Nhìn Người Lại Thấy…

Thơ Trần Văn Lương

Dạo:

Nhìn người anh dũng chống Nga,

Nhìn quê mình lại xót xa trăm phần.

 

Nhìn Người Lại Thấy…

 

    Xóa biên giới, lính Nga tràn ngập,

    Chiến tranh đà sầm sập tới nơi.

        Hỏa châu, đạn pháo đầy trời,

Tưởng chừng bão tố ngoài khơi ập vào.

 

    Quân giặc tiến ào ào như thác,

    Mạng người so cỏ rác nào hơn,        

        Đạn gào, bom thét từng cơn,

Đau thương vỡ đất, oán hờn tung mây.

 

    Chuỗi tàn phá đêm ngày tiếp nối,

    Trời Ukraine lửa khói mịt mù,

        Từng khu cháy lại từng khu,

Người dân vô tội, đạn thù chẳng dung.

 

    Tổng thống với lính cùng cam khổ,

    Nơi tuyến đầu bom nổ đạn bay,

        Bảo rằng nếu số chẳng may,

Cũng mừng sẽ được táng ngay quê nhà.

 

    Dân chúng phải bôn ba lánh nạn,

    Mong cuối đường di tản gặp may.

        Giặc thù pháo kích liền tay,

Khắt khe định mệnh, đắng cay cơ trời.

 

    Trạm truyển mộ, người người tiếp nối,

    Tình nguyện cùng đánh đuổi xâm lăng,

        Nhìn nhau chẳng nói chẳng năng,

Mắt rưng rưng mắt, lòng hăng hái lòng.

 

    Thầm biết rõ giặc đông gấp bội,

    Mình phải còn chống chọi nhiều nơi,

        Chỉ mong làm hết sức người,

 Thắng thua phó mặc cho Trời lo toan.

 

    Người dân sống bình an ngoài nước,

    Cũng ghi danh để được trở về,

        Góp bàn tay giữ gìn quê,

Khổ đau, sống chết chẳng hề để tâm.

 

    Toàn dân tộc âm thầm chịu đựng,

    Quyết hy sinh giữ vững cơ đồ,

        Cho dù quân ít thế cô,

Cho dù có thể không mồ che thây.

 

    Giặc tàn ác thẳng tay oanh tạc,

    Xác người dân rải rác xa gần,

        Nơi ăn chốn ở mất dần,

Trẻ già lớn bé nương thân chốn nào?

 

    Nhưng bạo lực không sao diệt được

    Những tấm lòng yêu nước nơi đây,

        Vững tin chẳng chóng thì chầy,

Bọn xâm lăng sẽ bó tay tan hàng. 

 ***

    Việt nam lại vô vàn khác biệt,

    Bạo quyền đà bán hết non sông,

       Cắt từng mảnh đất cha ông,

Từ rừng đến biển cúc cung dâng Tàu.

 

    Nhìn quê cũ, càng đau đớn dạ,

    Càng vật vờ buồn bã xót xa.

        Dân đông hơn hẳn người ta,

Sao không chống giặc lại ra cõng vào?

 

    Lũ thái thú quyền cao trâng tráo,

    Trước toàn dân, dám bảo công khai,

        Rằng mình chém giết lâu nay,

Chính là thí mạng đánh thay Nga Tàu.

 

    Ai cũng biết vì đâu dân Việt

    Đánh cá thường bị giết liên miên,

        Nhưng mà bọn Vẹm đảo điên,

Bảo do “tàu lạ”, chính quyền nào hay.

 

    Lòng yêu nước ngày nay đã chết,

    Dân bây giờ dẹp hết đấu tranh,

        Chỉ cần thắng một trận banh,

Quê hương mất hoặc tan tành, chẳng sao!

  ***

    Nhân loại ở nơi nào cũng thế,

    Khác nhau vì thể chế mà thôi,

        Nước người hào khí sục sôi,

Nước mình hí hởn làm tôi giặc Tàu.

 

    Nhỡ con cháu ngày sau cắc cớ

    Hỏi quê mình nay ở nơi nao,

        Bản đồ mới vội nhìn vào,

Quê xưa nào thấy, nghẹn ngào lặng thinh.

 

   Trần Văn Lương

    Cali, 3/2022

Views: 108

Cuộc tranh hùng giữa các đại cường và các vấn đề chiến lược

Cao Tuấn

Thế giới có ít nhất 3 điểm nóng có thể bùng lên thành bão lửa : Ukraine, Bắc Hàn và Đài Loan. Lửa đã bắt đầu cháy ở Ukraine, hai chỗ kia âm ỉ nhưng có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Cả 3 nơi này đều liên quan đến sự tranh chấp quyền lực và quyền lợi của một vài cường quốc. Thế giới sẽ đi về đâu ?

thegioi1

Thế giới có ít nhất 3 điểm nóng có thể bùng lên thành bão lửa : Ukraine, Bắc Hàn và Đài Loan.

Tranh bá hay tranh hùng? Tay đôi hay tay ba?

Thế giới hiện có trên dưới 10 đại cường gồm cả 2 Siêu Cường (tiếng Anh gọi là Superpowers) vượt xa các nước khác về sức mạnh kinh tế, quân sự, ảnh hưởng chính trị. Mỹ số 1, Tầu số 2. Số 1 là số 1 nhưng không có nghĩa là làm bá chủ thế giới. Khi Donald Trump của nước Mỹ phải đi vạn dậm để cầu hòa với Kim Jong-un của Bắc Hàn thì Mỹ rõ ràng không phải là bá chủ – có quyền lực ra lệnh bắt thiên hạ phải phục tùng.

Mà không phải riêng Bắc Hàn có hỏa tiễn gắn đầu đạn hạt nhân nên dám thách thức Mỹ, ít nhất trên dưới 10 quốc gia trên thế giới ngày nay cũng có khả năng gây chiến tranh nguyên tử như Bắc Hàn, nếu muốn. Mưu đồ bá chủ thế giới trong điều kiện hiện tại gần như là chuyện là bất khả.

Cuộc tranh chấp, tranh đua Mỹ – Tầu, vì thế, không phải là “tranh bá”, mà là “tranh hùng” – tranh nhau làm đệ nhất siêu cường.

Tầu muốn thay Mỹ làm đệ nhất siêu cường và Mỹ tất nhiên muốn giữ nguyên trạng, tìm cách chống lại.

Mỹ và Tầu có thể hoán đổi vị trí số 1 và số 2 trong khoảng một thập niên và nếu việc này xẩy ra thì chủ yếu do Mỹ mệt mỏi vì chuyện nội bộ nên mất khả năng và ý chí trong khi Tầu đã chuẩn bị từ lâu một cách rất có kế hoạch, bài bản cho cái cơ hội “ngàn năm một thuở” – Làm số 1 đối với 1.400 triệu người Tầu nói chung và Tập Cận Bình nói riêng đồng nghĩa với “rất nhiều quyền lợi” và “tột đỉnh vinh quang”. Đã gần tới đích, lẽ nào chịu bỏ cuộc ?

Nga có kho vũ khí hạt nhân ngang ngửa Mỹ, có diện tích lớn nhất thế giới nhưng Nga không được coi là siêu cường số 3 dù Nga rất muốn như vậy. Lý do chính : kinh tế Nga yếu, mức phát triển thấp. Tính đến 2020 theo Wikipedia, Nga có dân số 144 triệu, tổng sản lượng GDP 1.483 tỉ đô la so với Tầu có dân số 1.402 triệu, GDP 14.720 tỉ đô la. Nga đại khái chỉ còn bằng 1/10 Tầu theo 2 thước đo quan trọng này.

Tình thế đã hoàn toàn đảo ngược nếu so sánh với hơn 70 năm trước – cuối năm 1949, khi Mao Trạch Đông, vốn rất kiêu ngạo, đã phải nhẫn nhục chầu chực ở Moscova suốt 2 tháng để xin Stalin viện trợ xây dựng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mới thành lập. Muốn thị uy với với Mao là một lý do nhưng lý do chính có lẽ là Stalin đã nghĩ đến một ngày Tầu trở nên quá mạnh. Cái ngày ấy thực sự đã đến.

Nga, bây giờ, chỉ có thể ngồi cùng chiếu đại cường với Anh, Pháp, Nhật, Đức, Ấn Độ đặc biệt hơn một chút là cùng chứ không thể đòi “qui chế siêu cường” ngang với Tầu và Mỹ.

Dĩ nhiên nước Nga của Putin bất mãn vì cảm thấy bị coi thường, lại càng bực bội vì thêm nỗi luyến tiếc hào quang siêu cường đế quốc sô viết cũ.

Nước Nga của Putin cũng phải lo ngại cả tình hình cả 2 đầu Đông, Tây. Putin không thể tiếp tục làm Tổng thống nếu không giải quyết được vấn đề an ninh chiến lược cho nước Nga.

Phía Đông, nước Tầu càng ngày càng mạnh thêm, Nga không còn mong gì phát triển theo hướng đó. Giữ được nguyên trạng là may nhưng nhiều phần là sẽ không giữ nổi. Hòa hoãn, thân hữu Nga – Tầu chỉ là tạm thời và bề ngoài. Vì cần tập trung đối đầu, tranh đua nước rút với Mỹ, Tầu làm ngơ chưa “hỏi tội” Nga nhưng một ngày nào đó, có thể rất gần, sẽ tính sổ nợ, những món nợ lịch sử, địa lý – cả vốn lẫn lời – với Nga.

Tầu đã thâu hồi được tất cả các nhượng địa, tô giới, lãnh thổ mất vào tay ngoại nhân ngoại trừ những phần đất mất vào tay đế quốc Nga hay đế quốc Sô Viết trong các thế kỷ trước .

Hải cảng Vladivostok quan trọng nhất của Nga trên Thái Bình Dương trước kia là hải cảng Hải Sâm Uy của Tầu.

Một triệu rưỡi cây số vuông đất Ngoại Mông (rộng gần bằng 3 lần nước Pháp) Nga đã “cướp đoạt” của Tầu để làm thành nước Cộng Hòa Mông Cổ (the Republic of Mongolia), một quốc gia vệ tinh của Nga, một căn cứ lớn của Nga án ngữ cả mặt Bắc nước Tầu.

Biên giới lịch sử sóng gió dài mấy ngàn cây số giữa hai dân tộc Nga – Tầu nhất thiết sẽ phải vẽ lại…

Nước Tầu lúc nhúc người lại cũng… “cần” tài nguyên quặng mỏ, khí đốt, các nguồn nước của vùng Tây Bá Lợi Á. Nếu Tầu có dòm ngó hay thèm thuồng phần đất này của Nga thì cũng chẳng khác Nga đã từng dòm ngó, thèm thuồng (và tranh nhau với Nhật trước đây) vùng đất Mãn Châu của Tầu. Chỉ là lịch sử lập lại theo chiều hướng khác do tương quan sức mạnh thay đổi giữa các dân tộc sống cạnh nhau. Dân tộc nào mà không muốn “không gian sinh tồn” tốt cho mình nhất ?

Trong khi “mặt Đông” vẫn còn yên tĩnh” thì “mặt Tây” không được như vậy. Liên Xô sụp đổ kéo theo sự sụp đổ của tổ chức liên minh quân sự WARSAW. Các nước Đông Âu lần lượt thoát cũi, sổ lồng. Xung đột ý thức hệ Cộng Sản-Tư Bản đã chấm dứt ở Âu Châu nhưng liên minh quân sự NATO, lập ra cốt để chống Liên Xô, đối lực của WARSAW, đã không giải tán. Ngược lại còn tiếp tục mở rộng cửa thâu nhận các nước vốn là thành viên cũ của khối Cộng Sản Đông Âu thêm cả các nước mới ly khai khỏi Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết như trường hợp 3 nước Estonia, Latvia, Lithuania, nâng tổng số từ mười mấy thành viên lên tới 30 quốc gia – mặc cho Nga ngăn cản.

Nga không thể không cảm thấy bị chèn ép, bị ngăn chặn, bị cô lập hóa, bị bao vây bởi các lực lượng và căn cứ quân sự của NATO áp sát biên giới. Hiển nhiên vì các lý do địa-chính-trị (geo-politics), những ám ảnh lịch sử về các cuộc chiến tranh tranh giành lãnh thổ, quyền lợi, ảnh hưởng, những xung đột vì chủng tộc, tôn giáo hay ý thức hệ ở lục địa này trong mấy thế kỷ vừa qua, kể cả 2 cuộc thế chiến , các nước Âu Châu, nhất là các nước lớn, vẫn xem nước Nga là một đe doạ, một đối thủ tiềm năng, cần bị kiềm chế và làm cho yếu hơn nữa.

Điều này cũng dễ hiểu vì dù cho GDP của Nga còn kém Đức, kém Anh, kém Pháp, kém cả Ý, dù cho dân số 144 triệu của Nga ngày nay chưa bằng nửa dân số Liên Xô cũ, Nga vẫn là gã khổng lồ ở Âu Châu, lãnh thổ rộng lớn gấp mấy lần lãnh thổ của 48 quốc gia Âu Châu gộp lại, sức mạnh quân sự và vũ khí hạt nhân, thừa hưởng từ Liên Xô, hoàn toàn đủ sức khống chế toàn Âu Châu – nếu thiếu vắng sự hiện diện trọng yếu của nước Mỹ như là một thành viên trụ cột của NATO

Sự việc Nga xâm lăng Ukraine đang diễn ra, khá đột ngột nhưng không nên ngạc nhiên. Ukraine đang vận động để trở nên thành viên của EU và cả NATO. Nga cảm thấy thương tổn và bị đe doạ. Ukraine quan trọng đặc biệt với nước Nga.

Một vài sự kiện có ý nghĩa :

Trong 15 xứ cộng hòa (tiểu bang) hợp thành Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết có chiều dài lịch sử 70 năm (1922-1991), Ukraine đã luôn luôn là cộng hòa trọng yếu thứ hai, chỉ sau cộng hòa Nga.

Trong số 8 lãnh tụ của đảng cộng sản Liên Xô thay phiên nhau cầm quyền có tới 3 nhân vật gốc gác từ Ukraine là Khrushchev, Brezhnev và Chernenko.

Trận Kiev 1, năm 1941, Liên Xô mất Kiev vào tay Đức Quốc Xã sau khi chịu thiệt hại hơn 600 ngàn quân, 44 sư đoàn. Trận Kiev 2, năm 1943, Liên Xô lấy lại Kiev với giá hơn 100 ngàn quân tử trận. Kiev 1 và 2 đều được xếp vào loại các trận chiến lớn nhất trong quân sử thế giới.

Trong tổng số 42 triệu dân Ukranians ngày nay có 8 triệu người là gốc Nga, khoảng 40% dân Ukranians sử dụng tiếng Nga trong gia đình

Ngao cò tranh nhau ngư ông đắc lợi

Sau khi Liên Xô tan vỡ, Ukraine trở thành một quốc gia độc lập, một thành viên của Liên Hiệp Quốc. Trắng trợn xâm lăng Ukraine là một việc sai trái, bất hợp pháp, đáng bị lên án và phải bị lên án.

Ukraine cũng không dễ nuốt. Xe tăng Nga có thể tràn ngập cả nước Ukraine. Chính quyền bù nhìn thân Nga có thể được dựng lên ở thủ đô Kiev. Người Ukraine vẫn tiếp tục kháng cự với sự yểm trợ vũ khí, tiếp liệu của các nước Âu Châu và Mỹ. Triển vọng là chiến tranh kéo dài – du kích và phản du kích. Nga sẽ phải đối diện với nguy cơ bị sa lầy và xuất huyết ở Ukraine như Liên Xô từng trải nghiệm ở Afghanistan – trước cả Mỹ và giống như Mỹ.

Tuy nhiên đừng chờ đợi Putin – lãnh tụ gian hùng không đối thủ, khống chế chính trường nước Nga hơn 2 thập niên – sẽ chấp nhận thất bại, ra lệnh rút quân và bị lật đổ.

Nên chờ đợi Putin mở rộng chiến tranh ngoài biên giới Ukraine, đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân, xâm lăng các nước chưa phải nhưng đang chuẩn bị gia nhập NATO như Georgia, Bosnia.

Nên chờ đợi quân Nga sẽ tập trung ở biên giới 3 nước Estonia, Latvia, Lithuania và có thể đe dọa tấn công cả Poland, Romania, Hungary, Czech Republic, Slovakia… đang là thành viên của NATO.

Nên chờ đợi Putin cố ý gây ra một đại khủng hoảng ở Âu Châu và cả thế giới, tạo không khí chiến tranh ảm đạm, lo lắng, bao trùm khiến kinh tế đình trệ, thị trường chứng khoán lao dốc…

Tất nhiên, Putin không muốn tự sát bằng chiến tranh nguyên tử nhưng nếu Kim Jong-un của Bắc Hàn, với kho vũ khí hạt nhân nhỏ bằng 1% hay 2% của Nga còn làm thế giới hoảng loạn, buộc Tổng thống Mỹ phải hạ mình ngồi thương thuyết tay đôi thì tại sao Putin lại không thể ?

Vậy thực sự nước Nga của Putin muốn gì ? Câu trả lời là :

– Muốn thương thuyết trong thế mạnh.

– Muốn NATO chấm dứt chính sách be bờ, bao vây, cấm vận và các biện pháp bất thân thiện khác đối với Nga.

– Muốn được tôn trọng và được chấp nhận là Nga cũng cần có một vùng ảnh hưởng riêng hoặc ít nhất một vòng đai an ninh.

Nếu sự thực đúng hoặc gần đúng như thế, thì đến lượt Tổng thống Joe Biden của nước Mỹ phải tự đặt câu hỏi và tự trả lời :

– Đối thủ chính của Mỹ trên thế giới hiện nay là Tầu hay Nga ?

– Nga có mạnh như Liên Xô và Putin có mạnh như Stalin không ?

– Nga và Mỹ có còn là kẻ thù Ý Thức Hệ phải tiêu diệt nhau không ? Có quyền lợi xung khắc đến nỗi không thể làm bạn với nhau không ?

– Mỹ có cần quá thận trọng và khe khắt với Nga như các nước Âu Châu không ?

– Ngay cả NATO chấp nhận nhượng bộ những đòi hỏi của Putin thì Putin có cơ may nào tái lập đế quốc Sô Viết khi mà các nước Đông Âu đã sợ và chán cái chủ nghĩa cộng sản độc tài toàn trị tới tận cổ không ?

– Nếu Mỹ phải dồn sức đối phó Nga ở Âu Châu thì còn bao nhiêu sức để đối phó Tầu ở vùng Đông Á ? Nếu Mỹ, Nga làm ngao, cò tranh nhau thì có phải Tầu là ngư ông hưởng lợi không ?

– Nếu Tầu dùng kế “Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” để rồi “gió Đông thổi át gió Tây”, tại sao Mỹ không làm y như vậy, liên kết với Nga, (cùng gió Tây với nhau) mà thổi ngược lại ?

– Thay vì mở cửa NATO thu nhận Ukraine làm thành viên, tại sao không khuyến khích Ukraine thực hiện chính sách độc lập và trung lập thân hữu với tất cả các bên như trường hợp Finland, Austria hay Switzerland ? Trung lập mà có hòa bình chẳng hơn vào NATO mà chịu chiến tranh hay sao ?

Cao Tuấn

(05/03/2022)

Views: 349

Cọp Nam Bộ

Phạm Thành Châu

            Báo Xuân tiếng Việt có “Truyền thống” là năm “cầm tinh” con vật nào thì có một bài nghiên cứu về con vật đó. Ở hải ngoại, tôi thường viết cho các báo Xuân về các con vật của năm. Khi có nhiều báo xin bài thì phải có nhiều bài khác nhau, tuy chỉ nói về một con vật duy nhất của năm đó, nên rất mất công truy tìm tài liệu. Hiện nay (2022) đa số Báo Giấy “Sống qua ngày, chờ qua đời” vì người ta có Internet, mở ra là biết ngay tin tức đang xảy ra trên thế giới. Vì thế, báo chí chẳng còn bao nhiêu, việc viết cho báo cũng đã đơn giản. Nhưng dù sao cũng phải viết cẩn thận!

            Trước khi vào bài “Nghiên cứu” về con Cọp, có một chuyện không xưa lắm, cách nay gần 70 năm, có liên quan đến “Con cọp”. Đó là Phong trào Cải Cách Ruộng Đất của Việt Minh cộng sản năm 1953 – 1956. Chuyện kể rằng: Trong thời kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn thị Năm, còn gọi là bà Cát Hanh Long, là chủ đồn điền ở Thái Nguyên, giàu có, từng ủng hộ Việt Minh 20. 000 đồng bạc Đông Dương (tương đương 700 lượng vàng) cùng với 100 lượng vàng, nuôi cả trung đoàn Việt Minh, nuôi “ăn dầm nằm dề” trong nhà, các “đồng chí” chủ chốt: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Nguyễng chí Thanh… Vậy mà trong Cải Cách Ruộng Đất, bà Nguyễn thị Năm là người đầu tiên trong số 172.008 nạn nhân bị giết chết. Trong hồi ký “Làm người là khó”, Đoàn duy Thành (phó thủ tướng 1982 – 1990) kể . Khi chuẩn bị đưa bà Nguyễn thị Năm ra đấu tố, Hồ chí Minh nói “Chẳng lẽ mở đầu Cải Cách Ruộng Đất lại bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?” Cán bộ thừa hành báo cáo là có hỏi cố vấn Trung quốc và được bảo rằng “Hổ đực hay hổ cái đều ăn thịt người cả!” Thế là bà Nguyễn thị Năm “được” xử tử và “Bác” đổ tội cho con hổ!

            Đảng Cộng Sản có biệt tài là giết dân mình. Cộng sản Nga giết dân Nga, Cộng Tàu giết dân Tàu, Cộng sản Việt Nam giết dân Việt, Cộng sản Combuchia giết dân Miên. Chưa đến 100 năm mà Cộng sản trên thế giới đã giết hơn 100 triệu người.

            Trở lại chuyện Con Hổ.

 Hổ là chữ Hán, cọp là chữ Nôm. Xin được dùng chữ “Cọp” trong bài cho dễ đọc.

            Ông Ba Mươi, ông hùm, ông kễnh là tên gọi con cọp nhưng vì quá sợ “ngài” (sợ như sợ cọp) nên người ta nói tránh ra như vậy. Cũng có tích về tên gọi “ông ba mươi” rằng, ngày xưa, miền Trung và miền Nam rất nhiều cọp, chúng thường vào xóm bắt gia súc, hoặc rình vồ người đi trong rừng, vì thế quan trên treo giải thưởng, ai giết được cọp thì được ba mươi quan tiền nhưng cũng đánh ba mươi hèo (tượng trưng) để hồn “ngài cọp” không còn giận kẻ đã giết mình. Cũng có giả thiết rằng. Thời “Gia Long tẩu quốc”, bị quân Tây Sơn đuổi bắt, chạy vô rừng trốn, không có gì ăn, binh tướng tưởng chừng chết đói, may sao có con hổ, thỉnh thoảng tha đến một con vật săn được như nai, chồn, heo… Nhờ vậy mà Gia Long và binh tướng mới sống qua ngày để tìm đường thoát khỏi vòng vây. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long ra lệnh, nơi nào có cọp thì phải làm miếu thờ, ai giết được cọp được thưởng nhưng cũng bị đánh ba mươi hèo để lấy lòng vong linh “Ông Cọp”.

            Khoảng thế kỷ 17, 18 từ miền trung Việt Nam trở vào đều là rừng rậm hoang vu, thú rừng đầy dẫy, người Việt đi khai phá bị thú dữ như cọp beo, rắn rết sát hại rất nhiều. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có ghi: “Giữa ngày tết năm 1771, cọp từ rừng Sác, phía Cần Giuộc, từng bầy kéo về chợ Tân Kiểng, trên đường vào Chợ Lớn, làm dân chúng kinh hoàng…” Nghĩa là đồng bào ở quận tư, quận bảy bây giờ đứng bên nầy nhìn qua bên kia sông thấy cọp đi ngờ ngờ, hỏi sao không sợ! Nghe nói trò chơi “Bầu Cua Cá Cọp” do người Tàu phổ biến. Trên miếng giấy vẽ hình các con thú bầu, cua, cá, cọp… để người chơi đặt tiền. Không ai dám đặt tiền vào hình con cọp, sợ thất lễ với “ngài”, nên người ta bỏ hình con cọp mà thay vào bằng hình con nai. Đình miếu nào cũng có bình phong vẽ hoặc đắp nổi (phù điêu) hình cọp để thờ “ngài”, và họ tin rằng, cọp thật đến, thấy “chúa sơn lâm” trên bình phong là biết “đất đã có chủ”. Cọp đánh dấu lãnh thổ mình bằng nước tiểu. Muốn giành lãnh thổ (vùng săn mồi) cọp phải tấn công đối phương. Trước khi xông vào phải nhe nanh múa vuốt, gầm gừ ra oai, nhưng đối phương (trên bình phong) vẫn bình tỉnh, không hoảng sợ, mà (tấn công) phóng vào bình phong thì là đập đầu vô đá, vậy là cọp thật rút lui. Ở chân núi, lối vào rừng, ngày xưa người ta lập “miếu ông cọp” để dân sơn tràng (đi rừng) vào thắp nhang, xin phép sơn thần thổ địa và ông cọp vào núi tìm mật ong, đốn cây, săn bắn, tìm trầm. Đôi khi người ta để ở đấy một con thú nhỏ để ông cọp đến ăn no thì chỉ tìm chỗ ngủ, không bắt người. Ở Ấn Độ, vùng Băng Gan (Bengal), nổi tiếng về cọp dữ. Người dân vào rừng thường mang mặt nạ về phía sau đầu, nhìn tưởng người đi thụt lùi. Họ tin rằng, cọp chỉ vồ từ đằng sau con mồi nên thấy mặt người, cọp theo mãi, vẫn thấy con mồi nhìn mình nên bỏ đi. Người thượng cao nguyên Việt Nam vẫn có tục vác chà gạt trên vai, mũi nhọn hướng về phía sau, cọp biết nếu vồ con mồi sẽ bị đầu nhọn chà gạt đâm nên không dám tấn công. Cọp săn mồi bằng cách bò thật sát đến từ phía sau con mồi. Khi khoảng cách còn độ năm mét, cọp chạy đến thật nhanh và phóng lên lưng con mồi, cắn vào gáy, ôm ghịt con mồi, chờ đến khi con mồi vùng vẫy và đuối sức ngã xuống mới cắn vào cổ họng cho con mồi nghẹt thở chết. Cọp ăn no, tìm chỗ ngủ, không đi đâu nữa.

            Châu Phi không có cọp mà chỉ có sư tử và beo (báo). Châu Á cũng có sư tử, nhưng là “sư tử Hà Đông” để chỉ các bà (người) vợ dữ dằn hay ăn hiếp chồng, ghen tương bậy bạ.

            Vào các thế kỷ trước, có đến hàng trăm nghìn cọp Châu Á. Hiện nay chỉ còn khoảng năm nghìn (5000) cọp mà đến ba nghìn (3000) đang cư trú trong các sở thú. Việt Nam ta hiện còn khoảng ba trăm (300) cọp, kể cả cọp được người nuôi. Cọp ở rừng thọ độ ba mươi tuổi, cọp nuôi, sống được hai mươi lăm năm. Cọp trưởng thành nặng nhất độ ba trăm kí lô. Dân số cọp giảm vì môi trường sinh sống bị thâu hẹp (phá rừng trồng trọt, xây cất), nguy hại nhất là bị người ta săn bắn để bán cho mấy chú ba Tàu lấy xương nấu cao. Một con cọp lớn cho mười lăm kí xương, theo thời giá cách đây mười năm, (2012) bán được hai chục nghìn đô la Mỹ. Một bộ da cọp bán được mười lăm nghìn đô la. Hiện nay giá cao gấp đôi. Cao hổ cốt không phải nấu toàn bằng xương cọp mà thêm vào xương khỉ, xương nai, xương dê núi (sơn dương) cho đủ bộ gọi là “quân thần tá sứ”. Khi có được một miếng cao hổ cốt thì ra tiệm thuốc bắc bổ một thang (thiên niên kiện, địa tiên… chủ tiệm thuốc rất rành chuyện nầy) đem về ngâm rượu. Chờ thuốc ngấm, tối, trước khi đi ngủ, làm một ly nhỏ (xây chừng), sáng hôm sau khỏe người, không còn đau lưng, nhức xương nữa. Người đau yếu thì cho độ mười gam cao hổ cốt vào bụng gà ác (gà ri, gà da đen) hay bồ câu non, chưng cách thủy. Khi gà rục, đem ra ăn. Người bịnh nặng không ăn được thì uống nước cũng rất “bổ dương?!”.

            Báo Hà Nội đăng tin, ngày 17 tháng 10 năm 2021 vừa rồi, công an chận bắt một xe taxi chở hai con cọp đông lạnh. Một con nặng 90 kí lô, con kia 40 kí lô. Người bị bắt khai đã mua cọp ở Thanh Hóa, định đem vào Hà Nội bán. Báo Tuổi Trẻ cho biết, một kí lô xương cọp có thể bán với giá 50 triệu đồng (hơn 2.000 USD). Một lạng ta cao hổ cốt có giá từ 20 đến 25 triệu đồng, tương đương với vàng! Săn được một con cọp, đem bán, đủ sức xây nhà lầu.

            Hiệu quả của cao hổ cốt thì không chắc lắm, nhưng thời xưa, bên Tàu, chỉ hoàng đế, các đại thần, đại gia mới đủ tư cách (có tiền) dùng cao hổ cốt. Có thể đó là một thứ Viagra thời nay vậy thôi. Uống vô thì hăng hái chuyện nam nữ, nhưng sau đó “hết xíu oách”. Mấy ông hoàng đế Tàu chết sớm (thường ở tuổi bốn mươi), vì tam cung lục viện có đến mấy nghìn người đẹp, đêm nào cũng “lâm hạnh” (làm chuyện đó) vài ba em, chưa đủ vòng thì “hoàng đế băng hà!”. Nhiều ông vua “tiếc của trời”, chết rồi còn bắt phải chôn sống cung nữ theo với ông ta, để ngài ngự xuống âm phủ còn có người đẹp mà “lâm hạnh” tiếp.

            Vì xương cọp ngày càng hiếm nên người ta nấu cao khỉ, nai, dê giả là cao hổ cốt. Có người nấu xương sư tử (cao sư cốt?) cũng đắc giá lắm vì bảo rằng sư tử mạnh hơn cọp. Báo đăng, có một ông Việt Nam qua Châu Phi mua xương sư tử nấu “Cao sư cốt”. Không rõ ông ta kinh doanh ngành nầy được bao lâu, nhưng có lần vì tích trữ xương trong nhà thối quá, bay mùi qua hàng xóm, vậy là cảnh sát đến. Ngoài một mớ xương sư tử hôi thối cảnh sát còn tìm thấy rất nhiều sừng tê giác và đô la.

            Người miền Nam sinh con trai đầu lòng không gọi là con cả mà gọi thứ hai (thằng hai, anh hai, chú hai…) vì kiêng chức vụ hương cả trong làng. Lại có chuyện kể rằng. Ở làng Châu Bình, tỉnh Bến Tre, lúc làng vừa thành lập, những người được bầu làm hương cả đều bị cọp vồ. Dân làng bèn cử cọp chúa trong vùng làm hương cả. Một buổi lễ được tổ chức ngoài bìa làng. Một tờ cử (nhiệm vụ lịnh) được viết trên giấy hồng điều, bỏ vô ống tre. Một đầu heo làm lễ vật. Chức sắc trong làng cùng dân chúng tề tựu ở đó, long trọng mời cọp chúa làm “đại hương cả”. Đêm đó, cọp đến ăn đầu heo và tha tờ cử (làm đại hương cả) đi. Năm sau, chức sắc và dân làng lại tổ chức lễ tấn phong (renew) chức đại hương cả cho cọp chúa. Cũng đầu heo và tờ cử mới đặt ở đấy. Tối đến, cọp ra ăn đầu heo, bỏ tờ cử năm ngoái (đã tha đi), cắp tờ cử mới đi. Cứ thế. Thời xưa, người Việt vào miền Nam khai hoang, thú dữ đầy rừng, phải chống trả, đề phòng để tự vệ. từ đó phát sinh những chuyện truyền khẩu trong dân gian. Người ta còn tin rằng, người nào bị cọp ăn thịt thì hồn không siêu thoát mà phải theo hầu con cọp đó (gọi là hổ trành). Hổ trành thường xúi thân nhân ra nộp mạng cho cọp để thế chỗ cho hồn cũ đi đầu thai kiếp khác. Trong tác phẩm “Thần Hổ” của tác giả Tchya (Đái Đức Tuấn?) có kể chuyện hổ trành, lúc nhỏ, tôi đọc, vừa sợ vừa thích.

            Dân miền Nam thường nói “Coi hát cọp”, là coi hát không phải mua vé vào cửa. Có sự tích như sau. Thời trước, dân mình đi khai phá miền nam rất gian khổ. Đất còn đầy phèn, trồng cây gì cũng chết, lại thêm cọp, cá sấu, rắn rết dẫy đầy “U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường. Dưới sông cá lội, trên rừng cọp đua”. Đời sống khó khăn vất vả, bịnh hoạn không thuốc men “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh”, cả đời chỉ lo miếng ăn, chẳng biết thành thị là gì, giải trí là gì! Đến thời thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, dân chúng vùng lên chống ngoại xâm. Những người yêu nước chống Pháp (làm quốc sự) bị truy nã, thường trốn về vùng U Minh, Cà Mau sống lẫn lộn với dân chúng. Họ họp nhau lập gánh hát bội, đi thuyền lang thang, nơi nầy hát vài hôm, nơi khác năm bảy hôm để đồng bào xem. Ai hảo tâm thì cho ít gạo, cá, sống qua ngày chứ không bán vé vô cửa. Để khỏi bị “hùm tha, sấu gắp”, dân làng dựng sân khấu giữa sông, theo kiểu nhà sàn, cột bằng cừ tràm, lợp lá dừa nước. Xung quanh lại đóng cừ như hàng rào dưới nước để sấu không thể vào rình mồi được. Người xem bơi thuyền đến, ngồi trên thuyền xem hát cho an toàn. Vậy mà trên bờ, cọp tụ lại cả bầy, cùng nằm xem hát bội với bà con. Khi gánh hát dọn đi, thỉnh thoảng qua đấy, người ta vẫn còn thấy lũ cọp nằm cú rũ, như chờ gánh hát quay lại, diễn cho chúng xem. Như vậy “coi hát cọp” để chỉ người chuyên coi hát chui, không mua vé.

            Sau đây là chuyện “Cọp Côn Đảo”. Thời Pháp thuộc, tù Côn Đảo vượt ngục nhiều quá. Thực dân Pháp mới nẩy ra sáng kiến, chở ba con cọp ra Côn Đảo, tập họp tù, cho xem để tù sợ không dám trốn trại, rồi thả cọp vào rừng (trên đảo), để cọp bắt thú rừng, rắn rết, chuột bọ và tù (vượt ngục) để ăn. Bọn chủ ngục không biết rằng, khi tù vào làm trong rừng (đốn củi, đục đá cho trại) thấy “con gì cục cựa, trừ con bù lon” là bắt ăn sạch, vì đói quá. Tù đi làm chẳng dại gì đi lẻ tẻ để bị “cọp chụp” (vồ). Thế nên cọp chẳng có gì bỏ bụng, đói meo, đi không nổi, thấy người là lủi chỗ khác. Tù thấy cọp cũng bỏ chạy, nhưng sau, biết cọp đói nên vây lại, đập chết ăn thịt. Thịt được hai con thì cai tù biết, bèn cắt một người tù, mỗi ngày gánh cơm ra bờ biển, đổ ra đấy cho cọp đến ăn. Nhưng ăn cơm thiếu “chất đạm”, chẳng bổ béo gì, nên cọp tự “cải thiện” bằng cách mò cua, bắt ốc sống qua ngày. Không ngờ một hôm, cọp gặp một con ốc tai tượng (loại ốc dính vào đá) rất lớn đang há miệng chờ mồi (tảo). Cọp thấy thịt ốc ngon quá, bèn thò chân moi thịt ốc. Ốc đóng nắp lại, cọp kẹt chân trong đó. Loại ốc nầy, vỏ kết cứng vô đá, cọp rút chân ra không được. Thủy triều lên, cọp chết ngộp.

            Để chấm dứt bài nầy, tôi xin kể vài chuyện về cọp. Ở Mỹ có ông da đen, không phải dân Châu Phi mà lai Căm Bu Chia. Anh ta là vô địch đánh góp (golf). Ở đâu treo giải đánh góp là anh ta đến thi đấu và bợ tiền thưởng với cúp về. Hiện nay anh ta là triệu phú. Nhà chất đầy cúp đánh góp. Anh ta tên Tiger Woods (Rừng Hổ? Hổ Rừng?). Việt Nam ta, xưa kia cũng có ông Lê Như Hổ, nổi tiếng ăn nhiều và đánh giặc giỏi. Cụ Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ kháng chiến chống Pháp được mệnh danh là Hùm Yên Thế.

            Người mình thường tin vào số mệnh, nên mới có chuyện kể rằng. Một cậu được thầy bói phán rằng, ngày đó, tháng đó sẽ bị chết vì cọp. Cậu ta sợ lắm, không đi sở thú, biết ai tên Hổ, tên Cọp thì tránh xa. Còn vài hôm là hết “hạn tai ương”, cậu ta mừng lắm, đến nhà bạn chơi, thấy trên tường có treo bức tranh con cọp, bèn đập tay vào mặt cọp và nói “Mầy chẳng làm gì được tao!” không ngờ trên bức tranh, bà chủ nhà may vá gì đó, tiện tay, gắn cây kim may lên bức tranh, cậu ta đập ta vào cây kim. Hôm sau, bị nhiễm trùng phong đòn gánh, chết.

            Hiện nay, người ta chỉ xem tranh mới biết con cọp ra sao chứ ít khi thấy tận mắt con cọp thực, vậy mà cũng có người chết vì bị cọp vồ. Vừa rồi, báo đăng, có hai công nhân trồng cây bên chuồng thú Đại Nam, tỉnh Bình Dương, một con cọp sổng chuồng vồ chết một ông, ông kia nhanh chân nhảy xuống nước thoát chết.

            Thêm vài chuyện vui về cọp. Một ông rất sợ vợ và bà vợ rất dữ. Bữa nọ, nhân vợ đi đâu đó, bèn mời bạn bè đến nhà nhậu chơi. Rượu vào lời ra, ông ta phét lác “Các ông sợ vợ chứ tôi tôi thì không. Vợ tôi hỗn hào là tôi trị trắng máu. Tôi dữ như cọp, vợ tôi sợ tôi lắm. Tôi gầm lên là vợ tôi xanh mặt” Không ngờ bà vợ về, đứng sau lưng, mấy ông bạn nhậu ra dấu, ông ta quay nhìn, thấy vợ thì run cầm cập. Bà vợ nhẹ nhàng hỏi “Ông là con cọp. Dữ lắm hả? Tôi sợ ông khiếp vía hả?” Ông ta nhanh trí đáp “Dạ phải. Tôi là con cọp, nhưng bà là Võ Tòng” (chuyện Tàu, có Võ Tòng, tay không đánh chết cọp).

            Một ông thất nghiệp, vào sở thú xin việc. Ông giám đốc nói “Sở thú tôi có con giả nhân, làm trò hay lắm. Nhờ nó mà khách đến xem rất đông. Chẳng may, nó vừa chết, chúng tôi lột da để dành. Anh có thể mang lốt con dã nhân đó, vào chuồng làm trò cho khách xem được không? Tôi trả lương gấp đôi công nhân ở đây”            Anh ta đồng ý, mang lốt giả nhân vào chuồng làm trò, thiên hạ không biết, vỗ tay hoan hô ầm ỷ. Hứng chí, anh ta nhảy nhót, đánh đu đủ trò. Không ngờ đánh đu cách nào lại văng qua chuồng cọp (hổ), nằm một đống. Con cọp gầm gừ, nhe nanh, múa vuốt xông đến, há miệng cắn con giả nhân (giả). Anh chàng làm giả nhân than một câu “Than ôi, Số ta chết vì miệng cọp!” và nhắm mắt chờ chết. Con cọp ghé sát tai anh ta thì thầm “Anh mới vào làm đây phải không? Tôi làm cọp ở đây hơn nửa năm rồi”.

            Chuyện cọp đến đây là hết. Sang năm tôi sẽ kể chuyện mèo (năm Mão) cho quí vị nghe.

Phạm Thành Châu

Views: 206

Luận Về Tâm Lý Chính Trị

Trần Xuân Thời

Người ta thường nói đến tâm lý quần chúng, tâm lý xã hội, nhưng ít nghe ai nói đến “tâm lý chính trị”. Thật ra tâm lý chính trị thường được thể hiện qua “diễn đàn chính trị” nghĩa là tư tưởng lên khuôn cho hành động theo nhiều chủ trương, đường lối khác nhau, gọi chung là lập trường chính trị… Hành động nào cũng thường nhắm thực hiện một chủ đích, một sứ mệnh. Từ quan niệm tồn cổ, những gì do quá khứ tạo nên và lưu truyền lại cho hậu thế đều tốt đẹp, đều đáng quý, đáng học hỏi và đáng được xem là khuôn vàng thước ngọc, “Xưa Bày Nay Làm” hoặc hiện tại đáng yêu, đáng mến, đáng duy trì không cần phải thay đổi, đến quan niệm cải cách, phá hoại truyền thống, khuynh đảo trật tự xã hội đương thời để thay thế bằng cơ cấu tổ chức và trật tự mới, con người đã đi từ quan niệm cực hữu (reactionary–rightist) đến quan niệm cực tả (radical–leftist).

Trong quần chúng có những người đắn đo kỹ lưỡng trước khi chấp nhận một lập trường vĩnh viễn, cũng có người thay đổi lập trường tùy hoàn cảnh. Dù trong hoàn cảnh nào, lập trường chính trị cá nhân hay tập thể thường được thể hiện qua bốn ý niệm chính:

  1. Cực tả/Cách mạng (Radical extremist/Revolutionary);
  2. Cấp tiến (Liberal/Progressive);
  3. Bảo thủ (Conservative);
  4. Cực hữu/Phản cách mạng (Far right/Reactionary).

Các “nhãn hiệu” này thường được đề cập trên sách báo hiện hành, nhất là tại các nước dân chủ, trong đó người công dân có quyền tự do ngôn luận và có quyền gán bất cứ “nhãn hiệu” nào cho người đối lập trong phạm vi tự do tư tưởng theo luật định.

1. Cực tả/Radical extremist

Chúng ta thường gọi người theo chủ thuyết cộng sản là “bọn phá hoại” (radical). Người cộng sản gọi là cách mạng (revolutionary). Vì cộng sản chủ trương tiêu diệt tư bản chủ nghĩa, đả phá hệ thống xã hội đương thời tận gốc rễ. Nói khác đi kẻ chống đối phải bị thủ tiêu. Ngôi nhà cũ thì phải bị triệt hạ, đập nát để xây ngôi nhà mới, không cần tu bổ hay sửa chữa. Thay đổi tận gốc rễ như chính sách cải cách điền địa của nhà nước cộng sản. Cộng sản không những chỉ tịch thu ruộng đất mà còn đấu tố, sát hại các địa chủ nhằm khủng bố và triệt tiêu đầu óc tiểu tư sản như đã áp dụng ở các nước cộng sản “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Đa số những người theo Cộng sản hoặc vì hận thù, hoặc vì nhẹ dạ, nóng lòng thay đổi, nghe theo lời hứa hẹn hão huyền, những lời hứa hẹn không mất tiền mua của các “Đỉnh cao trí tuệ CS”. CS không hề có chủ tâm thực hiện điều họ hứa hẹn, như triết gia chính trị Edmund Burke đã nhận xét “Hypocrisy can afford to be magnificient in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”. Những người mù quáng mơ ước thiên đường cộng sản, ngày nay đã dần dần vỡ mộng. Thực tế chứng minh các lãnh tự CS Đông Âu, Trung Cộng hay Việt Nam đều lợi dụng giới vô sản, bần cố nông để giành quyền lực với danh nghĩa giả tạo, hứa hẹn hão huyền sẽ mang lại “Độc lập–Tự do–Hạnh phúc”. Sau khi cướp được chính quyền, các đảng vỉên CS trở thành tư bản đỏ, triệu phú, tỷ phú, nhà cao cửa rộng, áo xiêm buộc trói lấy nhau, nắm giữ các đặc quyền đặc lợi.

Thực sự, không hề có tự do, hạnh phúc thực sự trong một xã hội mà chính quyền không tôn trọng luân thường đạo lý. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Không có luân lý, đạo đức thì không thể có tự do. Người đời gọi chủ nghĩa cộng sản vô thần hay chủ nghĩa Tam Vô:

(1) Vô gia đình: CS xoá bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xã hội là gia đình, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc;

(2) Vô Tổ quốc: Cộng sản chủ trương xóa bỏ biên giới quốc tổ để hòa mình vào thế giới vô sản đại đồng. Hồ Chí Minh chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng, vì đảng CSVN không chiến đấu cho sự sinh tồn giống tộc Việt Nam mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa CS, cho quan thầy Nga Sô, Trung cộng;

(3) Vô Tôn giáo vì CS chủ trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc lòng người.

Tôn giáo hướng thượng con người. Giúp con người tạo cho mình một lý tưởng để sống vượt lên trên loài cầm thú vì loài thú chỉ sống theo bản năng, duy vật, không có lý tưởng cao cả. Con người biết sống, hành thiện đời này để hưởng phước đời sau. Đó là chủ đích của đời người mà nhân loại hướng đến qua sự chấp nhận và thi hành tín điều do các tôn giáo truyền dạy. Hay nói khác đi, người không thể xứng danh là con người trọn vẹn nếu không có lý tưởng cao cả. Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge (1872–1933) đã nhận xét, chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới có thể sống đời sống trưởng thành “It is only when men begin to worship that they begin to grow”.

Cộng sản duy vật quan niệm con người chỉ là sản phẩm thiên nhiên (product of natural selection) như các lãnh giới khoáng vật, thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho mình thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu trình độ hiểu biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhận xét này được thể hiện phần nào qua lời chứng được ghi nhận trong vụ án:

Flemming v. Nestor 363.U.S. 603 (1960). Nestor, an alien, became eligible for Social Security payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the Communist Party from 1933 to 1939. Section 202(n) of the Social Security Act provided for the termination of Social Security payments when an alien is deported for being a member of the Communist Party. “Ephram (Fedya) Nestor, a Bulgarian–born immigrant to the United States, was ‘an unusual person,’ according to his second wife Barbara. She met him in 1933 when he was selling vegetables from his car and remembers not really liking him. ‘He stayed too long,’ he ‘talked too much,’ and worst of all to this devoted radical, he ‘passionately espoused the cause of Communism [but] he didn’t know too much about it.’ Interviewed when she was ninety, sharp–witted Barbara Nestor still recalled how Fedya embarrassed her at a Marxist study group with his ‘foolish’ statements and obvious lack of knowledge about Marx or communism. His family agreed he was ‘not much of a Communist’ when he joined the local party in 1936 and could not be trusted with the simplest duties. Nonetheless, the federal government deported Fedya in 1956 for his brief Communist Party (CP) membership.”

Trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lãnh của tôn giáo lớn nhất hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản:

“The unspeakable doctrine of Communism, as it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this doctrine were accepted, the complete destruction of everyone’s laws, government, property, and even of human society itself would follow.” (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày 9/11/1846). (Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật thiên nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người.)

Nhiều quốc gia đã xoá bỏ chủ nghĩa CS. Nhiều người đã ly khai đảng CS, mặc dù trước đây họ đã hết sức hăng hái mang nhãn hiệu cách mạng, hãnh diện là đồ đệ của đệ nhất, đệ nhị hoặc đệ tam Cộng Sản Quốc Tế. Chủ nghĩa CS đã tạo nên những kẻ sát nhân như Stalin đã tàn sát hơn 20 triệu người, Mao Trạch Đông giết trên 70 triệu người, Hồ Chí Minh, cũng như Pol Pot được liệt kê vào danh sách của những kẻ diệt chủng nổi tiếng nhất trên thế giới. (Mao: The Unknown Story, Jung Chang).

Tại Hoa Kỳ, môn phái cực tả quá khích đã phát triển từ cuộc suy sụp về kinh tế năm 1929. Họ chủ trương tái tạo xã hội Hoa Kỳ mới, dựa trên căn bản lý thuyết của Karl Marx. Họ hỗ trợ tích cực các phong trào công nhân thợ thuyền với khẩu hiệu “Not Black, not white Power but Worker’s Power”, như là phương tiện gián tiếp để cộng sản hóa Hoa Kỳ… Môn phái cực tả chủ trương canh tân các chương trình xã hội, tôn giáo và xã hội Hoa Kỳ theo quan điểm của Chủ nghĩa Cộng Sản.
Hiện nay có hai nhóm cực tả: Nhóm thứ nhất chủ trương cải cách xã hội bằng phương tiện cách mạng bạo động và sắt máu. Nhóm thứ hai chủ trương cải tổ ôn hoà bằng cách lợi dụng quyền đầu phiếu. Các nhóm này lôi cuốn một số người nhẹ dạ, nhưng không đủ khả năng lôi cuốn quần chúng và chính quyền. Những người này thường không liên kết với đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ. Những người Mỹ theo đường lối này thường áp dụng chính sách mị dân. Chủ trương tự do cá nhân phải có tính cách tuyệt đối nhằm dụ hoặc quần chúng. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện, nghĩa là dùng bất cứ phương tiện tốt, xấu gì cũng được miễn là đạt được kết quả mong muốn. Họ tuyệt đối tin tưởng vào chương trình cải cách Chủ nghĩa CS là thể chế hoàn mỹ, không có chủ nghĩa nào có thể thay thế…

Các tổ chức tà phái của Hoa Kỳ đã từng hoạt động như Communist Party – USA, W.F.B Dubois Club of America, Progressive Labor Party, Socialist Labor Party, Socialist Worker Party, Young Socialist Alliance, Spartacist League, Guardian, Worker League, World Socialist Party of USA, Ramparts, Monthly Review… Mỗi tổ chức đều ấn hành tạp chí để phổ biến chủ trương đường lối cho hội viên và quần chúng. Cũng nên lưu ý là ngược lại danh từ Radical ngày nay còn được dùng để mệnh danh những phần từ chủ trương đả phá chế độ cộng sản tại Nga và các nước Cộng Sản Trung Âu hay những phần tử quá khích như Radical Islam….

2. Cấp tiến/Liberal:

Chủ trương thay đổi với mức độ ôn hoà thường được gọi là cải cách (reformer/liberal). Những người cấp tiến sẵn sàng chấp nhận sự thay đổi nhưng không có tính cách đả phá, hủy hoại chế độ hay hệ thống đương thời. Tu bổ, sửa chữa lại ngôi nhà đang cư ngụ hơn là áp dụng phương thức phá hoại như cộng sản đã và đang áp dụng. Cộng sản chủ trương đốt nhà để cho nhân dân sống cảnh màn trời chiếu đất, nghĩa là chịu hy sinh cực khổ trong hiện tại, trong lúc xây cất lại ngôi nhà mới nhưng không biết bao giờ ngôi nhà mới hoàn thành.

Những người chủ trương thay đổi cải cách thường chấp nhận chủ thuyết của đảng Dân Chủ hoặc cấp tiến, đều có khuynh hướng cải cách xã hội, và thường được quần chúng Mỹ liệt vào loại thiên tả ôn hoà (leftist) vì đảng CS được tự do hoạt động tại Mỹ dưới nhiều hình thức, kể cả hình thức đoàn thể xã hội và lợi dụng các quyền tự do để bành trướng. Danh từ “Liberal” phát xuất từ thế kỷ thứ 19 do tiếng Tây Ban Nha, tên của một chính đảng ở quốc gia này. Đảng viên Liberal tin tưởng vào khả năng của công dân biết sử dụng quyền hành của mình một cách xứng đáng. Trong cuộc tranh cử Tổng Thống năm 1988, ứng cử viên TT Bush đã nhận xét ứng cử viên TT Dukakis là “Liberal”. Dù danh hiệu này rất thông dụng, nhưng hiện nay vẫn chưa được xem là ý niệm tốt trong tâm lý quần chúng vì có tính cách thiên tả và các phương pháp cải cách của tả phái.

3. Bảo thủ/Conservative

Khác với hai chủ trương nêu trên (radical và liberal) có tính cách khuynh tả (leftist), theo quan niệm hiện hành của đa số công dân Hoa Kỳ. Những người chủ trương bảo thủ (conservative) ôn hoà bằng lòng với hiện tại. Họ cho rằng hiện tại vẫn tốt đẹp, không cần phải thay đổi. Những người này thường chủ trương hỗ trợ đảng Cộng Hòa. Danh từ Bảo thủ nghĩa là bảo tồn, như bảo tồn truyền thống, thuần phong mỹ tục và định chế chính quyền dân chủ đã được hình thành qua kinh nghiệm chung của nhân loại. Môn phái bảo thủ cũng chống lại chủ trương tự do quá trớn hay tự do phóng nhậm, vì tự do cũng cần phải được giới hạn để mọi người có cơ hội hưởng tự do đồng đều. “The extreme liberty as we all know, in every point, is destructive to both virtue and enjoyment” (Edmund Burke).

Sở dĩ đảng Cộng Hòa giành được thắng lợi trong các cuộc tranh cử Tổng thống ba nhiệm kỳ liên tiếp trong 12 năm (1981–1993), một phần cũng nhờ dân chúng nhìn thấy tình trạng xã hội đương thời không cần thay đổi nên đã dồn phiếu cho đảng Cộng Hòa thay vì bầu cho Dân Chủ. Đa số những người trung niên, giới trí thức và lão niên chấp nhận khuynh hướng bảo thủ. Khuynh hướng này đang là những làn sóng ngầm ảnh hưởng đến tâm lý quần chúng hiện nay khiến cho những đề nghị cải cách táo bạo không có cơ hội phát triển. Tuy nhiên những cải cách táo bạo vẫn được các ứng cử viên Clinton, Sander quảng bá trong cuộc tranh cử năm 2016 và Ứng cử Viên Trump đã đắc cử với chủ trương “Make America Great Again”. Nền chính trị Hoa Kỳ phức tạp nên khó tiên đoán đảng nào sẽ đắc cử trong các nhiệm kỳ sắp đến.

4. Cực hữu/Reactionary

Lớp người bảo thủ cực hữu (reactionary/far right) là những người vẫn thích thay đổi, nhưng thích tồn cổ hơn. Những gì do tiền nhân để lại đều đáng quý trọng, đáng được học hỏi, đáng bảo tồn, đúng với câu “xưa bày nay làm”, và thích trở lại những ngày vàng son của thời đại vua Nghiêu, vua Thuấn. Những người này đương nhiên không chấp nhận thái độ cách mạng, phá hoại truyền thống của cộng sản nên đã gây trở ngại cho sự bành trướng của cộng sản. Cộng sản gọi những người quốc gia chống cộng thuộc khuynh hướng cực hữu là thành phần “phản động” (right wing extremist/Reactionary).

Tại Hoa Kỳ hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian Anti–Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church League of America, Harding College’s National Education Program, Richard Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v. những người di dân từ các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế chiến hoạt động mạnh trong các tổ chức cực hữu.

Mỗi cơ quan đều có tạp chí để phổ biến đường lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết không công nhận cộng sản dưới bất cứ hình thức nào, đã đang là thành trì chống cộng hăng hái nhất hiện nay. Tâm lý chính trị tại Miền Nam VN trước 1975 cũng vậy, không chấp nhận CS dưới bất cứ hình thức nào nên đã trục xuất ra Bắc một số điệp viên CS len lỏi vào chính quyền Miền Nam. Trong lịch sử xây dựng nền dân chủ tại Nhã Điển (Athens), thủ đô của Hy lạp, năm 461 trước Công Nguyên, Pericles cũng đã dùng biện pháp an trí (ostracism) các phần tử chống đối ra khỏi thành Athens một thời hạn tối đa 10 năm. Nền dân chủ tại Nhã Điển thời bấy giờ là nền dân chủ trực trị như hình thức Hội Nghị Diên Hồng, người dân trực tiếp tham gia bàn luận kế sách về thuế khóa, hòa hay chiến…

Tâm lý chung của những người bảo thủ cho rằng không phải người nào cũng đáng tin cậy, cho nên phải “chọn mặt gởi vàng”. Họ không hẳn tin tưởng vào khả năng của công dân có thể quyết định sáng suốt, nên họ chủ trương cần có chính quyền. Họ chủ trương quốc gia cần được giai cấp ưu tú (enlightened group) lãnh đạo. Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 cũng do các vị khai quốc công thần ưu tú soạn thảo. Quốc hội Hoa Kỳ cũng gồm hai viện. Thượng Viện thể hiện giá trị truyền thống, tôn trọng kho tàng văn hiến, khôn ngoan đã được tích lũy qua hàng trăm năm lịch sử.

Trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, Pennsylvania năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln đã tái xác nhận Hoa Kỳ sẽ được tái sinh trong Ơn Thánh Chúa là quốc gia tự do của dân, bởi dân, để phục vụ nhân dân và sẽ không biến mất trên thế gian này: “This nation, under God, shall have a new birth of freedom –– and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.” (Abraham Lincoln, November 19, 1863)

Trong thời gian chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, giữa hai khối Tự do và Cộng sản, Mao Trạch Đông đã từng khích lệ các lãnh tụ CS Nga Xô tấn công tiêu diệt Hoa Kỳ. Năm 1963 dưới thời TT Kennedy, Nga Xô đã đem hoả tiễn thiết trí tại Cuba, chỉ cách Hoa kỳ 90 miles. Hoa kỳ phản ứng mạnh mẽ, một mặt phong tỏa vịnh Cuba, mặt khác ra lệnh chuẩn bị tấn công, nếu Nga Sô không tháo gỡ các dàn hoả tiễn. Nga Sô sợ Thượng Đế bảo vệ Hoa Kỳ qua lời “Sấm” của Tổng Thống Lincoln “Hoa Kỳ sẽ không biến mất trên thế gian này” bèn lui binh vô điều kiện!

Xã hội Hoa Kỳ đã và đang được thay đổi bằng những cải cách tiệm tiến, tuy chậm nhưng chắc, cũng nhờ những anh tài thực sự nỗ lực làm việc vì quốc gia dân tộc. Thay đổi nhanh chóng theo kiểu cách mạng cộng sản, thiếu suy tư và thiếu điều nghiên kỹ lưỡng đã đưa đẩy các nước cộng sản đến bờ vực thẳm, thảm khốc về cả hai phương diện kinh tế lẫn chính trị.

Những người cực hữu chống Cộng Sản mãnh liệt tại Hoa Kỳ cũng như các nước tự do trên thế giới, nhiều khi “dùng gậy ông để đập lưng ông”, nghĩa là “dĩ độc trị độc”. Họ dùng ngay phương pháp cộng sản để trị cộng sản. Họ là những người lớn tiếng cảnh giác quần chúng về hiểm hoạ cộng sản trước và sau khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời. Trong suốt 100 năm từ khi cuộc cách mạng Cộng Sản năm 1917 xảy ra tại Nga sô, những người chống cộng cực hữu chấp nhận thái độ bất cộng đái thiên với cộng sản, đa số không vì tư lợi cá nhân mà chỉ vì quốc gia dân tộc. Họ sẵn sàng chống đối những gì sinh lợi cho cộng sản, kể cả vấn đề bang giao, viện trợ cho thế giới cộng sản. Nhờ đó vào cuối thập niên 1980, Cộng Sản Nga Sô và Đông Âu sụp đổ. Từ sau đệ nhị thế chiến, khối Cộng sản Nga sô Đông Âu và Trung hoa vẫn mua ngũ cốc của Hoa Kỳ vì nền kinh tế của Nga Sô và Trung hoa trì trệ không đủ thực phẩm bán cho quần chúng. Hoa Kỳ thường dùng kinh tế làm đòn bẩy để thăng tiến nhân quyền đối các quốc gia cộng sản hoặc chuyên chế, như Tu Chính Án Jackson–Vanik mà chúng ta thường nhắc đến trong thập niên 1975–85 để tranh đấu cho vấn đề di dân, đoàn tụ gia đình, phóng thích tù nhân chính trị từ các nước CS Đông Âu hay Á Châu, VN đến Hoa Kỳ. (19 US. Code S.2432 Freedom of emigration in East–West trade).

Những người cực hữu cũng rất quan tâm về sự suy đồi của nền luân lý và giá trị cổ truyền. Họ rất trung thành với giá trị luân lý của đảng Cộng Hoà. Họ thường chống đối những chương trình, kể hoạch mà họ nghĩ là do cộng sản quốc tế hỗ trợ, các tệ đoan như tham những, hối lộ trong công quyền, trong nền tư pháp của Hoa Kỳ và các cơ quan cảnh sát. Họ chủ trương chính quyền có nhiệm vụ giáo huấn quần chúng để tránh sự lợi dụng của cộng sản và các phần tử phá hoại. Đặc biệt những người cực hữu hỗ trợ chế độ tự do kinh doanh và tư bản chủ nghĩa và chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa do nhóm cực tả chủ trương.

Đặc nét của chính quyền dân chủ là tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh. Tâm lý kinh tế chính trị này thể hiện rõ rệt nhất trong các cuộc bầu cử. Cử tri sẽ luận xét về chủ trương và đường lối của ứng cử viên về phương diện kinh tế nhiều hơn về các phương diện khác. Sự kiện này cũng hiển hiện ngay trong các nước cộng sản, vì tình trạng kinh tế suy sụp, quần chúng nghi ngờ khả năng quản trị của giới lãnh đạo, hô hào đòi tự do kinh doanh, tự do dân chủ. Vì thế, bây giờ các nước Đông Âu kể cả Nga Sô không còn noi gương xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại các nước này noi gương các nước tư bản để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của quần chúng. Marx, Lenin, Stalin không còn là thần tượng mà là tội đồ của các dân tộc Đông Âu. Do đó chúng ta có thể nói, bất cứ hình thức chính quyền nào mang lại cho quần chúng hạnh phúc, no cơm ấm áo với các quyền tự do căn bản theo Thiên luật đều được dân chúng hỗ trợ. Tự do dân chủ là môi trường thuận lợi nhất cho vấn đề phát triển về mọi phương diện nhân sinh.

5. Sứ mệnh bảo vệ chính nghĩa tự do, dân chủ, nhân quyền

Hoa Kỳ là một quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do dân chủ, nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Cơ quan FBI quản lý an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi phá rối trị an của CS Quốc tế. CIA quản lý an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu khiến cho Cộng Sản Quốc Tế, dù đã chiếm gần một nửa thế giới, từ sau thế chiến thứ hai, nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo thành trì của Thế Giới Tự Do cho đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980.

Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938–1953) nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II… Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan.

Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and Sedition Act ngăn ngừa và trừng trị cuồng ngôn nhằm làm mất uy tín chính quyền địa phương và trung ương… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô.

Năm 1901, Tổng thống William McKingley bị các phần tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Vị Tổng Thống thứ 25 của Hoa Kỳ, đã để lại các nhận xét bất hủ: “In the time of darkest defeat, victory may be nearest… That’s all a man can hope for during his lifetime – to set an example – and when he is dead – to be an inspiration for history”.

Tiểu bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính phủ… Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án chiếu luật Espionage Act 1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn văn trước 1,200 khán giả nhằm sách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp…. Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ…

Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đã ban hành luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội.

Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa cộng sản, nhân viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đại Học Massachusetts tại Boston, tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ CSVN tham gia vào công tác viết về lịch sử người Việt tỵ nạn hải ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2002, Cộng đồng người Việt hải ngoại đã nỗ lực tranh luận với Đại học Mass tại Boston hầu điều chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.

Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động hay các phương thức bất hợp pháp khác. Đảng cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng cộng sản là đảng không được luật Massachusetts công nhận. Tổng trưởng Tư pháp có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ, không được nhập tịch, v.v.

Luật Massachusetts, Chương 264,

Điều 16 ấn định: “… Subversive organizations… mean any form of association… whether incorporated or otherwise for the common purpose of advocating, advising, counseling or inciting the overthrow by force or violence or by any unlawful means, of the government of the Commonwealth or of the United States.”

Điều 16 A: “The Communist Party is hereby declared to be a subversive organization.”

Điều 17: “A subversive organization is hereby declared to be unlawful.”

Điều 18: “The attorney general shall bring an action… against any organization which has reasonable cause to believe is a subversive organization.”

Điều 19: “Any person who becomes or remains a member of any organization knowing to be a subversive organization shall be punished by imprisonment in the state prison for not more than three years….”

Điều 20: “No person who has been convicted of a violation of the provisions… of section nineteen… shall be eligible to… employment… in any public or private institution… The attorney shall have jurisdiction in equity to restrain and enjoin any such person from performing such duties.”

Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước cộng sản vì lý do kinh tế, thương mại, an ninh toàn cầu; vì lý do nhân đạo để nâng cao sinh hoạt của các lĩnh vực nhân sinh, và để bảo vệ nền văn minh nhân bản dựa trên các quyền thiên nhiên (natural rights civilization) hay nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà không ai được quyền xâm phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng.

Quan niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Tạo hóa ban cho nhân loại là quan niệm phát xuất từ dân gian. Hầu hết nhân loại hướng về đấng Tạo Hoá. Từ ngàn xưa các bộ tộc, quốc gia đều quan niệm tộc trưởng các bộ lạc hay vua chúa các quốc gia là Thiên Tử, trung gian giữa Trời và loài người, thừa mệnh Trời trị vì thiên hạ. Quan niệm này bàng bạc trong lịch sử và văn hóa nhân loại từ cổ đến thế kỷ 20. Tại Á Châu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi mới được thực thụ tấn phong vào chức vụ Hoàng Đế năm 238 trước Công nguyên. Các vua qua các triều đại tại Trung Hoa đều được tấn phong theo quan niệm Vua là Thiên Tử, thay mệnh Trời trị vì thiên hạ cho đến đời vua cuối cùng của Triều đại Mãn Thanh vào đầu thế kỷ thứ 20.

Bên phương trời Tây, các Đức Giáo Hoàng La Mã, đại diện cho Thần quyền, là Giáo hội Công Giáo, thường tấn phong các vị Hoàng Đế như Giáo Hoàng Lê–ô thứ III năm 800 sau Công nguyên đã tấn phong Hoàng Đế Charlemagne. “Thần quyền và thế quyền như linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau.”

Khổng giáo quan niệm “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. “Dân là nước, vua là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền”. Nhưng Khổng học cũng quan niệm “Trung thành bất sự nhị quân”. CS Tàu đã lợi dụng chủ trương “Trung Thành” này để khuyến dụ dân chúng trung thành với Đảng CS. Ngày nay Trung Cộng lập các Viện Khổng Tử tại một số quốc gia trên thế giới để bành trướng văn hoá Tàu. Nhưng tiếc thay, các Viện Khổng Tử cũng là cơ quan tình báo. Sự lạm dụng này đã khiến cho một số cơ quan truyền bá văn hoá của Trung Cộng bị các quốc gia đóng cửa.

Chủ nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền bất khả xâm phạm và nổi tiếng trên thế giới là chủ nghĩa vi phạm nhân quyền. Vì CS vô thần, không tin con người có đời sau, nên không có tín ngưỡng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế, không có linh hồn, nên cũng sống theo bản năng như các cầm thú khác. Ngược lại, các quốc gia tự do quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền bình đẳng và những quyền thiên nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm được Tạo hóa ban cho nhân loại.

Một trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương quảng bá và trọng nhân quyền, tôn trọng nhân phẩm, nhân vị của con người. Mọi người được bình đẳng, được tạo dựng theo hình ảnh của Tạo hoá. Con người có:

(1) trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo;

(2) lý trí (reason) để suy xét, phân biệt phải trái, thiện ác;

(3) ý chí (will) để quyết tâm thực hiện điều mình mong ước hay lý tưởng của mình và

(4) tự do (freedom) để hành động theo lương tri.

Do đó, con người “Nhân linh ư vạn vật” cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình, Hà Nội, ông HCM cũng lập lại những câu văn trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, mở đầu với câu:

“Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”

CSVN muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận thế giới tự do, vì nếu chúng ta xét qua thực chất hoạt động của đảng CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rõ CSVN chỉ hứa suông mà không bao giờ có thành ý thực hiện những điều hứa hẹn. Lời hứa không mất tiền mua. Edmund Burke rất hữu lý khi nhận xét về những hứa hẹn hão huyền của các chính quyền độc tài: “Hypocrisy can afford to be magnificent in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”.

Về phương diện tri thức, nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá ban cho nhân loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ý niệm về nhân phẩm, nhân quyền, các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức tin (Faith seeking understanding: If you do not believe, you will not understand) hơn là qua suy lý. CS Vô Thần không tin vào đấng Tạo Hóa tạo ra vũ trụ và nhân loại, nên chưa trưởng thành để am hiểu các ý niệm về quyền tự do Tạo Hoá ban cho nhân loại. Những quyền này Tạo Hoá ban cho mọi người, nhưng Tạo Hóa cũng ban cho con người tự do để chọn sự lành, lánh sự dữ hay ngược lại.

Ngoài ra, vì trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc sống trần tục, có những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận được nên chúng ta cần phải có lòng tin tưởng để được Thiên khải. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã nhận định: Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới mong được trưởng thành. “It is only when men begin to worship that they begin to grow” – “Có cầu mới được, có xin mới cho, có gõ mới mở”.

Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho nhân loại đã và đang ảnh hưởng đến tâm lý chính trị, tư duy và hành động, của nhân dân hữu thần trên thế giới và các triết thuyết chính trị của các quốc gia dân chủ Tây phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt giống cưu mang mầm mống của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789) trong thế kỷ thứ 18 và ý niệm giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm 1833 và sau đó được khai triển tại Mỹ gây nên cuộc nội chiến 1861–1865 trong thế kỷ thứ 19.

Tư tưởng lên khuôn cho hành động. Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ quyền tự do thiên nhiên (Natural Rights Liberty) do Tạo Hóa ban cho nhân loại đã và đang là nguyên động lực điều hướng chính sách đối nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.

Đối nội, một trong những nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ (1861–1865) là để bảo vệ nhân quyền, giải phóng chế độ nô lệ, vì chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lý, phản bội lý tưởng tự do. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ đã trả một giá rất đắt, đã hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến Nam–Bắc phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống Cộng hoà khả kính Abraham Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xã hội.

Đối ngoại, Hoa kỳ đã tham chiến chống Đức Quốc Xã và Phát-xít Nhật trong đệ nhị thế chiến (1939–1945) tại hai mặt trận Âu, Á. Hoa Kỳ đã hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ không tham chiến thì Âu Châu, Phi Châu đã bị Đức Quốc Xã xâm lăng. Á Châu và ngay cả Úc Châu cũng bị Phát-xít Nhật chiếm đóng thì vận mệnh của các dân tộc liên hệ tang thương như thế nào!

Nếu không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản thì Trung hoa chẳng những đã hy sinh 14 triệu người mà còn phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa và nhất là Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao giờ mới thoát khỏi ách độc tài đảng trị của Đức và Nhật. Trong cuộc chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại Việt Nam, Hoa Kỳ cũng hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lãnh.

Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh chịu, không phải để xâm lăng, chiếm đất, giành dân, mà đã thể hiện ý chí bất khuất trong chủ trương “bảo vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm lăng. Đúng với triết lý nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:

“Nếu người tốt không ra tay nghĩa hiệp thì kẻ gian tà chiến thắng –Evil triumphs if good men do nothing.” (Edmund Burke) Và người hành động dưới ngọn cờ chính nghĩa chứ không phải xâm lăng qua chiêu bài giải phóng để áp đặt chế độ độc tài đảng trị, xoá bỏ biên giới quốc gia mà tổ tiên đã hy sinh xương máu gầy dựng qua hàng ngàn năm lịch sử từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

Hơn 125,000 quân nhân anh dũng, binh sĩ và tướng lãnh Hoa Kỳ, đã “sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ đã hy sinh để giành lại chủ quyền cho các quốc gia lâm chiến như Anh, Pháp, Phi và các nước khác tại Âu châu, Á châu… Hàng năm, đến ngày kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc gia này đã đem vòng hoa ra tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh mạng sống để giải phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hy sinh vì Chính nghĩa, vì lý tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.

Ngoài vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đã viện trợ hằng ngàn triệu Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa kỳ đã lột xác Nhật Bản từ chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi khía cạnh nhân sinh văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị. Nhờ thế, Nhật Bản đã trỗi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đã trở thành một quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến Tây phương. Nhật Bản tuy bại trận, nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đã từng vinh danh Tướng MacArthur vào danh sách phong thần, một trong 12 ân nhân của dân tộc Nhật.

Tại Việt Nam, năm 1975. Cộng Sản Bắc Việt đã vi phạm Hoà Ước Ba Lê và xâm lăng miền Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết. Cộng sản Bắc Việt, quá lạc hậu và dã man, đã trả thù Miền Nam bằng cách bắt giam hằng triệu dân, quân, cán, chính Miền Nam. Hàng chục ngàn người đã chết trong ngục tù CS vì bị tra tấn, đói khát và bệnh tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa triệu người đã chết thảm trên biển cả hay vùi thây bên góc rừng, xó núi, trên đường vượt thoát tìm tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đã gây nên cuộc chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.

6. Tâm lý cử tri

Ngoài các chủ trương thượng dẫn thể hiện qua tâm lý quần chúng, ảnh hưởng trầm trọng đến kết quả các cuộc tranh cử cấp tiểu bang và liên bang, thái độ chính trị của cử tri còn thể hiện hai loại khuynh hướng về chính trị và kinh tế:

(1) Khuynh hướng thứ nhất là bầu cho người tại vị (incumbency–oriented) và chọn ứng cử viên theo chính sách quốc gia (policy–oriented),

(2) Khuynh hướng thứ hai là chọn ứng cử viên theo kinh nghiệm kinh tế cá nhân của cử tri (personal experiences) và lượng định tình trạng kinh tế quốc gia (national assessment).

Cử tri thường dồn phiếu cho ứng cử viên đương nhiệm hoặc ứng cử viên cùng đảng với vị tiền nhiệm, nếu tình trạng kinh tế khả quan. Năm 1981, cử tri Hoa Kỳ đã bầu Tổng thống Reagan (1981–1988) và sau đó bầu cho Tổng thống Bush (1989–1993) thể hiện nền kinh tế khả quan dưới thời Cộng Hoà so với nền kinh tế suy sụp lạm phát phi mã dưới thời Carter (1976–1980) nên TT Carter đã thất cử khi ra tranh cử nhiệm kỳ hai.

Trong nền kinh tế Hoa Kỳ, nên lưu ý đến hai vấn đề quan trọng: thất nghiệp (unemployment) và lạm phát hay sinh hoạt đắt đỏ (inflation). Hai hiện tượng kinh tế này có tính cách nghịch vị: Thất nghiệp tăng thì lạm phát giảm. Thời Tổng thống Carter (1977–1981) lạm phát quá cao, (mortgage interest rate để mua nhà từ 12–18%). Cử tri chú trọng vào chính sách hơn là đảng phái hoặc cá nhân khiến cho Carter thất cử. Cử tri không bầu cho Carter đương nhiệm mà bầu cho Reagan. Từ năm 1981 đến 1993, đảng Dân Chủ không thể giành lại ngôi vị Tổng thống vì đảng Cộng Hoà có nhiều bí quyết chế ngự được nạn lạm phát và giảm tỷ số thất nghiệp. Thường nạn thất nghiệp dưới thời Cộng Hoà cao hơn dưới thời Dân Chủ, do đó những người sợ nạn thất nghiệp, hay lo lắng về tình trạng kinh tế cá nhân thường dồn phiếu cho ứng cử viên đảng Dân Chủ. Hai vấn đề này đều thuộc về kinh tế đại tượng (macro econ.). Đảng nào quân bình được cán cân thất nghiệp và lạm phát sẽ có nhiều cơ hội gặt hái được kết quả tốt đẹp trong các cuộc bầu cử. Sau cuộc bầu năm 2016, TT Trump đắc cử, nền kinh tế khởi sắc, nạn thất nghiệp giảm, kinh tế phồn thịnh.

Kinh nghiệm của cử tri về kinh tế cá nhân (personal experiences) và tình trạng kinh tế quốc gia (national assessment) cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành quyết định của cử tri. Nếu tình trạng gia đình khả quan, cử tri sẽ tiếp tục bầu cho Tổng thống, Thống đốc đương nhiệm hoặc cùng đảng. Sự kiện này có thể suy luận từ tình trạng kinh tế và kết quả các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang. Chính cá nhân cử tri mới hiểu rõ tình trạng hạnh phúc hay đau khổ của mình vì sự thăng trầm của nền kinh tế, đúng như nhận xét của kinh tế gia Adam Smith: “Every man feels his own pleasures and his own pains more sensibly than those of other people.”

Lại nữa trong bất cứ nhiệm kỳ nào của Dân Chủ hay Cộng Hoà đều có người thất nghiệp. Những người thất nghiệp có thể có hai thái độ: bầu cho tổng thống đương nhiệm nếu nhận thấy tình trạng quốc gia khả quan và không cần luận về tình trạng thất nghiệp cá nhân. Cũng có thể họ bầu cho ứng cử viên mới để mong tình trạng cá nhân hầu có thể thay đổi. Vấn đề này thuộc tâm lý cá nhân nghĩ đến quốc gia dân tộc hay đặt nặng quyền lợi cá nhân, do đó cùng một hoàn cảnh có thể hai người có hai thái độ khác nhau.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (2001–2008), đa số dân chúng Mỹ nghĩ rằng tình trạng kinh tế khả quan, đời sống gia đình thoải mái nên bầu cho ứng cử viên Cộng Hoà George Bush về cả hai phương diện kinh nghiệm kinh tế cá nhân và tình trạng kinh tế quốc gia. “When the nation’s economy is doing well, the voters would tend to vote for the incumbents, while those who believed it had been worsened would tend to vote for the challengers.”

Nhưng sau cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông nhằm tiêu diệt khủng bố đã đánh vào thành trì tư bản của thế giới từ năm 2001. Tình trạng kinh tế gặp khó khăn nên dân chúng muốn có sự thay đổi. Ông Obama, nhờ chủ trương “Change” đã được bầu làm Tổng Thống được 2 nhiệm kỳ (2008–2016).

Tuy nhiên, khi gần hết hai nhiệm kỳ của Obama, xem ra dân chúng không thấy được sự thay đổi như Đảng Dân Chủ đã hứa hẹn. Ngân sách quốc gia thâm hụt đến 18 trillion hay 18,000 tỷ ($18,000,000,000,000). Tình hình an ninh quốc nội lại bị khủng bố đe dọa, thất bại về chính sách đối nội và đối ngoại.

Năm 2008, khi TNS Obama nhậm chức Tổng Thống, đảng Dân Chủ chiếm đa số cả Thượng viện lẫn Hạ Viện Hoa Kỳ. Sau 4 năm trị vì, dân chúng bất mãn, đảng Dân chủ mất một số lớn ghế Thống Đốc và mất luôn quyền kiểm soát Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ và lưỡng viện quốc hội tại nhiều tiểu bang.

Dự định phân phối người lớn và trẻ em vượt biên bất hợp pháp từ Nam Mỹ, hoặc di dân từ Trung Đông đến các tiểu bang, không nghĩ đến lý do an ninh và gánh nặng an sinh xã hội. Sự kiện này đã gây phẫn nộ trong quần chúng và hơn 30 vị Thống Đốc đã phản đối TT Obama về vấn đề di dân và nhiều vấn đề nhiêu khê khác.

Sở dĩ cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2016–2020 đã có nhiều ứng cử viên đảng Cộng Hòa ra tranh cử vì các đảng viên Cộng Hoà thấy đây là cơ hội tốt để thắng cử. Trong lúc đó đảng Dân Chủ chỉ có 4 ứng cử viên, nhiều người không tham gia tranh cử vì thấy cơ hội thắng cử của đảng Dân chủ không cao. Thêm vào đó, chính trị Hoa Kỳ thường thay đổi đảng cầm quyền quốc gia cứ 8 năm một lần.

Tuy nhiên kết quả thăm dò dư luận thường thay đổi có khi tùy theo một số biến cố không thấy trước được như nạn khủng bố ở Pháp, hay ở San Bernardino, CA năm 2015, đã nâng cao điểm tín nhiệm cho một số ứng cử viên quan tâm đến chủ trương mạnh mẽ về vấn đề chống khủng bố, chống di dân mà các chính khách nhà nghề thường giữ thái độ dè dặt sợ bị phản ứng không dám lên tiếng. Nói khác đi một con bướm bay ở Âu châu có thể tạo nên làn gió mạnh ở Mỹ châu hoặc ngược lại. “Butterfly effect: This effect grants the power to cause a hurricane in China to a butterfly flapping its wings in New Mexico. It may take a very long time, but the connection is real. If the butterfly had not flapped its wings at just the right point in space/time, the hurricane would not have happened. “

Trong các xã hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do Thượng Đế (natural law) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã ghi rõ: “All men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness”. Mọi người sinh ra đều được bình đẳng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc…

Nền chính trị tại Hoa kỳ rất phức tạp, luôn luôn có những làn sóng ngầm xung đột giữa các quan niệm khác nhau, về vấn đề chọn ưu tiên trong khi thực hiện quốc sách.

(1) Ý niệm phổ quát cổ truyền được công chúng nhắc đến là ý nguyện của các bậc khai quốc công thần đã thể hiện qua Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và Hiến Pháp năm 1787 chủ trương giành ưu tiên để bảo vệ quyền tự do thiên nhiên của con người do Thượng Đế ban cho “Natural Rights liberty”. Từ khuynh hướng căn bản này, một số ý niệm khác được khai triển.

(2) Ý niệm thứ hai là dành ưu tiên đề bảo quản quyền tự trị địa phương hay tiểu bang “Classical Communitarian Liberty”. Ý niệm này bênh vực quyền quản trị địa phương, tăng quyền tiểu bang và hạn chế quyền liên bang. Các tiểu bang đều có hai Thượng Nghị Sĩ và cứ khoảng trên dưới 500,000 dân được bầu một dân biểu trong Quốc hội Liên bang. Mỗi tiểu bang có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

(3) Khuynh hướng thứ ba là ưu tiên để bảo vệ tự trị kinh tế cá nhân “Economic Autonomy Liberty”.

(4) Khuynh hướng thứ tư là dành ưu tiên bảo vệ công bằng xã hội “Social Justice Liberty” và

(5) Thứ năm là dành ưu tiên bảo vệ quyền tự do cá nhân “Personal Autonomy Liberty”, trong đó có vấn đề phá thai mà cuộc tranh luận khéo daì cho đến ngày nay. Nhân kỷ niệm 48 năm án lệ Roe v. Wade (1973-2021). Chúng ta thử xem qua lập trường đôi bên:

“The Biden Administration made the announcement in a press statement put out by the White House. “The Biden-Harris Administration is committed to codifying Roe v. Wade and appointing judges that respect foundational precedents like Roe,” reads the statement. “In the past four years, reproductive health, including the right to choose, has been under relentless and extreme attack,” it continues. “We are deeply committed to making sure everyone has access to care—including reproductive health care—regardless of income, race, zip code, health insurance status, or immigration status.” Roe v. Wade was the 1973 Supreme Court 7-2 decision ruling that the Constitution of the United States protects a pregnant woman’s liberty to choose to have an abortion without excessive government restriction. It struck down many U.S. federal and state abortion laws.

Meanwhile, Sen. Rand Paul (R-Ky.) said, “Today marks the grim 48th anniversary of Roe v. Wade. Since this ruling in 1973 over 62 million innocent lives have been lost due to abortion. Every single life matter including the unborn. We must protect the sanctity of life & prevent taxpayer dollars from funding abortions.”

Rep. Debbie Lesko (R-Ariz.) echoed Paul’s criticism. “Today is the tragic anniversary of Roe v. Wade,” Lesko wrote. “I am proud to be a pro-life woman in Congress and fight for the right to life for every unborn baby. Every life is a gift from God, and I will continue to defend the sanctity of life at every stage.”

Những người làm chính trị có thể, không ít thì nhiều, am hiểu tâm lý chính trị. Nhưng không hẳn người hiểu tâm lý chính trị lại làm chính trị. Trường hợp này, nghiên cứu để hiểu biết chính trị hơn là áp dụng kiến thức vào sinh hoạt chính trị một cách tích cực qua chính đảng. Hoặc nói cách khác đi không có “khiếu” hoặc không thích làm chính trị.

Làm chính trị cần sự dấn thân, can đảm, bền chí, nhẫn nhục… có khi hy sinh cả cuộc đời, không vì tư lợi mà vì quốc gia dân tộc. Tuy vậy, số người hy sinh vì quốc gia dân tộc thường ít, và khi hành động cần người hợp tác. Người hợp tác có thể vì danh lợi, thừa gió bẻ măng, tạo nên nạn bè phái, oán cừu, làm cho người có tâm huyết thân bại danh liệt.

Người có tâm huyết làm chính trị chỉ vì muốn thực hiện một sứ mệnh cao cả, không nề gian khổ, nếm mật nằm gai, noi gương Việt Vương Câu Tiễn, quyết chí xây dựng quốc gia dân tộc, như lời thơ diễn tả của Đằng Phương:

“Họ là những anh hùng không tên tuổi,
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.”

Chung quy, con người thường hành động theo tư tưởng của mình. Tư tưởng thu nhận từ xã hội, học đường, bạn bè… kết tinh thành trạng thái tâm lý, gọi chung là tâm lý quần chúng.

Muốn thu phục nhân tâm, trước hết phải am hiểu tâm lý quần chúng. Muốn am hiểu quần chúng phải có tâm hồn khoáng đạt, cởi mở để có thể tiếp nhận ý kiến từ nhiều quan điểm thuận cũng như nghịch, để rồi tinh luyện, biến hoá, tương kế tựu kế, hầu thực hiện sứ mệnh cao cả của mình.

Dầu sinh hoạt chính trị dưới hình thức nào đi nữa thì bốn lập trường nêu trên từ cách mạng tả phái đến phản cách mạng hữu phái, vẫn là đặc tính chung của phạm trù tâm lý chính trị.

Trong bất cứ xã hội nào, thường một thiểu số chấp nhận một thái độ, một lập trường và dùng lập trường đó như kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó một thiểu số tranh đấu cho lý tưởng của họ, nếu thắng thế, họ sẽ trở thành cấp lãnh đạo. Lãnh đạo vì dân vì nước là phước của quốc gia. Lãnh đạo vì xôi thịt là quốc nạn.

Thế thì không nên hờ hững với chính trị. Một mặt sinh hoạt chính trị “nhằm sửa trị sự việc cho chính trực”. Mặt khác nếu mình không tỏ rõ lập trường, tà đạo lên nắm quyền thì chính mình sẽ là nạn nhân của thời cuộc. “Evil triumphs when good men do nothing” (Edmund Burke). Nhận xét này là kim chỉ nam hướng dẫn hành động của đống bào quốc nội yêu chuộng tự do và quý vi đồng hương hải ngoại trong công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức các đoàn thể ái hữu, tôn giáo, cộng đồng địa phương, tiểu bang, liên bang, quốc tế để xây dựng đời sống mới hầu hỗ trợ cho đại nghiệp cứu quốc chóng được viên thành.

Nhờ tự do tư tưởng mà các nước dân chủ đã tiến xa trên bước đường xây dựng quốc gia dân tộc, ý thức chính trị của quần chúng cao. “Ý dân là ý trời- vox populi vox dei”, không phải thể hiện bằng cách mạng, bằng đảo chánh, gây chiến tranh, cướp chính quyền mà bằng phương thức ôn hoà, nhân bản qua phương thức văn minh: Bầu cử tự do, thực thi quyền dân tộc tự quyết.

Bầu Cử Tự Do thật sự hiện hữu mỗi khi cơ quan tổ chức bấu cử, cử tri, ứng cử viên dựa trên động cơ đạo đức cao thượng” Một lòng vì dân, vì nước” qua quá trình (1) nghiên cứu, kiện toàn, tìm hiểu tường tận kỹ thuật, luât lệ tổ chức, điều kiện cử tri, ứng cử viên, chiếu theo nhu cầu của môi trường dân sinh, phát triển xã hội (cách vật trí tri); (2) tham gia bầu cử với tư cách cử tri, ứng viên hay nhân viên phòng phiều với tấm chân tình nhằm mục đích phung sự xã hội, “thương vì đức, hạ vì dân” (thành tâm); (3) Khi sự thành tâm đã an định thì không dùng phương pháp lương lẹo, gian trá, thay trắng đổi đen, (chánh ý); (4) Người được vinh danh là người có phẫm hạnh, là người luôn xét mình, tự sửa sai để hoàn thiện trong lời nói và việc làm (tu thân); (5) chọn người đại diện một cách công minh, chính trực thể hiện sự liêm chính, là hành vi nêu gương tốt cho con, cháu, trong công tác giáo dục, xây nền tảng gia đình (tề gia) (6) các cuộc bấu cử tự do được điều hành một cách chính trực gia tăng giá trị của tập thể, lòng tín nhiệm của đồng bào, sự thoã mãn của ứng cử viên, trong công tác xây dựng nhân quần xã hội (trị quốc); một khi mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia tuân giữ đaọ đức truyền thống thì công đồng quốc tế đươc thái bình thịnh trị, (bình thiên hạ).

Nếu vai trò của các đoàn thể, cộng đồng, chính đảng, chính phủ là để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị để mời gọi sự hợp tác của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc, thì công dân phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường cho chính mình vậy.

Trần Xuân Thời

Views: 14

Hãy Đếm Năm Tháng Mình

Đỗ Quang Tỏa (CH8)

 

Tại buổi Họp Mặt QGHC Miền Đông nhân dịp Lễ Tạ Ơn tại nhà Anh Chị Dũng-Tụ, tôi được Mục Sư  Trần Nhựt Thăng gởi tặng quyển sách MS vừa xuất bản “Hãy Đếm Năm Tháng Mình”. Thoạt đầu, tôi nghĩ đây có lẽ cũng là một cuốn sách truyền giảng Lời Chúa, như những cuốn sách hay tạp chí đã được Trung Tâm Truyền  Giáo Việt Nam xuất bản. Nhưng chỉ sau vài trang đầu, độc giả sẽ bị lôi cuốn vào những mẫu chuyện, không những có tính chất  tâm linh mà còn chứa đựng những tâm tình, kinh nghiệm sống mà tác giả đã trải qua trong suốt hơn 70 măm.

Trong chương mở đầu, tác giả đã nhắc đến câu chuyện của hai ông Charles Colson, Phụ Tá đặc biệt cho Tổng Thống Nixon từ năm 1969 và ông Tom Phillips, Chủ Tịch đại công ty Raytheon, Hai người là bạn rất thân với nhau và cả hai cũng đã thành công đến tột đỉnh của danh vọng và của cải vật chất. Nếu cuộc đời vẫn phẳng lặng trôi qua, thì con người sẽ được hạnh phúc biết bao? Nhưng những gì đã xảy đến với hai ông đã làm thay đổi hẳn cuộc đời họ và giúp họ “giã từ hư ảo”.  Phảng  phất trong câu chuyện này, người đọc cũng có thể thấy tác giả đã hé lộ  cho thấy tại sao Ông lại chọn  con đường làm Mục Sư để phục vụ Chúa khi đường công danh còn trải rộng và nhiều hoài bão về quê hương dân tộc chưa thực hiện được.

Những mẫu chuyện khác trong quyển sách xoay  quanh những câu hỏi lớn như  “người chết đi về đâu?” hay kinh nghiệm sống  “Ba bước thành công” hay “Việc trong tầm tay”. Nhiều chuyện nói về ân điển của Chúa và niềm tin mãnh liệt của tác giả vào sự cứu rỗi của Chúa.

Trong phần “Vài Nét về Tác Giả”, tác giả cho biết đã từng nắm chức vụ Tổng Thư Ký Bộ Thông Tin, Dân Vận và Chiêu Hồi từ năm 1969 dến 1974, dưới thời Tổng Trưởng Trương Bửu Điện và Hoàng Đức Nhã. Tôi hy vọng tác giả sẽ hé lộ một số chi tiết lý thú về quá trình làm việc tại cơ quan đầu não này vào lúc cuộc chiến Việt Nam đi vào giai đoạn quyết định, nhưng tác giả đã không nhắc đến ở đây. Cũng không giống như nhiều người Việt Nam khác là hay viết hồi ký kể lại những công trận của mình để đánh bóng cá nhân hay lãnh tụ của mình, tác giả chỉ kể lại những kinh nghiệm sống thực của mình, rồi để người đọc đánh giá. Nhiều lần trong quyển sách, tác giả đã nhắc đi nhắc lại là luôn luôn tôn trọng ý kiến cá nhân và “sự chọn lựa thuộc về Bạn”. Tuy nhiên trong một cuộc nói chuyện với cựu Tổng Trưởng Hoàng Đức Nhã (tháng 9, 2019 tại Virginia) , tôi được Ông chia xẻ kinh nghiệm làm việc của Ông với tác giả. Ông cho rằng thành công lớn nhất của tác giả tại Bộ Thông Tin  là đã tạo được niềm tin cậy với  Ông và cả Tổng Thống Thiệu (một người rất đa nghi). Ông cho biết bằng chứng là Bộ Thông Tin đã xử dụng rất nhiều anh chị em QGHC  trong những chức vụ then chốt. Người đọc cũng có thể tìm được những nguyên tắc giúp tác giả thành công “Việc trong tầm tay”.

Những bài học thực tiễn trong quyển sách cũng đã được tác giả sắp xếp lại qua nhiều giai đoạn từ việc dấn thân vào  công tác xây dựng Hội Cựu Sinh Viên QGHC Miền Đông,  tổ chức cơ cấu Cộng Đồng Việt Nam Vùng Hoa Thịnh Đốn, công tác từ thiện, đến việc gầy dựng được một nhà thờ Tin Lành Việt Nam vùng Virginia. Quyển sách này cũng có thể coi như một lộ trình cuộc đời  của tác giả và tác giả muốn “viết cho đời”. Người đọc có thể có nhiều chỗ bất đồng ý kiến với sự dẫn giải của tác giả, nhưng cũng khó phủ nhận được những gì tác giả nêu lên ít nhiều liên quan, ảnh hưởng hoặc thay đổi  cuộc sống chúng ta.

Nếu nói con người tạo ra tác phẩm thì tác phẩm cũng chính là con người đã tạo ra nó.  Chúc mừng MS Trần Nhựt Thăng.

Xin “Hãy cảm tạ trước khi quá trễ”.

Sách dầy 247 trang, ISBN # 978-168524760-7, không để giá bán.

Nhà in: focusdigitalpublishing@gmail.com

Liên lạc tác giả: trannhutthang@gmail.com

Đỗ Quang Tỏa (CH 8)

Mùa Tạ Ơn 2021

Views: 159

Phạm Thành Châu và Tập Truyện Ngắn “Vô Tình”

Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22 )

Xuất bản tháng 10 năm 2021, đây là tập sách thứ bảy của nhà văn Phạm Thành Châu (PTC) tự xuất bản. Và theo lời tác giả, “Vô Tình” cũng sẽ là tập truyện “sau cùng” của anh.

Anh PTC có lẽ cũng có lý do để “hù dọa” tôi như vậy và tôi nghĩ lý do thật lòng và đơn giản nhất là: PTC …mệt rồi. Bọn chúng tôi vừa ăn sinh nhật thứ 79 của anh vào dịp anh Nguyễn Cửu Viên, một đồng môn QGHC từ Seattle ghé thăm Miền Đông; và khi lớn tuổi, anh trở nên khó khăn với các tác phẩm văn chương của anh.

Anh nói với tôi là “tôi phải đọc đi đọc lại, sửa tới sửa lui từng câu văn, cách dùng chữ, sắp xếp ý tưởng cho từng chuyện tôi viết. Nhiều chuyện không ưng ý thì bỏ sọt rác. Đọc và sửa đến nổi thuộc lòng những gì mình viết trong từng chuyện một…”

Vậy mới biết, viết và được mang danh vị “Nhà Văn” không phải là chuyện dễ hay là chuyện giỡn chơi. Vậy mà PTC thẳng tay từ chối danh hiệu Nhà Văn  của anh. Ở trang bìa sau của tập sách Vô Tình, PTC viết: “Người xưa có câu “ Văn dĩ tải đạo, Thi dĩ ngôn chí” (Văn chương phải nói lên cái đạo lý. Thi ca nói lên cái chí của mình), ông không có “tiêu chuẩn” nào để được gọi là nhà văn. Ông kể những chuyện tầm phào, chỉ đáng đem vào giường đọc cho dễ ngủ. ”

Tôi không nghĩ vậy.

Truyện PTC viết không phải là “chuyện tầm phào” mà là những mảnh tâm tình rất thật của nhiều cảnh đời được ghi lại qua ngòi bút đặc thù, chỉ riêng một mình, của Nhà Văn PTC. Cũng giống như những ca sĩ thành danh, nghe tiếng hát của họ là thính giả biết ngay người hát là ai  thì PTC cũng vậy. Đọc truyện PTC viết thì biết ngay là văn của PTC.

PTC thích kể hay thuật chuyện. Và anh là người kể chuyện có duyên và lôi cuốn. Vì anh kết cấu truyện ngắn như một chuyện kể  nên truyện anh viết không cầu kỳ, hay phô bày những trau chuốt, sắp xếp hay kết cấu của văn chương chữ nghĩa và do vậy,  tạo được sự gần gũi, thân-tình-không-màu-mè giữa tác giả và người đọc.

Tôi thích đọc chuyện PTC là ở  tính thuần hậu, chơn chất, thủy chung của những nhân vật trong truyện PTC viết hay kể. Những đức tính đó thật khó tìm thấy trong cõi đời văn minh vật chất và những tiến bộ kỹ thuật thay đổi đến chóng mặt bây giờ. Khó tìm thấy ở chỗ tình cảm của những nhân vật trong chuyện PTC  thường trải dài qua nhiều năm tháng mà vẫn bất biến,  trước sau như một. Cái kiểu yêu ai, thích gì thì mang theo  yêu, thích đó trọn một đời. Thêm nữa, giống trong chuyện cổ tích hay chuyện đời xưa, chuyện PTC thường có kết cục “gặp lành” cho những người “ở hiền.” Tôi có thể ghi lại ở đây tên hàng chục truyện ngắn PTC, để chứng minh, mỗi truyện là những nhân vật khác nhau, những dòng đời nhiều biến động, nhưng tình cảm thì vẫn vậy, trước sau như một, không hề lay chuyển. (Nếu chỉ riêng trong “Vô Tình” không thôi thì mời độc giả theo chân những nhân vật nam có, nữ có,“hiền lành”, “trước sau như một” trong các truyện: Ngôi Nhà Ngày Xưa,  Đôi Giày Gót Thấp, Thôi Miên Thuật và Mối Tình Của Tôi, Hoa Trang, Người Mất Trí.)

Cái hay của truyện PTC còn nằm ở điểm này: Truyện PTC kể có nhiều truyện có vẻ khó tin, không thực, như tôi đã nói, giống truyện cổ- tích- đời- xưa; vậy mà đọc xong thì thấy có cái gì đó gần gủi tận sâu trong tâm tình người đọc, rất thực. Gấp cuốn sách lại những dòng đời trong nhiều truyện kể của PTC chạm đến đáy tim nhiều người đọc ngay bây-giờ, lúc-này-ở-đây.  Tôi nghĩ, đó là tấm lòng nhân hậu, tử tế, yêu thương vô điều kiện lẫn khuất đâu đó trong mỗi người chúng ta mà nhiều khi thường bị che mờ bởi những u mê của cái tâm thức mãi lo chạy đuổi theo những hỷ nộ ái ố của đời sống. Có phải chăng mỗi người chúng ta vẫn thường mong tìm những an-ủi-ấm-lòng, những yêu-thương-tự-tâm trong đời sống  hiện tại đầy dẫy những lạnh lùng, vô cảm; những mê mờ, rập khuôn; những phô trương trống rỗng, hay quá nhiều những tàn nhẫn, ác độc không còn tính người?

Một điểm nữa, nếu không nhắc đến khi viết về PTC thì chắc hẳn là một thiếu sót lớn: Còn nữa, còn hoài không bao giờ xa lìa trong truyện PTC là  những tình tự hay chuyện kể về quê hương Việt Nam  hình chữ S với nhiều hệ lụy, nhiều quá khứ khổ đau, nhiều buồn vui, nhiều dính líu tâm tình. Có lẽ do vậy mà PTC có rất nhiều độc giả trong số những người Việt Nam bỏ nước ra đi tìm tự do, mang theo quê hương Việt Nam trong trái tim mình, không dứt bỏ được. Đó là hàng triệu người Việt ly tán khắp nơi sau 30-4-1975, hàng triệu mảnh đời khác nhau, hàng triệu trái tim Việt Nam lưu vong đang tìm cách vượt trên lối sống văn minh kỹ thuật  tiến bộ đến chóng mặt ở xứ người để sống cái tâm tình thuần hậu, chơn chất, thủy chung, tử tế, đơn giản của người Việt mình.

Quê hương với những tình tự quá khứ  quen thuộc  hiện hữu trong nhiều tập truyện PTC và trong Vô Tình cũng vậy. Nhưng có nhiều khi chúng ta ngỡ ngàng khổ tâm giống PTC trong truyện  Ông Lão và Cô Gái Điếm (Vô Tình, trang 57-72) nhìn thấy những thay đổi lạnh lùng,  những thay đổi thật vậy sao (?) ngay chính trên mảnh đất quê hương yêu dấu giờ đã xa.

PTC chạy tới chạy lui chạy qua chạy lại chạy hoài giữa chuyện ở xứ người và chuyện ở Việt Nam ngày xưa, bây giờ. Mà không phải chúng ta cũng vậy sao? Chạy tới chạy lui chạy qua chạy lại chạy hoài giữa chuyện ở xứ người và chuyện ở Việt Nam ngày- xưa-bây-giờ.

Mười bảy truyện ngắn PTC trong hơn 200 trang giấy của tập truyện Vô Tình mãi vẫn là  tâm tình của người Việt tử tế PTC, cũng giống như tâm tình của tôi và của bạn, những người Việt xa xứ,  cộng thêm chút khôi hài, cười cho “dzui”, có gì đâu mà ra vẻ đạo mạo, nghiêm trang.

Độc Giả Vô Tình.

Phần viết dưới đây là phần …ngoài lề, của tôi, người phụ trách ấn loát tập sách Vô Tình. Ngoài lề nhưng tôi nghĩ là cần nên viết và chia sẻ.

Những gì tôi viết ở đây sẽ chỉ liên quan đến những tác phẩm của PTC mà nhà in của tôi phụ trách việc trình bày và ấn loát. Nhưng thực ra nói riêng về việc ấn loát và  phát hành những tập truyện của PTC cũng là nói chung về tình trạng ấn loát và phát hành của sách vở người Việt nước ngoài.

Nhà văn PTC giao phó cho “nhà in” của tôi việc trình bày và ấn loát tất cả 7 tập sách trong hình dưới đây:

Việc tự lo ấn hành 7 tập sách không phải là việc đơn giản và dễ dàng.

Trước hết phải kể đến công trình sáng tạo tim óc của tác giả trong nhiều năm trời để hình thành một tác phẩm văn chương.  Nhiều người ví, đối với nhà văn, mỗi cuốn sách là một đứa con tinh thần thì cũng không có gì gọi là thậm xưng.

Kế đến là lo việc trình bày và ấn loát. Dĩ nhiên là tốn tiền.

Chặng chót, có sách trong tay, tác giả tự lo phát hành đến tay người đọc, “bán” sách, thâu lại “tiền vốn” còn có tiền dành cho việc xuất bản cuốn kế tiếp.

Đứng trên mặt “kinh doanh” không thôi, thì việc tự xuất bản một cuốn sách, nói nôm na,  là việc “bỏ ra bạc ngàn, thâu vào bạc cắc”. Muốn “huề vốn” thì phải bán được số nhiều.

Thoạt kỳ thủy, có nghĩa là cách đây hai ba chục năm, nhà văn PTC mỗi lần in sách là in 1000 ấn bản. Các tựa sách như “Nhớ Huế”, “Bức Họa Khỏa Thân” “ Lý Lẽ Của Trái Tim” rất được độc giả yêu thích, đặt mua và đã được tái bản một, hai lần.

Nhưng những năm gần đây, từ 2016,  tôi nhận ra nhiệt tình viết và xuất bản sách của PTC càng lúc càng …đi xuống. Mà đi xuống một cách trầm trọng.  Như khi đặt in tập truyện mới nhất này, “Vô Tình”, tác giả chỉ muốn in …50 cuốn. Tôi hỏi PTC tại sao số lượng in giảm đến độ gần như 95% so với trước đây, thì được nghe tác giả trả lời :

– “Có ai đặt mua sách đâu nữa mà in nhiều? In bây giờ chỉ để …biếu!”

Ô hay, độc giả mua sách PTC…biến đâu mất rồi? Không lẽ độc giả giờ cũng …”vô tình” như tựa tập sách mới của PTC sao?

Tôi nghĩ, có nhiều lý do, nhưng nguyên nhân chính yếu nhất là số người đọc sách báo tiếng Việt (ở nước ngoài) càng ngày càng suy giảm trầm trọng (tuổi đã già, mắt kém); cộng thêm sự phát triển và phổ cập của các phương tiện truyền thông mới như đọc truyện, sách không tốn tiền trên Internet, xem YouTube hay Facebook v..v…thì cán cân nghiêng hẳn về những phương tiện “kỹ thuật mới” này. Thời đại văn minh, không còn thì giờ để tìm mua, đọc một cuốn sách, một tờ báo, nhưng quá nhiều thì giờ dành để email, lướt mạng, đưa hình ảnh lên FaceBook, hay xem YouTube! Do vậy, ngày nay ở nước ngoài, “đốt đuốc” cũng rất khó tìm được người mua sách báo tiếng Việt để đọc.

Khi tôi viết những dòng nhận xét ở trên về tình trạng xuất bản sách tiếng Việt của PTC, tôi vẫn không muốn tin là không còn độc giả (mua và đọc) sách báo tiếng Việt. Tôi không tin là những người yêu sách, báo thích đọc sách, báo tiếng Việt “biến mất” một cách không kèn không trống như vậy.Tôi càng không tin là người Việt mình sẵn sàng bỏ ra $15 để ăn 1 tô phở, nhưng tiếc $15 mua một cuốn sách, một tờ báo hay để đọc.

Tôi thực sự muốn chứng minh với PTC rằng có nhiều khi gióng lên một tiếng chuông thì người đọc kinh đang buồn ngủ mới giật mình tỉnh thức để tâm theo lời kinh, tiếng kệ. Rằng có nhiều khi độc giả của PTC không phải không muốn mua sách đọc, mà do chính PTC không ơi hỡi, không báo tin, không …quảng cáo, “tiếp thị” thì ai biết mà mua sách?

Vậy thì tôi xin mạn phép thưa với “độc giả” đã theo đọc tới những dòng chữ này hãy tìm mua và đọc những tác phẩm văn chương của nhà văn PTC, và cũng như  nhiều tác giả khác, như một phản chứng để nói với PTC (và nhiều tác giả khác) là: Chúng tôi những người yêu đọc sách tiếng Việt vẫn còn đây!

Được như vậy, nhịp cầu tương tác giữa tác giả và độc giả sẽ mãi được nối lại,  và tập truyện Vô Tình nhất định sẽ không là tập truyện cuối cùng như PTC “tuyên bố” với riêng tôi.

Nguyễn Quang Dũng (Focus Digital Publishing)

Virginia, tháng 12/2021

(Đính kèm dưới đây là Phiếu mua sách PTC)

Views: 88

Lễ Thăng Cấp Đại Tá Y Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ Mai Quang Vinh

Hậu duệ CSV QGHC MĐ, Mai Quang Vinh, Thứ Nam anh chị Mai Văn Giỏi (Đốc Sự Khóa 11) trong Lễ Thăng Cấp Đại Tá Y Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ

Được biết ngày thứ Ba 1/6/2021, gia đình Chị Mai Văn Giỏi đã tham dự lễ thăng cấp Đại Tá  Y Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ cho con trai Mai Quang Vinh tại Walter  Reed  National Medical Center Bethesda, Maryland.

Đại Tá Mai Quang Vinh

Đại tá Mai Quang Vinh, sinh năm 1975, trong gia đình có 2 chị em, là thứ nam của anh chị Mai Văn Giỏi, theo gia đình  định cư tại bang Virginia năm 1990. Sau khi tốt nghiệp cử nhân sinh học tại  Virginia Commonwealth University, Mai Vinh tiếp tục học tại đại học Kansas City University of Medical và tốt nghiệp Doctor of Osteopathic Medicine (D. O.) degree. Tình nguyện vào hải quân năm 1998. Mai Vinh lần lượt tham gia nhiều công tác từ AFRICOM ở Djibouti đến JPAC POW/MIA ở Việt Nam. Đến năm 2021, Mai Vinh được thăng cấp đại tá và sẽ được chuyển đến công tác tại Guam với tư cách Senior Medical Officer.

Đại tá Mai Vinh, sĩ quan y sĩ  gốc Việt được thăng cấp đại tá khi vừa  tròn 46 tuổi, với tương lai đầy hy vọng, ông sẽ trở thành một vị tướng gốc Việt, vừa mang lại sự hãnh diện cho gia đình, vừa là niềm hãnh diện của hậu duệ một cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, nói riêng.

Một lần nữa, Hội xin chung vui với chị Mai Văn Giỏi và gia đình, chúc Đại Tá Mai Vinh ngày càng thăng tiến trong đời binh nghiệp.

Gia đình chị Mai Văn Giỏi trong ngày Lễ thăng cấp Đại Tá Mai Quang Vinh (trong hình: Chị Mai Văn Giỏi, người thứ ba, từ trái sang)

Hổ Phụ Sinh Hổ Tử

Anh Mai Văn Giỏi (ĐS 11) trong Ngày Khai Thuế Miễn Phí 16/5/2007

Nói đến sự thành công của Đại Tá Mai Vinh cũng là nói đến câu “ Hổ phụ sinh hổ tử”, để nhắc đến thân phụ của Đại Tá “Anh Mai Văn Giỏi, cựu sinh viên QGHC Ban Đốc Sự, Khóa 11“, từng  là người tử tù trong trại cải tạo CS, đã qua đời năm 2007 tại Virginia, đã khơi lại nhiều kỷ niệm của anh với anh em Hành Chánh Miền Đông, trong  thời gian sinh hoạt từ  Tổng Hội (1999-2000) đến Hội CSV QGHC Miền Đông (1999-2007).

Anh Lê Văn Quan trong ngày tiễn biệt anh đã nói: Chúng tôi vẫn không khỏi ngậm ngùi tiếc rằng anh Giỏi đã ra đi quá sớm.

Quá sớm vì anh chưa vượt quá tuổi cổ lai hi, nhất là ngày nay, thất thập không còn là tuổi cổ lai hi nữa.

Quá sớm vì sau gần suốt cuộc đời với nhiều gian truân và tận tụy, tận tụy với gia đình, tận tụy với bạn bè, anh Giỏi lại vội vã ra đi vào thời điểm anh đang có đầy đủ điều kiện an hưởng thanh nhàn.

Quá sớm vì chúng tôi nghĩ rằng, cuộc đời vẫn chưa bù đắp đủ cho anh về những tận cùng khổ đau về cả thể xác lẫn tinh thần qua những trận đòn trừng phạt đầy thù hận, không thương tiếc của trại tù mà anh đã hứng chịu sau lần vượt ngục thật can trường, nhưng không thành công.

Quá sớm vì chúng tôi tiếc anh, một người bạn thật nhân hậu của chúng tôi. Trong suốt cuộc đời, anh luôn đem lòng vị tha đối xử với mọi người, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tình huống; ngay cả trong trại tù CS, nơi mà bệnh tật và đói khát luôn luôn hành hạ và đe dọa tính mạng  tù nhân từng giờ từng phút; nơi mà vì bản năng sinh tồn, lòng ích kỷ của con người được phát triển cao đô.Trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, anh vẫn giữ được bản  tánh nhân hậu của mình, vẫn sẵn lòng làm bất cứ điều gì có thể làm được để giúp đỡ bạn đồng tù Do bản tánh nhân hậu đó, anh đã cứu được mạng sống của hai bạn tù ở trại Z 30 D Long Khánh.

Một người bạn tù khác cùng trại, cũng đã từng nhận được nhiều  giúp đỡ về cả vật chất lẫn tinh thần của anh Giỏi, đã xem anh như là ân nhân của đời mình, cũng đã mỏi mắt tìm kiếm ân nhân từ khi được định cư ở Mỹ năm 1994. Mãi đến tuần qua, qua một người bạn cùng khóa với chúng tôi, anh Nguyễn văn Cường ở Oklahoma, lần đầu tiên, người bạn tù đó tiếp xúc được với tôi, và qua tôị, anh ấy đã rất vui mừng điện thoại đến nhà ân nhân …nhiều lần, Không có ai trả lời  vì lúc đó anh Giỏi sắp ra đi.

 Lòng biết ơn và ao ước gặp lại ân nhân của mình sau hơn mười năm tìm kiếm vẫn không đạt được và mãi mãi không đạt được. Chúng tôi oán trách Định Mệnh đã không dành cho anh Giỏi một an ủi cuối cùng, oán trách Định Mệnh vẫn tiếp tục khe khắt với anh cho đến phút cưối đời. Người bạn tù đó là anh Nguyễn thanh Mậu ở Colorado, đã nhờ tôi thắp một nén hương trưóc linh vị anh Giỏi để bày tỏ lòng biết ơn và cũng để tiễn biệt ân nhân mình”.

Giờ đây Định Mệnh đã bù đắp phần nào cho anh qua sự thành cômg tốt đẹp của con trai anh, Đại Tá  Mai Vinh. Tin rằng hương linh anh đang mĩm cười nơi cõi Vĩnh Hằng.

Trong sinh hoạt của Hội Cựu Sinh Viên QGHC Miền Đông, anh là Thủ Quỹ của Hội luôn phân minh với mọi chi tiêu của Hội và đều được anh em thương mến. Kèm theo đây là  một đoạn video ghi lại hình ảnh sống động của anh trong các sinh hoạt của Hội như một lời trân trọng cám ơn ANH:

Views: 280

Tưởng Niệm Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông – 50 Năm Nhìn Lại (1971 – 2021)

Hội CSV QGHC Miền Đông Hoa Kỳ

Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông (2/4/1929 -10/11/1971)

Nhìn lại  một giai đoạn lịch sử, năm 1963 Giáo sư Nguyễn Văn Bông chấp nhận lời mời của chính phủ về nước, giáo sư dạy môn luật hiến pháp và khoa học chính trị tại Đại học Luật Khoa Sài Gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh qua các giai đoạn sau:

  • 1964-1971: Giáo Sư Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
  • 1966-1971: Phó Khoa Trưởng trường Đại Học Luật Khoa, Saigon
  • 1968-1971: Sáng lập viên kiêm Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Chủ Nhiệm báo Cấp Tiến, Nguyệt San Cấp Tiến.
  • Ngày 25 tháng 11 năm 1968: Một quả bom phát nổ cạnh phòng làm việc của giáo sư tại tầng hai Học viện Quốc Gia Hành chánh.  Giáo sư  thoát nạn.
  • Ngày 09/11/1971: Giáo sư chấp nhận chức vụ Thủ Tướng dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
  • Ngày 10/11/1971: Giáo sư bị ám sát tại ngã tư đường Cao Thắng – Phan Thanh Giản. Giáo Sư vĩnh viễn ra đi lúc 42 tuổi.

Tư Tưởng của Giáo sư Nguyễn Văn Bông: Tri Hành

Tưởng niệm Giáo sư Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, chúng tôi xin nhìn lại những hoạt động của Giáo Sư trong tư tưởng của một người Thầy, một chính trị gia, một nhà hoạt động chính trị trong các vấn đề xây dựng và phát triển Miền Nam Việt Nam.

Giáo sư đã nói ra rất rõ ràng:

1) Lý tưởng dân chủ pháp trị:

Lý tưởng này được Giáo sư đưa ra từ năm 1963  – vào ngày 1/8/1963 khai giảng niên khóa 1963-1964  của trường Đại Học Luật Khoa. Giáo sư đã đăng đàn giảng thuyết với đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ. Đề tài cấm kỵ trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Giáo sư đã can đảm nói lên tiếng nói chính trị đối lập trong sinh hoạt chính trị đương thời nên đã gây được nhiều tiếng vang trên chính trường nhứt là kêu gọi  thực thi một chế độ dân chủ với sự cho phép hình thành các lực lượng đối lập chính trị, hoạt động tự do và công khai.

2) Thành Lập Đảng Chính Trị Đối Lập:

Cuối năm 1968, khi qui chế chánh đảng vừa được ban hành, Giáo sư cùng với Giáo sư  Nguyễn Ngọc Huy đứng ra vận động thành lập một tổ chức chánh trị lấy tên là  Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.  Giáo sư là chủ nhiệm tờ báo Cấp Tiến, Nguyệt San Cấp Tiến – cơ quan ngôn luận của Phong trào và chính GS Bông, trong các bài viết đăng trên mục lập trưòng hay quan điểm, luôn kêu gọi dân sự hóa guồng máy công quyền. Phong Trào là một một lực lượng chính trị – dân biểu Khối Cấp Tiến – trong Quốc Hội . Phong trào đã lôi cuốn một số đông các cựu sinh viên Học Viện QGHC trong đó có các dân biểu như Trương vi Trí, Nguyễn văn Quí, Nguyễn văn Tiết.

3) Tham Gia vào Cải Cách Hành Chánh

Vào khoảng năm 1969-1970, chính quyền đương thời muốn thực hiện một sự cải cách hành chánh rộng lớn trong guồng máy hành chánh từ trung ương xuống địa phương, nên  Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã mời GS Bông – GS Bông đồng ý giữ chức Đồng Chủ Tịch với Tổng Thống Thiệu trong Hội Đồng Cải Cách Hành Chánh Trung Ương.

4) Tham Chính:

GS Nguyễn Văn Bông (phía trước), GS Nguyễn Văn Tương, (bên phải) và GS Tạ Văn Tài đến trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường Luật. Ảnh: Internet – chưa rõ nguồn.

Giáo sư Nguyễn Văn Bông đã đem tâm huyết thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến để đem lý tưởng của mình ra “Tri Hành” mong đưa dân tộc Việt qua khúc quanh lịch sử để cùng sống còn với chế độ Cộng sản Bắc Việt độc tài đảng trị. Trong đầu tuần tháng 10 năm 1971, tin Giáo sư được mời ra tham chính thành lập nội các với vai trò “Thủ Tướng” thì đảng Cộng sản đã hay tin và ra tay trước triệt hạ. Chúng biết uy tín của Giáo sư – một nhà lãnh đạo chính trị tại miền Nam – có nhiều triển vọng sẽ đối đầu bất lợi  trên chính trường quốc nội và quốc tế  trong tương lai.

Mất GS Bông, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và trường Luật mất đi một vị giáo sư ưu tú, một người thầy tận tụy, một ân sư của lớp sinh viên trong giai đoạn này. Phong Trào QGCT cũng mất đi một lãnh tụ quan trọng, thu phục cảm tình quần chúng,  được giới  thanh thiếu niên cùng giới trí thức trẻ tâm phục. Miền Nam mất đi một chính khách có uy tín trên chính trường quốc nội và quốc tế để xây dựng một Miền Nam Độc Lập – Tự Do – Tiến Bộ.

5) Phát Triển Học Viện QGHC:

Trong thời gian này (1963-1971), Học Viện  Quốc Gia Hành Chánh đã được nhiều uy tín với các đại học bạn, hơn nữa Học Viện đang tiến  ngang tầm với các nước tiên tiến. Học Viện đã đào tạo hàng ngàn cán bộ hành chánh ưu tú hỗ trợ cho việc xây dựng, kiến thiết  nền hành chánh quốc gia qua các điểm chính sau:

  • Lập Ban Cao Học: Học viện đã phát triển không ngừng, ngoài Ban Tham Sư, Ban Đốc Sự, GS cho mở thêm Ban Cao Học với thêm nhiều ngành như ngoại giao và thẩm tra kế toán, để đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh dấn thân có trình độ hiểu biết về tình hình chánh trị ở trong nước cũng như trên thế giới.
  • Thể lệ chọn nhiệm sở cho các sinh viên tốt nghiệp: Để công bình và khuyến khích các sinh viên chuyên tâm học hành, thể lệ mới ấn định các sinh viên  được chọn nhiệm sở theo thứ tự kỳ thi tốt nghiệp .
  • Tăng cường chương trình đào tạo giáo sư cho Học Viện: Tạo ra thể lệ sinh viên thủ khoa các khóa Đốc Sự và Cao Học được học bổng du học tại các đại học Mỹ để lấy bằng tiến sĩ . Nhờ thể lệ nầy, số giáo sư trẻ của Học Viện được tăng cường rất đáng kể.
  • Tham gia các sinh hoạt của các CSV: điển hình là hình chụp buổi đá banh giao hữu trong giải chung kết sinh viên Liên khóa Sàigòn 1963-1964.

GS Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông và Đội Tuyển Túc Cầu Quốc Gia Hành Chánh

Thay Lời Kết:

Sau cùng, trong cái nhìn của người cựu sinh viên QGHC, một cán bộ Quốc gia, một công dân của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi  chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc Giáo sư Nguyễn Văn Bông qua bốn câu thơ trích từ bài thơ Chiến Sĩ Vô Danh của Giáo sư Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy, người đồng chí của cố  GS Nguyễn Văn Bông:

Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc,
Cưỡi hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.”

Một lần nữa, năm nay, ngày 10 tháng 11 là lần giỗ thứ 50, Hội CSV QGHC  Miền Đông xin được ghi lại những hình ảnh trong các sinh hoạt của Hội để “Tưởng Niệm Giáo Sư Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông – 50 Năm Nhìn Lại “.

Xin mời xem video:

Hội CSV QGHC Miền Đông Hoa Kỳ

Views: 174

Gió Lay Ngõ Cụt

Thơ  Trần Văn Lương

Dạo:
Tro người chở đến liền tay,
Bơ vơ ngõ cụt gió lay bóng sầu.

Gió Lay Ngõ Cụt

Chiều khập khiễng, vạt nắng tàn ngoe nguẩy,

Gió cô hồn phe phẩy ghé qua sân,

Thêm một ngày sắp lặng lẽ dời chân,

Người chống nạng tần ngần nhìn ra ngõ.

Dãy nhà xưa còn đó,

Kẻ gặp may đà sớm bỏ ra đi,

Nhưng phần đông xui xẻo phải ở lì,

Gượng sống sót từ khi miền Nam mất.

Mắt đục ngầu u uất,

Lệ cạn vắt từ lâu,

Màu tang tóc bể dâu,

Phủ mái đầu bạc trắng.

Chư thiên dường đi vắng,

Nỗi buồn này biết cắng đắng cùng ai.

Đâu Thiên đường, đâu tiên cảnh Bồng lai,

Kinh học lóm đọc hoài không linh nghiệm.

Niềm vui dần khan hiếm,

Có còn chăng ít kỷ niệm tàn phai,

Nỗi bi thương theo năm tháng kéo dài,

Chút hoài bão biết tìm ai ký thác.

Bạn bè cũ đã mười phần tản mác,

Đứa vào tù, đứa lưu lạc phương xa,

Đứa vùi thây biển cả hoặc rừng già,

Đứa tàn tật chốn quê nhà lây lất.

Ngày hai bữa vì miếng ăn tất bật,

Người quen xưa, biết ai mất ai còn,

Hận giặc thù đang tàn phá nước non,

Thề quyết giữ tấm lòng son bất biến.

Chân ngần ngại chẳng dám lần ra biển,

Sợ gặp oan hồn xuất hiện khóc than,

Sợ thấy mình phải tan nát ruột gan

Nhìn xác cá chết tràn lên bãi cát.

Tự an ủi, dù trong lòng chua chát,

Vận nước đà đến lúc mạt, biết sao!

Chỉ âm thầm khẩn nguyện với Trời cao,

Cho hạnh phúc năm nào mau trở lại.

                       *****

Nhưng đau đớn, cơn dịch Tàu ác hại,

Tưởng tạm nguôi nay bỗng lại hồi sinh.

Dân bao năm khốn khổ với Ba Đình,

Nay lại phải bỏ mình vì Vũ Hán.

Đang chết dở vì chập chồng kiếp nạn,

Nay còn thêm bị cấm cản ra đường!

Lũ bạo quyền lợi dụng chuyện tai ương,

Để vét sạch túi thường dân vô tội.

Người trong xóm thương nhau bèn lặn lội,

Ghé vai cùng gánh chịu mọi khó khăn,

San sẻ từng ngụm nước đến miếng ăn,

Dù khốn đốn muôn phần vì lũ giặc.

Được phát động bởi bọn Tàu gian ác,

Dịch lan tràn, người mắc bệnh lây nhau,

Đến nhà thương, chẳng chết trước thì sau,

Xác đốt vội, tro giao về trước cửa.

Lò hỏa táng không phút nào ngơi lửa,

Các hũ tro từng bữa chở về đây,

Có đôi khi mòn mỏi đợi mấy ngày,

Nhà chết hết, chẳng còn ai ra nhặt.

Mấy tuần qua thắc mắc,

Sao bỗng dưng vắng mặt bạn bè thân,

Sao người quen trong xóm bỗng thưa dần,

Nay mới biết được số phần của họ.

Thầm nghĩ nếu mai kia mình nằm đó,

Biến thành tro trong hũ nhỏ trước nhà,

Sẽ hỏi lòng, trong trăn trở xót xa,

Là tai họa hay là cơ thoát khổ?

                     ****

Trăng nhếch nhác, bóng đêm mờ loang lổ,

Người rùng mình, chiếc nạng gỗ rời tay,

Chân run run, thoáng xây xẩm mặt mày,

Con gió tối lạnh lùng lay ngõ cụt.

Trần Văn Lương
Cali, 9/2021

Views: 15