Nha bị tình nghi và phân biệt đối xử. Chiến binh người Nga có thể trở về Liên-Xô nhưng về sau bị loại trừ vì Staline xem họ là những kẻ không xứng đáng. Còn những chiến binh người Đức, và Ý không thể trở về nước của họ và vô vọng vì nhiều nước trên thế giới không muốn chứa chấp họ. Ernest Hemingway cảm thấy đau lòng và thương cho thân phận con người thua trận trong một cuộc chiến.

3. Ernest Hemingway đến Trung Hoa 1941:

Là người theo phe Cộng Hoà nên Hemingway cảm thấy thất vọng và tinh thần hầu như bị suy sụp. Tuy vậy, Hemingway tự cứu mình thoát ra khỏi bế tắc bằng cách khép mình vào công việc. Trong một lá thư gởi Kashkin, Hemingway bày tỏ lòng mình: “ Đối với chiến tranh, một khi đã khởi sự thì phải chiến thắng, đó là điều mà chúng ta không làm được. Chiến tranh chỉ là giai đoạn, tôi không bị giết vậy thì tôi phải làm việc. “ Ông khoe với Kashkin đã viết mười lăm ngàn chữ trên giấy. Ông sẽ viết truyện ngắn và tiểu thuyết về chiến tranh. Trong lúc Hemingway để tâm vào việc viết tiểu thuyết, tình hình Âu Châu trở nên suy đồi. Các nước trên lục địa Tây Âu tìm cách liên minh quân sự với Liên-Xô để chống lại Đức nhưng thất bại. Ngày 23 tháng Tám năm 1939, hai vị bộ trưởng ngoại giao Đức và Liên-Xô công bố hiệp ước tương thân không tấn công xâm chiếm lẫn nhau. Cả hai nước cùng bí mật ký một phụ bản (addendum) đồng lòng thôn tính những nước nhỏ ở Đông Âu. Nạn nhân đầu tiên là Ba-Lan. Ở phía Tây Âu, Đức cũng thôn tính Pháp vào năm 1939. Sau đó không lâu, Đức Ý Nhật liên kết thành phe Trục gây chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hitler xé bỏ hoà ước với Liên-Xô, đưa quân xâm lấn nước này. Đức oanh tạc Anh. Nhật đổ bộ lên bán đảo Liêu Đông của Trung Hoa và Nam Á Châu, tấn công Pearl Harbor và xâm chiếm Philippines. Mỹ tuyên chiến với Nhật. Các nước Anh, Pháp, Mỹ, Liên-Xô và Trung Hoa liên minh chống lại phe Trục. Trước khi Mỹ tham gia chiến đấu, Hemingway cho ra mắt độc giả tiểu thuyết For Whom The Bell Told ở New York. Sau đó ông ta cùng với bà vợ thứ hai Gellhorn thực hiện một chuyến du hành bằng đường biển đến Trung Quốc vào đầu năm 1941.
Từ nhiều năm trước, Trung Hoa chiến đấu chống Nhật Bản xâm lăng. Đây là một cuộc chiến tranh tàn bạo không có ngày chấm dứt. Tham vọng của Nhật rất cụ thể, họ muốn chiếm đoạt tài nguyên và lãnh thổ. Họ không quan tâm đến những biện pháp họ thực hiện để đoạt được mục tiêu. Họ giết hàng loạt người Trung Hoa, bất kể là quân nhân hay dân sự. Sự kiện này gợi lại trong tâm trí Hemingway những cảnh tượng kinh hoàng trong thời nội chiến ở Tây Ban Nha do phe Franco gây ra. Đó là về mặt nổi của chiến tranh chống ngoại xâm. Về mặt chìm, một cuộc tranh chấp ác liệt giữa lực lượng Quốc Dân Đảng (Kuomintang) do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo và phe Cộng Sản do Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai cầm đầu, đang xảy ra trên đất nước Trung Hoa. Hemingway và Gellhorn đã tiếp xúc với Tưởng Giới Thạch (TGThạch) và Châu Ân Lai (ChALai). Trung gian dàn xếp những cuộc tiếp xúc là một người đàn bà Đức, vợ của một người cộng sản Trung Hoa. Phải chăng tình báo Liên-Xô ngầm vận động Hemingway đến Trung-Hoa? Điều này không xảy ra vì hồ sơ mật của tình báo Liên-Xô vào năm 1948 ghi nhận “sự liên lạc không được tái lập với ‘Argo’ (bí danh của Hemingway ở Trung Hoa). Hơn nửa Hemingway khéo léo sử dụng những tin tức do TGThạch và ChALai tiết lộ để viết bài đăng báo. Trong một lần được các phóng viên khác phỏng vấn, ông đã giải thích: Quân đội của TGThạch giữ một vai trò quan trọng trong việc chống Nhật Bản vì đã cầm chân quân Nhật trên lãnh thổ Trung Hoa để Mỹ bảo vệ các tiền đồn ở Thái Bình Dương. Ông cũng mong muốn lực lượng Cộng Sản tạo được nhiều chiến thắng. Ông không phê phán hay hạ thấp phe nào vì không muốn làm giảm tinh thần và ý chí quyết chiến của người Trung Hoa đối với phát xít Nhật Bản. Đồng thời ông không bày tỏ quan niệm tiêu cực về các triển vọng Anh và Mỹ đánh thắng phe Trục, mặc dù ông vẫn còn hận chính quyền Roosevelt không hổ trợ lực lượng Republican trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha.
Do thái độ trung dung về hai phe Quốc-Cộng đang tranh chấp quyền lực ở Trung Quốc, một số người nghi ngờ tình báo Sô-Viết đưa Hemingway đến Trung Hoa đề thăm dò tình hình. Lý do là trong giai đoạn này, Liên Xô đang trợ giúp vũ khí cho cả hai phe Quốc-Cộng chống lại Nhật Bản. Nói một cách đúng đắn Hemingway không làm gián điệp cho Liên-Xô. Cả hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa tiếp xúc với vợ chồng nhà văn vì muốn sử dụng Hemingway để chuyển một thông điệp thuận lợi cho riêng phe của mình đến công luận và chính quyền Mỹ ngay khi Hemingway vừa mới từ Trung Hoa trở về Mỹ. Còn Bộ Trưởng Tài Chánh Morgenthau chỉ muốn nghe ý kiến cá nhân của Hemingway về Trung Hoa, ngoài ra không lưu ý đến việc gì khác. Cuộc tiếp xúc giữa Morgenthau và Hemingway do ông Harry Dexter White sắp xếp. White là nhân vật quan trọng trong Bộ Ngân Khố Mỹ nhờ Hemingway thu thập tin tức về tình hình Trung Hoa vào năm 1941. White là cánh tay mặt của Morgenthau đồng thời là cảm tình viên của Đảng Cộng-Sản Sô-Viết. Sau chiến tranh White lộ diện làm gián điệp cho Liên-Xô. Có thể ông White đã tiết lộ nội dung của cuộc gặp gỡ nói trên cho tình báo Liên-Xô nhưng không có bằng chứng về chuyện này.

4. Ernest Hemingway hoạt động trong thời Thế Chiến thứ Hai 1942-1943:

Trong thời thế chiến thứ hai, nước Cuba đứng về phe Đồng Minh Anh-Pháp-Mỹ- Nga-Trung Hoa chống lại phe Trục Đức-Ý-Nhật. Cuba là một đảo quốc ở trong vùng biển Caribean, chỉ cách xa Keys West 90 dặm Anh. Từ lâu nước Mỹ thịnh vượng hầu như tự cho mình có quyền can thiệp vào tình hình chính trị của Cuba. Sau năm 1932, Ernest Hemingway đến Cuba nhiều lần để câu cá biển. Đến cuối thập niên này ông chọn Cuba làm nơi cư trú. Ông mua một ngôi nhà trên một ngọn đồi chỉ cách Thủ đô Havana vài dặm Anh và từ mặt tiền nhìn thấy biển ở khoảng cách vừa tầm nhìn. Ngôi nhà có tên là Finca Vigia, xây vào năm 1886 giữa một khu vườn rộng lớn trồng chuối và cây cảnh. Tại đây Hemingway cùng với vợ vừa hưởng thú an nhàn vừa có thái độ chờ xem tình hình cuộc chiến sẽ diễn biến như thế nào.
Lúc bấy giờ, một điệp viên người Đức theo chủ nghĩa cộng sản tên là Richard Sorge làm phóng viên ngoại quốc thường trú ở Tokyo. Ông ta giả vờ năng nổ hoạt động với Tòa Đại Sứ Đức ở Tokyo để lấy tin tức. Nhờ vậy ông ta báo cho Staline biết trước để chuẩn bị đối phó khi Hitler ồ ạt tấn công Nga. Nhưng Staline không quan tâm đến. Winston Churchill, thủ tướng Anh, cũng báo cho Staline biết tin này nhưng Staline lờ đi. Hitler đưa 45 sư đoàn bộ binh và lực lượng một lần nữa rồi đi Moscow cùng với vợ. Bây giờ Hemingway được đích thân Molotov mời thăm viếng Liên-Xô, nhưng ông không nhận lời. Giới quan sát thời cuộc đặt câu hỏi. Tại sao Liên Xô mời Hemingway đến viếng đất nước trong lúc các thành phố văn hóa như Moscow và Leningrad còn đầy dấu vết xâm lăng của quân đội Hitler? Câu trả lời là (1) Moscow muốn tạo cơ hội để ban tham mưu tình báo Liên-Xô gặp trực tiếp Hemingway và biến Hemingway trở thành một điệp viên đa năng hoàn hão. Hoặc (2) Moscow muốn nhờ Hemingway viết vài bài báo ca ngợi quân đội Liên Xô để vận động giới chính trị gia và những nhân vật quan trọng trong chính quyền Mỹ giúp đỡ vì Liên-Xô đang cần bạn bè và vũ khí. Hemingway không nhận lời vì ông ta nghĩ đến thất bại về truyền thông mà ông đã sử dụng để hy vọng Tổng Thống Roosevelt ủng hộ phe Republica trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha trong thập niên 1930.
Chiến tranh thế giới thứ hai đi vào khúc quanh lịch sử khi Nhật tấn công Pearl Harbor vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Máy bay Nhật tàn sát gần 2 ngàn quân nhân. Trong khi Pearl Harbor còn đang bốc khói, Đức tuyên chiến với Mỹ. Mỹ đáp trả bằng cách tuyên chiến với Nhật và Đức. Đồng thời Mỹ liên kết với Anh Pháp Nga Trung Hoa đánh phe Trục Đức Ý Nhật. Hemingway nhận được tin Pearl Harbor bị Nhật tấn công khi đang trên đường từ Mỹ trở lại Cuba. Trong lần trở lại này, Hemingway tiếp xúc với nhiều bạn bè ngoại quốc và Mỹ. Lúc bấy giờ trong cộng đồng Tây Ban Nha có nhiều người giả dạng thuơng nhân để hoạt động tình báo, thăm dò tin tức để báo động với Hitler và Mussolini. Tòa Đại Sứ Mỹ ở thủ đô Havana báo cho Washington biết Hemingway không e ngại thành phần phát-xít ở đây và sẵn sàng đụng độ hay đi truy lùng bọn chúng. Một nhà ngoại giao khác có tên là Robert P. Joyce, là bạn thân của Hemingway. Vào khoảng đầu năm 1942 nhà văn nói với Joyce, ông ta muốn đóng góp khả năng của mình vào cuộc chiến bằng cách tổ chức một cơ sở phản gián ở Havana. Hemingway trình bày với Joyce phương thức phản tình báo mà ông đã học hỏi trong khi làm việc với tổ phản gián của phe Republican trong cuộc nội chiến Tây ban Nha. Joyce báo cáo ý kiến của Hemingway với Đại Sứ Mỹ Spruille Braden, cấp trên của Joyce. Ông Đại Sứ tán thành việc thành lập một tổ phản gián tài tử. Braden gọi Hemingway là “người bạn của mọi người dân” ở Havana và Tòa Đại Sứ là nơi quy tụ bạn bè. Đến tháng 8 năm 1942, Braden báo cho bộ phận tham mưu biết ông quyết định giao công tác tình báo cho Hemingway thực hiện. “Theo dõi hoạt động của kẻ thù phát-xít Tây Ban Nha mà FBI thất bại truy lùng tin tức.” Hemingway vui vẽ nhận nhiệm vụ và đặt tên là Tổ Crook Factory khác với Ban Tội Phạm mà Toà Đại Sứ thường sử dụng để hoạt động. Công việc làm của Hemingway cũng bị một vài viên chức tình báo chỉ trích và xem là vô giá trị khi họ tường trình về Washington. Nhưng tin tức do Hemingway cung cấp lại được ông Đại Sứ Mỹ đánh điện về Washington công nhận “ việc khai triển những sinh hoạt của người Tây Ban Nha là đúng, kiểm tra kỹ lưỡng, tái kiểm tra và chứng tỏ rất xác thực.” Để tránh tình trạng xung đột nghề nghiệp giữa Hemingway tình báo tài tử và nhân viên tình báo nhà nghề, ông Edgar Hoover, Giám Đốc FBI luôn luôn dặn dò mọi người ở Havana: “ sử dụng phong cách ngoại giao để thảo luận với ông Đại Sứ Braden nếu thấy điều bất lợi khi ông ta giao việc cho một người không phải là công chức chuyên nghiệp trong ngành tình báo mà lại là người hoạt động tình báo tài tử như Hemingway.”
Thực tế cho thấy Đại Sứ Braden biết cách sử dụng nhân sự. Ông đã mạnh dạn giao việc cho Hemingway. Nhà văn thường đưa tàu Pilar đi đánh cá trong vùng biển Caribean ở về hướng Bắc của nước Cuba. Pilar dài 38 feet, đúng ra nó chỉ là một chiếc thuyền câu cá biển. Hemingway biến Pilar thành một tàu gián điệp trong hai năm 1942 và 1943. Khi thực hiện nhiệm vụ gián điệp, nó có vẻ ma quái với thân tàu màu đen, chạy sát mặt nước, khó thấy ngay cả khi lướt sóng giữa ban ngày. Hemingway sử dụng Pillar để trợ lực cho Trung Tá John W. Thomason Jr. và cơ quan tình báo Hải Quân Mỹ. Công việc này phù hợp với sở thích của ông vì ông vừa tham gia chiến tranh vừa được sống trên sóng nước. Nó cũng gợi cho ông cái thú mạo hiểm và hoạt động bắp thịt ở ngoài trời với biển cả mênh mông. Nó khác xa với chuyện làm gián điệp cổ điển cho phe Cộng Hòa thân Liên-Xô trong thời nội chiến Tây Ban Nha hay hoạt động phản gián cho toà Đại Sứ Mỹ ở Havana. Nhưng điều ông khoái chí là đảm nhiệm chức vụ thuyền trưởng tàu Pilar để làm việc cho nước Mỹ. Lúc bấy giờ, nhiều tàu chiến Mỹ bị tàu ngầm Đức đánh chìm trong nhiều phần của biển Đại Tây Dương. Tàu Pilar có nhiệm vụ tuần tra bờ biển phía Bắc của Cuba và điện báo cho Hải Quân Mỹ biết mỗi khi thấy tàu ngầm Đức nổi lên mặt biển. Đồng thời Pilar cũng thi hành tác chiến như đánh chìm tàu U-boat, mặc dù tàu này lớn và dài đến 250 feet và được trang bị súng 10.5 cm (deck gun 10.5 cm). Súng này có khả năng bắn thuyền nhỏ bay khỏi mặt nước với chỉ một phát súng. Hemingway thi hành nhiệm vụ này như thế nào? Hải quân Đức thấy tàu nhỏ đang đánh cá. Ngư phủ tàu Pilar hy vọng tàu Đức sẽ cặp hông Pilar để mua hay tịch thu cá và nước ngọt. Lúc đó ngư phủ tàu Pilar sẽ tấn công tàu địch bằng súng bazookas, súng máy, lựu đạn và satchel charge ( bộc phá ?). Hemingway còn sử dụng một dụng cụ thể thao của người Basque để tung lựu đạn rất nhanh và xa. Thoạt trông cuộc giao tranh thật là phù phiếm, không ai tin vào chiến thắng, nhưng thật sự đã thành công vì tạo được yếu tố “bất ngờ và thủy thủ được huấn luyện kỹ lưỡng.”
Pilar bắt đầu tham gia chiến đấu vào mùa hè 1942, trước tiên là những cuộc hành quân có tính cách huấn luyện. Hemingway càng ngày càng tin tưởng khả năng điều hành của mình và nhận thêm khí cụ. Ông đưa tàu Pilar ra khơi xa bờ hơn, có khi tàu chạy về hướng Tây Bắc đến một đảo cát ở cuối eo biển Bahamas. Thủy thủ lên đảo, cắm lều và luân phiên canh tàu địch. Đại sứ Braden đánh giá rất cao sự đóng góp công sức của Hemingway trong chiến tranh. Khi cuộc hành trình cuối cùng của tàu Pilar chấm dứt vào mùa hè 1943, vì sự đe dọa của tàu U-boat đã giảm, ông Đại Sứ viết thư cám ơn Hemingway về tất cả những dịch vụ mà nhà văn đã thực hiện trên đất liền và trên biển.

5.Phóng viên chiến trường đến Paris 1944 và trở về sống ở Cuba 1945-1960:

Tình hình chiến sự trên các lục địa Âu, Á và Phi bắt đầu thay đổi chiều hướng. Lực lượng Đồng Minh phản công. Anh tung quân đánh các vị trí quân sự của Đức ở Vùng Bắc Phi và Vùng Trung Đông, Mỹ tái chiếm Phillipines từ tay Nhật Bản. Vào ngày 6 tháng 6 năm1944, Mỹ đổ bộ lên Normandie, đẩy quân Đức lui về nội địa Pháp. Kháng chiến Pháp hoạt động mạnh mẽ hơn để gây rối quân Đức. Hemingway giã từ Cuba và Mỹ để vừa tham gia chiến trận vừa làm phóng viên chiến trường. Hemmingway đảm nhiệm chức vụ trưởng cơ quan tình báo ở Rambouillet, một thành phố nhỏ, trinh sát những con đường mà lực lượng Đồng minh có thể sử dụng để tiến quân về Paris. Trong lúc Hemmingway và người tài xế đang đi trên một chiếc xe jeep trong con đường làng, họ gặp một nhóm kháng chiến quân người Pháp, trang bị nhiều thứ vũ khí khác nhau. Đây là những người trẻ theo cộng sản rất cực đoan. Hemingway trình bày mục đích của chuyến đi bằng tiếng Pháp nên họ rất khâm phục và yêu cầu được theo nhà văn đến Paris. Dọc đường đoàn người chiếm một đồn lính Đức vừa bỏ hoang. Lúc này Hemingway tìm cách liên lạc với một đơn vị lính Mỹ gần nhất để báo cáo tình trạng của ông và những điều ông đã thấy ở dọc đường. Hemingway phối hợp với Đại Tá David K. E. Bruce, thuộc tình báo OSS của Mỹ, cung cấp cho Tướng Leclerc, chỉ huy trưởng lực lượng kháng chiến Pháp, những tin tức về quân đội Đức từ Rembouillet đến Paris và dành cho đoàn quân của Tướng Leclerc vinh dự tiến vào Paris đầu tiên.
Đến tháng giêng 1945, chiến tranh ở Châu Âu dần dần tàn lụi. Hemingway trở về nhà ở Cuba vào tháng 3 năm 1945 trên chuyến máy bay vượt Đại Tây Dương. Khi về đến ngôi nhà Finca, ông bắt đầu sắp xếp thời gian để viết truyện, mỗi ngày viết vài giờ và bắt đầu viết từ lúc bình minh. Có thể nói trong thời gian chiến tranh lạnh 1946 đến 1957, Cuba là nơi ẩn dật an toàn của Hemingway. Cuốn tiểu thuyết The Old Man and The Sea được giải thưởng Pulitzer vào năm 1953 và ông lãnh giải thưởng Nobel văn chương vào năm 1954. Những người danh tiếng như nữ tài tử Ingrid Bergman, đạo diễn John Houston, và bạn bè khắp năm châu khen ngợi và tôn vinh Hemingway là người vĩ đại. Nhưng ông không cảm thấy vĩ đại. Ông không đến Stockhom, thủ đô của Thụy Điển để nhận giải thưởng; ông chỉ gởi một điện văn chấp nhận và phản ánh tâm tư của một nhà văn và số phận của tác phẩm khi ra đời. Ông bắt đầu điện văn bằng câu: “Cố gắng hết sức để viết văn hay đòi hỏi nhà văn phải sống một cuôc đời lẻ loi.” “ Thành danh trong tâm can công chúng khi hắn lột tả được sự cô đơn của bản thân mình và tác phẩm của hắn thường bị hư hỏng. Nhưng hắn luôn luôn cố gắng để tạo được “một điều gì chưa ai làm được hay những kẻ khác đã thử làm và thất bại.”
Hemingway sống an nhàn ở Cuba với những thú vui như câu cá, săn bắn, xem chọi gà, và nhâm nhi vài ly với bạn bè, nhưng ông vẫn quan tâm đến chính trị. Cuba bắt đầu trở nên bất ổn sau biến cố Cựu Trung Sĩ Quân Đội Fulgencio Batista đoạt chính quyền vào tháng Ba năm 1952. Ông tuyên bố thành lập một nền dân chủ khuôn phép (disciplined democracy). Thực chất của chế độ là tạo cơ hội để tập đoàn cầm quyền tham lam vơ vét của cải để làm giàu cho Bastista và bộ hạ trung thành với ông ta, đồng thời kinh doanh gian dối với những nhà đầu tư ngoại quốc để trục lợi. (Nên gọi chế độ là Kleptocracy thì đúng hơn). Ngoài những công ty của Mỹ còn có Mafia đầu tư vào khách sạn và sòng bài, biến Havana trở thành nơi du hí của khách du lịch Mỹ. Người dân Cuba bất mãn với chế độ tham ô Bastista. Các thành phần khuynh tả hay chống đế quốc hay dân chủ kết hợp thành từng nhóm chống đối Batista.
Trong số những người lãnh đạo các nhóm chống chính phủ, nổi bật nhất là Fidel Castro, một thanh niên 25 tuổi. Vào năm 20 tuổi (1947), Fidel Castro đã tham gia hoạt động chính trị lật đổ nhà độc tài Rafael Trujillo ở nước Dominican Republic. Sau khi thất bại trong một cuộc tranh cử, Fidel Castro nhận định biện pháp duy nhất để lật đổ Batista là sử dụng vũ lực. Vào năm 1953, lực lượng vũ trang của Fidel tấn công đồn binh Moncada trong thành phố Santiago, nhưng thất bại. Fidel bị Batista bắt giam, đến năm 1955 Batista tin rằng Fidel không còn là mối đe dọa nên thả ra. Fidel lại chiêu mộ người tình nguyện, lập chiến khu ở vùng núi cách xa Havana để vừa chiến đấu bằng vũ lực vừa kêu gọi dân chúng Cuba đình công bãi thị. Cuộc đấu tranh thành công đưa Fidel Castro lên nắm chính quyền. Hemingway gặp Fidel Castro lần đầu tiên vào năm 1960 khi ông tổ chức một cuộc thi câu cá. Kết qủa Fidel về hạng nhất vì câu được con cá nặng nhất. Khi nhà văn trao giải thưởng cho nhà vô địch, Fidel nói với Hemingway, ông ta ngưỡng mộ văn tài và học được nhiều điều hay trong cuốn tiểu thuyết For Whom The Bell Told và cho nhà văn biết ông ta đã đút cuốn truyện vào ba-lô để đem vào rừng. Đây là lần gặp gỡ độc nhất giữa nhà văn và nhà cách mạng. Lúc bấy giờ sự bang giao giữa Mỹ và Cuba đang gặp khó khăn. Fidel Castro tổ chức một cuộc biểu tình chống Mỹ vào ngày Fourth of July tại trung tâm thủ đô Havana. Hai ngày sau,Tổng Thống Eisenhower ra lệnh cắt khẩu phần nhập cảng đường của Cuba. Toà Đại Sứ Mỹ khuyên công dân Mỹ rời khỏi Cuba. Fidel trả đủa bằng cách đe dọa người Mỹ và tài sản của họ trên đất nước Cuba. Hành độngnày gây khó xử cho Hemingway vì Fidel vẫn mong muốn nhà văn tiếp tục cư ngụ tại ngôi nhà của ông ở Havana. Hemingway thổ lộ với bạn bè: ông không thể nào an tâm ở lại Cuba trong khi những người Mỹ khác đang bị xua đuổi và nước Mỹ đang bị nhục mạ… Cuối cùng Hemingway cùng với gia đình lên một chiếc phà giã từ Havana để trở về Keys West vào ngày 25 tháng Bảy. Sau đó ông bay đi New York và Châu Âu.

6. Nổi bận tâm của Ernest Hemingway 1935-1961:

Những chuổi sự kiện thực tế và tưởng tượng lẫn lộn trong tâm trí của Hemingway trong suốt một thời gian dài, bao gồm: (i) Hồ sơ FBI, (ii) Gián điệp Liên-Xô và Hemingway, (iii) Hemingway và phong trào cách mạng Fidel Castro.
(i) Hồ sơ FBI: Trước khi Mỹ tham gia Thế Chiến 2, FBI lập một bảng ghi nhớ về khuynh hướng thiên tả của Hemingway và Hemingway ủng hộ các thành phần của lực lượng Republica Tây Ban Nha như: sư đoàn Abraham Lincoln, “hội đồng Cộng sản…hổ trợ nền Dân Chủ TâyBan Nha.” Về sau những chi tiết này trở thành vấn đề quan tâm trong hồ sơ an ninh của FBI. Sau trận đánh Pearl Harbor, Toà Đại Sứ Mỹ tiếp xúc với FBI về kế hoạch sử dụng Hemingway điều hành bộ phận trinh sát trá hình. Chính sự kiện này đã quấy rầy Hemingway. Về chuyện này, ông Hoover, Giám Đốc FBI ra lệnh cho nhân viên của ông viết một bảng tường trình những điều gì FBI biết về Hemingway. Kết qủa FBI đã công nhận “không có tin tức chính xác để buộc Hemingway dính líu với Đảng Cộng Sản…hay ông ta đã và đang là đảng viên Cộng Sản.”
Cũng trong khoảng thời gian này, FBI thiết lập hồ sơ số 64-23312 về hoạt động của Hemingway. Số 64 là “Hồ sơ linh tinh về ngoại quốc” trong đó có những vấn đề ở Cuba. Rất nhiều thông tin trong hồ sơ nói về những sự đụng chạm giữa “Crook Factory” của Hemingway và FBI ở Cuba cũng như những đặc điểm tình báo của Hemingway. Có thông tin lại mô tả mối quan tâm của FBI về việc Hemingway có thể viết một cuốn sách chỉ trích FBI trong tương lai. Đây là điều Giám Đốc Hoover muốn tránh né. Hồ sơ số 64 không nhằm mục đích điều tra để truy tố Hemingway về hình sự: tội gián điệp. Năm 1955, một nhân viên FBI rà xét lại một loạt hồ sơ được thiết lập từ năm 1938, đã kết luận “không có một cuộc điều tra nào … do FBI tiến hành liên quan đến cá nhân Hemingway.” Từ năm 1942 ông đã sai lạc khi nghĩ rằng chính phủ Mỹ lưu ý và đòi hỏi ông chứng tỏ lòng tin cậy đối với công quyền. Thư từ của ông cũng như mọi công dân khác đều bị kiểm duyệt trong thời kỳ chiến tranh. Không ai theo dõi ông trong suốt thời gian ông sống ở Cuba hay New York. Không những thế, năm 1947 ông được mời đến dự một buổi lễ long trọng do Tòa Đại Sứ ở Cuba tổ chức để nhận Huy Chương Đồng của Lục Quân Mỹ, tưởng thưởng những công trạng ông đã thực hiện trong thời chiến tranh. Một vị Đại Tá trong lễ phục nhà binh đã gắn huy chương lên ngực áo của ông sau khi một vị phụ tá đọc bảng tuyên dương thành tích trong thời gian ông làm nhiệm vụ phóng viên chiến trường sau ngày D và thời gian Ông cùng với Đại tá David Brown tại mặt trận với tiểu đoàn Bộ Binh thứ 22. Bảng tuyên dương ghi nhận Hemingway “thành thạo kỹ thuật quân sự tân tiến” và “hoạt động dưới lửa đạn trong vùng giao tranh để đem đến cho độc giả những bức ảnh sống động về những khó khăn và chiến thắng của binh sĩ nơi tiền tuyến.” Tuy vậy ông tỏ vẻ không hài lòng và thắc mắc tại sao ông không được tặng thưởng một huy chương cao quý hơn, Distinguished Service Cross – DSC.
(ii) Điệp viên Liên-Xô và Hemingway trong thời chiến tranh lạnh: Vào tháng 7 năm 1948, tờ báo lá cải New York quãng bá bà hoàng “Red Ring Bared by blond Queen) có khả năng vạch trần những điều gì nàng biết về gián điệp Liên-xô ở Mỹ. Vài ngày sau cơ quan the HouseUn-American Activitiec Committee mời nàng đến điều trần. Tại đây người ta biết tên nàng là Elizabeth Bentley, tốt nghiệp trường Vassar, gia nhập đảng Cộng Sản năm 1935 tại New York. Nàng làm việc và sống chung với Jacob Golos. Jacob Golos là người ủng hộ đảng cộng sản trong thời cách mạng Nga. Ông di cư sang Mỹ và trở thành nhân viên của NKVD ở New York. Ông tuyển dụng Hemingway cho “công việc của chúng ta (our work)” vào cuối năm 1940 hay đầu năm 1941. Ông chết vào ngày lễ Tạ Ơn năm 1943. Golos cho Bentley biết một số tin tình báo. Nàng đã khai rất nhiều người Mỹ làm gián điệp cho Liên-Xô từ Bạch Cung cho đến Ngân Khố, Bộ Ngoại Giao và Bộ Tư Pháp kể cả thám tử của OSS, cơ quan tình báo thời chiến tranh. Nàng khai Ducan Lee, viên chức OSS, trao cho nàng một số tin tức giống như tin Lee đã bỏ vào hộp thư của tướng Donovan. Bentley không biết Hemingway, nàng chỉ nghe Golos nói tên Hemingway mà thôi. Đến tháng 1 năm 1952, hai người Mỹ cộng sản, Julius và Ethel Rosenberg bị Tòa New York xử về vai trò của họ trong việc ăn cắp bí mật về bom nguyên tử Mỹ. Tại phiên xử, Bentley khai Golos và Hemmingway đã bí mật gặp Julius. Sau khi Golos chết, Bentley đầu thú với FBI và đưa ra bằng chứng phản lại Golos. Nhờ vậy Mỹ giải được mật mã của Liên Xô. Chuyện khai báo của Bentley làm Hemingway bận tậm trong một thời gian dài vì Hemingway đã tiếp xúc với Golos trong thời nội chiến Tây Ban Nha.
(iii) Fidel Castro và phong trào cách mạng: Vào khoảng tháng 2, 1957 Herber L’ Matthews, phóng viên báo New York Times, bạn thân của Hemingway, đến Cuba để viết một loạt bài phóng sự về Fidel Castro và phong trào tranh đấu dành chính quyền ở Cuba. Vào một buổi tối, Mathews đến nhà Hemingway dùng cơm. Trong lúc ngà ngà men rượu Mathews tán dương Castro là nhân vật chính trị cương quyết đấu tranh chống đế quốc và phát-xít, giống như tâm trạng của Hemingway khi chiến đấu và cổ động cho phe Cộng Hòa được Staline ủng hộ năm 1936. Fidel Castro là người theo cánh tả chứ không phải là Cộng Sản. Fidel Castro đang lãnh đạo một lực lượng du kích, lập chiến khu ở vùng rừng núi để chống lại chế độ độc tài và tham nhũng Batista. Matthews còn cho Hemingway biết Fidel Castro không những đọc mà còn học những điều hay trong cuốn tiểu thuyết For Whom The Bell Told. Mathew còn tiết lộ Fidel Castro đã nói với ông ta: “chúng tôi đem … (cuốn sách) vào núi , và nó dạy cho chúng tôi biết chiến tranh du kích như thế nào.” Những điều Mathews nói ra tác động mạnh đến tâm hồn Hemingway. Vì vậy Hemingway viết nhiều bài báo bênh vực Fidel Castro trong thời gian chống đối Batista và sau khi nắm chính quyền trong tay.
Qua mùa Xuân 1958 Hemingway cùng Mary, người vợ thứ tư và Gregorio Fuentes, công nhân canh tàu lái chiếc Pilar đi câu cá ở vùng biển phía Bắc Cuba. Biển động sóng lớn nên Hemingway neo tàu lại. Mary thả mồi câu vừa lúc Hemingway lái tàu ra xa bờ khoảng 10 miles. Nhà văn giao tay lái cho vợ còn ông ta và Gregorio có công việc riêng cần làm. Từ trên bong tàu Mary nhìn xuống qua khe hở thấy hai người đàn ông mở nhiều hộc và đem ra ngoài nhiều loại súng lớn, súng trường, súng shotgun cưa nòng, lựu đạn, ống đựng đạn và thắt lưng mang đạn dược. Mary đã nằm ngủ bên trên kho vũ khí mà nàng không hay biết. Bây giờ hai người đàn ông đem tất cả súng ống đạn dược quăng xuống biển. Hemingway không cho Mary biết xuất xứ của mớ vũ khí này và tại sao dấu dưới hầm tàu Pilar. Mãi về sau Gregorio mới nói cho Mary biết Hemingway sai Gregoria cất dấu để: ”trang bị cho phong trào cách mạng.” Sự việc này cũng là mối bận tâm của Hemingway về sau này. Có lẽ ông sợ FBI nghi ngờ ông đã trợ giúp Fidel Castro chống chính quyền Cuba thân Mỹ vào những năm 1960-1961 để đưa đất nước Cuba vào con đường cộng sản.

7. Thời gian còn lại từ tháng 8/1960 đến tháng 7/1961:

Vào ngày 15 tháng 8, 1960 Mary nhận được thư của chồng từ Châu Âu gởi về. Thư cho biết “cơ thể và trí nảo của Hemingway bị suy sụp vì làm việc quá sức.” A. E. Hotchner, nhà văn và ký giả Mỹ, sinh năm 1920, đã từng đến Havana năm 1948 để phỏng vấn Hemingway và trở nên bạn thân của Hemingway, bay qua Châu Âu đưa Hemingway về lại New York để Mary lo chăm sóc. Mary và Hotchner lo tìm chuyên viên giúp đỡ. Trước tiên họ tham khảo với bác sĩ tâm sinh lý về căn bệnh của Heminhway ở New York. Kế tiếp theo khuyến cáo của bác sĩ, họ đưa Hemingway đến điều trị ở bệnh viện Mayo Clinic, thành phố Rochester, tiẻu bang Minnesota. Hemingway được Bác Sĩ Howard Rome chẩn đoán ông mắc bệnh trầm cảm nghiêm trọng vì bị thêm chứng rối loạn tinh thần (depression complicated by paranoia). Cách chửa trị là chạy điện (electroconvulsive therapy). Cách này không thông dụng vào thời bấy giờ. Khi chửa trị, bác sĩ gây mê Hemingway, ràng ông vào bàn và gắn điện cực (electrodes) vào màng tang để dòng điện chạy lên não. Sau khi chạy điện từ 11 đến 15 lần, bệnh hầu như thuyên giảm, nhưng nhà văn lại có mối lo khác. Ông sợ dòng điện sẽ xoá trí nhớ của ông (quả thật, mất trí nhớ là một phản ứng nghịch thường xảy ra). Ông thường nói với Hotchener, trí não là nơi ông chứa đựng nguồn vốn của ông ; một khi ông bị mất hết vốn, ông không làm việc được. Ông bị chứng hoang tưởng (delusion). Ông nghĩ rằng ông bị FBI theo dõi từ khi ông trở về từ Châu Âu năm 1960. Đối với ông, những người nào không mặc quần jeans và mang giày ống cao-bồi đều đáng bị nghi ngờ là nhân viên FBI. Theo ông, nhân viên FBI luôn luôn mặc suits màu sậm và áo sơ-mi trắng để đi làm việc. Khi Hotchener hỏi vì sao ông nghĩ FBI chú ý đến ông, ông trả lời vì những “cuốn sách nghi ngờ” mà ông đã viết, bạn ông là ai và ông đang sống ở đâu … “với những người cộng sản Cuba.” Hemingway còn chờ đợi FBI đến bắt ông và thẩm vấn ông.
Vào khoảng đầu năm 1961, bang giao giữa Mỹ và Cuba trở nên tồi tệ. Hemingway suy nghĩ nhiều về những biến chuyển chính trị ở Cuba. Một người bạn tên Mathew viết thư cho Hemingway “chỉ trích những sự quá đáng, liên hệ với cộng sản Liên-Xô, Cách Mạng công khai bày tỏ thái độ cực đoan chống Mỹ”. Chính quyền Tổng Thống Eisenhower không bằng lòng, bang giao giữa hai nước trở nên nghiêm trọng. Ngày 17 tháng 4 năm 1961, một lực lượng 1,400 người Cuba lưu vong, được CIA huấn luyện và trang bị vũ khí đổ bộ lên bờ biển phía Nam Cuba. Đại biểu Cuba tuyên bố ở Liên Hiệp Quốc lúc 11:00 AM “sáng nay Cuba bị một lực lượng cướp biển xâm lăng dưới sự chỉ huy… của Mỹ.” Lực lượng này bị quân đội Cuba đánh tan. Đến ngày 20 tháng 4, Fidel Castro tuyên bố chiến thắng.” Báo Times đăng lời tuyên bố này vào ngày hôm sau. Castro kịch liệt chống Mỹ. Hemingway có thiện cảm với Cuba nhưng ông không thế nào chống lại đất nước của ông. Sự dày vò tâm lý này gợi lại vết thương lòng mà ông trải nghiệm trong thời nội chiến Tây Ban Nha, một sự chọn lựa bắt buộc ông phải nghiêng về nước Mỹ thân yêu. Về cuộc sống nội tâm, ông biết là ông không thể nào trở về nhà, đi dạo dưới tàng lá rặng cây ceiba ở trước cửa lớn của ngôi nhà Finca, hay lái tàu Pilar ra khỏi hải cảng rồi chạy ngang qua lâu đài Tây Ban Nha cổ kính hay buổi chiều ra quán Floridita uống rượu Papa Dobles với bạn bè. Nội tâm và ngoại cảnh đều mang lại sự buồn chán. Vì vậy căn bệnh của ông trở nên trầm trọng. Những người thân nhận thấy ông có triệu chứng muốn tự tử. Buổi sáng ngày 21 tháng 4, Mary thấy ông ngồi trong phòng khách với khẩu súng trường shotgun trong tay và hai viên đạn trên ngưởng cửa ở trong tầm tay với. Mary nhỏ nhẻ nói với ông về những dự định mà hai người còn có thể thực hiện như đi Mexico, trở lại thăm viếng Paris, có thể tham dự một cuộc săn bắn ở Phi Châu. Khi người bạn thân, bác sĩ Saviers đến đo huyết áp và khuyên ông bỏ súng xuống, ông nghe lời. Sau đó Mary và bác sĩ Savier lại sắp xếp chuyến bay để đưa ông vào lại nhà thương Mayo Clinic. Tại phi trường Casper, Wyoming, ông muốn lao mình vào cánh quạt máy bay. Đến tháng 6, bác sĩ bệnh viện Mayo Clinic quyết định cho ông về nhà. Mary cảm thấy nghi ngờ. Hemingway làm một việc ông thích nhất ở trên cõi đời. “VIẾT.” Ông viết một lá thư cho con trai René, dặn dò René chăm sóc “mấy con mèo, mấy con chó thân yêu và ngôi nhà Finca. ” Ông đoan quyết với con trai dầu cho điều gì xảy ra, Papa vẫn luôn luôn nhớ đến con.
Vào buổi sáng thứ Bảy ngày 1 tháng Bảy 1961, nắng ráo và ấm cúng, Hemingway rủ Brown cùng đi bộ lên ngọn đồi ở phía Bắc ngôi nhà. Sau đó hai người lái xe dạo phố thăm bạn bè. Buổi chiều Hemingway đải Mary và Brown, đấu thủ quyền Anh (the boxer,) ăn tối tại tiệm ăn quen thuộc Christina ở dưới phố. Ba người ngồi vào bàn ở trong góc tiệm và có thể nhìn thấy bất cứ khách hàng nào ở trong tiệm. Trong khi đang ăn, Hemingway nhìn sang bàn bên cạnh và hỏi cô hầu bàn về hai người đàn ông ngồi ở đó. Cô hầu bàn nghĩ họ là những người bán hàng ở phố lân cận. Bổng nhiên Hemingway nói ”Không vào ngày thứ Bảy”. Khi thấy cô hầu bàn nhún vai, Hemingway dịu giọng giải thích, “Họ là FBI”. Sáng hôm sau, Mary thức dậy khi nghe một tiếng động tựa như hai hộc bàn chạm vào nhau. Nàng đi xuống tầng trệt để xem xét. Nàng thấy Hemingway chết ở tiền đình phòng khách, nơi nàng đã lấy khẩu súng và đem cất vào tháng Tư. Hemingway đã thức dậy sớm trước tất cả mọi người, lặng lẽ bước xuống cầu thang với khẩu súng shotgun hai nòng, kết liểu cuộc đời của một đại văn hào Mỹ, người đã tích cực chiến đấu cho những điều mà ông tin tưởng.

Lê Trung Hiếu

Views: 265

Trên Cát

Thơ Lê Văn Bỉnh

 

Người thương binh loay hoay trên bãi biển

Đắp mô hình thủ đô cũ Sài Gòn

Tấp nập bộ hành đại lộ hẽm con

Xuất hiện thêm chợ mấy ngôi lớn nhỏ

 

Ngọn cờ tí teo mặt anh rạng rỡ

Nhiều mái trường đông đúc đám học sinh

Anh nói đây một thủ đô thanh bình

Dù xa xa vang vang bom đạn nổ

 

Khách đi qua bấm máy hình ghi nhớ

Anh mỉm cười cám ơn kỷ niệm này

Sóng biển vào trong vài giờ nữa đây

Sẽ xóa hết cảnh thanh bình trên cát

 

Khách vắng đi và nhanh trong chốc lát

Anh vẽ người chỉ còn lại một chân

Cánh tay cụt đong đưa nỗi nhọc nhằn

Nước lại xóa công trình vừa mới chớm

 

Nhìn sóng vỗ tràn lan anh cười lớn

Tác phẩm vẫn còn – đó chính là ta

Chứng tích một thời — dù khá phôi pha

Là thực tế  –không chỉ qua hình ảnh

 

Cứ vài tuần anh lại ra biển lạnh

Đắp mô hình thủ đô cũ Sài Gòn

Khách vẫn chụp hình – ảnh đó sẽ còn

Còn ảnh anh — người lắc lư trên cát.

 

Mưa mỗi lúc càng thêm nặng hạt

Gió vù vù như tích tụ trăm năm

Sóng điên cuồng gào thét ầm ầm

Anh về đâu — hay vẫn còn trên cát

 Lê Văn Bỉnh

Virginia Tháng Giêng 2018

Views: 189

Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ

Lê Văn Bỉnh

Nhiều người trong chúng ta thường nói rằng người Mỹ –dùng chung cho cá nhân, chính trị gia, định chế, chính phủ –theo “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism).  Khi tỏ ý chê bai, thì phê phán này có nghĩa là người Mỹ không có một lý tưởng rõ ràng, hễ thấy điều gì có lợi cho mình thì làm, quên cả mục tiêu mà mình muốn theo đuổi từ ban đầu. Khi ngợi khen, thì phê phán này hàm ý là người Mỹ không câu nệ, không cứng nhắc tuân theo nguyên tắc, mà trái lại biết linh động theo tình thế, sẵn sàng thay đổi phương cách hành động cũng như đường lối, chính sách.  Sử dụng cụm từ “chủ nghĩa thực dụng” với những hàm ý này thiết nghĩ không chính xác, nếu không nói là lạm dụng chữ nghĩa, bởi lẽ hành động theo cung cách đổi tới đổi lui thì không thể gọi là theo một “chủ nghĩa” nào cả!  Thiết nghĩ nói rằng người Mỹ “thực tế”, “thực tiễn” (practical) thì có lẽ đúng hơn.

Không phải chỉ có không ít người Việt chúng ta không hiểu về chủ nghĩa thực dụng, mà ngay cả nhiều người Mỹ có học cũng khá mơ hồ về nó. Thật vậy, đầu năm 2012, đài phát thanh National Public Radio ở thành phố New York (WNYC) tường thuật rằng 3 chữ pragmatic/pragmatism/pragmatist được cư dân mạng tìm kiếm nhiều nhất, cũng như đã được các phương tiện truyền thông đại chúng dùng nhiều nhất vào năm 2011 sau khi Tổng Thống Obama tuyên bố rằng ông và lịch trình hành động của ông từ khi vận động tranh cử đến lúc bấy giờ vẫn nhất quán, nghĩa là “pragmatic” và “pragmatist.”  (Pragmatism and American Experience: An Introduction, TG Joan Richardson, NXB Cambridge, 2014, tr.1-2

Chủ nghĩa thực dụng thực ra đã được người Mỹ và thế giới công nhận là một trào lưu triết học, ra đời trên đất Mỹ từ hơn một trăm năm nay.  Nó càng ngày càng phổ cập trong đời sống cũng như trong các lãnh vực giáo dục, pháp luật, chính trị, ngoại giao vv. Hoa Kỳ.  Nhiều nhà triết học nổi tiếng thế giới đã nghiên cứu phong trào triết học mới này một cách nghiêm túc, coi đó là một sản phẩm trí tuệ của nước Mỹ đóng góp vào kho tàng triết học thế giới.

 Trước khi giới thiệu nội dung của chủ nghĩa thực dụng, thiết nghĩ nên đề cập sơ lược về triết học để từ đó chúng ta có thể nhận ra những khám phá của phong trào triết học mới này.

Sơ Lược Về Triết Học

Triết học là gì? Thật ra chưa có một định nghĩa nào về triết học được đưa ra mà không gây tranh cải. Xuất xứ từ tiếng Hy Lạp (philosophia), triết học có nghĩa là “lòng yêu thương tri thức hay sự khôn ngoan” (love of knowledge or wisdom), mà mục tiêu là nhằm nghiên cứu để tìm hiểu các phạm trù đặc trưng tổng quát và trừu tượng nhất của thế giới (sự sống, chết, linh hồn, thần linh, thượng đế vv.) và các phạm trù giúp cho con người suy nghĩ (trí óc, vật chất, sự thật vv.) Theo nhiều nghiên cứu, triết học Đông phương, đặc biệt Trung Hoa và Ấn Độ có trước triết học Tây phương rất lâu, nhưng chủ yếu nghiêng về tôn giáo, tức thuộc loại phạm trù trước, hơn là loại phạm trù sau. Triết học xuất phát từ tính tò mò, hiếu kỳ cũng như lòng ao ước của con người muốn biết và hiểu. Cách đây vài trăm năm vì chưa có điều kiện giao lưu thường xuyên, cho nên triết Tây tiếp tục phát triển một các độc lập.  Nhưng dù triết Đông hay triết Tây, triết học nói chung đều mang ít nhiều tính cách tra vấn (inquiry); nhưng khi tra vấn, triết Tây thường theo một diễn trình khá qui ước, gồm các giai đoạn như phân tích, phê bình, giải thích và tổng quát hóa để có thể giúp tiên liệu những tình huống tương lai. Trong điều kiện này thì nghiên cứu triết học đòi hỏi ít nhiều thông minh, hay ít nhất người nghiên cứu không thể thiếu những kiến thức căn bản nào đó.  Trước năm 1975, tại Miền Nam, học sinh năm cuối cùng của chương trình trung học phải học và thi trong kỳ thi tốt nghiệp hai môn luận lý học và đạo đức học; riêng học sinh ban văn chương còn phải thêm môn tâm lý học.  Các kiến thức nhập môn này không những giúp họ hiểu biết một tổng quát thế giới trừu tượng, mà còn hướng dẫn và thúc đẩy họ tra vấn về nhiều phạm trù mà sau này khi ra đời họ sẽ thực sự đối phó.

Triết học như nói trên nhằm tra vấn những phạm trù mà người nghiên cứu quan tâm. Nhưng trên đời, có biết bao vấn đề đáng quan tâm! Theo truyền thống, triết học chia ra 5 ngành chính:

  • Siêu hình học (metaphysics) nghiên cứu về bản chất căn bản của hiện thực và hiện hữu. Chia ra hai chi nhánh: hiện thể học (ontology, nghiên cứu hiện thể — tức “Being”) và vũ trụ học (cosmology, nghiên cứu về nguồn gốc vũ trụ qua tôn giáo, truyền thuyết và khoa học);
  • Tri thức học (epistemology) nghiên cứu về bản chất, căn bản và sự phát triển của tri thức (knowledge), để có thể giúp con người khám phá ra sự thực, tìm kiếm mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin;
  • Luận lý học (logic) nghiên cứu về những nguyên tắc và phương pháp lý luận, có thể giúp người ta phân biệt giữa chính biện và ngụy biện;
  • Đạo đức học (ethics) nghiên cứu về cách cư xử, bản tính và những hệ thống giá trị của con người;
  • Thẩm mỹ học (aesthetics) nghiên cứu về sự sáng tạo và những nguyên tắc nghệ thuật và cái đẹp; cũng như tư tưởng, cảm nhận và thái độ khi thấy, nghe, đọc về những điều đẹp đẽ.

Ngày nay người ta còn kể thêm triết học về ngôn ngữ (philosophy of language), xem nó là quan trọng với lý do là mọi tranh cải triết lý đều từ ngôn ngữ mà ra. Câu hỏi chủ yếu “Ngôn ngữ là gì?” Ngoài ra, mỗi ngành học như khoa học, tôn giáo đều có triết lý “riêng” của mình, mà chỗ dựa chính vẫn là các ngành triết học kể trên.

Có thể nói mỗi người trong chúng ta hằng ngày đều phải đương đầu với những câu hỏi hoặc lớn hoặc nhỏ mang ít nhiều tính cách triết học: Vũ trụ từ đâu sinh ra? Tôi là ai? Cuộc đời này đáng sống hay không?  Sau khi chết linh hồn đi về đâu? Tuân thượng lệnh để giết người mà tôi biết rằng làm như vậy là sai, tôi sẽ bị tội hay không? Bạn dựa vào đâu mà nói ông ta đúng hay sai? Chị dựa vào đâu mà khen bức tranh này đẹp hay xấu? Ngay cả người chủ trương rằng tìm hiểu triết học chỉ phí thì giờ, hãy cứ tự nhiên mà sống, thì người ấy cũng cho thấy cái triết lý sống của mình!

Từ đó có thể nói nghiên cứu triết học giúp làm sáng tỏ những điều người ta viết là đúng hay sai, đáng tin hay nên ngờ vực; hiểu được lý do, hoàn cảnh của một giai đoạn lịch sử nào đó để có thể phê phán cho công bằng, vv.

Xã hội con người được xây dựng trên những tư tưởng triết học. Những định chế như chính quyền, luật pháp, tôn giáo, học đường, hôn nhân, gia đình, tổ chức thương mại, vv. thường được thiết lập theo những tư tưởng triết học nhất quán.  Thiếu tính nhất quán này, hay nếu những chuyển biến thô bạo vụng về thì dễ đưa đến đổ vỡ.  Đổ vỡ bởi vì người cầm quyền tin rằng những gì mình ra lệnh là quan trọng, là đúng, là sự thực; nhưng thuộc cấp và dân chúng lại suy nghĩ hoàn toàn trái ngược.

Chủ Nghĩa Thực Dụng

Alexis de Tocqueville

Một người Pháp, Alexis de Tocqueville (1805-1859), khi sang Hoa Kỳ nghiên cứu về chế độ ngục tù vào thế kỷ 18, tỏ ra rất hứng khởi về sinh hoạt chính trị và sinh hoạt dân chủ, văn hóa của quốc gia non trẻ này, đã viết ra một quyển sách dày, được dịch sang tiếng Anh với tựa đề “Democracy in America”, thường được các chính khách Mỹ trích dẫn, đã thấy sự thiếu vắng đáng ngạc nhiên của triết học ở quốc gia đầy sinh động này.  Ông viết: “Tôi nghĩ rằng không có một quốc gia nào trên thế giới văn minh này lại ít để ý tới triết học như tại Hoa Kỳ. Người Mỹ không có trường phái triết học riêng cho mình, và họ không mấy để ý tới những trường phái mà theo đó châu Âu bị phân chia ra, những cái tên mà họ hiếm khi biết đến.”

Nếu Tocqueville còn sống thêm mười năm nữa, có thể ông sẽ nghĩ khác. Thật vậy, từ đầu thập niên 1860 trở đi, sinh hoạt triết học của giới trí thức trẻ Hoa Kỳ đã chớm bắt đầu.  Phong trào triết học chủ nghĩa thực dụng không ngừng phát triển cho đến nay, lan dần vào nhiều lãnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục, pháp lý, vv. như đã đề cập ở trên. Nó không những được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trí thức Hoa Kỳ, mà còn được sự tiếp nhận ít dè dặt hơn, nếu không nói khả quan, của giới trí thức bên ngoài nguyên xứ của nó.

Trước khi đi vào chi tiết về chủ nghĩa thực dụng, xin đưa ra dưới đây một số định nghĩa qua tự điển để có một ý niệm tổng quát về trào lưu triết học mới này.

  • Chủ nghĩa thực dụng là một hệ thống hay một khuynh hướng trong triết học, trắc nghiệm giá trị của tất cả khái niệm qua các kết quả thực tiển. (Webster’s New World Dictionary of the American Language, NXB The World Publishing Company, 1968, tr. 1146).
  • Chủ nghĩa thực dụng là một chủ thuyết cho rằng ý nghĩ và tư tưởng chỉ có giá trị khi mang lại hệ quả, và rằng kết quả là trắc nghiệm duy nhất về giá trị hay sự thật của một niềm tin của con người. (New Illustrated Webster’s Dictionary of the English Language, NXB PMC Publishing Company, Inc., 1992, tr. 761)
  • Chủ nghĩa thực dụng: một triết lý, lý giải chủ yếu bởi C.S. Pierce và Williams James, lượng giá các xác quyết đơn thuần bằng những hệ quả thực tiển, và liên hệ đến những lợi ích của con người. (The Oxford Encyclopedia English Dictionary, NXB OUP, 1996, tr. 1137)
  • Chủ nghĩa thực dụng: 1. (Triết học): một phong trào gồm những lý thuyết đa dạng nhưng kết hợp với nhau, khởi đầu được khai triển bởi Charles S. Pierce và William James và được phân biệt qua chủ thuyết cho rằng ý nghĩa của một tư tưởng hay của một tiền đề (proposition) nằm ở những hậu quả thực tiển có thể quan sát được; 2. một phương pháp thực tiển, thực sự  để tiếp cận và đánh giá các tình huống và giải quyết các vấn đề (The American Heritage Dictionary of the English Language, NXB Houghton Mifflin Co., 2000, tr. 1378)
  • Chủ nghĩa thực dụng nghĩ về phương cách giải quyết các vấn đề theo phương cách thực nghiệm và cảm tính hơn là bằng những ý tưởng và lý thuyết cố định (Oxford Advanced America Dictionary, NXB OUP, 2011, tr. 1146)

Từ những định nghĩa tổng quát quát này, liệu người ta có thể đưa ra kết luận rằng theo CNTD thì một chủ thuyết (doctrine), hay một ý nghĩ, một tư tưởng được xem là sự thật và có ý nghĩa chỉ khi nào nó đưa đến một hệ quả hữu ích cho con người; còn nếu nó không đem lại kết quả như mong muốn, thì nó chỉ là những thứ vô bổ? Đây quả một câu hỏi quan trọng đáng được nghiên cứu cẩn thận trước khi có câu trả lời. Ngoài ra, CNTD còn được xem như một phương cách (method) đem lại giải pháp cho các tình huống. Tính cách thực tiển này giúp ích gì cho cuộc sống?

***

Trước khi giới thiệu CNTD và những người cha đẻ của nó, thiết nghĩ nên nói ngay rằng CNTD là “một cái tên mới cho những cách suy nghĩ cũ” (a new name for old ways of thinking) như William James đã đề nghị.  Theo CNTD, một ý tưởng phải được phê phán qua cách thức hoạt động của nó, hơn là qua dáng vẻ bề ngoài hay qua tiếng nói phát ra.  Phương pháp của CNTD được xem là gần gũi với phương pháp khoa học; hay nói rõ hơn là nó toan tính đưa các phương pháp khoa học vào triết học.  Điều này khiến nhiều người xem CNTD là một triết học kỳ quái của người Mỹ!

Theo CNTD, người ta không thể phê phán rằng một ý tưởng là đúng hay sai chỉ bằng đơn thuần nhìn nó. Nó là thực/đúng với điều kiện là nó chứng tỏ hiệu quả khi liên hệ đến quá khứ và tương lai và khi tổ chức các trải nghiệm hiện tại làm thỏa mãn chúng ta.  Một ý tưởng có thể đúng trong tình huống này, nhưng lại sai trong hoàn cảnh khác. Về sự chuyển động của mặt trời và những hành tinh lân cận chẳng hạn, tư tưởng nhà thiên văn học Ptolemy (100 -170) được xem là đúng trong một thời gian dài hơn cả nghìn năm, trước khi Copernicus (1473-1543) đưa ra quan điểm của mình.  Gần đây, dựa vào lý thuyết tương đối của Newton, các nhà thiên văn học hiện đại, quan sát thấy sự chuyển động giản dị hơn nhiều so với các tính toán của Copernicus.  Đối với những người theo CNTD, Ptolemy và Copernicus đều đúng cả, nghĩa là cả hai lý thuyết đều đúng cho tới khi chúng không còn hoạt động hiệu quả nữa.

Cũng cần nói thêm: CNTD chưa bao giờ long trọng tuyên bố rằng một ý tưởng được coi là đúng/thực đối với một người khi nó làm cho ông ta đạt được điều gì đó mà ông ta muốn.  Điều hoang tưởng kỳ vĩ này có thể làm cho ông ta quá tự tin và khiến ông ta ra tay chế ngự kẻ khác để nhằm đạt mục tiêu của mình. Chính điều hoang tưởng này đã gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc sau những cuộc bầu cử gay go, hay sau những chiến thắng bất ngờ hay những vụ đảo chính đẩm máu: những người chiến thắng xem sự thành công ban đầu — tức được đưa lên nắm chính quyền –là đúng/ thực, và sẽ mãi là ý tưởng đúng/ thực vĩnh viễn. Đối với CNTD, không có “chân lý” nào tồn tại vĩnh viễn.

Triết học, như đã đề cập, chia ra nhiều ngành. CNTD đề cập đến hầu hết những ngành triết học đó, một phần vì những người sáng lập được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau; phần khác họ muốn đưa ra những chủ thuyết khác đối kháng với các trường phái cũ. Nói một cách tổng quát, CNTD là kết hợp của 3 lý thuyết chính sau đây. Thứ nhất, lý thuyết về tư tưởng (theory of mind), theo đó niềm tin là những giả định, và ý tưởng là những kế hoạch hành động.  Thứ hai, lý thuyết về ý nghĩa (theory of meaning), theo đó các ý tưởng được làm sáng tỏ bằng cách cho thấy mối quan hệ của chúng với hành động. Thứ ba, lý thuyết về sự thực (theory of truth), theo đó những niềm tin là thực chỉ khi chúng là những hướng dẫn đem lại kết quả trong các tiên liệu và hành động.  Yếu tố xuyên suốt trong ba chủ thuyết này là hành động, chứ không phải những suy xét có tính cách lý thuyết. (The Columbia History of Western Philosophy hiệu đính bởi Richard H. Popkin, do MJF Books xuất bản năm1999, tr. 592). Nói cách khác, CNTD cho rằng ý nghĩa và sự thực của một ý tưởng được định đoạt bởi những hệ quả của ý tưởng đó qua thực hành và cư xử (in practice and conduct).

 Ngoài ra, cũng nên lưu ý rằng cùng một phạm trù, nhưng các triết gia CNTD đôi khi đưa ra những quan điểm khác nhau. Ba người tiên phong sáng lập CNTD là: Charles Sanders Peirce, William James và John Dewey.

 

Charles Sanders Peirce (1839 – 1914)

Charles Sanders Peirce

Vào Harvard University năm 16 tuổi, Peirce (đọc như purse) học khoa học thực nghiệm dưới sự hướng dẫn của người cha, một giáo sư toán và thiên văn học nổi tiếng của trường thời đó. Sinh hoạt thường xuyên ngoại khóa với nhóm nghiên cứu triết học, gọi là The Metaphysical Club, trong đó có vài ba hội viên đang là khoa học gia, luận bàn về những vấn đề siêu hình và bản chất của niềm tin. Tốt nghiệp 4 năm sau với bằng hóa học và làm việc 30 năm liền cho United States Coastal and Geodesic Survey. Thỉnh thoảng Peirce trở lại Harvard để diễn thuyết về luận lý học và lịch sử của khoa học. Năm 1891, bỏ cơ quan này để dùng toàn thời gian nghiên cứu luận lý học và triết học, và dự định viết thành sách những gì đã nghiên cứu và suy nghiệm.  Túng thiếu, ông đành viết báo để sống qua ngày. Trông già nua hơn, lập dị (eccentric) hơn, dễ nóng giận, chỉ thích sống ẩn dật một mình, không muốn quan hệ với ai cả. Thường được William James (sẽ đề cập sau) giúp đỡ tài chánh, giới thiệu việc làm. Khi chết, ông chưa ra mắt được một quyển sách nào.  Tuy nhiên khi còn sống ông đã viết hằng trăm bài thuyết trình và bài phê bình triết học. Các bản thảo chưa in được Philosphical Department của Harvard mua lại và in thành nhiều quyển với tên của ông.

Là người sáng lập CNTD tại Mỹ, nhưng về sau Peirce lại đổi tên pragmatism thành pragmaticism, một cái tên mà ông cho là “kỳ quặc nhưng sẽ không bị người khác bắt cóc”. Tuy nhiên ngày nay, pragmatism được phổ biến rộng rãi hơn để chỉ trào lưu triết học càng ngày càng được phát triển, trong khi đó pragmaticism chỉ được sử dụng hạn chế trong ngành ngôn ngữ học (thí dụ trong quyển “Pragmaticism: Theory and Application” của Ellyn Lucas Arwood).

Theo Peirce, nguyên tắc chủ đạo của CNTD là “nếu người ta có thể định nghĩa chính xác tất cả những hiện tượng thực nghiệm có thể nhận thức được mà sự xác nhận hay phủ nhận có thể ám chỉ, thì người ta sẽ có một định nghĩa đầy đủ về khái niệm” (if one can define accurately all the conceivable experimental phenomena which the affirmation or denial of the concept could imply, one will have a complete definition of the concept).

Ông đặc biệt quan tâm đến sự khác biệt giữa niềm tin và sự hoài nghi. Đối với ông “sự hoài nghi trên lý thuyết” (paper doubt) của Descartes không ích lợi gì; trái lại sự hoài nghi thực sự (real doubt) được củng cố sau nhiều trải nghiệm sẽ làm cho chúng ta hoãn lại những niềm tin, tức những gì mà thoạt đầu chúng ta tin là đúng/thực. Theo Peirce, những tiền đề trong triết học (proposition) –tương đương với những định đề (theorem) trong toán học– xuất phát từ một vài nghĩ suy sắp đặt thông minh (intellectual disposition) chưa đáng được gọi là niềm tin (belief); mà niềm tin là do một sự biểu thị về thói quen ứng phó trong hành động (a behavioral habit manifest in action).  Do đó, khi “sự hoài nghi thực sự” được đặt ra, thì thái độ thường có của con người sẽ bị đổ vỡ. Mặt khác, sự hoài nghi của Descartes có thể không làm cho chúng ta thay đổi cách thức hành động. Theo Peirce, tri thức, mà ông định nghĩa như là giải pháp cho những thói quen bị đổ vỡ vì sự xét lại niềm tin, mới chính là một “tiến trình phản ứng tự nhiên” (homeostatic process, như trong trường hợp cơ thể chúng ta rùng mình khi gặp lạnh, hắt hơi khi bị chói nắng). Đối với Peirce, tri thức là phương tiện dùng để ổn định cách ứng phó theo thói quen đối với sự hoài nghi. (Philosophy: 100 Essential Thinkers, Philip Stokes, NXB Arturus, 2016, tr. 126).

Trong bài nói chuyện đầu tiên với tựa đề “How to Make Our Ideas Clear”, Peirce viết: “Cốt lõi của niềm tin là sự hình thành thói quen, và những niềm tin khác nhau được phân biệt bằng các phương cách hành động mà những niềm tin đó gợi ra.  Nếu các niềm tin không khác biệt nhau trong phạm vi này; nếu chúng không hạ giảm bớt sự hoài nghi đó bằng cách sản sinh cùng qui luật hành động, thì những sự khác biệt đơn thuần về phương diện ý thức của chúng có thể khiến chúng thành những niềm tin khác nhau.” (Pragmatism: A Reader do Louis Menand hiệu đính, do A Vintage Orginal xuất bản năm 1997, tr.33)

Peirce còn cho rằng tính duy lý (rationality), theo một phương cách nào đó, không bao gồm cảm nhận, mà bao gồm hành động. Nhận định này khác với James, người cùng trường phái, vì James cho rằng tính duy lý gồm cảm nhận (feeling) và ảnh hưởng (affectivity).  Tuy nhiên quan điểm của cả hai đều tỏ ra khác hẳn với hai trường phái cổ điển. Theo chủ nghĩa duy lý (rationalism, với các triết gia nổi tiếng là Descartes, Spinoza và Leibniz), lý lẽ nói chung, và trực giác nói riêng, giúp con người biết được thực tế. Còn theo chủ nghĩa duy/thực nghiệm (empiricism, chủ yếu với Locke, Berkeley và Hume), tri thức của con người, trừ tri thức về những nguyên lý toán học, và một vài sự thực lôgic, đều là do kinh nghiệm mà ra.

Về đạo đức học, một phạm trù mà ông tham gia bàn luận tương đối trễ, Peirce chỉ trích là trong triết học cổ truyền, “khuynh hướng của các triết gia là luôn luôn xác quyết rất tuyệt đối”; và tuy không tranh luận rằng James và Dewey là những người theo thuyết tương đối (relativists), nhưng ông e sợ rằng triết lý của hai người này cực kỳ linh động và công trình nghiên cứu của họ có thể dẫn dắt người ta đi theo một đường hướng khác. Cùng chính vì lý do này, mà ông thay đổi chủ thuyết của mình, từ “pragmatism” thành “pragmaticism”. Theo Peirce, đạo đức học có nhiệm vụ hình thành mục tiêu cuối cùng cho cách ứng xử của con người (the summum bonum), một cứu cánh mà theo ông, có tính cách năng động, chứ không có tính cách tĩnh. Ngoài ra, Peirce còn lý luận rằng đạo đức học không phải là sự nghiên cứu những gì có tính cách lý tưởng, mà là “sự nghiên cứu những cứu cánh của hành động mà chúng ta chuẩn bị kỹ lưỡng để theo.” Trong ý hướng ấy, Peirce thích nghi đạo đức học của ông với lý tưởng thẩm mỹ về những điều hữu lý (aesthetic ideal of reasonableness). Ông tranh cải rằng cách cư xử của con người nên nhắm mục tiêu đóng góp vào sự phát triển những điều hữu lý cụ thể này, chẳng hạn trong tư duy chính trị tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể chỉ danh phong trào dân quyền (civil rights) là giá trị cụ thể rút ra từ lý tưởng chung đã được ấn định trong Hiến Pháp (Peirce: Ethics and the Conduct of Life, viết bởi Douglas R. Anderson, trong quyển Classical American Pragmatism: Its Contemporary do S.B. Rosenthal, C.R. Hausman và D.R. Anderson hiệu đính, tr. 137-145).

Theo Louis Menand trong quyển “The Metaphysical Club: A Story of Ideas in Ameica”, tr. 161, thì khi còn là sinh viên, Peirce thích dùng tam đoạn luận (syllogism) để để chia xẻ quan điểm với cha mình trong vấn đề này:

          Tất cả con người đều bình đẳng về các quyền chính trị;

          Người da đen là con người;

          (Vì vậy) Người da đen bình đẳng về các quyền chính trị như người da trắng.

 Quan điểm dân quyền này được coi là rất quan trọng, đến nỗi nhiều người cho rằng nếu CNTD ra đời sớm và được phổ biến rộng rãi, thì cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn với 600.000 nhân mạng, và những kết quả tiêu cực vẫn còn tồn tại đến ngày nay, có thể đã không xảy ra trên đất nước Hoa Kỳ. Quan điểm này cũng không hẳn đúng. Bởi lẽ CNTD đã ra đời trên 100 năm nay rồi, mà nạn kỳ thị chủng tộc đâu có biến mất, cứ tái đi tái lại trên đất nước này; cũng như gần đây xảy ra những tranh chấp gay gắt thậm chí chết người về việc gỡ bỏ các tượng đài kỷ niệm do cánh Miền Nam dựng lên sau cuộc Nội Chiến Nam Bắc. Hình như con người khắp mọi nơi trên thế giới đã “quen” yêu chủ nghĩa nhất nguyên của mình rồi! Bỏ nó đi, thì cảm thấy mất đi bản sắc!

William James (1842-1910)

William James

Thủa nhỏ James được gia đình cho sang học ở nhiều nước châu Âu. Muốn trở thành một họa sĩ, nhưng nhận thấy không thích hợp, James về Mỹ học ở Harvard, bạn với Pierce, và trở thành người giúp đỡ hào phóng cho Pierce về sau.  Tốt nghiệp y khoa, dạy cơ thể học và sinh lý học tại Harvard, rồi chuyển thành giáo sư tâm lý học và triết học cho đến những năm cuối đời.  Bộ sách 2 quyển The Principles of Psychology (xuất bản năm 1890) giúp ông nổi tiếng thời đó và nay trở thành kinh điển.  Trong những công trình xuất bản sau đó, gồm The Will to Believe and Other Essays in Popular Philosophy (1897), The Varieties of Religious Experience (1902), Pragmatism: A New Name for Some Old Ways of Thinking (1907), The Meaning of Truth: A Sequel to Pragmatism (1909), A Pluralistic Universe (1909) và Essays in Radical Empiricism (1912, sau khi ông mất), James tìm cách nâng các lãnh vực tinh thần, triết học, tôn giáo, xã hội thành những chủ nghĩa lý tưởng (idealisms). Theo nhiều nhà phê bình, lối viết của James không rõ ràng, bay bướm bằng lối viết của em ông, nhà văn thiên tài Henry James, và ông cũng không đi sâu và xa trong lý luận để đẩy mạnh quan điểm của mình; tuy nhiên đều đồng ý chính ông mới là người có công lớn phổ biến CNTD tại Hoa Kỳ thời đó. Sử dụng những từ ngữ quen thuộc dễ hiểu, như giá trị bằng tiền mặt (cash-value), “kết quả” (results), “lợi nhuận” (profits) và đi thẳng vào vấn đề, ông dễ thu hút nhiều nguồn độc giả.

Trong quyển The Principles, James cho rằng kinh nghiệm — chứ không phải lý thuyết, những điều trừu tượng và triết học truyền thống — mới là chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết một cách thực tiển về mình cũng như về thế giới.   Ông không đồng ý với chủ nghĩa nhị nguyên truyền thống về vật chất và tinh thần, nhưng đồng thời cũng không cho rằng tinh thần bị giảm xuống chỉ còn là vật chất. Theo ông, trí não phải được xem như là công cụ thực hiện các mục tiêu; siêu hình học hay thần học mới chứng tỏ sự hiện hữu của linh hồn. Ông phân biệt “tôi” (I) và “cái tôi” (Me). “Tôi” thì lúc nào cũng ý thức (concious); còn “cái tôi” là cái được ý thức về.  Ông phân biệt cái tôi vật chất, cái tôi xã hội và cái tôi tinh thần; chúng là đối thủ, cạnh tranh nhau, và hầu hết chúng ta bị thúc đẩy như là một khán giả lý tưởng trong việc phán xét các tương tác của chúng.

 Trong quyển Pragmatism, James cho rằng những người theo chủ nghĩa thực nghiệm (empiricists) là những kẻ bi quan, không tôn giáo, ngờ vực và đa nguyên; còn những người theo chủ nghĩa duy lý (rationalists) là những người lý tưởng, lạc quan; và những người theo chủ nghĩa nhất nguyên (monists) là những kẻ giáo điều. Cả ba, theo ông, không làm thỏa mãn nhu cầu triết học đối với các sự kiện, khoa học và tôn giáo của một con người bình thường; mà chính CNTD mới có thể làm thỏa mãn các nhu cầu này bằng cách đưa ra một phương pháp hấp dẫn mọi khuynh hướng, không phủ nhận tôn giáo lẫn các sự kiện, và chấp nhận tính chủ quan như là một yếu tố quan trọng trong triết học. Khác với Peirce, người cho rằng CNTD chỉ liên quan tới ý nghĩa mà thôi, James chủ xướng rằng CNTN là một lý thuyết về cả ý nghĩa lẫn sự thực (a theory of both meaning and truth).  Đối với James, ý nghĩa của những ý tưởng, những niềm tin và những lý thuyết được nhận thức ra bằng cách hỏi rằng chúng thay đổi gì trong đời sống chúng ta. Và chúng là sự thực nếu sống theo chúng sẽ đưa đến những mối quan hệ thỏa đáng với những phần khác của trải nghiệm của chúng ta (satisfactory relations with other parts of our experience).  Nói vắn tắt, giá trị cụ thể (cash-value, giá trị bằng tiền mặt) của sự thực là gì? Câu trả lời: Những ý tưởng thực là những ý tưởng mà chúng ta có thể đồng hóa, chuẩn nhận, trưng ra bằng cớ và chứng thực (assimilate, validate, corroborate and verify); còn những ý tưởng giả là những ý tưởng thì chúng ta không thể làm như thế được. (Fifty Major Philosophers: A Reference Guide, do Diané Collinson viết, Routlege xb năm 1987, tr. 117-118).

James giúp người đọc nhận ra cái cụ thể, tính hữu dụng cũng như tính tiên liệu của CNTD.  Thật vậy, trong khi trường phái học giả thần học thời trung cổ (scholasticism) tra vấn: “Cái này thật ra là gì?” để rồi rơi vào vòng lý sự, lẩn quẩn đi tìm lại tiền đề (quiddities); hay chủ nghĩa Darwin mạnh dạn hỏi: “Nguồn gốc của cái này là chi đây?” để rồi phải tiếp tục tìm kiếm câu trả lời trong khối tinh vân hổn độn (nebulas), thì CNTN đi thẳng vào “đời thường” rất thực tế: “Cái này đem lại những hậu quả gì?” Câu hỏi này nghe ra rất trần tục, nghe không có gì triết học, nhưng khiến người ta suy nghĩ để hành động và nghĩ đến tương lai.

Ngày nay sống trong xã hội đa nguyên, nhiều người trong chúng ta không thấy chủ nghĩa đa nguyên là điều mới lạ.  Nhưng không phải chủ nghĩa đa nguyên thời nào cũng thấy được và ở đâu cũng có được.  Vào thế kỷ 16-17, chủ nghĩa nhất nguyên đã đưa châu Âu văn minh đến những cuộc chiến tranh tôn giáo đẩm máu.  Sau những chém giết đó, chủ nghĩa tự do (liberalism) mới nảy sinh, và người ta mới thấy một sự dung hòa, dung hợp, độ lượng là cần thiết để có hòa bình lâu dài. CNTD kêu gọi mọi người đón tiếp chủ nghĩa đa nguyên nồng nhiệt và tích cực. Theo James, nhiều người trong chúng ta quá thờ ơ hay quá dễ dàng không nhận ra được là có nhiều người có cuộc sống không giống cuộc sống của mình.  Khi làm như thế, thì chúng ta không nhận ra được những khác biệt chính đáng.

John Dewey (1859 – 1952)

John Dewey

Sau khi tốt nghiệp University of Vermont, Dewey theo chương trình Cao Học đầu tiên được mở năm 1881 tại John Hopkins University, nơi Charles Peirce đang giảng dạy nhưng không học với Peirce.  Lúc đó, ông chịu ảnh hưởng của triết học Hegel. Từ 1884 đến 1894, Dewey dạy ở University of Michigan. Năm 1894 chuyển sang University of Chicago làm khoa trưởng phân khoa triết, tâm lý và giáo dục; hai năm sau mở Laboratory of Education, một nơi thực nghiệm về giáo dục cấp tiến rất nổi danh. Đến 1904 chuyển sang dạy ở Columbia University cho tới khi về hưu năm 1930. Dewey xuất bản hơn 30 quyển sách, đi thuyết trình nhiều nơi trên thế giới cho nhiều loại thính giả khác nhau.  Dewey viết về nhiều lãnh vực trong triết học: tri thức học, siêu hình học, luận lý học, triết lý về trí tuệ, triết lý về khoa học, triết lý về chính trị, thẩm mỹ học và triết lý về tôn giáo.

Chịu ảnh hưởng khá mạnh của thuyết tiến hóa do Charles Darwin chủ xướng, Dewey nghĩ rằng tư tưởng và trí tuệ là những công cụ được phát triển trong quá trình tiến hóa cho phép con người chỉnh đốn lại môi trường sống của mình. Theo Dewey, những niềm tin (Peirce gọi đó là những thói quen) đủ mạnh mẽ và ổn định để chúng ta tin cậy, nhưng chúng ta luôn phải mở rộng đầu óc sẵn sàng xét lại, đặc biệt là vì chúng phải tự thích nghi với những đổi thay của môi trường. Ông viết: “những ý niệm, những lý thuyết, những hệ thống tư tưởng … là những công cụ (tools). Giống như trong trường hợp tất cả các công cụ, giá trị của chúng không nhờ vào chính chúng, nhưng nhờ ở khả năng làm việc của chúng mà người ta nhìn thấy được qua các hiệu quả khi sử dụng chúng” (Dewey, The Middle Work: 12, 163). Ông cho rằng đối với chủ nghĩa thực dụng, mà sau đó ông đặt lại tên là chủ nghĩa công cụ (instrumentalism), tất cả các ý tưởng đều là công cụ.  Do đó, những ý tưởng thật sự là những ý tưởng đem lại hiệu quả tốt nhất nhằm đạt những mục tiêu của con người (real ideas are those work best for attaining human goals).

Ông viết: “Triết học tự hồi phục khi nó không còn là công cụ dùng để đối phó với những vấn đề của các triết gia, và trở thành một phương pháp (method, in đậm do người viết), được trao dồi bởi các triết gia để đối phó với những vấn đề của nhân loại.”  Ông thúc bách triết học nên trở thành công cụ dùng để đối phó với những vấn đề đặc biệt của nhân loại, hơn là với những vấn đề xa vời của các triết gia.  Ông chủ trương dùng phương pháp khoa học để chỉnh đốn lại giáo dục, luân lý, chính trị và xã hội. Dewey cho rằng Peirce là một nhà lý luận (logician); còn James là nhà nhân bản (humanist).  Về phần mình, Dewey nhấn mạnh tính cách xã hội của tri thức (the social character of knowledge).  Nhưng Peirce lại thấy rằng khảo hướng theo tự nhiên học của Dewey đối với luận lý học là quá tâm lý.

Cũng như James, Dewey nghĩ rằng con người làm ra sự thực. Sự thực không phải là thứ được làm sẵn chế sẵn. Ông viết: “Người theo CNTD nói rằng vì mỗi tiền đề là một giả định về một tra vấn còn đang tiến hành (nói gọn, một đề xuất), nên sự thực của nó là một vấn đề nghề nghiệp, một vấn đề lịch sử: nghĩa là nó trở nên thực, hoặc được làm cho thực (hoặc sai).”  (The pragmatist says that since every proposition is a hypothesis referring to an inquiry still to be undertaken (a proposal for short) its truth is a matter of its career, of its history: that it becomes or is made true (or false).

Trong khi Peirce cho rằng sự thực ở tình trạng tĩnh, nghĩa là một niềm tin hoặc vượt qua hoặc không vượt qua nổi những khắc nghiệt của tra vấn, thì Dewey –cũng như James—cho rằng sự thực và tri thức không phải là những hiện tượng tĩnh, nghĩa là không ở trong trường hợp mà những niềm tin của chúng ta hoặc phản ảnh thực tế (và do đó là đúng) hoặc không phản ảnh thực tế (và do đó là sai).

Về phương diện dân chủ, nếu học giả Pháp Tocqueville nhiệt tình ca ngợi sinh hoạt dân chủ tại Hoa Kỳ và than phiền Hoa Kỳ thiếu một nền triết học nói chung cho mình, thì Dewey mới là người chết sống với dân chủ và triết lý hóa dân chủ.  Ngoài việc cổ vũ dân chủ trên lý thuyết, Dewey còn giúp thành lập hai hiệp hội: The American Civil Liberties và The National Assosiation for the Advancement of Colored People; và năm 1937, lúc đó đã 78 tuổi, Dewey còn dẫn đầu một ủy ban sang Mexico điều tra về cái chết của Leon Trotsky được cho là bị người của Joseph Stalin ám sát. Những hoạt động tích cực này đã khiến ông được tặng cho danh hiệu “triết gia của dân chủ” của Hoa Kỳ.

Triết lý dân chủ của Dewey được xem là gạch nối giữa chủ nghĩa cá nhân (individualism) của Locke –đã được các chính trị gia Mỹ đưa vào Hiến Pháp cùng những văn bản quan trọng chính trị khác—và chủ nghĩa thực nghiệm (empiricism).  Về phương diện tái thiết chính trị xã hội, ông đưa ra một quan điểm rất thực nghiệm.  Theo ông, chúng ta sẽ chưa thoát khỏi thời kỳ siêu hình học về triết lý chính trị, nếu chúng ta vẫn tiếp tục ném vào đầu nhau những khái niệm trừu tượng mà khi dứt cuộc chiến, thì đâu vẫn vào đấy, không đạt được điều gì dứt khoát cả. Trái lại, chúng ta cần phải đối phó với mỗi vấn đề chính trị xã hội bằng một giả thuyết đặc biệt, chứ không phải bằng một lý thuyết phổ quát; tất cả các lý thuyết đều rộng trãi, còn đời sống tiến bộ tốt đẹp phải trông cậy vào những thử nghiệm nhận ra cái đúng cái sai. (Goethe có cùng quan điểm về vấn đề này khi viết “Tất cả lý thuyết đều màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.”).

Dewey viết: “Trong các khái niệm tiền-thực nghiệm, tôi chẳng thấy trường hợp nào mà kết quả cuối cùng lại là một cái gì đó giống như chiến thắng cho khái niệm này hay cho khái niệm kia. Tất cả chúng đều biến mất đi vì chúng càng trở nên không còn liên hệ gì đối với tình thế mới được khám phá; và với mối bất liên hệ được bắt gặp này, chúng trở thành vô nghĩa và không đáng được quan tâm.” (New Republic, Feb 3, 1917, trích lại từ The Story of Philosophy do Will Durant viết, Pocket Books xb năm 2006, tr. 689)

Về sự đánh giá con người, ông đưa ra tiêu chuẩn khá đặc biệt: “Người xấu là người bắt đầu xuống dốc, trở thành ít tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta tốt thế nào đi nữa. Người tốt là người đang tiến tới tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta chẳng đáng giá gì về tinh thần.” (Reconstruction in Philosophy, trích lại trong sách trên, tr. 685). Quan điểm này của ông rất nhân bản, không khác gì quan điểm trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo, nhưng liệu có ai áp dụng vào lãnh vực chính trị, cũng như tại tòa án chăng? Ông còn thêm rằng, tốt không có nghĩa là chỉ biết vâng lời và không hãm hại ai; tốt mà không có khả năng, thì là què quặt khập khiễng.  Theo ông, tất cả những đức tính trên đời không cứu nỗi chúng ta nếu chúng ta thiếu thông minh. Chúng ta phải tin vào tư duỵ, chứ đừng tin vào trực giác, bởi lẽ trực giác làm sao giúp nỗi chúng ta điều chỉnh với ngoại cảnh càng ngày càng đổi thay quanh ta.

Trong lãnh vực giáo dục, có thể nói ảnh hưởng của Dewey rất lớn lao. Là người đi dạy học lâu năm ở nhiều miền khác nhau trên đất nước Hoa Kỳ rộng lớn, nên tư tưởng của ông rất phóng khoáng và thực tiển.  Có thể nói không một giáo viên cấp tiến nào hay một trường học nào ở Mỹ mà không chịu ảnh hưởng của ông.  Sau Thế Chiến Thứ Nhất, ông được mời giảng dạy về dân chủ, triết lý và tổ chức giáo dục ở Trung Hoa (1919-21), Nhật (1919), Thổ Nhĩ Kỳ (1926), Mexico (1926), Liên Xô (1928).  Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là quyển Democracy and Education xuất bản năm 1913, được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Ông tin tưởng rằng giáo dục của con người cứ tiếp tục nhờ sự tham gia của từng cá nhân vào sự ý thức tranh đua trong xã hội.  Tiến trình này bắt đầu một cách vô thức từ khi sinh ra, và tiếp tục hình thành năng lực của cá nhân đó, thấm vào ý thức, hình thành thói quen, tôi luyện tư tưởng, và gợi lên trong anh ta những cảm nghĩ và xúc động… Ông cũng tin tưởng rằng giáo dục thực sự chỉ đến nhờ sự kích thích năng lực trẻ do những của tình huống xã hội trong đó đứa trẻ tìm thấy chính mình. Theo ông, tiến trình giáo dục có 2 lãnh vực: tâm lý và xã hội, không lãnh vực nào là phụ hay bị bỏ rơi mà không đưa đến tệ hại, cũng không phải là sự dung hòa cả hai. Dewey cho rằng giáo dực trẻ con phải bắt đầu từ hiểu biết tâm lý về khả năng, hứng thú và thói quen của đứa trẻ. Những thứ này phải tiếp tục được giảng giải theo hình huống phát triển mới của xã hội. Nói cách khác, cái học chỉ dừng lại khi người ta chết.

Với quan niệm giáo dục là một tiến trình sống (a process of living) chứ không phải là một sự chuẩn bị cho cuộc sống trong tương lai, Dewey chủ trương học đường phải tượng trưng cho cuộc sống –một cuộc sống thực sự và sinh động cho đứa trẻ như thể cuộc sống mà nó có tại nhà, tại khu láng giềng hay tại sân chơi. Như một định chế, học đường nên giản lược hóa đời sống xã hội hiện hữu; nên thhu nhỏ nó xuống còn là hình thức phôi thai, vì cuộc sống hiện hữu quá phức tạp đối với em. Ông cho rằng như cuộc sống giản lược hóa, học đường sẽ lớn dần thành cuộc sống gia đình, nó đảm trách và tiếp tục các hoạt động khiến em quen với đời sống gia đình. Nói khác đi, công việc của học đường là phát triển và làm sâu xa thêm cái ý thức của đứa trẻ về mái ấm gia đình. Ông cho rằng nền giáo dục hiện thời thất bại vì nó lãng quên cái nguyên tắc căn bản của học đường là một hình thức của đời sống cộng đồng.

Về những môn học dạy ở học đường, Dewey tin rằng cách duy nhất khiến cho đứa trẻ ý thức được cái di sản xã hội của nó là làm cho nó có khả năng thực hiện được những hoạt động căn bản tạo ra cái văn minh như ngày nay. Ông chủ trương đưa khoa học vào học đường, nhưng không cần những thông tin chi tiết rườm rà, mà là chỉ cho đứa trẻ thấy những yếu tố đã sẵn trong kinh nghiệm trước đây, và cung cấp cho đứa trẻ các công cụ nhờ đó mà kinh nghiệm có thể điều chỉnh lại dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Nếu giáo dục là cuộc đời, thì trọn cuộc đời, ngay từ lúc ban đầu, đã bao gồm các lãnh vực khoa học, nghệ thuật, văn hóa và thông đạt. Tiến bộ không nằm trong việc tiếp tục nghiên cứu, mà nằm trong việc phát triển những thái độ mới và những quan tâm mới đối với kinh nghiệm. Dewey tin rằng đặt ra bất kỳ cứu cánh nào bên ngoài gaío dục, như đưa ra mục tiêu và tiêu chuẩn, là tước đoạt đi nhiều cái ý nghĩa của quá trình giáo dục, và có khuynh hướng làm cho chúng ta trông cậy vào những kích thích tố sai lầm và từ ngoài để đối phó với đứa trẻ. (Dewey on Education: Selections, do Matin S. Dworkin xb năm 1959, tr.19 – 27)

 ***

Trên đây là một số tư tưởng của 3 triết gia tiền phong của chủ nghĩa thực dụng tại Hoa Kỳ.  Peirce được coi là người đặt viên đá đầu tiên qua bài nói chuyện có tựa đề “How to Make Our Ideas Clear? (1878). James là người phát hiện ra Peirce, tạo nền móng và bắt đầu quãng bá CNTD qua tác phẩm Pragmatism (1907).  Nhưng chính Dewey mới là người làm cho CNTD nổi tiếng khi đưa nó vào thực tiển qua những tác phẩm của mình, đặc biệt qua quyển Democracy and Education (1913), cũng như qua công tác giảng dạy tại nhiều nơi, trong và ngoài nước Mỹ. Như một đứa trẻ tập đi, CNTD đã ban đầu đã dựa vào triết học của cựu lục địa, để rồi lần lần tự tách ra và phát triển.  Tính từ khi bài nói chuyện của Peirce ra đời, đến khi Dewey mất, CNTD đã trải qua 74 năm (1878 – 1952).  Với nhau, họ cũng có những bất đồng, tranh luận.  Với bên ngoài, họ bị không ít công kích, nhất là từ các học giả Ki Tô giáo, nhưng CNTD đã lần lần được một số học giả châu Âu, Bắc Mỹ, châu Mỹ Latin niềm nở tiếp nhận.  Chính tại Hoa Kỳ, CNTD cũng bị khựng lại, không phát triển nổi trong một thời gian mặc dù quan điểm về giáo dục của Dewey vẫn còn ảnh hưởng.

Thế hệ thứ hai của CNTD với Richard Rorty, Hilary Putman, Richard Posner, Susan Haack, vv. ở Hoa Kỳ; Jurgen Habernas, Richrad Bernstein vv. ở châu Âu; Cheryl Misak ở Canada vv. đã giúp hồi sinh CNTD và đưa tinh túy của nó vào các lãnh vực ngoại giao, luật pháp và văn hóa.  Đây là một điều đáng cho chúng ta tìm hiểu thêm trong tương lai.

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 11 năm 2017

Tài Liệu Đề Nghị Đọc Thêm Để Tìm Hiểu CNTD

  • 100 Years of Pragmatism: William James‘s Revolutionary Philosophy, do John J. Stuhr hiệu đính, Indiana University Press xb 2010
  • The American Pragmatists, do Cheryl Misak viết, Oxford University Press xb 2013
  • Pragmatism: An Introduction, do Michael Bacon viết, Polity Press xb 2012
  • The Promise of Pragmatism: Modernism and the Crisis of Knowledge and Authority, do John Patrick Diggins viết, The Chicago University Press xb 1994
  • Pragmatism in Law & Society, do Michael Brint & William Weaver hiệu đính, Westview Press xb 1991.

Views: 1425

Hoa Trang

Với sự đồng ý của nhân vật nữ trong truyện “Nhớ Huế” (trước đây), người viết xin ghi lại đúng các chi tiết trong câu chuyện nầy                                             

Phạm Thành Châu

Tốt nghiệp trường Hành Chánh, hắn về Thừa Thiên, được tỉnh đưa về làm việc  tại các quận thôn quê, lòng vòng hết quận nầy đến quận khác. Quận cuối cùng trước khi hắn lên cao nguyên là Nam Hòa, một quận, địa giới rất rộng, bao gồm một phần dãy Trường Sơn mà dân số chỉ độ sáu nghìn. Quận lỵ là chợ Tuần, quận đường là ngôi nhà nhỏ.

Ngoài tay quận trưởng trên chi khu thỉnh thoảng ghé vào, còn lại chỉ có hắn và vài ba nhân viên, mấy cái bàn ghế, một máy đánh chữ… chẳng khác gì một trụ sở ấp. Quận Nam Hòa cách Huế dăm bảy cây số, quận nghèo không có công xa. Tỉnh cấp cho hắn một chiếc xe gắn máy Honda. Quận Nam Hòa và một phần quận Hương Thủy tập trung hầu hết lăng tẩm, chùa chiền của Huế, cảnh trí u tịch, nên thơ. Lăng Tự Đức, lăng Minh Mạng, lăng Khải Định, lăng Thiệu Trị, chùa Từ Hiếu… Về mùa hè, các cô cậu sinh viên, học sinh tụ tập, sinh hoạt, vui chơi nơi các lăng tẩm, chùa chiền. Đẹp nhất, nên thơ nhất là rừng thông mênh mông, bạt ngàn trên đồi Thiên An. Những buổi sáng cuối tuần hắn thường chạy xe lên các nơi đó, một mình lang thang ngắm cảnh, đến trưa, ghé một quán ăn bên đường cho bữa ăn đơn sơ rồi về Huế xem phim, mua sách báo về nhà trọ nằm đọc, thư giản… Thế rồi, một hôm, hắn lên chùa Từ Hiếu, dựng xe, ngồi khuất sau một gốc cổ thụ, nhìn vơ vẫn cảnh vật chung quanh. Tính hắn thích tĩnh mịch nên với buổi sáng êm ả, vắng vẻ như thế, hắn có thể ngồi hàng giờ, lắng nghe tiếng chim hót, tiếng chuông chùa vang vọng, ngân nga để mặc cho tâm trí chìm đắm trong hạnh phúc của hư vô. Trong lúc đang mơ màng thì hắn nghe tiếng xôn xao của những cô gái “Xe của ai mà bỏ ri hè?” Tiếng một cô khác “Ai mà bỏ, người ta đi chùa lạy Phật” “Tụi mình trong nớ ra, thấy ai lạ mô?” “Hay là của các thầy để quên ngoài ni. Để tao dẫn ra sau chùa” Biết các cô lầm nên hắn vội đứng dậy, kêu lên “Thưa các chị, xe của em!” Các cô giật mình sợ hãi, nhưng khi thấy hắn, mặt mũi hiền lành ra người có học nên các cô yên tâm “Eng ni (anh nầy) làm chi ngồi đây, rình ăn trộm chuông chùa phải khôn?” “Dạ không, em ngồi chơi” “Chơi với ai?” “Dạ. Em chơi một mình” Tuy cách đối đáp của hắn không được lương thiện, nhưng các cô ỷ đông nên bạo dạn. Các cô nhìn hắn, xì xầm điều gì có vẻ quan trọng, ngạc nhiên lắm “Tao nhớ có thấy hắn ở mô đó?!” “Tao cũng thấy quen quen” Con gái thường e lệ, rụt rè nhưng khi đi chơi chung với nhau, họ trở nên bạo dạn, gặp con trai đi một mình thì xúm nhau ăn hiếp, chọc ghẹo để vui cười với nhau. Một cô, như là đầu đàn, đứng chống nạnh, làm oai với hắn “Eng tên chi?” Hắn làm bộ sợ hãi “Dạ. Em tên Phó Nam Hòa” “Eng ở mô tới đây?” “Dạ. Em từ trong Nam ra đây” Một cô nói “Đứa mô ưng anh chàng ni thì hỏi gốc gác mà về làm dâu. Làm dâu trong nam sướng lắm đó nghe. Mụ mẹ chồng tốt lắm!” Cô vênh mặt “Nghe giọng nói thì biết rồi. Nhưng tôi muốn biết rõ, eng sinh ra từ nơi mô? Khôn phải nơi eng làm việc. Có hiểu khôn?” Hắn nhe răng cười “Em trả lời, nhưng chị đừng đánh em” “Chưa đánh mô. Nói đi!” Hắn làm bộ gãi đầu “Dạ. Thật khó nói tên nơi em được sinh ra! Em được sinh ra từ cùng một chỗ với chị đó!” Các cô ngớ ra rồi bỗng đỏ mặt, đập vai nhau cười rũ rượi. Một cô, trông có duyên, đôi má ửng hồng vì cười nhiều quá, nói với cô đầu đàn “Đáng đời mi chưa, Tiểu Thu? Nghe giọng miền Nam, mi tưởng dễ ăn hiếp. Lù khù vác lu mà chạy đó mi nà!” “Ơ! Cái con Khánh Trang ni! Chưa chi mà đã binh người ta! Mi ưng eng thì ta gả eng cho mi đó. Mi muốn hỏi chi thì hỏi đi, nhưng coi chừng. Miệng lưỡi eng ta không vừa đâu” Cô nầy, trông hiền lành nhưng cũng làm bộ dữ dằn, hỏi hắn “Vợ con để mô mà đi một mình?” Cô lúc nãy lại lên tiếng “Con ni vô duyên, tự nhiên hỏi vợ con người ta” “Lại mi nữa! Tao hỏi cho mi đó mi nà. Nè, tôi cho eng biết, có vợ con rồi thì về ru con, đừng đi ve gái mà chết nghe eng! Có người yêu rồi cũng không được ve gái. Ủa. Ngó chi tui mà mặt mũi khờ đặc ra rứa hè?” “Dạ, Mới thấy chị mà em đã mất hồn, mất vía. Chị đẹp thất kinh luôn!” Cô cười, đôi mắt đen sáng lên, cảm động và hãnh diện, nhưng rồi làm nghiêm “Tôi hỏi răng eng không trả lời? Vợ con mô?” “Dạ. Vợ ở đây” “Eng nói răng? Vợ eng có mặt trong tụi tui hả?” “Dạ. Đúng rồi. Vợ em là cô đẹp nhất trong các chị ở đây” “Tụi ni đứa mô cũng đẹp. Eng chỉ coi. Đứa mô là vợ eng?” Cô  quay hỏi các bạn “Đứa mô là vợ eng ni thì ra mà dắt về. Lấy dây mà cột vô chân giường, đừng thả rong mà có ngày mất chồng” Các cô đồng loạt giơ tay “Chồng của tui!” Cô hỏi hắn “Răng (sao) eng nhiều vợ quá vậy? Mấy ông vua chết sớm vì nhiều vợ quá đó eng nà!” “Em chỉ có một vợ thôi. Các chị ưng em mà giơ tay lên chứ em chỉ có một vợ thôi” “Vợ eng là đứa mô? Chỉ coi!” Các cô cười ngặt nghẽo, chỉ tay vào ngực mình, gật gật đầu “Em nè!” Hắn cũng giả bộ nhìn từng cô để tìm vợ rồi bất ngờ chỉ vào cô Khánh Trang “Dạ. Vợ em đây!” Cô la lên “A” lên rồi bước lùi “Ba mạ ơi! Mới gặp lần đầu bữa ni mà eng tỏ tình bất tử rứa hè?” Hắn trả lời kiểu tiểu thuyết ba xu “Dạ. Gặp em từ muôn kiếp trước” Các cô lại cười nói xôn xao, phá tan cảnh nghiêm trang, tĩnh mịch nơi cửa thiền. Cô đầu đàn, Tiểu Thu, hỏi “Eng có đi học không? Mặt mũi sáng sủa, đẹp trai mà ve gái kiểu rẻ tiền như rứa?” “Dạ. Em có đi học. Thưa mấy chị” “Học trường mô?” “Dạ. Trường Hậu Bổ” “Trường chi mà lạ rứa?” “Mấy chị không biết trường đó đâu. Nhưng em nghỉ học rồi. Em làm công chức sống qua ngày” “Công chức là chức gì?” “Chức đồng tri huyện” “Chức chi mà lạ rứa?” “Là phụ tá cho quan tri huyện. Bây giờ gọi là ông phó quận” Cô ta gật gù “Làm chi cũng được, miễn có tiền nuôi vợ con là tụi nầy gả Khánh Trang cho eng” “Rồi cô hỏi cô kia “Khánh Trang. Mi có ưng eng ni không mi? Không ưng thì nhường eng cho tao” “Răng mi biết tao không ưng mà giành chồng của tao?”  Các cô vỗ tay kêu lên “Làng trên xóm dưới ơi. Ra mà coi! Vợ lớn, vợ bé đánh nhau giành chồng nì!” Đúng là một buổi sáng vui chơi ngoài trời lành mạnh, tươi trẻ, đầy tiếng cười. Cô Tiểu Thu nói với hắn “Cám ơn eng đã đóng với tụi nầy một vở kịch vui. Kịch đã hạ màn rồi. Eng có thể đi chỗ khác cho tụi nầy được tự nhiên” Hắn ngồi lên xe “Dạ, cám ơn mấy chị, cám ơn em Khánh Trang. Tuần sau mấy chị có đến đây không? Cho em gặp. Được không?” “Chưa biết đi chỗ mô. Muốn gặp Khánh Trang thì nói, chơ gặp tụi ni mần chi. Lần sau, đến đây tụi ni tổ chức lễ cưới cho hai ôn mụ (ông bà), là cô dâu Khánh Trang và chú rể eng Phó si tình”.

            Thời còn đi học, hắn cũng có bạn gái, cũng rủ nhau đi coi hát, ăn quà rong, vui đùa, chọc ghẹo nhau nhưng rồi quên đi. Không hiểu sao, khi gặp cô Khánh Trang hắn đâm nhớ cô ta đến ngẩn ngơ. Cô hồn nhiên, vô tư mà làm vẻ người lớn nên trông rất dễ thương. Khi cô cười, phô hàm răng trắng đều, môi hồng, đôi mắt đen nhánh, thông minh, nhìn hắn thân ái, dịu dàng. Hắn cảm nhận được tình cảm cô dành cho hắn. Một buổi sáng thứ bảy, hắn dậy sớm, chạy xe vô chùa Từ Hiếu, không thấy ai, qua lăng Tự Đức cũng không! Hắn chạy vòng lên đồi Thiên An thì thấy các cô đang đuổi nhau, tiếng cười nói, náo nhiệt cả một góc rừng. Thấy hắn lò dò đến, các cô ngưng cười, tò mò đứng nhìn. Cô đầu đàn, Tiểu Thu, chặn hắn lại “Eng kia, đi mô rứa? Chỗ con gái, đến mần chi?” “Bữa trước, chị có hứa cho em gặp Khánh Trang” Cô kêu lên “Khánh Trang mô rồi. Ra mà gặp cái eng bị mi bắt mất hồn, mất vía đây nì” Các cô đẩy Khánh Trang ra đứng trước hắn. Cô đứng yên nhìn hắn, không cười. Mái tóc đen, dài, rủ xuống đồi ngực nhỏ. Quần jean, áo trắng ôm lấy thân hình thon gọn, hài hòa, tinh khiết. Các bạn cô im lặng, như nín thở vì ngạc nhiên. Lần đầu trong đời, các cô được thấy đôi mắt si mê đến ngây dại cuả một anh con trai đang chiêm ngưỡng cô bạn Khánh Trang của họ. Cô Tiểu Thu lên tiếng “Tụi ni làm mai cho hai ôn, mụ (ông, bà). Ôn, mụ nói đi! Anh yêu em, em yêu anh. Chú rể tương lai nói trước” Hắn nói “Cả tuần nay anh mất ngủ” Cô hỏi “Răng rứa? (vì sao?)” “Nhớ em Khánh Trang” “Mất ngủ mấy ngày thì chết?” “Mất ngủ sinh bịnh mới chết” Cô mím môi, nhìn hắn, mặt lạnh tanh “Em biết. Đó là bịnh tương tư. Khi mô anh chết, cho em biết. Em đến khóc đưa tiễn anh ra nghĩa trang buồn” Cả bọn chưng hửng! Một cô kêu lên “Khánh Trang! Răng mi tàn nhẫn với người ta rứa mi?” Không nói một lời, hắn quay lưng, xuống đồi. Có tiếng kêu “Anh Trương Chi ơi là anh Trương Chi!”.

 Hắn tự ái. Giận các cô, giận lây qua Khánh Trang, tuy biết rằng các cô tưởng hắn cũng là sinh viên với nhau vì hắn mới ra trường, tuổi chưa đến ba mươi, nên chọc ghẹo cho vui. Thực ra là lỗi của hắn. Làm công chức mà ăn mặc xuề xòa, đi lang thang, lại tán tỉnh các cô gái, chẳng ra “thể thống chính quyền” gì cả! Hắn cứ tưởng mình còn tự do như thời sinh viên mà không biết rằng, khi đã là công bộc của dân, thay mặt cho chính quyền, dù trong quản hạt nhỏ, cũng phải chửng chạc, nghiêm trang, người dân sẽ nhìn hắn để đánh giá chính quyền. Từ đó, hắn mới để ý đến trang phục, tư cách của mình. Áo quần bỏ giặt ủi, thẳng nếp. Thái độ, cách giao tiếp như người lớn. Hắn không lang thang ngắm cảnh ở các nơi vắng vẻ vào ngày cuối tuần mà đi dạo phố, vào các tiệm sách, xem phim với các bạn. Một buổi sáng chủ nhật, hắn cùng vài người bạn đứng trước rạp Tân Tân chờ xem phim. Hắn bỗng thấy từ cửa Thượng Tứ mấy cô gái, trong đó có cô Khánh Trang, đang đi đến. Vì giận họ, hắn làm như không thấy. Các cô cũng tỉnh bơ đi qua. Đi dược một quãng ngắn, bỗng nhiên cô Khánh Trang đi chậm lại, cô quay nhìn hắn, đưa bàn tay lên, vẫy nhẹ rồi đi nhanh theo các bạn. Cơn giận bỗng tiêu tan. Hắn lại thấy cô Khánh Trang đẹp và hiền lành như trước kia. Hắn đoán chừng, phải có nguyên nhân nào đó khiến cô, trước đây, phải đối xử như vậy. Một lần khác, vào buổi chiều, đang tìm một quyển sách trong nhà sách Ưng Hạ thì cô Khánh Trang vào, đứng bên cạnh. Cô mặc áo dài trắng như nữ sinh trung học. Hắn quay nhìn, cô cười, hắn cũng cười. Cô thì thầm “Em xin lỗi nghe! Bữa đó…” “Anh biết mà. Em đừng bận tâm. Em giả bộ ghét anh. Phải không?” “Sợ tụi bạn. Tụi hắn mà mét ba mạ em thì em chết” “Bữa nào cho anh gặp, được không?” “Sáng thứ bảy, anh lên dòng Thiên An sớm, chờ em phía sau tu viện, không ai thấy, nếu tụi em có đi chơi ở đó thì em sẽ đến với anh, nhưng chỉ vài phút thôi. Tụi hắn nghi ngờ thì nguy cho em” “Anh chỉ cần nhìn thấy em, dù một giây, cũng mừng rồi” Cô ngập ngừng “Em cứ nghĩ đến anh hoài, đến mất ngủ…” “Em mất ngủ từ bao giờ?” “Từ buổi sáng, thấy anh ở chùa Từ Hiếu. Em thấy anh dễ thương. Lúc đó, điều em sợ nhất là anh đã có người yêu, nên em mới hỏi…” Hắn lắc đầu “Anh chưa yêu ai. Cho đến khi gặp em” Hắn cầm một quyển sách, mở ra như chăm chú đọc, nhưng thì thầm với cô “Em đứng cạnh anh. Anh mừng run cả người. Em có thấy tay anh run không?” “Dạ có thấy. Em cũng đang run muốn chết! Thôi. Em về nghe!” “Cho vai anh chạm vai em. Được không?” “Dạ được!… Em về nghe!” Cô bước ra khỏi nhà sách, hắn cũng ra theo, cách cô một quãng ngắn. Thỉnh thoảng cô quay nhìn phía sau, thấy hắn nhưng không tỏ vẻ gì. Hắn như người mộng du, mắt đăm đăm nhìn tà áo dài tha thước, mái tóc dài phủ bờ vai, dáng đi dịu dàng của cô, chân hắn bước bừa tới trước, vấp vào mấy bà bán hàng rong, trán suýt đập vào trụ đèn. Đến cuối đường Trần Hưng Đạo, cô lắc đầu, tỏ ý không muốn hắn đi theo nữa. Rồi cô khuất dạng chỗ ngã rẽ vào đường Phan Bội Châu. Nhờ sáng kiến đó, hễ bọn con gái đi chơi ngoài trời trên đồi Thiên An thì cô Khánh Trang đến với hắn, dù chỉ năm, mười phút. Hai người ngồi bên vách tường đan viện Thiên An, khuất sau những cây thông um tùm, ai có đi ngang cũng không thấy được. Cô thường ngồi tựa đầu vào vai hắn, tay bứt từng cánh lá, thì thầm “Em ước được ngồi mãi bên anh như ri, suốt đời” Hắn nhìn cô, cười “Cứ ngồi mãi cho đến chết. Phải không?” Cô lắc đầu “Chết răng được! (chết sao được) Em với anh thành tượng đá chứ! Tượng đá rêu phong nhưng không tan rã, không chia lìa. Cứ ngồi hoài như ri (như thế nầy)” Hắn kéo cô sát vào lòng, hôn lên trán cô “Em dễ thương quá! Anh sẽ yêu thương, lo lắng cho em suốt đời. Anh có viết chút đỉnh. Anh sẽ viết về chuyện hai đứa mình, sau nầy về già, hai đứa đọc lại, có lẽ vui và cảm động lắm” “Em cũng có làm thơ. Chẳng hay ho gì nên không đề tên thật” “Nữ sĩ của anh bút hiệu gì?” “Gì mà nữ sĩ! Tên Hoa Trang. Nhớ nghe! Chỉ riêng anh biết tên Hoa Trang thôi” “Anh nhớ! Khi gặp riêng, anh gọi em là Hoa Trang. Hoa Trang của riêng anh”

Về sau, hình như các bạn biết chuyện hẹn hò của hai đứa nhưng làm lơ. Nhiều khi cô ngồi hàng giờ với hắn, cho đến trưa, nghe bạn kêu, cô mới vội chạy về. Mùa hè đã đi qua, sinh viên, học sinh lại đến trường, không còn tụ tập đi chơi ngoài trời nữa. Hắn không còn được gặp cô Khánh Trang. Thế nên, mỗi cuối tuần hoặc buổi chiều, hắn lang thang trên các con đường Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, mong gặp được cô Khánh Trang cho đỡ nhớ. Thỉnh thoảng các cô, trong đó có cô Khánh Trang, đi trên đường Trần Hưng Đạo, nhưng hai bên vẫn tảng lờ, như không thấy gì. Nhưng hắn biết và chờ đợi, cô Khánh Trang sẽ đi chậm lại, quay nhìn hắn và tặng hắn một nụ cười. Kể ra như thế cũng đủ cho hắn vui hưởng cuộc đời, nhưng có một lần, gặp nhau, thay vì đi thẳng, các cô chận hắn giữa đường, cô Tiểu Thu nói “Chia buồn với anh nghe, Khánh Trang sắp lên xe hoa rồi. Đừng gặp Khánh Trang nữa nghe!” “Thì trước giờ tôi cũng chỉ nhìn thôi!” “Tụi ni không muốn làm khó, nhưng anh nói chuyện với Khánh Trang là tụi ni bị vạ lây” Trong lúc đó, cô Khánh Trang xây lưng lại với hắn, yên lặng chờ các bạn rồi đi tiếp. Từ đó, hắn không còn thấy Khánh Trang đi ngoài phố với chúng bạn nữa. Các bạn cô cũng làm như không có hắn trên đời nầy.

 Hắn thấy chán nản và buồn. Càng nhớ cô Khánh Trang hắn càng quyết định rời Huế vì mọi nơi, đường phố, lăng tẫm, chùa chiền… nơi nào cũng hiển hiện hình bóng Khánh Trang. Hắn làm đơn xin đổi lên Cao Nguyên và chờ được thuyên chuyển.

 Thừa Thiên, Huế năm nào cũng có bão lụt. Người ta thường bảo nhau “Ông (Trời) tha nhưng Bà (Thủy, lũ) không tha, làm cho một trận hăm ba tháng mười” Nghĩa là phải chờ cho đến hết ngày hăm ba tháng mười âm lịch mới biết chắc năm đó hết bão lụt. Vì đôi khi ở Huế trời tạnh ráo, nhưng trên Trường Sơn mưa lớn, vậy là nước lũ tràn xuống. Phần thượng nguồn của sông Hương, sông Bồ, nước chảy giữa những vách đá dựng đứng nên dồn xuống đồng bằng rất nhanh và mãnh liệt. Ở thôn quê, nửa đêm nghe nước réo ngoài sông, giật mình mở cửa, nước đã vào đến nhà!

 Năm đó bão lụt lớn, ngoài đường nhiều cây cổ thụ đổ ngổn ngang. Quận Nam Hòa, nơi hắn làm việc, thật là bi thảm. Nhà cửa bị gió giật, mái, vách bay tứ tán. Bà con bơ vơ, co ro trong mưa lạnh. Đa số đồng bào là người tỵ nạn Cộng Sản. Họ ở trong các mái tôn (tôle) do chính phủ cấp, ngày ngày đi làm mướn hoặc khai khẩn các rẻo đất mà dân địa phương bỏ hoang để trồng khoai, sắn, bắp sống qua ngày. Trước kia họ cũng có ruộng vườn ở các thung lũng phì nhiêu trong dãy Trường Sơn  nhưng bị Việt Cộng về bắt đi bộ đội, dân công, đóng thuế, ủng hộ đủ thứ, lại thêm súng đạn hai bên bắn nhau, chịu không thấu, họ chạy về vùng Quốc Gia để đươc bảo vệ, giúp đỡ. Họ sống thật nghèo khổ, thiếu thốn. Từ ngày về làm phó quận Nam Hòa, hắn thường đến các hội thiện để xin cứu trợ. Hội Thánh Tin Lành, cơ quan Caritas (Công giáo), Hội Hồng Thập Tự Huế, Tổng Hội Sinh Viên Huế… thường đến các ấp phân phát thực phẩm, khám bệnh, phát thuốc, đắp đường, sửa nhà cho đồng bào. Ngay cả khi không có bão lụt, hắn vẫn đi vận động các hội đoàn đến các ấp chữa bịnh, tặng quà cho đồng bào nghèo.

Buổi chiều, sau một trận bão, đi làm về, hắn ghé hội Hồng Thập Tự. Anh Nghiên, chủ tịch hội đã chờ sẵn. Cả hai đồng ý sẽ đến các ấp bị nặng nhất trước tiên. Theo chương trình ngày mai, hội sẽ lên làng Đình Môn. Đây là nơi xa nhất, hẻo lánh nhất, nằm cạnh lăng Gia Long.

 Sáng hôm đó, xe của hội Hồng Thập Tự đổ hội viên trước văn phòng quận, rồi đi đò máy ngược lên nguồn hữu sông Hương. Đến trưa thì mưa bắt đầu nặng hạt, nước dâng lên. Hắn vội thuê đò máy lên rước đoàn cứu trợ về, vì nếu còn nấn ná, nước chảy xiết, không có ghe đò nào dám lên đón cả. Vì xuôi giòng nên lúc về rất nhanh. Trời u ám, lất phất mưa và gió lạnh. Các hội viên co ro trong áo mưa, chỉ mong chóng về lại Huế nhưng xe của hội đã quay về rồi, đúng hẹn, chiều mới lên đón đoàn. Anh Nghiên, trưởng đoàn, đề nghị đi bộ lên lăng Khải Định tránh gió. Lăng xây tựa vào một ngọn đồi, kiến trúc toàn đá thanh và cẩm thạch, theo kiểu lai căng nửa Âu, nửa Á. Hắn ra chợ Tuần mua bánh mì và đường cho các bạn đỡ lòng. Một bạn khác lấy xe gắn máy của hắn chạy về Huế gọi xe lên đón đoàn. Tuổi trẻ thật hồn nhiên, các đoàn viên vừa ăn vừa ca hát. Hắn và anh Nghiên cùng vài bạn ngồi ở góc lăng chuyện trò. Trong lúc các bạn đang ăn uống, cười đùa, hắn đứng lên xin được có mấy lời cùng đoàn cứu trợ. “Nhân tiện đây tôi xin thưa với anh trưởng đoàn và các anh chị hội viên hội Hồng Thập Tự Thừa Thiên, Huế. Trong thời gian qua hội đã dành nhiều ưu tiên cho quận Nam Hòa. Chính quyền cũng như đồng bào không bao giờ quên tấm lòng vàng của các bạn. Mong các bạn tiếp tục giúp đỡ đồng bào Nam Hòa. Ít lâu nữa, ông phó quận mới đến thay, tôi sẽ giới thiệu ông ta với các bạn” Mọi người ngạc nhiên “Ủa, chớ eng đi mô?” “Tôi xin lên Cao Nguyên. Ở hoài một chỗ cũng chán…” “Có phải vì thất tình người đẹp nên bỏ Huế mà đi chớ chi?” “Cứ coi như vậy, cho có vẻ lãng mạn. Người đẹp lên xe hoa rồi! Nhắc lại thêm buồn” Có người hỏi “Người yêu là em nào? Cho biết tên được không?” “Tôi cũng định hỏi xem có ai biết gì về cô ta không. Cô tên Khánh Trang” “Ở đây cũng có Khánh Trang. Khánh Trang mô rồi? Đứng lên cho ông phó coi có đúng là người đã bắt hồn, bắt vía ông ta không?” Trong đám đông, một cô đứng lên. Hắn kinh ngạc khi thấy đó là cô Khánh Trang. Hóa ra những cô đi chơi trên đồi Thiên An đều có mặt trong đoàn cứu trợ. Hắn không biết cô Khánh Trang có mặt trong đoàn. Vì người nào cũng mặc áo mưa, trùm đầu, khó thấy rõ mặt, vả lại hắn chẳng quan tâm đến ai cả. Ngay buổi sáng, lúc đoàn cứu trợ đến quận, cô Khánh Trang đã thấy hắn, mừng rỡ nhưng không dám đến gặp, vì ba mạ cô đã cấm cô liên lạc với hắn. Khi cô Khánh Trang đứng lên, hắn sửng sờ “Em ở đây mà anh tìm khắp nơi!” Hai người đứng nhìn nhau. Các bạn im lặng, mắt không rời ánh mắt si dại của đôi tình nhân. Hắn bước tới, cô Khánh Trang đưa hai tay ra, chờ đợi. Hắn ôm cô vào lòng, nhắm mắt lại. Cô tựa đầu trên vai hắn. Cô khóc. Lúc đầu, cô mím môi tự kìm chế nhưng rồi cô khóc oà, khóc nức nở. Hắn vỗ nhẹ lưng cô, thì thầm “Cám ơn em. Em Hoa Trang của anh. Lâu quá, không gặp em. Anh nhớ em quá mà không biết tìm em ở đâu?” Cô nghẹn ngào “Anh ở đây, thỉnh thoảng em còn hi vọng được nhìn thấy anh. Bây giờ, anh bỏ em, anh đi. Nhớ anh, em biết tìm anh ở đâu!”  Nhiều cô bạn ứa nước mắt khóc theo với cô.                                          Bỗng có tiếng kêu “Xe lên đón đoàn đến rồi!” Mọi người đứng lên, lặng lẽ đi ra cho đôi bạn được tự nhiên. Cô tựa đầu vào ngực hắn yên lặng. Hắn luồn bàn tay vào tóc cô, chải ra sau và hôn lên trán cô “Em lên xe. Các bạn đang chờ” Cô lắc đầu “Em không đi đâu hết. Em muốn chết ở đây. Chết bên anh…” Hắn vỗ về “Đi với anh một quãng đường ngắn nữa. Giỏi anh thương!” Cô ngoan ngoãn vịn vai hắn bước xuống tam cấp trước lăng đến chiếc xe bên vệ đường. Ngồi trên xe, cô vẫn khóc thút thít. Cô bạn ngồi bên cạnh, ôm vai cô mà không biết nói thế nào để an ủi cô. Cô đưa tay ra, hắn đứng dưới đường, cầm lấy tay cô. Người lái xe chờ đến khi họ buông tay ra mới cho xe chạy. Cô vẫy tay “Nhớ viết thư cho em. Nghe anh!” Cả đoàn vẫy tay từ biệt hắn. Hắn cũng vẫy tay. Nước mắt ứa ra, hắn đứng nhìn cho đến khi xe khuất sau rặng cây phía xa.

 Tối đó anh Nghiên, trưởng đoàn hội Hồng Thập Tự, đến rủ hắn đi uống cà phê. Anh nói là cả hội đều biết chuyện Khánh Trang và hắn. Nhưng ông bố Khánh Trang, là bác sĩ, thì ngăn cấm. Ông bảo Khánh Trang còn vài năm nữa sẽ tốt nghiệp bác sĩ, phải lo học… Hình như ông nhắm được một chàng rể tương lai cũng là bác sĩ. Không hiểu ông ta cấm đoán cách nào mà Khánh Trang đến hội ngồi khóc và nói “Ba mạ hỏi, em nói thật, ba mạ giận, cấm em không được gặp anh ấy nữa!”.

 Hắn rời Huế, lên Cao Nguyên làm việc mà hồn vía để cả ở Huế. Nghe cô, bà nào nói giọng Huế là hắn nhớ Khánh Trang đến thẩn thờ. Nhưng hắn không liên lạc với các bạn ở Huế để biết tin tức về Khánh Trang. Mỗi người đã có một định mệnh khác. Sợi dây đã bị cắt đứt. Hắn vĩnh viễn mất Khánh Trang.

            Rồi mất nước, năm 1975. Sau bảy năm tù Cộng Sản, hắn không về quê mà ở nhờ nhà một người bạn ở Sài Gòn. Hắn mướn một chiếc xích lô đạp kiếm sống. Có hôm hắn ngủ luôn trên xe. Một thân một mình, hắn sống thảnh thơi, vô tư. Thế rồi có vụ HO đi Mỹ, lúc đó hắn lại nghĩ đến Huế, đến Khánh Trang. Hắn phải về thăm Huế một chuyến.

            Ngồi trên xe lửa gập ghềnh, huyên náo vì tiếng bánh sắt, tiếng người nói, hắn phân vân bây giờ Huế ra sao, cô Khánh Trang ra sao?  Đến Huế, hắn vào thành nội thăm người chủ nhà trọ trước đây. Hắn mượn chủ nhà chiếc xe đạp, sáng hôm sau hắn đạp xe lên vùng Nam Hòa thăm lại cảnh cũ. Lăng tẩm, chùa chiền vẫn thế, nhưng hắn thì đã khác xưa. Mất nước, hắn thấy mình không còn chút liên hệ gì đến nơi nầy nữa. Hắn lên đồi Vọng Cảnh nhìn về các thôn xóm của quận Nam Hòa, nơi hắn từng sống với đồng bào, những người dân nghèo khổ trong những ngày chiến tranh khói lửa, tang thương.

            Hôm sau hắn dọ hỏi và được biết cô Khánh Trang có mở phòng mạch gần chợ An Cựu. Hắn quyết định đến thăm cô lần cuối.

 Chiều hôm đó, phòng mạch của cô đông khách. Hắn ghi tên vào danh sách khách chờ “Phó Nam Hòa” và lấy một số thứ tự cầm trên tay. Trong lúc chờ đợi, hắn phân vân, lát nữa vô gặp cô Khánh Trang, hắn sẽ làm gì, nói gì? Nếu cô không nhận ra hắn, không nhớ chuyện cũ thì sao? Có lẽ hắn sẽ khai một bịnh vớ vẩn nào đó cho xong. Ngồi suy nghĩ miên man cho đến khi nghe gọi đến số của hắn, hắn đứng lên bước vào phòng mạch. Một người đàn bà mặc áo choàng trắng, đeo kiếng trắng, hắn đoán là bác sĩ, đang chăm chú viết tên bệnh nhân (tên hắn) vào một mảnh giấy nhỏ, có lẽ là toa thuốc sẽ cấp cho hắn. Hắn vẫn đứng nhưng không dám nhìn mặt cô ta. Hắn mất bình tĩnh mà không hiểu mình đang sợ điều gì?! “Mời ông ngồi!” Hắn ngồi xuống ghế đối diện “Ông đau răng đây? (Bịnh sao đây?)” Hắn nhìn thoáng cô ta, cố nhớ lại hình ảnh cô sinh viên ngày xưa để so sánh với cô bác sĩ hiện tại “Tôi chỉ cảm sơ sài” Cô đo áp huyết rồi móc ống nghe vào tai “Ông xây lưng lại” Hắn xoay người, hướng mặt vào vách, nhìn vơ vẩn mấy tấm hình chụp cảnh lăng tẩm treo trên vách “Ông nói tiếng Nam, lại họ Phó? Họ nầy hiếm lắm. Ông ra Huế bao lâu rồi? Ông đi công tác?” “Tôi vừa đến Huế hôm kia. Tôi có họ khác, tên khác, nhưng trước đây, người ta thường gọi tôi như thế. Trước bảy lăm, Thừa Thiên, Huế có nhiều người họ Phó. Mỗi quận có một người họ Phó. Phó quận Nhứt, Phó Quảng Điền, Phó Nam Hòa…” Hắn nói giọng đều đều trong khi cô bác sĩ đè cái ống nghe lên lưng hắn “Ông hít mạnh vào… Thở ra từ từ… Không có gì đáng lo. Như vậy ở Huế có nhiều người họ Phó? Nhưng tôi chưa gặp hay biết ai có họ đó bao giờ” “Sau bảy lăm, mấy họ đó bị tru di tam tộc rồi, bác sĩ” “Ông nói chi lạ rứa! Có ai bị tru di gì đâu?” “Tru di từ từ” “Bây giờ ông quay lại, để tôi nghe ngực ông. Ông có bị ho, bị nóng lạnh, bị tức ngực, đau bụng hay mất ngủ gì không?” Hắn xoay người lại, đối diện với cô bác sĩ “Mấy hôm nay tôi bị mất ngủ” Hắn vẫn không dám nhìn thẳng cô bác sĩ, nhưng hình ảnh cô sinh viên ngày xưa như hiện rõ trên gương mặt cô ta. Đôi mắt vẫn sáng lên, thông minh và đằm thắm như trước kia, nhưng làn da hồng mịn trên gương mặt hình trái xoan đã được tô lên một lớp phấn hồng và cuối mắt, ở khóe miệng đã có những nếp nhăn. Ngực cô ta, dưới chiếc áo choàng trắng, hình như lớn hơn. Ngực cô Khánh Trang, lúc trước, nhỏ như trái cam, tròn và căng cứng, da trắng hồng, thơm mùi con gái thanh tân “Ông há miệng ra!” Hắn há miệng. Cô bác sĩ nhìn hắn và bỗng nhiên cô buông ống nghe “Anh! Anh đến thăm em sao không báo trước? Em có bao giờ nhìn kỹ bệnh nhân của em đâu! Anh thay đổi nhiều quá! Anh chờ em một phút” Cô ra ngoài phòng khách. Hắn nghe tiếng cô nhỏ nhẹ “Tôi có người bịnh cần khám thật kỹ. Bác cảm phiền chờ hơi lâu một chút. Cám ơn nghe!” Hắn rung động cả thần trí. Câu nói dịu dàng từ ngoài phòng khách khiến hắn bồi hồi, nhớ Hoa Trang đến mềm lòng. Đúng là giọng nói của người yêu ngày xưa. Hắn tưởng như nghe cả tiếng gió thổi qua rừng thông, vi vu trên đồi Thiên An, nghe cả tiếng xôn xao của các bạn cô cười nói dưới chân đồi. Nhưng em Hoa Trang đâu?

            Tiếng chân cô bác sĩ đi vào khiến hắn mở mắt ra. Cô ngồi đối diện với hắn, gỡ mắt kiếng đặt lên bàn và nhìn hắn mỉm cười. Nụ cười thân thiện, vui mừng. Hắn bỗng nhận ra là cô bác sĩ nầy và người yêu của hắn khác nhau. Cũng gương mặt đó, nhưng không còn nét ngây thơ, trong sáng của ngày xưa mà thay bằng thái độ chửng chạc của người từng trải. Thời gian, bao nhiêu năm, đã tách rời hai người. Một cô sinh viên ngày xưa và một người đàn bà ngày nay. Hắn buồn quá. Cô Khánh Trang nhìn hắn “Bây giờ anh kể em nghe. Sau khi rời Huế, anh đi đâu? Em có nghe anh lên Cao Nguyên, rồi sao nữa? Ủa! Sao anh buồn quá vậy?” “Xin lỗi bác sĩ. Tôi có người thân vừa mới mất. Bác sĩ có cho phép tôi được khóc trong lúc nầy không?” “Xin chia buồn với anh. Nhưng đời người, ai cũng phải đối diện với điều đó. Có lẽ đó là người thân nhất của anh?” “Tôi chỉ có người thân duy nhất đó thôi. Người đó, có lẽ bác sĩ còn nhớ tên” “Ôi! Cũng quen với tôi nữa? Anh có thể cho tôi biết tên được không? Vì sao người đó chết?” “Em Hoa Trang. Đã chết rồi!” Cô ngồi lặng người… Rồi cô thở dài, cô cầm lấy hai bàn tay hắn, thì thầm “Đừng anh! Tội nghiệp em! Anh nỡ nào giết chết em. Giết chết Hoa Trang của anh?” Cả hai yên lặng. Không gian yên tĩnh lạ thường. Hắn cúi nhìn bàn tay ấm và dịu dàng của cô. Từ đôi bàn tay, hắn như thấy rõ Khánh Trang ngày xưa. Khánh Trang trong trắng và quyến rũ đã từng khiến hắn ước ao được mãi mãi nâng niu, ấp ủ. Cô thì thầm “Em cám ơn anh vẫn còn nhớ đến Hoa Trang. Người đi xa bao giờ cũng mau quên hơn người ở lại. Thời thế đổi thay, ba me em mất rồi, bạn bè tan tác, chỉ mình em bơ vơ với những kỉ niệm cũ. Bao nhiêu năm rồi, em vẫn không quên được những ngày vô tư, đẹp đẽ của em với anh, với các bạn thân yêu. Nhiều khi cứ tưởng chuyện thời còn đi học chỉ là giấc mơ về một xứ thần tiên nào đó, vì hiện tại quá khắc nghiệt. Nước mất, nhà tan. Tan nát hết cả rồi! Em có về thành phố quê anh để tìm anh, nhưng chẳng ai biết. Em vẫn tự trách mình quá yếu đuối, để mất anh. Em hiểu được tình yêu nhưng không biết hạnh phúc là gì?” Cô thở dài. Rồi bỗng nhiên cô nhoẻn miệng cười, mắt sáng lên như vừa tìm thấy niềm vui “Chỉ có anh. Nếu anh và em là vợ chồng thì dù khổ cực, dù xa anh, em nhớ anh, lo sợ cho anh cũng là hạnh phúc của em. Anh cười lên với em đi! Mừng với em được gặp lại anh” Hắn cười thiểu não “Tôi mừng cho Hoa Trang. Trong hoàn cảnh bi thảm của miền Nam mà cô được như thế nầy là may mắn lắm rồi” “Khó khăn lắm mới mở được phòng mạch chui nầy đó anh” “Tôi đến thăm Hoa Trang lần cuối, tháng sau tôi đi Mỹ” “Anh đi với cả gia đình?” “Tôi chỉ còn bà mẹ. Tôi đi với bà cụ” “Hôm nào anh rời Huế?” “Vài hôm nữa. Huế buồn quá. Cũng may, có cô Hoa Trang vừa tặng cho nụ cười cũng an ủi” “Nếu anh ở lại lâu hơn thì cô Hoa Trang của anh sẽ tặng anh nhiều nụ cười nữa!” Bỗng nhiên hắn nhận ra. Cô Hoa Trang ngày xưa của hắn đã chết thật rồi. Cô Hoa Trang nầy chỉ là người bạn. Tại sao hắn không vui? Hắn vừa có một cô bạn mới. Cô Khánh Trang như cũng vừa nhận ra điều đó. Bao nhiêu năm xa cách. Tình yêu sôi nổi của thời sinh viên đã lắng xuống, chỉ còn tình thân ái đằm thắm và tín cẩn nhau của hai người bạn thân. Cả hai nhìn nhau cùng cười, lòng thanh thản. Hắn ôm cô Khánh Trang, hôn lên trán cô. Cô nói “Sáng mai, lúc tám giờ, em mời anh đi điểm tâm với em” Hắn làm bộ e ngại “Ăn điểm tâm hay ăn đòn?” Cô véo vai hắn “Không có đâu!” Khi tiễn hắn ra, vì có bịnh nhân nên cô làm nghiêm “Sáng mai ông đến sớm, tôi mới có thì giờ khám kỹ hơn. Chào ông!” Ra khỏi phòng mạch, đi được mấy bước, hắn bỗng khựng lại. Hóa ra hắn đã trắng tay. Quê hương, đất nước đã vào tay kẻ thù, sự nghiệp cũng không còn. Hắn ra Huế để tìm người yêu thì người yêu đã thành người bạn. Rồi đây, hắn sẽ lưu lạc đến một xứ sở xa lạ, nơi mà hắn chẳng thể hình dung được nó như thế nào? Nếu không mất nước, hắn không phải đi đâu cả. Trước đây, bao nhiêu sinh viên miền Nam du học, thành tài, đều về với quê hương.

            Hắn đi ra phía bờ sông, tìm một thềm đá bên sông An Cựu, ngồi lặng nhìn giòng sông. Buổi chiều vắng vẻ, êm đềm. Hai bên bờ sông không một bóng người, chỉ có hàng cây đang nghiêng mình, soi bóng trên mặt nước. Hắn nghiệm ra, đời hắn và mối tình của hắn, cũng chỉ như giòng nước đang lặng lờ trôi, đã qua rồi thì không có cách nào trở lại được. Không còn gì. Hắn nhìn đăm đăm giòng sông và tưởng tượng. Nếu đi ngược lên thượng nguồn, sông An Cựu sẽ nhập vào sông Hương, đi qua những xóm làng yên tĩnh muôn đời. Kim Long, chùa Thiên Mụ, đồi Vọng Cảnh… rồi đến bến đò Tuần, đó là quận lỵ Nam Hòa, nơi trước đây hắn đã làm việc. Hắn nhớ đến những viên chức xã ấp thật thà, cần mẫn, nhớ đến đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh. Hắn nhớ đến em Hoa Trang xinh tươi, đôi mắt đằm thắm, dịu dàng nhìn hắn, làn môi thanh xuân hé nở nụ cười. Cả hai, tay trong tay, đứng giữa rừng thông bạt ngàn trên đồi Thiên An…

 Khám bịnh nhân cuối cùng xong, bác sĩ Khánh Trang dẫn xe gắn máy ra, khóa cửa. Cô bỗng thấy một chiếc xe đạp dựng ở vách phòng mạch. Có thể của bịnh nhân để quên. Cô chợt mỉm cười “Anh chàng nầy, cái gì cũng quên, chỉ nhớ mỗi một mình cô Hoa Trang! Buồn quá, ra bờ sông ngồi thở dài chứ gì?” Cô lấy khóa còng, khóa hai xe vào nhau rồi đi bộ ra bờ sông. Cô đến sau lưng mà hắn không hay biết. Cô đứng chống nạnh, giả giọng miền Nam “Ê! Ông kia. Đừng thất tình mà nhảy xuống sông à nghe! Tui sẽ nhảy theo đó!.” Hắn quay nhìn. Cô cười “Cho em ngồi chung với!”.

Phạm Thành Châu

THƠ HOA TRANG

(ht gửi ptc)

hoa tường vi nở muộn màng trên phố           

ngày em về thăm quê hương anh

không còn ai quen biết

không còn ai nhắc nhở

chỉ mình em ngồi thương nhớ

những con đường in dấu anh qua

hoa trái mọng chín trong vườn xanh

mắt anh cười say hơn nụ hôn cay

hơi rượu nồng ủ đời anh ấm lại

gửi ở đâu tài hoa cũ

mười ngón tay nghệ sĩ

ngòi bút anh sáng như ánh sao

trong hồn người vô tận

cuộc đời đã hết

nước đã trôi thuyền vỡ vụn

mẹ già chưa một lần gặp mặt

xưa mơ chuyện vợ chồng

mang mẹ về trông con cho anh viết

Hoa Trang tàn trên mảnh vườn đổ nát

tài hoa anh trôi về cuối con sông

chỗ tiếc thương mênh mông gặp biển

lệ đổ gian nan em chờ bến bờ nào.

 

Views: 261

Trại Phong Hòa Vân

Bửu Uyển

Chiều ngày 2 tháng 6 năm 2008, từ Saigon, chúng tôi đến Huế bằng xe lửa. Sáng hôm sau, chúng tôi được người quen hướng dẫn đi thăm Trại Phong Hòa Vân. Xe đưa chúng tôi đến thị trấn Liên Chiểu, cách Huế khoảng 90 cây số về phía Nam, từ đó chúng tôi đi ghe dọc theo bờ biển dưới chân đèo Hải Vân để đến thôn Hoà Vân nơi có Trại Phong Hòa Vân. Gió biển mát rười rượi, mặt biển phẳng lặng, ghe đưa chúng tôi nhẹ nhàng hướng về thôn Hoà Vân. Khoảng 30 phút sau, chúng tôi đến Trại Phong Hòa Vân.
Đã được báo trước, nên khi ghe của chúng tôi vừa đến, đã thấy vài người đứng trên bến đón chúng tôi. Anh Đức, người phụ trách quản lý trại niềm nỡ chào hỏi chúng tôi. Anh giới thiệu với chúng tôi Xơ Lợi, người nữ tu lớn tuổi đã phục vụ ở đây lâu năm. Anh Đức nhờ Xơ Lợi hướng dẫn chúng tôi đi thăm trại. Trước mắt chúng tôi là những mái nhà “tôn” nhỏ bé, nằm rải rác đây đó. Xơ Lợi giải thích: “Đó là nhà của những bệnh nhân đã lành bệnh, họ không còn phải sống tập trung trong trại gọi là nội trú nữa, họ ra sống ở ngoài, họ trồng khoai, trồng sắn và sinh sống như những người bình thường khác”. Chúng tôi ghé thăm nhiều nhà, ai cũng vui vẻ chào hỏi chúng tôi. Nhà của họ là những gian nhà nhỏ lợp “tôn”, vách ván. Phần lớn họ sống độc thân. Nhưng cũng có nhiều người lập gia đình với nhau, có con cái.
Tôi hỏi Xơ Lợi: “Thế con của họ có bị di truyền không ?”
Xơ Lợi cho biết: “Từ lúc các em mới sinh ra đã được xét nghiệm máu, nhiều em có vi trùng bệnh phong trong máu, nhưng vì phát hiện sớm nên chữa trị được ngay, cũng có em không có vi trùng gì hết, nên các em đó lớn lên một cách bình thường, đến tuổi cũng đi học như các trẻ em khác”.
Họ sống giản dị và nghèo nàn quá. Nhiều gia đình Công Giáo, thiết lập một bàn thờ đơn sơ ở trên vách nhà với Thánh Giá và ảnh Đức Mẹ. Nhưng một điều làm tôi chú ý là nhà nào cũng có treo hình một Xơ còn trẻ, người nhỏ nhắn. Tôi hỏi Xơ Lợi: “Thưa Xơ, tôi thấy nhà nào ở đây cũng có treo hình một Xơ trẻ. Xơ đó là ai vậy?” Xơ vui vẻ cho tôi biết: “Đó là hình Xơ Têrêsa Phạm Thị Phương Anh”.
Tôi ngạc nhiên: “Xơ Phương Anh là ai mà lại được bệnh nhân ở đây yêu mến như thế?”
Xơ Lợi nói ngay: “Xơ Phương Anh là ân nhân của các bệnh nhân ở đây! ”
Tôi tò mò nói với Xơ Lợi: “Xin Xơ cho tôi biết thêm về Xơ Phương Anh.”
Xơ Lợi kể cho tôi nghe: ” Xơ PhạmThị Phương Anh là con gái của một gia đình Phật Giáo giàu có ở Saigon, gia đình Xơ còn có nhiều cơ sở kinh doanh ở Huế nữa. Thuở nhỏ, bé Phương Anh học trường Regina Pacis ở đường Tú Xương, Saigon; Xơ được tiếp xúc với cuộc sống thánh thiện của các Xơ ở đó, và được hấp thụ một nền giáo dục Công Giáo, nên bé Phương Anh đã sớm có lòng mến Chúa và yêu người. Có lần Xơ Phương Anh tâm sự: Lúc nhỏ, khi học ở Regina Pacis, Xơ rất thích ngắm nhìn tượng Đức Mẹ, gương mặt hiền từ và nhân ái của Đức Mẹ đã lôi cuốn sự ngưỡng mộ của Xơ, và Xơ đã yêu mến Đức Mẹ không biết từ lúc nào. Năm 1962, Xơ đậu tú tài toàn phần. Xơ tiếp tục học Đại Học Dược Khoa Saigon và tốt nghiệp Dược Sĩ năm 1967. Gia đình chuẩn bị mở nhà thuốc tây cho Xơ, và mua cho Xơ một xe hơi hiệu Dauphine. Nhưng một hôm, Xơ lái xe vô nhà Dòng Regina Pacis và xin ở lại tu. Các Xơ ở đó rất ngạc nhiên, không biết phải giải quyết ra sao, các Xơ phải liên lạc với gia đình của Xơ Phương Anh. Gia đình của Xơ ngăn cản bằng cách đưa Xơ đi Pháp tiếp tục học Tiến Sĩ Dược Khoa. Xơ ở chung với gia đình người anh ruột và một người dì tại thành phố Bordeaux.
Mặc dù gia đình không bằng lòng cho Xơ theo đạo, nhưng lòng yêu mến Chúa và Đức Mẹ của Xơ ngày một tràn đầy, nên một năm sau, Xơ Phương Anh đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội tại Nhà Thờ Saint Joseph ở Bordeaux. Con đường sống đạo của Xơ Phương Anh không dừng lại ở đó. Một thời gian sau, Xơ xin vào tu ở Dòng Thánh Phao Lồ ở Lyon.
Gia đình Xơ phản đối rất là quyết liệt. Mẹ của Xơ từ Saigon vội vã qua Pháp, đến Nhà Dòng để thăm Xơ. Mẹ Bề Trên, đặc biệt cho phép mẹ của Xơ ở lại với Xơ trong Nhà Dòng mấy ngày liền. Bà đã thấy tận mắt cuộc sống đạo đức và an lành của Xơ trong Nhà Dòng, và bà đã thay đổi hoàn toàn cảm nghĩ của bà về việc tu trì của con gái bà. Hôm bà từ giả Xơ Phương Anh để trở về Việt Nam, bà cầm tay Xơ và nói: ” Mạ về hí, con cứ vui vẻ tiếp tục cuộc sống lý tưởng của con. Không có mạ bên cạnh, nhưng mạ biết từ nay con đã có Chúa, có Đức Mẹ nâng đỡ, yêu thương nên mạ rất an tâm.”
Xơ Phương Anh có một người dì đang sống ở Pháp, thỉnh thoảng bà đến Nhà Dòng thăm Xơ. Thật bất ngờ, mấy năm sau dì của Xơ xin theo đạo. Có lẽ đây là hoa quả đầu tiên do lời cầu nguyện của Xơ Phương Anh.
Năm 1972, Xơ được khấn trọn đời. Thánh lễ khấn hứa được Nhà Dòng tổ chức ở nhà thờ Saint Joseph, thành phố Lyon. Mọi ngươì thân trong gia đình của Xơ đều hiện diện trong thánh lễ. Sau Lễ khấn trọn đời, Xơ được Nhà Dòng chuyển về Việt Nam. Xơ là một Dược Sĩ, nên Mẹ Bề Trên đưa Xơ vào phục vụ ở Bệnh viện Saint Paul, Saigon. Không hiểu do nguyên nhân nào thúc đẩy, Xơ Phương Anh chuyên chú nghiên cứu về bệnh phong cùi. Và cũng không biết do ai giới thiệu, Xơ Phương Anh xin Mẹ Bề Trên cho Xơ về phục vụ bệnh nhân phong cùi ở Trại Phong Hòa Vân, Huế. Mẹ Bề Trên thấy Xơ ốm yếu, sợ Xơ Không chịu nổi những khổ nhọc khi phục vụ bệnh nhân phong cùi, nên Mẹ Bề Trên không chấp thuận. Nhưng Xơ Phương Anh tiếp tục khẩn khoản xin được đi phục vụ bệnh nhân phong cùi, cuối cùng Mẹ Bề Trên phải chấp thuận cho Xơ đi.
Xơ Lợi nói tiếp: “Tôi đến phục vụ ở Trại Phong Hòa Vân này sau Xơ Phương Anh. Tôi đưa bác đến gặp một vài bệnh nhân lớn tuổi, họ đã sống ở đây không dưới ba, bốn chục năm, họ sẽ cho quý vị biết rõ hơn về Xơ Phương Anh.”
Chúng tôi đến gặp bác Nguyễn Một, năm nay bác đã 78 tuổi. Căn bệnh phong cùi quái ác đã cướp mất hai chân của bác, và cách đây mấy tháng bác bị mù hoàn toàn. Bác đang ở trại nội trú, dành cho những người bệnh nặng. Cùng ở chung với Bác Một, còn có bảy bệnh nhân khác nữa; phần nhiều là những người lớn tuổi, chỉ có ông Nguyễn Đức Hòa tương đối trẻ, ông sinh năm 1969. Tất cả bệnh nhân đều bị bệnh phong cùi ăn mất tay, mất chân, tai, mũi … Trông họ thật đáng thương, không ai cầm được nước mắt. Có đến đây gặp họ, nói chuyện với họ, nhìn tận mắt những thương tật của họ, xem nơi ăn, chốn ở của họ, chúng ta mới cảm nghiệm được sự bất hạnh của những bệnh nhân phong cùi.
Tôi vô cùng cảm phục và thương mến họ. Tôi không nghe ai than thở hay oán trách về những đau đớn, bệnh tật mà họ đang gánh chịu, họ là những kẻ khốn khổ nhất trên thế gian này. Nhưng họ đã dạy cho chúng ta bài học “Xin Vâng”. Bài học vỡ lòng và cũng là bài học cuối cùng rất thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.
Tôi đến gần Bác Một, bác ngồi trên chiếc giường tre ọp ẹp, với một manh chiếu đơn sơ trải lên. Bác bị mù cà hai mắt, nên Chúa lại ban cho bác một giác quan khác, bác nhận biết ngay khi chúng tôi đến gần; bác chào chúng tôi:
– Chào ông bà, chắc ông bà từ xa đến đây.
Tôi vội vã trả lời:
– Dạ chúng tôi ở xa, may mắn được đến đây thăm các bác.
Bác Một vui vẻ nói:
– Thật quí hoá, trại này ở xa xôi, cách trở, mà quý ông bà cũng lặn lội đến thăm chúng tôi, xin cám ơn quý ông bà . Chúng tôi đã không bị bỏ quên.
Tôi nghẹn ngào:
– Thưa bác, chúng tôi không biết nói gì cho đủ để an ủi quý bác.
Tôi chợt nhìn về cuối phòng, trên vách tường có treo bức ảnh của Xơ Phương Anh. Tôi hỏi Bác Một:
– Thưa bác, bức ảnh treo ở cuối phòng là ai rứa bác?
Bác Một hướng về cuối phòng rồi nói:
– Tui không thấy gì cả, nhưng tui thường hướng về bức ảnh cuối phòng để tưởng nhớ đến Xơ Phương Anh.
Tôi nói với Bác Một:
-Thưa bác, bác có thể cho tôi biết vài điều về Xơ Phương Anh được không ạ!
Bác Một trầm ngâm, nhìn về một khoảng xa xôi nào đó, rồi bác chậm rãi nói:
” Tôi không nhớ rõ là tháng, năm nào, nhưng chắc chắn là trước năm 1975, chúng tôi có nghe một Xơ ở Pháp về, sẽ đến đây phục vụ bệnh nhân. Chúng tôi nghĩ Xơ ở Pháp về chắc là cao ráo, mập mạp lắm. Nhưng khi Xơ Phương Anh đến đây, chúng tôi ngạc nhiên thấy Xơ là một cô gái nhỏ nhắn, giản dị ngoài sự tưởng tượng của chúng tôi. Có lẽ Xơ chỉ cao khoảng một mét năm, nặng không quá 40 kí lô. Xơ không mặc áo dòng như các bà Xơ khác, Xơ mặc một bộ bà ba hết sức bình dị. Xơ Phương Anh đến Trại Phong Hòa Vân vào một buổi chiều mùa đông, mưa lâm râm buồn bã. Chúng tôi vào chào Xơ, Xơ dịu dàng hỏi han từng người. Ai nhìn Xơ, cũng thấy ngay một nốt ruồi khá lớn trên gương mặt hiền lành, khả ái của Xơ. Xơ luôn luôn mĩm cười với mọi người. Trong những giây phút đầu tiên ấy, anh chị em bệnh nhân chúng tôi đã có ngay cảm tình với vị nữ tu bé nhỏ mới đến trại.
Sau khi Xơ Minh, Quản Lý Trại sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho Xơ, Xơ vội vã đi thăm trại, thăm bệnh nhân. Nói là trại, nhưng lúc đó chỉ có năm ba gian nhà tranh rách nát và một “nhà nội trú” lớn hơn, nhưng cũng quá hư dột, trống trước, trống sau. Xơ hỏi chúng tôi: “Nhà của các bác như thế này ư?” Ngay lúc đó, một cơn gió lạnh buốt ùa vào. Tôi thấy Xơ rùng mình. Xơ được hướng dẫn đến thăm nhà nội trú, có lẽ đây là lần đầu tiên Xơ Phương Anh nhìn thấy những khuôn mặt sứt mẻ của bệnh nhân phong cùi, và phần lớn họ đều mất tay, mất chân…Xơ đã úp mặt vào vách và khóc nức nở. Thấy Xơ quá cảm động, chúng tôi cũng khóc theo.
Xơ đến bên giường Bà Xuân, sau khi chào hỏi bà, Xơ cầm lên cái mền mà bà ấy đang trùm cả đầu, cái mền đã quá cũ, rách nát tả tơi. Xơ lại rươm rướm nước mắt, Xơ quay lại hỏi tôi: “Sao không thấy ai có mùng cả” Tôi cười: “Ở đây làm gì có mùng!”
Xơ đến từng giường, thăm hỏi tất cả bệnh nhân ở khu nội trú. Dù đây là lần đầu tiên Xơ gặp những bệnh nhân, nhưng lời nói, cử chỉ của Xơ, thân mật, gần gũi, giống như Xơ đã quen biết với họ từ lâu.
Sau khi đi thăm bệnh nhân, Xơ trở về phòng của Xơ. Đêm đó, chúng tôi thấy Xơ chong đèn thật khuya. Xơ viết lách gì đó.
Mấy ngày sau, chúng tôi thấy một chiếc ghe lớn câp bến trước trại, họ chở gỗ, ván, tole, ciment đến, không biết để làm gì. Thì ra Xơ Phương Anh kêu người đến sửa lại nhà cửa của bệnh nhân. Chỉ vài tuần sau, nhà cửa ở đây như mới, nhà nào cũng lợp tole, vách ván, nền nhà được tráng ciment cao ráo. Đây là mùa đông đầu tiên, bệnh nhân được sống trong những căn nhà đàng hoàng, kín đáo, không bị gió rét ùa vào như trước nữa.
Khoảng năm, bảy ngày sau, anh em bệnh nhân chúng tôi nhận được mỗi người một cái mền, một cái mùng và một chiếc chiếu mới. Chúng tôi như sống trong mơ.”
Bác Một ngừng lại một lúc, rồi kể tiếp:
“Ông biết không, từ khi Xơ Phương Anh về ở đây với chúng tôi, chúng tôi không còn thiếu ăn như trước nũa. Vài ba ngày lại có ghe ở Lăng Cô ra, chở gạo, cá , thịt đến cho chúng tôi. Suốt mấy chục năm, chưa bao giờ bệnh nhân chúng tôi lại được ăn uống đầy đủ như vậy. Thuốc men chữa trị cho bệnh nhân cũng được Xơ Phương Anh lo cho đầy đủ, không còn chữa cầm chừng như trước nữa.
Xơ còn cho cất một nhà nguyện nhỏ, tuy đơn sơ nhưng có chỗ cho những bệnh nhân Công Giáo vào đọc kinh, cầu nguyện. Nhiều bệnh nhân không phải Công Giáo cũng thường vào đó ngồi nghỉ ngơi.
Tôi còn nhớ, từ những ngày đầu tiên mới đến trại, khi tiếp xúc, săn sóc cho những bệnh nhân mà Xơ mới gặp lần đầu, Xơ cũng đối xử hết sức thân thiết, gần gũi như những người thân trong gia đình. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, tất cả bệnh nhân ở đây đều yêu mến Xơ. Không biết từ lúc nào, chúng tôi thân mật gọi Xơ là Mẹ Têrêsa dù Xơ còn rất trẻ. Xơ phục vụ, săn sóc bệnh nhân với tất cả lòng yêu thương, trìu mến của Xơ. Khi làm thuốc, thay băng ở chân, Xơ bảo chúng tôi ngồi ngay ngắn, rồi Xơ cúi xuống rửa vết thương và băng lại cho chúng tôi. Khi đến phiên tôi được Xơ làm thuốc, thay băng ở chân, tôi ngồi đưa chân cho Xơ chùi rửa, xức thuốc, băng bó, tôi thầm nghĩ : “Dù tôi có chết đi sống lại đôi ba lần cũng chưa đủ để đền đáp ân tình này cho Xơ.”
Có lần tôi hỏi Xơ: “Sao Xơ có thể quên mình, hy sinh cho bệnh nhân một cách tận tụy như thế?” Xơ mỉm cười: “Vì tôi yêu Chúa . Mà Chúa là anh chị em đó!”
Bác Một dừng lại, trầm ngâm, có lẽ bác đang nhớ đến người nữ tu nhỏ bé, đã hy sinh cả cuộc đời cho những bệnh nhân phong cùi như bác…Bác khóc!
Qua cơn xúc động, bác nói tiếp: “Tôi suy nghĩ nhiều về câu nói của Xơ. Thật vậy chỉ có yêu Chúa hết lòng, mới có thể thầm lặng phục vụ cho bệnh nhân phong cùi từ ngày này qua ngày khác được. Trên thế gian này, có hàng trăm cách hy sinh cho tha nhân, nhưng hy sinh tình nguyện săn sóc cho những bệnh nhân phong cùi có lẽ là sự hy sinh to lớn nhất, và đẹp lòng Chúa nhất. Anh em bệnh nhân chúng tôi yêu mến Xơ, và nhờ tấm gương thánh thiện của Xơ, chúng tôi cũng yêu Chúa. Lúc tôi mới đến trại này, hơn một trăm bệnh nhân mà chỉ có năm, sáu người Công Giáo. Nhưng từ khi Xơ Phương Anh về đây phục vụ, lòng tin yêu đặc biệt của Xơ dành cho Chúa, làm cho nhiều anh chị em bệnh nhân tò mò, tìm hiểu về “Ông Chúa” nào đó là động lực thúc đẩy Xơ sống hiền lành, khiêm nhường, hy sinh trọn vẹn cho bệnh nhân như thế.
Xơ Phương Anh mở một lớp hướng dẫn cho những bệnh nhân muốn tìm hiểu về đạo Công Giáo. Kết quả thật bất ngờ, nhiều anh chị em xin theo đạo. Xơ Phương Anh đã ra họ đạo Lăng Cô gần đó, mời Cha Bửu Hiệp vào rửa tội cho sáu bệnh nhân, trong đó có tôi. Số anh chị em bệnh nhân xin theo đạo cứ tăng dần. Bây giờ trong nhà nguyện, lúc nào cũng có vài ba bệnh nhân Công Giáo ngồi đọc kinh cầu nguyện.”
Bác Một lấy trong túi ra một tràng hạt Mân Côi cũ kỹ, bác nói : “Đây là vật kỷ niệm quí giá của đời tôi, xâu chuỗi này do Xơ Phương Anh đã tặng cho tôi, ngày tôi chiụ phép rửa tội. Xơ ân cần dặn tôi: “Bác nên lần chuỗi mỗi ngày để dâng kính Đức Mẹ vì Đức Mẹ nhơn từ lắm, Đức Mẹ yêu thương hết mọi người , Đức Mẹ yêu thương bác lắm đó.”
Lòng sùng kính Đức Mẹ được tỏa ra từ lời nói đến việc làm của Xơ hàng ngày. Khi băng bó, săn sóc cho chúng tôi, Xơ thường kể cho chúng tôi nghe những nhơn đức của Đức Mẹ. Có ai than thở điều gì với Xơ, hoặc có bệnh nhân đau đớn rên xiết, Xơ nhỏ nhẹ khuyên: “Anh chị hãy cầu nguyện với Đức Mẹ, Đức Mẹ yêu thương anh chị lắm. Đức Mẹ đang chờ anh chị ngỏ lời để Đức mẹ cứu giúp”. Xơ luôn luôn xác nhận: “Chưa hề có ai xin gì cùng Đức Mẹ mà chẳng được.”
Từ ngày Xơ Phương Anh về phục vụ ở Trại Phong Hòa Vân này, cuộc sống của các bệnh nhân ở đây hoàn toàn thay đổi, cả vật chất lẫn tinh thần. Ngoài những tiện nghi vật chất, một món quà mà chúng tôi cho là to lớn nhất mà Xơ Phương Anh đã đem đến cho chúng tôi, đó là niềm tin. Chúng tôi tự hào mình là những con người không bị lãng quên, chúng tôi đang được chữa trị , chăm sóc, chúng tôi đang được yêu thương. Dù có đau đớn về thể xác, nhưng chúng tôi cảm thấy đang sống trong hạnh phúc vì chúng tôi được yêu thương.
Nhưng, những ngày hạnh phúc đó đã sớm qua đi. Khoảng ba, bốn năm sau, vì tận tụy làm việc quá nhiều, sức khỏe của Xơ Phương Anh sa sút trầm trọng. Xơ gầy hẵn đi, thường lên cơn sốt và ho rũ rượi. Chúng tôi rất lo lắng cho sức khỏe của Xơ. Cuối cùng, phải cho người lên Huế, báo với thân nhân của Xơ , đem Xơ đi bệnh viện.
Hôm Xơ xuống ghe để lên Huế, chúng tôi đứng chật bãi biển để tiễn đưa Xơ. Xơ cầm tay từ giả từng người. Xơ khóc, chúng tôi cũng khóc. Xơ nói: ” Tôi mong chóng được lành bệnh để trở về với anh chị em.” Ghe rời bến đã xa, chúng tôi thấy Xơ vẫn đứng đăm chiêu nhìn về phía Trại Phong Hòa Vân.
Sau khi Xơ Phương Anh rời khỏi trại, anh chị em bệnh nhân chúng tôi thay phiên nhau quét dọn, giữ gìn sạch sẽ nơi ở của Xơ, xem như Xơ đang ở với chúng tôi vậy. Chúng tôi yêu mến Xơ, chúng tôi nhớ Xơ lắm. Ai cũng ước mong Xơ sớm trở lại với Trại Phong Hòa Vân. Nhưng ngày tháng đợi chờ cứ qua đi, không có tin tức gì của Xơ.
Chúng tôi thấy trên bàn làm việc của Xơ có một tấm ảnh nhỏ, chụp nhân dịp ngày Xơ khấn trọn đời ở Pháp, chúng tôi sang tấm ảnh ấy ra. Nhà nào, phòng nào ở đây cũng xin được treo bức ảnh của Xơ Phương Anh, như một cử chỉ nhớ ơn Xơ. Chúng tôi thương nhớ Xơ, nhớ từng lời nói ngọt ngào, nhớ từng cử chỉ chăm sóc đầy trìu mến của Xơ. Xơ Phương Anh đã cho chúng tôi quá nhiều. Thỉnh thoảng vài bệnh nhân đứng ngắm nhìn bức ảnh của Xơ và khóc.”
Ngừng lại một lúc, rồi với giọng đầy xúc động, bác Một nói: ” Xơ Phương Anh là người chị, là người Mẹ, là ân nhân của chúng tôi. Tình thương dịu hiền của Xơ dành cho chúng tôi, là liều thuốc linh nghiệm cứu sống bệnh nhân phong cùi ở đây. Hằng ngày, chúng tôi tạ ơn Chúa vì Ngài đã gửi đến cho bệnh nhân phong cùi Trại Phong Hòa Vân chúng tôi một nguồn an ủi vô tận, đó là Xơ Têresa Phạm thị Phương Anh.”

Bửu Uyển

Views: 324

Lệ Thiên Đường

Tôn Thất Hùng

Ngày em lạc bước trần gian
Hạc vàng quay quắc bạt ngàn tìm em

 

T ơ trời vương màu áo
Mắt ngọc nắng lụa vàng
Tóc mây hương khuê các
Dáng liễu thanh đài trang

Rêu phủ xanh tường cũ
Chiều Thu phiến nắng vàng
Tan trường cùng chung bước
Ðông giá đón Xuân sang

Có lần về xe trễ
Ðông khách cố chen lên
Ngỡ ngàng qua ánh mắt
Trần thế thêm nàng tiên

Trong khoang xe chật chội
Chợt sáng giữa u tối
Áo trắng lạc thiên đường
Giáng trần đang bối rối

Xuống xe theo từng bước
In dấu hài đi trước
Bừng đỏ đôi má hồng
Kiêu sa đi không ngước

Tất niên mở dạ tiệc
Ðông đủ các bạn thân
Chủ đề đêm văn nghệ
Ca khúc tình mùa Xuân

Giáng Hương, Quyến, Ngọc Yến
Cả một trời xuân xanh
“Bến xuân “Như Ý chọn
Thanh Trúc “ Tà áo xanh”

Chủ đề nhạc tình yêu
Ca ngợi tình muôn thuở
Thu “Lá đổ muôn chiều”
Lá vàng khóc tình yêu

Lâng lâng hồn nghệ sĩ
Mê đắm sắc thiên hương
Say tình ca men rượu
Rã cánh mộng thiên đường

Tân xuân mồng một Tết
Tiếng súng đồng nổ dòn
Dầm mưa phùn cùng dự
Lễ thượng kỳ ngọ môn

Giặc chiếm Huế đầu Xuân
Sau binh biến Mậu thân
Rơi lệ mừng tái ngộ
Tay trong tay giai nhân

Thiên đường yêu thơ mộng
Trần thế nặng phồn hoa
Tuổi xuân đầy lý tưởng
Tay trắng về núi xa

Cuộc chiến đang ác liệt
Giặc tràn ngập biên cương
Cõi ngoài lo giúp nước
Nơi hỏa ngục chiến trường

Mỗi lần được về phép
Hạnh phúc ngồi bên nhau
Êm đềm nhìn phiến nắng
Tường cũ rêu xanh màu

Ba năm trước về phép
Ban toán hỏng Tú tài
“Văn chương” lời khuyên bảo
Lần cuối đã Luật hai

Crystal mở cửa hàng
Nhiều bướm ong giàu sang
Ngọc ngà đời nhung lụa
Phụ mẫu kén rễ vàng

Này “Hương xưa, Hoài cảm”
Băng nhạc dành tặng Hương
Tình trần mong manh quý
Chút hạnh phúc thiên đường

Hương kéo tay ra cửa
Ngây thơ mãi bên nhau
Tay trong tay vĩnh cửu
Hạnh phúc đến bạc đầu

Nghĩa mẫu ở phòng bên
Quát ầm “Hương mẹ bảo”
Lệ tình rơi tuyệt vọng
Thôi vĩnh biệt giáng tiên

Tây nguyên mai rừng nở
Chốn cũ nơi hậu phương
Nắng vườn đào còn nhớ
Phút luyến tình tơ vương

Nước mất đời đảo điên
Cướp tra khảo kiếm tiền
Lìa trần đương danh sắc
Về chốn xưa bình yên

Áo trắng hồi thiên đường
Hồn nhiên quên trần thế
Tình trần xưa chạnh nhớ
Theo gió trời tơ vương

Một chút tình thơ mộng
Trần gian mãi còn hương
Nơi vĩnh hằng còn đọng

Hạt sương lệ thiên đường

Có những đêm về sáng
Long lanh những hạt sương
Lệ tình xưa áo trắng
Thanh thoát lìa thiên đường

Cánh hồng sương long lanh
Tinh khiết tình mong manh
Hạnh phúc thời thơ mộng
Vĩnh hằng tình xuân xanh

Hồng trần hoa ngát hương
Khuya khoắc hoa đẫm sương
Nơi vĩnh hằng thanh tịnh
Hương bình an thiên đường

Tôn Thất Hùng
14/1/2017

Views: 496

Rượu Mềm Lòng Nhân

Hồi ký của một công bộc thời chiến

Tôn Thất Hùng

 

Công bộc phải biết vâng lời dù sai nguyên tắc

  Phục vụ ở hai quận Đaktô, Kontum và Ty Nội An tỉnh Kontum  gần 4 năm, từ 10/68 đến 2/1972, người viết (NV) lập gia đình và xin thuyên chuyển về Thị xã Cần Thơ, tân lập. Vị Thị Trưởng kiêm Tỉnh trưởng Phong  Dinh lại tống đi Quận Thuận Nhơn, tên cũ là Khắc Nhơn. Địa danh  này nổi tiếng  là nơi  sát thương: Tỉnh trưởng – Đại tá Nguyễn văn Khương, lên cố Chuẩn – tướng-, một Đại úy Quận trưởng, Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng  44 BĐQ, tử thương ở Bà đầm -Thác lác. Tình hình an ninh toàn quận thật bi đát. Sau khi được đổi tên từ Khắ́c sang Thuận, tình hình an ninh có phần đỡ hơn, nhưng các vị Quận trưởng không chết thì cũng bị thương nặng, trường hợp Trung tá DTN.

  Sau hai lần được hai đàn anh Phó Thị trưởng K1 và Phó Tỉnh trưởng K6 tiếp v/v khiếu nại Tỉnh trưởng đã tự quyền điều động NV từ Thị xã sang Tỉnh là trái với nguyên tắc hành chánh, cả hai đàn anh đều khuyên là nên tuân hành. Biết là mình bị ép nhưng phải thi hành. Hai tháng sau, một đồng môn được đưa từ Bộ thay chỗ NV ở Tòa Thị chính Cần Thơ.

Tháng 4 năm 1972, khi tham dự khóa học Cán bộ hoá công chức ở Rạch Dừa, gặp Thứ trưởng Nội  vụ Lê Công Chất (NV đã có lần  đón tiếp Ông vào tháng 3/1969 lúc ông đi thăm quận Đaktô). Sau khi nghe qua vấn đề khiếu nại, ông khuyên là nên vâng lời. Đồng môn Phó quận cũ, tốt nghiệp Cao học Hành chánh K4, đã bỏ về Tòa Hành chánh Tỉnh từ lâu, sau đó làm Trưởng ty Kinh tế, đến ngày 30/ 4/ 1975 là người đứng ra tiếp thu Tòa Hành chánh Tỉnh Phong Dinh và Toà Thị chính Cần Thơ.

 Nhìn địa thế văn phòng quận Thuận Nhơn, không hàng rào bao bọc, không ụ đất phòng thủ, không cổng gác, NV  biết là không an toàn  nhưng còn an tâm hơn là nếu ra khu nhà dân ở. Ban ngày  làm việc, có một cảnh sát viên canh gác, thêm  một  cận vệ. Vì quận đường  nằ̀m ở ngoài  vòng đai an  ninh của Chi khu nên  mỗi đêm đều có một trung  đội  ĐPQ được tăng phái đến bảo vệ. Một số quân nhân đã giúp  đào một hồ  nuôi cá  tra làm chỗ đi cầu cho văn phòng và dân chúng, vừa làm chướng ngại  rào cản khi VC tấn công. Vợ chồng  người viết  cùng ở trong văn phòng quận, nên chiều chiều, các gia đình Nghĩa quân trong khu gia binh thường đến chơi và xem truyền hình cùng vợ chồng NV. Quen với cảnh sống dưới địa đạo ở quận đường Đaktô, nhiều đêm  thức trắ́ng bên cạnh các Nghĩa quân người  Thượng và vợ con họ, cùng chống trả  các lần tấn công của  quân chính quy BV,  nay lại  gần gủi với gia đình vợ con  NQ người miền Nam, vợ chồng NV đã hiểu thêm những khó khăn thiếu thốn và những nổi bất hạnh của họ.

 Ở nơi đặc biệt, tái ngộ đàn anh đặc biệt   

  Từ năm 1970, khoá 11 Đốc sự  “dzách lầu” được mùa làm Phó Tỉnh, Phó Thị: Từ Quảng Trị có Bửu Uyển; Thừa Thiên – Huế có Cường Cọp,Thuyết; Quảng Tín có Thiệu; KonTum: Khoa VC, Cường Tồ, Cửu sừng; Thạnh Pleiku; Phước đói, Chức, Phúc, Quang, Cảnh, Phát bấn, Lương cho đến Trần văn Chí,Vĩnh Bình. Tổng cộng là 16 đàn anh ưu tú  giữ chức vụ PTT, được xem là thành công nhất cho đời công chức. Bên cạnh những đàn anh tinh hoa cũng có một mảnh đời đàn anh kém may mắn, đó là anh PVT, cùng K11, người miền Nam.  Ở̉ chung trong ký túc xá, anh T có một cá tính đặc biệt là bất cứ ai khạc nhổ trước mặt anh là anh vung tay đánh ngay. NV cũng đã từng được anh T ra đòn. Sau nhiều năm ra trường mỗi người mỗi nơi, mãi lo với công việc và sự sống còn từng ngày trong cuộc chiến vệ quốc nên khó gặp nhau. Một hôm,  đàn anh T bất thần viếng thăm đàn em. Anh T xuất hiện lúc gần 10 sáng mùa Hè năm 1973 trong bộ quân phục màu vàng đi phép, trên cổ là hai mai vàng, đầu trần tóc dài, mũ nồi vàng  xếp nằ̀m trên cầu vai trái. Mặt xám đen, giọng thều thào. Bất ngờ và sững sốt, NV cảm thương cho đàn anh, tức tốc đứng dậy cầm lấy tay anh và hỏi chuyện. Anh T cho hay là vì bất đồng với viên Đại tá Tỉnh trưởng Chương Thiện, anh đã được trả về Bộ Quốc phòng, nay phục vụ ở Tiểu đoàn ĐPQ  418 Chương Thiện. Anh cần giúp đỡ. NV vội bỏ phong bì 3000 đồng. Sau đó nhân mùa bầu cử, phải đặt thêm một thùng phiếu cho tiểu đoàn tăng phái này,  NV  đã đến thăm Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và gửi gắm đàn anh nhờ Thiếu tá giúp đỡ. Trong một chầu bia, Thiếu tá Đại, TĐT, cho  hay :“Trung uý T như người mất trí, ra quán ăn, ăn xong không trả tiền, chủ quán hỏi thì ông đưa tay chỉ vào cái lon hai mai vàng  và ra khỏi quán. Việc này cứ tái diễn hằ̀ng ngày”. NV không làm sao khác hơn là xin lỗi viên Thiếu tá, sau đó gặp ngay Xã trưởng  xã Thạnh Hòa – Rạch Gòi, nhờ hỏi xem là Trung úy T đã chưa trả tiền quán nào, NV sẽ hoàn trả cho các quán đó. Xã trưởng là chủ nhà máy xay lúa, ông bảo “Để xã lo cho”. Đàn anh Võ Trung  Hải K11, năm xưa cùng phòng  với anh T ở ký túc xá, nay  đang làm  Phó quận Phong Phú, gần Thuận Nhơn có được bạn cũ viếng hay không?

Đồng hồ Longines dỏm đổi Rolex vàng

   Tháng 3/1973,Thiếu Tá TMH, thay TrungTá PT, làm Quận trưởng Thuận Nhơn. Tháng 4/1973 có tân Tỉnh,Thị trưởng mới. tân Quận trưởng, xuất thân Khóa 20 Đà lạt, cùng khóa với người bạn thân HTM, nên Quận trưởng và Phó quận rất tương đắ́c. Một hôm đầu tháng 6/1973, anh Quận trưởng nhờ NVmột việc: anh  tháo chiếc đồng hồ Rolex vàng (mới đổi khẩu P38 ngắ́n nòng, bá nạm bạc của anh cho một anh bạn cùng khóa) đưa cho  NV và vội vàng đeo vào tay cái Longines dỏm của NV. Vô cùng ngạc nhiên, vội hỏi chuyện. Anh cho hay là khoảng 20 phút sau phải trình diện Đại tá Tỉnh trưởng. Ngày hôm sau, với vẽ mặt không vui, anh Quận Trưởng nhờ NV ngày mốt tiếp ĐTTT ở Ấp Thạnh Xuân, xã Thạnh Hòa và Đại táTT sẽ ngủ đêm ở đó, vì anh cáo bệnh. Trước đó, tháng 5/ 1973, NV đã được vị tân Tỉnh trưởng này gọi về trình diện vì “đã  tự ý  hoàn ngân trên 20 triệu tiền trợ cấp nạn nhân chiến tranh có tên trong danh sách, nhưng không có người nhận. Hoàn ngân  mà không  trình qua Tỉnh trưởng, nên đã được Đại tá TT với vẻ mặt đầy giận dữ dạy cho NV một bài học về  quản trị tiền bạc. Tháng 7 năm 1973, vị phó quận cũ, Cao học 4, đã thay thế NV làm phát ngân viên tiền trợ cấp cho nạn nhân chiến cuộc ở xã Tân Bình. Số tiền không ai nhận lên quá con số 20 triệu, anh Phó này đã cùng với ĐTTT chia nhau một mẻ tiền lớn, có thể anh Phó này đã nộp tiền cho Việt cộng. Chừng bốn  tháng sau, vị ĐTTT được trả về Bộ Quốc phòng, mặc dù vào tháng 5 trước đây, khi vào trình diện, NV đã trông thấy lá cờ 1 sao trên bàn của Tỉnh trưởng .

Nơi tử địa gặp thiền sư

 Tháng 7 năm 1972, một chiều nước nổi ngập nền văn phòng quận, mặc bộ bà ba đen ngồi câu cá rô và đuổi rắn, chợt trông xa xa thấy một vị sư dong dỏng cao mặt hiền, mắt sáng, thần từ, chân dép tay nải vàng. Người hỏi “Thưa có phải ông phó ?” “Dạ phải sư”. “Xin ký cho phép hành lễ An vị tượng Bồ Tát Dược Sư Quan Thế Âm ở̉ Thiền viện Dược sư, xã Tân – Bình”. “Dạ Sư cần mấy ngày”. “Dạ ba ngày”.

Nhân dịp có một nghĩa quân vừa mới tử trận, nhà nghèo không thỉnh được sư về làm lễ đã hai ngày rồi, NV ướm lời “xin sư từ bi làm lễ cho gia đình tử sĩ vui lòng”. Vị sư trẻ, bằng tuổi NV, thưa rằng: “Mô Phật”. Thế là sư đi cùng với NV chừng năm phút là đến khu gia binh. Quen với lễ nghi, người vội mở tay nải lấy ra nào chuông nào mõ, khoác áo đại tràng và bắt đầu hành lễ. Tiếng chuông tiếng mõ vang lên, đèn nến sáng, khói hương nghi ngút.  Cha mẹ, vợ và gia đình tử sĩ  nước mắt đầm đìa vì quá xúc động.   NV có dịp lễ bái vong linh người vừa nằ̀m xuống. Cảm kích tâm từ, sau gần hai giờ làm đủ mọi lễ nghi, NV đưa sư xuống ghe xuôi kinh Xà No về xã Tân Bình.  Ngày an vị tượng, NV theo lời mời, đã tham dự  lễ và cùng phát biểu một đôi lời. Khi được hỏi “Cơ duyên nào sư phát tâm?”  Sư  quê ở Kinh Cùng, Tân-Bình  cho hay “Năm 10 tuổi, nhà nghèo, mỗi đêm nhân mùa nước nổi thường giúp cha mẹ, đầu đội đèn khí đá, tay nơm tay dao, theo con nước chém cá, lươn, rùa, cua, ếch đem về cho cha mẹ bán. Một hôm như thường lệ, mãi mê theo con nước, bỗng nghe một tiếng khè, hết hồn chợt nhìn xuống thì nhận ra là bàn chân mặt đang đạp trên cổ con rắ́n hổ mang, thay vì rắn cụp đầu cắn bàn chân theo phản xạ nhưng cái đầu rắn to lớn kia không làm theo bản năng. Trái lại, cậu bé 10 tuổi lại phản ứng tự vệ để cứu nguy cho mình. Một  nhát dao là đầu rắn bay. Cậu bé vừa sợ hãi vừa lo âu, vội mang cá và con rắn hổ về nhà. Sau khi nghe qua câu chuyện, cha cậu bảo rằng: “Con đã chém nhằm con rắn tu. Nếu đạp nhằm con khác thì mạng con khó toàn”. Sau biến cố này, trong đầu cậu bé luôn luôn tự hỏi ” Tại sao mình lại chém chết con rắn tu”. Đi đứng nằm ngồi đều nghe vang vang câu hỏi này. Chờ đến năm 15 tuổi, sau nhiều năm giúp cha mẹ, cậu bé cúi xin phụ mẫu đi tu. Sau nhiều năm theo học cậu bé đã là một Đại Đức, xin về quê nhà lập chùa để hóa độ chúng sinh, Chùa Dược Sư của Đại Đức Thích Huệ Hiền rất khiêm nhượng “mái tranh vách tôn”, nhưng đệ tử rất đông. Sau ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris có  hiệu lực, Sư đã phát tâm tự thiêu để cầu quốc thái dân an. Người viết đã xin sư đừng tự thiêu vì tăng chúng và phật tử đang cần sư, không có vị sư nào khi sinh tiền, chúng sinh đang cần sư giáo hóa lại tự thiêu để lấy xá lợi. Tháng 7 năm 1973, sau khi uống rượu với bạn-Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng ở xã Tân Bình – ai chậm thì được tắm đầu, người viết ra về sau khi bạn đã ngủ say. Trên đường về nhớ sư ghé thăm. Sư  đang tịnh khẩu  để cầu nguyện cho một đại đức đang bịnh. Sư bút đàm “ông Phó thuyết pháp”, người viết: “Say rượu không pháp”. Sư bút đàm: “Rượu là rượu pháp là pháp”, người viết: “uống rượu không Phật.” Sư bút đàm “rượu là rượu Phật là Phật.” Người viết “xin cho mời tăng chúng” . Khi tăng chúng tụ tập đông đủ, tiện thể  có cuốn  “Thiếu Thất lục môn  của Bồ Đề Đạt Ma ” ở trên bàn, người viết nhờ một sư  mở bất cứ trang nào hỏi  thì có câu trả lời.  Khi thuyết pháp xong, sư Huệ Hiền mô Phật cám ơn. Tháng 11 năm 1975, sáu tháng sau khi Việt cộng chiếm Miền Nam, Sư Huệ Hiền cùng toàn thể đệ tử đã ngồi tự thiêu ngay trong chùa Dược sư để phản đối Việt Cộng đàn áp Phật giáo.

 Tổ chức Đảng Dân  chủ và Rượu mềm lòng nhân

   Tháng 3 năm 1973  xăng dầu lên giá. Sau khi kiểm kê cây xăng ngay quận lỵ, kết toán khoảng gần 40.000 đồng phụ trội  theo giá mới, người viết hỏi  chủ :” Số tiền này ông  sẽ giải quyết thế nào? – Thiếu tá Quận trưởng 10,000 đ, ông Phó 10.000 đ, CHT/CSQG 5000đ,Trưởng chi An ninh QĐ 5000đ. Nghĩ đến gia đình binh sĩ, nghĩa quân trong trại gia binh  và dân phố, người viết vội nhờ Chi Thông tin phát loa thông báo cho mọi người đến mua, có trưởng ban kinh tế giám sát: không ai được mua mỗi thứ quá 20 lít.

 Sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực, Tổng Thống Thiệu đã cấp thời ra lịnh cho các Tỉnh Quận  tổ chức đảng Dân Chủ. Tất cả viên chức trong chính quyền ở cấp quận, xã, ấp đều là đảng viên, có bí danh . Người viết hộc tốc xuôi ngược thi hành bất kể ngày đêm cho xong danh sách và ngày ra mắt đảng bộ. Lúc này Việt cộng ám sát, đặt bom nhiều nơi  nên  mỗi chiều trước khi ngủ, người viết đều đi xem xét các cửa văn phòng Quận xem có bị đặt bom không ? Ấp Thạnh Xuân, cách Quận đường  chừng 2 km, Việt cộng tàn sát cả gia đình Phó Ấp cả thảy là 8 người. Một đêm trong tháng 4 /1973,người viết  xuống xã Tân Hòa lấy danh sách. Sau một chầu nhậu với Xã trưởng và Trưởng cuộc CSQG, vào khoảng 11 giờ đêm,  khi  ngồi vào “hobo”Johnson  2 máy thì Trưởng cuộc CSQG vội đưa khẩu M79  và dây đạn. Ông ta dặn ngang kinh 2500 mét thì phải chạy lẹ.  Kinh Xà No nước đang ròng, trăng mờ, gió mát, áo trắng thời sinh viên, tay cầm khẩu phóng lựu M79. Chợt nghe phía bờ trái có tiếng va chạm ở khu mã đá, cứ ngỡ là có người bị bịnh cần cấp cứu, vội kêu chú Nghiệp lái  tàu dừng lại, lấy đèn pin rọi vào và kêu có ai bịnh thì xuống bờ, có tàu  đưa cấp cứu, một mặt thì rọi vào mặt cho trên bờ  nhận diện. Chờ đợi chừng 10 phút không nghe trả lời, chợt nghe tiếng lên đạn. Chú lái tàu la lớn: “Dọt ông Phó”. Hai máy Johnson dọt lẹ, một tràng AK 47 rít qua đầu. Trạm gác NQ ở kinh 2500m vội kêu về Quận. Trăng sáng đẹp và cả hai người đều thoát tử vong. Hobo dừng ngay cầu tàu, đông đảo binh sĩ cùng vợ con đang chờ xem thế nào? Rời hobo, cám ơn tất cả mọi người đã chờ đón và nhớ đừng nói cho vợ con NV. Chợt thấy vợ tay ẳm con thơ ngay trong đám đông.

 Tết Giáp Dần,1974, lệnh của Tỉnh  trưởng không được rời quận. Phong Dinh là một tỉnh lớn rất nhiều quận. Khoảng 11 giờ sáng  ngày mồng một Tết, Đại tá Tỉnh trưởng đi trực thăng thăm quận, ông vui vẽ bắt tay. Nhờ vậy mà NV được đổi sang quận Thuận Trung vì khi thăm quận này không thấy phó quận. Khóa đàn em này đã về Sài gòn ăn Tết. Đêm 14 tháng 12 năm 1974, VC đánh quận Thuận Nhơn.Văn phòng quận tan nát, trưởng ban hành chánh bị bắt, đại uý  trưởng ban 3 chi khu bị tử thương. Thiếu tá  Quận trưởng Ngô văn Sửu bị thương ở mặt, thều thào  tử thủ trong hầm chỉ huy, gọi tướng Lê văn Hưng đang  bay thị sát cho pháo binh bắn phủ đầu vào hầm. Riêng phó Quận Thuận Nhơn – khóa sau, hơn NV  7 tuổi – hàng ngày: sáng 10 giờ từ  thị xã  Cần Thơ xuống Quận, 2 giờ chiều về lại Cần Thơ, nên không mệnh hệ gì.  Chỉ lưu lại trong lòng quân dân cán chính quận Thuận Nhơn  một ấn tượng không mấy  tốt đẹp cho Học viện  QGHC.

Cái uy của đàn anh Phó Tỉnh

   Trong suốt gần 8 năm làm việc, NV có dịp gần gủi hai vị Phó Tỉnh và học được nhiều bài học lý thú. Anh Phạm Gia Định và anh Nguyễn Hữu Dậu cùng K8 Đốc sự. Anh Định thương NV như một người  em, anh Dậu đã làm cho một Trung tá Quận trưởng phải khuất phục. Sau Tết  Giáp dần, NV sang Thuận Trung trình sự vụ lịnh do ĐT/TT Phong Dinh ký, nhưng viên Trung Tá Quận trưởng-gốc BĐQ, từng làm trại trưởng BĐQ Ben Hét ở Đaktô, tỉnh  Kontum –  không chấp nhận. Ông ta muốn lưu giữ anh Phó quận cũ, NV về lại tòa Tỉnh, anh Dậu bảo về lại Thuận Nhơn. Đầu tháng 3/1974, NV sang Thuận Trung thì mối liên hệ giữa trưởng và phó đã không có gì tốt đẹp. Bao nhiêu chi phí của gia đình Trung tá đều do xã Thạnh Phú gánh chịu, không biết các xã khác phụ giúp bao nhiêu. Uỷ viên Tài chánh xã nhiều lần trình sổ sách đều khóc. NV  trình cho anh Dậu. Anh xuống Thuận Trung vào tháng 8 năm 1974. Trung Tá Quận trưởng đã cho một trung đội dàn chào anh. Áo trắng sinh viên với cái mũ xanh rộng vành đi rừng, bước qua hàng quân thật oai vệ. Sau đó anh và Quận trưởng, có NV tháp tùng, ngồi ghe máy ra ngay văn phòng xã Thạnh Phú. Trước mặt Trung tá Quận trưởng và đông đủ Xã trưởng, chủ tịch HĐX,Trưởng cuộc CSQG, thiếu úy  phân chi khu trưởng ở trong sân văn phòng xã, sau khi lướt qua  mục thu chi của ngân sách xã, anh Phó tỉnh hỏi: Sao mục du di kinh phi nhiều quá vậy? Còn hóa đơn thanh toán máy phát điện ở đâu? Không thấy máy phát điện? Ủy viên tài chánh xã ú ớ … Anh ném cuốn ngân sách xã ngay mặt ủy viên tài chánh trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Trung tá Quận trưởng thì mặt tái đi. Liền sau đó anh Phó Tỉnh về Tỉnh ngay, không dự buổi cơm chiều do Quận trưởng thiết đãi .

   Vài giòng ký sự của một kẻ sĩ văn võ đầy đủ trong thời chiến, đã đem hết lý tưởng phục vụ quê hương, bảo vệ danh tiếng của Học viện, không hề biết luồn cúi, có thể sẽ làm mất lòng một số anh chị đồng môn. Xin quý vị niệm tình tha thứ cho. Xưa các cụ dạy “Tam thập nhi lập “ mà kẻ hậu sinh này chưa đầy 29 tuổi khi nước mất.  Cái giá phải trả cho lý tưởng này rất đắt hoặc là vô giá phải không quý Anh Chị?

Tôn Thất Hùng  (ĐS 12)

11 tháng 11 năm 2017. Kỷ niệm 50 năm ra trường.

Views: 411

Đôi Bông Tai

 Trần Bạch Thu

     Dọc đường nhấp nhô xe cộ nối đuôi nhau đang đổ dồn ra xa lộ buổi chiều. Hai bên đường phố rực rỡ ánh đèn màu đủ loại, những dây đèn trang trí chung quanh mái nhà thòng xuống lơ lững nhiều cảnh lạ thật vui mắt. Trên sân nhà nào cũng có hang đá chúa hài đồng, ông già Noel hay vài con nai được quấn đèn chung quanh sáng lóe đang cử động nhấp nháy theo ánh đèn chi chít. Tan sở về mà lòng rộn vui vì trong tay đang cầm một tấm check tiền thưởng cuối năm đủ để mua một món quà như đã hứa với lòng từ nhiều năm trước.

        Lâu nay tôi quen thân với một anh bạn người Mỹ cùng làm ở sở có người chị làm quản lý cho một công ty kinh doanh đồ trang sức hột xoàn kim cương ở thành phố Tustin. Thân lắm, có khi cũng đã gần 10 năm. Hắn thường gọi đùa tôi là Mr. Rice vì ngày nào, tháng nào hay năm nào buổi ăn trưa của tôi cũng là cơm trắng với đồ ăn mặn mang theo từ nhà. Ít khi lắm mới có một bữa trưa góp tiền mua Hamburger McDonald ăn chung mà khoái khẩu nhất vẫn là french fries (khoai tây chiên) chấm ketchup (sốt cà chua). Những lần như thế tôi thường hay nói với hắn là tôi rất ít ăn thịt từ thuở nhỏ vì nhà nghèo, đông anh em và cũng đã có lúc tôi định ăn chay (vegetarian) trường theo mẹ.

        Cả tuần trước Giáng sinh, công việc ở sở không nhiều lắm, mọi người chỉ lo trang trí cây thông Noel lớn ở giữa tiền sảnh, sắp xếp quà tặng lẫn nhau giữa các nhân viên trong không khí nhộn nhịp chờ lãnh tiền thưởng. Tôi cũng lất phất vòng quanh các phòng ban nhưng không để ý nhiều lắm mà chỉ lo dặn đi dặn lại anh bạn người Mỹ thân lâu nay nhờ giới thiệu và cho xin địa chỉ cũng như hẹn giờ với người chị của hắn vào buổi chiều trước khi nghĩ lễ để đến gian hàng của chị ấy. Hắn lộ vẻ ngạc nhiên.

        – Đến đó để làm gì?

        – Mua một đôi bông tai.

        – Thật vậy sao.

        Tôi gật đầu và hơi mĩm cười đắc ý. Lệch chiếc mũ ông già Noel một bên hắn cũng cười và chen chân cùng với mọi người vừa mang quà ra xe vừa luôn miệng Merry Christmas. Merry Christmas… Thật vui.

* * *

        Hồi mới học năm thứ hai ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Sài Gòn tôi được lãnh lương hằng tháng như một công chức ngạch B nên rất dư dã. Do đó tôi thường hay trích 1/3 tiền lương để gởi về cho mẹ giúp gia đình nuôi em. Từ đó về sau tôi vẫn giữ mức trợ giúp như vậy cho tới khi miền Nam sụp đổ. Ba anh em lớn trong gia đình tôi cũng đều phụ mẹ y như vậy. Đứa em kế là Hải quân nên 3, 4 tháng mới lên bờ về nhà một lần. Thói quen khi về đến nhà sau khi đã chi tiêu đủ các khoản ở đơn vị là đưa hết tiền cho mẹ giữ rồi sau đó xin lại xài dần cho đến trước khi đi, mẹ muốn đưa lại bao nhiêu cũng được. Hải quân gì mà hiền vậy. Bạn bẻ ở đơn vị thường hay trêu chọc là “Thầy Tu” nhưng lại dành tiền cho mẹ nhiều nhất. Đứa em thứ hai là Quân Cảnh đóng ờ Sài Gòn, mẹ biết rõ tánh hay ăn xài rất rộng nên mẹ giao cho mỗi một việc là giúp đứa em gái kế đang đi học ở Trường Luật, trả tiền trọ và cơm tháng cho em. Gia đình anh em tôi trai gái 9 người, khi mất nước đứa em út mới 3 tuổi.

        Trong hoàn cảnh gia đình đông anh em như vậy nên mẹ tập cho các con tính tiết kiệm. Thiệt thòi từ nhỏ anh em tôi ít có tham gia vào các thú vui giải trí như đi xem phim hay đua đòi theo bạn. Chỉ ráng học hành cho thật giỏi và anh em trong nhà chơi với nhau thôi ít có đàn đúm ra ngoài. Muốn mua cái gì thì cố gắng dành dụm cho tới khi đủ rồi mới mua. Mẹ không thích mua đồ trả góp hay mua chịu. Nghèo thì nhịn chứ không mượn nợ.

        Cả nhà đều biết mẹ quán xuyến nhiều việc, lo cho mọi người không kể chồng con. Mẹ thương ngoại lắm. Lúc ba còn đi làm, mẹ luôn bàn với ba để trích ít tiền luơng gởi về cho ngoại hằng tháng. Đi đâu, ở đâu mẹ cũng nhớ về Cai Lậy. “Tội nghiệp ngoại già rồi con” anh em tôi nghe câu nầy không biết bao nhiêu lần. Hôm đưa đám bà ngoại, khi chuyển quan tài qua con lạch nhỏ bằng xuồng ba lá, đến giữa dòng xuồng nghiêng sắp lật may nhờ Hai Cầm huy động bà con kịp thời chen vai chịu đỡ và lót thêm chuối cây mới lần lần đưa xuồng qua được tới bờ bên kia. Khi về mẹ nói nếu xuồng lật chắc mẹ chết theo luôn. Từ đó mẹ luôn nhắc đến và lo cho gia đình Hai Cầm như người thân cật ruột trong nhà. Thọ ơn thì phải đền ơn. Đơn giản vậy thôi. Mẹ nói.

        Nhớ hồi Tết Mậu Thân tưởng đâu ba bị bắt chắc chết, mẹ lặn lội về quê ra tận ngoài vàm Long Khánh nhờ bà con bên ngoại cứu giúp. May thật, người làng biết mẹ nên tận tình giúp đỡ, nữa đêm có người mang xuồng đưa ba trốn thoát khỏi vùng xôi đậu do Cộng sản kiểm soát. Từ đó ba bệnh luôn, nghĩ việc và gia cảnh đến hồi túng quẫn. Mẹ bắt đầu bươn chải nuôi chồng con. Được vài năm kịp thời anh em tôi lớn lên học hành tốt nghiệp đi làm. Mẹ mừng lắm, mọi việc bắt đầu ổn định.

        Đời mẹ chỉ có một ước muốn là các con mình trở thành Thầy, Cô giáo là mẹ mãn nguyện. Nhưng mà có được đâu. Con cái lớn lên theo thời cuộc và vận mệnh mỗi đứa làm một nghề khác nhau. Đã vậy mà ba anh con trai lớn, tuổi sấp sỉ 24, 25 rồi đi làm xa mà vẫn chưa có đứa nào nói đến chuyện vợ con gì hết. Mẹ đang lo lắm.

        Chưa làm sui được thì Cộng sản tràn về. Nước lại chảy ngược, mấy đứa em nhỏ phải vất vả vừa học vừa nuôi heo, đan lát may vá thêm để dành tiền phụ giúp mẹ đi thăm nuôi các anh đang cải tạo. Mà một vài năm cho cam, đàng nầy đằng đẳng có người tới năm, mười năm. Chịu sao cho thấu. Cùng cực bán hết nhà cửa tài sản làm vốn mua bán hàng vặt để sống đấp đổi qua ngày.

        Khi tôi về sau gần mười năm dài cải tạo ngoài miền Bắc thì nhà đã trống trước trống sau, cảnh vật xác xơ, tiêu điều. Buồn lắm. Còn sống sót là may rồi con à. Mẹ thường hay nói như vậy để an ủi và khuyên các con ráng chịu đựng trong hoàn cảnh khó khăn đầy ức hiếp. Được nữa năm, lúc tôi còn đang trong vòng quản chế không được cấp giấy phép đi đường nhưng mẹ vẫn quyết định môt mình cùng với cô em gái út ra Kontum làm đám hỏi cho tôi. Đến lúc đó, cả nhà mới hay là trong những năm tôi còn đi làm gởi tiền về hằng tháng, mẹ luôn dành dụm chút ít cho đến khi đủ mua một đôi bông tai hột xoàn để dành cho con cưới vợ sau nầy. Nhà có khó khăn thế nào, bán tất cả nhưng trừ hai món là đôi bông tai và chiếc nhẫn hột xanh mà cô Trâm đã đưa cho tôi đeo, mang theo về Sài Gòn “để nhớ đến em” hồi tháng 3 năm 1975.

        Nát vỏ cũng còn bờ tre. Trong đám hỏi mọi người hết cả họ bên nhà gái và bà con lối xóm ai nấy cũng đều trầm trồ khen ngợi đôi bông tai to sáng và đẹp, nỗi bật chưa từng thấy. Xứng đáng công chờ đợi mười năm. Mẹ rất hãnh diện và vui lắm khi chính tận tay đeo đôi bông tai cho cô Trâm.

        Sau khi mãn hạn quản chế tại địa phương tôi đi ngay ra Kontum để làm đám cưới. Trước khi đi, nhà nghèo lắm, hai mẹ con bàn nhau lấy chiếc nhẫn hột xanh của cô Trâm tặng hồi trước đem ra thợ bạc đánh thành hai chiếc nhẫn cưới để làm lễ trao nhẫn ở nhà thờ.

        Lễ cưới diễn ra tại nhà thờ Tân Hương, Kontum. Giáo dân đông nghẹt. Cha Luca BT. chủ tế và ngoài những nghi thức thông thường trong Lễ cưới. Dịp nầy Cha còn cảm khái nhắc lại tình yêu của cô dâu chú rễ trãi qua bao phong ba bão tố trong hơn 10 năm đã làm sáng danh “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không thể phân chia.” Cảm động vô cùng.

        Khi về nhà đãi tiệc, cô dâu thay áo cưới mặc áo dài đội khánh để ra chào khách, lúc vén tóc lên sửa lại cho ngay tôi ngạc nhiên không thấy em đeo đôi bông tai mà mẹ mang ra Kontum hồi làm đám hỏi. Tôi hỏi đâu rồi. Em ứa nước mắt. Khách đông và lại chắc có điều gì đó bất ổn nên tôi không tiện hỏi tiếp, hai đứa cố gắng vui vẻ ra tiếp khách đang ồn ào, chật cứng đầy ở phòng khách, ngoài sân.

        Xong tiệc cưới, mấy hôm sau trực nhớ tôi hỏi lại về việc đôi bông tai. Em lặng lẽ vô tủ đồ trong buồng mang ra một chiếc hộp nhỏ mở ra còn thấy rõ hai hàng chữ mạ vàng trên nền lụa trắng đã ngã màu, tiệm vàng “H. N.” trên dưới bằng hai thứ tiếng Việt và Hoa. Em nói.

        – Đôi bông tai giả anh à.

        Tôi chết điếng người, mắt dán chặt vào đôi bông tai còn gài cứng trên đáy hộp.

        – Sao em biết.

        Số là sau đám hỏi có người bà con trước năm 75 có tiệm mua bán vàng bạc, hột xoàn kim cương tại chợ Kontum thấy đôi bông tai to và sáng quá nên tò mò sinh nghi bảo em đem ra nhà thử mới biết là hột xoàn giả. Mợ Tư cam đoan với ba má là như vậy.

        – Ba má nói gì.

        – Ba nói để thủng thẳng rồi hỏi lại anh.

        Cả đời ba gắn bó với xứ đạo Tân Hương, Kontum. Đi tu từ năm 10 tuổi. Không được Chúa gọi, ba xuất ra đời và làm Biện nhà thờ suốt nhiều năm. Mỗi khi gặp khó khăn ba đều luôn nguyện dâng hết cho Chúa và thường hay nói là Chúa cho vác Thánh Giá noi gương Ngài nên không phàn nàn gì cả. Phiền muộn sớm tiêu tan.

        Đám cưới xong, mười ngày sau tôi về lại Cai Lậy nôn nóng hỏi mẹ sao vậy. Mẹ bảo là mẹ cũng không biết. Hôm sau hai mẹ con xuống tận làng Nhị Mỹ tìm tới nhà bà chủ tiệm vàng HN. ngày trước. Vừa thấy mẹ con tôi bước vào bà khóc ngay.

        – Dì Năm thương con. Hồi trước con lỡ dại.

        Sau đó nghe kể hoàn cảnh khó khăn hiện nay của gia đình, mẹ tôi thở dài. Khi nhà nước phát động chính sách cải tạo công thương nghiệp ở huyện, chủ tiệm vàng HN. đã tẩu tán tài sản cho người em gái có chồng là thầy giáo để may ra còn giữ được của cải. Nhưng sao đó gia đình người em giựt luôn số tài sản đã gởi và ông chủ tiệm bị bắt đi cải tạo. Được mấy năm, trại cho ra ngoài tự giác chăn dê và hay ra chợ mua thực phẩm về trại cho cán bộ. Một hôm tay còn cầm gậy chăn dê đầu đội nón cời, quần áo rách rưới bám theo xe ra chợ bị ngã xuống đường và qua đời. Cả gia đình tản lạc tứ phương chỉ còn bà chủ tiệm trở về quê trụ lại làm mướn sống trong nghèo nàn khốn khổ.

        Để chuộc lại lỗi lầm, bà chủ tiệm định viết một miếng giấy xác nhận nợ đưa cho mẹ mang ra chợ trao cho người em gái giúp trả dùm. Nhưng mẹ kêu thôi. Người ta đã giựt của cải, tài sản của chị mình rồi thì người dưng còn ăn thua gì. Giờ ai cũng khổ cả làm khó nhau chi. Mẹ bảo thôi và chỉ muốn biết sự thật để khỏi ái náy với gia đình bên sui nhà gái mà thôi.

        Trên đường về đi dọc theo đường Bến Cát, hai mẹ con biết thật là mẹ đã mua lầm đôi bông tai giả nhưng nghĩ lại mọi chuyện cũng hạnh thông, không có gì xui xẻo lắm. Khi có chuyện gì buồn hay khó khăn mẹ im lặng và mắt hay chớp liên hồi là tôi biết mẹ đang niệm Phật. Tự dưng tôi nhớ đến câu ca dao thuộc làu từ nhỏ.

Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm
.”

* * *

        Hằng năm cứ đến ngày Noel tất cả gia đình anh chị em cùng với Ba đi dự Thánh Lễ chung với nhau ở nhà thờ St. Lucy, Long Beach. Sau đó cùng về nhà tôi để ăn tiệc nửa đêm. Mấy năm đầu trên đất Mỹ còn ít người nên ăn xong là quây quần bên cây Noel trong phòng khách để mở quà Giáng Sinh ngay, nhưng sau nầy anh em từ Kontum qua Mỹ đoàn tụ con cháu đông nên năm nào cũng đợi đến sáng hôm sau ngày 25 mới mở quà. Thường thì quà chỉ để vui cho trẻ nhỏ thôi còn người lớn thì cái quần, cái áo ấm hay đôi khi chỉ tấm thẻ gift card là được. Đặc biệt năm nay, giáng sinh năm thứ mười trên nước Mỹ tôi có một món quà cho bà xã được chính tay tôi gói cẩn thận.

        Khi mở gói quà ra là một đôi bông tai hột xoàn Mỹ còn đựng trong hộp mới tinh. Bà xã muốn khóc bèn đưa cho ba xem và nói đỡ.

        – Ba coi thiệt hay giả.

        Ba hơi cảm động, các em tụm quanh yêu cầu tôi đeo vào cho chị và cố làm dáng như đám cưới thật để chụp hình.

        Tối hôm sau tôi gọi điện thoại về cho mẹ, thăm hỏi như mọi khi và cũng cho mẹ biết là tôi đã mua được một đôi bông tai hột xoàn Mỹ. Mẹ hỏi:

        – Con mua bao nhiêu?

        – Cũng bằng với giá má mua đôi bông hồi xưa nhưng nhỏ hơn.

        Tôi nói cho mẹ yên tâm là hột xoàn thiệt mua có giấy chứng nhận đàng hoàng và do người quen giúp. Trò chuyện vui một chút rồi thì cũng tới điệp khúc quen thuộc.

        – Chừng nào con về ? … đặng cho má coi hột xoàn Mỹ ra sao.

        Tôi nợ mẹ câu hỏi nầy không biết bao giờ mới trả đủ. Lần lửa tôi về không kịp. Mẹ mất.

        Trước đây mẹ luôn ám ảnh bởi cảnh xuồng nghiêng sắp lật hồi đưa ngoại về đất nhà chôn cất nên mẹ muốn sau khi mất được nằm gần bên cố ngoại trên đất chùa, miếng đất mà cố ngoại đã hiến tặng để cất chùa hồi mấy trăm năm về trước ở dưới chân cầu. Hòa thượng trụ trì đã làm phép an táng mộ phần cho mẹ trên khoảnh đất nhỏ vừa đủ để đặt cổ quan tài ở chính giữa gò bên cạnh mộ cố tổ ông bà.

        Hôm ra viếng mẹ lần cuối trước khi về Mỹ tôi lấy khăn lau mộ bia. Tần ngần hồi lâu, chợt nhớ đến ước muốn lần sau cùng của mẹ qua điện thoại tôi khóc thầm. Giả thiệt gì rồi cũng đều là vô thường. Má ơi.

        Gió sông cầu đúc thổi chiều về hơi mát dịu. Tôi ngước nhìn ảnh mẹ đang cười trên mộ bia mà trong lòng yên ắng trở lại rồi quay đi.

 Trần Bạch Thu

Views: 416