Thư Gửi Bạn Hiền Đỗ Tiến Đức Nhân Đọc “Tập Truyện Nguyệt Thực”

Nguyễn đắc Điều

Ông,
Tôi mới vừa đọc xong tập truyện ngắn Nguyệt thực của ông. Nói một cách công tâm, ông chọn truyện và xếp thứ tự các truyện trong tuyển tập này rất tinh tế, khá “bài bản”.

Truyện Hậu Trường như là kéo cánh màn nhung một rạp hát để giới thiệu tổng quát cuộc đời mà mỗi người được thủ một vai diễn trong hý trường. Ông viết ra những cuộc đời tiêu biểu qua đời sống thực của các nhân vật, có nhiều sự thực mà chính tôi cũng không tưởng tượng là có thể xảy ra trên cõi đời này. Nhưng ông lại cho đó chỉ mới là một phần của sự thật và tất cả các sự thật trên đời này đã bị che phủ bởi nguyệt thực. Không biết có phải đó là lý do mà ông đã xếp truyện Nguyệt Thực vào phần chót để “đóng màn nhung” cho tập truyện, và cũng để nhấn mạnh những sự kiện độc giả đã đọc qua các truyện trước, cho dù có “ghê gớm ngoài luồng” đến đâu thì mới chỉ là một phần của sự thật Hậu Trường đời thường.
Cho nên thú thật với ông, khi đọc tôi thấy tình đời sao mà thảm quá!!!, Tuy nhiên nhiều lúc cũng thấy “đã quá” ấy chứ!!!

Hậu Trường là câu chuyện vượt biên và định cư của diễn viên cải lương Vĩnh Hảo đã “có duyên” sống chung tại trại tỵ nạn Bidong cùng với bà Hòa và người con gái 14 tuổi tên Tâm. Bà Hòa chết vì đẻ khó trong điều kiện thiếu phương tiện y tế của trại tỵ nạn, nhưng nguyên nhân chính là tham nhũng. Trong khi chung sống tại trại tỵ nạn một tình cảm luyến ái đã xẩy ra giữa kép Vĩnh Hảo và bà Hòa và sau đó là tình phụ tử của diễn viên cải lương Vĩnh Hảo với cô Tâm. Trên đất tạm dung, ban ngày kép Vĩnh Hảo và cô Tâm sống trên danh nghĩa là bố con cùng nhau đi hát cải lương để kiếm sống đồng thời có cơ hội bộc lộ tình cảm luyến ái qua các trích đoạn cải lương Lương Sơn Bá –Chúc Anh Đài hay Chuyện tình Lan và Điệp; nhưng ban đêm, cô Tâm đã chủ động thủ vai người tình “quậy phá” kép Vĩnh Hảo. Ngược lại, kép Vĩnh Hảo cũng phải đóng vai “người hùng” nửa đường phải quay ngựa trở về để giữ được lời hứa với bà Hòa là sẽ săn sóc cô Tâm như con. Rồi… án mạng xẩy ra. Cô Tâm mang tội giết chồng Mỹ, kép Vĩnh Hảo quay trở về trại Bidong để sống lại với quá khứ và tự tìm lấy cái chết để mong hai linh hồn Vĩnh Hảo và Hòa chung sống an lành trong cuộc đời khác. Nhưng, thay vì đến với cái chết, tình đời cũng lắm chuyện trớ trêu, kép Vĩnh Hảo lại khám phá ra được tình yêu đích thực mà khi mải mê “đóng tuồng” ông đã không phân biệt được giữa Hậu Trường và cuộc đời. Một câu nói của bà Monique Nguyễn: “Cái con ngựa cái đó… à à… em xin lỗi, cái cô con gái đó không ngờ nó chơi ngon quá, phải không anh” đã đưa kép Vĩnh Hảo ngộ ra và tính chuyện quay trở về lại Mỹ.

Đoạn ông viết về cuộc đối thoại giữa ông Thầy sư, bà Monique Nguyễn và ông Vĩnh Hảo về việc trả giá cầu an cho bà Hòa thật tuyệt vời. Không biết ông Thầy đang đóng vai nhà sư hay kép Vĩnh Hảo từ bỏ vai Điệp để đóng vai người thường. Ai là Sư thật, ai là người đóng vai Sư. Thật đúng là Hậu Trường của cuộc đời!!!. Những đoạn đối thoại giữa bà Monique Nguyễn với kép Vĩnh Hỏa rất dí dỏm hài hước.

Gia đình ông vượt biên và đã tạm trú tại trại tỵ nạn Bidong, bà Phương Nga đã sinh cháu gái Phương Đông, mà tôi thường gọi cháu bằng cái tên thân mật Bi-đông, tại đây nên chắc hẳn ông có nhiều kỷ niệm và có lẽ ông đã xử dụng kinh nghiệm sống để làm chất liệu diễn tả mọi góc cạnh sinh hoạt của trại.

Tôi cứ thắc mắc một chi tiết nhỏ ông viết là người ta đã đem các xác chết cuộn trong poncho để dưới sân cờ trong trại gia binh, rồi gọi vợ con tử sĩ ra nhận xác. Thật sự có chuyện thê thảm đến thế sao!!! Trước cảnh tượng đó, làm sao con người còn có tinh thần để mà chiến đấu trong khi hàng ngày phải trông thấy xác chết của tử sĩ, của đồng đội của mình. Nếu đó là sự thật thì không biết các cơ quan Chiến tranh chính trị, Tâm lý chiến làm những công tác gì và ở đâu?

Nói thật lòng khi thấy ông dọn nhà từ Los Angeles xuống Nam Cali tôi cứ thắc mắc làm sao ông bỏ được căn nhà mà ông đã gắn bó có biết bao nhiêu là kỷ niệm của hơn 30 năm qua khi ông từ trại Bidong qua Mỹ: này là khóm hồng, này là dàn hoa thiên lý cho tới hồ sen do chính ông xây “cho nàng rửa chân”, đó chính là nơi ông chụp hình bà Phương Nga để làm bìa cho cuốn truyện “Vầng trăng trong mưa” do Thời Luận ấn hành năm 1993. Căn nhà đó là nơi phát hành Giai phẩm Xuân Thời Luận đầu tiên, mấy năm sau mới tổ chức tại nhà hàng, và cũng là nơi phát giải thưởng thi Viết về nước Mỹ do sáng kiến của ông bố vợ tôi là cụ Đỗ Cường Duy, và cụ đã đưa tặng ông một ngàn mỹ kim để làm giải thưởng. (Sau cách mạng 1963, nhà văn Chu Tử ra báo nào thì bị đóng cửa báo đó nên ông bố vợ tôi đã bỏ tiền để nhà văn Chu Tử ra báo Tiền Tiến sau khi báo Tiền bị đóng cửa. Báo quán đặt tại tư gia số 80 đường Trần Quý Cáp). Nhạc gia cố luật sư Phạm Nam Sách là người trúng giải thưởng cuộc thi viết này. Báo Thời Luận đi tiên phong đặt giải thưởng thi viết về nước Mỹ, nhưng có lẽ vì khởi xướng quá sớm nên chưa “lôi cuốn” được nhiều độc giả hưởng ứng; Việt Báo tổ chức giải thưởng sau lại “thành công”, âu cũng là…”số trời”, ông nhỉ!!!

Làm sao tôi quên được căn nhà đó đã là nơi tụ họp của các bạn Quốc gia Hành chánh khóa 6 và khóa 7, là nơi ông đã giới thiệu thi sĩ Nguyễn Chí Thiện với báo giới Nam Cali, là nơi ông từng tiếp các chính khách, nghệ sĩ quá nhiều nhưng tôi chỉ còn nhớ các cụ Trần Văn Ân, cụ Phạm Đình Liệu, cụ Minh Lý Đỗ Vạn Lý, Luật sư Nguyễn Hữu Thống và Nhà báo Bùi Tín, Đạo diễn Hoàng Thi Thơ, Tài tử Trần Quang lần đầu tới Mỹ, tổ chức ra mắt sách của Nhà văn Duy Lam, của giáo sư Nguyễn Lý Tưởng… cho tới các giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, giáo sư Steve Young mỗi khi tới Nam Cali sinh hoạt.

Ngôi nhà không bao giờ ngớt tiếng cười của đồng môn, tiếng bàn thảo sang sảng của các yếu nhân về những vấn nạn quan trọng của đất nước. Bây giờ ông đã tái định cự tại một nơi được ông mô tả là “hoa chăm cỏ xén lối thẳng cây trồng” nhưng sao có được cái không khí thâm tình của căn nhà West 31 Avenue Los Angeles xưa kia. Nhưng chắc ông hẳn chưa quên lúc Phương Đông và Mai Ly bắt đầu biết đi biết nói cho tới lúc theo ông đi phát báo, rồi đánh máy bài viết của các bác Phạm Nam Sách, Nguyễn Sỹ Hưng, Nguyễn Hữu Thống, Trần Văn Sơn, Nguyễn Huy Hân,…Hồi đó tôi cũng còn làm đại diện báo Thời Luận để giúp ông ra một ấn bản tại San Diego, dễ thường cũng sống được vài năm, ông nhỉ.
Cho nên có những lúc ông ”nhớ nhà châm điếu thuốc” lái xe về thăm lại nơi xưa chốn cũ, còn tôi thì “ Đôi khi khoảnh khắc cũng là thiên thu”, ông ạ.

Nguyệt Thực là một truyện đóng vai “hạ màn” cho tuyển tập có cốt truyện hết sức ly kỳ. Ông kể chuyện của nhân vật Phạm Thắng từ khi di cư vào Nam đi bán báo lấy hoa hồng kiếm sống cho đến khi đi cải tạo, trốn trại rồi sang định cư ở Mỹ. Truyện rất nhiều tình tiết éo le như một cuốn phim trinh thám và cốt truyện rất lạ lùng. Có thể coi Nguyệt Thực như là một loại “Ngàn lẻ một đêm của người Việt tỵ nạn”, nên rất “huyền thoại”. Tôi đọc mà cứ như đọc truyện hoang đường và cứ mơ tưởng mình là nhân vật Phạm Thắng, được ông kể ở ngôi thứ nhất. Ông Hoàng đi trốn trại tù cải tạo cứ như là đi đóng phim kiếm hiệp, không những thế khi đến bến bờ tự do còn được ân ái với cô lái tầu vượt biên.
Định cư tại Mỹ lại được bạn cùng trốn tù, nay trở thành đại gia ở Việt Nam, mang sang Mỹ 3 cô gái trẻ đẹp để cho bạn được quyền lựa chọn 1 cô lấy làm vợ. Chuyện ông kể có nhiều chi tiết thật ly kỳ, lôi cuốn tôi đọc một mạch không ngừng nghỉ.

Ông xếp loại những người đi xe hơi theo hiệu xe, như người làm thương mại phải đi xe W vì như vậy mới làm ăn khá theo chữ “Win”, còn những người chống cộng phải đi xe Audi vì có 4 vòng tròn chữ O tượng trưng cho 4 Không. Thương gia mà đi xe “L” thì chỉ có Loose hay Lost mà thôi. Tôi thấy mấy bô lão đều đi xe KIA, ông ạ!!! Vì các bô lão đó đều đã “chết trong khi hành động” (Kill In Action). Tôi nhớ lại vào đầu thập niên 70 ở Việt Nam, các cô gái thường đi xe Audi vì theo khẩu hiệu “Không học và Không sống ở Việt Nam, Không lấy chồng và Không sinh con”. Khi lấy chồng, các “nàng” đi xe Fiat, có người “diễu” là “For You All Time”, ông nghĩ sao?

Ông cũng nhận xét mấy bà mặc hàng Saint John khi cởi áo ra thì thân thể nhão nhoét, có nước vứt vào thùng rác chứ không như khi lột vỏ trái chuối hư còn có thể ăn ruột được. Sao ông tả “chân” vậy, và tôi thấy tội nghiệp cho mấy bà quá khi bị các đức ông chồng “vắt chanh bỏ vỏ”.

Ông còn cho mấy bà góa chồng thuộc loại pre-owned không thể đi thêm bước nữa nên phải giải quyết bằng cách “tự sướng”. Tôi có một ông bạn, một hôm được bà vợ cho biết sự thật là bà ta thuộc loại pre-owned rồi mới lấy anh bạn tôi. Bạn tôi chết điếng khi nghe vợ nói. Chắc bạn tôi không “lịch lãm” như thiếu úy Chuyên và có lẽ đã tiếc rẻ không dám dùng chiếc áo thung để xem vợ mình còn hay mất trinh. Cuối đời mà được vợ tiết lộ như vậy thì cũng phải “gậm nhấm dĩ vãng” mà “nín thở qua sông” nốt quãng đời còn lại, ông nhỉ. Cô Tuyết Hạnh nói trước khi cưới mà lại hóa ra hay đấy, ông còn phiền trách cái nỗi gì, để đến nỗi ông phải ly dị cô ấy.

Ông có nói với tôi khi mới tập tễnh viết văn hồi còn ở Hà Nội ông đã dùng bút danh Đằng Giao vì mê nhân vật kiếm hiệp này. Đằng Giao không những võ nghệ cao cường, nhưng ông thích nhân vật này nhất vì Đằng Giao… có nhiều vợ đẹp và nhiều người yêu. Sau này khi di cư vào Nam ông đã tặng bút danh này cho anh bạn họa sĩ dùng để ký tên trên những họa phẩm của anh ta. Bây giờ đọc xong tuyển tập Nguyệt Thực tôi mê nhân vật Đỗ Tiến Đức quá!!! Ông có thể cho tôi mượn tên Đỗ Tiến Đức làm bút danh như ông đã “cho” bút danh Đằng Giao, được không?

Có một chi tiết ông viết về “nhân vật tôi” đi bán báo Tự Quyết để có lời 6 xu cho một tờ báo, không ngờ đó là tờ báo chính quyền không ưa nên công an đã bắt giam vào bóp Catinat. Cùng bị bắt giam với ông có người băn văn thân thiết tên là Đặng Trí Hoàn, sau này là nhà thơ Hà Huyền Chi tên tuổi lừng lẫy. Công an đã cho “nhân vật tôi” nếm hết đòn “tầu thủy” lại đến đòn “tầu bay”. Sao công an lại dùng đòn hiểm với giới trẻ thế, tôi tự hỏi không biết những ông chủ báo “người lớn” thì được nếm đòn gì? Thế ra chính quyền Ngô Đình Diệm đã tàn ác với con trẻ từ những năm giữa thập niên 50 rồi, ông nhỉ!!!

Ông,
Bạn bè nhận xét ông thông minh, có đầu óc hài hước và có nhận xét rất tinh tế trong từng chi tiết về mọi việc. Đúng như “bắp”!!!
Tôi dùng chữ của Lôi Tam để gọi ông là “bạn hiền” đấy, ông Lôi Tam bảo, ngày ông trấn nhậm ở Phú Yên trong 4 món “tứ đổ tường”, ông không “chơi” một món nào cả. Nhưng ông đều tham gia với anh em trong mọi cuộc chơi với tư cách là “quan sát viên”. Nửa đêm bạn bè “đốt hết thuốc”, ông đều lái xe gắn máy một mình đi trong đêm lạnh mua thuốc cho anh em hút. Ông không tứ đổ tường, sao ông tả rất rành mạch tình trạng của người nghiện thuốc lá kinh niên đến thế, có phải là do óc quan sát chăng, còn những… chuyện khác thì theo tôi có lẽ ở cái tuổi trên dưới 8 bó ông viết để… “tự sướng” chăng? hay ông viết cũng do quan sát chứ đâu phải là do “kinh nghiệm bản thân”. Nhưng tôi lại “chịu” cách diễn tả của ông, vì đọc văn ông mà cứ như được thưởng thức những “xen diễn” sống động trên màn ảnh trước mặt làm tôi cũng “sướng lây” mà say mê đọc tiếp để theo dõi…”câu chuyện”. Còn các độc giả nam nữ thuộc các lớp tuổi khác thì tôi không biết họ có cùng một xúc cảm như tôi hay không?, hay họ cảm thấy hơi bị “nhột nhạt”?

Ở truyện Hậu Trường ông cho các nhân vật đều phải đóng kịch những diễn tiến của sự việc, còn ở truyện Nguyệt Thực ông cho các nhân vật của ông thể hiện từ suy nghĩ ra hành động theo từng diễn biến tâm lý của mỗi nhân vật trong mỗi hoàn cảnh. Tất cả các truyện đều không có phần kết, ông để cho độc giả tự viết lấy kết luận cho mỗi truyện. Danh từ đương đại gọi là “kết luận mở”. Có lẽ đó là cách dàn dựng câu chuyện rất riêng của ông. Từ kết truyện của cuốn truyện dài được giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc Má Hồng cho đến những truyện trong tập truyện ngắn Nguyệt Thực tôi thấy không hề thay đổi, kể cả phim Yêu khi ông tự viết truyện phim :

Nhà văn Đỗ tiến Đức và Nguyễn đắc Điều chụp trước poster nguyên gốc quảng cáo phim YÊU

-“Tôi bước xuống nhìn chiếc xe ngựa lọc cọc chậm chậm chạy vào thị trấn. Nắng chiều bàng bạc như ánh trăng. Một bụi sim dại bên đường phất phơ hai bông hoa tím tả tơi phơ phất. Tôi nhìn trời sẽ gọi: “Thanh Bình ơi, lại đây với chú” (đoạn kết của Má Hồng)
-“Diễm lảo đảo khuỵu chân. Ngồi ôm thành mộ ủ rũ, yếu đuối. Đạt lùi lại, bước ra con đường nhỏ. Máy di chuyển lên cao. Đạt dừng chân, quay nhìn Diễm một lần nữa. Máy lên cao nữa, Đạt lủi thủi đi giữa nghĩa trang. Máy lên cao khỏi giữa ngọn thông, Đạt chìm khuất dưới đó. Cảnh nghĩa trang mênh mông với những ngôi mộ im lìm” (40 giây chót của Phân cảnh phim truyện Yêu)

Nhiều người cho rằng ra hải ngoại ông làm báo nên văn ông là văn báo. Tôi thấy không hẳn đúng. Văn ông trước sau như một, từ trước 75 cho tới ra hải ngoại. Với cách đọc truyện của “người nhà”, tôi thấy ông không chủ ý muốn gọt rũa từng câu văn như bút pháp của Thạch Lam, mà ông muốn viết theo nguồn cảm hứng tự nhiên, và ông dẫn chuyện bằng những chi tiết cụ thể như những nhà viết phóng sự vì vậy giọng văn của ông có hơi hướm của văn báo. Tôi nghĩ ông không coi trọng nắn nót câu văn từ chương rỗng tếch, mà ông coi trọng thực chất nội dung câu chuyện, là những chi tiết để diễn tả tâm lý nhân vật. Ông viết truyện giống như Nhất Linh trong những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn. Chỉ có một điểm khác hẳn Nhất Linh là tất cả những truyện ngắn của ông đều có thể chuyển sang phim nhựa một cách dễ dàng mà nhà đạo diễn không cần phải viết phân cảnh. Tôi thấy không phải ông viết truyện ngắn mà ông viết phân cảnh phim truyện thì đúng hơn. Mà nói cho cùng, trong các bộ môn nghệ thuật ông mê làm… nhà đạo diễn nhất, hơn là làm nhà văn, làm nhà báo, làm nhà thơ, nhưng vì không có đủ điều kiện để thực hiện phim ảnh nên ông đành phải viết truyện ngắn để …“giải khuây”.

Nếu Má Hồng đã được giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc thì Nguyệt Thực sẽ được giải thưởng gì đây? Tôi nghĩ tập truyện ngắn Nguyệt Thực “trưởng thành về nội dung”, “đi sâu vào những tình tiết” hơn Má Hồng nhiều lắm, nên sẽ không có giải thưởng nào xứng với Nguyệt Thực cả. Nếu có giải, thì là “Giải thưởng Đỗ Tiến Đức” cho tập “Truyện Ngắn Rất Đỗ Tiến Đức” là tập truyện ngắn Nguyệt Thực.

Thư đã rất dài nhưng vẫn chưa nói hết ý nên tôi sẽ text message thêm cho ông nhé. Chúc sức khỏe bà Phương Nga cùng 2 cháu Phương Đông và Mai Ly.

Nguyễn đắc Điều

Views: 1146

Một Ngày Của Mẹ

Thơ Lê văn Bỉnh

Rain for the Just and the Unjust  (Matthew 5:45)

Dò dẫm cầu trơn trượt

Mấy nhịp dài qua sông

Dưới cầu cuồn cuộn nước

Mẹ không nao núng lòng

 

Trên lưng còng gánh nặng

Mẹ thoăn thoắt đường xa

Cố kiếm chút gạo mắm

Đàn con chờ nơi nhà

 

Sau bữa cơm nửa bụng

Các con xúm học bài

Mẹ vào bếp nấu nướng

Cho gánh hàng ngày mai

 

Nửa đêm mưa tầm tã

Mẹ  vẫn còn lâm râm

Cầu nguyện cho  tất cả

Khắp mọi nơi xa gần

 

Cầu đàn con đói rách

Được no lành ngày mai

Nguyện bao kẻ lầm lạc

Sớm trở về đường ngay

 

Tin sang Mẹ vừa mất

Gánh qua cầu trượt chân

Đêm nay mưa lất phất

Ai cầu nguyện xa gần

 

Lê Văn Bỉnh

Virginia

Views: 55

Kỳ Cảnh

Trần Văn Lương

Dạo:

Vui chân lạc bước trời xa,

Tuy toàn cảnh đẹp, nhưng nhà mình đâu?

Lake Bled- Slovenia 

 

奇 景

遊 行 幸 到 一 奇 方,
夜 靜 星 朝 笑 月 昌.
看 景 心 腸 中 沒 喜,
     鄉.

陳 文 良

 

 

Âm Hán Việt:

 Kỳ Cảnh

Du hành hạnh đáo nhất kỳ phương,

Dạ tĩnh, tinh triều, tiếu nguyệt xương.

Khán cảnh, tâm trường trung một hỷ,

Tựu tri bất thị ngã gia hương.

Trần Văn Lương

 

Dịch nghĩa:

Cảnh Lạ

Rong chơi, may mắn đến một nơi đẹp,

Đêm yên lặng, sao về chầu, mặt trăng cười, sáng rỡ. 

Nhìn cảnh mà trong lòng không chút vui,

Bèn biết ngay rằng (đây) không phải là quê nhà mình.

 

Phỏng dịch thơ:

Cảnh Đẹp

Vui bước lang thang đến một nơi,

Đêm yên, sao trẩy, ánh trăng cười.

Mắt nhìn, dạ rối bời tê tái,

Đâu phải quê nhà đất nước tôi.

Trần Văn Lương

Slovenia, 5/2023

 

 Lời than của Phi Dã Thiền Sư:

Lang thang theo chân người giong ruổi, đến chỗ   tạm dừng chân.

Mắt nhìn cảnh đẹp mà sao trong  lòng không chút gì vui sướng.

Buồn thay, đây là đất nước người chứ nào phải  là quê hương mình!

 Hỡi ơi!

 

 

Views: 66

Duyên Tu

Nguyễn Đắc Điều

“Nụ hoa phát triển” huy hiệu của Trung tâm Hội thảo Quốc gia

“Duyên tu” đây không phải là việc tu hành thành linh mục hay thượng tọa, mà cái duyên của tôi với ngành tu nghiệp và huấn luyện. Trong nền hành chánh của VNCH chúng ta, có lẽ không có ngành nào bạc bẽo bằng ngành huấn luyện, nhưng tôi yêu nó. Suốt đời công chức, lăn đi đâu rồi tôi cũng lăn về chỗ viết bài, giảng dậy, khảo sát về huấn luyện.  Vì thế tôi coi là duyên.

Khởi duyên

Nhằm cải tiến việc quản trị hành chánh tại trung ương cũng như địa phương, từ năm 1968 Chính phủ đã cho tiến hành một dự án huấn luyện qui mô có tên là “Quản trị Hành chánh Căn bản”. Chủ xướng dự án là Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Tổng Nha Công Vụ và Tiến sĩ Jack Von Dornum (International Training Consultant Co.)

Sau Tết Mậu Thân, tôi được gọi tham gia dự án này. Đó là đầu mối duyên huấn luyện của tôi. Lần đầu tiên, một quản đốc tu nghiệp tỉnh Tuyên Đức được ngồi chung với các chức sắc cao cấp và đàn anh trong ngành huấn luyện tại trung ương. Tôi nhớ trong đó có giáo sư Phạm Đình Thắng, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin, Anh Hoàng Giao (khóa 3), Giám Đốc Nha Du Học Bộ QGGD, Chị Nguyễn Thị Bạch (khóa 3), Viện Giám Sát, Anh Nguyễn Minh Ty (Cao Học 1) Ban giảng huấn Học Viện, Đại Tá Cảnh Sát Đàm Trung Mộc, Trung tá Cảnh Sát Lê Thanh Sơn Chánh Sở Huấn Luyện Tổng Nha CS, Ông Nguyễn Ngọc Nê, thuộc Usaid.
Khóa hội thảo được tổ chức tại Học viện Quốc gia Hành Chánh
Chúng tôi có hai nhiệm vụ: một, thảo luận để hoàn chỉnh tài liệu giảng huấn (do anh Lê Phú Nhạn và hãng Westinghouse biên soạn). Hai, chính chúng tôi tiếp nhận một số kỹ thuật huấn luyện mới. Cấp trên nhắm là chúng tôi sẽ trở thành giảng viên hoặc quản trị viên cho dự án tại địa phương cũng như trung ương.
Nhưng sau khóa học, tôi nhận được lệnh gọi tái ngũ. Giáo sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông, gọi tôi lên văn phòng ngỏ ý muốn xin hoãn dịch cho tôi để tôi tiếp tục tham gia dự án. Tôi cám ơn đề nghị của Giáo sư Viện Trưởng và xin được nhập ngũ. Tôi nghĩ đằng nào cũng phải đi lính thì đi sớm còn hơn đi trễ. Kỷ niệm sau cùng với Giáo sư là cái bắt tay trước thềm Học viện. Chưa có bàn tay ai mềm mại như tay Giáo sư Bông.
Mối duyên tạm gián đoạn ở đây, cho tới khi tôi được lệnh biệt phái về Bộ Nội Vụ.

Chuyên viên huấn luyện Bộ Nội vụ

Vào Trung Tâm 3 Tuyển mộ nhập ngũ Quang trung, tôi lần lượt gặp các anh Bùi vân Cao,Võ văn Hoàn, Trần Hồng, Nguyễn ngọc Liên, Nguyễn đại Thành, Trần minh Giao và Lê vũ Tạo. Sau một thời gian nằm chờ đợi, Bộ Quốc Phòng quyết định biệt phái chúng tôi về Bộ Nội Vụ để làm Phó Quận Trưởng.
Tại Bộ Nội Vụ, tôi đang chờ sự vụ lệnh biệt phái thì gặp Ông Nguyễn Ngọc Nê. Tôi có duyên với ông vì khi tôi làm Quản đốc Tu nghiệp tại Tuyên Đức, ông đã cùng một cố vấn Mỹ lên quan sát công tác huấn luyện, và tôi đã hướng dẫn hai ông đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong tỉnh.
Ông Nê kéo tôi lại bảo ông đang cần một tay… như Điều!
Số là bên Usaid cấp cho Bộ Nội Vụ một ngân khoản lớn để huấn luyện viên chức xã ấp trong chương trình tấn công bình định thuộc chiến dịch Phượng Hoàng. Ngân khoản sắp hết hạn, phải làm gấp. Xét không có nhân sự viết tài liệu huấn luyện trong thời gian cấp bách như vậy, Bộ Nội Vụ chê tiền!
Ông Nê trình với Ông Tổng Thư Ký Trần Hữu Đức xin giữ tôi tại Bộ để làm việc này, thay vì trả tôi về Tuyên Đức. Ông TTK Đức chấp thuận, nhưng đòi tôi làm đơn xin. Tôi thì ngang, tuy gặp đúng việc mình thích, cũng không thích xin, ai đẩy thì tôi lăn thôi. Sau ông Nê lobby đâu đó mà sự vụ lệnh giữ tôi lại Bộ “vì lý do công vụ” (tôi tránh được ba chữ “theo đơn xin”). Chức vụ: chuyên viên huấn luyện thuộc Sở Huấn Luyện, phụ cấp chức vụ “ngang hàng chánh sở”. Lần đầu tiên tôi biết có cái chức như thế.

Soạn thảo tài liệu “Huấn luyện viên chức xã ấp”

Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam và việc tranh thủ nhân tâm, canh tân xã hội ở hạ tầng, tôi thấy cái nhìn của Juspao về công tác huấn luyện viên chức xã ấp, thật là đứng đắn, đúng sách vở. Trong đóng góp lớn của gia đình QGHC vào công trình này, nếu tôi có góp một viên gạch nhỏ nào, cũng là nhờ duyên.
Tôi trình diện Ông Chánh sở Lê Duy Đức (khóa 2) tại trụ sở trên đường Thống Nhất. Ông để tôi làm việc trong một văn phòng rất rộng lớn, nguyên là đại giảng đường huấn luyện, nhưng nay sử dụng như một nhà kho chứa tài liệu.
Với số vốn huấn luyện xã ấp khi còn làm Quản đốc Tu Nghiệp tại 2 tỉnh Quảng Đức và Tuyên Đức cộng thêm 2 tài liệu căn bản của hai huynh trưởng Nguyễn Trung Trương và Trương Văn Nam thuộc khóa Đà-Lạt, tôi tự biên tự diễn ra tài liệu huấn luyện viết theo lối mô tả công việc và cách điều hành (job description và job analysis) cho các chức vụ từ Chủ tịch Xã cho tới từng Ủy viên của Hội đồng Xã. Một vài đề tài tôi viết theo thể huấn luyện mới như diễn tập (role playing), thảo luận nhóm (group discussion), trường hợp điển hình (case study).
Ngoài những đề tài thuộc hành chánh chuyên môn, còn có 4 bài liên quan đến tổ chức an ninh tình báo, thông tin dân vận, kỹ thuật thanh lọc trong màng lưới tình báo. Những đề tài thuộc loại này, tôi dùng tài liệu của Chiến Dịch Phượng Hoàng do Juspao cung cấp. Mỗi bài đều có trợ huấn cụ như các flipchart khổ 100 x 65cm và bảng dàn bài tóm lược.
Để kịp chỉ tiêu, Bộ đã cung cấp cho tôi một dàn thư ký đánh máy giỏi của Bộ để đánh cho nhanh những tài liệu tôi vừa viết xong. Trong số thư ký đánh máy này có Ông Đỗ Trọng Tuyển, sau làm Chủ sự Phòng Nhân viên dưới thời Chánh Sở Nhân viên Nguyễn Quý Thành. Ngoài ra, tôi còn được Bộ Nội vụ tăng phái anh Nguyễn văn Đặng (ĐS 8), từ tỉnh Gò Công đến phụ giúp viết tài liệu với tôi. Khi công tác hoàn tất, anh Đặng được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh trưởng Khánh Hoà dưới thời Trung tá Tỉnh trưởng Lý Bá Phẩm. Khi tỉnh Khánh Hoà thành lập thêm thị xã thì anh Nguyễn văn Đặng giũ chức vụ Phó Thị trưởng Nha Trang và anh Phó Tỉnh trưởng Phú Bổn Nguyễn văn Sanh (ĐS 8) thay thế anh giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng Khánh Hoà.

Chưa bao giờ trong đời công chức tôi được làm việc trong một môi trường độc lập, tự tin và được sự tín nhiệm cùng sự tin cậy lẫn nhau của cấp chỉ huy và các bạn đồng nghiệp như vậy. Tôi hoàn tất công tác trước cả thời gian Ông Nê ước muốn. Tài liệu được Juspao chuyên chở bằng máy bay của Quân đội Mỹ sang in tại Nhật, flipchart được in bằng một thứ giấy đặc biệt nếu dùng băng keo dán, khi bóc không rách giấy. In xong, máy bay quân sự lại chở về ngay. Đây là tài liệu huấn luyện xã ấp, duy nhất được in tại nước ngoài.

Bắt duyên với bằng hữu

Một hôm, tôi dẫn “người duyên nợ” là vợ chưa cưới vào ăn cháo lòng trên đường Hồng Thập Tự. Tôi thấy ba ông Đặng Huyền Thanh (ĐS 7), Đỗ Tiến Đức (ĐS 7), Nguyễn Quốc Thụy (ĐS 5) [hai anh Thụy và Đức vừa mới mãn khóa 1 Cao đẳng Quốc Phòng] ở bàn bên cạnh, toàn đồng môn đồng khóa cả.
Tay bắt mặt mừng xong, Thanh sang nói chuyện riêng với tôi. Chàng than đã bỏ rừng thiêng nước độc Kontum và đi lính rồi, nay được biệt phái, Bộ bắt phải về lại Kontum.Thanh muốn về Bộ hay một tỉnh gạo trắng nước trong nào khác. “Cứ để đấy xem sao” tôi nói với người bạn thân, biệt danh Khủng Long.
Quả là Thanh cũng có duyên tu. Vì đúng lúc đó, ông Nê bên Usaid cần kiểm tra công tác huấn luyện viên chức xã ấp. Tôi ngỏ ý cần thêm nhân sự. Ít ngày sau, Thanh về Bộ trong bộ quân phục trung úy. Tôi dẫn Thanh sang ngồi uống cà phê trên lề đường trước cửa Bộ Xã Hội để ăn mừng.
Sau đó ít lâu, Ông Nê xuất ngoại làm giảng viên tiếng Việt cho quân đội Hoa kỳ tại San Antonio.
Từ đó chúng tôi như cặp bài trùng, đi công tác địa phương, huấn luyện, đều sát cánh trong nhiều năm. Sau khi mất nước, khi Thanh đi tù cải tạo về, sang Mỹ, chúng tôi còn được gần nhau (Thanh làm Tổng Thư Ký khi tôi làm Chủ tịch Tổng Hội CSV/QGHC), cho đến ngày anh qua đời. Nhưng chuyện về duyên tu của Thanh tôi sẽ còn kể tiếp.

Các chuyến đi công tác được mệnh danh “hai chuyên viên huấn luyện và một cố vấn Hoa kỳ” này chỉ là cái cớ để chúng tôi gặp gỡ các Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh, để hâm nóng tình bạn, tình đồng nghiệp, đồng môn. Trong vòng đồng nghiệp lại có một vòng thu hẹp là lòng đam mê – hay là sự tin tưởng ngây thơ – của số ít người cho rằng huấn luyện là bước đầu một cái gì tốt đẹp.
Chúng tôi đi Quảng Nam để gặp Nguyễn Khánh, người cùng làm với Thanh ở Kontum. Chúng tôi đi Quảng Đức gặp Nguyễn Thế Chu. Phạm Gia Định ở Kontum. Nguyễn Ngọc Vỵ ở Darlac. Đặng Huy Túc ở Cà Mau. Nguyễn Hữu Kế ở Ba Xuyên. Đặng Văn Thạnh ở Pleiku. Lên Đà Lạt, tưởng gặp ai, lại là Phạm Gia Định mới chuyển từ Kontum về. Nguyễn Chí Thiệp ở Quảng Nam…
Nhờ đi một vòng lớn như thế, ngoài kinh nghiệm nghề nghiệp, chúng tôi kết bạn tâm giao với một số người mới như Thạnh và Thiệp.
Chuyện vui có thật – chúng tôi kết hợp công vụ với giải trí! Tôi cùng với Thanh áp dụng kỹ thuật giảng huấn để viết 2 tài liệu “Nghệ thuật đánh mã tước” và “Cách đánh tứ sắc khỏi thường”.

Ngoài các chuyến công tác địa phương nói trên, tại trung ương, tôi đã cộng tác với Tổng nha Công vụ  [có anh Giám đốc Nha Huấn luyện Nguyễn Đức Phụng Sơn (ĐS 1) và anh đứng đầu chương trình Lê Phú Nhạn (khoá Đà Lạt)] trong các khoá Quản trị Hành Chánh Căn Bản. Ngoài những lớp cho cấp Chủ sự và Chánh sở, còn có những lớp cho cấp Giám đốc.

Duyên du: Hoa Kỳ và Đài Loan

Ý thức tầm quan trọng của huấn luyện và do hậu thuẫn của các chuyên gia Mỹ, năm 1970 Chính phủ đã cho thành lập một chương trình mệnh danh là “Chương trình Quản đốc Tu nghiệp” (Training Administrators Project). Người thiết kế chương trình là Ross Thomas, nhưng Ban Phối Trí gồm: Tổng Giám Đốc Công Vụ (Chủ tịch) và hai ủy viên là Viện Trưởng Học Viện QGHC và Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ.

Từ trái: Đức, Thanh, Điều, Dr. Dornum, Tâm, Hùng, Cụ Chí (Sacramento, mùa Xuân 1971)

Cán bộ nòng cốt cho chương trình là một nhóm hỗn hợp Việt-Mỹ. Đoàn chuyên viên Việt Nam có ông Lê Duy Đức, Chánh sở Huấn luyện BNV (trưởng đoàn), ông Nguyễn Thượng Chí, Chánh Sở Huấn Luyện Tổng Nha Thuế Vụ, Đặng Huyền Thanh và Nguyễn Đắc Điều thuộc Bộ Nội Vụ, Đặng Mạnh Hùng, Bộ Chiêu Hồi, Ngô Thanh Tâm, Tổng Nha Công Vụ. Phía Hoa Kỳ có Dr Von Dornum thuộc International Training Consultant (ITC) và một đoàn chuyên viên từ Hoa Kỳ qua.

Nhắc đến các tên tuổi trên đây và nhiều nơi khác trong bài này một cách tham lam, không phải tôi không biết có thể làm cho độc giả nhàm chán, nhưng tôi xin lỗi phải nhắc, vì các bạn hay huynh trưởng (đa số cùng trường) là một phần của quãng thời gian vàng son trong đời tôi.

Trước khách sạn Biltmore (LA) chờ đi “du khảo” Từ trái: Điều, Tâm, Thanh, Đức

Phái đoàn đi quan sát công tác huấn luyện tại Hoa Kỳ từ ngày 6 đến 26 tháng 2 năm 1971 và tại Đài Loan từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 3, 1971.

“Đạo diễn” chuyến du hành (Dr. Von Dornum) đã khéo chấm những nơi điển hình nhất về công tác huấn luyện trong lãnh vực công cũng như tư tại Mỹ. Lý thuyết thì có trường Public Administration School (PAS) thuộc USC, nơi chúng tôi phải “đến lớp” mỗi ngày. Ứng dụng chúng tôi phải đi “field trip” nhiều nơi như Tòa Thị Chính Los Angeles, Tòa Thị Chính Pasadena, Trường Huấn Luyện Lính Cứu Hỏa và Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Los Angeles, Trường Huấn Luyện Nhân Viên Disneyland tại Anaheim, Trường USC, địa điểm xây cất trường UCI, Trường Berkeley, Trường Caltech., Nha Nhân Dụng Tiểu Bang California tại Sacramento v.v.

Nhưng chưa chắc mọi nguyên tắc lý thuyết và ứng dụng huấn luyện tại Mỹ thích hợp cho Việt Nam. Vì thế một tuần du khảo Đài Loan có mục đích để chúng tôi học hỏi kinh nghiệm thích nghi các lý thuyết “tân tiến” vào xã hội Á Đông như thế nào.

Trung tâm Hội thảo Quốc gia

Trở về, chúng tôi làm việc tại một cơ sở mới cất trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh, dưới một tấm biển rất oai “Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia”.
Chúng tôi làm việc chung với một đoàn chuyên viên Mỹ gồm Dr Melvin Le Baron, Dr Barbara Pennington, Dr Jack Von Dornum, ông Finn Loginotto và George Eimer, họa sĩ.
Theo kế hoạch vết dầu loang, muốn cải tiến nền huấn luyện nhân viên và công chức cả nước, phải bắt đầu bằng chính các viên chức đang phụ trách việc huấn luyện. Chúng tôi bắt đầu với các Quản đốc Tu nghiệp Tỉnh (ngay từ đầu, dự án đã mang tên “Chương trình Quản đốc Tu nghiệp” là vì vậy).
Họ cần trang bị kiến thức và kỹ năng gì để làm tròn nhiệm vụ? Phái đoàn Việt- Mỹ đã tới khảo sát một vài thí điểm, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nhân thể thăm Trương Minh Nhuệ), tỉnh Thừa Thiên và thảo luận với Giáo Sư Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu tại Viện Đại Học Huế.

Quản đốc Tu nghiệp, từ bạc bẽo tới tự tin

Các vị chỉ huy cao cấp, tuy trước mặt đoàn khảo sát, có cho rằng huấn luyện là dụng cụ quan trọng để gia tăng hiệu năng công vụ, nhưng lại coi nhẹ người phụ trách việc huấn luyện : Quản đốc Tu nghiệp!
Tương tự Thanh tra, Quản đốc TN là chức vụ “ngồi chơi xơi nước”. Còn hẩm hiu hơn Thanh tra, Quản đốc Tu nghiệp có một vai vế rất thấp so với các Trưởng Ty nội ngoại thuộc khác trong Tỉnh. Một người “nói không ai nghe” mà phải giữ nhiệm vụ nói. Đó là một nhiệm vụ bạc bẽo!

Từ những nhận xét trên, Đoàn Chuyên viên Huấn luyện cho rằng song song với vận động quy chế ở cấp cao (có vận động này không, đến nay tôi không biết, tôi chỉ biết người Mỹ rất quan tâm), nhất thời cần nâng uy tín của QĐTN bằng cách nâng cao lòng tự tin và khả năng chuyên môn của họ.
– Họ phải được trang bị các phương pháp huấn luyện: từ cổ điển như “4-steps”, kịch, brainstorming, điều khiển hội nghị, case study v.v. đến tân tiến như participative learning (tham gia học chế), simulation (giả cảnh).
– Họ phải am tường tâm lý nhóm, tâm lý học tập, nghệ thuật khích lệ, kỹ thuật thông đạt, trình độ và nhu cầu của học viên tương lai
– Họ phải biết các phương pháp: xác định nhu cầu và mục tiêu huấn luyện, thiết lập chương trình, soạn bài, các bước giảng dạy cho từng bài, và cuối cùng lượng giá kết quả huấn luyện.
– Quan trọng hơn hết họ cần thay đổi thái độ, theo định nghĩa “Học tập là sự thay đổi tác phong một cách tương đối bền vững, qua sự thay đổi thái độ, kiến thức và kỹ năng” (Định nghĩa này tới nay vẫn không thay đổi trong ngành giáo dục, ngay tại Mỹ và các nước tân tiến).
Trong số những người vững tin vào khả năng thay đổi của huấn luyện, nhiều nhất có lẽ là Đặng Huyền Thanh, Nguyễn Đắc Điều, Đặng Mạnh Hùng và Ngô Thanh Tâm. Họ đùa tự gọi nhau là “Bốn chàng ngự lâm pháo thủ”. Họ là cán bộ nòng cốt phụ trách các khóa QĐTN.

Các khóa huấn luyện QĐTN được tổ chức rất chu đáo và khoa học:

– Trước khi về TTHTQG, các QĐTN nhận được một tập hướng dẫn để chuẩn bị trước, như làm thống kê và phỏng vấn thượng cấp và đồng nghiệp.
– Sau đó họ tựu tập về TTHTQG, dành một tuần để hội thảo, học và thử các phương pháp huấn luyện. Trong phương pháp giả cảnh, ban chuyên viên đã mánh lới mời các vị chỉ huy cao cấp và có ảnh hưởng tới “thủ vai” chung với các QĐTN. Kết quả bất ngờ là chính các vị cũng thay đổi thái độ, có cái nhìn khác về công tác huấn luyện và vai trò QĐTN.
– Học viên trở về đơn vị của mình có 2 tháng để thực hiện những điều vừa mới học hỏi và soạn thảo chương trình và tổ chức các khóa huấn luyện. Trong giai đoạn này, QĐTN mời Đoàn Chuyên Viên Huấn Luyện tới địa phương để quan sát kết quả.
– Các học viên sẽ trở về TTHTQG để tham dự khóa học 3 ngày. Các học viên sẽ chia sẻ những kinh nghiệm soạn thảo chương trình huấn luyện, soạn thảo tài liệu huấn luyện, tổ chức khóa học, giải quyết những khó khăn trở ngại với cấp chỉ huy hay với cấp ngang hàng.

Khi tị nạn tại Mỹ, tôi may mắn gặp lại ông Ross Thomas. Như món quà tái ngộ, ông đã tặng tôi cuốn “The Training Administrators Project”, một phúc trình chi tiết về Chương trình Huấn luyện QĐTN. Tôi cảm động vô cùng, vì được đọc lại về một “thời đam mê”, và cũng cảm động vì Ông Thomas còn giữ tập sách như một kỷ vật. Tôi cũng cảm động khi đọc lại những lời phê bình sau của các tham dự viên (được dịch sang tiếng Anh):

Tấm hình khơi mào cho cuộc thảo luận về “Tâm lý nhóm”

– “Đây là khóa Hội thảo đầu tiên tôi tham dự được yểm trợ cả về vật chất lẫn tinh thần.”
– “Một khóa Hội Thảo hoàn hảo; đề nghị các cấp chỉ huy khác phải tham dự.”
– “Các Chuyên Viên Huấn Luyện là những giảng viên ưu tú nhất mà tôi được gặp”
– “Tôi đề nghị các tham dự viên được tính thêm điểm khi xét thăng thưởng hàng năm”.
– “Tôi đề nghị Chính Quyền Trung Ương cần phải quan tâm hơn nữa cho các khóa huấn luyện tương tự trong tương lai.”
– “Tôi cảm thấy thoải mái và dễ chịu khi tham gia thảo luận vì sự nhiệt thành của giảng viên và sự trang bị đầy đủ của Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia.”
– “Giảng viên Thanh lanh lợi tháo vát, giảng viên Tâm nắm vững kỹ thuật sư phạm, giảng viên Hùng người rất nhiều tình cảm còn giảng viên Điều mang đến những sảng khoái cho lớp học.”
– “Lần đầu tiên một khóa học có phương châm hành động, có một huy hiệu rất ý nghĩa.” (xin xem huy hiệu ở đầu bài này)

Vị Quản đốc Tu nghiệp này muốn nói tới phương châm “Tri Hành hợp nhất”. Chúng tôi biết nghề huấn luyện còn nhiều thử thách, và châm ngôn “Tri hành hợp nhất” mà TTHTQG đưa ra còn quá lý tưởng trong bối cảnh chung của Đất Nước, nhưng việc làm của chúng tôi quả được khích lệ.

Duyên mới với biên soạn “Kỹ Thuật Huấn Luyện”

Đặng Huyền Thanh và tôi vừa làm bên Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia nhưng vẫn còn phụ trách công tác huấn luyện bên Bộ Nội Vụ. Nhân có các sinh viên khóa 3 ban Cao học đang thực tập tại Sở Huấn Luyện như Nguyễn Phụng, Thái Văn Khị, Hứa Văn Kiển… chúng tôi đã nhờ những sinh viên này dịch một số tài liệu từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Thanh nhuận sắc những tài liệu này và tôi viết thêm một số đề tài khác để trở thành một cuốn sách, nhan đề “Kỹ Thuật Huấn Luyện”. Tài liệu này được Usaid in thành từng bài một, sau đóng gồm lại thành một tập.

Tôi còn phụ trách một số lớp cho các viên chức Cảnh sát từ Trưởng Ban đến Chủ sự tham dự khóa “Quản Trị HC Căn Bản” và khóa huấn luyện “ Thuế ĐiềnThổ ”do chuyên viên Tài Thâu Nguyễn Quí Thành soạn thảo cho các Trưởng Ty HC tổ chức tại Sở Huấn Luyện Bộ Nội Vụ.
Khi hai anh Lê Quan Diêm và Trần Công Hàm về Nha Hành Chánh Địa Phương dưới quyền Ông Giám Đốc Lê Văn Để (khóa Đà Lạt) thì Thanh và tôi được chuyển thành Chuyên Viên Hành Chánh Địa Phương cùng với hai anh. Tuy vậy, Thanh và tôi vẫn còn tiếp tục kiêm nhiệm phần vụ chuyên viên Huấn Luyện. Trong thời gian này bốn CV/HCĐP lo soạn dự thảo Luật cải tổ cơ cấu tổ chức Tỉnh, Thị Xã và Thành Phố và dự thảo Luật tổ chức bầu cử Quốc Hội.
Ông Giám Đốc Lê Văn Để thường phải ra thuyết trình tại Trung Tâm Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn của Trung Tá Nguyễn Bé ở Vũng Tàu vào cuối tuần. Mỗi lần đi thuyết trình Ông Giám Đốc Để thường dùng Thanh làm tài xế lái xe jeep, Hàm và tôi đi cùng để đủ tay đánh mà chược khi ngủ qua đêm tại biệt thự Anh Đào Vũng Tàu.


Một lần, Ông Giám Đốc Để bị Thủ Tướng gọi về gấp để trình bày hệ thống thiết lập danh sách cử tri mới bằng điện toán. Tôi phải thay thế Ông Giám Đốc thuyết trình tại Trung Tâm CB/XDNT. Đây là đề tài tôi soạn thảo cho Ông Giám Đốc nên đã nắm vững từng chi tiết.
Như thường lệ, trước khi chấm dứt, tôi hỏi có ai thắc mắc gì không. Chỉ có một học viên nêu thắc mắc. Khi nghe xong câu hỏi, tôi thấy học viên này tỏ ra am hiểu đề tài và đặt câu hỏi chỉ cốt “truy” xem tôi có nắm vững đề tài hay không. Trong giờ nghỉ giải lao, tôi tìm hiểu học viên này thì được biết anh là Đào Việt Giang (k9) hiện làm Trưởng Ty Hành Chánh tại Kiến Phong. Cảm phục về sự hiểu biết, tôi hỏi anh có muốn về Bộ không. Anh trả lời cũng có ý định, nhưng chưa phải lúc này. Khi tôi phụ trách khóa “Thuế Điền Thổ”, anh Đào Việt Giang tham dự và lần này, anh ngỏ ý muốn về Bộ vì ở Kiến Phong cũng đã lâu năm rồi. Tôi trình lên Ông Lê Duy Đức, và nhân dịp Sở Huấn Luyện được nâng lên thành Nha Huấn Luyện, Ông Đức đang cần một người làm Chánh Sở. Thanh và tôi chỉ thích làm Chuyên Viên, nên “đùn” cho Giang lãnh một Sở, còn Sở kia Ông Đức đôn một Tham Sự Chủ Sự lên đảm nhiệm.
Tuy Thanh và tôi làm việc rất thoải mái ở Bộ Nội Vụ, nhưng lại thích thú công tác huấn luyện bên Trung Tâm Hội Thảo Quốc Gia, mặt khác Đoàn Chuyên Viên Huấn Luyện “đã bén hơi nhau”, nên chúng tôi muốn tạo một tổ chức thường trực để thỏa cái chí “tu”.

Sự ra đời của Viện Tu Nghiệp Quốc Gia

Với sự thành công vượt bực của Chương trình Huấn Luyện QĐTN, các học viên rất hăng say, các cấp chỉ huy phía VN cũng như bên Usaid rất thích thú lề lối làm việc “không mệt nghỉ”của chúng tôi, ý tưởng thành lập Viện Tu Nghiệp Quốc Gia được nẩy sinh.
Chúng tôi muốn có một cơ quan “hậu Học Viện Quốc Gia Hành Chánh” để Huấn Luyện các viên chức của Chính Phủ về các lãnh vực mà Học Viện chưa có đủ thời gian trang bị kỹ năng cho sinh viên.
Thanh và tôi cặm cụi viết “dự thảo Nghị Định thành lập Viện Tu Nghiệp Quốc Gia”. Một chức vụ mà bốn chuyên viên Huấn Luyện tự vẽ cho mình là chức Cố Vấn Huấn Luyện. Phụ cấp chức vụ ngang hàng Giám Đốc, được hưởng phụ cấp giảng dạy, và được đi ngoại quốc học lấy bằng Master hay Ph. D cho tương đương với Ban Giảng Huấn thuộc Học Viện QGHC. Khi dự thảo Nghị Định trình lên Nha Quản Trị Công Sở, Ông Giám Đốc Vũ Trọng Cảnh đã chấp thuận không sửa chữa, nhưng yêu cầu Thanh và tôi đích thân lên Phủ trình bày trực tiếp với Ông Bộ Trưởng Nguyễn Văn Vàng.
Trong một buổi chiều mưa gió, tôi lái xe Lambretta, Thanh ôm đồ biểu ngồi sau xe từ Nha Huấn Luyện Bộ Nội Vụ lên Phủ Thủ Tướng. Ông Đốc Phủ Sứ sau khi nghe chúng tôi thuyết trình đã chấp thuận toàn bộ Nghị Định. Khi ra về, tôi lại kéo Thanh sang lề đường Bộ Xã Hội nhâm nhi cà phê mừng ngày thành công.
Sau một thời gian thuyết phục, Ông Vũ Trọng Cảnh đồng ý sẽ làm Viện Trưởng đầu tiên của Viện Tu Nghiệp. Ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng cũng viết văn thư xin Bộ Nội Vụ cho Đặng Huyền Thanh và tôi sang làm việc tại Viện Tu Nghiệp. Chúng tôi đều tin chắc 100% là sẽ được chuyển cơ quan vì Ông Lê Công Chất, Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ, là “đàn em” của Đốc Phủ Vàng. Nhưng Bộ Nội Vụ trả lời Phủ Thủ Tướng chỉ chấp thuận cho một trong 2 chúng tôi thuyên chuyển mà thôi. Trong một quán ăn tại Chợ Cũ, chúng tôi ngồi uống bia 33. Tôi thuyết phục Thanh nên sang Viện Tu Nghiệp thay vì tôi. Thanh có đầy đủ khả năng để đứng mũi chịu sào trong việc tổ chức một cơ quan tân lập, còn tôi chỉ có khả năng giảng dạy và viết Nghị Định , hơn nữa tính tôi hơi tình cảm không thích hợp cho việc chỉ huy. Thanh miễn cưỡng, đành phải chấp thuận vì thật ra cũng chẳng có cách nào khác. Ông Vũ Trọng Cảnh an ủi tôi sẽ cố gắng vận động thêm cho đến khi tôi phải qua được Viện Tu Nghiệp mới thôi.

Thời gian trôi nhanh qua công việc. Nhóm nhân sự đầu tiên của Viện Tu Nghiệp tiếp tục lo tổ chức các khóa “Kỹ thuật Huấn Luyện” và “Phân tích viên Quản Trị” cùng một vài khóa học có tính cách chuyên môn phối hợp với các Bộ khác, ngoài Bộ Nội Vụ. Cá nhân tôi, tham gia vào ban giảng huấn của những khóa huấn luyện tổ chức tại Bộ Nội Vụ, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH (Trường Huấn Luyện Tiếp Vận Cao Cấp), hay tại Viện Tu Nghiệp.

Đoàn chuyên viên đã vô cùng hứng khởi làm việc và mang tất cả hoài bão của mình trong công việc, những mong thổi một luồng gió mới vào công tác tu nghiệp và đào tạo. Đồng thời đoàn chuyên viên cũng đưa được một cái nhìn mới về tu nghiệp và trả lại giá trị thật của nó như đã có trong các nước tiên tiến, mở đường cho một “chương” mới trong việc cải tổ hành chánh và công vụ sau này.

Điều nói chuyện với ông Vũ trọng Cảnh (Giám đốc nha Quản trị Công sở, thủ vai Quốc vương Perfecto) đứng cạnh là Thanh và Tâm

Đoạn Duyên

Nhằm khởi đầu cuộc cách mạng hành chánh, cải tổ cơ cấu tổ chức và giản dị hóa thủ tục, tôi được Ông Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ Lê Công Chất chỉ thị soạn thảo một đề án cải tổ việc điều hành Sở Xuất Nhập Di Trú thuộc Bộ. Sau khi trình kết quả cuộc nghiên cứu, Ông Tổng Trưởng đã chỉ định tôi trông coi sở này luôn, một chức vụ tôi hoàn toàn không muốn. Tôi trình bày, tôi chỉ có khả năng nghiên cứu mà không có khả năng điều hành.Nếu Ông Tổng Trưởng nhất quyết, tôi xin Ông Tổng Trưởng bổ nhiệm Ông Chánh Sở Huấn Luyện Đào Việt Giang làm phụ tá cho tôi và được hưởng phụ cấp chức vụ ngang hàng chánh sở.Tôi nghĩ, đòi hỏi “không tưởng” như vậy là một cớ dễ “thoát” nhất, nhưng Ông Tổng Trưởng lại chấp thuận đề nghị của tôi.
Khi biết không thể làm gì khác hơn được nữa, tôi dẫn nhà tôi đến thăm Ông Vũ Trọng Cảnh trong cư xá công chức tại đường Đoàn Thị Điểm để cám ơn Ông cố ý chờ đợi xin tôi qua Viện Tu Nghiệp, nay thì “số phận đã an bài”.
Sau đó Đặng Huyền Thanh được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng Viện Tu nghiệp Quốc gia.

Tiếp Duyên: Libochu

Năm 2003, Đặng Huyền Thanh, Ông Nguyễn Công Hiệu (khóa 2) và tôi đang đi picnic với các bạn QGHC, nghe tin Ngô Thanh Tâm (CH2) và vợ Khánh Hà (CH3) ký sách tại Thư quán Văn Mới, chúng tôi bỏ dở cuộc chơi, tới thăm hai bạn từ Na Uy. Tâm quá cảm động, chỉ thốt được một chữ “LIBOCHU”.

Bốn người làm trong Viện Tu nghiệp QG đều nhớ đây là tên của nhân vật chính trong những đề tài huấn luyện QĐTN. Libochu là ghép tên ba vị trong Ủy ban Phối trí, những vị có ảnh hưởng quyết định trong việc huấn luyện công chức: Ông Tổng giám đốc Công vụ Nguyễn Xuân Liêm, Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Văn Bông và Ông Tổng Thư ký Bộ Nội Vụ Tôn Thất Chước. Trong buổi học giả cảnh (simulation) Libochu (tức QĐTN) có nhiệm vụ thuyết phục “Quốc Vương Perfecto” (do chính các vị trong UBPT thủ vai) cải tiến nền công vụ bằng huấn luyện trong “Vương Quốc Utopiana”. Màn giả cảnh này đã gây ấn tượng sâu sắc cho mọi tham dự viên, kể cả quốc vương giả. Gần 30 năm chưa quên, Libochu thành một câu chào tái ngộ

Giải thích thành phần “nội các”: -Thủ tướng: Thanieu (Đặng Huyền Thanh/ Nguyễn đắc Điều) -Bộ Xã hội: Huchi (Đặng mạnh Hùng-Nguyễn thượng Chí) -Bộ Nội vụ : Finpen (Finn Longigotto-dr Barbara Pennington) -Bộ Cải tiến Thái độ: Leum (dr Le Baron-dr Von Dornum)
-Bộ Quốc phòng: Duclan (Lê duy Đức-Lan “thư ký”). -Bộ Thương mại: Tamers (Ngô thanh Tâm-George Eimers “họa sĩ”) -Quản đốc Tu nghiệp: Libochu (Nguyễn Xuân Liêm-Nguyễn văn Bông-Tôn thất Chước).

Sau bao năm tháng lăn lộn trong ngành hành chánh công quyền, tôi ngộ ra được vài điều. Có những chức vụ, mình không hề mong đợi mà tự nhiên đến một cách tình cờ, dù cương quyết chối từ vẫn cứ “dính”. Nhưng có một chức vụ tôi cố gắng tạo ra, tưởng như chắc chắn nằm trong tầm tay như Cố Vấn Huấn Luyện tại Viện Tu Nghiệp thì chỉ là một giấc mơ.

Mối “giao tình huấn luyện tu nghiệp” là một liên hệ bền chặt vô vị lợi giữa học viên và giảng viên.Những bạn bè thân thiết gắn bó với tôi trong suốt cuộc đời, nhất là quãng đời còn lại đều bắt nguồn từ “duyên tu”. Nhờ Viện Tu Nghiệp Quốc Gia, chúng tôi đã quy tụ được một  số bạn hữu có cùng chí hướng tạo thành một mái nhà êm ấm để tự do thi thố  những  khả năng thường bị “lấn ép” tại các cơ quan khác.

“Viện Tu nghiệp Quốc gia” thu nhỏ tại Little Saigon Từ trái: Nguyễn Xuân Hiệu (ĐS 2), Nguyễn đắc Điều (ĐS 6), Ngô thanh Tâm (CH 2), Bùi Bích Hà (thân hữu), Khánh Hà (CH 3), Thu Thuỷ (trưởng nữ của Tâm/Hà).

Có điều, bốn chàng thời vang bóng ngày xưa, nay chỉ còn lại “ba chàng ngự lâm pháo thủ không gươm”: Ngô Thanh Tâm, Nguyễn Đắc Điều và Đặng Mạnh Hùng.

Nguyễn Đắc Điều

(Viết với sự góp ý của Ngô Thanh Tâm và Đặng Mạnh Hùng)

___________________________________________________________________________

Hậu Libochu

Vào năm 2013, trong số “ba chàng pháo thủ không gươm”, Ngô thanh Tâm được bác sĩ chẩn đoán ung thư tụy tạng. Sau một thời gian mổ và hóa trị, bệnh tình không thuyên giảm, sức khỏe yếu bác sĩ khuyên nên đi du lịch để thay đổi không khí; nhưng sau chuyến đi Nhật Bản về vào đầu năm 2014 sức khỏe của anh càng suy giảm. Nghe được tin xấu, giữa tháng 7-2014, vợ chồng tôi cùng anh chị giáo sư Phạm kế Viêm, cư ngụ tại Paris, tổ chức chuyến đi thăm Ngô thanh Tâm. Anh chị nhà văn Phạm tín An Ninh được anh Tâm ủy thác lo tiếp đón “phái đoàn ủy lạo”. Phút chót, vợ tôi không thể đi cùng chuyến vì chuyện riêng.

Hàng đứng: Ngô thanh Tâm, Nguyễn đắc Điều, Phạm kế Viêm, Phạm tín An Ninh Hàng ngồi: Khánh Hà- Trần Diệu Tâm- chị Thức, vợ PTAN

Trong buổi hội ngộ, Ngô thanh Tâm dù vừa trải qua một cuộc tiểu giải phẫu vào buổi trưa vẫn hào hứng hàn huyên đủ mọi chuyện: từ chuyện Thụ Nhân của viện đại học Đà Lạt với đồng môn nhà văn Trần Diệu Tâm, phu nhân giáo sư Viêm, tới chuyện giảng dạy tại Viện Quốc gia Tu nghiệp với tôi. Kết thúc câu chuyện, anh Tâm đề nghị chúng tôi chụp chung một tấm hình tại vườn sau nhà do chính anh Tâm “đạo diễn” để chụp hình tự động. Không ngờ đó là bức hình ghi dấu lần gặp gỡ cuối cùng vì năm sau, ngày mùng 9 tháng 4 năm 2015,  anh Ngô thanh Tâm đã từ giã vợ con và bạn bè về nước Thiên Đàng.

Nhà tôi rất tiếc đã không đi theo tôi sang thăm anh Tâm kỳ trước nên đúng 3 năm sau, vào tháng 7 năm 2017, dắt theo vợ chồng thứ nam sang Na Uy thăm chị Khánh Hà; và chụp một tấm ảnh ngồi đúng vào chiếc ghế mà anh Tâm đã chụp hình trước đây.

Vợ chồng Nguyễn đắc Điều và vợ chồng thứ nam

Nhân dịp này tôi cũng ghé thăm tượng đài Hoa Biển, tri ân nhân dân Na Uy đã đón tiếp người tỵ nạn cộng sản Việt Nam tới định cư, mà anh Ngô thanh Tâm đã bỏ nhiều công sức trong vai trò Cố vấn của Uỷ ban Xây dựng Tượng đài Thuyền Nhân. Chính vì tấm bảng không ghi được chữ tiếng Anh “communist” vào bảng Tưởng Niệm làm Cộng đồng Người Việt tại Na Uy cho rằng anh Tâm có tinh thần chao đảo. Anh đã ôm niềm “nghi kỵ” này mang sang thế giới bên kia không một lời phản biện.

Hình trái: Tượng đài Hoa Biển Hình phải: Bảng Tưởng Niệm – Ghi chú trên Bảng Tưởng Niệm: “Thank you Norway for the Freedom From Vietnamese boat refugees and their families. Tri ân Na Uy đã cứu giúp chúng tôi đến đất Tự Do. Thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn cộng sản và thân nhân”

Vợ chồng Nguyễn đắc Điều tại Tượng đài Hoa Biển và Bảng Tưởng Niệm (Na Uy)

Tôi đứng ngắm nhìn tấm Tưởng Niệm mà nghe phảng phất đâu đây câu nói ước mơ của anh “Giấc mơ một nước Việt Nam tự do no ấm, có lẽ là giấc mơ duy nhất tan vỡ, bạn nhắm mắt trước khi thấy một tia sáng (văn trích trong “Lệnh triệu ban rồi” tác giả Tâm Thanh).

Ôi những chàng ngự lâm pháo thủ muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ!!!

Nguyễn Đắc Điều

(San Diego, California 14-5-2023)

Views: 1250

Vài Nét Về Khoá 6 Đốc Sự Quốc Gia Hành Chánh

Nguyễn Đắc Điều 

Hàng đứng: Lê văn Thêm, Thái hà Chung, Nguyễn đắc Điều, Trần Ngọc Bình, Hà Ngọc Nghinh, Trần thanh Sử. Hàng ngồi: Nguyễn Vịnh, Nguyễn Ngọc Vỵ, Nguyễn khai Sơn, Trương minh Nhuệ, Trần Nhật Ưng. (Quân trường Đồng Đế-Nha Trang: hình chụp khi thi hành 15 ngày phạt trọng cấm lúc về Học viện nhận bằng Tốt nghiệp “ra trình diện quân trường trễ vì không có máy bay”).

1/-Nhập học và tốt nghiệp:

Khóa 6 nhập học vào tháng 2 năm 1959 gồm có 51 sinh viên trúng tuyển so với 100 sinh viên dự tuyển. Đây là cuộc thi concours d’examen nên có lẽ không đủ số sinh viên có khả năng hội đủ điều kiện để trúng tuyển.

Sinh viên đậu thủ khoa nhập học là Nguyễn mạnh Huyên thi tại trung tâm Huế. Thời tôi học, Học viện tổ chức tuyển sinh tại 2 trung tâm, một tại Sài Gòn và một tại thị xã Huế. Tôi không biết việc tổ chức này khởi đầu và kết thúc vào năm nào. Sau khi thi năm thứ nhất có 17 sinh viên phải xuống học khóa 7, và có 3 sinh viên từ khóa 5 xuống học khóa 6 là Nguyễn văn Tiên, Trần thanh Sử và Nguyễn hữu Các. Tháng 1 năm 1962 có 36 sinh viên tốt nghiệp gồm 21 ban Hành Chánh và 15 ban Kinh Tài, trong số đó có 3 sinh viên gốc công chức, anh Nguyễn hữu Các không tốt nghiệp.

-Ngoài anh Nguyễn Ngọc Châu, sinh viên công chức, các sinh viên tốt nghiệp ban Hành Chánh xếp theo thứ tự như sau: Triệu Huỳnh Võ (thủ khoa), Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn minh Quân, Nguyễn đắc Điều, Phạm Đức Nhuận, Lê minh Quang, Nguyễn văn Tiên, Trương minh Nhuệ, Nguyễn văn Đức, Nguyễn văn Quí, Nguyễn trọng Can, Đoàn Nghĩa, Ngô Đức Lưu, Nguyễn thành Long, Lê văn Thêm, Nguyễn thành Nhơn, Nguyễn văn Nho, Nguyễn công Khanh, Trần thanh Sử, Nguyễn khai Sơn.

Hàng 3: Quang, Điều, Sử, Trần Huỳnh Thanh, Nho (đeo kính đen), Nguyễn công Khanh (áo ca rô).  Hàng 2: Các, Trực, Quí, Triệu Huỳnh Võ, Đức, Nguyễn khai Sơn (đeo kính trắng). Hàng đầu: Thêm, Quân, Ngô Đức Lưu (đeo tang trước ngực), Đoàn Nghĩa, giáo sư Nguyễn quang Quýnh, Tiêu Ngọc Ninh, Lâm văn Mẫn, Trương minh Nhuệ. (Hình chụp trước thềm Học viện QGHC 4 Alexandre de Rhodes)

-Ban Kinh Tài ngoài hai anh sinh viên công chức Trương quang Sáng (thủ khoa) và Nguyễn văn Tri, các sinh viên tốt nghiệp theo thứ hạng : Hoàng Ngọc Diệp, Nguyễn Ngọc Vỵ, Bùi Xuân Thích, Nguyễn như Ky, Thái hà Chung, Hà Ngọc Nghinh, Trần Nhật Ưng, Nguyễn văn Thâu, Trần Ngọc Bình, Huỳnh văn Báu, Nguyễn Vịnh, chị Thái thị Minh Nghiêm và Trần công Toàn.

2/-Bổ nhiệm:

Sau khi tốt nghiệp ngoài chị Thái thị Minh Nghiêm được bổ nhiệm riêng, và 17 sinh viên được bổ nhiệm phục vụ tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, số còn lại được gửi ra Đồng Đế (Nha Trang) để thụ huấn quân sự.

Trong lúc phải ôm súng gác đêm hay đi di hành hàng 50,60 cây số khi thì lội suối băng rừng, khi thì đi trên đường tráng nhựa của quốc lộ 1 dưới nắng gay gắt của mùa hè Nha Trang làm lột da chân trong giầy botte de saut, hay đi giây tử thần, hay thực tập những bài học tấn công bắn bằng đạn thật thì không sao tránh khỏi những ghen tỵ với các bạn được bổ nhiệm làm việc trong văn phòng tại Phủ Đặc Uỷ; nhưng sau này trong một bài viết anh Tiêu Ngọc Ninh cho biết các anh được chọn sang Phủ Đặc Uỷ do một tờ trình của Sở Nghiên cứu Chính trị của bác sĩ Trần kim Tuyến thì mới ngộ ra các bạn được tuyển chọn là xứng đáng. (Tờ trình có nội dung trình bày sự tuyển chọn và thủ tục điều tra an ninh kỹ lưỡng về quá trình hoạt động của các đương sự và nó đã được chính Cố vấn Ngô đình Nhu đệ trình Tổng thống với bút phê “ Kính bẩm anh: đã duyệt xong và kính đề nghị cho bổ nhiệm”. Cùng thời gian này, tôi chợt nhớ khi trình diện để nhận nhiệm sở mới, nhóm Phó Đốc sự khóa 6 chúng tôi được vị Đặc Uỷ trưởng đầu tiên là Đại tá Nguyễn văn Y tiếp kiến và thân mật cho biết: “Các bạn là những viên ngọc quí được Thượng Cấp tuyển chọn về đây phục vụ… [Trích bài viết “Những chuyện ít ai biết” của tác giả Tiêu Ngọc Ninh trong Đặc san Nửa Thế Kỷ Hội Ngộ].)

Nghị Định khóa 6 QGHC tốt nghiệp Đồng Đế

18 sinh viên được theo học khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế-Nha Trang có biệt danh “Lò luyện thép” hay “Trường Đồng Đế đánh giầy cả đế” dưới quyền chỉ huy của Đại tá Đỗ Cao Trí.  Sau khóa học chỉ có 13 người tốt nghiệp Chuẩn úy xếp theo thứ tự : Nguyễn Ngọc Vỵ (thủ khoa), Thái hà Chung, Lê văn Thêm, Nguyễn Vịnh, Nguyễn đắc Điều, Nguyễn công Khanh, Nguyễn văn Tiên, Nguyễn khai Sơn, Trần thanh Sử, Hà Ngọc Nghinh, Trương minh Nhuệ, Nguyễn văn Nho vàTrần Nhật Ưng. Hai anh Ngô Đức Lưu và Nguyễn trọng Can không đủ sức khỏe: anh Lưu được trả về bộ Nội Vụ từ đầu khóa học nhưng anh Can bị quân trường giữ lại cho đến hết khóa. Các anh Trần Ngọc Bình, Trần công Toàn và Phạm Đức Nhuận không tốt nghiệp khóa quân sự Đồng Đế.

Sau khi tốt nghiệp khóa Đồng Đế vào tháng 12 năm 1962, các sinh viên ban Kinh Tài được bổ nhiệm làm Trưởng ty Thanh Niên thuộc Tổng Nha Thanh Niên gồm có: Nguyễn Ngọc Vỵ (Bình Định), Trần Nhật Ưng (Pleiku), Thái hà Chung (Đà Lạt), Nguyễn Vịnh (Bình Thuận), Hà Ngọc Nghinh (?).

Hàng đứng: Nguyễn minh Quân, Lê văn Thêm, Nguyễn văn Đức, Tiêu Ngọc Ninh, Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn văn Quí (Dân biểu), Điều, Lê bỉnh Trực. Hàng ngồi: Nguyễn văn Nho, Đoàn Nghĩa, Nguyễn thành Long, Trần thanh Sử, Lê minh Quang, Lâm văn Mẫn. (Đi thăm Ký Nhi Viện- Khánh Hội).

Riêng sinh viên ban Hành Chánh được bổ nhiệm tại bộ Nội Vụ như sau: Nguyễn đắc Điều (Quảng Đức), Lê văn Thêm (Chương Thiện), Nguyễn văn Tiên (Phú Bổn), Trần thanh Sử (Long Khánh), Trương minh Nhuệ (Gia Định), Nguyễn công Khanh (Kiên Giang), Nguyễn khai Sơn và Phạm đức Nhuận (Phước Long), Nguyễn trọng Can (Phước Tuy), Nguyễn văn Nho (An Xuyên), Trần công Toàn (?); riêng Trần Ngọc Bình bị chậm bổ nhiệm một năm.

3/-Lễ tốt nghiệp:

Theo thông lệ những khoá đàn anh trước thì Lễ tốt nghiệp được ông Viện trưởng dẫn toàn thể sinh viên mặc complet trắng vào trình diện Tổng thống Ngô đình Diệm tại dinh Độc Lập và đồng thời nghe Tổng thống huấn dụ; nhưng kỳ này nhân dịp làm Lễ Khánh thành trụ sở mới của Học viện nên Lễ tốt nghiệp được tổ chức chung cho cả 3 khoá 5,6 ,7 và được diễn ra tại Đại giảng đường toạ lạc tại số 10 đường Trần quốc Toản, dưới quyền chủ toạ của Tổng thống Ngô đình Diệm, ông Cố vấn Ngô đình Nhu, bác sĩ Trần kim Tuyến cùng một số Bộ trưởng. Tất cả mọi sinh viên tốt nghiệp đều mặc complet mầu trắng. Riêng chúng tôi, các sinh viên đang thụ huấn quân sự tại trường Đồng Đế-Nha Trang thì mặc đồ đại lễ cũng mầu trắng. Các anh thủ khoa ban Hành Chánh khóa 5 Tô tiếng Nghĩa, khóa 6 Triệu Huỳnh Võ, khóa 7 Phan công Tâm được đích thân Tổng thống phát văn bằng tốt nghiệp. Đặc biệt nữa là các sinh viên thụ huấn quân sự tại Đồng Đế-Nha Trang lại được Tổng thống Ngô đình Diệm chủ toạ Lễ tốt nghiệp Chuẩn Uý khóa Ấp chiến lược: như vậy chúng tôi vinh dự được Tổng thống chủ toạ lễ tốt nghiệp cả Văn lẫn Võ. Sinh viên sỹ quan thủ khoa Nguyễn ngọc Vỵ được Tổng Thống Ngô đình Diệm trao cung tên để bắn đi bốn phương trời.

4/-Nhân vật nổi trội:

-Về ban Hành Chánh có:

*anh Triệu Huỳnh Võ từng giữ nhiều chức vụ Phụ tá Bộ Trưởng và Phụ tá Tổng trưởng;

*anh Lê văn Thêm giữ nhiều chức vụ Phó Tỉnh trưởng HC tại miền Tây, sau anh đắc cử do Hạ nghị viện bầu làm Giám sát viên của Viện Giám Sát.

*anh Phạm Đức Nhuận đã đỗ Thủ khoa năm thứ nhất Luật khoa và có bài viết đăng trong Nguyệt san Quê Hương là tập san chỉ đăng bài của các giáo sư Đại học Luật khoa.

*anh Nguyễn văn Quí đã đắc cử Dân biểu nhiều nhiệm kỳ tại đơn vị Hậu Nghĩa.

*anh Trần thanh Sử nổi tiếng là đẹp trai “đàn giỏi hát hay” nên có rất nhiều bóng hồng . Khi nghe được tin anh Sử gặp rắc rối về tình sử trong khi đi tập sự tại tỉnh Phước Tuy, nghiêm trọng đến độ Tỉnh trưởng phải viết báo cáo mật về Học viện, chị Thái thị Minh Nghiêm đã cười nói: “ Trần thanh Sử bị rắc rối là phải, sinh như nghệ, tử ư nghệ mà. [Trích bài viết “Tưởng niệm Đoàn Nghĩa” của tác giả Trần huỳnh Châu trong Đặc san Mùa Thu Nhớ Bạn.]

*anh Nguyễn thành Nhơn, sau khi tốt nghiệp anh làm một thời gian ngắn tại Phủ Đặc Uỷ và tỉnh Chương Thiện, rồi thuyên chuyển phục vụ tại tỉnh Biên Hoà từ Trưởng ty Nội an, Hành chánh, Chánh văn phòng và Phó Tỉnh trưởng cho tới ngày 30 tháng 4-1975. Đi tù Cải tạo từ Nam ra Bắc rồi định cư tại San Jose cùng vợ và 4 con. Anh là một mẫu người công chức gương mẫu, trung thành với lý tưởng quốc gia trước sau như một. Anh đã xuất bản 2 tuyển tập  “Một thời” và “Thao thức” tập hợp những bài viết đã đăng trên báo địa phương và những bài phát biểu trong các buổi biểu tình chống Việt cộng và bè lũ tay sai.

Điều, Nguyễn hữu Các (không tốt nghiệp), Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn minh Quân, Lê bỉnh Trực(Bàng thính viên), Trần thanh Sử, Đoàn Nghĩa (mất tích khi vượt biên), Tiêu Ngọc Ninh, Nguyễn văn Nho, Nguyễn thành Nhơn. (Đi thăm hãng Shell- Nhà Bè)

-Về ban Kinh Tài có:

*anh Nguyễn Ngọc Vỵ là một trong 5 Quận Trưởng dân sự tại tỉnh Bình Định. (Trần dược Vũ, khóa 3, Nguyễn Ngọc Vỵ, khóa 6, Trần Hồng, Trương văn Tuyên và Phạm gia Định cùng khóa 8).

*anh Thái hà Chung làm Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao. (Hồi đó có 3 Phát ngôn viên: Đại tá Lâm đại diện cho bộ Quốc Phòng, Bùi bảo Trúc đại diện bộ Dân Vận, Thái hà Chung đại diện bộ Ngoại Giao tổ chức họp báo tại Trung tâm Báo Chí Quốc gia trên đường Tự Do để giải thích đường lối và chính sách của Chính Phủ cho ký giả trong và ngoài nước).

*anh Nguyễn văn Tri là sinh viên cao tuổi nhất của khoá. Anh có người em ruột là anh Nguyễn văn Nhi tốt nghiệp khoá 4 Đốc sự.

-Giữ chức Phó Tỉnh/Thị Trưởng HC:

Trần Huỳnh Thanh (An Xuyên, Darlac, Phong Dinh, Sa Đéc)

Nguyễn văn Tiên (Phú Bổn, Bình Thuận, Bình Dương)

Trương minh Nhuệ (Long Khánh)

Nguyễn trọng Can (Bình Long, Đà Lạt)

Lê văn Thêm (Chương Thiện, Kiên Giang, Định Tường)

Nguyễn thành Nhơn (Biên Hoà).

Trần thanh Sử (Quảng Đức, Bình Tuy)

Nguyễn khai Sơn (Phước Long)

Nguyễn Ngọc Vỵ (Quảng Đức, Cam Ranh, Darlac).

Bùi Xuân Thích (Bình Định, Quy Nhơn)

Nguyễn Vịnh (Chương Thiện, Phong Dinh).

Hàng đứng: Can, Nho, Khanh, Điều, Quang, Lâm văn Ty (nhân viên HV/QGHC),Nghĩa, Mẫn, Nguyễn Ngọc Châu, Quân, Các, (thân hữu),Thiện (y tá HV/QGHC) cúi đầu ở giữa: Bùi Xuân Thích (ban KT). Hàng ngồi: Quí, Thanh, Nhơn, Trực, Thêm, Nguyễn văn Đức. (Đi thăm Khu Trù mật Vị Thanh-Hoả Lựu)

5/-Những đồng môn quá vãng:

-Ngô Đức Lưu 35 tuổi (7-4-1972, tại Sài Gòn khi đang làm Trưởng ty Tài Chánh-Kiến Phong)

-Đoàn Nghĩa (1978) và Hà Ngọc Nghinh (1979): trên đường vượt biên.

-Thái thị Minh Nghiêm (1988, tại Việt Nam).

-Nguyễn văn Tiên (30-10-2009, tại Canada)

-Lê minh Quang (2005, tại Little Sài Gòn, Nam Cali)

-Trần Huỳnh Thanh (2011, tại Sacramento)

-Nguyễn như Ky (7-2010, tại Texas).

-Thái hà Chung (10-3-2014, tại Little Sài Gòn, Nam Cali).

-Huỳnh văn Báu (2014, tại Canada)

-Trương minh Nhuệ (17-12-2014, tại Đức quốc).

-Nguyễn văn Thâu (? tại Sài Gòn).

-Tiêu ngọc Ninh (6-12-2017, tại Oxnard, Nam Cali).

-Bùi Xuân Thích (31-1-2022, tại Boston).

-Trần thanh Sử (2022, tại Pháp quốc).

-Nguyễn thành Long (18-4-2023, tại Michigan).

-Nguyễn thành Nhơn 85 tuổi (28-4-2023, tại San Jose).

-Nguyễn Văn Tri mất ngày mùng 6 tháng 5 năm 2023 hưởng thọ 96 tuổi tại Sacramento, Bắc Cali

Tính từ người quá vãng đầu tiên 35 tuổi năm 1972 Ngô Đức Lưu đến người quá vãng mới đây 85 tuổi năm 2023 Nguyễn thành Nhơn thì khoảng cách vừa đúng nửa thế kỷ cho cả tuổi thọ lẫn thời gian. Đúng theo ý thơ của Khoa Nghi: “Đứa đã ra đi về cõi trước/ Đứa còn chậm bước xếp hàng sau”. Mà hàng sau của khóa 6 Đốc sự bây giờ ngắn lắm rồi. (Tỷ lệ 18/36).

6/-Trụ sở và Ban giảng huấn:

-khóa 6 học từ ngày khai giảng tới ngày thi mãn khóa tại số 4 đường Alexandre de Rhodes. Khóa 6 là khóa Đốc sự cuối cùng thi tốt nghiệp tại địa chỉ này; và cũng là khóa cuối cùng nhập học vào đầu năm. Các khóa tiếp theo nhập học vào tháng 9 hàng năm.

-ban Giảng huấn gồm các giáo sư cơ hữu của Học viện và các giáo sư thỉnh giảng từ Đại học Luật khoa. Sau đây là danh sách các giáo sư xếp theo vùng miền:

* Giáo sư sinh trưởng tại miền Nam và miền Trung:  Tôn thất Trạch, Cao hữu Đồng, Nguyễn Xuân Khương, Trần ngọc Liên, Trương ngọc Giàu, Trần văn Phò, Trần văn Binh, hai Đốc phủ sứ  có bằng Cử nhân Luật: Lê văn An và Bùi quang Ân, Phan tấn Chức, Châu tiến Khương và Nguyễn tấn Thành (giáo sư đại học Luật khoa).

*Giáo sư sinh trưởng miền Bắc: Vũ quốc Thông, Nghiêm Đằng, Trần văn Đỉnh, Trần văn Kiện, Nguyễn quang Quýnh, Nguyễn mạnh Tư, Vũ Uyển Văn, Lê đình Chân, Nguyễn Lê Giang, Nguyễn cao Hách và Nguyễn Độ (giáo sư đại học Luật khoa).

{Sở dĩ tôi ghi rõ thành phần giáo sư theo vùng miền vì tôi có đọc một bài mới đây nhận xét trước năm 1963 từ Viện trưởng tới lao công tài xế đều là người miền Bắc}.

7/- Lời đồn đoán và Thực tế

2 khóa sinh Nguyễn Đắc Điều và Nguyễn Ngọc Vỵ trình diện Quân trường Đồng Đế-Nha Trang

18 sinh viên tốt nghiệp khóa 6 ĐS được bổ nhiệm đãi lệnh tại Tổng nha Công vụ chờ đi thụ huấn quân sự, không có công việc gì làm chỉ đến tụ tập nghe ngóng tin tức, nên có một bạn tỏ ra “am hiểu tình hình” đưa ra lý do tại sao chúng tôi phải đi học quân sự:”Trong bảng đúc kết kế hoạch Kinh tế Hậu Chiến của phái đoàn Stanley-Vũ quốc Thúc có đưa ra giải pháp dân sự hóa nền hành chánh địa phương bằng cách thay thế các Quận trưởng quân đội bằng các Đốc sự, nhưng các Đốc sự này phải tham dự một khóa huấn luyện quân sự tại một quân trường như Đà Lạt hay Thủ Đức”. Sở dĩ có ý kiến này vì nếu đưa các Quận trưởng đi học hành chánh thì mất nhiều thời gian hơn là đưa các Đốc sự học quân sự. Khi học tại Học viện cứ mỗi năm, vào dịp hè, các nam sinh viên phải theo học lớp quân sự lúc thì tại vườn cao su Phú Thọ, lúc thì tại xa lộ Biên Hoà, lúc thì tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung của chương trình huấn luyện cấp Trung đội trưởng.
Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ làm tờ trình lên Tổng thống Ngô đình Diệm đề nghị chúng tôi theo học khóa 12 Thủ Đức cùng với các sinh viên bị động viên. Tổng thống bút phê trên tờ trình “Gửi tham dự khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế-Nha Trang”. Thế là 18 chúng tôi ra trình diện trường Hạ sĩ quan Đồng Đế-Nha Trang để theo học khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch cùng với hơn 400 khóa sinh hạ sĩ quan được tuyển chọn học khóa này. Lúc tới quân trường chúng tôi mới được sĩ quan cán bộ cho biết, Tổng thống Ngô đình Diệm có ra kinh lý quân trường Đồng Đế vào hè năm 1961; và Chỉ huy trưởng quân trường đã dẫn Tổng thống quan sát các lớp học “Trung đội vượt sông”, “Trung đội tấn công tác xạ với đạn thật không phải đạn mã tử (đạn giả)”, “Kỹ thuật tuột núi”; và khi đoàn xe của Tổng thống di chuyển trên đường thì bắt gặp một trung đội vượt cầu khỉ (cấu tạo bởi 3 sợi dây) đi từ đồi này sang đồi kia. Tổng thống ấn tượng nhất khi chứng kiến cảnh các khóa sinh đi dây tử thần. Khi đó chúng tôi mới biết mục đích của Tổng thống gửi chúng tôi ra Đồng Đế để học tập kinh nghiệm thực hành tác chiến chứ không phải học lý thuyết chỉ huy như tại quân trường Thủ Đức. Tổng thống Ngô đình Diệm đã đến chủ tọa và đặt tên cho khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch là “Ấp chiến lược” cùng tên với khóa 16 tốt nghiệp tại trường Võ bị Đà Lạt và khóa 12 tại trường Võ khoa Thủ Đức mãn khóa cùng năm.

Tượng chiến sĩ VNCH trong tư thế thao diễn nghỉ trên đỉnh núi Hòn Khô do khóa 3 Chuẩn úy Hiện dịch xây dựng theo sáng kiến của Tiểu đoàn phó sinh viên sĩ quan gốc QGHC Thái hà Chung(khóa 6 ĐS). Sau năm 1975, người dân vùng Đồng Đế có loan truyền mấy vần thơ sau : “Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ/ Em nằm xõa tóc đợi chờ ai?”. Hay: “Em nằm đấy, ngàn năm còn xõa tóc/ Ta muôn đời, thao diễn giữa trời mây/ Nghe nhung nhớ, rụng rời trên sườn núi/ Đá núi buồn, trăn trở với cỏ cây”. Rất tiếc tượng người lính VNCH trong tư thế thao diễn nghỉ nay đã bị đập phá, không còn dấu tích gì nữa.

Thế nhưng, sau khi tốt nghiệp khóa 3 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch Đồng Đế, đa số 13 Đốc sự được bổ nhiệm phục vụ tại các tỉnh thuộc loại “rừng thiêng, nước độc”, và chúng tôi cũng không thắc mắc gì về lời đồn đoán dân sự hóa trong kế hoạch” Kinh tế Hậu chiến Stanley-Vũ quốc Thúc”.
Khi Trung tướng Đỗ cao Trí làm Tư lệnh Quân đoàn II kiêm Đại biểu Chính phủ Vùng 2 Chiến thuật đã ra chỉ thị “ Những Đốc sự nào đã tham dự các khóa 3, 3 phụ và 4 Đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế khi giữ chức vụ Phó Quận trưởng được và phải mang cấp bậc Trung úy”. Chỉ có 3 khóa ĐS 6,7 và 8 tham dự các khóa huấn luyện quân sự này trước năm 1963 (Quân trường Đồng Đế tổ chức được có 4 khóa đào tạo Chuẩn úy Hiện dịch).
Cũng trong thời gian Trung tướng Đỗ cao Trí giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II, bộ Nội Vụ có bổ nhiệm 5 ĐS giữ chức vụ Quận trưởng thay thế cho các Quận trưởng quân đội và được mang cấp bậc Trung úy tại tỉnh Bình Định, đó là: anh Trần dược Vũ (khóa 3), Quận trưởng An Túc, anh Nguyễn Ngọc Vỵ (khóa 6), Quận trưởng Bình Khê, anh Trương văn Tuyên (khóa 8), Quận trưởng Hoài Ân, anh Phạm gia Định (khóa 8), Quận trưởng An Nhơn, và anh Trần Hồng (khóa 8) thay thế anh Nguyễn Ngọc Vỵ trong cương vị Quận trưởng Bình Khê. (Anh Trương văn Tuyên đã được đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận trong trận chiến thắng đẩy lui cộng quân đánh trụ sở quận Hoài Ân).
Có phải việc bổ nhiệm các ĐS giữ chức vụ Quận trưởng tại tỉnh Bình Định là sự thử nghiệm thi hành khuyến cáo dân sự hóa nền hành chánh địa phương chăng? Nếu vậy, cũng chỉ là một sự thử nghiệm muộn màng và đoản kỳ có tính cách “cục bộ tượng trưng” cho nên cũng không có ảnh hưởng dây chuyền trong tổng thể nền hành chánh địa phương của Việt Nam Cộng hòa.
Dù các Quận trưởng dân sự này làm việc rất thành công và được bộ Nội Vụ tưởng thưởng cho thuyên chuyển nắm giữ chức vụ cao hơn trong ngành hành chánh như anh Trần dược Vũ làm Phó Thị trưởng thị xã Cam Ranh, anh Nguyễn Ngọc Vỵ làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đức và anh Phạm gia Định làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Kontum nhưng kế hoạch “dân sự hóa Quận trưởng” cũng dần dần chấm dứt. Tất cả các Quận trưởng vẫn do các quân nhân đảm nhiệm như cũ dù tại các Thị xã rất an ninh.
Báo chí thời đó đã gọi nền hành chánh công quyền của nền đệ Nhị Cộng hòa là quân đội trị dưới sự chỉ huy của “đảng kaki”.

8/-Hội ngộ:

Khóa 6 ĐS đã liên kết với khóa 7 và 8 để tổ chức 2 buổi hội ngộ:

-Hội Ngộ 40 năm khóa 6 & 7 ĐS vào ngày 4 và 5 tháng 9 năm 1999 tại Little Sài Gòn.

Bích chương 40 năm Hội ngộ “Trai khôn tìm vợ chợ đông/ Gái khôn kiếm chồng Quốc Gia Hành Chánh”. Trong ngày cuối của buổi Hội ngộ, MC Thái hà Chung đã nói: “Xin cám ơn, lẽ ra nói cám ơn chúng mày nhưng vì có vợ chúng mày nên phải nói cám ơn các anh các chị đã cho nhau một ngày để nhớ”.

-Nửa Thế kỷ Hội ngộ khóa 6 & 7 & 8 tại Little Sài Gòn vào các ngày 25, 26, 27 tháng 9 năm 2009. Nguyễn ngọc Vỵ kết thúc một bài viết bằng nhận xét: “Những ai tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành Chánh là những người suy nghĩ như một ông Hoàng, nhưng phục vụ lại là một đầy tớ”.

Trong hình: Nguyễn thành Nhơn, Nguyễn văn Tri (KT), Triệu Huỳnh Võ, Nguyễn huy Lãng, Nguyễn đắc Điều, Nguyễn văn Nho, Nguyễn văn Phước (KT)

-Đặc san Mùa Thu nhớ bạn xuất bản năm 2010 phối hợp với các khóa Đốc sự 5,6,7 và 8. Đặc san gồm có 33 bài dầy401 trang.

Trước đây Học viện QGHC là nơi đào tạo cán bộ cao cấp cho quốc gia. Khi ngồi trên ghế nhà trường, người sinh viên chỉ học và học với một lý tưởng là bảo vệ tổ quốc và chống cộng. Từ Viện trưởng sáng lập Học viện là Giáo sư Trần Cửu Chấn, tới Giáo sư Vũ quốc Thông, đều là khoa bảng, không đảng phái nên nhờ đó sinh viên từ khi vô tới khi ra trường không bị móc nối vô đảng phái nào. Nhưng đến thời Giáo sư Nguyễn Văn Bông làm Viện trưởng thì tình trạng “trung lập giữa các đảng phái” không còn nữa. Nhiều sinh viên được kết nạp vô đảng của Giáo sư Bông là Phong trào Quốc gia Cấp tiến. Các đảng phái khác thấy thế cũng mở chiến dịch kết nạp trong Học viện. Thành ra không khí Học viện đang bị đảng phái hóa và địa phương hóa. Rất may là 3 khóa 6,7 và 8 của chúng tôi không rơi vào  trường hợp này vì đến khi chúng tôi tốt nghiệp, vẫn còn Giáo sư Vũ Quốc Thông làm Viện trưởng.
[Trích bài viết “Bốn mươi năm” của tác giả Đỗ tiến Đức trong Đặc san Mùa Thu Nhớ Bạn].

9/-Thay cho lời kết:

Khởi đi cho bài viết là nghe được tin buồn 2 đồng song Nguyễn thành Long và Nguyễn thành Nhơn ra đi vào tháng 4 năm 2023, nên tôi tìm những hình ảnh thời sinh viên ra coi lại thì ngộ ra đời sống thật vô thường : “Sắc bất thị không, không bất thị sắc/ Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ngẫm ra đôi khi những học vị, chức tước như là một đám mây che nắng cho ta, hưởng được bóng mát; nhưng đôi khi đám mây đó lại trở thành mưa to gió lớn hay những trận bão cuồng phong lôi cuốn tất cả vợ con và tài sản mà chúng ta trong bao năm mới tạo dựng ra được. Đang loay hoay không biết kết thúc bài viết ra sao, thì ngày mùng 3 tháng 5 năm 2023, tôi nhận được thư của chị Nguyễn thị Ngoan, hiền thê của anh Nguyễn thành Nhơn, chuyển lá thư không ghi ngày của anh Nhơn viết cho tôi nhưng chưa gửi. Nguyên văn lá thư:

Thư Nguyễn thành Nhơn gửi trước khi quá vãng

Điều thân,

Đọc bài DUYÊN TU, cảm thấy thương bạn. Bao nhiêu công phu, kỳ vọng rốt lại hoàn không !. Đó là không phải nói chuyện bây giờ. Ngay cả ngày xưa ấy, e rằng địa phương cũng không đáp ứng lòng mong mỏi cải tiến công vụ của bạn được bao nhiêu. Nhưng bạn cũng đừng trách họ, bởi vì các anh, em cán bộ xã, ấp hồi ấy tất bật trăm công, ngàn việc. Nào là việc làng, việc ấp, nào lo an ninh bản thân, lại còn bươn chải lo sinh kế vì đồng lương đâu có bao nhiêu. Cho nên, “việc làm” đã hết hơi, hết sức làm sao nghĩ đến “việc TU” (nghiệp). Việc đời là như thế, xin bạn chớ buồn. Bằng như vẫn thấy lòng buồn man mác thì cứ gọi TOÀN KHÔNG Đỗ Đăng Tiến gửi cho bài VÔ THƯỜNG đọc chơi là hết chuyện.

Chúc Anh chị và bửu quyến MÙA GIÁNG SINH AN BÌNH.

Thân,

Nhơn”.

Xin mượn lời thư của đồng môn Nguyễn thành Nhơn làm lời kết cho bài viết.

Nguyễn Đắc Điều 

(San Diego, California 5-5-2023)

 

Lời BBT website HCMĐ:

Rất khó và rất hiếm tìm thấy và đọc được những bài viết như bài “Vài Nét về Khóa 6 Đốc Sự QGHC” của anh Nguyễn đắc Điều.

Khó, vì người viết phải có một trí nhớ vượt bậc để có thể nhớ lại được đầy đủ tên tuổi , những chuyện về tốt nghiệp,  nhiệm sở, hay trải nghiệm thăng trầm và những mất mát của những người bạn đồng khóa.

Hiếm, vì người viết còn kèm theo bài viết những tấm hình xưa cũ không thể dễ dàng tìm lại được – với chính xác danh tính của người trong hình và còn nêu rõ tấm hình chụp vào dịp nào.

BBT WEBSITE HCMĐ rất cảm ơn anh Nguyễn Đắc Điều đã cho phép đăng tải bài viết  của anh trên Trang Nhà HCMĐ.

Hy vọng rằng bài viết của anh Nguyễn Đắc  Điều sẽ được tiếp nối bằng những bài viết của quý niên trưởng khác  về nhiều khóa ĐS, CH  hay TS của Học Viện QGHC.

Mong lắm thay!

 

(*) Ghi chú thêm:

Đoạn 7 – “Lời đồn đoán và Thực tế” và hình ảnh trong đoạn này được tác giả Nguyễn đắc Điều bổ túc ngày 27/5/2023

 

 

 

Views: 1124

Nỗi Đau Của Trí Thức Miền Nam Qua Biến Cố 1975: Trường Hợp Gs Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân

Nguyễn Bá Lộc

Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân

Trong tháng trước, tôi có nhận từ người bạn, bài báo với chủ đề “Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL 2020” đăng trên Tập san Người Đô Thị  https://uploads.nguoidothi.net.vn  ngày 18-2-2021, tờ báo nầy phát hành ở VN.Trong Tập san nầy có một bài nói về Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân, có cái tựa “Từ Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu long: Tiếc nuối một con người”. Ở một đoạn khác có câu” GS Nguyễn Duy Xuân có thiện tâm ở lại phục vụ đất nước trong hòa bình”. Và ở một đoạn khác của bài báo đó, có nhận định “ Nếu những người như GS Nguyễn Duy Xuân không bị đối xử quá nghiệt ngã, nếu tài năng của họ được dùng đúng chỗ, đúng tầm sau 1975, liệu ĐBSCL ngày nay có phải đứng trước những thử thách sống còn như trong Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL nói ở trên nhắc tới”.

Các ý trong bài báo nói trên về GS Nguyễn Duy Xuân làm tôi suy nghĩ. Từ một góc độ nào đó, từ một cảm tính nào đó,  tác giả hay bất cứ một người nào đó có thể nói sự “nuối tiếc”, tôi không ý kiến hôm nay. Có một điều nếu không nói ra thì thực là đáng trách. Đó là những nhận xét sai lệch về lập trường quốc gia chơn chánh, về tinh thần phục vụ và hy sinh cao cả chấp nhận hiểm nguy của GS Xuân, cuối cùng ông phải bị nhận cái chết thảm thương trong trại tù CS.

Thứ nữa, GS Nguyễn Duy Xuân là người thầy được các cựu sinh Quốc gia Hành chánh kính trọng, trong đó có tôi. Sau khi ra trường, tôi có nhiều dịp hầu chuyện, học hỏi và hiểu thầy Xuân, nhứt là những ngày cận kề biến cố 1975. Bởi vậy, sau nhiều suy nghĩ, tôi cảm thấy có bổn phận giải bày ở đây một số điều, mà báo ở trên, nhận xét sai GS Xuân về đạo đức chánh trị , cái trách nhiệm của một sĩ phu, và cái chánh nghĩa của đại đa số trí thức miền Nam.

Như vậy câu chuyện được tóm tắt qua hai phần:

  • Về trường hợp GS Nguyễn duy Xuân và
  • Về nỗi đau của trí thức miền Nam, qua biến cố 1975

Thứ nhứt: Trường hợp GS Nguyễn Duy Xuân  

Có mấy điểm xin nêu ra đây (Tôi mạn phép khi kể về câu chuyện GS Nguyễn Duy Xuân, tôi xin nói chút về tôi trong những cơ hội hay tương  quan gữa tôi và thầy, như một xác nhận qua những gì tôi nói là có thật):

GS Xuân là một trí thức chơn chánh và có đạo đức  

Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng như các nhà trí thức có học vị Tiến sĩ miền Nam lúc bấy giờ đã phải khổ công rất lớn trên con đường theo đuổi học vị nầy. Ông tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế ở Pháp, Cao học Kinh tế ở Anh và Tiến sĩ Kinh tế ở Mỹ qua ba giai đoạn không liên tục. Giáo sư tiếp thu được kiến thức rất tốt của đại học tại ba quốc gia hàng đầu về học vấn đại học. Ngoài ra ông đã kết hợp được kinh nghiệm thực tế qua nhiều chức vụ quan trọng, trong các giai đoạn giữa ba chương trình học đại học. Yếu tố đó cộng với đạo đức cá nhân đưa ông đến sự trọng dụng và mến phục. Dù ông ít nói, nhưng lúc nào gặp ông thường đề cập tới trách nhiệm. Ông có cuộc sống khá thanh đạm.

Sự hợp nhứt tri hành của GS thấy được qua các chức vụ và địa vị của ông trong Bộ máy Công quyền hay Giáo sư đại học của giai đoạn đầu xây dựng miền Nam. Ông là một trong rất ít GS ở Học Viện QGHC, lúc đó còn rất ít Tiến sĩ từ Mỹ về. Khóa tôi được ông dạy khi mới về nước. Ngoài ra, sau nầy, cá nhân tôi có một số dịp gặp ông nhiều hơn khi tôi làm Luận văn Cao học mà đề tài là “Tín dụng và Phát triển Kinh tế”, tôi cần tham khảo nội dung luận án Tiến sĩ của GS có chủ đề gần gần như vậy, và được học hỏi kinh nghiệm khi ông làm Tổng giám đốc Quốc gia Nông Tín Cuộc.

GS Xuân có tầm nhìn chiến lược 

Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế, ngoài việc dạy học, GS Xuân còn giữ một số chức vụ quan trọng. Lần lược, Tổng trưởng Kinh tế (1965?), Phụ tá Đặc biệt Thổng Thống (1968) , Viện Trưởng Viện Đại học Cần Thơ (1971) và Tổng trưởng Giáo dục (1975).

Dù ở vị trí và vai trò nào GS luôn tỏ ra có tầm nhìn chiến lược và coi trọng trách nhiệm của một kẽ sĩ dấn thân. Xin kể ra đây một vài trường hợp mà tôi biết .

Khi là Bộ trưởng Kinh tế (khoảng 1965), ông rất chú trọng sự phát triển kinh tế nông nghiệp là nền tảng cho kinh tế tự túc tự cường. Năm 1965, Ông thành lập Nha Thanh Tra Kinh Tế Miền Tây (Đồng bằng sông Cửu long),  trước đó chỉ có Nha Thanh Tra Kinh Tế Miền Trung (Vùng I), và Nha Kinh Tế Cao Nguyên Trung Phần (Vùng II). Tới 1974 các Nha nầy được đổi tên thành Nha Phối Hợp Kinh Tế Địa Phương (cấp vùng). Tôi phụ trách Nha Kinh Tế nầy từ 1968 đến 1975. Cũng như khi làm Tổng Giám đốc Quốc gia Nông tín cuộc trước đó, (khoảng 1958), ông mở rộng các Ty Nông tín cuộc khắp miền Nam.

Về phương diện kinh tế, GS Xuân là người đứng ra thành lập Hội kinh tế VN đầu tiên, gồm một số Tiến sĩ, một số chuyên gia, chuyên viên kinh tế, và Hội ra mắt vào khoảng 1970 .

Khi GS làm Viện trưởng Viện Đại học Cần thơ (vào khoảng 1972), tôi có dịp gặp GS nhiều hơn, học hỏi ở GS nhiều hơn, vì lúc đó tôi còn đang phụ trách Nha Thanh tra kinh tế/ Nha Phối hợp kinh tế Vùng IV. Và đồng thời tôi là Giảng viên ở Phân khoa Luật và Xã hội học thuộc Đại học Cần Thơ.Trong quảng thời gian nầy, với vai trò Viện trưởng, GS lại có dịp đẩy mạnh quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp qua một số chủ trương như: Cho nhiều kỹ sư nông nghiệp đi học thêm hay tu nghiệp. Đại học Cần thơ nhận được nhiều viện trợ hơn để phát triển tốt hơn, nhứt là từ chánh phủ Nhựt. GS thành lập chương trình đào tạo Giáo sư cơ hữu cho Đại học Cần Thơ mà hai ngành chánh là Nông nghiệp và kinh tế. Đây là chương trình phối hợp qua hai bên, của hai Đại học Cần Thơ, và một Đại học ngoại quốc, Hoa kỳ, Nhựt, và Anh.  (Tôi được cho tham gia vào chương trình nầy và vì vậy phải gặp thầy nhiều hơn). Chương trình bị chết năm 1975.

Cũng trong quan niệm, giúp nông dân có hiểu biết hơn, lợi tức họ tăng hơn thì cách tốt nhứt để con cái họ có học vấn cao hơn, và do đó ý thức chánh trị sẽ khá hơn, đúng hơn. Năm 1973, ông cho thêm vào chương trình Đại học Sư phạm, môn phụ “Thương mại hóa nông sản”.

ĐBSCL trước kia là hy vọng là căn bản cho kinh tế miền Nam, ngày nay bị suy tàn và có quá nhiều trở ngại vì vậy trong Báo cáo thường niên năm 2020, họ có cảm nghĩ phải chi còn GS Xuân hay đúng ra còn áp dụng kế hoạch của GS Xuân thì vùng nầy đâu có bị hủy hoại như ngày nay.  Thực sự, sự suy sụp của ĐBSCL, chánh yếu là do sự áp đảo của Trung cộng xây nhiều đập thủy điện ở thượng nguồn, mà VN không dám chống lại. Mặc khác, dù GS Xuân còn sống và được làm việc lại, ông cũng không đóng góp gì được trong chế độ nầy.  Đó là một kinh nghiệm, một nhận xét của một số nhà trí thức trong nước và từ nước ngoài về sau 1975.

GS Xuân có lập trường Quốc gia Dân tộc và chấp nhận hiểm nguy.

Đây là điểm chánh mà thấy cần nói ra. Vì chỉ đọc qua bài báo trong Tập san Người Đô Thị nói trên, hay bài báo nào ở VN, thì sẽ có nhiều người hoang mang, hay hơn nữa, có thể trách ông về lập trường chánh trị lúc thời thế đổi thay.

Nhưng những ngày trong tháng tư/75, tôi thường gặp GS hơn, nên biết khá rõ ràng GS vẫn giữ lập trường trước sau như một: không bao giờ theo CS, kể cả nghiên qua thành phần thứ ba, như một số ít trí thức lúc đó đã làm. Tôi có thể kể, mà tưởng như mới ngày nào.

Một lần tôi đến văn phòng ông ở Đại học Cần Thơ, vừa vào tôi chợt thấy đôi mắt ông rất đỏ dường như có ngấn lệ. GS nói ông vừa về từ văn phòng Tư lịnh Nguyễn Khoa Nam, và nói tình thế lâm nguy. (GS Xuân được Tư lịnh NKN tham vấn một số vấn đề trong những ngày tháng đen tối đó).

Rồi mấy ngày sau, tôi nghe tin GS nhận chức Bộ trưởng Giáo dục của Nội các Nguyễn Bá Cẩn (vào khoảng 10 tháng tư/1975). Tôi gọi điện thoại cho ông. Tôi hỏi GS liệu tình hình quá bi đát GS nghĩ sao ở trong Chánh phủ quá muộn màng như vậy. GS trả lời “hiện giờ thuyền sắp chìm, không thể nói nên hay không nên, mà giờ mọi người phải cùng nhau tát nước để cứu thuyền khỏi chìm”. GS Xuân tham gia nội các Nguyễn Bá Cẩn trong tinh thần và trách nhiệm của một sĩ phu, trong tình thế cực kỳ nguy hiểm.

Nội các Nguyễn Bá Cẩn chưa làm được gì , thì TT Nguyễn văn Thiệu từ nhiệm, Phó Tổng Thống Trần văn Hương  lên thay. Rồi Quốc Hội biểu quyết cho Tướng Dương văn Minh lên làm Tổng Thổng để đầu hàng ba ngày sau đó.

Khi lên TT, Tướng Dương văn Minh, thành lập ngay Nội các mà GS Vũ văn Mẫu là Thủ tướng, và vỏn vẹn trong ba ngày, Nội các nầy chỉ mới có được ba bốn Tổng trưởng. Cho nên chưa có sự bàn giao, Nội các Nguyễn Bá Cẩn vẫn ở tư thế xử lý, chờ trao quyền cho Nội các mới. GS vẫn ở trong Nội các NBC chờ bàn giao, GS Xuân không phải ở trong “Nội các Dương văn Minh” như bài báo viết sai, thực sự là Nội Các Vũ văn Mẫu.  Cái sai nầy có ý nghĩa trong trường hợp GS Xuân, tai hại danh dự GS vì sai lập trường chánh trị của ông

 Ông không phải thành viên của “nội các Dương văn Minh”, ai cũng hiểu Nội các đó là nội các của thành phần thứ ba , hay một Nội các lót đường, một nội các tay sai của CS.  Còn Nội các Nguyễn Bá Cẩn được kết hợp nhiều đoàn thể và lực lượng quốc gia chống cộng. Lập trường GS Xuân là trong lập trường chung đó.

Trong mấy ngày cuối tháng tư, tôi có lên Sài gòn, đến Bộ Giáo dục không gặp GS, tôi gặp anh Huỳnh kim Thoại (Cao học khóa I), anh vừa  được GS Xuân bổ nhiệm Phó Tổng Thư ký, anh cho tôi biết vợ con GS đã rời VN, GS ở lại, dù lúc đó việc ra đi dễ dàng với  ông. AnhThoại  còn cho biết, GS nhờ anh mua cho ông một món thuốc độc cực mạnh, và một con dao nhỏ luôn bỏ theo mình. Điều nầy chứng tỏ GS Xuân thấy được những giờ  phút cục kỳ nguy hiểm, ông phải tự hủy đời mình khi cần. Một điều rõ hơn nữa là GS chắc chắn không thay đổi lập trường để theo thành phần thứ ba, hay chạy theo CS vào giờ chót vì lý do nào đó.

 Sự cương quyết của GS không phải như lời suy diễn của bài báo Thanh niên 28-4-2015, có tựa

 “Giữ huyết mạch cho Hòn ngọc Viễn đông, vị Tổng trưởng quyết không rời quê hương”, khi nói về Tổng trưởng Nguyễn Duy Xuân.

Tôi có nghe trong mấy ngày đầu chiếm Viện Đại học Cần Thơ, nhóm sinh viên CS ở đây đòi đưa GS về Cần Thơ để “hỏi tội”, bọn nó muốn “trả thù”,  vì vài năm trước đó, có một số sinh viên CS ở Đại học Cần thơ bị Cảnh sát vùng IV bắt giam.

GS Xuân cũng như rất nhiều trí thức khác và đa số học trò của ông tại Học viện QGHC bị CS giam giữ lâu dài và trải qua nhiều trại tù. Trong cái sống nghiệt ngã, GS bị bịnh nặng và qua đời tại trại tù Nam Hà, năm 1986, thọ 61 tuổi. Dù dưới góc nhìn nào, đó là một trong rất nhiều thảm họa của trí thức VN qua lịch sử nhiều đắng cay. Và hôm nay, tôi lại xin cầu nguyện hương hồn thầy được bình yên ở cõi vĩnh hằng.

Thứ hai: Vài suy nghĩ về “nỗi đau” của trí thức miền Nam

Qua câu chuyện thảm thương của GS Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân. Một trí thức nhiều khả năng , giàu lòng hy sinh , rất đạo đức, nhưng cuộc đời ông bị kết thúc cách thảm thương, chỉ vì lòng yêu nước, vì theo đuổi trách nhiệm cũa kẽ sĩ. Sự đối xử của chủ thuyết chánh trị CS không căn cứ trên đạo đức thông thường và lòng yêu nước chân chánh.

Về tình trạng đau thương và hỗn tạp của trí thức miền Nam qua biến cố 1975

Theo truyền thống văn hóa VN thì trí thức có vai trò quan trọng bực nhứt trong xã hội, có khả năng và hiểu biết hơn thường dân và có bổn phận hướng dẫn giáo dục quần chúng.

Nhưng trong chế độ CS, một loại “trí thức mới” không phải như vậy.

Trước khi CS chiếm miền Nam, tầng lớp trí thức cấp cao cũng như những chuẩn trí thức (sinh viên), có thể tạm chia làm ba thành phần: thành phần chống cộng, thành phần thân cộng, và thành phần không có hay không muốn tỏ ra lập trường và ý thức chánh trị rõ ràng.

Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến thành phần “trí thức thân cộng”, dù không nhiều nhưng có thể là một điển hình của sự đối đầu ý thức hệ, hay tâm lý chánh trị “thời hậu thực dân” ở VN.

Dù những người trí thức nầy tự mình không hiểu CS hay bị CS dụ dỗ hoặc lý do nào khác mà  hoạt động của họ trở thành có lợi cho CS, nhứt là trong những tháng ngày của 1975. Hầu hết họ không phải là CS chánh cống, họ là “công cụ” của CS. Họ ở rải rác trong nhiều  nơi kể cả khu vực tư. Và sau thời gian sống với CS, họ không thể hội nhập được, không có cơ hội làm được việc gì đáng kể, họ tự nhận sự thất vọng, và tan biến, và để lại một số bài học đớn đau .

 Tôi xin ghi nhận ra đây một số trường hợp có thể được xếp loại dưới nhiều hình thái:

Loại hình thái được CS kết nạp, huấn luyện trước 1975, và cho vai trò quan trọng như  GS Nguyễn văn Kiết (GS Văn Khoa), và Hồ Hữu Nhựt (sinh viên Đại học sư phạm), cả hai vào cục R.  Sau tháng tư/ 1975 được đưa về Saigon làm Bộ trưởng và Thứ trưởng Giáo dục của Mặt trận GPMN. Qua năm 1976, VN thống nhứt, Mặt trận và các viên chức đó biến mất luôn.

Loại hình thái có tham vọng chánh trị chạy theo CS với hy vọng là nhập vào thành phần thứ ba, theo Hiệp định Paris. Mặt dù có nhiều người họ đang ở trong nhiều bộ phận chánh quyền quốc gia. Có thể kể  các Dân biểu Lý quí Chung, Hồ ngọc Nhuận, Dương văn Ba, GS Đại học Trần kim Thạch, Lý chánh Trung, Luật sư Nguyễn Phước Đại, LS Trần ngọc Liễng… Sau 1975 các người nầy được cho “đóng góp” làm kiểng, như chức dân biểu Quốc hội, hay chức vụ tào lao nào đó.

 Kết cuộc, họ trải qua những ngày tháng phất phơ, thất vọng, thất chí, bất mãn và tàn phai .

Loại hình thái “trở cờ” hay “tự diễn biến” với những lý do riêng: như Tiến sĩ Nguyễn văn Hảo, nguyên Phó Thủ Tướng VNCH, ở lại và viết Kế hoạch phát triển kinh tế với tựa “Vận Hội Mới” dâng cho CS và không đựơc đoái hoài. Tới 1982(?) Tiến sĩ Hảo trong lần gặp một số anh em trong khối kinh tế tài chánh của Chánh quyền cũ, ông nói “giã từ VN” và ra ngoại quốc.  Người thứ nhì tôi có gặp lại khoảng 1982 là cựu Tổng trưởng Thương mại và Tiếp tế VNCH, ông Nguyễn Văn Diệp, ông là xếp của tôi. Ông cũng đi trình diện cải tạo, nhưng chỉ sau 3 tháng ở Long Thành, và được cho về. Có thể vì ông Nguyễn văn Diệp thuộc thành phần “thân cộng” hay ít nhứt không phải loại “trí thức phản động”. Nhưng CS chỉ cho làm công tác nghiên cứu phát triển kinh tế. Tôi có thăm ông hồi 1982, vợ con ông ở Pháp và sau đó ông chết âm thầm tại VN.

Một trí thức lớn nữa là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, nguyên Phó Thủ Tướng VNCH, dường như được CS cho đóng góp sau 1975, với chức Cố vấn ngoại thương, và sau đó được cho mở  Văn phòng Tư vấn kinh tế .

Loại hình thái có công nhiều với “Cách mạng” trong nhiều hoạt động sinh viên trước 1975. Có thể kể một vài người như Huỳnh Tấn Mẫm, Hoàng phủ ngọc Tường, Nguyễn Hữu Thái, Dương văn Đầy… CS cho họ một số nhiệm vụ sau 1975. Nhưng không được trọng dụng và có sự va chạm với trí thức XHCN  miền Bắc, một số lớn sau nầy bất mãn và rút lui.

Loại hình thái đặc biệt: Một số trí thức hải ngoại không phải CS nhưng không hiểu CS, qua lời kêu gọi của Chánh quyền CS, họ  “về nước đóng góp xây dựng quê hương” từ một số nước Pháp, Anh , Nhựt , Úc, Hoa kỳ… CS tuyên truyền rất nhiều về kế hoạch nầy. Có một số trí thức  phần khởi trở về,  và sau độ 5 năm, tuyệt đa số lại rời VN trong hối hận.

Và còn nhiều nữa những “trí thức lầm lẫn” đó lần lượt rời quê hương hay sống âm thầm trong sự đổi đời, mà chính họ hay chế độ mới nầy cho rằng không thích hợp. Trí thức XHCN, dù thế nào cũng tốt hơn đối với đảng, mà trung với đảng là yêu cầu tuyệt đối.

Về chánh sách và biện pháp của CS đối với trí thức miền Nam

Nói chung, CS không ưa và có phần lo sợ trí thức chân chánh, mặc dù cần phải có trí thức để phát triển. Chính Lê Nin đã “dạy” cho các đàn em khi nắm được chánh quyền thì nên sử dụng lại trí thức của chánh quyền cũ. Trí thức đó là công cụ cho phát triển. Mặt khác, CS luôn cảnh giác và sợ trí thức thông thường, vì trí thức hiểu biết cao và đúng, còn CS thì dốt và độc tài , nhiều sai trái, nhiều khác biệt với đa số người dân. Cho nên CS chỉ đào tạo, nâng đỡ, sử dụng trí thức XHCN.

Trong nguyên tắc đó, những trí thức cũ của miền Nam không có thế đứng nào cả , kể cả những người có dính dáng hay có cảm tình ủng hộ CS lúc đầu từ nhiều nguồn khác nhau.

Nguyên tắc chung, CS có ba nguyên tắc căn bản về trí thức:

Trí thức cần cho xây dựng phát triển sau khi nắm quyền, nhưng chỉ là một công cụ (Lê Nin). Trí thức không giá trị gì mà còn cản trở cuộc “Cách mạng vô sản”(Mao trạch Đông).

Cần cảnh giác với trí thức, nhứt là “trí thức tiểu tư sản”, vì họ gần quần chúng và có ảnh hưởng đến quần chúng về nhiều mặt.

Cần phân biệt “trí thức XHCN” và trí thức chung chung, tính “hồng“ phải được đặt cao hơn khả năng “chuyên môn”.

Một số chương trình hay biện pháp của CS đối với trí thức Miền nam

Trấn an và hứa hẹn với trí thức miền Nam qua “chánh sách khoan hồng và cải tạo”. Đầu tiên, khi mới chiếm miền Nam, CS liền trấn an trí thức trong mọi ngành. Chánh quyền mới nói sẽ dùng lại các viên chức cũ, trừ những người “có tội” với nhân dân là phải được “cải tạo” thành “con người mới XHCN”, biến cải thành con người mới khác với con người cũ, xây dựng cho họ   có tình cảm đúng là “yêu nước là phải yêu XHCN”. Khoan hồng có nghĩa là không giết .

Đề phòng và trấn áp trí thức. Song song với chương trình trên, CS thực hiện biện pháp trấn át và theo dõi trí thức, nhứt là trong các đảng phái chánh trị chống cộng, trong các tôn giáo. Vụ nổi dậy của nhà thờ Vinh Sơn, làm CS càng siết chặt hơn. Một số trí thức “bị bắt nguội”. Một số trí thức hoạt động sau 1975, bị CS bắt và bị kết án rất nặng, tôi có biết trong số đó có GS Đoàn viết Hoạt, GS  GS cựu Viện trưởng QGHC  Vũ quốc Thông, GS Đào quang Huy (Học Viện QGHC),…

Chiêu dụ trí thức trong nước và hải ngoại. Vì gần như tất cả trí thức miền Nam, trí thức cao cũng như những người tốt nghiệp đại học, đều lần lượt  vượt biên trốn khỏi quê hương. Có lúc CS chơi “chiêu dụ dỗ”, một số trí thức có tài năng , vượt biên bị bắt và được thả ngay (vào khoản 1980). Trong số có những người tôi có dịp gặp sau 1982, và họ cũng đi qua Pháp cách chánh thức như: Tiến sĩ Trần an Nhàn, Kỹ sư Dương kích Nhưỡng, GS Nguyễn văn Tương.

Chánh sách “Hòa hợp hòa giải Dân tộc, HGHH”. vào khoảng những năm thập niên 1980, tình hình quốc tế có biến đổi . Trong nước kinh tế bị kiệt quệ, CS thay đổi chách sách kinh tế, cần sự hỗ trợ từ ngoài. CSVN đưa ra chiêu bài “Hòa hợp Hòa giải Dân tộc”, kêu gọi mọi người quên đi hận thù, đoàn kết mọi người Việt trong và ngoài nước .

HGHH trên nguyên tắc, có hai bước và hai cách thực thi. “Hòa giải”, trước hết là giải tỏa các mâu thuẩn lớn, sự khác biệt lớn giữa hai bên, thứ nhì là cả hai bên phải phải tự loại bỏ sự khác biệt lớn, để cuối  cùng hai bên có thể chấp nhận được trong tinh thần đặt quyền lợi đất nước trên hết. Thứ nhì, sự thỏa hiệp phải không có sự cưỡng bách. Nhưng trên thực tế, CS vẫn đi con đường cố hữu, cũng cố quyền lực, độc tài toàn trị, bằng bạo lực , bằng gian trá, lừa dối, ngăn cách người dân, bằng cưỡng đoạt tài sản quốc dân.  Thực tế, gần như ai cũng biết,  cách cai trị và hành xử với dân của CS, từ 1975 cho tới nay, cơ bản không thay đổi . CS chỉ muốn “hòa giải” theo cách của họ.

Bước thứ hai là “hòa hợp” cũng không khả thi, vì không qua bước thứ nhứt “hòa giải” được thì làm sao đến “hòa hợp”. Chánh sách HGHH cho quyền lợi dân tộc, chỉ có trong tuyên truyền, hay chỉ thực hiện được từ một số ít người vì quyền lợi cá nhân.

Mặt khác, nếu nghĩ con đường Hòa giải Hòa hợp từ yếu tố quốc tế của chiến tranh VN, thì rất phức tạp và gần như xa vời. Vì căn nguyên và sự giải quyết chiến tranh VN, tự nó là sự pha trộn một loại chiến tranh quốc nội cộng với chiến tranh quốc tế.

Kế hoạch HGHH của CS đã thất bại.

Hơn bất cứ dân tộc nào khác, người Việt bất cứ thuộc thành phần nào, đều mong ước có một ngày Hòa giải Hòa hợp thực sự trong một tình huống khác, với điều kiện khác, cách thức khác hiện nay.

Trong nhiều giới hạn của cá nhân, tôi đã góp một số ý kiến, đúng hơn là một cảm nghĩ  của một vấn đề. Mà sự suy nghĩ của tôi chánh yếu là xuất phát từ cái “đạo nghĩa”. Thêm một chút là quần chúng bao giờ, và trong hoàn cảnh nào, cũng mong chờ và tin tưởng ở những trí thức chân chính.

Cali,  22 tháng tư /2023

Nguyễn Bá Lộc

Views: 215

Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết Thúc Thế Nào? (Phần 3)

Cao Tuấn

PHẦN THỨ 3: Ý KIẾN VỀ MỘT GIẢI PHÁP HOÀ BÌNH TRƯỜNG CỬU CHO UKRAINE

Ngưng chiến không nhất thiết dẫn đến một giải pháp hoà bình trường cửu cho Ukraine. Một giải pháp kết thúc chiến tranh Nga-Ukraine, bảo đảm hoà bình lâu dài cho Ukraine chỉ có thể trở thành sự thật nếu cả ba nước Mỹ, Nga và Ukraine đều muốn giải quyết mâu thuẫn bằng thương thuyết và tương nhượng. Quan trọng nhất là Mỹ và Nga nhưng Mỹ, ở thế mạnh hơn, phải đi bước đầu tiên trên con đường có tên là “chung sống hoà bình” ở lục địa Âu Châu.

“Chung Sống Hoà Bình ở Âu Châu” phải xem là một Sách Lược của nước Mỹ để đối phó với “Trung Quốc Mộng” của Tập Cận Bình

Để đi bước đầu tiên này, trước hết Mỹ phải tự thuyết phục một số điểm căn bản:

1. Muốn làm Nga kiệt quệ phải rút quân khỏi Ukraine Mỹ sẽ phải trả giá rất đắt về thời gian, tiền bạc cũng như những khó khăn ngay trong nội bộ nước Mỹ mà kết quả cũng không có gì chắc chắn.

Không có gì chắc chắn Putin sẽ bị lật đổ ngay cả cuộc phiêu lưu ở Ukraine của Putin thất bại.

Ngay cả Putin bị lật đổ cũng không có gì chắc chắn nước Nga sẽ không có một Putin khác – vẫn “dân tộc chủ nghĩa quá khích” chưa kể còn có thể cộng thêm “phục thù chủ nghĩa” cũng quá khích không kém.

Hoặc sẽ có một nước Nga tan vỡ làm rối loạn cả Âu Châu và kho vũ khí nguyên tử của Nga lại lọt vào tay Tàu, Iran hay Bắc Hàn? Hoặc kho vũ khí nguyên tử ấy bị chia 5, sẻ 7 và một phần lại rơi vào tay các nhóm khủng bố quốc tế tử thù của Mỹ ?

2. Nếu bị dồn đến thế cùng quẫn trong cuộc chiến Ukraine, không còn gì để mất, Nga có thể dùng đến vũ khí hạt nhân. Hoặc Nga  đành phải… “bán mình” cho Tàu. Cả 2 trường hợp đều là tai hoạ lớn lao đối với Mỹ.

3. Mỹ nên bắt tay giải hoà với Nga ở Âu Châu để có thể tập trung sức mạnh và tâm trí để đối phó với Tàu ở Á Châu. Đụng độ với Nga ở Âu Châu là chuyện thứ yếu, dàn xếp được. Đụng độ với Tàu ở Á Châu là chuyện trọng yếu, cấp bách và “bất khả thoái lui” nếu Mỹ muốn bảo vệ vị thế đệ nhất siêu cường.

4. Tiến trình hoà giải Mỹ-Nga nên bắt đầu càng sớm càng tốt. Cuộc chiến Ukraine càng đẫm máu, càng khó giải hoà. Đã leo thang tới việc  xử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật thì càng khó xuống thang. Càng gần cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Mỹ sắp tới, đương kim Tổng Thống Biden càng thiếu tự do hành động, càng bị nhiều áp lực. Nga càng “lậm” với Tàu bao nhiêu càng khó gỡ  bấy nhiêu. “Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ” !

5. Mỹ sẽ phải làm một số nhượng bộ với Nga – đối thủ của Mỹ và đối thủ  của đồng minh của Mỹ –  nhưng là “nhượng bộ có nguyên tắc”. Chẳng hạn không làm suy yếu NATO, không làm các nước Đồng Minh của Mỹ bất mãn hay mất tinh thần, không vi phạm đạo lý, luật pháp quốc tế, không bán rẻ, không phản bội Ukraine (như Mỹ đã làm với Việt Nam Cộng Hoà, với chính quyền Afghanistan !)

6. Mỹ không cần và không nên trình bầy trước công luận “nước cờ mới” có mục đích “trói tay” Tàu ở Á Châu mà chỉ cần và chỉ nên nhấn mạnh sáng kiến chiến lược này là cần thiết cho “hoà bình, ổn định, thịnh vượng của Ukraine, của Âu Châu và của toàn thế giới”

7. Sẽ có ít nhất 3 hiệp định hoà bình. Một giữa Nga và Ukraine. Một giữa Nga và NATO. Một giữa NATO + EU và Ukraine.  Hội nghị hoà bình có thể diễn ra chính thức ở một quốc gia trung lập “tương đối” nhưng có trọng lượng như Ấn Độ chẳng hạn.   Tuy nhiên, những nét chính của nội dung nên được thảo luận trước và riêng tư giữa đặc sứ của Biden với Putin tương tự như Henry Kissinger, đặc sứ của Nixon,  đã làm trong sứ mạng bí mật tại Bắc Kinh năm 1971. Biden có thể bay đến Moscow họp thượng đỉnh với Putin, theo lời mời của Putin như trường hợp Nixon gặp Mao năm 1972. Hoặc Biden gặp Putin ở một nước trung lập. Lý do công khai là để tránh một cuộc chiến tranh nguyên tử làm nổ tung trái đất ! Mà có thể cũng đúng là như thế.

8. Kế tiếp là các buổi họp riêng của Mỹ với Ukraine, Mỹ với các nước NATO Âu Châu quan trọng nhất như Anh, Pháp, Đức và những quốc gia đã và đang giúp đỡ nhiều nhất cho Ukraine chống Nga  như Ba Lan, Tiệp Khắc, các nước vùng Baltic…Các buổi họp này nhằm “đả thông tư tưởng, tìm sự đồng thuận nếu có thể” đồng thời chứng tỏ Mỹ tôn trọng đồng minh.

9. Mỹ có quyền có lập trường không hoàn toàn đồng nhất với các đồng minh Âu Châu trong việc hoà giải với Nga. Các nước Âu Châu nếu quá lo ngại về Nga thì phải tự làm mạnh hơn về quân sự quốc phòng của mình thay vì trông cậy quá nhiều vào “dù che” của Mỹ. Nếu Mỹ có “nghĩa vụ” sát cánh với các đồng minh Âu Châu để đối phó với Nga thì các đồng minh Âu Châu cũng có “nghĩa vụ” sát cánh với Mỹ để đối phó với Tàu ở Á Châu , bảo vệ các giá trị Dân Chủ, Tự Do và vị thế của khối  Tây Phương nói chung thay vì tính chuyện xé lẻ để làm ăn với Tàu.

10. Hiệp định hoà bình cho Ukraine nói riêng và cho Âu Châu nói chung chỉ “có lý” (make senses) và sẽ được tôn trọng nếu Nga, Ukraine, Mỹ , dù phải tương nhượng nhau,  đều cảm thấy “được” nhiều hơn “mất”, hoặc không có lựa chọn nào tốt hơn, hoặc ít nhất cũng thấy hoà giải có lợi về lâu dài hơn là tiếp tục cuộc xung đột.

11. Sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Bình, Mỹ nên có chính sách giúp Nga và Ukraine đẩy nhanh tiến trình hoà giải, bình thường hoá các quan hệ song phương để Ukraine trở thành “cầu nối” thân hữu giữa các nước Âu Châu và Nga, một biểu tượng của sống chung hoà bình thay vì là một lò lửa chiến tranh hay một vùng tranh chấp liên miên không dứt. Sự hoà giải giữa Ukraine và Nga cũng giúp sự hoà hợp và ổn định ngay trong xã hội Ukraine, đặc biệt giữa miền Đông Ukraine ít nhiều chịu ảnh hưởng Nga do các yếu tố địa lý, lịch sử, chủng tộc, ngôn ngữ, kinh tế, khuynh hướng chính trị  và miền Tây Ukraine thiên về các nước Dân Chủ Âu Châu cũng vì những lý do tương tự. Ukraine cần có một chính sách đối nội và đối ngoại thật khôn ngoan để có thể tồn tại, phát triển trong hoà bình, độc lập.

12. Mỹ không nên kỳ vọng Nga lập tức thay đổi chính sách 180 độ , từ “thân Tàu” chuyển sang “thân Mỹ”. Hoà giải Mỹ-Nga có nghĩa Nga-Mỹ không còn coi nhau là kẻ thù, Nga sẽ đứng trung lập đối với cuộc tranh chấp Mỹ-Tàu. Chỉ như thế đã là một thắng lợi lớn của Mỹ. Thay vì MỘT chống HAI, chỉ còn MỘT chống MỘT. Mỹ không còn phải “lưỡng đầu thọ địch”, ở cả 2 mặt trận Châu Âu và Châu Á. 80 tỉ đô la/ một năm, một tổn phí cực lớn mà Mỹ đang “phí phạm” trong cuộc chiến Ukraine, có thể được  xử dụng một cách hữu ích trong việc giúp Đài Loan gia tăng khả năng phòng thủ cũng như củng cố thế trận của Mỹ ở trong toàn miền Đông Á.

13. Mỹ có thể kỳ vọng rằng nếu Nga cảm thấy được Mỹ và các đồng minh Âu Châu không những đã hết thù nghịch mà còn đối xử “tốt” (chẳng hạn như sốt sắng đầu tư giúp Nga phát triển vùng Tây Bá Lợi Á tiếp giáp với Tàu ) thì Nga có thể nghiêng dần về phía Mỹ. Vì  sẽ sớm đến lúc Nga hiểu đầy đủ rằng Mỹ cách Nga đại dương mênh mông, thù oán cũ đều có thể bỏ qua, nhưng Tàu sát bên, chung biên giới rất dài mà Tàu đang lúc hùng mạnh và đang chuẩn bị cướp thời cơ, toan  tính giải quyết nợ nần, ân oán địa lý, lịch sử của “một trăm năm quốc nhục”.  Toan tính “thu hồi” Đài Loan, Việt Nam, Cao Ly, Mông Cổ, vốn là các “vùng đất cũ của …Thiên Triều”.  Tiến từ “trị quốc” đến “bình thiên hạ”.  Dựng Pax Sinica (“thế giới hoà bình kiểu Tàu”) thay thế Pax Americana (“thế giới hoà bình kiểu Mỹ”).  Nga không những sẽ phải trả lại mấy triệu cây số vuông lãnh thổ đã lấy của Tàu trong các thế kỷ trước, từ Ngoại Mông đến bắc Mãn Châu, phải từ bỏ các địa điểm chiến lược, các bán đảo và hải đảo trên Thái Bình Dương mà có thể còn mất thêm cả vùng Tây Bá Lợi Á  rất nhiều tài nguyên mà Nga không đủ sức bảo vệ. Tóm tắt, nếu “Trung Quốc Mộng” của Tập Cận Bình trở thành sự thực, Mỹ sẽ mất quy chế siêu cường nhưng Nga thì …mất nước !

14. Nếu Nga nghiêng về Mỹ hay Mỹ-Nga chính thức lập liên minh,          MỘT chống HAI trở thành HAI chống MỘT,  Tàu lập tức phải lo thêm mặt Bắc.

Lo vũ khí hạch tâm của Nga bao trùm cả nước Tàu mà không cần đến hỏa tiễn liên lục địa. Lo hoả tiễn hạch tâm tầm trung của Nga đủ sức “vươn tới” Cáp Nhĩ Tân, Trường Xuân, Thẩm Dương, Đại Liên, Bắc Kinh, Thái Nguyên, Thiên Tân, Thượng Hải, Vũ Hán, Thành Đô, Trùng Khánh…

Lo hàng triệu quân Nga hờm sẵn biên giới.

Đến lượt chính Tàu rơi vào cảnh “lưỡng đầu thọ địch”, không còn là Mỹ.

Tàu sẽ phải đổi thế trận. Phải phân chia lực lượng đối phó.

Mặt Bắc phải đối phó với sức mạnh của Nga.

Mặt Đông phải đối phó lực lượng của Mỹ  – đang túc trực gần eo biển Đài Loan, tại Nhật Bản, Nam Hàn và quần đảo Phi Luật Tân – được tăng cường sau khi Mỹ và NATO không còn phải vướng vào cuộc chiến tiêu hao với Nga ở Âu Châu.

Đài Loan, Biển Đông, Đông Bắc Á, Đông Nam Á sẽ được bảo vệ tốt hơn. Toàn vùng Đông Á có thể kịp thời chuyển NGUY thành AN.

Một thế thăng bằng chiến lược mới rất có lợi cho Mỹ và đặt nước Tàu  của Tập Cận Bình vào thế phải chịu bó tay. Nước Tàu của Tập Cận Bình phải chịu bó tay cũng đồng nghĩa với hòa bình, ổn định ở Á Châu và trên toàn thế giới.

Gợi ý một số điều khoản chính của các Hiệp Định Hoà Bình 2023 tại Âu Châu

Trở lại câu hỏi chính “Chiến tranh Nga- Ukraine sẽ kết thúc thế nào?”

Không ai biết chắc được tương lai nên chỉ có thể trả lời rằng nên có một giải pháp hoà bình ở Ukraine nói riêng và ở Âu Châu nói chung, một giải pháp mà ngay cả Tàu muốn phản đối cũng không có lý do để phản đối.

Như đã nói ở trên, giải pháp hoà bình đề nghị gồm các điều khoản của ít nhất 3 hiệp định. Một hiệp định giữa NATO và Nga. Một hiệp định giữa Ukraine và Nga. Một Hiệp Định giữa NATO+EU và Ukraine. Cả 3 hiệp định, họp thành toàn thể một giải pháp hoà bình,  cần được ký cùng lúc, song song mới đầy đủ ý nghĩa. (Không có gì ngăn cản Mỹ và các đồng minh Âu Châu của Mỹ ký các thoả ước riêng song phương khác với Nga hay với nhau miễn là không đi ngược với các điều khoản của 3 hiệp định trên.)

Căn cứ trên những điểm đã phân tích, hiệp định hoà bình giữa NATO và Nga nên gồm những điều khoản sau đây:

  1. Hai bên bầy tỏ ý chí “sống chung hoà bình”, giải quyết mâu thuẫn, khác biệt bằng đối thoại, thương thuyết, tương nhượng, tránh va chạm, tránh khiêu khích, tránh chiến tranh bằng mọi cách. Hai bên cũng cam kết tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp vào nội bộ của nhau.
  1. NATO xác nhận sau khi Phần Lan, Thuỵ Điển hoàn tất thủ tục gia nhập NATO sẽ không nhận thêm bất cứ thành viên mới nào khác.
  1. Hai bên cam kết thâu hồi hay chấm dứt tất cả các biện pháp thù nghịch, bất thân thiện đối với nhau kể cả các chế tài, cấm vận, trừng phạt, trả đũa cũ hay mới ; cam kết bình thường hoá quan hệ về mọi mặt chính trị ngoại giao, kinh tế tài chánh, văn hoá xã hội ; cam kết thay thế kỷ nguyên đối đầu bằng kỷ nguyên hợp tác cho sự nghiệp hoà bình, thịnh vượng, thân hữu, cởi mở cho tất cả các quốc gia Âu Châu và cho toàn thế giới.
  • Hiệp định hoà bình giữa Nga và Ukraine nên có những điều khoản sau đây :
  1. Ngưng bắn tại chỗ trước khi thương thuyết bắt đầu. Nga thực hiện việc rút quân nhanh chóng ngay sau khi Hiệp Định được ký kết. Hai bên cũng nhanh chóng xúc tiến việc trao trả tù binh chiến tranh.
  1. Ukraine cam kết theo đuổi chính sách trung lập thực sự, không gia nhập bất cứ một liên minh quân sự nào kể cả NATO.  Thuỵ sĩ và Áo là 2 mẫu mực trung lập mà Ukraine sẽ rút kinh nghiệm để áp dụng cho mình một cách thích nghi. Nga cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập và chính sách trung lập của Ukraine. Hai bên cũng cam kết không can thiệp vào nội bộ của nhau.
  1. Nga và Ukraine đồng ý cùng tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý mới tại vùng Crimea với sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để người dân địa phương này quyết định Crimea là một nước độc lập, hoặc Crimea thuộc về Nga hoặc Crimea thuộc về Ukraine. Nga và Ukraine cam kết tôn trọng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý tự do và công bằng này.
  1. Vùng Donbas gồm 2 tỉnh Luhansk và Donetsk và phụ cận, nơi có dân số gốc Ukraine và gốc Nga suýt soát nhau, vẫn thuộc về Ukraine tuy nhiên Ukraine cam kết Donbas sẽ được hưởng  qui chế tự trị rộng rãi như trường hợp tỉnh Quebec của Canada, cam kết bảo đảm tự do, bình đẳng cho mọi cư dân, nghiêm cấm mọi đối xử kỳ thị vì khuynh hướng chính tri, tiếng nói, sắc tộc, cam kết thi hành chính sách hoà hợp, hoà giải trong xã hội tại Donbas và trên toàn cõi Ukraine.
  1. Ukraine và Nga đồng ý tái lập ngoại giao, bình thường hoá mọi quan hệ, hợp tác thân hữu để cùng tiến bộ trên căn bản “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Ukraine hoan nghênh mọi nỗ lực của Nga đóng góp vô điều kiện vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, đặc biệt tại vùng Donbas nhưng không chỉ giới hạn tại vùng Donbas.
  • Hiệp Định Tái Thiết và Phát Triển giữa NATO, EU và Ukraine đúng như danh xưng có mục đích vừa khuyến khích Ukraine chấp nhận giảng hoà với Nga, vừa bù đắp những tàn phá, thiệt hại xương máu mà Ukraine phải gánh chịu khi can đảm “đứng mũi chịu sào” đương đầu với Nga, vừa giúp củng cố Ukraine thành một quốc gia “tiền phương” mạnh cả về quân sự và kinh tế, đủ sức tự bảo vệ đối với bất cứ thách thức nào trong tương lai. Hiệp Định này nên gồm các điều khoản như sau:
  1. Ukraine đặc cách được mời gia nhập EU với tư cách thành viên.
  1. Các quốc gia thành viên EU, NATO cam kết đóng góp 100 tỉ Euros vào quỹ tái thiết Ukraine.  Mỹ với tư cách là một thành viên trụ cột của NATO cam kết đóng 50% số này.  Ngân khoản viện trợ sẽ được trao cho Ukraine trong vòng 5 năm, mỗi năm 20 tỉ Euros. Ngoài ra mỗi nước thành viên cũng cam kết dành cho Ukraine mọi sự ưu đãi trong tương lai, khi có thể.
  1. Mặc dù theo chính sách trung lập, luôn luôn mong muốn hoà bình, Ukraine sẽ xây dựng một nền tảng quân sự quốc phòng đủ mạnh để tự bảo vệ và dành quyền nhận sự trợ giúp từ bất cứ ai, kể cả NATO cho mục đích này.
Được gì, mất gì?

Nói chung hoà bình tốt hơn chiến tranh. Tốt cho Châu Âu. Tốt cho Châu Á. Tốt cho cả thế giới. Tốt cả cho nhân dân Tàu ở cả 2 bên bờ eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, không chắc tốt cho Đảng Cộng Sản Tàu vốn theo chủ trương của Mao: “thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”.

Đối với cuộc chiến tranh Nga-Ukraine còn đang tiếp diễn, bài tiểu luận này đã phân tích chính trị của “thế chân vạc” và đã kết luận “chung sống hoà bình ở Âu Châu” là giải pháp tốt nhất cho Mỹ và Nga vì “cái được” vượt xa “cái mất” hoặc vượt xa “cái sẽ mất”.

Riêng với Ukraine, nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo, đang chịu bao nhiêu tang tóc và đổ nát khó có thể nói giải pháp hoà bình như phác hoạ là công bằng và xứng đáng với sự chiến đấu anh dũng của quân dân Ukraine. Đấy là chưa kể đến triển vọng Ukraine còn phải chịu mất vùng Crimea một cách vĩnh viễn sau khi người dân ở đây, đại đa số gốc Nga, trong cuộc trưng cầu dân ý tương lai dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, vẫn tỏ ý muốn Crimea thuộc về Nga.

Tuy nhiên, người Ukraine, một lần nữa, cũng cần can đảm và sáng suốt nhận định thời cuộc một cách thực tế, tự đặt những câu hỏi và tự trả lời, chẳng hạn như:  Cần bao nhiêu năm nữa để Ukraine đánh bại Nga nếu không có sự trợ giúp của Mỹ vì Mỹ đã quyết định “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” hoặc vì chính trị nội bộ của nước Mỹ đã làm gió đổi chiều ? Và Ukraine sẽ đơn độc tiếp tục cuộc chiến với giá “núi xương, sông máu” nào ? Crimea là tiêu sản hay tích sản của Ukraine nếu người dân Crimea vì các lý do lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn hoá, kinh tế thực sự muốn Crimea ly khai Ukraine để trở về với  Nga như chuyện cũ 300 năm ? Ukraine nên “giữ người ở hay giữ người đi?” Và sau cùng: trong hoàn cảnh của Ukraine, ở thời điểm lịch sử đặc biệt khó khăn này, phải chăng giải pháp hoà bình “đỡ xấu nhất” đành phải coi là tốt nhất ?

Cao Tuấn

(tháng 4/2023)

Views: 177

Tìm Hiểu Tân Chủ Nghĩa Thực Dụng Mỹ

Lê Văn Bỉnh

Tôi tin chắc rằng dân chủ là một giá trị, không những là một giá trị về đạo đức, mà còn là một giá trị về nhận thức trong mọi lãnh vực.  Dân chủ là một đòi hỏi cho các tra vấn thực nghiệm trong bất kỳ lãnh vực nào..

(I hold that democracy to be a value, not just an ethical value, but a cognitive value in every area. Democracy is a requirement for experimental inquiry in any area.

Hilary Putnam (The American Philosopher, Giovanna Borradori, NXB The University of Chicago Press, 1994, tr. 64

Từ lúc ra đời (1907) đến nay, chủ nghĩa thực dụng Mỹ (CNTD) đã đồng hành với quốc gia trẻ trung này trên một thế kỷ. Ba triết gia tiên phong chính của phong trào gồm Charles Sanders Peirse (1839 -1914), Williams James (1842 – 1910) và John Dewey (1859 – 1952) đã luận bàn về hầu hết các phạm trù triết học: ý nghĩa, chân lý, giá trị, tra vấn, tri thức , hành động vv. Nói chung, đối với các triết gia thực dụng này, không có “chân lý” tuyệt đối và vĩnh cửu mà người ta có thể dựa vào đó để hướng dẫn cách hành xử của mình. Họ cho rằng các lý thuyết và nguyên tắc chỉ là những hiểu biết có điều kiện (contingent understandings), có thể điều chỉnh hay thay đổi khi có những thông tin mới hoặc trải nghiệm mới; và họ cũng cho rằng người ta không có nơi nào tuyệt đối cụ thể để tựa vào, hay để làm kim chỉ nam hướng dẫn. Họ muốn vận dụng những phương pháp khoa học nhằm nghiên cứu triết học, hầu đưa triết học đạt được sự hữu dụng đích thực của nó, nghĩa là giúp giải quyết được những vấn đề thực tế liên quan đến cuộc sống hằng ngày của con người. Nguyên lý căn bản này đáp ứng được tinh thần canh tân của người Thanh giáo (Puritans) cũng như “tinh thần quốc gia” của miền đất mới muốn thoát khỏi ảnh hưởng châu Âu, trong đó có ý chi của giới trí thức mong muốn đưa ra một điều gì mới mẻ, độc lập về học thuật văn chương, về sự hiện đại hóa kỹ nghệ để bắt kịp đà tiến nhanh của quốc gia tân lập. Nhờ đó mà CNTD đã được đón tiếp nồng hậu và phát triển trong hơn một thời gian khá dàị. Sau Thế Chiến Thứ Hai, ảnh hưởng của CNTD lần lần bị mờ nhạt đi tại Hoa Kỳ. Dưới đây là một số nguyên do chính.

SỰ SUY THOÁI CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG CỔ ĐIỂN

Trước hết, ngay từ khi mới ra đời, CNTD đã không được giới thiệu một cách hệ thống và rõ ràng, thậm chí ý tưởng về một số phạm trù còn mâu thuẩn nhau. Chỉ vài năm sau khi James tuyên bố Peirse là người đã khai sáng CNTD và đưa ra một số bài diễn thuyết, thì Addison Webster Moore, một giáo sư của University of Chicago đã cho in quyển Pragmatism and Its Critics (NXB The University of Chicago Press, 1910) nêu lên những điểm không rõ ràng và những hạn chế của CNTD. Chẳng hạn, Moore cho rằng CNTD bị phản đối vì (1) sự mơ hồ khó hiểu khi dùng từ “mục tiêu thực tiễn” (“practical purpose”); (2) tính chủ quan cần thiết và tính tương đối của tình thế (the necessary subjectivity and relativity of the position); việc thiếu nguyên tắc nhờ đó trải nghiệm có thể được liên kết lại (the lack of any principle by means of which experience can be united) vv. Như James từng nói “Chân lý … tồn tại phần lớn nhờ hệ thống tín dụng. Những tư duy và niềm tin của chúng ta vượt qua được với điều kiện là không gặp phải thử thách, giống y như những tờ giấy bạc vượt qua được khi không ai từ chối chúng.” (Pragmatism and Other Things, NXB: Penguin Classics, 2000, tr. 91).Vậy CNTD có thể nào giữ mãi được hào quang như James đã từng hãnh diện viết cho em mình hay không? Câu trả lời sẽ là phủ định.
Như chúng ta đã biết, trong 3 nhà tiền phong trên của CNTD, Dewey là người nổi bật nhất, không những được xem như một nhà giáo, một trí thức, mà còn là “một chính trị gia chân chính” (a stateman — để phân biệt với “một “chính trị gia chuyên nghiệp”, a politician) mặc dù ông không được bầu cử hay bổ nhiệm vào một chức vụ công quyền nào. Nhờ hiểu biết rộng rãi, uy tín cao, thường đi đây đi đó, sống lâu mà vẫn sáng suốt, ông được mời gọi cũng như tư nguyện tham gia hoạt động rất tích cực trong nhiều lãnh vực khác nhau. Theo thiển ý, chính trong lãnh vực chính trị, tư tưởng và chủ trương của ông đã khiến cho CNTD bị ảnh hưởng bất lợi không ít. Thực vậy, CNTD hứa hẹn sẽ mang lại hòa bình cho nhân loại, nhưng đã không ngăn cản được Hoa Kỳ tham chiến Thế Chiến Thứ Nhất cũng như Thế Chiến Thứ Hai; đã vậy mà các nhà thực dụng lại còn quảng bá tinh thần yêu nước và khuyến khích mọi công dân tham gia tích cực vào hai cuộc chiến này. Thêm vào đó, trong hơn mươi năm đầu thế kỷ 20 cùng với sự phát triển nhanh chóng của nhiều thành phố công nghiệp trên thế giới là sự đòi hỏi những cải cách xã hội, thay nền kinh tế cạnh tranh (competitive economy) bằng kinh tế xã hội (social economy). Tại Hoa Kỳ, phong trào cấp tiến (progressive movement) đòi hỏi một sự cải cách tận gốc rễ, yêu cầu một chính quyền có ý thức xã hội (socially concious governement), chủ trương chính quyền phải bảo vệ “tự do”, hiểu theo ý nghĩa mới. Dewey gọi tự do mới này là “quyền tự do hữu hiệu” (effective freedom), nghĩa là chính quyền không những không được tiêu cực trong việc bảo vệ quyền tự do của con người như trước đây, mà còn cần phải tích cực, phải làm những thứ gì đó đặc biệt, chẳng hạn nên chia xẻ quyền lực cách biệt lớn lao (immense inequality of power) đương thời ở thời Hoa Kỳ; hay nên hợp tác dân chủ trong việc quyết định những lý tưởng và mục tiêu, cũng như tạo ra các định chế công nghiệp và xã hội của quốc gia, như lời đề nghị của một số người ngưỡng mộ ông. Trong cuộc tranh cử Tổng Thống năm 1924, Dewey cũng đã tích cực vận động và ủng hộ ứng cử viên của Progressive Party, một chính đảng tân lập chủ trương đánh thuế cao vào của cải, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, công hữu hóa ngành hỏa xa, miễn thuế nông nghiệp, chấm dứt lao động trẻ con vv. mà ông gọi là “những thay đổi tích cực và xây dựng lại một trật tự kinh tế”, nhưng người này chỉ thắng phiếu ở tiểu bang sinh trưởng của mình mà thôị (Give Me Liberty! An America History, 2nd ed., TG Eric Foner, NXB W.W. Norton, 2009, tr. 662, 691, 734).
Dewey, theo Alan Ryan cho biết, đã lên tiếng chỉ trích những biện pháp mà Tổng Thống Roosevelt dùng để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1930 dưới ngọn cờ chủ nghĩa tự do (liberalism). Như chúng ta đã biết, Tổng Thống Roosevelt đã đưa ra khá nhiều biện pháp can thiệp rất mạnh mẽ và táo bạo vào các lãnh vực kinh tế (chẳng hạn nhiều luật lệ, qui định nhằm hạn chế quyền tự do kinh doanh, nghiệp đoàn), nhiều biện pháp hành chánh (chẳng hạn cơ quan mới mọc lên như nấm, lắm khi quyền hạn trùng lắp), cải tổ tư pháp (chẳng hạn trong nhiệm kỳ đầu đã lên tiếng đe dọa, rồi sang đầu nhiệm kỳ thứ hai đã thật sự đưa ra dự luật nhằm tăng thêm số thẩm phán tại Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, nhưng bị bác). Tuy ông còn được tín nhiệm thêm hai nhiệm kỳ nữa — ông mất vài tháng sau vào đầu nhiệm kỳ thứ tư—nhưng dư luận trong nước đã tỏ ra lo ngại đối với quyền tự do kinh doanh, với guồng máy chính quyền cồng kềnh và nhất là đối nền dân chủ truyền thống. Trong khi đảng Cộng Hòa chống đối và ngay cả nhiều đảng viên “bảo thủ” của đảng Dân Chủ cũng phải e dè, thì Dewey cho là tất cả biện pháp này còn quá thiếu cho một nghị trình cải tổ dân chủ xã hội đầy đủ. Dewey còn đứng ra thành lập ra tổ chức có tên là The League for Independent Political Action (LIPA) vào tháng 12/1928, chỉ mười tháng trước khi cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế xảy ra, với ý định tiến đến một chính đảng thứ ba, vì theo ông cả 2 đảng Cộng Hòa và Dân Chủ ăn nên làm ra và trở nên giàu có đều nhờ vào giới sản xuất với cái giá mà giới tiêu thụ và lao động phải trả. Tuy ông không chấp nhận một đảng xã hội hay cộng sản (Social or Communist Party) vì cho rằng chúng do Moscow điều khiển, nhưng theo ông, Hoa Kỳ là một quốc gia mà giai cấp trung lưu là chủ yếu cho nên phong trào cải tổ phải dựa vào giai cấp trung lưu cực đoan này (the radical middle class) và phải thực hiện ngay. (John Dewey and the High Tide of American Liberalism, NXB W.W. Norton. 1995, tr. 284 – 303).
Bên cạnh những bất đồng chính kiến nói trên, theo John P. Diggins, CNTD còn bị phê phán là “thiếu ‘một cảm nhận có kịch tính về cuộc sống’, đánh giá thấp quá khứ là cản trở cho sự tiến bộ, đòi hỏi các tư tưởng gia phải điều chỉnh với các tình huống, hơn là làm cho các tình huống phù hợp với nhu cầu và ước muốn của con người, và qua việc khuyên các nhà trí thức nên học hỏi các bí mật tự nhiên đã làm cho quyền lực trở thành đối tượng duy nhất của tri thức”. Lewis Mumford, trong ban biên tập của tờ New Republic, cơ quan ngôn luận của đảng Dân Chủ, còn “muốn Hoa Kỳ từ bỏ chủ nghĩa thực dụng, và xem lại di sản trí thức của riêng mình” (The Promise of Pragmatism, NXB The University of Chicago Press, tr. 366 – 368). Cũng theo Diggins, một biến cố khá quan trọng khác xảy ra trong lãnh vực hàn lâm đã ảnh hưởng không ít đến CNTD. Đó là vào năm 1936, Robert Hutchins, Viện Trưởng (President) trẻ trung và năng động của University of Chicago đã kêu gọi sửa đổi học trình ban Ban Cử Nhân bằng cách sử dụng những quyển sách kinh điển nổi tiếng Tây Phương và dạy theo tinh thần đối thoại của Socrate, và như thế có thể sẽ là sự trở lại của siêu hình học mà CNTD đã lâu nay công kích. Là một triết gia chính trị, Dewey tuy tin tưởng vào cộng đồng, thấy được sự thăng hoa của Hoa Kỳ, một quốc gia của những sự thật hiển nhiên và các quyền tự do cá nhân tư nhiên dưới thời tổng thống Jefferson, nhưng ông không tin rằng Hoa Kỳ cần một nền tảng triết lý chung (a common philosophical foundation). Ông đáp ứng lại bằng cách viết rằng khi người này chọn Socrate và Saint Thomas như là những nhà truyền bá có khả năng về những chân lý hàng đầu (as competent promulgators of first truths), thì cũng có kẻ khác lại thích Hegel, Marx hay Mussolini, và cho rằng Viện Trưởng Hutchins đã xâm phạm vào vấn đề: ai là người có quyền quyết định về sự thật rõ ràng nào tạo lập ra hệ cấp thứ bậc đó (sđd., tr. 392).
Từ những biến cố lớn nhỏ kể trên, người Mỹ bớt lần hào hứng với CNTD. Những nhà thực dụng khi bày tỏ những quan tâm của mình về phương diện chính trị đều là những người theo chủ nghĩa tự do về chính trị (political liberalism); nhưng như chúng ta thừa biết, khi tham gia vào các tranh cãi chính trị, thì uy tín trước đó của họ cũng thay đổi và triết thuyết mà họ đang theo cũng chịu ảnh hưởng, có thể tích cực hay tiêu cực tùy theo kết quả mang lại qua các cuộc tranh cãi đó. Chính quyền Roosevelt, trong đó có không ít những người theo CNTD, đã đưa ra nhiều biện pháp chống khủng hoảng kinh tế tuy mang lại một ít hiệu quả ban đầu, nhưng đồng thời cho thấy quá nhiều dấu hiệu đe dọa nền kinh tế tư bản và thể chế chính trị dân chủ Hoa Kỳ. Nếu không xảy ra chiến tranh đưa đến toàn dụng nhân công và guồng máy kinh tế, thì liệu những biện pháp can thiệp mà thủa đó người ta xem là rất tả khuynh liệu có đem hiệu quả lâu dài không. Lúc đó, không có những lời giải thích có hệ thống và rõ ràng đối với đủ loại biện pháp từ phía chính quyền. Thiết tưởng cần lưu ý là lý thuyết kinh tế John M. Keynes mới ra đời (1936), chưa được đem ra áp dụng trên nước nào cả, cho nên những biện pháp can thiệp có tính cách manh múng của chính quyền Roosevelt được xem là thiếu căn bản lý thuyết.

Theo Morris Dickstein, phản ứng chống lại chủ nghĩa cấp tiến (progressivism) sau 1920 biến thành phản ứng chống lại CNTD từ những người bảo thủ vốn xem Hoa Kỳ là một quốc gia ngoại lệ và thành công. Sau Thế Chiến Hai, phản ứng chống đối lại này lại càng thêm rõ nét hơn. Thêm vào đó, nhiều học thuyết mới mẻ ra đời từ châu Âu như thuyết hiện sinh, thuyết thần học về khủng hoảng (crisis theology), phân tích tâm lý, học thuyết hiện đại (modernism) tỏ ra hấp dẫn hơn đã lôi cuốn không ít giới trí thức Mỹ. Mặt khác nỗi lo sợ sự bành trướng và đe dọa của Liên Xô đã khiến quần chúng Mỹ hăng hái tìm hiểu chủ nghĩa cộng sản/xã hội, đồng thời chiến tranh lạnh bắt đầu bổ vây thế giới, khiến quần chúng Mỹ quan tâm đi tìm cội nguồn của sự sợ hãi đó. Một số di sản trí thức như CNTD, và một số “-ism” khác như định chế học (institutionism), thái độ học (behaviorism), chủ nghĩa duy lý thực tiển về luật pháp (legal realism), chủ thuyết quyết định về kinh tế (economics determinism) mà các trường đại học Mỹ hãnh diện giảng dạy lâu nay bắt đầu bị lấn lướt. Một số quan điểm mà Dewey được xem như “vua”, nay đã phải nhường chỗ cho Kierkegaard, một triết gia hiện sinh. (The Revival of Pragmatism: New Essays on Social Thought, Law, and Culture. NXB Duke University Press 1999, tr. 9)

Trong nhiều năm kế tiếp, đặc biệt từ sau Thế Chiến Hai, mặc dù về phương diện chính trị, hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa thay phiên nhau nắm quyền — ở các cấp liên bang, tiểu bang và địa phương — nhưng chủ nghĩa tự do (liberalism) vẫn không phát triển nỗi như mong ước của nhiều người, nhất là những người khuynh tả, thậm chí đôi lúc người ta không gọi đúng tên của nó, mà lại tránh né gọi là chủ nghĩa cấp tiến/tiến bộ (progressivism), như chúng ta có thể thấy ở tựa đề một số bìa sách cũng như bên trong hay bài nghiên cứu trên báo chí do các đảng viên đảng Dân Chủ viết. Đến khi Russell Kirk cho ra đời quyển The Conservative Mind (1953), trong đó thu thập những diễn ngôn chính trị, truyền thống và văn thơ lần lần gây được niềm tin căn bản cho những người bảo thủ, cũng như sự ra đời của tờ báo National Review làm chỗ dựa cho đảng viên Cộng Hòa, tạo thành một phong trào thu hút một đại bộ phận người Mỹ, thì ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do (liberalism) bị suy giảm rất nhiều, kéo xuống theo mức hấp dẫn của triết thuyết thực dụng của ba nhà thực dụng tiền phong nói trên– thường gọi là chủ nghĩa thực dụng cũ, cổ điển hay truyền thống (old, classic or traditional pragmatism).

TÂN CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG

Ngày nay các học giả Hoa Kỳ và thế giới đều công nhận Richard Rorty là người có công lớn nhất trong việc tái sinh chủ nghĩa thực dụng, và Hilary Putnam là người đóng góp không ít vào việc hoàn thiện và phát triển nó. CNTD được tái sinh này được gọi bằng nhiều tên khác nhau: CNTD tân tiến (modern pragmatism), CNTD hiện đại (contemporary pragmatism), CNTD mới (neo/new pragmatism). Trong bài này, người viết gọi đó là tân chủ nghĩa thực dụng (Tân CNTD) để dịch cái tên New Pragmatism. Nói một cách tổng quát, Rorty và Putnam đến từ những lãnh vực nghiên cứu khác nhau, tính tình cũng khác nhau. Tuy họ chia xẻ một số quan điểm của các nhà tiền phong của CNTD cổ điển, nhưng cách nhìn của họ không giống nhau, Vì vậy, tìm hiểu Tân CNTD không phải là điều dễ dàng. Dưới đây, người viết sẽ căn cứ trên vài ba tác phẩm của Rorty và Putnam, cũng như dựa vào một số các nguồn khác viết về họ (nghiên cứu, trích dẫn, phỏng vấn, tranh luận vv.) nhằm khiêm tốn giới thiệu ngắn về Tân CNTD.
Như chúng ta thừa biết CNTD ra đời phải cạnh tranh với chủ nghĩa hiện thực (realism) và chủ nghĩa lý tưởng (idealism) để chứng tỏ sự vượt trội của mình trong nhiều lãnh vực mà quan trọng hơn cả là trong các lãnh vực siêu hình, tri thức luận và lý thuyết về giá trị. Rorty và Putnam góp phần quan trọng trong việc hồi sinh CNTD cổ điển, nhưng sự đóng góp của họ cho phong trào này khá khác nhau, và giữa họ đã có những tranh luận dai dẳng tuy không gay gắt. Theo Alan Malachowski, tác giả của nhiều tác phẩm về Tân CNTD, thì Rorty không quan tâm nhiều đến lý thuyết CNTD cổ điển mà chỉ muốn hiện đại hóa một số phạm trù, như muốn bớt đi sự lệ thuộc của CNTD vào thực nghiệm, cũng như muốn nó từ bỏ sự sùng bái phương pháp khoa học. Trong khi đó, Putnam –chưa tự nhận mình là người theo CNTD– lại nghiên cứu kỹ lưỡng một số tác phẩm của ba tác giả thực dụng cổ điển này, tìm ra một số khuyết điểm, so sánh với quan điểm của các tác giả đương thời, rồi sửa sai và bổ sung cho hoàn thiện hơn. (The Cambridge Companion to Pragmatism, NXB Cambridge University Press, 2013, tr. 5 – 6). Thậm chí, trong một tác phẩm khác, Malachowski còn cho rằng Putnam chỉ làm công việc “chuẩn bị” mà chưa viết được gì nhiều về CNTD, tuy nhiên ông nhìn nhận rằng chính uy tín lớn lao của Putnam trong lãnh vực triết học nói chung đã lôi cuốn được nhiều người theo phong trào hồi sinh CNTD.

Richard Rorty (1931 – 2007)

Rorty theo chương trình cao học tại Universiy of Chicago khi trường này vẫn còn chịu một chút ảnh hưởng của CNTD cổ điển, trình luận văn (thesis) về siêu hình học. Sau đó, ông tiếp tục chương trình tiến sĩ tại Yale University (1952 – 1956) với các giáo sư có hiểu biết rộng rãi về CNTD cổ điển này. Luận án (dissertation) ra trường, The Concept of Potentiality, viết về lịch sử của khái niệm. Trong thời gian sinh viên của ông, triết học phân tích (analytical philosophy) khá thịnh hành. Theo triết thuyết này, tiến trình phân tích là trọng tâm cốt lõi – xin nhấn mạnh, vì chủ thuyết nào lại không ít nhiều sử dụng nó– của phưong pháp triết học; ngôn từ thường ngày chỉ là bề ngoài, và trong tiến trình phân tích người ta có thể khám phá ra được cấu trúc lý luận giúp giải quyết những vấn đề triết học. Rorty tỏ ra rất thành thạo và thành công trong việc sử dụng phương pháp phân tích này; nhưng về sau ông quay lại chống đối trước sự phát triển mạnh mẽ của nó. Sau đó, năm 1982 ông rời ghế giảng dạy triết học ở Princeton University vì cảm thấy không yên tâm làm một triết gia chuyên nghiệp (professional philosopher) để nhận một nghề mới liên ngành, giáo sư về nhân bản học (professor of humanities) tại University of Virginia trong gần hai thập niên. Đến năm 1998, ông lại chuyển qua Stanford University bên miền Tây với chức vụ mới, giáo sư văn chương so chiếu (comparative literature).
Qua tiểu sử ngắn về khả năng nghề nghiệp đa dạng trên, chúng ta thấy các công trình nghiên cứu đồ sộ của ông sẽ đề cập đến nhiều lãnh vực, nhưng quan trọng nhất và trước tiên là quyển Philosophy and the Mirror of Nature, NXB Princeton University Press, 2009. Trong lời giới thiệu ấn bản kỷ niệm 30 năm ngày ra đời của tác phẩm này, Michael William cho rằng nó đã tạo ra những cơn sóng chấn động đến những triết gia chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến sự hồi sinh của CNTD Mỹ. Đó là một công trình bao trùm lãnh vực rộng lớn và đầy tham vọng, bao gồm nhiều phạm trù, như tri thức học, triết lý về trí não, triết lý về ngôn ngữ, và nhiều thứ khác nữa. Theo Rorty, “Triết học là nền tảng đối với những phần còn lại của văn hóa vì văn hóa là tập hợp những đòi hỏi của tri thức, và triết học phán quyết những đòi hỏi này. Nó làm được thế bởi vì nó hiểu được nền tảng của tri thức, … của “tiến trình động não” (mental process), hay “hành động đại diện” (activity of representation) nhờ đó mà tri thức hình thành được ….Triết học càng thêm “khoa học” và nghiêm khắc hơn, thì phần còn lại của văn hóa lại càng trở nên ít được như thế hơn, và các sự phô trương truyền thông dường như trở nên phi lý hơn. Triết học nói chung bị từ chối bởi những kẻ muốn có một ý thức hê …” Trong bối cảnh đó, Rorty tìm ra được 3 triết gia mà ông cho là quan trong nhất của thế kỷ. Đó là Wittgensten, Heidegger và Dewey; nhưng ông nhận xét rằng hai người trước chỉ quan tâm đến cá nhân con người, còn Dewey mới là người đề cập đến xã hội. Rorty cho rằng trong một xã hội lý tưởng, văn hoá không còn bị chế ngự bởi nhận thức khách quan lý tưởng (ideal objective cognation), mà là bởi sự nâng cao về mỹ học (aesthetic enhancement). Theo ông, trong nền văn hóa đó, các ngành nghệ thuật và khoa học sẽ là “những bông hoa đời mọc nở tự nhiên” (unforced flowers of life). Rorty mong muốn người ta rút lại những lời phê phán mà họ đã dành cho Dewey, tức kết tội ông theo chủ nghĩa tương đối ‘relativism’ và chủ nghĩa phi lý ‘irrationalism’. (sđd, tr. 5 –13). Trong quyển sách nhằm mục tiêu tranh luận về triết học phân tích này, Rorty viết với kỷ thuật của một triết gia phân tích; nhưng sau đó, ông viết với lý luận hậu-triết học phân tích (post analytic philosophy), không còn xem những giả định là cần thiết vì những giả dịnh đặt trên nền tảng tiên nghiệm, mà dựa trên những mối quan tâm nhân bản khác.
Theo Rorty, khoa học cung ứng cho con người hiểu biết thực nghiệm, nhưng không thể cho biết những gì xảy ra đối với căn bản của sự hiểu biết đó. Ông lần lượt phủ nhận học thuyết đại diện (representationism — ND: Nói chung, đó là một học thuyết cho rằng trí óc, đôi khi bộ não, hành xử đại diện cho sự vật mà chúng ta hình dung ra, hay suy nghĩ về) của Descartes, Lockes, Kant mà ông cho là nó chỉ đưa chúng ta tới sự tìm hiểu các mức độ khác nhau mà thôi. Rorty cho rằng nếu không phân biệt được “cái có sẵn” và “cái được thêm vào” …. thì chúng ta sẽ không biết cái gì được xem như là “sự tái dựng hợp lý” (rational reconstruction) của tri thức, và chúng ta sẽ không biết mục tiêu và phương pháp của môn tri thức học là gì. Về khía cạnh này, Rorty cho rằng thế giới hiện hữu một cách độc lập với con người, mà ảnh hưởng của những nguyên nhân của nó thì không bao gồm trong các trạng thái tinh thần của con người, và không cần phải được đại diện chi cả. Do đó, thay vì đi tìm hiểu mối liên kết giữa trí não và thế giới, chúng ta nên dùng ngôn ngữ thích hợp.
Luận về vaì trò của ngôn ngữ, Rorty chỉ cho thấy rằng: “Hình ảnh trong triết lý cổ và trung cổ liên quan đến “những đồ vật” (things), của triết lý suốt các thế kỷ 16-18 là “những ý tưởng” (ideas) và của triết lý đương thời là “các từ vựng” (words); nhưng đừng vì thứ tự thời gian đó mà cho rằng triết thuyết này là sơ đẳng hay triết thuyết kia là nền tảng. Đó không vì lý do Arsitotle nghĩ rằng người ta có thể giải thích “ý tưởng” hay “từ vựng” bằng thuật ngữ “đồ vật”, mà là vì Aristotle không có một triết thuyết về tri thức …. Rorty tin rằng nếu chúng giải thích được phương cách mà ngôn ngữ hành xử (work) thì điều đó cũng giúp chúng ta hiểu được phương cách mà ngôn ngữ gắn chặt với nhân loại, và do đó cũng hiểu được bằng phương cách nào mà chân lý và tri thức đã có thể có được. (sđd. tr 257 – 273)


Trong bài nói chuyện tại trường đại học UC Berkely năm 1980, bàn về vai trò của phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu, Rorty giải thích rằng khi thành công, Galileo nói quyển Sách Thiên Nhiên (the Book of Nature) đã được viết bằng từ vựng toán học, thì ông ta muốn nói rằng từ vựng toán học không tình cờ mang lại kết quả, mà nó mang lại kết quả chỉ vì mọi thứ vốn đã sẵn bày rồi, nay từ vựng toán học mang lại kết quả bởi vì nó thích hợp với vũ trụ giống như cái chìa khóa vừa khít với ống khoá vậy. Theo Rorty, từ đó các triết gia cứ cố gắng, và thất bại, khi cảm nhận rằng phương pháp mang lại kết quả bởi vì mọi thứ vốn được bày sẵn rồi. Và cũng từ đó, trong phương pháp nghiên cứu, các thuật ngữ “khách quan”, “nghiêm khắc”, “phương pháp” được đưa ra làm ranh giới biệt lập giữa khoa học và không-khoa học. Chẳng mấy ai dám đưa ra ý kiến là khoa học chẳng có gì bí mật cho sự thành công cả; lại càng chẳng có mấy ai giải thich được vì sao từ vựng về dân chủ tự do (vocabulary of liberal democracy) lại mang đến kết quả tốt đẹp như ngày nay. Rorty xác nhận mình tin rằng các ý tưởng truyền thống như khái niệm tuyệt đối (khách quan) về hiện thực, phương pháp khoa học thì hoặc không rõ ràng, hoặc không hữu dụng; và ông khuyên mọi người nghiên cứu khoa học xã hội nên theo phương pháp của Dewey vốn nhấn mạnh đến phương cách trần thuật (narrative) và từ vựng, hơn là tính khách quan của luật pháp và lý thuyết. …Theo Rorty, có hai đòi hỏi phân biệt đối với từ vựng dùng nghiên cứu trong các khoa học xã hội: (1) Nó phải bao gồm những mô tả các tình huống giúp làm dễ dàng cho việc tiên đoán và kiểm soát, và (2) Nó phải bao gồm những mô tả giúp người nghiên cứu quyết định phải làm gì…. Đối nhu cầu cần bỏ đi các khái niêm truyền thống, như tính hợp lý, tính khách quan, phưong pháp, chân lý, Rorty cho rằng quan điểm của Nietzsche và quan điểm của CNTD không có gì khác nhau. Khi Nietzsche cho rằng đối tượng của các triết gia là phải sản sinh ra sự thật thông qua quyền lực, và họ không thể hành xử quyền lực trừ phi phải thông qua sự thật, và rằng điều sai lầm của triết học thay vì dùng logic và lý luận như những phương tiện để đem lại cứu cánh ích dụng cho thế giới, thì người ta lại nghĩ rằng những phương tiện này sẽ đưa ra một tiêu chuẩn chân lý về hiện thực, thì theo Rorty, James đã cho rằng “các ý tưởng trở thành sự thực chỉ khi chúng giúp chúng ta nhận thức ra mối liên hệ thỏa đáng với trải nghiệm”, và Dewey cũng viết là “tính hợp lý là sự đạt được hài hòa khả dĩ giữa các ước muốn khác nhau.” (Consequences of Pragmatism, NXB University of Minnesota Press, 1982 tr. 191 – 195)
Trong phần giới thiệu tuyển tập Pragmatism as Anti-Authoritarianism (HĐ Eduardo Mendieta, NXB Harvard University Press, 2021), Robert Brandom viết rằng tác phẩm gồm 10 bài nói chuyện quan trọng này của Rorty nhằm mục tiêu giúp chúng ta, về phương diện lý thuyết cũng như về thực hành, thoát khỏi phải chịu đựng các quyền lực phi nhân. Rorty muốn CNTD đem lại những thay đổi lớn lao, tạo nên một cuộc “Sáng Thế” thứ hai (a second Enlightenment), không còn xem quyền lực và trách nhiệm là phải phụ thuộc và vâng lời, như truyền thống, nghĩa là CNTD chống lại toàn trị, như tựa đề của quyển sách đã nêu ra. Về phần mình, Rorty chủ trương rằng các xã hội vốn ngờ vực các giá trị Tây phương nay nên theo Tây phương bằng cách bỏ chế độ nô lệ, thực hành sự khoan dung tôn giáo, khuyến khích nền giáo dục cho phụ nữ, khoan dung hôn nhân đồng tính, cho phép hôn nhân giữa các chủng tộc, phủ nhận chiến tranh một cách có ý thức v.v. Ông khuyến khích chúng ta làm điều này với tư cách là thành viên tinh thần của cộng đồng thế giới. Điểm quan trọng ở đây là ông cho rằng chúng ta nên từ bỏ chủ nghĩ duy lý thời kỳ Sáng Thế này (Enlightenment rationalism) vì từ bỏ nó thì mới có thể dễ chấp nhận những giá trị khác (không Tây phương); vả chăng đây là lãnh vực của các triết gia chuyên nghiệp! Rorty chủ trương chúng ta nên theo chủ nghĩa tự do thời Sáng Thế (Enlightenment liberalism) — mà theo người viết ông muốn chúng ta hiểu theo cả hai nghĩa: nghĩa tiêu cực (tức tôn trọng tự do cá nhân, không can thiệp vào đời sống. sinh hoạt riêng tư vv.) lẫn nghĩa tích cực (ngoài nghĩa tiêu cực ra, còn có thể/nên can thiệp để tạo công bằng xã hội. (sđd tr.157 – 158)
Rorty, khi kêu gọi cải tổ xã hội nhằm tạo dựng công bằng xã hội cho Hoa Kỳ, đã nhắn với các học giả cánh tả là không cần phải nghiên cứu văn hóa nữa vì nghiên cứu văn hóa đã được học gỉả Mác xít làm nhiều rồi, mà nên nổ lực nghiên cứu chính trị để huy động niềm hãnh diện của người Mỹ về sự thành công của Hoa Kỳ, để tôn vinh giá trị nền dân chủ Mỹ, xem nước Mỹ là một ngoại lệ, cũng như đánh giá cao niềm tin và truyền thống của người Mỹ, mà tất cả được ông gọi chung là “tôn giáo dân sự” (civil religious — chữ do Jean J. Rousseau đặt ra để phân biệt với nhà thờ và các định chế tôn giáo khác). Theo ông, cánh tả vẫn còn tiếp tục nghĩ dến những sắc tộc và thiểu số bị áp bức, nước Mỹ không nên là một cái nồi nấu tan chảy mọi thứ (a melting pot). Ông cho rằng, “Cánh tả này muốn duy trì cái điều khác, hơn là không thèm để ý tới nó (This Left wants to preserve otherness, rather than ignore it). Đối với ông, người Mỹ phải mô tả xứ sở mình dưới hình thái mà mình hy vọng nó sẽ trở thành, cũng như theo cách mà mình biết hiên nay nó đang như thế nào. Nói tóm lại, người Mỹ phải sống với và tranh đấu cho một nước Mỹ mà mình mơ ước. (Achieving Our Country: Leftist Thought in Twentieth-Century America, TG Richard Rorty, NXB Harvard University Press, 1998, tr. 3 –18 và tr. 100 –107). Đây là một lời khuyên tốt của Rorty, không những đúng cho người Mỹ, mà còn cho công dân của mọi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nghĩ Rorty không hoàn toàn đúng ông khi chủ trương rằng nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu chính trị là hai lãnh vực nên tách rời nhau; thực tế cho thấy, ngay cả trong những nước đang phát triển, sự áp đặt một “ý thức hệ chính trị” ngoại nhập lên một nền văn hóa truyền thống thường đã đưa đến xung đột đẫm máu, hay tan vỡ khó hàn gắn, hay phải lâu lắm mới hàn gắn lại được, trước khi xã hội đó chập chững bước tới theo ngọn cờ mới.

Hilary Putnam (1926 – 2016)

Putnam theo học chương trình cử nhân tại University of Pennsylvania. Sau đó học một năm tại Harvard Univerity, rồi chuyển qua University of California (Berkely) và tốt nghiệp PhD với luận án tiến sĩ về xác suất. Từ 1965, ông dạy tại đại học Harvard và nhiều nơi trên thế giới với nhiều môn khác nhau. Các công trình nghiên cứu đầu tiên được ấn hành liên quan đến triết lý về khoa học, về siêu hình học và về toán; không có báo hiệu nào quan trọng cho biết ông sẽ chuyển sang triết học thực dụng. Từ 1980 trở đi, ông viết nhiều trong lãnh vực CNTD nhằm bổ sung quan điểm của ba triết gia tiền phong của phong trào này, Pierce, Dewey trước rồi mới tới James.
Theo Cheryl Misak, thì ngay từ năm 1976, trong bài diễn văn khai mạc với tư cách Chủ Tịch Hiệp Hội Triết Học Mỹ (American Philosophical Association), Putnam đã phân tích rõ ràng sự khác biệt giữa thuyết hiện thực siêu hình (metaphysical realism) mà ông bác bỏ và thuyết hiện thực nội tâm (internal realism) mà ông xem là đáng được nghiên cứu thêm. Thuyết trước là một loại triết thuyết thực dụng của Pierce, theo đó sự thật là điều vô cùng hợp lý đáng tin theo. Ông nói rằng tính duy lý là khả năng quyết định các vấn đề liên hệ và các câu trả lời được báo trước, và từ đó “lý thuyết về sự thật đưa ra tiền-gỉả-định (ND: tức đưa ra trước những điều gì đó mà mình coi là đúng) về thuyết duy lý), mà lý thuyết này đến lượt nó lại đưa ra tiền-giả-định về lý thuyết điều thiện” (theory of truth presupposes theory of rationality which in turn presupposes our theory of the good”. Quan điểm này nở rộ trong các công trình nghiên cứu của Putnam trong thập niên 1980, nhưng ông vẫn luôn cẩn trọng tránh chỉ rõ vị thế của mình đối với Pierce; ông chỉ muốn cung ứng phưong cách xác nhận thận trọng (gentle verificationism) nhằm cho phép chúng ta đưa ra mọi loại tra vấn khác hơn là chỉ tra vấn khoa học. Theo Putnam, cách xác nhận theo ý nghĩa này và cách xác nhận theo ý nghĩa tích cực cho thấy rõ ràng sự khác biệt giữa thái độ rộng lượng và cởi mở mà William James gọi là chủ nghĩa thực dụng và tính sùng bái khoa học.
Trong quyển Realism with a Human Face (HĐ James Conant, NXB Harvard University Press, 1990) gom góp một số bài nói chuyện quan trọng của mình, trong đó có bài viết chung với vợ (Ruth Anna), Putnam phê phán Peirce, James và Dewey còn mang nhiều tư cách khác ngoài tư cách nhà thực dụng (pragmatist), chẳng hạn Pierce còn là người được xem theo chủ nghĩa tương đối (relativism), William còn theo chủ nghĩa thực nghiệm cực đoan (radical empiricism), Dewey còn là người theo thuyết tiến hóa (evolutionism). Cách nhìn thuần khiết này không được một số người chấp nhận, viện lý do rằng muốn đạt tới sự thật, thì có những vấn đề cần phải được thử nghiệm hay thực nghiệm bằng những phương cách khác nhau –vả chăng đó cũng là tính đa dạng của CNTD như James đã từng viết, và nhất là CNTD cũng đã được Dewey gọi là chủ nghĩa công cụ (instrumentism) so với các chủ nghĩa khác. Dưới đây là một vài nhận định của đôi vợ chồng này về Peirce, James và Dewy.
Trong bài viết chung về James (tr. 217 -228), ông bà Putnam nhận xét rằng cả ba triết gia thực dụng dường như không rõ ràng về tri thức luận (epistemology). Peirce tuy chỉ rõ được sự khác biệt giữa phát minh lý thuyết khoa học giải thích (explanatory scientific theory mà ông gọi là “abduction”) và nhiều loại diễn giải qui nạp sơ đẳng khác, cũng như chủ trương rằng niềm tin cần phải được xem xét lại (mà ông gọi là fallibilism) và nhấn mạnh rằng các lý thuyết khoa học phải được trắc nghiệm, nhưng lại cho rằng các nhà khoa học cần có những trực giác tốt (good intuitons) như trực giác đề ra lý thuyết, trực giác đề ra thứ tự cần làm theo để trắc nghiệm những lý thuyết xuất hiện trong đầu. Quan sát này được James và Dewey tiếp nhận và triển khai bằng cách minh thị xác nhận rằng ý tưởng về phương pháp luận tiến triển trong khi tra vấn. Theo hai tác giả Putnam, thì ngày nay có nhiều học giả đề ra những phương cách mới; trong đó một học giả có tên là W.V.O. Quine đưa ra ý kiến là tiến trình tra vấn gồm những trao đổi (trade-offs) giữa điều giản dị, sự duy trì học thuyết cũ và sự tiên đoán được chọn sau cùng (James cũng nghĩ thế) ; tuy nhiên Quine tỏ ý nghi ngờ về việc làm cho những trao đổi này có thể được rút giảm lại thành những qui luật chính xác.
Phê bình James như là một triết gia tinh thần (a moral philosopher), hai tác giả này cho biết James phủ nhận tri thức luận truyền thống về dữ kiện cảm nhận (traditional sense-datum epistemology) và tự hỏi làm sao chúng ta có thể đi đến hiểu biết về thế giới chung này khi mà chúng ta có một con số rất lớn những thế giới riêng tư (private worlds), gồm thế giới các dữ kiện cảm nhận của anh, của tôi, của người này, của kẻ nọ vv. nghĩa là của vô số người. Họ cũng lý luận rằng ngay cả trong tri thức luận thuần khiết và siêu hình học, thì mối quan tâm về con người như là những thành viên tương thuộc của một cộng đồng đã hướng dẫn James trong mọi lãnh vực nghiên cứu. Họ cũng chỉ cho thấy James phân biệt hai thế giới. Một là thế giới chỉ có một người biết cảm nhận (sentient being) mà James gọi là “niềm cô đơn tinh thần” (moral solitude), ở đó không có niềm tin nào đựợc xem là thật cả vì sự thật được giả định trước là cái gì đó ở bên ngoài người nghĩ. Và thế giới kia là thế giới có nhiều “niềm cô đơn tinh thần” nhưng chẳng ai quan tâm tới ai cả, vì sự thật giả định trước là một công đồng. Theo hai tác giả, chỉ yếu tố cộng đồng thôi thì chưa đủ. Họ cho rằng theo nhiều nhà thực dụng uy tín khác, thì “chân lý” của giáo phái Khomeini không xứng đáng được gọi là chân lý bởi vì nó không đáp ứng cho điều gì khác ngoại trừ ý chí của người lãnh đạo. Theo hai tác giả, một cộng đồng đặt thử thách các niềm tin trước trắc nghiệm là đòi hỏi tối thiểu cho sự hiên hữu của chân lý. Cái nhìn quan trọng này về mối liên hệ sâu sắc giữa chân lý, thực tế và cộng đồng đã giúp James đưa ra khái niệm “tôn giáo trung quan” (melioristic region –ND: meliorism là chữ được đặt ra để chỉ thái độ giữa bi quan và lạc quan, chủ trương con người có khả năng làm cho thế giới tốt đẹp hơn)
Cũng trong quyển sách này, Putnam bác bỏ ý kiến của James khi James cho rằng đến nay người ta vẫn chưa biết được lúc nào chúng ta đang “ảo tưởng” và lúc nào chúng ta không ảo tưởng. (ND: hallucination, một tâm bệnh mà người mắc phải cho biết mình đôi khi thấy hay nghe một thứ gì đó hoàn toàn không có trên thực tế). Theo Putnam, đó là vì James không thấy được phương cách mà nhiều người vốn chỉ quen thuộc với những đồ vật/sự vật riêng tư của mình, lại có thể tiến đến được sự hiểu biết và thậm chí tư tưởng của nhau qua tiến trình giải thích.
Qua một bài viết có tựa đề A Reconsideration of Deweyan Democracy (được in trong Pragmatism in Law & Society, HĐ Michael Brint & William Weaver, NXB Westview Press, 1991, Ch. 12 tr. 217 – 240), Putnam với nhãn quan của nhà thực dụng, đã khảo sát tư tưởng chính trị và xã hội của Deweỵ và những người theo Dewey. Trước hết ông tóm tắt quan điểm của nhà thực dụng tiền phong này như sau: Dân chủ không những là một dạng thức trong nhiều dạng thức khác của đời sống xã hội, mà còn là điều kiện tiên quyết trong việc áp dụng trí thông minh để giải quyết các vấn đề xã hội. Sau đó ông luận về trí thông minh và việc giải quyết vấn đề. Theo ông, Dewey cho rằng trí thông minh (tương phản với lý lẻ, một khái niệm trong triết học truyền thống) không phải là khả năng siêu phàm (transcendental faculty); mà chỉ đơn giản là khả năng họach định cuộc nghiên cứu, biết được các sự kiện liên quan, làm các thử nghiệm và hưởng dụng việc hoạch định, các sự kiện và các thử nghiệm đó. Khái niệm này được coi như khá mơ hồ; nhưng quả thực có khả năng quyết định được ai thông minh ít hoặc nhiều trong việc dẫn dắt cuộc nghiên cứu. Putnam cũng tuyên bố rằng đóng góp lớn nhất của Dewey là khi xác quyết rằng chúng ta không có và cũng không cần một “lý thuyết về mọi thứ” (theory of everything), đồng thời nhấn mạnh rằng điều cần thiết là hiểu biết sâu sắc (insight) về phương cách mà con người giải quyết các tình huống. Putnam cho rằng Dewey đã từng đưa ra ý kiến như thế, nhưng một số nhà nghiên cứu đương thời (thập niên 1980) đã không nhận ra, hay hiểu không đúng. Tuy nhiên, Putnam cũng phê phán rằng Dewey ít nhạy cảm (sensitive) hơn James đối với giới hạn của trí thông minh, chỉ vì Dewey bị chi phối bởi nguyên lý nhị nguyên về những điều tốt của con người (dualistic conception of human goods). Theo đó, Dewey cho rằng chỉ có hai loại lãnh vực cho đời sống con người: lãnh vực thẩm mỹ (aesthetic dimension) và lãnh vực xã hội (social dimension). Dewey cho rằng lãnh vực xã hội là sự phấn đấu cho một thế giới đẹp đẽ hơn, một xã hội tốt lành hơn, và giải phóng được tiềm năng con người; còn tất cả “trải nghiệm đột hảo” (ND: consummatory experience, tức trải nghiệm có hậu quả tốt nhờ vào tình cờ hay hứng khởi, không qua tiến trình thử nghiệm khoa học như CNTN chủ trương) đều thuộc lãnh vực thẩm mỹ. Dewey chủ trương rằng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, chúng ta cần có trí thông minh để thực hiện, không nhất thiết phải là trí thông mình của các chuyên gia, bởi lẽ họ là giới được ưu đãi sẽ không vì đại chúng, mà là trí thông minh của mọi con người. Trí thông minh này có được là nhờ giáo dục.
Về chủ trương giáo dục, Putnam nhắc nhở rằng đối với hiện trạng, Dewey không còn là một người tự biện (apologist), mà trở thành một kẻ cực đoan. Để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, nếu Marx chủ trương “cách mạng”, thì Dewey chủ trương phải gấp rút thay đổi “giáo dục”. Ông nhiều lần nhấn mạnh phải xem “giáo dục” là nhu cầu khẩn thiết, phải có một nền giáo dục nhằm đào tạo con người, nam cũng như nữ, biết cách học hỏi và tư duy có phê phán. Theo Dewey, nền giáo dục và nền dân chủ phải tiến hành từ dưới đi lên. Theo Putnam, Dewey đã từng viết rằng an lạc xã hội chỉ có thể tăng tiến nhờ phương cách chiêu mộ và qui tụ sự quan tâm tích cực và năng lực sinh động của những người sẽ được hưởng lợi và những người được cải thiện. Về phần mình, Putnam nghĩ rằng sự cam kết nghiêm túc với dân chủ được đo lường và đánh giá qua sự cam kết nghiêm túc với giáo dục, và ông tiết lộ rằng ông cảm thấy xấu hổ về nền dân chủ (Hoa Kỳ) vào cuối thế kỷ 20. Chúng ta hẳn không quên rằng Putnam và Rorty đều trưởng thành trong gia đình tả khuynh, và đã từng hoạt động rất tích cực trong phong trào sinh viên Mỹ chống Chiến Tranh Việt Nam, và đã thay đổi quan điểm chính trị ít nhiều về sau này. Cả hai đều đã qua đời. RIP
Đối với vai trò của dân chủ, Putnam trong một cuộc phỏng vấn cho biết là ông tin chắc rằng ngoài giá trị về phương diện đạo đức –tức thuộc về lãnh vực chính trị– dân chủ còn có giá trị về phương diện nghiên cứu, như lời đã dẫn dưới tiêu đề của bài viết này. Ông còn nhấn mạnh rằng phủ nhận dân chủ là phủ nhận rằng ý kiến cần phải qua thực nghìệm, và bấy lâu nay, chúng ta đã đủ kinh nghiệm hiểu biết là điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta nói rằng chúng ta không cần qua thực nghiệm hay thử nghiệm.

KẾT LUẬN

Trên đây, Tân CNTD được giới thiệu chỉ qua hai học giả Rorty và Putnam, cùng với một số rất ít quan điểm của họ trong một số lãnh vực hạn chế mà thôi. Cũng như đối với CNTD cổ điển, chúng ta biết ngoài họ ra, còn có nhiều nhà tân thực dụng khác nữa. Nói chung, CNTD, cổ và tân, còn đang ở tiến trình nghiên cứu, sửa sai và bổ sung để hoàn chỉnh hầu đáp ứng nhu cầu tri thức của nhân loại, cũng như áp dụng để phục vụ con người, nhất con người với tư cách là thành viên trong cộng đồng và xã hội rông lớn hơn, như ước muốn của những người tạo lập và tái sinh nó.
Người viết vốn không được đào tạo trong lãnh vực triết học, cũng như chính trị học, do đó bài viết này cũng như bài viết trước đây (“Tìm Hiểu Chủ Nghĩa Thực Dụng của Hoa Kỳ”) chỉ là những giới thiệu ngắn ngủi rời rạc, trong khi CNTD lại bao trùm quá nhiều phạm trù rộng lớn, chưa có quyển sách nào tóm lược đầy đủ. Tuy nhiên, người viết vẫn có một hy vọng. Đó là từ những gợi ý này, chúng ta có thể sẽ thấy xuất hiện nhiều nghiên cứu khác, đăc biệt là những nghiên cứu chi tiết nhằm vận dụng một cách chọn lọc CNTD vào hoàn cảnh Việt Nam trong nhiều lãnh vực, đặc biệt trong các lãnh vực chính trị, ngoại giao và giáo dục, để đề xuất những cải tổ hiện trạng một cách thích hợp nhằm giúp cho quốc gia được ổn định và cường thịnh hơn, cũng như cho xã hội được an lạc và nhân bản lâu dài hơn.

Lê Văn Bỉnh

(Virginia, tháng 1/ 2023)

Sách Đề Nghị Đọc Thêm về Tân Chủ Nghĩa Thực Dụng
Evidence and Inquiry: A Pragmatist Reconstruction of Epistemology (TG Susan Haack, NXB Prometheus Books, second expanded edition, 2009)
Pragmatism: A Contemporary Reader (HĐ Russel B. Goodman, NXB Routledge, 1995)
Reading Rorty: Critical Responses to Philosophy and the Mirror of Nature (HĐ Alan R. Malachowski, NXB Basil Blackwell, 1990)
Pragmatism and Social Hope: Deepening Democracy in Global Contexts (TG Judith M. Green, NXB Columbia University Press, 2009)
The Cambridge Companion to Pragmatism (HĐ Alan Malachowski, NXB Cambridge University Press, 2013)

Views: 76