Vi Phạm Nhân Quyền và Dân Quyền Tại Việt Nam Trong Lãnh Vực Kinh Tế

Nguyễn Bá Lộc

Chính quyền cộng sản cưỡng chế đất đai dân chúng khu đô thị mới Thủ Thiêm

1.Tổng quan

Luật quốc tế cũng như luật của nhiều nước tiến bộ đều có qui định về nhân quyền trong lãnh vực kinh tế. Tổng quát, đó là quyền sống của con người. Trong một quốc gia dân chủ pháp trị thì dân quyền là một mặt khác của nhân quyền. Người dân phải được luật pháp bảo vệ quyền tự do mưu cầu cuộc sống, tự do trong việc làm, quyền không bị bị kỳ thị hay ngược đãi nơi làm việc và trong kinh doanh, quyền được bảo vệ tài sản riêng và công sản quốc gia. Chẳng hạn trong bản liệt kê của cơ quan National Economic & Social Rights Initiatives (NESRI) có liệt kê hai quyền chánh yếu về mặt kinh tế là: Quyền Được Bảo Đảm Về Thực Phẩm (The Right to Food) và Quyền Lao Động (The Right to Work). Hoa kỳ và Âu châu có nhiều luật qui định về nhân quyền và dân quyền là một điều kiện trong mậu dịch quốc tế (U.S. trade law, free trade agreement, labor right litigation…)
Trên thực tế có nhiều quốc gia vi phạm các quyền trên, nhứt là tại các nước có chế độ độc tài trong đó có Việt Nam. Hậu quả các vi phạm đó là gây ra nhiều tai hại cho cá nhân nạn nhân và cả cho sự phát triển đất nước.
Mặt khác, trong hội nhập toàn cầu, một vấn đề tối sanh tử của Việt Nam, Việt Nam rất cần giao thương với nhiều nước, nhứt là các nước tư bản tự do. Và các nước nầy đều có qui định điều kiện nhân quyền trong sự hợp tác đầu tư ngoại quốc và trong ngoại thương. Trên thực tế, về kinh tế đối ngoại Việt Nam vi phạm nhiều điều luật quốc tế, từ nhiều năm qua cho tới bây giờ.
Trong những năm gần đây, Việt Nam cộng sản chẳng những không giảm bớt vi phạm nhân quyền mà còn gia tăng ở mức độ nghiêm trọng.
Tự do, Dân chủ và Nhân quyền là những nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển kinh tế bình thường và bền vững. Tại Việt Nam thì những nguyên tắc nầy bị xâm phạm và đưa đến những hậu quả tai hại về kinh tế và xã hội.
Trong bài nầy chúng tôi tóm tắt những vi phạm Nhân quyền và Dân quyền trên phương diện kinh tế, và xảy ra trong năm vừa qua, dưới các mục sau đây:

2. Sự cưỡng đoạt đất đai của dân

Cưỡng chế thu hồi đất của dân là một vi phạm nhân quyền trầm trọng nhứt tại Việt Nam từ hàng chục năm nay. Tình trạng nầy vẫn còn tiếp diễn trong năm qua. Về luật nhân quyền đó là “quyền sống” và “quyền sở hữu”.
Chánh quyền Việt Nam đã lạm dụng và lợi dụng nguyên tắc của Luật Đất Đai 1993 (và bổ sung 2013) , gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn dân khi bị di dời đến nơi định cư mới. Tình trạng nầy còn làm thiệt hại cho kinh tế chung.
Năm 2018 có nhiều vụ cưỡng chế lớn khắp mọi nơi. Có ba vụ lớn là:

Vụ cưỡng chế sai luật và lạm quyền tại khu đô thị mới Thủ Thiêm: Về phương diện nhân quyền các vi phạm là: Chánh quyền lấy đất của dân bồi thường giá rất thấp rồi bán lại cho công ty tư doanh với giá gấp nhiều chục lần cao hơn. Đó là hành động của chánh quyền cướp đoạt tài sản của dân, chánh quyền đoạt quyền thương lượng, quyền trực tiếp bán đất của người dân với người mua nhà đất là tư doanh. Đặt biệt trong đó có khoảng 160 hộ dân cư nằm ngoài khu vực đã được qui hoạch , nhưng chánh quyền thành phố HCM vẽ lại bản đồ, và thu hồi đất nầy. Chánh quyền không định cư đầy đủ cho người dân bị cưỡng chế, để cuộc sống của họ rất thảm thương trong thời gian dài. Dùng bạo lực thu hồi đất là vi phạm quyền sở hữu tư và xử dụng sai trái nguyên tắc công quyền. Chánh quyền làm sai nguyên tắc là: trưng thu đất tư là chỉ cho công ích. Trong đại dự án nầy có nhiều khu vực không nhằm cho công ích mà giao cho tư doanh xây nhà cao ốc, hay chánh quyền thực hiện dự án không cần thiết là Nhà Hát Giao Hưởng..

Một vụ vi phạm luật đất đai to lớn khác là vụ quân đội chiếm lấy một phần đất của phi trường Tân Sơn Nhất giao cho tư doanh khai thác sân golf và nhà hàng, khách sạn. Công trình nầy không phải là công ích. Mà nhu cầu mở rộng phi trường rất khẩn thiết, rất quan trọng. Sự việc tới nay chưa giải quyết.

Vụ thứ ba tại Thành Phố HCM hồi đầu năm nay là chánh quyền cưỡng bức trắng trợn đất của khoảng 200 gia đình dân Lộc Hưng, quận Tân Bình. Đây là vụ điển hình của sự lấy quyền sống của dân, thể hiện tính hung bạo của cường quyền cộng sản, người dân không được lấy ý kiến, không được thông báo trước khi thi hành lịnh cưỡng chế. Dân chúng phản đối mãnh liệt. Đa số người định cư ở đây có từ hơn 60 năm từ Bắc di cư vào Nam, những gia đình nghèo, sống bằng nghề trồng rau. Nhu cầu công vụ để thu hồi đất của những người dân không thích hợp cho xây dựng công ích không quan trọng và không khẩn thiết. Xây một trường học có thể tìm một nơi khác không khó khăn. Cho nên chỉ xét sơ qua về nhu cầu và về cách cưỡng chế tàn nhẫn, không tuân thủ luật lệ của chánh quyền, làm cho nhiều người nghĩ tới bên sau vụ nầy có tư sản đỏ, như hàng ngàn vụ lấy đất dân đã xảy ra.

Vụ cưỡng chế đất đai người dân tại vườn rau Lộc Hưng , Tân Bình ngày 9/1/2019

3.Vi phạm quyền người lao động (Labor Rights)

Quyền của người lao động là một quyền quan trọng của nhân quyền. Quyền nầy được Công Ước Quốc Tế về nhân quyền công nhận và Tổ chức Lao Động Quốc Tế (International Labor Organization) ghi rõ ràng. Trong đó có các quyền căn bản: được thành lập công đoàn độc lập, quyền thương lượng tập thể, quyền được làm việc nơi an toàn và có vệ sinh, quyền không bị kỳ thị. Việt Nam có ký công nhận luật quốc tế về người lao động, nhưng trên thực tế chánh quyền Việt Nam không thi hành.
Năm qua có hai sự việc liên quan đến quyền lao động là: Cộng Đồng Âu châu không phê chuẩn Hiệp ước thương mại với Việt Nam (EVFTA) hồi tháng 11/2018 vì cho rằng Việt Nam chưa làm đủ yêu cầu nhân quyền, nhứt là quyền người lao động. Sự việc thứ hai là Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại CPTTP với 11 thành viên, không có Hoa kỳ (tháng 11/2018). Trong Hiệp định nầy, đó có điều quan trọng buộc Việt Nam phải cải sửa Luật Lao Động theo như luật quốc tế, tức là Việt Nam phải cho công nhân được thành lập công đoàn độc lập và quyền thương lượng tập thể để bảo vệ quyền lợi của mình. Việt Nam hứa nhưng chưa ban hành luật mới nầy. Từ trước tới nay, Công Đoàn của Việt Nam không độc lập, nó là một bộ phận của đảng.
Tuy nhiên với Hiệp định CPTPP 11 nước đã ký và Hiệp định Mậu Dịch Tự Do Âu châu – Việt Nam dù chưa chánh thức thì việc tranh đấu cho công đoàn độc lập và một số quyền khác, có cơ hội thuận lợi để công nhân và quần chúng tranh đấu bảo vệ nhân quyền.

4.Tình trạng tham nhũng

Trong năm qua nổi lên nhiều vụ tham nhũng kinh khủng. Các yếu tố tác động là do sự tranh đấu của dân, do chương trình đánh tham nhũng của TBT Nguyễn Phú Trọng, và do một phần áp lực quốc tế.
Ở Việt Nam tham nhũng là một đại họa. Nguyên nhân chánh là từ bản thể chế độ XHCN. Trong hai năm qua có các vụ tham nhũng lớn có thể tóm tắt như sau:
Vụ Tập Đoàn Dầu Hỏa VN (PVN): Tháng ba 2018, Đinh La Thăng và các viên chức lớn của PVN tiếp tục bị xử thêm tội đưa tiền gởi ở ngân hàng Ocean trái luật, gây thất thoát cho công quỹ ngàn tỷ đồng. Mới đây PVN bị đưa ra thêm một vụ rất to lớn nữa là Liên doanh khai thác dầu giữa Việt Nam và Venezuella. Việt Nam hùn với Venezuella khoảng 1,2 tỷ mỹ kim (40% vốn đầu tư). Sau 4 năm dự án nầy phá sản. Việt Nam mất tổng cộng gần một tỷ mỹ kim. Đây là trường hợp rất điển hình của đại tham nhũng cốt lõi quốc doanh và làm mất mát của công theo đúng qui trình và qui luật của chế độ XHCN.
Vụ Vũ nhôm (tên thật là Phan Anh Vũ) ở Đà Nẵng: Đây là vụ chiếm đoạt tài sản công qui mô tại Đà Nẵng và bị đưa ra xử trong năm qua. Vũ nhôm với danh nghĩa công ty địa ốc tư do các tướng Công an đứng phía sau, đã vừa móc ngoặc nhiều viên chức cao cấp của chánh quyền vừa ép buộc chánh quyền Đà Nẵng bán rất rẽ các lô đất công sản rất quí giá, không qua đấu thầu theo nguyên tắc. Sau đó đem bán lại cho tư nhân với giá rất cao, làm thiệt hại hàng trăm triệu mỹ kim công quĩ. Nội vụ chưa xong vì còn nhiều liên hệ đến một số viên chức khác, Vũ nhôm đang bị tù.
Vụ Mobifone: Là vụ đại tham nhũng do cấu kết giữa viên chức rất cao cấp của chánh quyền Việt Nam và tư sản đỏ. Công ty điện thoại di động của nhà nước Mobifone mua công ty AVG của tư nhân (2016) với giá 8,889 tỷ đồng ($391 triệu). Ngay việc công ty tư nhân đi bán cho quốc doanh là đi ngược chánh sách cổ phần hóa. Nhưng do sự cấu kết của viên chức cao cấp của Bộ Thông Tin, Công ty Mobifone (quốc doanh) mua công ty AVG (tư doanh) với giá cao 10 lần của giá thực tế. Sự cấu kết nầy làm thiệt hại công quỹ trên 300 triệu đô. Mặc dù khi đổ bể, AVG trả lại hợp đồng mua bán nầy. Dù vậy, đầu năm nay nội vụ bị đưa ra xử lý hình sự. Tổng Giám đốc và một số viên chức Mobifone và hai cựu Bộ trưởng Thông Tin, Trần Bắc Sơn và Trương minh Tuấn, bị bắt giam. Đây là vụ tham nhũng do lạm quyền và có cấu kết của các viên chức cao cấp nhứt, và là vi phạm lộ liễu nhứt.

Vụ tham nhũng Mobifone mua cổ phần tư doanh AVG. Mobifone là công ty viễn thông quốc doanh lớn thứ hai tại VN

Vụ bán công sản ở Thành phố HCM: TP/ HCM, một nơi coi như mỏ vàng của chánh quyền XHCN. Nên những vụ tham nhũng có thể nói to lớn nhất, kinh khủng nhất, vi phạm luật lệ và nhân quyền trắng trợn nhất, ngay từ khi CS chiếm miến Nam. Trong năm qua lòi ra các vụ viên chức chánh quyền bán nhà đất công sản không qua đấu giá, lớn nhất là khu đất vàng đường Lê Duẩn quận I, khu đất Nhà bè, khu đất giải tỏa trong đại dự án đô thị mới Thủ Thiêm.
Một vụ tham nhũng chỉ có ở nước Cộng Sản xảy ra trong năm qua là vụ hai tướng Công an tổ chức và bao che cho sòng bài qui mô hàng triệu đô la. Tổ chức đánh bạc ngay trên mạng CA, các viên chức lớn nầy lấy 20% tiền đánh bài. Hai tướng Phan văn Vĩnh và Nguyễn Thanh Hóa bị tù.
Tham nhũng là vi phạm nhân quyền lớn nhất trên thế giới. Tại Việt Nam thì nó quá kinh khủng. Nhờ một phần “chương trình đánh tham nhũng” của TBT Nguyễn Phú Trọng lòi ra nhiều vụ lớn và hoàn toàn do đảng viên cao cấp chủ mưu, cố ý và thiệt hại cho dân quá nhiều. Các nhóm đảng viên như loại siêu mafia thời XHCN. Dù việc triệt hạ nầy có tánh cách phe phái trong đảng đánh nhau để tranh giành quyền lợi.

5. Bước xâm lăng kinh tế Trung Quốc (TQ) tiến mạnh hơn

Trong năm qua TQ đẩy mạnh hơn nữa tiến bước xâm lăng kinh tế của TQ. Một tình trạng mà CSVN vừa bị ép buộc vừa tự cấu kết với TQ. Mức độ rất nguy hiểm và gây tai họa kinh tế cho mọi người dân. Các tiến bước cụ thể trong mấy năm vừa qua:
Sự thay đổi luật cư trú cho người ngoại quốc: Theo luật mới 2015 thì VN cho phép người ngoại quốc có Visa được quyền mua nhà ở, được cư ngụ 50 năm và sau đó có thể được gia hạn.Người TQ có thể mua nhà và ở Việt Nam dễ dàng. Giá nhà cửa tăng ngay. Người TQ mua nhà nhiều nhứt là tại TP/HCM, Nha Trang và Đà Nẵng.
Liên kết các tuyến giao thông mới: Các con đường bộ và đường xe lửa xuyên qua biên giới VN- TQ đã cải thiện và hoàn thành trong hai năm qua. Người TQ có thể qua lại dễ dàng.
Viet Jet Airline mở đường bay Đà Nẵng – Quảng Đông, 2017. Hãng Vietnam Airline cũng mở thêm các đường bay Nha Trang – Nam kinh, Quảng châu. Spring Airline của TQ mới mở thêm chuyến bay Shanghai- TP/HCM (2017).
Việt Nam cho Visa mới cho du khách TQ dễ dàng hơn. Du khách TQ tăng trung bình 51 % mỗi năm trong vài năm qua. Số người TQ tràn qua đông đảo như vậy làm nhiều xáo trộn cho dân chúng
Đầu tư TQ vào Việt Nam gia tăng nhanh từ hạng 9 (2014) lên hạng 3 (2017). TQ đầu tư đủ loại cạnh tranh với tư doanh Việt Nam.
Việt Nam cho phép xài tiền Yuan tại các tỉnh biên giới VN-TQ. Đó là sự vi phạm chủ quyền quốc gia.
VN- TQ cấu kết thành lập các Đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc với nhiều ưu đãi về thời gian thuê đất, thời gian miễn thuế. Đặc biệt là cho mở casino và khu nghỉ dưỡng nhằm thu hút đầu tư TQ và di dân TQ.
Các liên kết với TQ nêu trên trực tiếp hay gián tiếp làm TQ xâm nhập vào VN và gây nhiều xáo trộn xã hội.

6. Nhận xét và đề nghị

Qua sự tóm tắt về những vi phạm nhân quyền trầm trọng xảy ra gần đây, chúng ta có thể có những nhận xét:
Tổng quát những vi phạm nhân quyền, nhứt là tham nhũng làm cho VN bị mất mát khoảng 25% tài sản kinh tế và làm gia tăng mức cách biệt giàu nghèo quá cao cách khác thường (58 lần, theo World Bank 2013). Phần lớn các nghiên cứu quốc tế về VN có nhận xét tham nhũng từ trong cơ quan cảnh sát, thuế vụ, giấy phép hành nghề, xin sổ nhà đất. Thực sự những vụ tham nhũng lớn là từ đảng viên rất cao, như Bộ Chánh Trị, Trung Ương đảng , Tỉnh ủy..
Căn nguyên chánh yếu của vi phạm nhân quyền trên mặt kinh tế là do bản chất chế độ XHCN. Chánh quyền dùng luật pháp và nguyên tắc Hành chánh, Tổ chức Hành chánh chính thức và bán chính thức, cán bộ đảng viên, cấu kết nhau thành hệ thống vi phạm nhân quyền có chủ đích .
Mức độ vi phạm rất cao và bền vững. Hậu quả là mất niềm tin của dân chúng và của quốc tế.
Cụ thể là qua những cuộc biểu tình phản đối trong nước trong năm qua và những chỉ trích VN mạnh mẽ trong các buổi họp quốc tế về nhân quyền hay mậu dịch .
Những vụ sai trái quá lớn được lòi ra do chương trình đánh tham nhũng của TBT Nguyễn phú Trọng chủ trương phần lớn là đánh diệt phe phái tranh giành quyền lợi. Đó chỉ đánh một số nhỏ cá nhân đảng viên chớ không thể diệt và cải thiện nhiều tệ trạng được nếu CS còn.
Những vụ tham nhũng lớn làm mất công quỹ hàng tỷ đô la một năm. Và chỉ thu hồi lại được qua các vụ xử lý chỉ khoảng 30% số cướp đoạt. Những vụ mà chánh quyền nêu ra chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng chục ngàn vụ không đem ra xử trị.
Chánh quyền cấu kết với tư sản đỏ qua nhóm lợi ích. Đó là sự cấu kết đương nhiên và phải có trong mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Có quá nhiều thí dụ từ các khu xây dựng cao cấp ở Hà nội , Saigon, Phú quốc , Vân đồn.. Các trạm thu phí BOT trên nhiều tuyến đường.
Sự lệ thuộc kinh tế TQ là một đại họa chỉ nhìn trên khía cạnh nhân quyền về mặt kinh tế. CSVN và CSTQ đã cấu kết nhau càng ngày càng nhiều lên. Từ mậu dịch quá bất quân bình, đến các vụ thầu to lớn, không qua đấu thầu công khai. Ví dụ cụ thể gần đây là đường xe hỏa cao tốc Cát Linh – Hà đông, các nhà máy điện ở Bình Thuận, Trà vinh.. Thiệt hại nhiều tỷ với công trình kém phẩm chất.

Đề nghị:

Vấn nạn tham nhũng tại VN sẽ tồn tại khi chế độ XHCN còn ngự trị. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay trong nước và quốc tế, nhứt là lợi dụng nhu cầu hội nhập thế giới của VN, phối hợp tranh đấu có hoạch định, có bài bản, hy vọng có thể cải tiến cuộc sống tệ hại của dân chúng.
Trong nước, dân chúng và những Hội đoàn dân sự tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền, gồm trên mặt kinh tế, ít nhứt trên bốn lãnh vực:
Về sự cưỡng chế đất đai, trong nước cũng như quốc tế biết rất rõ những vụ nầy, cho nên sự kết hợp tranh đấu có kết quả ít nhiều.
Về quyền người Lao động: Dựa theo qui định của Hiệp định CPTPP và mậu dịch tự do của Âu châu, có thể tranh đấu thành lập Công đoàn độc lập.Vấn đề nầy có cơ sở luật lệ quốc tế và căn bản gốc quần chúng rộng rãi, chánh đáng. Cho nên cần khôn khéo tranh đấu . Cần sự trợ giúp của cộng đồng người Việt hải ngoại và các cơ quan quốc tế.
Về tham nhũng: Các Hội đoàn và dân chúng lợi dụng chiến dịch chống tham nhũng của đảng nêu ra các vụ nghiêm trọng bị dấu nhẹm từ trước. Khi các phe phái đánh nhau sẽ bể ra nhiều vụ lớn nữa. Ít nhứt đảng viên có chút lo sợ phải “vào lò đốt”. Sự lộ ra những vụ tham nhũng lớn là cho các nước có đối tác mậu dịch hay đầu tư với VN sẽ có cớ ép VN dần đi theo luật lệ quốc tế.
Cách cụ thể là cố gắng phối hợp đưa một số vụ tham nhũng lớn cho Bộ ngoại giao Hoa kỳ và Canada áp dụng Luật Magnisky. Luật nầy chế tài viên chức tham nhũng lớn, vi phạm nhân quyền không được vào Hoa Kỳ và tài sản ở Hoa kỳ và Canada bị đóng băng. Năm qua Hoa kỳ đã áp dụng cho một số vụ xảy ra ở Yemen, Panama.
Các tổ chức người Việt ở ngoại quốc cần báo cáo đều đặn, và đầy đủ những vi phạm nhân quyền cho Liên Hiệp quốc và các cơ quan quốc tế khác và một số chánh phủ.
Về sự xâm lăng kinh tế TQ: Chỉ riêng vịệc cấu kết giữa VN – TQ về sự chiếm đoạt quá đáng tài sản, tài nguyên của nước VN và sự việc giao cho công ty TQ thi công nhiều công trình lớn là sự vi pham nhân quyền kinh tế. Dân chúng và các nhà trí thức đã phản đối và nên tiếp tục chống lại chánh quyền CS về các vụ giao thầu cho công ty TQ và vay quá lớn tiền viện trợ TQ.

Nguyễn Bá Lộc (ĐS9/CH1)

Cali ngày 10 tháng tư – 2019

Views: 173

Thơ cho ngày sau, có người tìm thấy

Hoài Ziang Duy

Tôi viết bài thơ cho năm tháng sau nầy
Cho chính chúng ta
Những người nằm xuống
Không còn chứng nhân trong câu chuyện kể
Khi quá khứ trôi xuôi
Thời gian bước tới
Là những lãng quên
Ở năm, ở tháng, ở tuổi chất chồng
Cuộc sống nuôi thân

Thế hệ con trẻ rồi sẽ hỏi nhau
Việt Nam tôi đâu?
Sao thân phiêu bạt?
Xa lấy cội nguồn ngút ngàn trùng lấp
Xa lấy tình xa, xứ người lưu lạc

Làm sao nhắc nhớ
Từng đoàn người bỏ nước ra đi
Trên những chuyến bay, chuyến tàu ra khơi ngày cuối
Ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm
Một ngày chung cuộc tan hàng
Miền Nam Việt Nam

Rồi đời sau không thể nào quên
Như cơn lốc cuốn đi
Như tiếng thét rền thảm nạn
Như câu ai oán động lòng
Cả thế giới mở rộng vòng tay
Cứu vớt triệu người tìm đường vượt thoát

Sống còn không biết về đâu
Biển muôn trùng, sóng gíó ngàn khơi
Hãi hùng cho lần vĩnh biệt
Phận người đánh đổi
Hãm hiếp, phơi thây
Cái giá hy sinh phải trả cho hai tiếng
Tự do

Cũng từ đó định kiếp người Việt lưu vong
Khắp cùng thế giới

Rồi một ngày, như thể ngày sau
Con lớn lên lập thân nơi xứ người,
Nói tiếng mẹ đẻ đất nước cưu mang
Như sự thể tình cờ
Đọc lấy bài thơ nầy, hiểu lấy
Đất nước Việt Nam với hai chủ nghĩa
Hai miền Nam Bắc phân tranh
Hai mươi mốt năm cuộc chiến tương tàn
Hơn hai triệu người nằm xuống
Hiểu lấy cuộc cờ thất bại năm xưa
Cái giá hy sinh đành thôi ở dân tộc nhược tiểu
Cho bàn cờ sự thế

Ranh giới đồng minh là sự bội phản
Xoá đi sanh linh một dân tộc
Đổi dời mệnh nước
Tiếng oán hờn đeo đẳng
Sao thể nào yên!

Ra đi là chắc không về nữa
Ngóng về quê mẹ thẳm ngàn khơi
Nhắn dùm tôi câu nói nửa lời
Khi nước mắt khóc trời chưa muốn sáng

Sống hôm nay không còn bên lửa đạn
Một kiếp người không có Tổ quốc lâm chung
Tôi là ai?
Lẫn trong dòng dân Việt.
Sao không có chính danh
Thân phận mình

Là ai?
Để nói lời thương tưởng
Thế giới nầy không có đồng minh gần gũi
Không có kẻ thù trước mặt sau lưng
Không là ai, mới nhận ra chính mình?
Từ máu xương dân tộc
Từ mộ phần
Cha ông nằm xuống

Bài thơ nầy được viết từ người bỏ nước ra đi
Mang theo một trang sử buồn
Chữ nghĩa sống còn hôm nay
Đau lấy nỗi đau
Nói lại một thời khuất bóng
Chuyện cũ. Đã xa
Chỉ gần hơn
Cổ tích.

Hoài Ziang Duy

(trích thi tập “ĐỨNG TỰA BÊN ĐỜI, xuất bản tháng 4/2019)

Views: 86

Kinh Tế Việt Nam 2018 và Căn Nguyên Trở Lực Tồn Tại

Nguyễn Bá Lộc

Dự án Tuyến Đường Sắt Cao Tốc Cát Linh – Hà Đông

Theo tin tức từ cơ quan chánh thức của VN thì năm 2018 kinh tế VN phát triển tốt hơn năm rồi. Thậm chí tốt hơn Trung Quốc.

Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn phiến diện hay không thật đúng từ phía chánh quyền, và thường là thế.  Dù có tiến bộ, nhưng nếu đi sâu vào thực chất và thực tế, kinh tế VN chưa bước qua được  giai đoạn hứa hẹn là sẽ đạt được sự bền vững, và có đủ sức tự lực vươn ra thế giới cách bình thường, có thể cải tiến thực sự mức sống của đa số người nghèo khó.

Cho tới nay, sau 40 năm đổi mới, những trở lực lớn có căn nguyên sâu xa vẫn tồn tại. Những trở ngại nầy là những bức tường ngăn cản, là phong ba tàn phá những cố gắng của toàn dân hầu xây dựng một Việt Nam khá hơn về nhiều phương diện.

I. TÓM LƯỢC KINH TẾ VN NĂM 2018

Toàn cảnh nền kinh tế VN 2018:

Chánh quyền đưa ra những con số mà họ cho rằng kinh tế có tiến bộ. Cứ tạm nhận các thống kê đó. Song, bên cạnh cái tổng quát đó, có những tiêu cực kèm theo trong mọi lãnh vực kinh tế.

Tỷ suất phát triển đạt 7.08%, cao nhứt trong 10 năm qua. Năm 2017 là 6.8%. Nhưng theo World Bank thì tỷ lệ nầy vào khoảng 6.7%.

Nếu thực sự có đạt mức nầy thì kinh tế VN là khá hơn các nước Đông nam Á, kể cả Trung Quốc. Năm rồi TQ bị nhiều khó khăn hơn, theo ước lượng của các chuyên gia quốc tế, chỉ đạt 6.5%.

Vì kinh tế nội thuộc rất tệ hại, VN chỉ còn con đường duy nhứt là đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Đó là đầu tư ngoại quốc và xuất cảng, hai lãnh vực VN có nhiều lợi thế nhứt làm tăng trưởng kinh tế chung.

Đầu tư ngoại quốc (FDI) tăng khá hơn, trên doanh số $35.5 tỷ mk, tăng 12% so với năm qua. FDI chiếm hơn 30% tổng số đầu tư.  Mặt khác, năm qua, TQ gia tăng đầu tư ở VN trong mục tiêu xâm chiếm kinh tế, tiến hành dự án Belt & Road, và né tránh chiến tranh mậu dịch với Hoa kỳ.

Theo các nhà nghiên cứu, cho tới nay thì nhân công rẻ vẫn còn là yếu tố thu hút mạnh nhứt FDI (giá nhân công VN nay bằng 50% TQ, và 40% Thái Lan). Tuy nhiên năng xuất công nhân VN hãy còn quá thấp, nhứt là trong lãnh vực công nghệ cao.

Xuất nhập cảng: Xuất cảng tăng 16% so với 2017. Hàng xuất cảng từ các công ty ngoại quốc chiếm khoảng 25% GDP, tỷ lệ rất cao so với nhiều nước ở Á châu.

Các hàng hóa xuất cảng chánh yếu là:  Linh kiện điện tử , quần áo may mặc, giầy dép. Hai thị trường lớn của xuất cảng VN là US (tăng 12.5%) và TQ đều tăng (7%). Trong đó cá basa qua Mỹ, dù tăng, nhưng nay sẽ gặp khó khăn hơn vì US có đạo luật mới chuyển sự kiểm soát cá từ FDA qua cho Bộ Canh nông.

Nhập cảng cũng tăng. Do đó nhập siêu vẫn tăng tại một số thị trường quan trọng như Hoa kỳ. Mặc dù nhập siêu với TQ có giảm, hàng TQ vào VN chiếm vị trí thứ nhứt, với đủ thứ, chưa kể hàng lậu từ biên giới ước lượng 20 tỷ mk / năm.

Nông nghiệp không có tiến bộ lạc quan. Giá cả nông sản vẫn không ổn định. Vùng đồng bằng sông Cửu Long gặp khó khăn vì các đập thủy điện bên Lào do TQ xây cất và bão lụt lớn ở miền Trung. Hàng lậu hàng giả TQ tràn qua.

Về hạ tầng cơ sở vẫn còn nghịch lý to lớn là chánh quyền với những dự án rất lớn hàng tỷ mỹ kim xây các đường cao tốc, trong lúc đó ngay tại Saigon và Hà nội rất nhiều con đường bị bể bị nghẻn bị nước ngập tại các khu nghèo, hàng chục năm rồi vẫn thế.

Một nghịch lý khác về đầu tư phát triển gia cư. VN có nhiều khu gia cư cao tầng, khu nghỉ dưỡng sang trọng cho người giàu có bất thường, và người Tàu mới di cư tới. Trong khi đó có rất nhiều nhà ổ chuột ở thành phố của công nhân, và nhà lá rách nát của nông dân, đáng lý phải có chương trình gia cư xây nhà rẻ bán góp cho cho những người dân nghèo khỗ nầy.

Dầu khí sản xuất bị giảm, ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngoại tệ. Các công ty quốc tế khai thác dầu lo ngại về sự căng thẳng thêm ở biển đông.

Tổng quát chỉ số giá cả tăng 3.6% so với năm trước (theo báo Nhân Dân Online). Chánh yếu do tăng giá xăng .

Mặt khác, chỉ số tiêu thụ của giới có lợi tức trung bình tăng. Điều nầy làm cho một số nước có xuất cảng mạnh có hy vọng hơn về thị trường VN, như Hoa kỳ , Âu châu , Nhựt, Đại hàn, Trung quốc. Các món hàng có triển vọng nhập cảng tăng như hàng tiêu xài cao cấp, thuốc men, máy móc, xe hơi (gia tăng 27% năm qua) và cả sản phẩm quốc phòng.

Tài chánh/ngân hàng: Nợ công rất cao, không giải quyết nổi. Tỷ lệ nợ công thực tế lên tới 210%/GDP. Vì khu vực quốc doanh vẫn lỗ nặng . Chánh phủ vay thêm nợ mới phần lớn chỉ để trả nợ cũ. Do đó nợ xấu rất cao 15 % tổng số tín dụng, (theo Lowy Institute), các nước Á châu chỉ vào khoảng 3-5%.  75% nợ xấu là thuộc quốc doanh.

Tính đến cuối quí ba năm2018 có 13 ngân hàng trong 17 ngân hàng lớn báo cáo là có nợ xấu gia tăng. Ngân hàng quốc doanh lớn là VietinBank có nợ xấu tăng 34.5% so với năm trước. Ngân hàng quân đội có nợ xấu tăng 45%. (Theo VN Express)

Về hội nhập toàn cầu:  Trở lực quan trọng là VN chưa được Hoa kỳ và một số nước công nhận là nền kinh tế thị trường. Khi chưa là nền kinh tế thị trường thì các nước nầy có thể đánh thuế phá giá hay hạn chế nhập cảng mặc dầu VN là thành viên WTO.

Hoa kỳ rút ra khỏi TPP và chưa tái gia nhập. Năm qua, Hiệp định TPP với 11 nước có tên CPTPP và VN đã chánh thức là thành viên.

Về Hiệp định Mậu dịch tự do VN – Âu châu (EVFTA) chỉ xong ở giai đoạn một hồi tháng 10/2018. Nhưng  phải qua quyết định chung cuộc vào đầu năm 2019.

(Chi tiết về mậu dịch quốc tế của VN sẽ được trình bày ở phần dưới bài nầy.)

Nói tóm lại, tình hình kinh tế VN 2018 có một số tiến triển. Nhưng bên cạnh đó còn quá nhiều khó khăn như nói ở trên.

Và nếu đi sâu vào thực trạng kinh tế chánh trị, tương lai nền kinh tế vẫn bị vướn kẹt những trở lực nghiêm trọng có căn nguyên rất sâu xa, được tóm tắt dưới đây.

II.TRỞ LỰC KINH TẾ SÂU XA TỒN TẠI

1. Trở lực do bản thể chế độ và cơ cấu kinh tế

Vì là chế độ độc tài, không dân chủ tự do về chánh trị, nên khi có chuyển đổi qua phần nào kinh tế thị trường, nền kinh tế chung vẫn đi cách khập khểnh và nhiều mâu thuẩn .

Mô hình “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”, trên thực tế là một mô hình lưỡng thể. Nó vừa là sự hòa hợp vừa tương tác, vừa thuận lợi vừa đối nghịch.

Các năm qua, chánh quyền chỉ cởi trói các lãnh vực nhỏ, và tới nay chánh quyền vẫn nắm chặt các bộ phận cốt lõi và quan trọng. Đường hướng đó vừa có tánh tản quyền vừa tập quyển.  Vì thế có nhiều áp bức, nhiều va chạm, vừa siết vừa buông.

Trong một guồng máy công quyền như vậy, hầu hết cán bộ viên chức, ngày này qua ngày nọ, đầu óc luôn chỉ suy nghĩ, tính toán kiếm tiền vừa trả “hụi chết”, vừa tạo cuộc sống thật giàu có cho gia đình. Những suy tư cho công ích cho tiến bộ đất nước chỉ là phụ. Đó là một trong các trở ngại của bộ máy nhà nước .

Các trở lực đó kéo dài vì bản thể chánh trị không thay đổi nên các hình thái kinh tế vĩ mô không thay đổi.

Triết lý và nguyên tắc căn bản của hành chánh công, mà chánh quyền CSVN đã thể hiện với  nhiều sai lạc, qua các công đoạn của một tiến trình quản lý hành chánh công:

Về xác định đúng nhu cầu đất nước: Mục tiêu sau cùng của VN là Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) như CSVN từng tuyên bố ‘Mục đích sau cùng là XHCN”, nên vẫn phải giữ “quốc doanh là chủ đạo” . Ngay bước đầu tiên là một bức tường chắn rồi. Như vậy rất khó có nền kinh tế thị trường thực sự. Hiện nay, chánh yếu phải dựa vào kinh tế đối ngoại, tức là dựa vào kinh tế các nước tự do dân chủ, đó là cái sân chơi quốc tế. Nên mâu thuẩn và cản trở đương nhiên phải có. Mặt khác, sự lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế TQ cũng là một sai lầm và nguy hiểm cho sự phát triển bền vững và tự chủ.

Về xác định và chọn lựa mục tiêu ưu tiên: VN tiến hành gần như trái ngược. Có những mục tiêu không ưu tiên thì làm trước. Công việc làm và sửa chửa đường và cống rảnh bị bể nát , bị ngập nước trong thành phố đáng lẽ phải là ưu tiên hơn làm dự án rất tốn kém như dự án Metro Bến Thành – Suối Tiên với chi phí trên 2 tỷ mỹ kim. Dự án cao tốc Cát Linh – Hà Đông tốn gần một tỷ mỹ kim. Cả hai dự án sau 4-5 năm nay vẫn chưa xong.

Sài Gòn chưa mưa đã lụt….

Về quyền chuẩn phê dự án:  Ở VN sau khi đổi mới, hệ thống đảng và chánh quyền có sự tản quyền từ trung ương xuống địa phương. Điều nầy đúng vì làm cho công vụ nhanh hơn hữu hiệu hơn. Nhưng thực tế, Bộ Chánh Trị và chánh quyền trung ương dành lại quyền tuyệt đối nắm cái cốt lõi, và không có thể thống đứng đắn trong chọn lựa và chuẩn phê dự án. Như việc trung ương nắm hết viện trợ, địa phương nào biết điều thì được phân bổ. Nguyên tắc của VN là nếu dự án trị giá từ 10.000 tỷ đồng (độ $500 triệu mỹ kim) trở lên phải qua Quốc hội cứu xét. Thực tế không có. Như dự án Cát Linh-Đông Hà, dự án Nhiệt điện Duyên Hải, dự án Thủ Thiêm, dự án Bauxite… Các đại dự án do Bộ Chánh Trị quyết định, gần đây như dự án “Ba đặc khu Hành chánh kinh tế” năm qua. Dù Quốc hội hoãn biểu quyết luật, nhưng Bộ Chánh Trị đã quyết định và chỉ thị thực hiện từ 2017. Quốc hội chỉ để trang trí thôi.

Về hoạch định dự án phải tương đối chính xác về hai mặt kỹ thuật và tài chánh. Về kỹ thuật không thể có quá nhiều sai trái lệch lạc. VN thì làm kế hoạch nhiều sai trái. Giữa giai đoạn thi công phải thay đổi kỹ thuật, chậm trễ thời gian dài gấp đôi. Điểm thứ hai là phải tính toán kỹ càng chi phí. Nếu công trình phải làm lâu ba bốn năm, trên nguyên tắc, chi phí có thể phải điều chỉnh, vì vật giá gia tăng. Nhưng thông thường không quá 10-20%. Đằng nầy các dự án của VN thường đội vốn tức tăng chi phí lên từ 50-100% sau khoản ba năm thi công. Ví dụ như dự án cao tốc Cát Linh – Đông Hà đội vốn thêm lên 60 %. Hoặc nhiều công trình bị hư hỏng quá sớm  trước thời hạn, như đập thủy điện Sông Đà. Tài chánh chi phí thì rất quan trọng, nhứt là trong nước nghèo, ngân sách luôn thiếu hụt. VN không coi trọng nguyên tắc “tối thiểu phí tổn tối đa lợi ích”. Tiền nhà nước là tiền chùa. Dự án nào cũng bị cướp mất độ 30% vào túi viên chức liên hệ. Có nhiều lắm, từ trung ương tới địa phương, từ cầu cống , xa lộ, bến cảng, phi trường, các đoàn kinh tế, hầu hết giao thầu nhứt là giao cho TQ, thay vì cho đấu thầu thì tiết kiệm nhiều tiền công quỹ (mỗi năm đầu tư công của VN từ 10-20 tỷ mỹ kim).

Về cơ cấu quyền lực: Năm 2018 có sự thay đổi quan trọng về hình thức, nhưng trên thực tế không gì quan trọng. Đó là “nhứt thể hóa” Tổng Bí Thư Đảng và kiêm Chủ Tịch Nước. Vẫn có hai bộ phận hai văn phòng với ngân sách to lớn và mức độ độc tài mạnh hơn. Khâu thanh tra kiểm soát các công trình nguyên tắc rất quan trọng. Nhưng VN coi thường khâu nầy cách cố ý. Vì vậy hầu hết các công trình rất sai sót, và khi sử dụng bị hư hỏng thì mới lòi ra.  Thanh tra chánh phủ không có quyền đề nghị biện pháp chế tài cho các viên chức cấp từ Bộ trưởng, Phó Bí Thư, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân cấp tỉnh, thành phố trở lên nếu chưa có ý kiến của Ban Thanh Tra đảng. Đó là nơi  “chủ đạo” của đại tham nhũng.

Nguyên tắc tôn trọng luật lệ là một trong những nguyên tắc chánh của một nước theo pháp trị. Ở VN thì luật pháp và công lý không phải bảo vệ dân mà chỉ là bảo vệ đảng. Khi vào quốc tế, VN  phải tôn trọng luật lệ quốc tế, không thể gian dối, như luật lao động phải theo luật của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhưng tới nay VN chưa hoàn tất. Trong lúc đó thì VN lại ban hành nhanh chóng luật có hại như luật an ninh mạng. Theo các nhà đầu tư ngoại quốc thì luật nầy có tác dụng bất lợi cho kinh tế.

Về mô thức kết hợp công tư: Hầu hết các quốc gia đều có sự kết hợp khu vực công và tư trong một số công tác.  Ở VN khi theo mô hình kinh tế thị trường, thì phải có thành phần kinh tế tư doanh. Nhưng VN tạo dựng doanh nhân tư như là bàn tay nối dài của chánh quyền. Tại VN có hai loại tư doanh. Loại nhỏ, hay rất nhỏ thì độc lập hay nằm ngoài quỹ đạo chánh quyền. Còn loại tư doanh lớn, có bà con bạn bè với đảng viên, thì nằm trong quỹ đạo của chánh quyền, đó là bọn tư sản đỏ. Khi quốc doanh còn chủ đạo bắt buộc phải có tư sản đỏ để cùng viên chức đảng viên hợp tác, chia sẻ chiếm đoạt bóc lột tài sản công. Tình trạng nầy thật khủng khiếp, không tưởng tượng nỗi, chỉ có ở nước XHCN.

2. Trở lực do bộ máy công quyền và sự cấu kết cướp đoạt tài sản

Tệ hại của bộ máy quản lý kinh tế: Bộ máy hành chánh của VN quá kém, quá xấu về nhiều phương diện. Trong bài nầy, tôi chỉ nêu hai điểm liên hệ là: Thứ nhứt chính bộ máy đó là một cản trở cho phát triển. Thứ hai chính viên chức trong guồng máy đó cấu kết tạo nhũng lạm.

Thứ nhứt, bộ máy công quyền là một cản trở cho phát triển.

Nguyên tắc thông thường bộ máy công quyền có nhiệm vụ chánh là thi hành các mục tiêu của quốc gia. Nước nào cũng phải có bộ máy đó. Phải có khối người làm việc trong bộ máy đó. Bộ máy đó phải giúp dân, phải làm cho tốt, phải phục vụ dân và xây dựng đất nước. Đó là “bổn phận” chứ không phải “quyền”. Ở VN  bộ máy đó cản trở con đường đi tới của dân bằng luật lệ và bằng cơ quan nhà nước các cấp như:

Luật đất đai: Quyền sở hữu bị tước đoạt. Quyền tư hữu là một kích thích sự gia tăng hiệu quả lao động. Chánh quyền làm trung gian thu hồi đất trả giá thấp bán lại cho công ty gấp chục lần cao hơn đưa tới hai hệ quả: người bán đất bị thiệt mất một số tiền, đáng lẽ họ phải có, để họ có thể dùng cho công việc làm ăn hay ruộng vườn nơi cư trú mới, hầu gia tăng phát triển thêm. Mặt khác, công ty kinh doanh bị cơ quan đứng giữa với giá quá cao, làm cho chi phí kinh doanh cao, giá thành phẩm hay dịch vụ cao, hạn chế phát triển kinh tế.

Việc thiết lập dự án và thực hiện dự án tốn kém quá nhiều vì qua nhiều cơ quan, nhiều viên chức, và kéo dài thời gian. Có rất nhiều dự án đã làm như vậy. Chẳng hạn dự án Đô Thị Mới Thủ Thiêm, dự án đường cao tốc Cát linh-Đông hà. Cùng một phương cách làm việc, con đường ấy đi vòng vo , từ Trung ương đảng, Bộ chánh trị , Ban cán sự Trung ương đảng , Ban cán sự đảng cấp Bộ , hay Tỉnh. Bộ phận nhận lịnh của Bộ (hay Tỉnh) phải hội thảo lấy ý kiến các Bộ , cơ quan khác. Mời cơ quan tư vấn. Đi ngoại quốc nghiên cứu thực tế. Lên kế hoạch chi tiết trình cơ quan bên Chánh phủ. Rồi trình lên văn phòng đảng lấy sự chấp thuận. Đến giai đoạn giao thầu (không đấu thầu là sai nguyên tắc) cho tư doanh lại phải tìm “phe ta” hay công ty nào “lợi quả” cao nhứt. Thường các dự án lớn phải điều chỉnh nhiều lần trong giai đoạn thi công. Thì phải qua nhiều trạm gần như trước. Mỗi lần nhờ một cơ quan để xin ý kiến là phải biết điều. Chưa kể các Ban Kiểm Tra. Như vậy khi đầu tư dự án lớn, trên vài trăm triệu mỹ kim thường phải tăng chi phí gấp từ 50-100% và thời gian thực hiện cũng gấp đôi là chuyện thường tình ở VN. Chi loại không chánh thức quá nhiều. Thời gian kéo dài thêm làm tăng tiền lãi các món nợ và thì giờ làm việc. Hệ quả là thiệt hại cho mức độ và chất lượng phát triển, nghĩa là thiệt hại cho ngân sách và cho nền kinh tế chung.

Thứ hai, bộ máy công quyền chủ mưu tạo ra tham nhũng.

Tham nhũng ở VN là quốc nạn, ai cũng biết. Trên thế giới có nhiều quốc gia có nạn tham nhũng. Nhưng ở VN thì chính các bộ phận của đảng và chánh phủ trực tiếp với đa số tuyệt đối viên chức của các bộ máy đó. Cho nên có thể nói cách tổng quát chính bộ máy lưỡng thể đó là chủ mưu trực tiếp tham nhũng trong các vụ lớn, và gián tiếp trong các vụ nhỏ. Viện chức trong bộ máy đó cấu kết hàng ngang và hàng dọc tạo ra sự cướp đoạt nhiều loại tài sản công và tư.

Cho nên đánh tham nhũng là tự đảng CS đánh “đảng ta”. Nếu đánh hết thì còn ai làm việc, toàn bộ máy chánh quyền bị đóng cửa.

Trong năm qua, chiến dịch đánh tham nhũng của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khá “hấp dẫn, khá vui”. Đây là lần đầu tiên đảng đánh đảng, lớn và nhiều. Nhiều đảng viên lớn, bị vào tù. Trong đó có thể kể các vụ:  Petro VN với Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, sơ khởi thiệt hại cho công quỹ vài trăm triệu đô. Vụ công ty Mobifone , gần 500 triệu đô, vụ bán đất quận 2, đất Thủ Thiêm, đất Nhà Bè của TP HCM có lẽ cả tỷ mk, vì nội vụ chưa xong. Vụ công trình đường cao tốc Cát Linh- Đông Hà, Metro Bến Thành-Suối Tiên mất mát nhiều trăm triệu đô. Vụ Vũ Nhôm Đà Nẵng tóm thu nhiều khu nhà đất quí ở Đà Nẵng không qua đấu thầu, rồi bán lại cho tư doanh giá gấp vài chục lần cao hơn, thiệt hại ngân quỹ nhà nước nhiều trăm triệu Mỹ kim.  Vụ các ngân hàng Agribank, BIDV, Ocean Bank, ngân hàng Đông Á,.. vi phạm luật lệ, cấu kết tư sản đỏ lấy tiền ngân hàng đầu tư nhà đất và bị mất gần hết. Và còn rất nhiều vụ nữa xẩy ra hầu hết trên cả nước cũng có cái kiểu gần như vậy.

Đinh La Thăng hầu tòa

Các vụ tham nhũng to lớn đó rõ ràng cho thấy tình trạng tham nhũng ở VN là có kế hoạch, đúng qui trình, có tham dự của viên chức cao cấp, và thiệt hại quá lớn. Trong các vụ tham nhũng lớn như vậy, người dân thường không dính vào, chỉ có loại “công dân đặc biệt” là “tư sản đỏ” mới dính vào, mới được chia lợi.

Sự cấu kết giữa viên chức với tư bản đỏ là một hình thái đặc biệt của VN và TQ. Lợi dụng nền kinh tế đa thành phần và mục tiêu làm giàu của đảng viên, sự kết hợp công (tư sản nhà nước) và tư (tư bản đỏ) là công thức tốt nhứt cho đảng . Nhà nước có nhiệm vụ huy động tiền bất cứ từ nguồn nào. Bộ chánh trị và các bộ của chánh phủ nghĩ ra các mục tiêu (không cần đúng với nhu cầu đất nước). Lập ra hay thảo luận với nhóm tư sản đỏ, là bà con hay bạn bè đảng viên cao cấp, từ Tổng bí thư, Thủ tướng, Bộ trưởng, Tướng lãnh. Giao các dự án hay nhà đất công sản cho “công ty tư sản đỏ” số 1. Công ty số 1 nầy giao lại cho công ty số 2 với chia chác tiền thầu. Nhiều công trình lớn đều làm như vậy. Cứ như thế “công tư hợp tác lưỡng lợi”. Đất nước thiệt . Đảng viên giàu lên. Tỷ phú VN nẩy nở thêm.

3.Trở lực do lệ thuộc kinh tế TQ và Hội nhập toàn cầu

Chủ trương của VN là mở rộng mậu dịch quốc tế càng nhiều càng tốt. Đó là vấn đề sanh tử cho kinh tế VN. Mặc dù có kết quả tốt. Nhưng tới năm qua, khó khăn lớn vẫn còn . Ở đây tôi chỉ nói tới hai thị trường lớn là Trung quốc và Âu Mỹ.

Việt Nam và Trung Quốc . Trên bình diện kinh tế đối ngoại, VN vừa bị TQ ép, VN vừa tự muốn gia tăng hợp tác kinh tế với TQ. Cả hai mặt, VN đều có những khó khăn to lớn, tôi xin tóm tắt:

Mậu dịch hai chiều.  Tiếp tục gia tăng. Mặc dù có chút cải thiện là xuất cảng hàng VN qua TQ gia tăng tỷ lệ cao hơn gia tăng hàng nhập từ TQ.

Trong 9 tháng đầu năm 2018 VN nhập của TQ $47.26 tỷ hàng hóa, và xuất sang TQ $28.8 tỷ.

Công ty truyền thông VN xử dụng đa số sản phẩm của công ty Huawei và ZTE, hai công ty bị US chế tài, và nhiều nước tẩy chay. Đây là ví dụ về sự áp đặt rõ ràng và tệ hại.

VN tiến hành nhanh chóng dự án “Hai hành lang một con đường” với TQ. Đó còn là một nguy hiểm về an ninh. Sức ép tiếp tục ngày càng nặng thêm. Đặc biệt VN cho phép chánh thức xài tiền TQ (yuan) tại 7 tỉnh biên giới. Một hình thức mất chủ quyền quốc gia.

Viện trợ :  TQ với dự trù chi $1,000 tỷ mk cho đại dự án Belt & Road, nên tung tiền ra nhiều cho các nước kể cả VN với tiến trình thực hiện mục tiêu “Giấc mộng Trung hoa”. Tiền vay có hai bước. Lần đầu lãi suất ưu đãi, sau đi nữa chừng vay với lãi suất cao. Không trả nợ được sẽ bị sai áp đất đai, cảng, phi trường.

Người Tàu du lịch qua VN nhiều hơn (tăng 50% năm qua). Tương lai sẽ có những khu nghỉ dưỡng cho họ.

Ba Đặc khu Hành chánh – kinh tế Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc: Trung ương đảng và Bộ chánh trị đã quyết định hồi năm 2017. Và  đưa dự luật qua Quốc hội biểu quyết cho có hình thức hồi tháng 6/2018. Nhưng bị dân chúng chống đối mạnh mẽ, Quốc hội cho hoãn lại. Về hình thức lẫn nội dung, ba Đặc khu nầy gần như là VN lập ra theo như kế hoạch của TQ trong Belt & Road, nhứt là các điểm vô lý và nguy hiểm như cho thuê đất 99 năm, vay số tiền rất lớn TQ (nhiều tỷ mk) cho hạ tầng, đầu tư casino, đầu tư nhà đất kể cả khu nghỉ dưỡng.

Đọc tiếp…

Views: 200

Xuân Trên Núi Hoàng Liên

Nguyễn Nhơn

Những mùa xuân tù đày trên đất Bắc

Đầu Đông năm 76, hai ngàn tù cải tạo Miền Nam lênh đênh trên chiếc tàu Hồng Hà trên đường ra Bắc. Đổ bộ lên Bãi Cháy, Hải Phòng.Đoàn tù chia thành hai nhóm. Một hướng về Cao Bằng – Lạng Sơn tiến phát. Một quẹo trái thẳng về Hoàng Liên Sơn. Sau một ngày và gần một đêm rong ruổi, đoàn tù nhóm tôi đặt chân xuống “Trại Cải Tạo Trung Ương Số 1″, Lào Cai lúc 3 giờ sáng. Đường vào các phòng giam chật hẹp, đèn đóm lập lòe, chốc chốc hiện ra khung cửa hẹp, trông giống hệt cảnh Địa ngục A Tỳ, vẽ trên vách các ngôi chùa cổ Miền Nam.

Mùa Đông năm đó thời tiết thật là khắc nghiệt, đó là lời của bọn cai tù nhận định như vậy. Ban ngày còn được 5-7 độ C, ban đêm dưới 0 độ. Đội 11 chúng tôi khi đó chưa được phân công chẻ tăm mành xuất khẩu nên được xua đi, xa cách trại 5-3 cây số, cuốc đất trồng mì (sắn). Theo “kỹ thuật thâm canh tăng vụ xã nghĩa hiện đại” thì … hốc mì phải vuông vức 4 tấc, sâu 3 tấc, rồi bỏ phân xanh xuống, tức là quơ lá cây rừng bỏ xuống đầy hốc, lấp đất lại, ủ năm ba bửa mới bỏ hom mì xuống. Trong Nam, chỉ cần cuốc một cuốc, bỏ hom mì xuống, lấy chân gạt đất lắp lại là xong. Còn ở đây, đồi núi toàn sỏi đá, không làm như trên thì hom mì không làm sao bắt rễ nổi. Cho nên phải làm như vậy chớ chẳng phải kỹ thuật xã nghĩa cái mụ nội gì! Đội 11 triển khai đội hình, tức là dàn hàng một vòng quanh ngọn đồi trọc, vì trước đó tù hình sự đã phát xong lùm bụi rồi, bắt đầu cuốc dần lên đỉnh. Sức tôi lúc đó cầm cuốc còn không vững, lại thêm trời lạnh như cắt, tay chưn run lập cập, dẫu cho có dùng hết “tinh thần cách miệng tiến công”, ra sức cố cù lừ cuốc xuống thì chỉ thấy sỏi đá văng tứ tung mà lưỡi cuốc không ăn xuống được bao nhiêu! Tên cai tù trẻ nhìn tôi, lắc đầu ngán ngẩm, bèn bảo tôi chạy đi gom chà, đốt một đống lửa to cho nó ngồi sưởi ấm. Nghỉ giữa buổi, chúng cho phép anh em xúm quanh đống lửa, sưởi ấm một lúc. Nhìn anh em mặt mày tái xanh, tái xám, ngồi ủ rủ giống như một lũ u hồn, oan khuất. Lại thêm gió giật từng cơn, đã lạnh càng thêm giá buốt, tôi cám cảnh sanh tình, đặt tên cho ngọn đồi đó là “Đỉnh Gió Hú” cho nó văn chương, thơ mộng. Chiều xuống, sương mù giăng mắc, gió rét căm căm, bọn tù lầm lủi bước. Về đến trại, trời đã tối mịt mùng. Nuốt vội một chén đá duy nhất củ mì băm mà nơi đây gọi là “sắn dui” là cai tù đã lùa vào phòng giam, khóa lại. Ai nấy lật đật giăng mùng. Bao nhiêu mền chiếu đều đem ra quấn vào người. Riêng tôi, lấy hết mền chiếu trải phía dưới, quấn quanh người tấm nệm mỏng của trại tù, ngồi dựa vách run rẩy, chống lạnh cho đến khi mệt mỏi, thiếp đi. Phòng giam chật hẹp, chứa 50 nhân mạng mà lúc nầy vắng lặng như nhà mồ vì không ai đủ sức cựa quậy, đi lại. Thuở nhỏ, ở Miền Nam ấm áp quanh năm nên nghe ông già, bà cả ví von “lạnh thấu xương, lạnh nứt da, nứt thịt hoặc lạnh trong xương lạnh ra” đều không hiểu nổi. Lúc này tuổi ngoài 40 mới hiểu được thế nào là cái lạnh trên núi rừng Việt Bắc.

Cho nên một buổi sáng tàn Đông, nhằm ngày Chúa Nhật, cai tù mở cửa trễ. Đang ngồi thiêm thiếp, bất đồ anh bạn nằm bên cạnh mở tung cửa sổ ra. Ngoài song cửa hoa rừng nở rộ một màu trắng xóa khắp núi đồi, báo hiệu mùa Xuân đến. Chỉ trong một thoáng, tôi cảm thấy trong lòng bừng nở một sức sống mới: Sự HỒI SINH của Mùa Xuân. Cho nên sau nầy, khi đọc Thiền Luận của Suziki, dẫn bài “Hài cú” của một thi sĩ Nhật Bản, nhìn một đóa hoa đơn côi bên vệ đường, cảm tác nên, để dẩn giải về nguyên lý “Chẳng phải một, chẳng phải hai” của Thiền Đạo, tôi cảm nhận được liền. Cũng tương tự, khi đọc bài Xuân Thiền cuả Trúc Lâm Trần Nhân Tôn:

Niên thiếu chưa từng hiểu sắc không
Xuân về hoa nở, rộn trong lòng
Đến nay hiểu được điều không sắc
Xuân đến, giường Thiền, ngắm rụng hồng

Hoặc giả hai câu trứ danh:

Đừng tưởng Xuân tàn, hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, MỘT CÀNH MAI

Tết năm đó, trên núi rừng Hoàng Liên, chúng tôi có một điều vui nhỏ, mỗi người được một cặp bánh chưng nhân đậu, có một lát thịt mở đàng hoàng, tuy nhỏ và mỏng. Đáng ghi nhớ là một sự kiện chấn động: Đó là tin hai người tù cải tạo Miền Nam toan vượt ngục, bị bắt lại. Ngày mồng ba tết năm đó, toàn phân trại K1 tập hợp tại Hội trường để nghe viên Chúa ngục xỉ mắng và đe dọa về vụ nầy. Về sau, biết được hai người anh em dũng cảm nầy là: Thiếu Tá TQLC Tôn Thất Thiện Nhơn và một Trung Tá HQ dường như tên là Phát.

Đó là cái Tết đầu tiên trên đầu phía Bắc của dãy Hoàng Liên Sơn. Về sau, khi từ phòng kỷ luật ra, anh Nhơn được bố trí về Đội 11 chẻ tăm mành của chúng tôi. Lúc nầy đã sang Hè, trời nóng như thiêu, như đốt. Cột kèo bằng tre nứa, giữa trưa nổ đom đóp.Trong một buổi họp đội do tên quản giáo chủ trì, anh T3 Nhơn liền cho nổ bom, long trời, lở đất, chấn động cả toàn trại. Chẳng là vừa khi khai họp, một tên “ăng ten” hèn nhát đứng lên tố cáo, “Nhờ ơn Bác đảng nuôi cho ăn học, nhà cao, cửa rộng, áo quần lành lặn, mà có người còn phát ngôn phản động… “. Tên nầy chưa kịp chỉ danh ai thì anh T3 Nhơn đã hùng hổ đứng vụt lên, bất kể cai tù dọa nạt, hô lớn như vầy: ” Đồ bợ đít, ngồi xuống. Tao chẳng những không biết ơn mà tao thù, tao oán. Bởi vì bác đảng mà thân tao tù tội, gia đình tan nát, đói khát, rách rưới tả tơi. Còn nhà cao, cửa rộng hả? Coi kìa! cái phòng giam chật hẹp, nóng như thiêu đó giống như Hỏa ngục A tỳ. Đồ bợ đít hỗn xược! Câm miệng, không thôi tao dọng vỡ mồm”. Trước tình cảnh lỡ khóc, lỡ cười, tên cai ngục bèn đứng dậy … dong thẳng một lèo … vì không có võ trang bảo vệ.

Mùa Xuân năm Kỷ Mùi 78 kế tiếp là một cái Tết buồn. Đêm 29 Tết, bác Hồ Đắc Trung cựu Dân Biểu và Tỉnh Trưởng Tây Ninh bị đau ruột trầm trọng. Trại chở đi Bệnh Viện Lào Cai cấp cứu, mãi không thấy về, không biết thân xác vùi dập nơi đâu! Đó là cái chết đầu tiên của người tù cải tạo Miền Nam trên núi rừng Hoàng Liên. Lại thêm năm đó, trại cạn láng rồi nên mỗi thằng tù chỉ được phát cho một cặp bánh chưng mỏng lét, ruột toàn khoai lang. Đến nổi bọn cai ngục mắc cở, chống chế, “Thôi mấy anh ăn đỡ cái Tết xoàng ở đây để năm tới về nhà ăn Tết vui hơn”.

Mà quả có thế thật, vì cuối tháng sáu năm đó, toàn trại, trừ hình sự và các anh Biệt Kích Miền Nam bị giam cầm ở đây từ trước, được lịnh chuẩn bị di chuyển. Có điều … KHÔNG phải về NAM mà là về Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, về phía hữu ngạn sông Hồng. Trại nầy nổi danh là “MỒ CHÔN TÙ CẢI TẠO MIỀN NAM”! Vốn nó là trại cải tạo địa phương cải sang. Nhà cửa lụp xụp, lợp toàn bằng lá cói, lương thực dự trữ không có. Cho nên chỉ sau đó một tháng, xãy ra trận “dịch chết đói” mà họ gọi văn hoa là “suy dinh dưởng”. Có trên một trăm anh em tù cải tạo Miền Nam, rải rác khắp 5 phân trại, nhất là phân trại K1, K2, ngã gục, vùi thây khắp các đồi trồng khoai mì.

Mùa Xuân năm Canh Thân 79, vì suốt năm dài không nhận được chút ít tiếp tế nào của gia đình từ trong Nam gởi ra, nên sức dự trữ trong cơ thể cạn rồi, ai nấy đều phờ phạc, lửng lơ như xác chết chưa chôn. Tuy nhiên, tôi có một kỷ niệm cuối cùng với Đại Tá Nguyễn Văn Của, Tỉnh Trưởng Bình Dương. Tết năm đó, họ để cho tù đi lại các khu, thăm hỏi nhau. Khu tôi ở cách khu ĐT Của chỉ một bức tường cao. Tôi qua đó tìm thăm Ông. Thấy tôi, ông bước lại bá cổ, mừng rở. Tôi dang ra nhìn Ông đùa, “Coi bộ còn khá lắm”. Ông vừa chửi thề, vừa kéo lưng quần ra, “Coi nè, lưng quần tao hụt cả tấc vầy! Được, được cái nỗi gì!” Lúc nầy quả thật Ông Tỉnh Trưởng đã ốm yếu quá rồi. Tôi chỉ đùa cho Ông vui vậy thôi. Mùa Đông năm ấy, Ông bị phổi có nước. Mặc dầu anh em ở Bệnh xá, cũng là tù cải tạo, tận tình giúp đở, nhưng mà Ông yếu quá, quỵ xuống vĩnh viển.

Ngày chôn Ông, tôi đang cuốc đất bên vệ đường. Chống cuốc, đứng nhìn anh em đội Cải Lương quảy chiếc hòm dã chiến, đầu cao đầu thấp, lắt lẻo bước đi, trông thật thảm thương. Đàng sau chiếc hòm đong đưa đó, không có một ai thương khóc tiễn đưa. Tôi đứng đó, thầm khóc tiễn Ông mà cũng khóc cho thân phận khốn khổ của chính mình. Nói rằng khóc thầm là bởi vì, nếu chảy nước mắt mà bọn cai tù hay ăng ten nhìn thấy thì vừa bị chửi, vừa bị làm kiểm điểm về tội “không yên tâm cải tạo”.

Hồi đó, mùa Đông năm nào hay nói cho đúng là bắt đầu từ đầu tháng 9 tức là mới đầu Thu là tôi bắt đầu ôm bụng, rên rỉ cho đến hết Đông qua Xuân. Cho nên kể từ khi ĐT Của thượng đồi chè, tức là chôn bên cạnh đồi trồng trà, anh em thường kháo nhau, “không biết mùa Đông năm nay Phó Nhơn có qua khỏi không hay là lên đồi chè làm Phó cho Ông Của?”. Tôi nghe thấy được, liền dẫy ra, “Ổng có kêu thì kêu thằng Vinh đó! Nó là Phó của ổng chớ can hệ gì tới tao.”

Tuy nói đùa như vậy mà suýt tí nữa thì tôi đã theo Ông Của thật. Giữa tháng 12 năm 80, tôi đau một trận, thập tử, nhất sinh. Không phải ví von mà thật sự là như vậy. Đêm đó, khoảng 10 giờ, tôi bắt đầu lên cơn đau. Đến nửa đêm, chịu không nổi, la hét dữ dội, kêu lính gác, đòi cho đi Bệnh xá. Tên nầy lém lỉnh, dở trò hoãn binh, bảo chờ đi kêu cai ngục mở khóa cửa. Tôi chỉ biết lăn lộn, rít lên từng cơn. Gần sáng, tôi chịu hết nổi, làm liều, bước lại cửa sổ, thò tay qua song sắt, kêu toáng lên, xin cho một mủi Atropine. Thằng lính gác có biết trô pin, trô péc cái gì, nạt lại bảo chờ một chốc là mở khóa. Tới sáng, lả người nên khi cửa phòng giam được mở, tôi chỉ lờ mờ nhận thấy anh Mai, Đội phó Đội Rau Xanh, quấn mền, bồng đi. Đến Bệnh Xá, anh vừa đặt xuống là tôi bất tỉnh nhân sự. Từ đó về sau, tôi không biết gì nữa.Tỉnh lại thì đã nửa đêm, lại bắt đầu rên rỉ. Anh Lang cũng là tù cải tạo, được cử làm y tá trực Bệnh Xá, nghe thấy, bước lại nhỏ nhẹ bảo, “Cả Bệnh Xá chắt chiu mãi mới có được 5 ống Atropine. Từ sáng đến giờ, thấy anh đau đớn quá, không cầm lòng được, đã chích cho anh hết rồi. Bây giờ, dẫu còn thuốc cũng không dám chích cho anh nũa. Thôi, ráng ẩn nhẫn cho qua cơn.” Tôi dật dờ, khi tỉnh, khi mê như vậy trải qua 4 ngày, đêm. Sáng ngày thứ năm, thấy tôi có vẽ tỉnh táo, anh Lang cầm một ống thuốc đưa ra trước mặt tôi, không rõ là thứ thuốc gì, miệng nói, “Thuốc nầy khá mạnh, anh liệu sức kham nổi không, tôi chích cho.” Tôi cùng đường rồi, đánh liều, đưa tay ra. Quả nhiên, mủi kim chích chưa kịp rút ra, tôi cảm thấy như có ai cầm búa tạ đập mạnh vào ngực. Vừa tức thở, vừa nghe khí huyết nhộn nhạo, dâng lên, dâng lên. Sức sống từ mười đầu ngón tay, ngón chân thoát ra khỏi thân thể. Tôi kêu lên, “Anh Lang ơi! Tôi mệt quá!” mà nghe văng vẳng như tiếng của ai đó chớ không phải tiếng của mình. Tôi mơ hồ nghe thấy anh bảo, “Nằm xuống, nằm xuống.” Nếu tôi nghe lời anh, nằm xuống, có lẽ đã đi luôn rồi! May sao, tôi chỉ chống hai tay ra sau cho vững, nủa nằm, nửa ngồi, cố ngáp ngáp thở. Đợt thứ nhứt vừa hạ xuống, đợt nhộn nhạo thứ hai lại bùng lên. Có điều lạ lùng là lúc nầy tôi không cảm thấy đau đớn gì. Trí óc vẫn sáng suốt. Nhìn ra bên ngoài, buổi sáng mùa Đông mà lại có ánh nắng vàng le lói. Đồi núi dường như nhảy múa, khi gần khi xa. Tôi thầm than, “Cả đời không làm gì ác, sao đành phải vùi thây nơi rừng núi xứ lạ, quê người?” Rồi cố gắng hít thở. Bỗng nhiên, tất cả đều lắng xuống, thân tâm cảm thấy êm ả lạ thường. Đến nỗi khi về lại giường, nằm xuống đi vào giấc ngủ cô miên, êm đềm như chưa từng thấy.

Hồi đó, tôi chưa đọc Kinh Phật nên không lý giải được hiện tượng kể trên. Về sau, trong những năm cày cuốc trên Khu Kinh Tế Mới Bảo Lộc, tôi lần mò đọc Kinh Luận mới vỡ lẽ. Nếu hồi đó tôi hiểu được lẽ “Tùy Thuận Duyên Giác”, yên lặng nằm xuống, có lẽ đã dứt nghiệp từ khi ấy. Nhưng vì không hiểu biết, tôi lại cưỡng cầu, lại còn dấy lên “một niệm” oan khuất nên lại tái sinh. Nói cho rõ thì như vầy: Đạo Phật giải thích về Nghiệp bằng hình ảnh một mủi tên, ví như thân mạng. Nghiệp lực là sức mạnh phóng mủi tên thân mạng lao đi. Nghiệp dứt, mủi tên hết đà rơi xuống, thân mạng cũng dứt theo. Lúc đó, tôi đâu hiểu lý nầy nên mới cưỡng cầu, dấy lên một niệm oan khuất, tạo ra một Nghiệp Lực mới, đẩy mủi tên thân mạng tiếp tục duyên nghiệp mới.

Trên đây là những MÙA XUÂN TRÊN NÚI HOÀNG LIÊN, bởi vì nói là Tân Lập, Vĩnh Phú, kỳ thật nơi đó vẫn là một thung lũng hẹp nằm giữa rặng Hoàng Liên trên Đất Bắc

Xuân năm nay là bắt đầu năm thứ năm, sống trên đất Mỹ. Bốn Mùa Xuân qua đều không cảm thấy gì là Tết. Hội Tết ở đây, dẫu cho tổ chức khéo léo cách mấy cũng không thể tạo nên “không khí” của Ngày Tết nơi Quê Nhà. Con lân múa trong Hội Chợ Mỹ không thể nào sinh động như con cù giỡn pháo trên đường phố quê tôi. Con cù râu bạc đó làm thế nào sánh được với con cù râu bạc của Hội Chùa Bà, xứ THỦ, Bình Dương.

Tìm đâu thấy cành mai vàng rực rở của Ngày Tết ở Quê Nhà!? Tìm đâu thấy cảnh trẻ em mặc quần áo Tết sặc sỡ, vui đùa trên hè phố, thỉnh thoảng đốt trái pháo chuột nổ tì tạch!? Cho nên ngày Tết, cứ nằm nhà, ngâm Kiều, giải khuây:

Ngày Xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Hoặc giả, xót thân 15 năm lưu lạc phong trần thì ngâm Kiều vịnh:

Tấm lòng nhi nữ thương mà trách
Chẳng trách chi Nàng, trách Hóa công

Nguyễn Nhơn (ĐS 6)
Cuối Đông 1994

 

 

Views: 135

Còn Gặp Nhau

Thơ Bửu Uyển

Khai Bút đầu năm 2019

Còn gặp nhau thì hãy cứ mơ ,

Ngắm trăng viễn xứ ghép vần thơ ,

Mơ về quê Mẹ thương thương Huế

Xa cách ngàn năm vẫn đợi chờ

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ yêu

Giang sơn gấm vóc đẹp mỹ miều

Yêu thầy, yêu bạn, yêu trường cũ ,

Yêu lũy tre xanh nhuốm nắng chiều

 

Còn gặp nhau thì hãy hàn huyên,

Chuyện tình, chuyện nghĩa,  chuyện nhân duyên .

Ơn cha, nghĩa mẹ, tình non nước ,

Giữ lấy cơ đồ của tổ tiên

 

Còn gặp nhau thì hãy nguyện cầu,

Cầu cho đất nước hết thương đau.

Mưa thuận gió hòa trên quê Mẹ.

Ngàn trùng xa cách vẫn thương nhau.

Bửu Uyển (ĐS 11)

Views: 429

Lessons From The Vietnam War

Dr. Ta Van Tai


Dr. Tai, born in North Vietnam, came south with his family after the 1954 Geneva Conference along with a million other northern refugees. He has a law degree from the University of Saigon and a Master degree and doctorate from the University of Virginia in International Relations.
In 1965, he returned to Vietnam to work as an attorney and professor of law and political science. Having fled Vietnam in 1975 for the U.S., he earned a law degree from Harvard in 1985, passed the Massachusetts bar in 1986, and has practiced as an attorney ever since.
Concurrently, he continued his association with Harvard as a research fellow and lecturer in Chinese-Vietnamese law. His many books and articles include The Vietnamese Tradition of Human Rights, Immigrants in American Courts, and The Code of the Le Dynasty (co-author). He has returned to Vietnam in a variety of academic roles.
Dr. Tai appears in Who’s Who in American Law, Who’s Who in the World, Who’s Who in America, and Who’s Who Among Asian Americans.

LESSONS FROM THE VIETNAM WAR

Lessons? For whom? They are different for the different parties. An American might be tempted to fix on who “lost” Vietnam – Congress, the executive, the military or the media. A South Vietnamese would surely name the U.S. pullout as a major factor in his country’s defeat and draw some obvious conclusions. As for the victorious North Vietnamese, Foreign Minister Nguyễn Cơ Thạch once gave an arrogant reply to Robert McNamara’s proposal for a lessons-learned symposium: “We won the war; why would we need to learn any lesson from it?” Yet the Communists, it can be said, lost the peace for the first decade after the war ended in 1975, because they suffered an embargo, were denied normalization with the U.S., and presided over a backward country that kept their people’s lives miserable for many years in comparison with other Southeast Asian nations.

For the Communists, too, there are lessons to be learned. Despite an autocratic regime which does not tolerate political dissent, and which abuses human rights, perhaps they have learned some lessons. According to the World Bank in 2018, for example:
“Vietnam’s development record over the past 30 years is remarkable. Economic and political reforms under Đổi Mới [an economic reform program], launched in 1986, have spurred rapid economic growth and development and transformed Vietnam from one of the world’s poorest nations to a lower middle-income country.”  (155)
Despite the complexities, I will try to answer the lessons-learned question as a conscientious historian who was a member of South Vietnamese society and is now a grateful U.S. citizen, and as a person who looks back at his motherland with his best wishes for the people there, even as he criticizes certain Vietnamese government policies. I will try to take the long view of history.
I see five lessons from the Vietnam War of 1960 to 1975, so called to distinguish it from the 1945 to 1954 Indochina War.:

  1. First, changing national interests in the Vietnam war led to drastic changes in the war’s nature and the strategy needed to fight it successfully.
  2. War should end with a negotiated peace, and with a political solution that sees an end to the intransigence that is appropriate for war but not for peace.
  3. The people are the final arbiter on a war’s conduct. War should be referred to the people as the ultimate arbiter. War should not be between armed forces directed solely by generals and their leaders but should be supported by the population as a whole, who should be consulted when war is declared and when peace is negotiated.
  4. If peace is to be enduring, war should end with reconciliation.
  5. South Vietnamese and American Presidential leadership was one factor in the Vietnam War’s outcome.

Hindsight, of course, makes the war’s lessons easier to understand. But a scholar’s well-researched views on the lessons of history can still serve policy-makers well, even during urgent deliberations, because they can enable sound solutions with fewer missteps. Confucius, Sun Yu, Aristotle and others contributed by their advice to wise statecraft, just as modern European and American governments benefit from the work of think tanks and universities. Thus, the utility of the exercise we are engaged in today. Here are my five lessons from the Vietnam War:

1.The first lesson: Changing national interests in the Vietnam war led to drastic changes in the war’s nature and the strategy needed to fight it successfully.

In Vietnam, a civil war became uncontrollable because it became an internationalized proxy war, with outside powers intervening to suit their interests, and with the United States then abandoning the fray because its interests had changed. (156)
Vietnam’s protracted, bloody Communist-nationalist civil war became an internationalized conflict promoted by the two big power blocs, and the two sides in the small country of Vietnam were touted as a vanguard of the Socialist Bloc and the bulwark of the Free World. Both sides depended on the big powers’ political, military and economic support. Once the United States started cooperating with China after Kissinger’s and Nixon’s trips to Beijing, the Americans had no more national security interest in devoting resources to defend South Vietnam.

So the U.S. abandoned South Vietnam. It made many concessions to North Vietnam (the Democratic Republic of Vietnam, or DRV) in the Paris Peace Accords of 1973, agreeing to a “leopard skin” ceasefire in South Vietnam (the Republic of Vietnam, or RVN) that left North Vietnamese troops in place, jeopardizing the South’s survival, and aiming to bring home American troops and prisoners of war to satisfy the American public. At the same time, the U.S. failed to replace lost South Vietnamese arms and ammunition on a one-for-one basis, as promised, or even to permit South Vietnam to use the American Aid Fund (Quỹ Đối Giá) to pay the salaries of its soldiers and police.

When North Vietnam’s all-out invasion caused the South to collapse in 1975, Secretary of State Kissinger hid from Congress the promise of President Nixon in his letters to President Thiệu to come to the rescue of South Vietnam with B52 bombing and arms aid; thus, both Congress and President Ford talked at the end only about the evacuation of the Americans from Vietnam. U.S Ambassador Graham Martin, visiting Washington at that time, condemned the American stance. “I think all over the world, everyone has reached a conclusion very harmful to us. That is it would be better to be an ally of Communism than to have the woe of being an ally of the United States.”

The South Vietnamese leaders, of course, should have been aware long before 1975, of the impermanency of big-power support and an eventual U.S. withdrawal due to changing national interest. The South Vietnamese leadership might have guessed that although in 1954 the U.S. wanted to replace France in South Vietnam as part of the containment policy against Communist encroachment in Asia, and although the Americans had supported the Ngô Đình Diệm regime as a “bulwark against Communism in Southeast Asia” and called President Diệm the “Churchill of Vietnam,” in later years there would likely be an American disengagement due to war weariness among the public and the surging anti-war movement. The result was President Johnson’s loss of hope and his decision not to run for re-election in 1968.
I began around that time to express, as a scholar-professor, my worry of the impact of decreased United States support for relevant South Vietnamese officials, such as the colonels and generals who studied at the National Defense College in Sài Gòn. (157)

With the U.S. disengagement and drastically fewer supplies, the South Vietnamese had to face by themselves the continued civil war waged by the Vietnamese Communists, who launched their final offensive with maximum assistance in arms and transportation from China and the Soviet Union. After the resignation of President Thiệu in late April 1975, the successive South Vietnamese governments of Trần Văn Hương and Dương Văn Minh tried to negotiate a cease-fire, as if the civil war could be settled among “Vietnamese brothers,” with the encouragement and good offices of French Ambassador Merillon, trying to carry on for the fading Americans.
But the victorious North Vietnamese forced the Dương Văn Minh government to accept unconditional surrender Dương Văn Minh on April 30, 1975. The political compromise that Thiệu could have pursued with the signing of the Paris Accords in 1973 was no longer available in the face of the now-lopsided imbalance of power (Thiệu himself had previously said that South Vietnam’s military potential had decreased by 60 percent). The South Vietnamese were now aiming mainly at a short humanitarian interregnum for those who feared for their lives under the Communists to leave Vietnam, as in 1954, when hundreds of thousands of refugees moved from the North to South Such a cease-fire was also meant to avoid the burial of Sài Gòn under a sea of firepower (biển lửa) at the hands of Communist troops. (158)
The Americans, even after abandoning South Vietnam as a result of their changing view of their national strategic interests, did not abandon their humanitarian instincts. In 1975, President Ford proposed to Congress that the U.S. fund the rescue of Vietnamese refugees from inside Vietnam or from the South China Sea, and bring them halfway around the world to the United States, welcoming them to their second homeland at a time when they might have been regarded as simply the flotsam and jetsam of the Vietnam War. For this, Vietnamese in the United States will always thank the American people.
On the issue of whether the Vietnam War was a civil war or an international war by proxy, the answer is not a simple one. It was first a civil war, beginning, from 1945 and before the French attempted to return to Indochina. Then, gradually, it was internationalized by the British, the Nationalist Chinese, the French, the Americans and finally the People’s Republic of China, all injecting into Indochina their concern for their own national interests. Finally, after the 1973 Paris Peace Accords and the withdrawal of American troops and the return of American prisoners, the war returned to its civil-war status.
After the Việt Minh under Hồ Chí Minh seized power in August 1945, there was, early in September some friction between the Việt Minh and the Vietnamese Nationalist forces. The latter accused the Việt Minh of being Communists; the Việt Minh, in turn, denounced their opponents — the Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội VNCMĐMH, or Vietnam Revolutionary Alliance) and the Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ, or Vietnam Nationalist Party) — as reactionaries. These Nationalist forces planned to rely on the support of China’s Kuomintang (the Nationalist Party of Chiang Kai Shek) – support they had enjoyed since their exile to China after the failed rebellion of Nguyễn Thái Học in 1930 — in their plot to overthrow the Provisional Coalition Government of Vietnam (Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam), formed by Hồ Chí Minh on January 1, 1946, even though they already had a few representatives inside that government.

But these Nationalist parties could not carry out their plan; they lacked unity and had no popular base inside Vietnamese society due to their years in exile. They had only the hoped-for support of the corrupt Chinese generals who were coming to disarm the Japanese. Moreover, in organizing demonstrations and countering propaganda, the Vietnamese Nationalists were less skilled than the Việt Minh , who had abundant experience in these matters since Hồ Chí Minh, with the approval of Nationalist Chinese General Zhang Fakui, returned from China to Vietnam in 1941 ( under the name of the Vietnam Revolutionary Alliance, of which the Việt Minh was a member).
Moreover, the Việt Minh had the support of Chinese Nationalist generals Lu Han and Tieu Van, whom they bribed with opium and gold collected from the people, and these Chinese generals forced the Vietnamese Nationalists to stay, albeit reluctantly, in the Communist-dominated Provisional Coalition Government of Vietnam. The Việt Minh also had support from the Third Communist International and the Office of Strategic Services (OSS), the wartime intelligence agency of the United States. The Việt Minh organized meetings, marches and exhibitions with pictures of their cadre killed by the Nationalists.
There was some restraint. A Communist party member asked Hồ Chí Minh, “Dear Uncle, why let those murderous traitors live? Please just give the order and we will liquidate all of them in one night.” Ho just smiled. ”If there was a mouse in this room, would you throw a stone at it or try to catch it? Using a stone will break precious things. To achieve great work, we must have farsightedness.”
The Nationalist-Communist friction might conceivably have stopped right there, allowing Hồ Chí Minh and the leaders of the Nationalist parties to avoid civil war. In previous times, as exiles in China, the two had shared dangers, and Nationalist leaders Nguyễn Hải Thần and Vũ Hồng Khanh had helped save the life of Hồ Chí Minh by intervening in Liuzhou, China with the Nationalist Chinese general who detained him. After capturing power in the August 1945 Revolution, Hồ Chí Minh tried to win the cooperation of the Nationalists for the new government before the returning French sowed disunion.
Hồ embraced Nguyễn Hải Thần of the Vietnam Revolutionary Alliance (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội) and implored the Nationalist parties to cooperate with him. The Provisional Coalition Government of Vietnam included representatives of the Nationalists, such as Vũ Hồng Khanh of the Vietnam Nationalist Party (Việt Nam Quốc Dân Đảng, or VNQDĐ), Nguyễn Tường Tam of the Đại Việt (Greater Vietnam) group, and Nguyễn Hải Thần of the Vietnam Revolutionary Alliance. The government, if coupled with Hồ Chí Minh ‘s restraining his Communist cadres from assassinating the Nationalist leaders, could have avoided the civil war. (159)

Unfortunately, later in 1946, while Hồ Chí Minh was attending the Fontainebleau Conference in France and at the same time trying to invite Nationalist intellectuals in France to come home to help Vietnam, lower-level Communist leaders back in Vietnam such as Võ Nguyên Giáp, then Minister of Interior), ordered Việt Minh assassination squads (Bạn ám sát) to kill the Nationalists and destroy their headquarters and hinterland bases. By that time, the Nationalists no longer had the protection of the Nationalist Chinese generals. The Fontainebleau Agreements were a proposed arrangement between France and the Vietminh, made in 1946 before the outbreak of the First Indochina War. The agreements affiliated Vietnam under the French Union. At these meetings Ho Chi Minh pushed for Vietnamese independence, but the French would not agree to this proposal.
In the North, the Nationalist leaders who were killed or made to disappear were Ly Dong A, and Khai Hung and Truong Tu Anh, who set the example of an ascetic life and who slept in a bed made out of a window, according to his assistant, Bùi Tường Huân, who was later a Sài Gòn Law School professor), As for Vũ Hồng Khanh and Nguyễn Hải Thần, they had to flee to China.

In the South, leaders of the Trotskyite Fourth International such as Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Lương Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, and Trần Văn Thạch were killed or made to disappear. Non-Communist leaders were also liquidated. These included Hồ Vân Nga, Huỳnh Vân Phương, Dương Văn, Hồ Vĩnh Ký, Henriette Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Phú Sổ, and other Cao Đài and Hòa Hảo notables. When the South’s National Assembly met on October 28, 1946, only 291 of the 444 representatives were present, and only 37 of the 70 representatives of the Vietnam Nationalist Party and the Vietnamese Revolutionary Alliance came, the others having been arrested. Later on, the 34 attending members also disappeared. Consequently, the Nationalist parties took an anti-Communist path. Some ran for cover (“chùm chăn”) i.e., became inactive, and, later, many adopted the Bảo Đại solution, joining the camp of the ex-Emperor.

I cite this long list of victims of the Việt Minh’s liquidation campaign to provide evidence for an objective historical evaluation of the Leninist terrorist strategy the Communists used to monopolize political power, which was the root cause of Vietnam’s civil war and involved the loss of leaders who could have contributed to the nation’s development.
This terrorist strategy was not necessary for the Việt Minh’s ascendancy, which could have been achieved via electoral majority — as in Hitler’s takeover of the Weimar regime or Putin’s hold on power. The terrorist strategy only damaged the Việt Minh’s status as the standard-bearer for Vietnam’s struggle for independence against the French. After many French provocations, it was only on December 28, 1946, that the Vietnam Resistance Government, the successor to the Provisional Coalition Government, withdrew from Hanoi into the hinterland.)

It is also true that the Provisional Coalition Government of Vietnam could have continued with the sharing of power between Nationalists and Communists without changing a civil war into an internationalized war by proxy, if there had been no intervention in Vietnam’s political and military arenas by France, Great Britain and the Republic of China.
As for the United States, it could have aided Vietnam’s struggle for independence under the Provisional Coalition Government of Vietnam if it had intervened earlier and more properly in accordance with President Roosevelt’s desire to prevent a French return to Vietnam. Once Roosevelt had passed away and was replaced by President Truman, the U.S. ignored Hồ Chí Minh’s eight letters to U.S. Presidents and Secretaries of State requesting support against the French attempt to return to Vietnam. Truman thought the U.S. needed France in the incipient Cold War against the Soviet Union.

French forces were helped in their reoccupation of South Vietnam by the British army, which was in Indochina to disarm the Japanese. Pursuant to the Chunking Agreement of February 28, 1946, between France and the Republic of China, which provided among other thingsfor disarming the surrendering Japanese troops in North Vietnam ‒, France brought military units to North Vietnam. U.S. vessels brought the French expeditionary forces Hải Phòng and Sài Gòn, that is, both to North Vietnam and to the South.

By way of background, on March 6, 1946, France and North Vietnam concluded a Preliminary Agreement in Fontainbleau, France, whereby France recognized North Vietnam as a “free state” within the French Union with limited powers, and North Vietnam agreed “to receive the French army in friendly fashion” in relief of Chinese forces. The agreement was signed by Hồ Chí Minh representing North Vietnam, Vũ Hồng Khanh, the delegate of the North Vietnamese Council of Ministers, and Jean Sainteny, the delegate of Admiral Georges Thierry d’Argenlieu, the High Commisioner of France in Indochina. (160)

On September 14, 1946 in Paris, France and North Vietnam issued a joint declaration and concluded a modus vivendi. The joint declaration stated that the Fontainbleau Agreement of March 6, 1946, was still in effect. The modus vivendi provided provisional solutions of urgent problems, including reciprocal recognition of “democratic rights” and property rights, and a cease-fire in Cochinchina. The joint declaration and modus vivendi were signed by Hồ Chí Minh and Minister of Overseas France Marius Moutet. (161)  France sided with the Viet Minh in the latter’s anti-Nationalist activities. France considered the Nationalists’ position extremist, as they had vigorously opposed the Preliminary Agreement, the Joint Declaration and the Modus Vivendi.

For their part, the Vietnamese Nationalists protested Ho’s accommodations with the French. They condemned, for example, North Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Tường Tam’s absence at the signing of the Preliminary Agreement. They also leveled the serious charge of “traitor” against Hồ,who had to present an explanation in Hà Nội at the Grand Opera House, where he swore, “I would rather die than sell out my country.”
The civil-war character of the Vietnam War was revealed by, among other things, the fratricidal murders in later years, the atrocious land reform of 1953-54 in North Vietnam, and the killing of innocent people in Huế during the 1968 Tet offensive.

As for the internationalization of the Vietnam War, we must say that at the start it was not a war by proxy, because the Việt Minh government, on its own initiative, resisted the French attempt to take back Vietnam. This was a war of national liberation in which all Vietnamese patriots participated, not one in which the Soviet Union or Communist China entrusted the fighting to the Vietnamese. (Stalin, in fact, still treated Hồ Chí Minh badly, as revealed in Kruschchev ‘s memoirs; and Mao’s forces were still busy fighting Kuomintang China and had not yet reached the border of Vietnam.) French President François Mitterrand visited the unified Vietnam in 1993.. Speaking at Điện Biên Phủ, he regretted that France had made the mistake of returning to recolonize Vietnam in a war the Vietnamese people considered a war of national liberation.

Later, the French commander-in chief in Indochina, General Jean de Lattre de Tassigny, saw that the 280,000 men of the French Far East Expeditionary Corps could not do the job by itself. He thus allowed the Nationalist Vietnamese in the Bảo Đại camp to have a 70,000-man army, which was mobilized by the French. Before then, the French colonialists wanted to fight the war by themselves. In 1946, they brought Emperor Duy Tân from his place of exile to Paris, but his plane crashed in Africa under suspicious circumstances. Later, the French debated brushing aside Bảo Đại and using Queen Nam Phương as Regent, but finally settled on the Bảo Đại solution.
When in 1954 the Americans replaced the French in Vietnam in support of Ngô Đình Diệm, Vietnam was engaged more fully in a civil war in which each side had its own distinct territory, government, and population. The war, however, became more internationalized and more of a war by proxy. North Vietnam took on the international mission of spreading communism with the help of the Soviet Union and China in addition to the task of struggle for national unification for the Vietnamese. Vietnamese Communist Party General Secretary Lê Duẩn said: “Our fight is the fight for the Soviet Union and China.” South Vietnam, at the same time, was called an outpost of the Free World by some Americans, who entrusted the country with a mission, but a limited one. The Vietnamese were assigned a territorial-defense role only when the war reached its most intense stage.
At the beginning, the U.S. government’s decision to engage in the war was supported broadly by the press and public opinion; thus, the Americans started as advisors, then sent U.S. Army Special Forces, and finally dispatched tactical ground combat troops who, among other things, launched ”search and destroy” operations.
At its peak in 1968, the American military presence was 536,000 men and women on the ground. About 2,700,000 American men and women served in Vietnam from 1957 to 1975 with, in addition, the Navy and the Air Force operating from the 7th Fleet and Thailand. (162)

In his memoir, South Vietnam’s former ambassador to Washington, Bùi Diễm, described the way the Americans invited themselves into the War in 1965. After field observation visits, U.S. Defense Secretary McNamara and the U.S. Chairman of the Joint Chiefs of Staff asked Diễm to draft a “letter of invitation” requesting American troops for Vietnam, bypassing both the U.S. Congress and the American people. This American self-invitation was buried in the joint communiqué prepared by Diễm, then a minister in the Vietnamese Prime Minister’s Office, to save South Vietnam’s face. Even then-U.S. Ambassador to Vietnam, General Maxwell Taylor, was taken by surprise. Almost all of South Vietnam’s military and civilian officials opposed the Americanization of the war, just as President Diệm in his tenure had opposed the debarkation in Vietnam of American combat troops.But the Americans came and then, finally, disengaged. Their departure began to happen when rising U.S. casualties appeared vividly on American TV screens, stoking the antiwar movement, first among the young and then more widely, and giving popularity to the idea of withdrawal from the war and the return of American prisoners.
The growing unpopularity in the United States of the war helped give traction to the strategy of Vietnamization within the Nixon administration. By that time, however, even the survival of South Vietnam as a nation-state was no longer of concern to many Americans. The idea of entrusting the war effort to the Vietnamese, with American assistance and war-materiel support for the defense of what some called a bulwark of The Free World, was abandoned by the U.S. after the signing of the Paris Peace Accords, the return of the prisoners of war, and the improved relations with China and the Soviet Union, the main powers on the other side.
A lesson: a small country entrusted with a military role by a big power, or assisted by that power, should think in advance about what to do when the big power abandons it and the small country has to sign a separate peace agreement or resort to some other strategy to defend its national interests. With this in mind, let us look back to 1956. If President Diệm had not regarded as part of his role to be an American-imposed bulwark of the Free World, but had followed a more independent path, he could have begun negotiations with North Vietnam, in accordance with the with the unsigned Final Declaration on Indochina of July 1954, to organize “free general elections by secret ballot” in 1956 under the supervision of the International Supervisory Commission. (163) If so, there might have been no Vietnam War, but instead, there might have emerged a unified Vietnam wherein Communists and Nationalists had to coexist peacefully, at least relatively so, tolerating setbacks such as assassinations. That solution might be called, “A tense peace is better than war,” and could have been a creative way to avoid war. More on this later.
As for the United States, one lesson from the Vietnam War is to avoid sending combat troops to fight a land war that could result in American casualties, lead to antiwar protests at home, and produce a quagmire with no respectable exit. For South Vietnam, that could have meant war-materiel support, but no deployment of ground combat units, as a U.S. contribution to the deterrence of Communist expansion. The tiger fighting for its own survival in its own territory has every incentive to fight for its self-preservation. The U.S. should think out in advance an exit strategy for any conflict in order to satisfy the American public and to counter an enemy’s protracted conflict strategy, such as that of the Chinese Communists under Mao, who talked of a “ten-thousand-year war,” or the Islamists of today. This lesson from the Vietnam War concerns the optimum strategy of entering and exiting the war, and not the war’s objective, which was to deter or limit Communist expansion in Southeast Asia. That objective was a valid one, and it succeeded to a degree. Although the domino theory – that other Southeast Asian countries would fall to communism after Vietnam fell ‒ did not happen, the American intervention gave them time to consolidate themselves. There was also a certain psychological domino effect in the area of disrespect for American determination elsewhere in the world after 1975, and it might have contributed, for example, to the detention of American diplomats in Iran. As for the leaders in North Vietnam, they considered themselves revolutionary pioneers in Southeast Asia, became overambitious in their desire to assist other communist parties in Cambodia, Laos, Thailand and elsewhere. According to archives of the Soviet Union, declassified after its dissolution, weapons from Vietnam were delivered to Africa via Cuba.
But Vietnam’s overstay in Cambodia (more than 10 years), after completing the praiseworthy mission of freeing it from the genocidal Pol Pot regime, and its failure to turn power over to the Cambodian people, led Vietnam into a quagmire and earned it China’s hostility for many years. This damaged Vietnam’s security interests and led to the border war launched by China in 1979 to, in the words of Deng Xiao Ping, “teach Vietnam a lesson.” Vietnam’s Cambodian adventure has been called “Vietnam’s Vietnam.”
On the other hand, the U.S., as a big power, overcame its Vietnam syndrome and is still the dominant superpower. It was able to take revenge against Vietnam by isolating the country by implementing in 1975 a punishing trade embargo that lasted until 1994.. Vietnam, for its part, pushed for better relations with the U.S.
The transition from enemy to friend was made clear in many declarations, especially the 2005 observation by U.S. Ambassador to Vietnam Michael Marine that, after a period of dark relations, “…it is clear now that Vietnam and the U.S. have no strategic differences,” and that “the U.S. respects the sovereignty and territorial integrity of Vietnam and will resist firmly all plots to sow disunion or threat at the borders of Vietnam. We have many common interests in regional and world security. Our current defense cooperation is the first step toward our common confrontation with the security challenges of the 21st century.”

2. The second lesson: War should end with a negotiated peace, a political solution that sees an end to the intransigence that is appropriate for war but not for peace.

South Vietnam was a small country under the tutelage of a big power, the United States, which became a paper tiger at the end for being unwilling to continue supplying weapons to South Vietnam. At the same time, South Vietnamese President Thiệu responded unrealistically to the signing of the Paris Peace Accords in January 1973 with his “Four No’s” (Bốn Không), including no coalition government with the Communists, despite his weak military position. (164) When Stalin asked, “How many divisions does the Pope have,” he was pointing out that moral legitimacy without military force is ineffective in time of war. For Vietnam, the right path was a comprehensive political strategy based on accommodation.

If President Diệm had agreed with North Vietnam to national elections in 1956 in both parts of Vietnam in accordance with the unsigned Final Declaration of the Geneva Conference on Indo-China of July 1954, , there might have been a national assembly in which South Vietnam had at least nearly half the delegates. This could have resulted in a unified Vietnam in which the two sides coexisted under the observation of the international community.
Moreover, the Vietnam War (1960-1975) could have ended with a negotiated peace agreement with national elections to follow, as provided by the 1973 Paris Peace Accords, but President Thiệu worried too much about such elections and resisted preparing and organizing for them. ) (165)
At the beginning of 1975, Nguyễn Văn Hiếu, a delegate of the National Liberation Front (the Việt Cộng) at the Paris Peace Talks, asked South Vietnamese General Trần Văn Đôn to relay to President Thiệu a request to include the Front in President Thiệu ‘s cabinet and to form a coalition government to resist Hanoi’s controlling influence. Thiệu told Đôn to check with the Americans, and Đôn said later that the Americans had rejected that solution. In other words, Thiệu did not dare adopt a political solution crafted by North Vietnam.
There was another time, in 1971, when Thiệu reacted similarly. U.S. Assistant Secretary of Defense for International Security Affairs G. Warren Nutter, a former professor of economics at the University of Virignia and a teacher of Dr. Nguyễn Tiến Hưng , asked Dr. Hưng, then an advisor to Thiệu , to suggest to Thiệu that South Vietnam should have an independent initiative for a peaceful solution to the war. Dr. Hưng proposed that Thiệu seek trade relations with the North and a rail line between the North and the South to create one market and to develop the Mekong Delta.
Thiệu mentioned these points in an October 1, 1971, election speech. But he still worried about the American reaction, and ordered that it be checked with the U.S. State Department. The American answer was “too late,” and Secretary of State Kissinger cabled U.S. Ambassador to Vietnam Graham Martin that all negotiations had to be between the United States and North Vietnam, and must take place in Paris. Thus, Thiệu did not dare invoke national sovereignty or try to persuade the United States to follow his small country’s initiative, and thereby was pulled along in a war that was really conducted by the big power. (President Diệm had been a little better. Although he agreed with the United States not to hold elections throughout Vietnam in 1956, he resisted foreign combat troops in Vietnam and at one point sent his counselor, Ngô Đình Nhu to central Vietnam to talk peace in secret with a North Vietnamese emissary, Phạm Hùng.)
Obsessed with his rigid and unrealistic policy of the Four No’s, and consequently eschewing negotiation and accommodation, and relying on only his hope for American B-52 bombers and logistical support if attacked, Thiệu resigned when the Americans drew down their military support and pressured him to resign. Thiệu went on national television on April 21, 1975, announced his resignation, and excoirated the Americans for the “inhumane act” of refusing “to aid an ally” and for “abandoning” South Vienam. (166) At this point, South Vietnam’s armed forces lost their morale.

In April 1975, every day I called my cousin, Colonel Nguyen Mong Hung, chief of the Fifth Bureau of the South Vietnamese High Command, in hopes that he would tell me the real situation. In a weak, dispirited voice, he murmured: “ Tài! The soldiers no longer fight!” (Previously, they had fought valiantly to repel the North Vietnamese attacks at Tết 1968 and in the 1972 battle of Quang Tri.) I asked officials in the political section of the U.S. Embassy, and they told me that satellite photos showed that military trucks and tanks were moving southward, bumper to bumper. The North Vietnamese probably knew that there would be no retaliation by the Americans, despite Nixon’s promises to Thiệu . Thus, the U.S. had decided to leave South Vietnam, to grant far-reaching concessions in the Paris Peace Accords that permitted North Vietnamese troops to remain inside South Vietnam in exchange for the return of American prisoners of war as demanded by the American public, and then discontinued the promised supply of arms to South Vietnam. Finally, the Americans even objected to the use of American economic aid funds to pay the salaries of the South Vietnamese armed forces and police.
President Gerald Ford during an address at Tulane University on April 23, 1975, declared: “Today America can again regain the sense of pride that existed before Vietnam. But it cannot be achieved by refighting a war that is finished ‒ as far as America is concerned.”167 By 1975, however, the last year of this civil war, the Communist troops were receiving maximum help the Chinese and Soviets in terms of the arms, trucks and tanks used in their rush to Sài Gòn. Today, America can regain the sense of pride that existed before Vietnam.
The authority to settle between 1973 and 1975 the Vietnam War in should have belonged to the partner that shed blood, South Vietnam, and should not have been vetoed by the big power that was fading out of the picture. President Thiệu could have adopted a more independent war-and-peace strategy that took into account South Vietnam’s sovereignty and interests, and dared direct negotiation between North and South Vietnam, probably through the good offices of France, and put the Americans before a fait accompli. Despite the American disengagement during 1973-1975, President Thieu was still afraid of a coup d’etat and murder similar to those terminating the Diem regime.”
Adhering too faithfully, out of fear, to the demands of the big power would never have guaranteed that power’s friendship or respect, and therefore did not support the small power’s interests. If Thiệu had started working on a separate peace with North Vietnam early in the period of American disengagement (1973-75), a political compromise might have been found that would have avoided the decision of North Vietnam in 1975 to launch an all-out military push on Sài Gòn. The need for policy autonomy by a small power also applies to North Vietnam. During both the Indochina War (1945-54) and the Vietnam War of 1960-1975, North Vietnam depended on military and economic aid from the Soviet Union and China, whose interests were not necessarily the same as those of North Vietnam, which later discovered that following its own interests might have been more advantageous. Specifically, North Vietnam found it might be have been better off escalating the fighting, contrary to the wish of the big powers.

The 1954 Geneva Accords imposed the big powers’ decision to divide Vietnam into two parts at approximately the 17th parallel, with reunification awaiting elections in 1956. This plan was only reluctantly accepted by North Vietnam, whose representative, Tạ Quang Bửu, demanded that the line of partition be at the 13th parallel as the just prize for victory over the French at Diên Biên Phu. Chinese Prime Minister Zhou Enlai, however, worried the Americans would jump in to help South Vietnam, Laos and Cambodia in response to such a demand.
After consulting French Prime Minister Pierre Mendès France, Zhou Enlai proposed that North Vietnam refrain from more offensives and withdraw from Cambodia and Laos. Zhou Enlai also promised Cambodia and Laos that they would be put under the influence of China, not of North Vietnam. And he accepted partition at the 17th parallel, not the 16th , as Hồ Chí Minh had suggested in a previous meeting in Liuzhou. The Soviet Union also wanted partition at the 17th parallel.
In 1956, South Vietnamese President Ngô Đình Diệm refused to hold talks for national elections for reunification on the grounds that South Vietnam had not signed Final Declaration of the Geneva Conference on Indo-China. The United States supported Diệm’s position.
North Vietnam felt that its goal of reunification had been frustrated by the big powers’ arrangement at Geneva, even after its victory on the battlefields in 1954. North Vietnam, therefore, planned to pursue unification later. When Zhou Enlai asked Võ Nguyên Giáp in 1954, ”If the Americans do not intervene, how long it will it take to defeat the French and unify the country,” Giap answered, “only two more years.” After about six years of only a relatively low-level insurgency, North Vietnam in 1960 created the National Liberation Front, which launched the Vietnam War of 1960-1975 .
During the Vietnam War, China seemed unenthusiastic about Vietnam’s reunification. For example, Mao said: “Our Vietnamese comrades’ broom does not have a handle long enough to sweep up all Vietnam.” And Zhou Enlai once told Ngô Đình Luyện, the South Vietnamese Ambassador to the United Kingdom, that China wished to see him in Beijing as Ambassador. Although China provided food and weapons aid to North Vietnam for the war, it never wanted a strengthened, unified Vietnam capable of challenging China. North Vietnam, therefore, relied more heavily on Soviet arms aid for military campaigns like the 1968 Tet Offensive and the 1975 invasion. In any event, Soviet and Chinese military aid allowed Lê Duẩn to pursue a military solution. As long as a big power does not dare use its overwhelming force to reduce to the stone age a stubborn small country that is willing to fight “a thousand-year war,” the small country has a chance at final victory. But if the big power dares to use maximum force, the small power that pushes its ambition too far without searching for a negotiated peace will be defeated. For Vietnam in the period 1975-90, its ambition to be the dominant power in Southeast Asia was defeated by the long resistance of the Pol Pot forces with determined Chinese support. After sacrificing men and materiel in to support North Vietnam in its war against the United States, China responded to Vietnam’s intervention in Cambodia by an invasion of northern Vietnam in February 1979. The Chinese troops withdrew in March 1979, but border skirmishes continued throughout the 1980’s. Armed conflict only ended in 1989 after the Vietnamese withdraw their troops from Cambodia. After the collapse of the Soviet Union in 1991, Vietnam and China normalized both party-to-party and state-to-state relations. Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Cơ Thạch declared that from then on, Vietnam would not send young men abroad for war.

3. The third lesson: War should be referred to the people as the ultimate arbiter. War should not be between armed forces directed solely by generals and their leaders but should be supported by the population as a whole, who should be consulted when war is declared and when peace is negotiated.

Modern war often drags in the whole population. Especially in a democratic society, families across the nation must approve a war or the government will not get popular political support for it. The United States Constitution gives Congress the power to declare war. On August 7, 1964, at the request of President Johnson, Congress passed the Tơnkin Gulf Resolution, which Johnson signed into law three days later, and which stated that “Congress approves and supports the determination of the President, as Commander in Chief, to take all necessary measures to repeal any armed attack against the forces of the United States and to prevent any further aggression.” President Johnson, and later President Nixon, relied on the resolution as the legal basis for their military policies and activities in Vietnam. (168)
The resolution was supposedly passed in reaction to two attacks by North Vietnamese torpedo boats on the U.S. destroyers Maddox and C. Turner Joy in the Gulf of Tonkin on August 2 and August 4, 1964. In 1995, Võ Nguyên Giáp, who had been the North Vietnamese Defense Minister at the time of the supposed attacks, acknowledged the August 2 attack on the Maddox but denied that the North Vietnamese had launched another attack on August 4.169 It was later revealed that the U.S. administration had drafted the resolution six months before the supposed attacks on the U.S. destroyers.170 The resolution was repealed on January 13, 1971. Toward the end of the war, when popular support for it had declined, Congress on November 7, 1973, passed the War Powers Act over President Nixon’s veto to restrict presidential war powers.
There were two basic mistakes in the Vietnam War strategy of the United States: The first mistake was the decision to escalate the war gradually to produce a graduated deterrent effect. There was no strategy to win a rapid victory in a few months with overwhelming firepower and to avoid tiring out both the Vietnamese and American people in a protracted conflict, which is the usual strategy of the Communists. The error of not trying to achieve a decisive victory within a short time to take account of the lack of patience of the American public was shown in the protracted Paris peace talks. The long wait for a negotiated peace yielded only a leopard-skin cease-fire in place followed eventually by the hasty withdrawal of the Americans in the wake of the Communist offensive ending on April 30, 1975.
The second mistake was the lack of popular participation in the constitutional process, including a declaration of war by Congress. There should have been a better strategy for mobilizing American public opinion. But President Thiệu revealed President Nixon’s letters of support only in the last days of the War when he gave some of them to Professor Nguyễn Tiến Hưng, when he sent him to United States for a last-ditch appeal for help. Before that, Vietnamese Senate President Trần Văn Lắm, Vietnamese House of Representatives President Nguyễn Bá Cẩn and Vietnamese Foreign Minister Vương Văn Bắc advised that the South Vietnamese should not protest the decrease in American aid too loudly or base their position on Nixon’s letters. lest South Vietnam be accused of interfering in U.S. domestic affairs. But it was they who did not understand the U.S. political system. A president’s letters of commitment were valid state papers that should have been published and shown to the U.S. Congress as a way to rally congressional and public support.
As for South Vietnamese popular support, President Thiệu should have presented the secret Nixon letters to the National Assembly to enable the representatives of the people of Vietnam to appeal to the U.S. Congress in a kind of people-to-people diplomacy. Without the above actions, South Vietnam was subject to United States diplomacy, which in the final analysis disregarded South Vietnamese public opinion.
Without the above actions, South Vietnam became the victim of the kind of one-man-show diplomacy of Kissinger, who followed the diplomatic style of early 19th century European leaders Metternich and Talleyrand, the powerful foreign ministers who at the Congress of Vienna in 1814-1815 rearranged, without consulting the people’s representatives, the European chessboard nine days before Napoleon’s defeat at Waterloo in 1815.On the other hand, the Vietnamese Communists appreciated the importance of popular support. They used the terms “people’s war, people’s army,” words repeated in a book by General Võ Nguyên Giáp. The Vietnamese Communists were worried by a budding democratic regime in the Republic of Vietnam, by the election of a Constitutional Assembly that enacted a constitution in 1967, by the elections for the Senate and House of Representatives in 1967, and by the elections for half of the Senate in 1970,all with the enthusiastic participation of all strata of the people, including the various religions and political parties.
Especially noteworthy was the opposition religious bloc that had boycotted the regime previously for suppressing its struggle for a constituent assembly, the Ấn Quang Buddhists. ThAis bloc had the greatest mass following among the population. South Vietnam’s democratizing activities had the support and encouragement of the American Ambassador, Ellsworth Bunker, a diplomat with a dignified appearance and an intense focus on democracy-building in South Vietnam and a desire to reduce the government’s military character to help it gain more legitimacy and popular support. He had help from U.S. Embassy political officers, who contacted domestic groups, including Catholic and Buddhist forces.
One prominent civilian leader with the ability to increase popular support for the regime was the charismatic law professor Nguyễn Văn Bông, Rector of the National Institute of Administration, which trained middle-to high-level civil servants. Bông wrote about democracy and about a loyal opposition. Bong had a large following within the national administrative apparatus. He and colleagues such as professor Nguyễn Ngọc Huy organized the National Progressive Movement (Phong trào Quốc gia Cấp tiến).
Ambassador Bunker said Professor Bông was a household name in Vietnam. When Kissinger came to visit President Thiệu to encourage the naming of Professor Bông as Prime Minister, the Communists assassinated him, using men directed by the R Office (the Communists’ core leadership group in the South) to firebomb his car as he was driven home from his office. Among the Vietnamese Communists, there were some wise ones who did consult the people on the issue of war and peace. After Vietnam invaded Cambodia in 1978 ‒resulting in China launching a bloody border war to “teach Vietnam a lesson,” in the words of Deng Xiaoping ‒ Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Cơ Thạch said that Vietnam would never again send young Vietnamese abroad to fight. Thach’s position on disengaging Vietnam from Cambodia while protecting Vietnam’s interest in a different way than the Chinese way did not endear him to China and caused China to encourage the Vietnamese Politburo to force his retirement.

4. The fourth lesson: if peace is to be enduring, war should end with reconciliation.

Post-war reconciliation requires humanity, modesty and reason from all sides, including the winning side. The Communists and Nationalists should have followed the example of Nelson Mandela in South Africa on how to address the war’s aftermath and achieve reconciliation.. What might have been done?
On April 30, 2005, i.e., 30 years after the downfall of South Vietnam, I published an article on the website Talawas calling for reconciliation among Vietnamese in the spirit of and following the example of Nelson Mandela of South Africa. On December 5, 2013, the whole world mourned the passing of Mandela, the world’s model of a peaceful liberator and conciliator. Speaking to media such as the BBC, many Vietnamese wondered why Vietnam had not had the luck to adopt such a pathway to reconciliation. The Vietnamese Communists might have opened their doors to welcome back overseas Vietnamese for visits, trade and investment. They could have worked to attract experts to return to help national development. The children of high Vietnamese officials could have gone to the United States and other countries to learn about the strength of Western capitalism. Now, this is happening. (I myself heard then-Vietnamese Vice-Premier Phan Văn Khải, at a dinner thank Harvard for being the first American university to welcome Vietnamese students.) Vietnam could have adopted policies that permitted citizens to make their living freely and to keep what they earn within a market economy. These are ideas advocated by South Vietnamese expatriates.. The adoption of these ideas in Vietnam today, ideally with expatriate help, could help the overseas Vietnamese recover from the humiliation of clandestine flight and escapes by sea, and make use of the successful careers they have built in the United States and elsewhere. In this way, both sides could be said to have won.
But there is still one obstacle to reconciliation: the wounds remaining from the long years of internment in “reeducation” camps (i.e., concentration camps). The Vietnamese Communist Party, for all its success in battle, has not been enlightened or generous enough to follow Lincoln’s advice at his Second Inaugural Address on March 4, 1865, shortly before the end of the American Civil War:
“With malice toward none, with charity for all, with firmness in the right as God gives us to see the right, let us strive on to finish the work we are in, to bind up the nation’s wounds, to care for him who shall have borne the battle and for his widow and his orphan, to do all which may achieve and cherish a just and lasting peace among ourselves and with all nations.”
The result is that the overseas Vietnamese who spent years in concentration camps after 1975, and their families, cannot forget the suffering, the ruined health, the social dislocation or the painful readjustment to life after their internment that in some cases included the loss of wives and children.
Among the ordinary citizens of Vietnam, especially among relatives and friends on both sides, reconciliation has been easy; there have for some time been many cases of families reuniting after decades of living apart, full of tears and laughs, with no more estrangement. The younger generations especially, not yet born or still children when the war ended, have merged naturally with one another when overseas Vietnamese returned home, or when people have left Vietnam to go abroad for study or other reasons. Indeed, romances have sometimes developed.

But closure requires an official apology from the high officials of government responsible for the cruelty of the re-education camps instituted in 1975. Many of these officials were in their thirties and forties in 1975, and are now in their seventies or eighties.. Only with the issuance of such an apology will the overseas Vietnamese sigh, “That’s it,” and be willing to bring their money, talent, and even their family members back to Vietnam for nation-building.
Đỗ Mười, former General Secretary of the Vietnamese Communist Party, named two policy mistakes: (a) the 1953 to 1955 land reform that violated the rule of law, according to Professor Nguyễn Mạnh Tường and others, and the 1979 anti-bourgeois campaign that destroyed businesses and delayed Vietnam’s growth for a generation.
Đỗ Mười may have been the right person to make such an apology, since he towered over other leaders in age and political seniority. Other high-level Vietnamese leaders have made gestures of reconciliation. Including former North Vietnamese Public Security Minister Trần Quốc Hoàn, and the old Nationalist politician Vũ Hồng Khanh, who spent time in a re-education camp, and who, as indicated above, had long ago helped save the life of Hồ Chí Minh by intervening in Liuzhou, China, with the Nationalist Chinese general who detained him. There are other examples of Vietnamese leaders who at times at least voiced sympathy for their political opponents. Hồ Chí Minh, for example, said: “Ngô Đình Diệm is a patriot in his own way.”  And retired Vietnamese Communist Prime Minister Võ Văn Kiệt said: “It is about time we recognize the great contribution of many strata of Vietnamese patriots living inside the old regime, who are now still inside the country or residing overseas.” There are, of course, non-Vietnamese examples of apologies to advance reconciliation. The Japanese, after years of dragging their feet, apologized to the Chinese for the massacre of thousands of innocent people in Nanjing. (171) Pope John Paul II has apologized many times for the Catholic church’s behavior toward the Jews and the Russian Orthodox. There are also examples of winners extending a gesture of reconciliation. The Communist Party of China did so with its long-time foe, the Kuomintang (Nationalist Party of Taiwan), when Hu Jintao, General Secretary of the Communist Party of China extended a smiling welcome, to Lien Chan, Chairman of the Kuomintang,, when the latter visited the mainland in April 2005. (172) Chinese media promoted this visit as an important event in China’s national history. (Note that Taiwan also invested hundreds of billions on the mainland.)
After World War II, General MacArthur allowed the Japanese Emperor to remain on the throne. even though the American occupying forces would administer Japan. The United States provided reconstruction aid to Japan and Germany, which became close American allies.
In strictly military terms the United States was not defeated in Vietnam. Nevertheless, it decided on unilateral disengagement after the Paris Peace Accords. Thus, the U.S. could not impose peace terms and for a while, it suffered from the so-called Vietnam syndrome.
But then, with its superpower status, it was in a position to regain its confidence.

Reconciliation was, however, at first stopped by Vietnam’s ridiculous suggestion of American war reparations after the Communists had violated the Paris Peace Accords with their offensive of 1975. One result, as mentioned above, was that in 1975 the U.S. imposed a trade embargo on Vietnam that would last until 1994..
On April 9, 1991, U.S. officials had presented a “road map” to Vietnamese and Cambodian officials that called for the normalization United States diplomatic and economic relations over two years, provided that: (a) the Vietnamese increased their cooperation in accounting for U.S. personnel listed as missing in action (MIA); (b) Vietnam withdrew all its and advisers from Cambodia; and (c) U.N.-supervised elections and the seating of a new National Assembly took place in Cambodia. (173)
President Clinton lifted the trade embargo on February 3, 1994, after the Vietnamese government had increased its cooperation in finding the remains of the 2,238 Americans still listed as MIA’s and under pressure from U.S. companies wanting to do business in Vietnam. (174) On July 11, 1995, President Clinton announced the formal normalization of diplomatic relations.
During the roadmap period, from 1991 to 1995, the United States looked like the winner of the peace. It imposed conditions for reconciliation, and Vietnam was eager for normalcy after its wars in Cambodia and on its northern border with China. Moreover, during the Vietnam war, the United States, with some atrocious exceptions, such as My Lai, acted humanely toward the civilian Vietnamese. In fact, American civilian aid programs gained much goodwill among the South Vietnamese people. These programs even gained some goodwill from the North Vietnamese, who were so eager to reconcile with the Americans that they were willing to forgive the terrible destruction caused by wartime bombing. (175)
The advantages are obvious for the Communist Vietnamese regime of a reconciliation with overseas Vietnamese, who are scattered across all five continents. Only when their resentment over the re-education camps subsides, will Vietnam’s diplomats be able to roam the world easily and proudly, without meeting with boos and demonstrations. As for the recipients of the apology, i.e., the Vietnamese who suffered, what can we learn about them and for them? Some overseas Vietnamese are beyond reconciliation; no apology can make them forget the North’s murderous land reform program, the slaughter of innocents during the Tết offensive in Huế, or the destruction of the South’s middle class. Only the collapse of the Communist regime will satisfy them. For my part, I think that the majority of the people who were mistreated in the camps can and should gradually calm their anger, recognizing that they are, in their moral position, the final winners.

The victims should also make a distinction between the few implementers of the “re-education” policy and the great majority of the Vietnamese people. A Jewish woman who survived the Holocaust said at the 2005 anniversary of Allied victory, “We cannot attribute this crime to the whole German people,” and described her survival as the victory of all humane people against Nazi wickedness. In South Africa, Nelson Mandela, later President, declared, “Only by forgiving the past can we move toward the future.” In South Vietnam itself, when the hungry and ill-clad prisoners were paraded along the road from reeducation camp to work site, they were given food secretly by villagers who sought to relieve their pain.
Without forgiveness and national reconciliation, those overseas Vietnamese who remain angry will never enjoy visiting their fatherland, the streets or the villages where they grew up, or meet again their relatives and friends in Vietnam. At most, they will send back their wives and children; they themselves might go back clandestinely for a short visit.
Besides dealing with the re-education camp days, one must also be concerned about the future of the people inside Vietnam, so that they are able to live under the rule of law and enjoy their human rights. Today there is rampant discrimination, as exemplified by the report of an official trying to fine a disabled South Vietnamese veteran who was given a wheelchair by a foreign humanitarian aid agency without going through government channels. (176)
Overseas Vietnamese want their compatriots inside Vietnam, among them their relatives and friends, to be able to enjoy the democratic rights they have tasted abroad. Hồ Chí Minh himself copied from the American Declaration of Independence for that of Vietnam, and read from it in Ba Đình Square in Hà Nội on September 2, 1945. Overseas Vietnamese have, with the rule of law and democracy in their adopted lands of residence, turned themselves from wretched refugees into prosperous citizens, using the same creativity and productivity possessed by the Vietnamese in Vietnam. As for those who died in the war, the overseas Vietnamese, especially those with relatives and friends buried north of Sài Gòn in the Bình An Cemetery, formerly the Biên Hòa Military Cemetery, want reconciliation with the dead by the regime in the form of good maintenance of the cemetery and permission for loved ones to visit. The U.S. ambassador went there with a delegation to light an incense stick for the fallen soldiers to give an example of how reconciliation might proceed and how Vietnam might strengthen its reputation internationally.

5. The fifth lesson: South Vietnamese and American Presidential leadership was one factor in the Vietnam War’s outcome.

Did the assassination of President Diệm create the condition for the loss of South Vietnam to the Communists?
Some authors, such as Dartmouth College Professor Edward Miller, think the United States might have been better off backing Diệm. I disagree.
Miller thinks the United States had wrongly backed the 1963 coup, and that if Diem had survived, South Vietnam would not have been lost. But the fact is that, in 1975, the North Vietnamese won by brute force of arms and not via popular support; thus, even if Diệm at that point had had the support of the people, it would have made no difference. The North Vietnamese were determined to wage a protracted conflict, with the support of the Soviet Union and China, to a victorious end..
Meanwhile, there was the attrition of U.S. public support for the war that led to South Vietnam’s defeat. The mistake that led to the 1975 defeat was not Diem’s death 12 years before, but Johnson’s unwise, unilateral decision to introduce U.S. ground combat units into South Vietnam in 1965. This pre-empted a strategy of having the South Vietnamese fight their own war and handed the North Vietnamese the propaganda advantage of calling the South Vietnamese American stooges. President Kennedy, had he lived, might have done differently.
Diệm, moreover, would not have protected American interests, either by preventing the Vietnam war when that was possible, or by improving the legitimacy of the American effort in South Vietnam when the war had already started.
The war might have been prevented by consenting to elections in 1956 in accordance with the 1954 unsigned Final Declaration of the Geneva Conference on Indo-China, Elections leading to peaceful unification of the country would have given the North no reason to create the National Liberation Front in 1960 to carry out an insurgency, which was followed by full conventional war. If the North Vietnamese gained a a majority in the National Assembly, any internecine struggle would have likely involved low-level violence, but not full-scale war. Consequently, the United States. would not have been drawn into a civil war.. Moreover, the United States would have benefited only from a President Diệm with enough political foresight and courageous statesmanship to agree to a peaceful contest with Hồ Chí Minh in a national election.
By 1963, when Diệm had been overthrown, it was too late to persuade him to run a democratic government with respect for human and religious rights and with the ability to gain the people’s support for the war against the Communists. Diệm’s rule was autocratic and nepotistic. An American scholar called him “the last Confucian mandarin.” Diệm followed the old imperial practice of giving free rein to his brothers, and his whole clan trampled on the civil rights of the people.
In May 1963 in the Buddhist stronghold of Huế, Catholics were encouraged to fly Vatican flags to celebrate Archbishop Ngô Đình Thục’s 25th anniversary as a prelate. A week later, Buddhists were prohibited from hanging the Buddhist flag during celebrations marking the birth of Buddha. This resulted in a peaceful protest meeting of young Buddhists at the radio station, which the Army and security forces dispersed with bullets and grenades. Nine civilians were killed. (177)
This brutal suppression, added to previous years of discriminatory practices in favor of the Catholics, started six months of peaceful protests throughout South Vietnam, including a monk’s self-immolation that shook consciences around the world. Further suppression involved raids on many temples and the imprisonment of monks.
A younger brother of Diệm, Ngô Đình Cẩn, was a feudal overlord in Huế to whom civil servants had to kowtow and pay tribute. Another younger brother, Ngô Đình Nhu, Diệm was Diệm’s counselor (Ông Cố Vấn). Nhu’s wife, Trần Lệ Xuân (known as Madame Nhu or the Dragon Lady), wielded excessive power, including control of the feared secret police of the government’s Personalist Labor Revolutionary Party (Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Ðảng).
The Diệm regime’s suppression of Buddhist religious rights in 1963 provoked a major political crisis and helped deprive South Vietnam of the legitimacy and popularity necessary for waging war. In addition, the suppression of the Buddhists, together with the nullification in 1959 of the election of Dr. Phan Quang Đán, one of only two successful opposition candidates for the National Assembly, were clear examples of the Diệm brothers’ contempt for human rights and democracy. This reduced President Diệm’s legitimacy and stood in contrast to his wise resistance to the proposed introduction of American combat troops into South Vietnam. According to Dr. John Prados of the National Security Archive: (178)

  •  A White House tape of President Kennedy from October 29, 1963, “captures the highest-level White House meeting immediately prior to the coup [against Diệm].” The tape “confirms that top U.S. officials sought the November 1, 1963 coup against then-South Vietnamese leader Ngo Dinh Diem without apparently considering the physical consequences for Diem personally (he was murdered the following day).”
  •  “The documentary record is replete with evidence that President Kennedy and his advisers, both individually and collectively, had a considerable role in the coup overall.
  •  “The CIA also provided $42,000 in immediate support money to the plotters the morning of the coup, carried by Lucien Conein, an act prefigured in administration planning.”
  •  The NSC staff record of the discussion shows that Attorney General Robert F. Kennedy warned “against precipitate action” and was “seconded by Joint Chiefs of Staff chairman General Maxwell D. Taylor and CIA director John McCone.”
  •  In addition, the transcript of Diệm’s last phone call to U.S. ambassador Henry Cabot Lodge shows Lodge asking “what the attitude of the U.S. is” towards the coup then underway. Lodge “dissembled” that he was not “well enough informed at this time to be able to tell you.”
  •  The weight of the evidence “supports the view that President Kennedy did not conspire in the death of Diem.” Both Secretary of Defense Robert McNamara and historian Arthur M. Schlesinger, Jr. recorded that when President Kennedy learned on November 2 of the death of Diem, “Kennedy blanched at the news and was shocked at the murder of Diem.” Historian Howard Jones noted that “CIA director John McCone and his subordinates were amazed that Kennedy should be shocked at the deaths, given how unpredictable were coups d’etat.”

The South Vietnamese military were afraid Diệm might stymy the coup, as he had done in 1960, and then execute them. Consequently, they did not spare the life of Diệm, as Burmese General Ne Win and his followers had spared the life of Prime Minister U Nu, who was instead detained in an army camp from 1962 to 1966.

Although a fervent Catholic, it would be unfair to characterize President Diệm as an anti-Buddhist bigot. One of Diệm’s Foreign Ministers, the Buddhist Vũ Văn Mẫu, upon resigning in 1963 during the Buddhist crisis, received a moving good-bye from President Diệm:”Please let us not forget each other!”- “Xin đừng quên nhau nhé!”.Some of Diệm’s Buddhist as well as Catholic advisors had respect for Diệm’s devotion to a life of public service. And the murders of Diệm and his brother Ngô Đình Nhu created an enduring resentment not only among some Catholics and but also among some Buddhists. American support for the military leaders of the regime from 1963 to 1967 that followed Diệm was, in my opinion, morally and politically justifiable. So, too was Ambassador Bunker’s supporting 1967 for the creation of a civilian regime under a new constitution. This new constitution provided for a civilian President a National Assembly consisting of a Senate and a House if Representatives, and led to the mid-term senatorial elections of 1970 that saw the election of Buddhist-supported opposition senators, including Professor Bùi Tường Huân of Huế University and Professor Vũ Văn Mẫu of the Sài Gòn Law School.
The period from 1967 to 1971 was one of relative success for South Vietnam both militarily including the turning back of the 1972 Communist offensive, the recapture of territory in the lead-up to the Paris Accords, and democracy in South Vietnam from 1967 up to 1971 when President Thiệu ran a one-man election). This relative success at democracy-building occurred without Ngô Đình Diệm and with American help. Thus, the (hypothetical) survival of Ngô Đình Diệm as an autocratic, anti-democratic president from 1963 until 1975, alone, would not have saved South Vietnam for the U.S., as Professor Edward Miller implies. His rule during that period might have even worsened the situation.
What about the impact on the war of the leadership style of President Nguyễn Văn Thiệu? Many overseas Vietnamese have accused President Thiệu of contributing to the downfall of South Vietnam in the last days of the war by issuing confusing, inconsistent, and panicky military commands, and by ordering the withdrawal of the armed forces from the Central Highlands, Huế and Đà Nẵng. Overseas Vietnamese have also condemned his farewell speech to the nation on April 21, 1975 ‒in which, as stated above, he announced his resignation and excoriated the Americans for the “inhumane act” of refusing “to aid an ally” and for “abandoning” South Vietnam. (179)
Thiệu was a soldier-politician who did not rise to the level of statesman, due to his mistrustfulness, narrow-mindedness, and fear of overstepping and betraying his subordinates, as in his unreasonable, short detention of Special Assistant a Nguyễn Văn Ngan who had helped him organize the Democratic Party. He further showed his lack of statesmanship during the presidential election of 1971, during which he stopped the candidacy of Vice-president Nguyễn Cao Kỳ to avoid dividing pro-government votes in a contest that featured General Dương Văn Minh as the only other competitor. Professor Nguyễn Ngọc Huy, my university colleague, described Thiệu’s mistrustfulness to me later when we worked together at Harvard. “He would shake hands with others and, once at home, look at his hand to check whether he still had five fingers.” Thiệu distributed work in segments to different advisors, none knowing about other segments assigned to another advisor, as a way of controlling each advisor. This prevented the creation of a brain trust of talented advisors who might have pooled their knowledge to provide wise advice and long-range perspectives. The Paris Peace talks required knowledge of diplomacy, military strategy, economics, American politics, the Vietnam Communist Partys policies, and the situation in North Vietnam. Yet, Thiệu gave compartmented assignments to Phạm Đăng Lâm, Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Phú Đức, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Cao Kỳ, and Nguyễn Tiến Hưng. Even when working with one advisor, Thiệu would hold back the totality of documents and work issues necessary for that advisor to offer sound advice. For example, Professor Hưng said he was given the role of advising Thiệu on relations with the United States, but was not given briefings on the military situation; and when he was asked by Thiệu to go to the United States to appeal for military aid in the final days before the collapse, he was given only a few of the 30 secret letters from Presidents Nixon and Ford. Thiệu kept the others for himself, rather than sharing them with close advisors dealing with South Vietnamese national security.
Despite these criticisms, we must recognize that the people of South Vietnam—with the elites at the top, including the presidents–achieved remarkable nation-building successes during both the six-year period of relative peace from 1954 to 1960 and the long war-time period of 1960 to 1975.
The Vietnamese Communists learned from the Chinese Maoists) how to fight a war of national liberation, including how to conduct a peasants’ revolt and how to wage war against city areas. Based on lessons learned from the Chinese, the Vietnamese retreated to the countryside and highlands when the French returned to Hải Phòng and Hà Nội, and began the 1945 to 1954 Indochina War.
With Chinese coaching, the Vietnamese established a bloody land reform program soon after the establishment of the People’s Republic of China in 1949. Under the Vietnamese program, landless peasants were goaded by propaganda to a paroxysm of hatred against landlords for imaginary or exaggerated crimes. This led to executions of the landlords and the redistribution of their property, which induced the peasants to give their political support to the Communist regime.. So many bloody crimes occurred that Hồ Chí Minh himself had to agree to a rectification (sửa sai) campaign, during which the most ringing indictment against the reform program was a commissioned report by law professor Nguyễn Mạnh Tường. The report was so devastating that the regime discarded it and banished Professor Tường to live in isolation and hunger for the rest of his life.
By contrast, Presidents Diệm and Thiệu both pushed for a more peaceful land reform. Diệm sent officials to Taiwan to learn about the moderate land reform program carried out by President Chiang Kai-shek’s Kuomintang party. There, under the “land-to-the-tiller” policy, landowners received land bonds and stock in state-owned enterprises in return for transferring land to peasants. (180) Harvard scholars considered it one of the world’s ten grand strategies for national development.
The land reform programs of Presidents Diệm and Thiệudiffered. Diệm put equal emphasis on land redistribution and the reduction of land rental rates for tenant farmers. Thiệu emphasized confiscation of the land in favor of the peasants (“land to the tiller”) with fair compensation for landlords. He was very proud of his land reform program, which earned him the gift of a statue commemorating land reform successes from the country’s peasants as “a token of gratitude to the President.” (181)

Under Presidents Diệm and Thiệu, South Vietnam achieved some successes in the administrative, economic, social, educational and legal fields despite the ongoing war. A National Institute of Administration (NIA), for example, expanded over the years, and trained middle- and high-level civil servants in the same manner as the famed Ecole Nationale d’Administration in France. The Americans supported the NIA with the help of Michigan State University.
State enterprises were strengthened in banking, sugar, cement and other sectors. Private enterprise was also encouraged under the Center for Industrial Development. Foreign investment laws were promulgated, including oil and gas regulations, with the latter resulting in the discovery of oil in the South China Sea by Mobil Oil in 1973. (182)
Social reforms in South Vietnam included the enhancement of workers’ rights with modern labor laws and a strong labor movement, with leaders such as Trần Quốc Bửu, who received advice from the AFL-CIO. Also advanced was gender equality, which was already defended in Vietnamese traditional law, but further promoted by the new family law which was pushed by Trần Lệ Xuân (Madame Nhu) during President Diệm’s regime, and which abolished polygamy. Moreover, Vietnamese women’s economic activities blossomed as they replaced the men fighting the war.
Secondary and university education made remarkable progress, with new teaching and research approaches that better encouraged creativity than the French or North Vietnamese systems. In addition, new educational institutions were founded throughout the country, including both public and private universities.
The South Vietnamese government put in place new international trade and investment laws, as well as new civil, criminal, commercial, procedural, administrative, and labor law codes. By contrast, the Vietnamese Communists in North Vietnam, and from 1975 to 1986, throughout Vietnam, abolished law schools and governed with only a relatively few disparate laws, even though they had French-trained lawyers available.. Most law codes and economic and social laws came into being only later, starting with the Đổi Mới (Renovation) period of economic reform 1986, when the United Nations Development Program and then Western countries came in to help.
The achievements of South Vietnam in nation building during wartime were such a success that when Prime Minister Võ Văn Kiệt asked advice from Singapore Prime Minister Lee Kwan Yew after the Đổi Mới period started, Lee replied, “Just ask the experts who managed South Vietnam prior to 1975.” (183)

By the time of the Paris Peace Accords in 1973, the South Vietnamese, with American support, had achieved many civilian and military successes, including the retaking of Quang Tri in 1972 after bloody battles with the attacking North Vietnamese troops.
Another victory for the South Vietnamese in tactical military terms was the Tết offensive of January and February 1968, when the Communists suffered heavy losses and failed to produce a popular uprising. The South Vietnamese exploited this victory by consolidating control over most of their territory by the time of the Paris Peace Accords in 1973.
At the same time, however, the Tết offensive was a strategic political victory for the Communists, because it played a key role in turning American public opinion against the war. Many Americans thought the offensive showed that they had been deceived by their government’s overly optimistic portrayal of the military situation. Faced with diminished popular support, Johnson on March 31, 1968, announced on TV: “I shall not seek and I will not accept the nomination of my party as your President.” (184)
The South Vietnamese collapse came later, in 1975, mainly because of the phasing out of American arms aid between 1973-1975.
In foreign relations, the Republic of Vietnam, which lasted from 1955 to 1975, became an independent state within the meaning of the 1933 Montevideo Convention definition of a state, i.e., with territory, population, government and ability to conduct foreign relations, and was entrusted with the administration of the Paracel and Spratly islands in the South China Sea (Biển Đông) by the 1954 Geneva Accords. Thus, under international law, South Vietnam was one of the two Vietnamese states with a legitimate claim of sovereign rights over the Paracels and the Spratlys, buttressed by its record of having fought valiantly in 1974 against a Chinese naval attack and illegal occupation of the Paracels in order to hold on to its legal claim.

The Socialist Republic of Vietnam had to recognize South Vietnam’s sovereignty over the Paracels and part of the Spratleys in order to assert its own claim of sovereignty in its protest to the UN against China’s placement of the H981 oil rig on the continental shelf of Vietnam in 2014. The Socialist Republic of Vietnam (SRV) had, in other words, to acknowledge itself as the successor state to the Republic of Vietnam (ROV), thereby recognizing the ROV as a legitimate state, to advance the SRV’s own claim of sovereignty. (185)

Draft done on Patriots Day, April 16, 2018, in Massachusetts, USA

___________________________________________________________________________

Author Tạ Văn Tài, Ph.D. in Political Science/Foreign Affairs (University of Virginia), LL.M. (Harvard Law School), former professor, Law Schools of Saigon, Sài Gòn, Hue and Can Tho Universities, National Institute of Administration, Vạn Hạnh University, Political Warfare College and National Defense College, Vietnam; also former lecturer and research associate, Harvard Law School.


Notes:

(155)  “Vietnam Overview,” https://www.worldbank.org, accessed 13 August 2018.

(157) See my article “American money, Vietnamese blood,” published in the 1970 issue of the National Defense Journal (Tập San Quốc Phòng). There, and in my lecture at the Vietnamese National Defense College on President Nixon’s Vietnamization of the war, I predicted that when the Americans no longer had their husbands or sons fighting and risking death, they would be more stingy in providing military aid to South Vietnam, even as the Vietnamese continued to shed blood. I also opined that without the American backbone, the Southeast Asia Treaty Organization would be a paper tiger. Probably the high-ranking officers at the National Defense College agreed with me, although we still hoped for better days when we together visited an American aircraft carrier and armada in the South China Sea and listened to General Ngô Quang Trưởng , commander of South Vietnam’s First Army Corps, lecturing on his troops’ efforts to obstruct the infiltration routes from North Vietnam to Central Vietnam.

(158) This reduced objective was conveyed to me in April 1975 from Professor Bùi Trường Huân, Dương Văn Minh’s Minister of Defense and my brother-in-law.

(159) The story was told by Vũ Hồng Khanh in a reeducation camp after 1975 to his roommate, Colonel Bùi Thế Dũng, the author’s brother-in-law, who eventually relocated to Massachusetts after 12 years of detention. Colonel Dũng was named Deputy Minister of Defence in the short-lived Dương Văn Minh government, anh Khanh treated Dũng as one of his sons. Khanh said that in the early 1940’s, Hồ Chí Minh, then using the name Lý Thụy and pretending to be blind. was travelling with two young men from Pác Bó in northern Vietnam to Liuzhou in southern China when they were arrested by the Kuomintang army. The two young men escaped. Khanh later surmised they were Phạm Văn Đồng and Võ Nguyên Giáp. A Vietnamese named Lý Sanh then asked Khanh and Vietnamese Nationalist Nguyễn Hải Thần to approach the Chinese Province Chief General Zhang Fakui, for help.
At first, General Zhang said, “This Communist guy, we must cut him into two pieces,” but he later released Lý Thụy (Hồ Chí Minh so he could go stay with Khanh, Nguyễn Hải Thần and Lý Sanh. Khanh related that Nguyễn Hải Thần was fond of the lively [Noted from James Yellin: Hồ wq Vietnamese man, who was also trusted by General Zhang, who gave him work assignments. When, in 1943, the Vietnamese Revolutionary Alliance discussed sending someone back to Vietnam to set up a base for the revolution, Lý Thụy volunteered to be the man. Later, in 1945, when the Việt Minh seized power, President Hồ Chí Minh invited Vũ Hồng Khanh and Nguyễn Hải Thần to join the Coalition Government. It was only then, as they all sat together for lunch on a mat in the presidential palace in Hanoi, that they recognized that Hồ Chí Minh was the d man they had known as Lý Thụy and that the Vietnamese Communist Hoàng Văn Hoan was Lý Sanh.
Years later, in 1977, after Vũ Hồng Khanh had been arrested in South Vietnam and put in a re-education camp in the north, Minister of Security Tran Quoc Hoan visited him in the camp and ordered the release of Khanh and allowed him to live with his eldest daughter, then aged 53, who remained in North Vietnam after 1954, in their home province of Vĩnh Phúc. If, in 1945 and 1946, the Communist leaders under Hồ Chí Minh had treated the Nationalist leaders with that same respect instead of assassinating them in large number, the civil war might not have happened.

(160) Bulletin Hebdomadaire Ministère de la France d’Outremer, no. 67 (March 18, 1946) translated in Harold R.Isaacs (ed.), New Cycle in Asia (1947), pp. 161-162 cited in “Agreement on the Independence of Vietnam, » www.vietnamwar50th.com, accessed August 26, 2018.

(161) The Ambassador in France (Caffery) to the Secretary of State, September 17, 1946, Foreign Relations of the United States, 1946, The Far East, history.state.gov, accessed August 26, 2018.

(162) Sources:
“Vietnam War Allied Troop Levels 1960-73,” www.americanwarlibrary.com, accessed August26, 2018; 

“Vietnam: U.S. Department of Veterans Affairs Military Service History,” https:www.va.gov, accessed August 26, 2018.

(163) Indochina Documents Prepared by the International Secretariat of the Geneva Conference The Final Declaration on Indochina,” Foreign Relations of the United States, 1952–1954, The Geneva Conference, Volume XVI, history.state.gov, accessed August 22, 2018.

(164) The Four No’s were: no negotiations with the Communists; no Communist or neutralist political activities south of the Demilitarized Zone (DMZ); no coalition government with the Communists; and no surrender of territory to the Communists. [Source: Phillip B. Davidson, Vietnam at War: The History: 1946-1975, (Oxford University Press, 1988), p. 740.

(165) As pointed out by a June 17, 2012, Information Paper of the U.S. Office of the Secretary of Defense, when the Vietnam War began for the United States is “to open a can of worms.” As the Information Paper points out, three of the dates used as the beginning are as follows:1950, when the United States established the Military Assistance Advisory Group (MAAG), Indochina, in Sài Gòn.
1955: when the United States redesignated MAAG, Indochina as MAAG, Vietnam and also created a MAAG, Cambodia.
1961, when President John Kennedy decided to substantially increase the level of U.S. military assistance to South Vietnam.Source: “Info paper Vietnam War and US Start Date,” www.vietnamwar50th.com, accessed 14 August 2018.

(166) “President Nguyen Van Thieu resigns (1975),” Alpha History, https://alphahistory.com, accessed August 22, 2018.

(167) “President Ford’s Speech on the Fall of Vietnam, 24 April 1975,” www.vietnamwar.net, accessed August 22, 2018.

(168) Our Documents, Tonkin Gulf Resolution (1964), https://ourdocuments.gov, accessed August 15, 2018.

(169) The Editors of Encyclopaedia Britannica, “Gulf of Tonkin Resolution,” Britannica.com, last updated July 29, 2018, https://.britannica.com, accessed August 15, 2018.

(170) “Tonkin Gulf Resolution.” West’s Encyclopedia of American Law, cited in Encyclopedia.com, http://encyclopedia.com, accessed August 15, 2018

(171) According to the Encyclopedia Britannica, the number of Chinese killed in the massacre has been subject to much debate, with most estimates ranging from 100,000 to more than 300,000.
[Source: The Editors of Encyclopaedia Britannica, “Nanjing Massacre.” Britannica.com, last updated June 20, 1918, https://britannica.com, accessed August 17, 2018.]

(172) I myself saw the ceremony on television in a Beijing hotel.

(173) Don Oberdorfer, “U.S. DETAILS PLAN FOR NORMALIZING VIETNAM RELATIONS,” April 10, 1991, Washington Post, https://washingtonpost.com, accessed August 16, 2018.

(174) Sources:“US finally ends Vietnam embargo,” The Independent, February 04, 1995, www.independent.co.uk, accessed August 16, 2018;“Clinton ends trade embargo of Vietnam , Feb 03, 1994, This Day in History, https://www.history.com, accessed August 16, 2018.

(175) During the process of normalization, they invented the story of the giant tortoise in Hoan Kiem Lake (Hồ Hoàn Kiếm) in Hanoi emerging from the bottom of the lake, where it, or its lineage, has lived since the Le Dynasty (Nhà Hậu Lê) liberated Vietnam from Ming China. The tortoise had two characters on its back: Mã Quy (Horse Tortoise). If pronounced in reverse, words with similar sounds, Mỹ Qua, mean roughly “the Americans are coming.” Vietnam is now a pro-Americancountry; U.S.ambassadors have felt so safe in public that one rode a motorcycle in Hanoi with his wife in the back seat (Pete Peterson) and another went by bicycle the whole way from North Vietnam to South (Ted Olsius).

(176) Report of Japanese reporter Yoshigata Yushi, April 2005.

(177) “Buddhist crisis,” Wikipedia, accessed August 24, 2018.

(178) John Prados, “JFK and the Diem Coup: Declassified Records, National Security Archive Electronic Briefing Book No. 101, posted November 5, 2003, nsarchive.gwu.edu, accessed August 18, 2018.]

(179) “President Nguyen Van Thieu resigns (1975),” Alpha History, https://alphahistory.com, accessed August 22, 2018.

(180) ‘SA 55. LAND REFORM IN TAIWAN by Chen Cheng (preface) 1961, www.landisfree.co.uk,
accessed August 18, 2018.

(181) I saw this statue still standing in 1991 in the hallway of Independence Palace (now Unification Palace), when I attended an Investment Forum there, with Vietnamese Communist Party General; Secretary Nguyễn Văn Linh and other high officials milling around. Ironically, a few years earlier, the government of unified Vietnam had had to abandon its failed land reform program, which included agricultural cooperatives in South Vietnam , for lack of cooperation from the farmers, who feared the loss of their land to the cooperatives. Some evaded collectivization by cutting down their orchards and killing their buffaloes and selling the meat in Sài Gòn.

(182) Mobil told my law office in 1974 that there was no commercial-quantity oil in the wells they had drilled and then capped in South Vietnamese waters. But they had lied to us because the Communists were approaching. After the war, the Vietnamese-Russian joint venture Vietsopetro drew oil from South Vietnamese waters. That was the beginning of the oil era in Vietnam

(183) Lee described this in detail in his memoir From Third Word to First.

(184) “Johnson Says He Won’t Run,” The New York Times, www.nytimes.com, accessed August 20, 2018.

(185) The Socialist Republic of Vietnam put this argument on the website of its Mission to the UN.

Views: 781

Quê Mình Giờ Thế Đó

Trần Văn Lương

Dạo:
Nhìn về chốn cũ mà đau,
Lương tâm, nhân tính từ lâu không còn.
 

 Quê Mình Giờ Thế Đó

 
Trăng nhỏ giọt trên mái đầu bạc phếch,
Người già ngồi, ngốc nghếch ngước nhìn mây.
Quanh gót chân vương vãi đống báo ngày
Đầy tin tức đắng cay từ quê mẹ.
 
Lòng muốn khóc, nhưng mắt không còn lệ,
Thoáng nhìn quanh rồi lặng lẽ cúi đầu,
Cắn chặt môi, đè nén chuỗi thương đau
Đang cuồn cuộn tranh nhau gầy giông gió.
                 
                              ***
Trời đất hỡi, quê mình giờ thế đó,
Chỉ mới vừa nhuộm đỏ mấy mươi năm,
Mà đã thành một địa ngục tối tăm,
Thành hang ổ bọn phi cầm phi thú.
 
Đất nước Việt, nhưng giặc Tàu làm chủ,
Đám cầm quyền chỉ là lũ gia nô,
Vâng lệnh ngoại bang, hành động điên rồ,
Theo vết của tên tội đồ dân tộc.
 
Vét tiền bạc chuyển dần ra ngoại quốc,
Đẩy cháu con đi “du học” xứ người,
Học hành gì, toàn chỉ có ăn chơi,
Sắm xe cộ, tậu cơ ngơi khắp chốn.
 
Để chuẩn bị sẵn sàng nơi ẩn trốn,
Sau khi Tàu xâm chiếm trọn quê cha,
Chẳng điều gì dẫu hèn mạt xấu xa,
Mà chúng chịu buông tha hay từ bỏ.
 
Nhưng lớn nhất là tội làm sụp đổ
Cả một nền đạo đức tổ tiên ta
Đã hy sinh dốc xương máu mình ra
Để gầy dựng cho nước nhà thuở trước.
 
Nhìn tư cách của người dân một nước,
Thì ít nhiều cũng biết được rồi đây,
Xứ sở này sẽ nhẹ bước cao bay,
Hay sớm muộn cũng có ngày xóa sổ.
 
Ngắm quê cũ, lòng càng thêm xấu hổ,
Đạo đức dân mình xuống hố thật nhanh,
Từ đám già cho đến lũ trẻ ranh,
Đâu cũng thấy toàn gian manh độc ác.
 
Vì tổ quốc biểu tình thì lác đác,
Nhưng hùa đi đại nhạc hội thì đông,
Mặc cho Tàu dần chiếm đoạt non sông,
Miễn mình được nghe văn công hò hét.
 
Rồi lớn bé xuống chật đường gào thét, 
Nhảy cẫng lên mừng kết quả trận banh,
Nhưng trong khi đất nước mẹ tan tành,
Vẫn lãnh đạm làm thinh không nhúc nhích.
 
Kéo nhau đi du lịch,
Giở lắm trò lố bịch, lưu manh,
Vào xứ người mà ăn cắp như ranh,
Trơ trẽn lộ toàn hành vi bỉ ổi.
 
Về giáo dục, nói ra càng tức tối,
Học sinh thì gian dối đến thành tinh,
Đám thầy bà càng đáng rủa đáng khinh,
Còn xảo trá hơn học sinh vạn bội.
 
Điểm qua các thành phần trong xã hội,
Bắt đầu từ cán bộ tới dân đen,
Từ “giáo sư”, “tiến sĩ” tới phu phen,
Đâu cũng chỉ xem đồng tiền trên hết.
 
Khi đạo đức bị hoàn toàn hủy diệt,
Và lương tâm cũng biền biệt ra đi,
Thì chẳng cần phải có phép tiên tri,
Cũng biết rõ được cái gì sẽ đến.
                    
                          ***
Chạnh nhớ lại lời thề khi vượt biển,
Tiếng sụt sùi đêm tách bến ra khơi,
Mới đây thôi đã mấy chục năm rồi,
Lòng già bỗng thấy bồi hồi vô hạn.
 
Nhìn một số người mang danh “tỵ nạn”,
Lại càng thêm buồn nản lẫn xót xa,
Kẻ “thăm quê”, kẻ du lịch “dối già”,
Kẻ “từ thiện”, kẻ về “ra mắt sách”.
 
Nhặt đống báo, vất vô thùng cái toạch,
Miệng lầm bầm tự than trách khôn nguôi,
Lối quê nhà đà vĩnh viễn xa xôi,
Chút hy vọng nhỏ nhoi đành lịm tắt.
 
Trạm xe buýt, ánh đèn mờ hiu hắt,
Khác chi đời kẻ ngắc ngoải tha phương,
Đã đến chặng cuối đường,
Còn phải khóc nhìn quê hương sắp mất.

Trần Văn Lương

Cali, 11/2018

Views: 420

Đặc Khu Hành Chánh – Kinh Tế Việt Nam và Vành Đai Biển của Trung Quốc

Nguyễn Bá Lộc

Trong vài tháng qua, dân chúng VN đã dũng mãnh, trên hầu hết các thành phố lớn, biểu tình phản đối chính quyền CSVN tiến hành thực hiện ba Đặc Khu Hành Chánh–Kinh Tế (SAEZ) Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, gọi tắt là Đặc Khu (ĐK).
Điểm chánh yếu mà người dân nêu lên trong các lần biểu tình là: Phản đối việc cho thuê đất ĐK tới 99 năm và chống lại CSVN có ý đồ bán nước từng phần cho Trung quốc.

Ba đặc khu nầy là mô hình mới, lạ thường và có nhiều âm mưu mờ ám xét trên nhiều phương diện như: “Pháp chế và Tổ chức Hành chánh”, “ Những ưu đãi cho nhà đầu tư” hay “Sự cấu kết của CSVN và CSTQ”, “Sự hoành hành của tư bản đỏ và nhóm lợi ích”. Và hơn thế nữa là đặt ba Đặc Khu này trong kế hoạch đại dự án “Vành Đai Biển” của Trung quốc, thì nỗi lo âu về hậu quả bi thảm từ ba ĐK là có căn cứ, là chánh đáng, là phải ngăn cản.

Điều chúng tôi xin trình bày dưới đây là cái căn nguyên, cái dính dáng và sự trùng lập của ba ĐK với siêu dự án “Belt & Road Initiative” của Trung quốc. Đây không phải chỉ là một ưu tư cho dân tộc Việt mà còn là vấn nạn lớn cho nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nhiều nước đã vướn vào và thật khó khăn chưa có lối thoát.

Belt and Road Initiative (Nguồn: World Bank)

1.  Khái lược “Vành Đai Biển” của Trung quốc

* Sự hình thành đại dự án “Vành Đai và Con đường” (Belt & Road Initiative Project)

Vành đai biển (Maritime Belt) là một phần quan trọng của đại Dự án Belt & Road Initiatives, BRI.
BRI là một siêu dự án với tham vọng lớn của TQ được thành hình năm 2013 với 65 quốc gia thành viên tham gia hợp tác với TQ. BRI gồm hai phần. Một vành đai biển dọc theo biển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương, đến vài biển khác ở Châu phi, gọi là Maritime Belt hay Vành Đai Biển. Và một con đường bộ từ TQ đến Nam Á qua Nga đến Trung đông sang Phi Châu và cuối cùng là một phần Âu Châu (còn gọi là New Silk Road). Trong hai năm 2016-2017, TQ đầu tư $20 tỷ cho 9 cảng hải ngoại trong dự án Maritime Belt và đến tháng 9- 2017, TQ đã đầu tư 34 cảng trên thế giới. (Nguồn tin: China’s expanding investment in global ports, Economist Intelligence Unit’s Research.)

Trong thông điệp đầu năm 2018, Tập Cẩn Bình có nói đến đại dự án BRI như sau: “Nhân dân TQ sẵn sàng hợp tác với các dân tộc khác cùng xây dựng một tương lai thịnh vượng , hòa bình, và nhân đạo.” (Theo Ralph Jennings, đăng trong Forbes, Jan/8/2018)
TQ đã thành công về kinh tế trong vài chục năm qua. Nay TQ muốn thực hiện tham vọng bá quyền với khẩu hiệu “Going Global”. Mô hình toàn cầu hóa của TQ với nhiều điểm khác Tây phương. Phương thức TQ tiến hành là vừa dụ dỗ vừa cưỡng bức. Đó là một loại “thực dân mới” rất nhiều nguy hiểm cho nước “muốn hợp tác” hay “bị hợp tác “ với TQ. TQ kết hợp vừa kinh tế vừa chánh trị khi thương thảo với các nước. TQ không bao giờ đặt điều kiện về đạo đức chánh trị hay nguyên tắc tự do, dân chủ, nhân quyền của một chánh thể. Bất cứ quốc gia nào, một chánh thể nào miễn chịu vào bẫy và thòng lọng của TQ là được. (Theo tài liệu “China File Conversation”, của Aazon Halegua, New York University- Law School)
BRI là một dự án quốc tế lớn nhứt từ trước tới nay. Riêng TQ bỏ ra 1000 tỷ mỹ kim. TQ ký từng dự án song phương với từng quốc gia. Các dự án đều do TQ chủ trì hay thống lãnh. Đại loại trong các công trình lớn như: Xa lộ, Cầu cống, Đường xe lửa, Phi trường , Hải cảng, Khu chế xuất, Đặc khu kinh tế, Hành lang kinh tế, Khai thác nhiên liệu khoáng sản…

* Phương thức xâm lăng kinh tế của TQ

Khi nền kinh tế đã khá mạnh, TQ muốn thực hiện mộng ngàn đời của họ là đi ra khỏi biên cương và lần nầy đi thật xa, thật rộng với sự tính toán khôn ngoan hơn xưa. Nhưng mục tiêu vẫn là chinh phục và khuất phục thiên hạ bằng kinh tế kèm theo chánh trị và quân sự. (Theo tài liệu “A new Model for Chinese Oversea Investment” tác giả Liu Jia Hua, May 12-2017). Mộng bá quyền TQ hay “China Dream”, mơ ước của TQ là “Tương lai mọi con đường quan trọng trên thế giới đều phải qua Bắc kinh” (Theo Wade Shepard, trong bài ”China’s challenges abroad: Why the Belt & Road Initiative will succeed”).
Các phương thức thực hiện có thể tóm tắt:

Viện trợ kinh tế và cho vay: Từ 2000 đến 2014 TQ tung ra viện trợ quốc tế $354.4 tỷ so với Hoa Kỳ là $394.6 tỷ (Theo College of William & Mary ‘s Aid Data)
Ngân hàng Asian International Investment Bank (quốc doanh TQ) cùng với một số ngân hàng TQ khác cho vay ở ngoại quốc với tổng số tiền nhiều hơn hai Ngân hàng Thế giới (World Bank, WB) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ( Asian Development Bank ADB) cộng lại (theo tài liệu Yale University, Yale Global Online 10/04/2017). Riêng Ngân Hàng Import-Export Bank của TQ cho vay tổng số hơn các ngân hàng WB + ADB + Inter American Development Bank cộng lại (Theo tài liệu Boston University’s Global Govenance Initiative).

Đầu tư trực tiếp (FDI): TQ tăng rất nhanh khắp thế giới. Tổng số FDI của TQ từ 2000 đến 2014 là 354.3 tỷ MK so với Hoa kỳ 394.6 tỷ cùng thời gian (Theo nguồn tin: Aid Data của William & Marry College). Trong mấy năm gần đây thì nhịp độ tăng của TQ nhanh qua kế hoạch BRI.
Tại Á châu tăng từ $38.01 tỷ mỹ kim năm 2005 lên $307.1 tỷ năm 2017. FDI của TQ thực hiện hoặc vốn 100%, hoặc liên doanh với nước chủ nhà. FDI TQ chủ yếu nhắm vào nhiên liệu, nguyên liệu là chánh để phục vụ cho kỹ nghệ trong nước. Loại đầu tư có lời nhanh và cao là casino, du lịch và địa ốc. Một số mặt hàng khác của FDI TQ là hàng có thể bị ảnh hưởng chiến tranh mậu dịch như thép, đồ điện tử.

Thầu các công trình lớn. Một tiến công mạnh mẽ của TQ là thầu các công trình lớn. Chương trình nầy đi kèm với viện trợ. Viện trợ hay vay tiền từ TQ luôn buộc phải đi kèm với điều kiện giao cho công ty TQ thầu, và TQ có quyền đem công nhân theo cũng như mua trang thiết bị TQ. Thông thường công ty TQ có phẩm chất kém và giữa chừng tăng kinh phí lên cao. Rốt cuộc tiền TQ lại có một phần lớn chạy về TQ.

Xuất nhập cảng: TQ phát triển đầu tiên là nhờ xuất cảng. Xuất cảng bằng mọi giá mọi cách miễn sao thu về nhiều ngoại tệ là tốt. TQ vẫn theo đuổi con đường nầy như là một cách để giải quyết thất nghiệp, tạo mãi lực tại nước đang phát triển và đồng thời đánh bại hàng sản xuất từ các nước phát triển cao.
Về nhập cảng TQ hạn chế nhập hàng từ nước ngoài. Vì vậy TQ có số xuất siêu cao và ngoại tệ tích lũy rất lớn. TQ đang cố gắng sản xuất các loại hàng với kỹ thuật rất cao kễ cả sản phẩm quốc phòng để cạnh tranh với Hoa kỳ.

*Điều kiện và phương thức hợp tác giữa TQ và các nước tham gia dự án:

Về phía TQ: dùng sức mạnh và ưu thế kinh tế của mình là tiền, là thị trường lớn, là nhu cầu lớn về nguyên liệu nhiên liệu cần cho phát triển kinh tế, là hàng hóa mọi thứ với giá rất rẽ.

Về phía nước chủ nhà: phần lớn là nước rất nghèo, thiếu tiền để đầu tư vào các dự án lớn. Khi nước có phát triển thì đó là điều kiện để bảo vệ chế độ và chánh quyền. Nhứt là một chánh quyền tham quyền cố vị, không có hay có ít tự do, dân chủ và lại tham nhũng nghiêm trọng nên Bắc Kinh dụ dỗ dễ dàng vì cả hai bên đều có lợi. Chính vì vậy mà có rất nhiều dự án không có hiệu quả, tốn kém.
Trong kế hoạch Vành Đai Biển, VN là một mắc xích quan trọng, là con đường của TQ nối với Đông Nam Á Châu, một vùng biển chiến lược của TQ và các nước khác. Mặt khác VNCS lệ thuộc Tàu rất sâu và rất lâu về mọi phương diện. Cho nên ba ĐK là một phần trong Vành Đai Biển, là cần thiết, là bắt buộc phải có theo áp lực, hay nói khác là theo lịnh TQ.

2. Đặc Khu Kinh Tế trong Kế Hoạch Vành Đai Biển của TQ

Kế hoạch Belt & Road mà một nửa là Vành Đai Biển là phần quan trọng của sách lược Toàn Cầu Hóa của TQ hiện nay.
Các Đặc khu kinh tế thì đã có từ hơn 50 năm nay. SEZ trước kia giúp nhiều cho phát triển kinh tế. Hiện trên thế giới có khoảng 4000 ĐKKT. Một số thành công, cũng có một số thất bại. Phần lớn ĐKKT do TQ thống lãnh là thất bại hay có vấn đề. Chính vì vậy mà gần đây các ngân hàng TQ yêu cầu kiểm điểm lại việc cho vay vì có một số nước không có tiền trả nợ.
Dưới đây là các ĐKKT (SEZ) do TQ thống lãnh, áp đảo hay ảnh hưởng đã đưa tới nhiều hiểm họa nghiêm trọng. Mà đó cũng là dáng dấp, là hình ảnh, là nội dung, là thân phận của ba ĐKHCKT của VN trong tương lại.

Cambodia:
Cambodia lệ thuộc hoàn toàn TQ về kinh tế lẫn chánh trị. Những đặc khu kinh tế (SEZ) của Cambodia do TQ thống lãnh gần như hoàn toàn. Nhứt là các ĐKKT nằm ven biển, tức là trong đại dự án ”Belt & Road Initiative”. Trường hợp rõ nét nhứt là ĐK Shihanoukville (SSEZ).
SSEZ được thành lập 2008 tại cảng Shihanouk, một cảng có từ lâu. Nhưng đến 2012, chánh quyền Cambodia ký với TQ và TQ đầu tư mở rộng SSEZ .Trong khu biệt lập nầy có trên 110 xí nghiệp sản xuất và độ 100 cơ sở thương mại và khu gia cư. Trong khu biệt lập khác là một cao ốc gồm có apartments và các casino ở từng dưới, tất cả do TQ làm chủ. Trong đó, người TQ chiếm hết 80 % và đang xây thêm 300 cơ sở thương mại sẽ do người Tàu làm chủ. Các khu nầy nằm trên bờ biển. SSEZ hiện nay có khu China Town to lớn. Tới nay SSEZ đã xong 30 casino và đang xây thêm 70 cái nữa. Các casino cũng do người Tàu làm chủ. Đó còn gọi là New Macau. Cạnh đó là một miếng đất có vị trí tốt cũng được cho TQ thuê 99 năm để xây nhà ở. Vốn cho dự án này tới $5.7 tỷ mỹ kim và làm giá nhà đất ở SSEZ tăng vọt.
Người Tàu ở Cambodia càng ngày càng đông. Theo luật Cambodia thì người ngoại quốc không được làm chủ đất đai. Nhưng người Tàu mới thì họ mua quốc tịch Cambodia với giá $100,000. Sihanuokville càng ngày càng phồn thịnh. Du khách đến tấp nập, phần lớn là người Tàu đến để chơi bài. Mặt khác tiền bạc từ TQ ra và vào ĐK nầy gần như không có kiểm soát. Nhưng người dân địa phương vẫn nghèo và khổ hơn vì tệ trạng xã hội gia tăng. Ngoài ra, TQ yểm trợ hết mình cho T T Hunsen tiếp tục lãnh đạo Cambodia. TQ ký với Cambodia cho viện trợ lên tới 7 tỷ trong năm qua.

Malaysia:
Thủ tướng Najib trước 2018 đã đi quá sát TQ . Malaysia đã nhận quá nhiều viện trợ từ TQ. Malaysia là một mắc xích rất quan trọng của Vành Đai Biển. TQ phải kéo nước nầy. Malaysia đã cho TQ xây đảo nhân tạo để xây nhà ở cao cấp, Forest City, và do công ty TQ làm chủ với tổng số tiền đầu tư là $100 tỷ. Hiện 70% người mua các nhà nầy là Tàu. TQ đã viện trợ Malaysia đến 13 tỷ cho nhiều công trình trong số tổng cộng TQ hứa là 34,2 tỷ (số viện trợ lớn nhứt ớ Á châu trong chương trình Belt & Road). Điều kiện Malysia phải nhận là cho nhiều công nhân TQ qua làm việc và mua trang thiết bị và nguyên liệu từ TQ. TQ đã cho Malaysia vay $14 tỷ và xây một con đường sắt chiến lược từ Đông sang Tây Malaysia nối Biển Đông qua Ấn Độ Dương.
Thủ tướng mới đắc cử, ông Mahathir, cho rằng những hợp tác quá đáng với TQ là hành động bán nước. Nên khi đắc cử, TT Mahathir xét lại một số dự án đã do TT Najab ký. (Theo tin Liz Lee, Reuter April 27-2018).

Lào:
Mặc dù không nằm trong Vành Đai Biển, nhưng Lào là nước gắn chặt với TQ trong “Belt & Road” dưới nhiều dự án dọc biên giới TQ và Lào. TQ giúp Lào lập nhiều SEZ. Mà chánh yếu là cho kỹ nghệ casino và các trò giải trí khác cho khách đa số là người Tàu.

Sri Lanca:
ĐK kinh tế ở Sri Lanca do TQ thống lãnh là một trường hợp điển hình về sự kết hợp mục tiêu kinh tế & quân sự của TQ trong Vành Đai Biển và hậu quả là Sri Lanca mất một phần đất về TQ.
Dưới sự chiêu dụ của TQ, Tổng thống Sri Lanca, ông Srajapaksa, ký thỏa hiệp thiết lập hải cảng quốc tế Hambantota, gần Ấn độ, năm 2010. Ngoài cảng to lớn còn có phi trường quốc tế, xa lộ. Vốn hoàn toàn do TQ viện trợ. Lần đầu là $307 triệu. Sau khi hoàn thành lúc nợ đáo hạn, Sri Lanca không chạy đâu ra tiền trả nợ, phải vay thêm TQ lần nhì $757 triệu với lãi xuất 6.3% chớ không còn ưu ái như lần đầu là 2%. Đến năm 2012, cảng bắt đầu hoạt động và lèo tèo mấy chục chiếc tàu quốc tế, hàng không quốc tế chỉ có một hảng. Lại thêm tham nhũng quá đáng. Cảng nầy bị lỗ nặng.
Năm 2015, TT Srajapaksa thất cử, nhưng để lại một số nợ TQ quá lớn mà TT kế nhiệm không có khả năng giải quyết. TQ buộc Sri Lanca phải trả nợ bằng cách giải quyết cho TQ thuê lại toàn bộ cảng nầy với 15.000 mẫu đất, với $1.1 tỷ trong 99 năm. Sau đó, 2017, TQ lại ép buộc Sri Lanca cho thuê xây một khu kỹ nghệ cạnh cảng quốc tế cũ là cảng Colombo và hoàn toàn do công ty TQ quản lý. Công ty TQ là China Merchants Port Holding Company có vốn 85% của cảng và thời gian thuê là 99 năm.
Sri Lanca thiếu nợ TQ do Kế hoạch Vành Đai Biển là 1,0 64 tỷ và mất hai vùng đất. Thực sự Srilanca nợ TQ tổng cộng với các món nợ khác lên tới 5 tỷ trong hoàn cảnh kinh tế không khả quan. (Theo tin báo New York Times).

Pakistan:
Theo tin từ Yale Global Online trong bài” Pakistan’s Costly Plunge Into China Debt” thì Pakistan là nước nhận hậu quả tai hại nhứt do viện trợ của TQ. Điều kiện nhận viện trợ TQ như tại các nơi khác là phải cho công nhân TQ đến làm việc và mua máy móc TQ. Và dự án thi công phải giao cho công ty TQ, không có đấu thầu. TQ đầu tư trực tiếp 22 tỷ tại Pakistan. Nhưng năm rồi chánh quyền mới của Pakistan rút bỏ thỏa ước TQ viện trợ $14 tỷ để xây cái đập thủy điện, vì TQ đòi nắm quyền sở hữu đập nầy. Cho tới nay Pakistan có tổng số nợ TQ lên tới $62 tỷ.

Phi Châu:
Trong cùng mục tiêu và sách lược bành trướng của TQ trong dự án “Belt & Road”, TQ thực hiện nhiều công trình to lớn như cảng , phi trường, cầu cống, tại nhiều nước Phi châu như Nigeria, Ethiopia, Nam Phi.. với cùng công thức: dùng tiền mua chuộc chánh quyền, thực hiện nhiều công trình lớn. Đưa công ty TQ qua với máy móc trang bị TQ. Khai thác khoáng sản. Và chiếm cứ các điểm trọng yếu. Khả năng hấp thu của các nước Phi châu yếu kém, nên hiện nay gặp một số khó khăn.

Và một số quốc gia khác:
Quan trọng có Thổ nhĩ kỳ với viện trợ TQ rất lớn nhằm nối đầu cầu nầy với Âu châu. Còn ở Úc châu, TQ nắm phần quan trọng của hải cảng Darwin, thuê 99 năm với giá 506 triệu Úc kim, TQ coi đây là trạm cuối của Maritime Belt .

* Tóm tắt hậu quả chung của các ĐK do TQ thống lãnh
Không ai chối cải là ĐKKT, kể cả Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ kỹ thuật cao.. của thập niên 1950 – 1970 khá thành công. Nhứt là tại một số nước đang phát triển và có nền Dân chủ và guồng máy công quyền tốt như Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Nam Hàn. Vì SEZ thực sự là công cụ cho phát triển kinh tế.
Nhưng trong khoảng 10 năm nay, TQ xem SEZ như là một công cụ của sự xâm lăng kinh tế, công cụ của sự vươn lên để đạt vai trò bá chủ trong thiên hạ, thì SEZ trở thành phức tạp và có nhiều tai họa cho khá nhiều nước mà tôi vừa tóm tắt trên đây.
Thực tế khá rõ. Đó là những bài học cho VN và cho một số nước khác.
Mặc dù khi hợp tác với TQ về kinh tế nước chủ nhà có một số lợi nhứt định tùy quốc gia. GDP tăng lên. Mặc cảm nghèo đói bớt đi. Nhưng bên trong các quốc gia nầy nhận chịu nhiều vết thương đớn đau và thật lâu dài. Những khó khăn đó là:
• Lệ thuộc TQ về mặt chánh trị, nhiều hay ít tùy quốc gia
• Mắc nợ TQ quá lớn. Có nước không còn cách nào trả nợ đành phải giao đất cho Tàu.
• Một số vùng quan trọng của đất nước bị người Tàu chiếm định cư lâu dài.
• Tài nguyên bị cạn dần trong khi đó kinh tế và xã hội không sáng sủa hơn bao nhiêu.
• Tệ trạng và bất công xã hội tăng thêm vì hậu quả của các khu cờ bạc, điếm đàng to lớn và công khai.
• Tham nhũng nghiêm trọng và tràn lan không thể tiêu diệt hay cải thiện.

3. Ba Đặc Khu VN trong Kế Hoạch “Vành Đai Biển” TQ

Ba Đặc Khu là dự án ĐKKT lớn nhứt và mới lạ của VN. Đây là dự án rất lớn và nằm trên ba địa điểm rất quan trọng về phương diện địa lý – chánh trị. Đó là Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh, Bắc Vân Phong thuộc tỉnh Khánh Hòa, và Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang.
Trong bài nầy tôi chỉ nói một khía cạnh của ba ĐK. Đó là những điểm tương quan và gần giống mô hình các ĐKKT TQ thống lãnh hay nắm phần quan trọng mà tôi vừa trình bày ở phần trên. (Các phần khác về ba ĐK tôi trình bày ở bài khác). Các ĐKKT do TQ chiếm giữ nằm trong “Vành Đai Biển” đã và đang gặp nhiều tai họa và rất có thể là của VN tương lai.
Các điểm ghi dưới đây là trích từ các văn bản hay qua các buổi họp của Bộ Chính Trị, của Chánh phủ, của Bộ Đầu Tư , của Dự Thảo Luật Đặc Khu và của các phát biểu của các viên chức cao cấp .

* Thực hiện sự cam kết lệ thuộc Tàu của CSVN:
Chúng tôi đã nhiều lần trình bày đại họa lệ thuộc kinh tế TQ. Với ba ĐK mới là một trong những thòng lọng thêm vào. Trong chuyến đi rất sớm của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, sau khi tái đắc cử, qua TQ (2016) và hai bên ký nhiều thỏa hiệp kinh tế quan trọng trong đó có các dự án lớn. Sau đó, Bộ Đầu Tư & Phát Triển (BĐTPT) nhận chỉ thị của Bộ Chánh Trị soạn gấp Dự Án Ba ĐK. Bộ Chánh Trị quyết định nhanh chóng và đưa chỉ thị các bộ phận đảng và chánh phủ xúc tiến bởi văn thư số 21 TB/WT ngày 22 tháng 3/2017 của Trung Ương Đảng. Trong các lần họp để chi tiết hóa, BĐTPT có nhiều lần bàn thảo với các chuyên gia hàng đầu của TQ về Belt & Road Initiative, các công ty casino, công ty tài chánh đến từ TQ. Tới giờ, 90% công việc của Dự Án đã được phân công và một số công tác đã tiến hành. Theo mô thức tổ chức chánh quyền CS, Quốc Hội biểu quyết luật chỉ là hình thức và không thể đảo ngược quyết định Bộ Chánh Trị.
Như vậy chống ĐK là chống đại họa đã có, nay chỉ thêm một lần nữa để thấy thêm sự bi đát của tương lai. Dự án nầy phù hợp với ba nhu cầu quan trọng: Thực hiện đại dự án Belt & Road của TQ, giải quyết khó khăn kinh tế tài chánh rất lớn của VN, và đẩy mạnh tham nhũng của CSVN & CSTQ.

* Tổ chức Hành chánh và điều hành ĐK có nhiều điều lạ và nguy hiểm
Thông thường Đặc Khu Kinh Tế (SEZ ) trên thế giới cũng như VN trước kia thì về tổ chức hành chánh chỉ có SEZ, không có kết hợp Đặc khu Hành chánh và ĐK kinh tế. Vì SEZ là một phần khá nhỏ trong một đơn vị Hành chánh. SEZ được quản lý riêng, nhưng đơn vị hành chánh có SEZ phải quản lý theo luật Tổ chức Hành chánh toàn quốc gia. Khi nói đến Đặc khu Hành chánh có tổ chức và điều hành riêng thì thường nghĩ tới “Khu tự trị”.
Trong dự thảo Luật Ba ĐK thì Bộ ĐTPT đề nghị hai mô hình quản lý hành chánh: Một là không có Hội đồng nhân dân và Ủy Ban nhân dân. Chỉ có Ủy Ban điều hành mà người đứng đầu do Thủ tướng bổ nhiệm. Thứ hai là vẫn có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo thể thức bình thường của một đơn vị hành chánh cấp huyện. Như vậy theo dự trù thì toàn thể lãnh thổ của ba ĐK có nhiều ưu đãi, nhiều miễn thuế cho các nhà đầu tư, chớ không riêng gì đầu tư trong các “khu chức năng” như “khu công nghiệp”, “khu thương mại tự do”,” khu yểm trợ”, khu vực “casino và giải trí”. Điều nầy làm nghĩ tới các đầu tư cho khu nghĩ dưỡng, gia cư cho người ngoại quốc, nhứt là đầu tư cho các công trình lớn như phi trường, hải cảng, xa lộ, cũng được hưởng các đặc miễn. Các công trình nầy đòi hỏi vốn rất lớn. Mà theo kinh nghiệm của các SEZ ở Cambodia, Thái lan, Lào , Malaysia thì phần chánh yếu là từ các nhà đầu tư TQ thực hiện.
Về thời hạn thuê đất 99 năm mà CSVN cho rằng cần phải theo trào lưu hiện nay là các SEZ do Tàu thống lãnh hầu hết là 99 năm. Đó là theo ý Tàu, theo mô hình TQ. Đó là đúng chiến thuật chiếm cứ lâu dài từng mảnh đất nhỏ ở hải ngoại vừa để di dân, để làm kinh tế và để xây dựng thêm “lực lượng Hoa kiều hải ngoại”. Các nhà đầu tư không phải Tàu thì không ai nghĩ đến việc cần trụ lại quá lâu ở một nước khác, trong tình trạng khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực hiện nay và trong một thế giới có nhiều biến đổi.

* Nhắm tới FDI cho Casino, Du lịch, Gia cư và công trình hạ tầng cơ sở lớn
Theo nguyên tắc các lãnh vực đầu tư trong ba ĐK là gồm nhiều thứ, mới xem qua thì nó giống như bình thường. Nhưng đọc kỹ và nghe những gì CSVN bàn thảo thì thấy được ẩn ý và âm mưu của CSVN là chiêu dụ hay bị ép buộc mở cửa cho các lãnh vực chánh là : casino, du lịch, khu an dưỡng và công trình hạ tầng cơ sở. Trong dự luật (điều 3, chương I) mà dự luật gọi là “nhà đầu tư chiến lược”. Thực sự đó là cái đích, cái yêu cầu và nhu cầu của TQ đã thực hiện ở các khu do họ thống lãnh. Vì các lãnh vực trên có nhiều lời, tương đối dễ, nhứt là casino ở đâu cũng lời rất cao, và dễ chiếm lâu dài vùng đất thuê. Nhưng có điều vô lý là kỹ nghệ cờ bạc thì theo qui hoạch được coi là ngành chiến lược và cũng được miễn thuế doanh nghiệp 100% trong 4 năm. Trong khi đó ai cũng có thể biết là casino có lời ngay trong năm đầu và thuế trong ngành nầy là một nguồn thu nhập rất lớn cho ngân sách và cho quan chức tham nhũng.
“Nhà đầu tư ngoại quốc được quyền sở hữu căn hộ khách sạn, biệt thự nghĩ dưỡng, văn phòng làm việc lưu trú “ (điều 35, Mục 2 của Dự luật)
Các nhà đầu tư Tây phương họ đến VN là vì công nhân rẽ, nguyên liệu nhiều, hàng hóa tiêu thụ được nhiều trên những thị trường lớn, ổn định chánh trị. Họ đâu có cần ở lâu dài hay nghĩ dưỡng, hay đến cả đám đông quậy phá lung tung.

* Sức mạnh và cái thế TQ
Dựa theo cách hành xử của TQ tại các ĐK nói trên và dựa theo sức ép TQ đối với VN trong quá khứ, thì sức ép của TQ đối với ba ĐK là to lớn, đảng và chánh quyền VN rất khó cưỡng lại. Đối với TQ thì CSVN không còn ở giai đoạn dụ dỗ mà là ở giai đoạn chia chác quyền lợi và cưỡng bức.
Các chiêu mà TQ thực hiện ở ba ĐK ở VN :
Viện trợ, vì VN làm gì có khoảng $70 tỷ cho đầu tư cơ bản cho ba ĐK.
Thầu các công trình lớn. Hiện nay một công ty TQ đang làm xa lộ Mong cái – Vân Đồn với tổng số đầu tư là $300 triệu. Chắc chắn TQ sẽ chiếm hết công công trình của ba ĐK.
Công nhân và người già du khách sẽ tăng nhiều hơn nữa. Nhiều khu Chinatown nhỏ sẽ mọc thêm. Du khách nhiều thì có lợi về kinh tế, nhưng kiểu du khách Tàu thì có nhiều tệ hại do họ mang tới.
TQ sẽ ép và phối hợp với VN cho TQ lấy chứng nhận xuất xứ để xuất cảng qua Mỹ và một số nước khác trong chiến tranh mậu dịch với Hoa kỳ.
TQ sẽ kèm kẹp mạnh hơn đảng CSVN. Các thành phần có khuynh hướng thân Mỹ sẽ bị triệt hạ.
TQ sẽ can thiệp vào các vụ biểu tình của dân chúng chống TQ
Tham nhũng sẽ gia tăng. Không có cách nào trị được. Các vụ rữa tiền sẽ được hợp thưc hóa và thực hiện ngay trong ĐK do qui chế chuyển tiền độc lập cho các nhà đầu tư tại ĐK.
Một làn sóng mới mạnh mẽ từ TQ do từ ba ĐK nầy sẽ tạo thêm bất công kinh tế giữa nhà đầu tư trong ĐK và doanh nghiệp VN. Và tệ trạng xã hội quá tồi tệ hiện sẽ gia tăng thêm do các casino đem tới.

4. Phối hợp cho một Phong trào thế giới chống “Thực dân Trung quốc”

* Cần nhận ra đại họa TQ
Cách tổng quát trên quả đất nầy, dù là thời nào, ai cũng mong mọi người nên giúp đỡ nhau cách hòa bình và lương thiện. Nhưng thực tế thì khác, có một số nước, một số chánh quyền manh nha ý đồ muốn đàn áp, muốn xâm lấn dân tộc khác, trong đó có TQ. Trong quá trình lịch sử lâu dài, gần như lúc nào các vua , các lãnh đạo TQ cũng muốn dùng sức mạnh uy hiếp nước khác. Có thể vì TQ quá lớn, quá nghèo? Thực sự dân Tàu, nước Tàu có khá nhiều ưu điểm và ưu thế để sống và theo con đường bình thường, không gian ác thì cũng có đời sống vật chất và tinh thần ở mức cao.
Nhưng TQ nay muốn ở mức cao nhứt. Đó là vấn đề, là đại họa cho nhiều dân tộc khác.
Những làn sóng xô tới quá mạnh. Giờ thì mọi người cần phải cảnh giác hơn và tìm cách chống đỡ. Mặc dù “Bão TQ” có khi quay ngược lại tàn phá chính mình. Và sức mạnh cản ngăn trên thế giới nay gần như sẵn sàng.

* Sự phối hợp cần thiết
Trong phạm vi Việt Nam
Về mục tiêu tranh đấu: Chống cho thuê 99 năm hay 70 năm đó là đúng. Nhưng có nhiều mặt khác của ĐK rất tai hại cần hiểu rõ, thì lý do và lập luận cho việc phản đối ba ĐK vững vàng hơn và lâu dài hơn, dễ kết hợp hơn. Các điểm chánh yếu có thể nêu ra là: Lệ thuộc kinh tế TQ quá lớn. Tai hại của casino. Không chấp nhận cư dân TQ du nhập bừa bãi và phi pháp. Tẩy chay hàng TQ. Chống phá cơ sở TQ nếu tình thế bắt buộc.
Phương thức đấu tranh: Các cuộc biểu tình lớn vừa qua rất có kết quả, cả trên bình diện quốc tế. Cần liên tục trong tương lai. Truyền thông trong nước cần phát ra đầy đủ và có sáng tạo , có ý nghĩa và phong phú. Huy động và vận động các tổ chức nghề nghiệp, tôn giáo, sinh viên, và nông dân chống đối dưới nhiều hình thức.
Trên bình diện quốc tế
Sự vận động cho “Phong trào quốc tế chống Thực dân TQ”.
Đã đến lúc thế giới cần phối hợp chống một loại Thực Dân TQ nguy hiểm hơn bất cứ loại đế quốc nào trước đây. Tôi nghĩ thế giới đã hiểu, nhưng những phản ứng chưa đủ mạnh . Mặt khác thi TQ biết khai thác các ưu thế của mình và nhu cầu các nước đang phát triển, nên TQ đã đạt một số thành công trên sách lược toàn cầu hóa của họ, tức là kiểu TQ.
Sách lược của TQ tiến tới trên toàn cầu bằng 4 mặt: Kinh tế, Chánh trị ngoại giao quốc tế, Quân sự khi cần và Khoa học kỹ thuật, cả Văn hóa.
Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh. Phải ý thức về mối họa TQ
Hợp tác và đoàn kết giữa các quốc gia đang gặp tai họa từ TQ . Điều nầy khó khăn vì phần lớn chánh quyền ở đấy độc tài hay bán độc tài. Tuy nhiên cũng có một số nước có dân chủ , tình trạng có thể đổi thay như ở Malaysia chẳng hạn.
Vận động các nước mạnh và có tôn trọng giá trị Tự do, Dân chủ và Nhân quyền
Các tổ chức đấu tranh của người Việt trong và ngoài nước sẽ là một trong những nước khởi dầu cho Phong trào.
Lực cản ngăn và làm tan biến “Thực Dân Tàu” dĩ nhiên là phải có sự kết hợp của các nước có Dân chủ Tự do và Nhân quyền và các định chế quốc tế.
Nếu thế giới xử dụng hữu hiệu hơn, hợp tác hơn về sức mạnh tinh thần, kinh tế và vũ lực tôi thiển nghĩ đại họa TQ sẽ tan dần.
Đây có thể coi như Phong trào quốc tế chống thực dân thuộc địa cũ hay Phong trào chống cộng của những thập niên trước. Một trật tự thế giới ổn định và tiến bộ là ước mong của con người.

Chúng tôi đóng góp một số ý kiến và dữ liệu trong bài nầy với sự kính trọng và sự cảm xúc về sự dấn thân, về những hy sinh cao quí của những người đã và đang tham gia bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xưa kia và gần đây.

Nguyễn Bá Lộc (ĐS9/CH1)
Cali, August 10 – 2018

Views: 318