Năm Mão

Phạm Thành Châu

ăm nay là năm Mão, cầm tinh con Mèo. Các báo Xuân làm gì cũng có một bài về mèo. Lịch thì có hình con mèo. Nhà nào cũng có mèo, ai cũng biết rõ về nó, chẳng có gì lạ, nên viết sao cho độc giả mới đọc nửa chừng thì không thèm đọc nữa mới thật là khó. Thông thường, người ta viết nhiều nhất là về những nhân vật (đúng ra là những danh nhân đã chết) có tuổi con mèo, cũng có người viết về những năm Mão trong lịch sử. Cứ lôi bài cũ (báo xuân) từ mười hai năm trước ra xào nấu, thêm chút gia vị vào là thành bài của mình. Hoặc cứ lấy quyển mười Hai Con Giáp ra chép lại. Tôi cũng chẳng hơn gì những vị đó, nhưng có để tâm sưu tập những bài về mèo từ các báo đã đăng, dành dụm những tài liệu, tin tức liên quan đến con mèo, nay kể ra, để bạn đọc giải trí trong mấy ngày xuân. Người ta nói Chữ Mão, tiếng Tàu nghĩa là thỏ, tiếng Việt nghĩa là mèo (?) Tôi không biết chắc nhưng lịch Tàu thì để hình con thỏ vào năm Mão. Người miền Trung và miền Nam gọi mão là mẹo (tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị…) Tiếng Anh gọi mèo là cat, tiếng Pháp là chat, tiếng Đức katze, tiếng Tây Ban Nha gato, tiếng Nhật neko, tiếng Ả Rập kitte… Con mèo có thể kêu khoảng sáu mươi thứ tiếng khác nhau để bày tỏ cảm nghĩ của mình, đặc biệt nó gào thét khi làm tình, nhưng đối thoại với người, nó chỉ kêu meo, meo để xin ăn mà thôi. Cũng có khi nó kêu rù rù nho nhỏ lúc bạn âu yếm nó hoặc lúc nó dụi đầu vào người bạn để chờ được vuốt ve. Có lẽ vì các cô bồ nhí của mấy ông già cũng nũng nịu kiểu đó nên được gọi là mèo. Chính mắt tôi thấy trong TV, một con mèo nói tiếng Mỹ. Bà chủ nói gì, nó nói theo (độ năm ba tiếng thôi). Bác sĩ thú y nói trong thanh quản con mèo đó có dị tật. Hình như chuyện Ba Giai Tú Xuất có kể, Ba Giai đánh cuộc với cô hàng nước rằng con mèo cô ta biết tiếng người. Cô hàng nhận lời, Ba Giai xách tai con mèo lên, bấm móng tay vào tai mèo và hỏi “Của cô hàng tròn hay méo?”, con mèo đau quá kêu lên: “Méo, méo!”. Có vài chuyện vui về mèo. Một ông quá lười biếng nên chết đói. Xuống âm phủ, Diêm Vương phán: “Nhà ngươi lười quá nên ta cho ngươi đầu thai làm con mèo, phải tự mình bắt chuột mà ăn.” Anh ta năn nỉ Diêm Vương: “Xin ngài cho con làm con mèo đen có chấm trắng trên mũi.” Diêm Vương ngạc nhiên “Để làm gì?” “Thưa, ban đêm con nằm trong bóng tối, bọn chuột thấy chắm trắng tưởng hột cơm, mò đến, con bắt ăn thịt, khỏi phải đi đâu cả.” Một con mèo khác rình hoài mà không bắt được chuột, nó giả giọng chuột kêu chít, chít! Bọn chuột tưởng đồng loại, bò ra khỏi hang, bị mèo bắt ăn thịt. Ăn xong mèo gật gù. Biết ngoại ngữ cũng dễ sống hơn bọn không chịu đến trường sinh ngữ để học thêm. Một chuyện vui khác. Cô giáo bảo học trò tả con mèo. Một cậu viết: “Nhà em có một con mèo, nhưng em chưa thấy nó, mẹ em cũng chưa thấy nó. Mẹ em nói -Ba mầy có mèo, nhưng tao chưa bắt được. Trước sau gì tao cũng tìm ra.”Một lần khác, cô giáo bảo tả con khỉ, cũng cậu học trò đó, viết “Nhà em có nuôi một con khỉ. Một buổi sáng chủ nhật, có một cô đến nhà em, ba em chạy ra bảo -Đừng vô nhà, có con khỉ già ngồi trong đó!”
Mèo bự nhất, có thể nặng từ sáu đến mười kí lô, đó là giống Main Coon, lai tạo từ mèo rừng Bắc Mỹ với mèo hoang tiểu bang Maine. Một ông bạn, gặp tôi, khoe rằng sắp lập một xí nghiệp nuôi mèo và chuột. Ông bạn giải thích: Giai đoạn đầu, tôi nuôi một mớ chuột, khi chuột sinh sôi nẩy nở nhiều rồi, tôi nuôi mèo, lấy chuột cho mèo ăn. Khi mèo lớn, sinh con đẻ cháu, tôi giết mèo, lấy da đem thuộc, làm áo ấm, ví, xách tay… cho quí bà, thịt mèo đem nuôi chuột. Vậy là vòng tròn khép kín, chỉ tốn công, khỏi tốn thực phẩm nuôi mèo và chuột. Anh ta nhờ tôi nghiên cứu giùm về con số chính xác, mèo sinh sản ra sao? Tôi tìm đọc về mèo và cho anh ta những số liệu sau: Mèo đẻ hai lứa một năm. Trong năm năm sống sót được hai mươi tám con, với mười lứa đẻ. Mèo mẹ sinh con, con sinh cháu, cháu sinh chắt, chút, chít … sau ba năm có được ba trăm tám mươi hai con, sau bốn năm, hai nghìn hai trăm con, sau năm năm, mười hai nghìn sáu trăm tám chục con… sau mười năm có hơn tám mươi triệu con. Anh bạn tôi sáng mắt lên. Giàu thấy rõ mà chẳng ai biết ! Sau đó tôi không còn gặp anh bạn đó nữa, cũng không nghe về Xí nghiệp mèo chuột của anh ta.

Toàn thế giới có sáu trăm triệu con mèo, riêng nước Mỹ có hơn bảy chục triệu con. Các bà thích nuôi mèo vì nó giúp các bà đỡ buồn chán (depress), coi như người bạn hiền lành. Nuôi mèo ở các nước Âu Mỹ phiền phức lắm, phải có bảng tên đeo vào cổ mèo, phải đi bác sĩ chích ngừa, khám bịnh, phải cho ăn đúng thực phẩm, phải tắm rửa, dọn vệ sinh cho nó (hốt phân), vì nhà luôn đóng cửa, mèo không ra ngoài phóng uế được, không như ở xứ ta, chút xương cá với mấy muỗng cơm là xong. Mèo, chó Âu Mỹ mà cho ăn như thế nó sẽ bị tiêu chảy, rụng lông rồi chết. Mấy ông bà Âu Mỹ thường chụp hình chó, mèo của mình, để rủi chó, mèo có đi lạc thì làm một bảng cáo thị, có đủ tên tuổi con vật với hình ảnh, số điện thoại của chủ rồi đem treo ở các ngã tư trong xóm. Ai tìm thấy thì cho chủ biết, nhận về. Có người nuôi mèo chung với chuột, vì mèo (Âu Mỹ) không ăn thịt chuột, và chó cũng không ruợt cắn mèo bao giờ. Nhưng mèo hoang thì cũng giống như mèo ở xứ ta. Chúng đi hoang vì chủ nó dọn nhà mà không mang chúng theo, chủ nhà mới không cho vô nhà. Mỗi năm ở Mỹ có cả triệu con mèo bị bỏ hoang. Xóm tôi ở, có mấy con mèo hoang, khuya nào chúng cũng đi lùng sục chuột bọ trong các vườn nhà người ta. Chúng thích nhất là trèo cây bắt tổ chim. Ở Âu Mỹ, bắt giết súc vật là phạm pháp, thế nên chim chóc sinh sôi nay nở khắp trong vườn, trong rừng. Vườn nhà tôi có rất nhiều chim đến làm tổ, khi thấy có trứng trong tổ (chúng làm tổ trong các buội cây rất thấp) tôi phải lấy thuốc trừ sâu bọ xịt dưới gốc cây, cành lá chung quang để mèo không đánh hơi được, nhờ vậy lũ chim non được sống sót. Có một bà Mỹ già, tối nào cũng đem thực phẩm mèo ra sau vướn nuôi lũ mèo hoang, có đến mấy chục con tụ tập, giành ăn, meo meo ồn ào, hàng xóm kêu cảnh sát. Không hiểu sao, cảnh sát lại cấm bà ta cho mèo ăn? Ở Âu Mỹ, mấy người già thích sống một mình, không muốn con cháu đến quấy rầy, thế nên có một bà cụ chết, mấy ngày sau, nghe mùi hôi, hàng xóm gọi cảnh sát đến. Mở cửa ra, có đến hàng trăm con mèo đang vây quanh xác chết, kêu gào vì đói. Sở Mục Súc phải đóng cửa, vây bắt từng con. TV chiếu, mèo lớn, mèo nhỏ chạy lung tung, trên lầu, trong bếp, trong kẹt tủ … Thông thường, sở bắt súc vật đi lạc về, nhốt vô chuồng, ai muốn nuôi thì đến xin. Mèo, chó nhiều quá, không ai xin thì phải giết bớt. Ở Việt Nam mà có mấy dịp đó thì các quán nhậu đặc sản phát tài. Một bà cụ Mỹ, có con mèo bịnh chết, bà ta sắm cho nó một quan tài giá năm trăm đô la, lại tốn một mớ tiền mua đất ở nghĩa trang súc vật để xây mộ cho nó. Thỉnh thoảng bà cụ đi thăm mộ, chuyện trò với vong linh con mèo thân yêu. Ở các xứ văn minh, con cái không có cái tình với cha mẹ như người Á Đông. Cha mẹ nuôi con như làm bổn phận, con đến tuổi trưởng thành là rời nhà cha mẹ, đi thẳng, họa hoằn lắm mới gọi điện thoại hỏi thăm. Mà cha mẹ cũng thích sống một mình trong nhà hoặc gửi thân nơi các nhà dưỡng lão, chờ ngày nhắm mắt xuôi tay. Họ không thích con cháu đến làm phiền. Thế nên, con mèo, con chó là bạn thân nhất của người già. Có mấy chuyện (cũ và mới) về mèo, kể ra đây để bạn đọc cho vui. Nursing Home (nhà già) tên là Steere ở Providence, Rhode Island có nuôi một con mèo đen trắng (có hình trên báo) tên là Oscar. Nó rất hiền và ngoan, các cụ thích vuốt ve, âu yếm. Nhưng nó có tật lạ là hễ tối nào nó nhảy lên giường người nào nằm thì làm gì người đó, hôm sau sẽ chết. Có lần, người ta đem bỏ nó lên giường một người hấp hối, nó nhảy xuống chạy qua phòng một người mạnh khỏe mà nằm. Quả nhiên, hôm sau, người hấp hối hồi tỉnh còn người mạnh khỏe kia, tối ngủ rồi ngủ luôn, không dậy nữa (chết). Đảo Peratjio ở Ấn Độ Dương, không có người nhưng lại có hàng nghìn con mèo. Số là năm 1850, có một chiếc tàu biển bị đắm vì đá ngầm, những người sống sót lên được đảo nhưng cũng chết sau đó vì bịnh dịch, chỉ còn vài con mèo, chúng sống nhờ bắt cá ven bờ biển. Đến nay, ghé vào đảo đó, vẫn thấy đầy mèo. Đảo Ishima ở Nhật có quá nhiều chuột, người ta bèn đem mèo các nơi khác đến bắt chuột, ít lâu sau, chuột hết sạch mà mèo thì đông hơn chuột trước đây, mà lại không có gì ăn, chúng vào bếp ăn vụng, ra chợ rình vồ thịt cá, tha chạy đi, người ta đi chợ, chúng cũng nhảy vô giỏ cướp thịt cá. Bài báo không nói cách giải quyết nạn mão mãn ra sao?

Năm 1902, Walter William, một nha sĩ đến Tahiti hành nghề ở thủ đô Papeete, ông ta chữa răng cho quốc vương Pomare giỏi quá nên quốc vương tặng ông ta một hòn đảo, chỉ có dừa chứ không có người. Đến nơi thì thấy toàn chuột. Ông ta quay về thủ đô Papeete treo bảng mua mèo, được hơn hai trăm con, đem qua đảo cho bắt chuột. Chuột không còn, mà dân số mèo lại tăng lên, nhưng mèo không phá hại như chuột, không đục khoét dừa non và mèo cũng biết ra bờ biển rình bắt cá sống qua ngày. Ngày 2 tháng 9 năm 2009, ở tiểu bang Texas, ông Gil Smith lái xe từ thị xã Gilbert đến thành phố Kearny, trên quãng đường một trăm hai mươi cây số. Ông ta không biết có con mèo của mình đang ôm cứng cái bánh xe dự phòng dưới gầm xe. Nếu nó buông chân, ắt bị xe sau cán chết. Khi đến nơi, nghe mèo kêu, ông ta đem nó ra rồi gọi báo chí, truyền hình đến khoe con mèo khôn ngoan. Ngày 26 tháng 8 năm 2010, bà quả phụ Monika Hoppert, sáu mươi tuổi ở Studthgen, nước Đức, kêu thợ đến thay bồn tắm. Ông thợ đặt bồn tắm mà không biết có con mèo dưới đó. Hàng xóm nghe mèo kêu mà không biết từ đâu, qua hỏi, bà Monika Hoppert bèn cho người dở bồn tắm lên. Con mèo nằm trong đó mấy tuần mà không chết. Trước đây, nó nặng gần sáu kí lô, đem ra chỉ còn một kí sáu. Vậy mà nó sống được ! Năm 2008 cô bé Kirstas Hicks ở Adelaide, Úc châu, đi du lịch với gia đình, nhân tiện ghé thăm ông bà ngoại, cô đem con mèo gửi cho ông bà ngoại (ở cách nhà cô một nghìn sáu trăm cây số). Đi nghỉ hè về thì ông bà ngoại báo con mèo đi đâu mất rồi, tìm không ra. Một năm sau, một buổi sáng, mẹ cô bé Kirstas Hicks thấy một con mèo ốm trơ xương, trụi lông, sút móng, khắp mình đầy vết thương lở loét nằm trước cửa. Thấy tội nghiệp, bà ta đem vào nhà cho ăn. Khi cô bé Kirstas Hicks đi học về thấy thì kêu lên -Con Howie của con đây mà! Thì ra con mèo đã vượt một nghìn sáu trăm cây số, băng qua sa mạc, rừng rậm, sông hồ, chiến đấu với thú dữ để sống còn mà về với cô chủ nhỏ. Ở Việt Nam, trước đây, người ta bảo ăn thịt mèo xui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang), về sau, thịt mèo, thịt rắn được xếp vào đặc sản. Thế nên, ở thôn quê, các tay buôn thu mua rồi chuyển hết mèo với rắn lên thành thị để cung cấp cho các quán nhậu. Không có mèo và rắn bắt chuột nên chuột sinh sôi, nẩy nở đầy đồng, phá hại mùa màng, cũng may, sau đó, lại dấy lên phong trào nhậu chuột đồng, người ta lại đổ xô đi bắt chuột để cung phụng cho mấy ông thần ve chai. Thế là cân bằng sinh thái !

Bây giờ kể chuyện đời xưa về con mèo. Đó là chuyện Linh Miêu Hoán Chúa đời Tống bên Tàu. Chuyện hơi dài dòng, xin kiên nhẫn và cũng xin hiểu rằng. Chuyện đã được tiểu thuyết hóa thành dã sử (Vạn Huê Lầu?) thành tuồng hát, với tình tiết gay cấn, lâm ly và bao giờ kết thúc cũng có hậu. Vị nào trên sáu mươi tuổi ắt đã từng xem sách hoặc xem hát bộ (Bao Công Tra Án Quách Hòe) xem cải lương (Linh Miêu Hoán Chúa) ắt còn nhớ.

Chuyện xảy ra thời Ngũ Đại Tàn Đường, khoảng thế kỷ thứ 10. Lúc bấy giờ, bên Tàu, giặc giả khắp nơi, mỗi người hùng cứ một phương. Có Quách Ngạn Oai, là nguyên soái Phàn Châu, tự xưng làm vua, lập nên nhà Hậu Châu. Ngạn Oai chết, Sài Vinh, xuất thân bán dù, là cháu vợ Ngạn Oai, nối ngôi, hiệu là Châu Thái Tôn. Bấy giờ Triệu Khuôn Dẫn, em kết nghĩa với Sài Vinh, làm chức Kiểm Điểm Sứ, nắm binh quyền. Châu Thái Tôn (Sài Vinh) chết, con là Tông Huấn, mới bảy tuổi lên nối ngôi. Nhân giặc Khiết Đơn quấy phá biên cương, Khuôn Dẫn đem quân tiểu trừ. Khi kéo binh đến Trần Kiều thì các tướng bàn nhau tôn Khuân Dẫn làm vua, truất phế Tông Tuấn. Khuôn Dẫn lập nên nhà Tống. Sử Tàu gọi vụ đảo chánh nầy là Binh Biến Trần Kiều, năm 960. Nhà Tống truyền ngôi mấy đời, đến đời Tống Chơn Tông thì xảy ra vụ án Linh Miêu Hoán Chúa.

Chuyện như thế nầy. Tống Chơn Tông có hoàng hậu họ Lưu, không có con, vua lại yêu thương một quí phi tên là Lý Thần Phi. Khi Tống Chơn Tông xuất chinh đi đánh Khiết Đơn thì Lý Thần Phi có bầu và sinh con trai. Lưu hoàng hậu đến thăm Lý Thần Phi, thấy Lý Thần Phi đang hôn mê, bèn sai thái giám Quách Hòe đem một con mèo thay vào và đưa đứa bé cho cung nữ Thể Vân đem giết đi. Thể Vân đem đứa bé giao cho thái giám Trần Lâm rồi nhảy xuống hồ tự tử. Trần Lâm trao đứa bé cho Lộ Huê Vương là anh em chú bác với Tống Chơn Tông. Lấy lý do Lý Thần Phi sinh quái thai, Lưu hoàng hậu bắt nhốt Lý Thần Phi vào Bích Vân Cung (Tống Chơn Tông đi đánh giặc chưa về), sau đó sai thái giám Quách Hòe đốt Bích Vân Cung, cố ý giết Lý Thần Phi. Âm mưu bị cung nữ Khấu Thừa Ngự biết, bèn báo cho Lý Thần Phi trốn thoát, còn mình giả làm Lý Thần Phi chịu chết cháy. Như vậy, coi như Tống Chơn Tông không có con nối dõi. Khi Tống Chơn Tông chết, triều đình đề nghị cho con Lộ Huê Vương lên nối ngôi, đó là Triệu (?) Trinh (con Lý Thần Phi nhưng không ai biết). Triệu Trinh làm vua tức Tống Nhân Tông. Thời Tống Nhân Tông được xem là cực thịnh của vương triều nhà Tống. Tống Nhân Tông có nhiều nhân tài như Vương An Thạch, Âu Dương Tu, Phạm Trọng Yếm… (Nhân vật tể tướng Vương An Thạch nầy đã làm một việc có liên quan đến Việt Nam thời bấy giờ. Vương An Thạch chủ trương đánh chiếm Việt Nam nên cho dự trữ lương thực, khí giới ở các tỉnh sát biên giới với Việt Nam. Ung Châu là nơi tập trung quân đánh đường bộ vào Việt Nam, Khâm Châu, Liêm Châu là cánh quân đường thủy. Biết được âm mưu của kẻ thù, vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đánh vào các nơi đó, tịch thu và phá hủy tất cả lương thực, khí giới, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng vạn quân địch. Tướng Tàu là Trương Thủ Tiết và Tô Giám bị chém đầu). Đứng đầu bên văn có đại thần Bao Công, bên võ có Tống Địch Thanh. Bao Công tên là Bao Chửng, đậu tiến sĩ đời Tống Thái Tông, làm quan đến chức phủ doãn (đô trưởng) phủ Khai Phong, là kinh đô nhà Tống. Bao Công nổi tiếng là người xét án giỏi và công minh. Đọc truyện Tàu “Thất Hiệp Ngũ Nghĩa kể chuyện về bao Công rất hấp dẫn. Một lần đi phát chẩn cho nạn nhân bão lụt sông Hoàng Hà, đến phủ Đại Danh, Bao Công bị gió thổi bay mất mũ, bèn nghi ngờ có điều gì oan khuất trong thiên hạ đây, nên cho dừng quân, viết trát, sai hai thuộc tướng là Trương Long, Triệu Hổ đi bắt Lạc Mạo Phong (gió thổi bay mũ). Hai tướng lên đường mà không biết đi đâu để bắt Lạc Mạo Phong. Gió lại nổi lên, thổi bay cái trát vào thúng cải của Quách Hải Thọ, là tên bán cải kiếm tiền nuôi mẹ bị mù. Thế là hai tướng bắt Quách Hải Thọ về nộp cho Bao Công. Bao Công thấy bắt người vô tội mới đền tiền và thả về. Quách Hải Thọ mang tiền về lò gạch, là nơi cư ngụ, khoe với mẹ. Người mẹ mù đó chính là Lý Thần Phi và Quách Hải Thọ là con nuôi của bà ta. Nghe rõ sự tình, Lý Thần Phi sai Hải Thọ đến gặp Bao Công và bảo Mẹ tôi truyền ngài đến cho mẹ tôi dạy việc. Bao Công sinh nghi, bèn đích thân đến lò gạch, là nơi cư ngụ của Lý Thần Phi. Bao Công phải chui vào lò gạch còn bị bà già mù dõng dạc. Nếu phải Bao Long Đồ sao chưa quì xuống mà ra mắt ta? Bao Công không biết đó là Lý Thần Phi, nhưng là quan xử án nên phải chịu nhục để tìm cho ra oan khuất của người dân. Bà già mù (Lý Thần Phi) tra hỏi Bao Công đủ điều. Sau khi biết chắc đó là Bao Công, bà ta mới kể lại mọi chuyện. Xác nhận được bà già mù là Lý Thần Phi, Bao Công về triều tâu lại với Tống Nhân Tông (là con của bà Lý Thần Phi, được thái giám Trần Lâm giao cho Lộ Huê Vương làm con nuôi, sau được tôn làm vua). Tống Nhân Tông cho bắt Quách Hòe, tra khảo. Đánh đập đến gần chết, Quách Hòe cũng không chịu khai vì sợ liên lụy đến Lưu thái hậu (trước là Lưu hoàng hậu, chủ mưu). Quách Hòe nói -Có đánh tao chết thì xuống âm phủ, họa may tao mới khai với Diêm Vương. Bao Công bèn thiết trí một nơi âm u, lạnh lẽo, giả làm âm phủ, có diêm vương, có ngưu đầu mã diện, có hồn ma kêu khóc… rồi đánh cho Quách Hòe bất tỉnh và đem đến nơi âm cảnh giả đó. Quách Hòe tỉnh dậy, tưởng mình chết thật, mới khai ra mọi chuyện. Cuối cùng, kẻ ác đền tội, Lý Thần Phi được trời cho sáng mắt, đoàn tụ với con (là vua Tống Nhân Tông), Quách Hải Thọ được phong làm quan nhưng chỉ xin lãnh lương, nằm nhà chứ không chịu đi nhận việc.

Chuyện con mèo của năm Mão đến đây là hết.

Phạm Thành Châu

(chaupham3276@gmail.com)

Views: 32

Tiếng Anh Ở Mỹ

Truyện vui Phạm Thành Châu

Người đời thường “Tốt khoe, xấu che”, hắn thì xin kể mấy cái dốt của mình để bạn, đọc giải trí. Một thứ dốt tầm thường chứ chẳng văn chương, triết lý gì đáng để hắn làm bộ “Khiêm nhưòng cũng là cách tự cao”. Đó là dốt tiếng Anh của hắn.

Trước khi nói về tiếng Anh ở Mỹ, xin có mấy dòng về tiếng Anh của hắn khi còn ở Việt Nam. Nói đúng ra, cái dốt tiếng Anh của hắn kéo dài từ Việt Nam qua đến Mỹ, cho đến cả chục năm sau, dốt vẫn hoàn dốt! Chuyện nầy vắn tắt thôi, sau đó là những chuyện vui để bạn đọc giết thì giờ.

Sau khi tốt nghiệp trung học, khoảng thập niên 1960, hắn vào Sài Gòn để theo nghiệp đèn sách. Việc đầu tiên của một cậu học trò du học (nội địa) là phải tìm việc làm để sống. Lúc đó, đài phát thanh ra thông cáo. Nha Viễn Thông Bộ Nội Vụ VNCH. tuyển chuyên viên sửa chữa máy viễn thông, sẽ được huấn luyện trong 9 tháng sau đó được học thêm tiếng Anh (6 tháng nữa) để qua Mỹ học về máy truyền tin mới, sẽ viện trợ cho Việt Nam. Các bài học tiếng Anh chuyên môn, nếu dịch ra tiếng Việt cũng ít người biết rõ, như “biến điệu biên độ, biến điệu tần số, chùm tia, cộng hưởng, cảm ứng điện từ…” Sau hai khóa học tiếng Anh về chuyên môn, (trong lúc chờ đợi du học Mỹ), hắn được điều về khu Viễn Thông Biên Hòa để sửa chữa máy viễn thông của các tỉnh thuộc vùng 3 Chiến Thuật VNCH (Biên Hòa, Phước Long, Long Khánh, Bình Long, Hậu Nghĩa…)             Khu Viễn Thông Biên Hòa, là một tòa nhà hai tầng nằm trong thành phố Biên Hòa, gần bờ sông Đồng Nai. Trên lầu là chỗ để máy Teletype và chỗ là việc của một cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng từ Sài gòn lên một buổi rồi đi. Tuy trong khu viễn thông có nhiều chuyên viên nhưng họ là thợ sửa radio ngoài đời tuyển vô, nên chỉ mình hắn biết chút ít về tiếng Anh (về viễn thông) nên hắn thường cùng với các chuyên viên Philippines đi thiết trí trụ antenna, sửa chữa các máy viễn thông trong vùng 3 chiến thuật. Hắn còn phải  làm thông dịch cho mấy cậu Philippines nầy với chính quyền địa phương. Những tưởng với chút vốn tiếng Anh đó, khi qua Mỹ hắn sẽ được dễ dàng phần nào trong giao tiếp với người bản xứ. Không ngờ mấy cậu Philippines nầy nói tiếng Anh theo giọng Spanish, như mấy cậu Mễ ở Mỹ, cứ nhấn mạnh tiếng nào có chữ “r” “năm bờ rờ, pho rờ” (number four) còn thêm tiếng Tagalog (tiếng mẹ đẻ của người Philippine), làm hắn muốn điên cái đầu.

Có một chuyện vui về anh chàng cố vấn Mỹ của nha Viễn Thông, Bộ Nội Vụ. Anh ta thỉnh thoảng từ Sài Gòn lên khu Viễn Thông Biên Hòa, làm việc trên lầu Nhân viên thường lên đó làm việc, đôi khi bình luận vui về anh chàng cố vấn Mỹ nầy, anh ta tỉnh bơ như người điếc nặng. Vậy mà, một buổi chiều thứ sáu, hắn xin quá giang xe anh ta về Sài Gòn. Trên xa lộ, trời mưa mà anh ta lái chạy ào ào. Lúc đó, có một chiếc xe đò Traction đen cứ chàng ràng trước xe khiến anh ta bực mình. Lúc qua mặt, anh ta thò đầu ra chửi thề ông tài xế “ĐM. mầy! Mầy chạy kiểu gì vậy?”. Hắn về nha Viễn Thông kể lại, ai cũng cười bảo “CIA thứ dữ đó! Nghe tiếng Việt tài lắm! Phiden Castro treo giá cái đầu anh ta một triệu Mỹ kim” (nước Cu Ba nghèo, thời giá đó là rất lớn).

Sau hơn hai năm làm việc với toán chuyên viên Philippines, thì có tin, việc đi Mỹ du học bị bãi bỏ. Cả bọn tan hàng, đứa thì vô Hải quân, Không quân, Võ bị Đa Lạt… Hắn thi vào trường Hành Chánh, hành nghề cạo giấy (công chức).

Bây giờ kể qua chuyện miền Nam bị Bắc thuộc năm 1975, hắn đi tù khổ sai hơn sáu năm. Khoảng thập niên 1990, hắn cùng gia đình qua Mỹ theo chương trình HO.

Trong lúc được trợ cấp xã hội, hắn đi kiếm việc làm. Một người bạn (Vũ bá Hoan) giới thiệu hắn đến một văn phòng, gặp người phỏng vấn. Sau vài câu hỏi vớ vẩn về gia đình, tuổi tác… bà người Mỹ hỏi hắn “Có xe đi làm không?” Hắn trả lời “Có!” Rồi bà hỏi tiếp “How about your “mêphs?” Bà ta nói nhanh nên hắn nghĩ đó là chữ “map” (bản đồ. Lái xe thì phải biết đường đi, phải có bản đồ) Nên hắn trả lời “Rất tiếc. Tôi không biết gì về map (bản đồ)!” Bà ta lắc đầu. Hóa ra đó là chữ Maths. (Mathematics, toán) Như thế hắn đã trả lời là không biết gì về toán học! Nếu viết lên giấy thì mọi chuyện sẽ dễ dàng, nhưng họ cần người nghe và trả lời trong công việc. Một lần khác, đến xin việc ở một cây xăng, hắn gặp may. Ông chủ cây xăng hỏi linh tinh vài chuyện. Nghe hắn mới đến Mỹ, ông ta bỏ ra một nắm bạc cắc (coins) gồm quarters, dimes, nickels,  pennies… và bảo “Sắp lại thành mỗi đô la riêng xem sao?” Hắn loay hoay một lúc thì làm được. Từ đó, hắn làm nghề bán xăng (cashier) cho đến khi về hưu.

Ở Mỹ lúc nào cũng có các lớp tiếng Anh ESL (English as a Second Language), học buổi tối, hoàn toàn miễn phí, có bà không chịu học, đi đâu dẫn con theo, nhờ nó thông dịch. Cũng có ông không cho vợ đi học tiếng Anh, đó là những ông già về Việt Nam cưới vợ trẻ, đem qua Mỹ, nhốt trong nhà, sợ sổng ra, nó theo trai! (mà nó theo trai thiệt!). Hắn có ông bạn (P.Đ.Th.), khi còn ở Việt Nam, chuyên dịch những sách tiếng Anh cao cấp như khoa học, kỹ thuật, âm nhạc, kiến trúc… Anh ta còn ra sách “Tiếng Anh Đàm Thoại”, bán đắc như tôm tươi, vậy mà khi qua Mỹ, đi xin việc, anh ta thú nhận với hắn rằng “Con Mỹ phỏng vấn chỉ mới hỏi một câu đầu tiên là tao té ngửa, bò càng. Tao không hiểu gì cả!”. Một ông, lớn tuổi, kể. Ông ta đến trường cộng đồng ghi tên học tiếng Mỹ. Để xếp lớp, học viên phải viết một bài ngắn bằng tiếng Anh, rồi nghe (A, B, C quẹt) cũng bằng tiếng Anh để xem trình độ. Sau đó, mọi người đều có giấy gọi đi học, riêng anh ta thì không. Bèn đến trường hỏi. Nhà trường giải thích rằng. Bài viết bằng tiếng Anh của anh ta quá hay nhưng khi nghe máy thì chẳng trả lời được gì cả. Trường không biết phải xếp anh ta vào lớp học nào? Nghe nói, ông Nguyễn Hiến Lê, nổi tiếng dịch sách Anh, Tây, Tàu. Có một tác giả Mỹ, đến thăm, phải bút đàm, vì nghe không hiểu, nói không được. Một ông khác người gốc Hungary, đã tốt nghiệp đại học về tâm lý và hành nghề trong nước (Hung) rồi. Giữa năm 1970, gia đình được sang Mỹ sống đời tị nạn, ông lấy lại bằng cao học tâm lý và may mắn tìm ngay được việc làm nhưng năm nào người ta cũng buộc ông ta phải theo học mãi mấy lớp (nghe, đọc, nói tiếng Mỹ) nầy từ năm, sáu năm nay rồi, với lý do là ông vẫn nói “sượng” tiếng Mỹ nên bệnh nhân đa số không chịu thổ lộ tâm sự của họ. Trên TV, đôi khi người Ấn Độ nói tiếng Anh phải có phụ đề tiếng Anh, người Mỹ mới hiểu.

Hóa ra, đọc và viết ngoại ngữ là một việc, nghe và nói lại là một việc khác. Nếu (ở quê nhà) học tiếng Anh theo như sách vở mà không đàm thoại, sẽ lâm vào tình trạng sau đây. Khi người đối diện hỏi một câu tiếng Anh. Câu đó sẽ hiện ra trong trí của người nghe, tự giải nghĩa, khi hiểu rồi mới xuất hiện câu trả lời để (đọc) cho người kia biết! Đó là thất bại của người không có dịp thực hành.

Những đứa trẻ Việt Nam, lớn lên ở Mỹ, tiếp xúc thường xuyên với bạn bè người bản xứ ở lớp học, ngoài xã hội, chúng nói y chang dân Mỹ. Chúng nói nhanh, đôi khi cha mẹ không hiểu! Người Mỹ đen, ở Mỹ đã mấy đời, nói tiếng Anh, giọng vẫn khác Mỹ trắng! Nghe radio, giọng Mỹ đen biết liền.

Hắn không có khiếu về nghe và nói. Ngay trong tiếng Việt, hắn viết được chút đỉnh, nhưng khi nói (tiếng Việt) lại không thành câu, ngọng nghịu như người mất lưỡi! Thời trước, có giáo sư Phan Thiện Giới, cũng bị “bịnh” ấy. khi giảng bài thì cứ lắp bắp, nhưng có đọc các bài viết của giáo sư mới biết ông ta rất giỏi. (Hắn không có ý so sánh mình với giáo sư Phan Thiện Giới)

Xin kể vài cái dốt của hắn trong tiếng Anh cho bạn nghe chơi. Một lần, (là cashier) hắn gọi cho một khách hàng, báo tin “Your credit card is expired” Bà khách “What?” liền. Rõ ràng, giấy tờ nào cũng ghi Expired là hết hạn. Hóa ra, chữ đó để chỉ cái chết. Phải dùng expiration date. Một lần khác, hắn gọi đến trường xin phép cho thằng con nghỉ bịnh. Hắn nói “My son is sick” Cô ta “Happy birthday…” Chúc mừng sinh nhật con mầy (six years old)” Đúng ra phải nói get sick (bịnh). Nhiều ông lớn tuổi, thời trẻ, có học Pháp văn. Qua Mỹ, biết được nhiều chữ hơi giống tiếng Pháp rồi đọc thành tiếng Pháp! Kinh nghiệm, trong giao tiếp có câu chào “How are you?” (Ông (bà) mạnh khỏe không?). Một bà Việt Nam, đi làm, người ta hỏi vậy, bà ta bảo rằng có đau đầu hoặc mất ngủ gì đó. Ít lâu sau người ta cho nghỉ việc (bịnh hoài!). Thực ra đó là câu xã giao thôi. Mình có sắp chết cũng chỉ nên trả lời “I am fine. Thank you!”.                                                                          Sau đây là vài chuyện vui về tiếng Anh.

Ở Mỹ, nhiều người (Mỹ) có con được nhà trường gửi về nhà giấy khen học giỏi. Cha mẹ thường dán cản sau xe mình sticker câu “My son is honor student at X. school” Có người (có lẽ con không học giỏi), dán sau xe mình câu “Your son is an honor student, but my son can beat the shit out of your son” (Con ông học giỏi, nhưng con tôi có thể đánh con ông vãi cứt) hoặc “Your kid may be an honor student, but you are still an idiot” (Con ông có thể là học sinh danh dự nhưng ông vẫn là thằng ngu xuẩn). Có người dán ở cản xe câu “My Westie is smarter than your honor student” (Westie, (là tên con mèo, con chó gì đó), thông minh hơn đứa học giỏi của mầy).

Ở Tiệp Khắc, trước một văn phòng du lịch có câu “Take one of our horse driven city tours. We guarantee no miscarriages” (Ý nói, mời khách du lịch thành phố bằng xe ngựa, không bao giờ lỡ xe. Nhưng chữ “miscarriage” là sẩy thai. Chữ lỡ xe là “miss the carriage”). Một khách sạn ở Bắc Kinh có câu tiếng Anh “The manager passed the water” (Quản lý đã đái…) Ý muốn nói “Quản lý xác nhận là nước (sạch) đạt tiêu chuẩn”.

Bây giờ qua chuyện bên Tàu. Người Việt mình nhờ dùng chữ La tinh nên các danh từ riêng (tên người, địa danh…) của Âu Mỹ có thể phiên âm dễ dàng hoặc để nguyên ta vẫn đọc được. Nhưng người Tàu phiên dịch tiếng Anh theo chữ Hán, kiểu Montesquieu, mình đọc theo chữ Nho (Hán-Việt) thành “Mạnh Đức Tư Cưu”, Washington thành “Hoa Thịnh Đốn” rất khó hiểu!

Sau đây mời bạn đọc một bản tin chữ Tàu được chuyển qua  tiếng Việt bằng tiếng Phổ thông. Để bạn thấy được cái rắc rối là tại sao một danh từ riêng của tiếng Tây, tiếng Mỹ lại biến dạng thành tiếng Việt mà khi đọc lên người Âu, Mỹ cũng mù tịt? Và người Việt cứ theo tiếng Tàu mà đọc, qua lối chữ Nôm (?), cũng không biết tên thật Mạnh Đức Tư Cưu hay Hoa Thịnh Đốn gốc tiếng Tây, tiếng Mỹ là gì?

Ví dụ tiếng Mạnh Đức Tư Cư u? Đâu ra?

Nó đây! Montesquieu  孟德斯鳩 Mengdesijiu.                       

Còn Hoa Thịnh Đốn? Có ngay! Washington  華盛頓 Huashengdun.                                 

          Sau đây là một bản tin của chú Ba (tàu), không ghi ngày tháng nào, được chúng tôi sưu tầm, đối chiếu để bạn đọc “Điên Cái Đầu” chơi! (Cám ơn “ông đồ trẻ” Nguyễn Thụy Đan đã giúp đỡ)

Thượng nghị sĩ Ước Hàn Khắc Lý (John Kerry) 約翰克里 Yuehan Keli của tiểu bang Mã Tát Chư Tắc (Massachussetts) 麻薩諸塞 Masazhusei  có thể ra tranh cử tổng thống vào năm 2008. Ông bắt đầu vận động từ tỉnh nhà là Ba Thổ Đốn (Boston) 波士頓 Poshidun. Ông Ước Hàn Khắc Lý học tại đại học Da Lỗ (Yale) 耶魯 Yelu.

Tổng thống Kiều Thị Bố Thập (George Bush), 喬治布什 Qiaozhi Bushi có vợ là Lao Lạp Bố Thập (Laura Bush), 勞拉布什 Laola Bushi, cũng học ở Da Lỗ, và học cao học ở đại học Cáp Phật (Harvard). Ông Bố Thập (Bush) ở tiểu bang Đắc Khắc Tát Tư (Texas), lên làm tổng thống năm 2.000, sau khi ông Khắc Lâm Đốn (Clinton), 克林頓 Kelindun rời chính trường. Ông Bố Thập mất nhiều đồng minh trong cuộc chiến tại Y Lạp Khắc (Iraq) 伊拉克 Yilake.

Thủ tướng Anh, Bố Lai Nhĩ (Blair) 布萊爾 Bulaier, Khắc-lâm-đốn 克林頓 Kelindun cũng không tán thành lập trường của ông Bố Thập, nhất là sau vụ tấn công Phí Lư Kiệt (Falluja) 費盧傑 Feilujie

Tình cờ tôi tìm thấy trên Internet một bản văn của một bác sĩ Việt viết tiếng Việt, hướng dẫn điều trị cho đồng hương, vì sợ họ không rành tiếng Mỹ. Đáng lẽ, chỉ nhờ người nào đó dịch ra tiếng Việt từ tiếng Anh là xong, nhưng anh ta, vì tự tin ở trình độ tiếng Việt (level: Cái book nó té!) của mình, đã tra tự điển và cứ thế mà điền vào.

Mời bạn thử làm thầy bói, đoán xem vị bác sĩ muốn nói gì?

 

Phạm Thành Châu

 

Views: 24

Một Ngày Sinh Hoạt với Ủy Ban Bầu Cử Cộng Đồng Vùng Hoa Thịnh Đốn

Trần Thị Tụ

Từ sáng sớm, trời đã mưa mau hột.

Bàn của UBBC đã được chuyển trước cánh cửa cổng phụ của Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo từ lúc 7 giờ sáng. 8 giờ 30 phút, tôi và anh Phạm Thành Châu chuyển từ xe, những vật liệu lỉnh kỉnh của trạm phiếu: thùng phiếu, phiếu bầu, sổ ghi danh, bút, tờ truyền đơn giới thiệu những liên danh ứng cử… có bị ướt, nhưng không sao… tuy rằng khi Trưởng trạm Dương Hòa Hiệp dán banner trên tường thì thật là vất vả, do bị ướt nên keo không dính được vào banner. Cuối cùng cũng hoàn tất. Cả ba chờ sau khi tan lễ, cử tri sẽ ghé qua bầu…

Ơ kìa, sao giáo dân với ô, dù lại đi thẳng ra xe! Tôi bạo gan đón ngay cửa, chỗ đoàn người đang túa ra.

– Mời ông, mời bà ghé trạm phiếu để bầu cử Cộng Đồng ạ! Mời, dạ mời…

Vài người lắc đầu. Vài người như không nghe. Trưởng trạm gọi:

– Chị Tụ, thôi!

Tôi quay về bàn phiếu với sổ ghi danh đã để sẵn, cả bút viết. Một bà độ trên dưới 40, ghé vào bàn.

– Bầu gì vậy chị?

– Dạ bầu đại biểu Cộng Đồng.

– Không phải bầu Chủ Tịch Cộng Đồng hả chị?

– Dạ không ạ!

– Rồi biết bầu cho ai đây?

– Quảng đại thì bầu cả 7 LD, chọn lọc thì bầu LD nào xem đẹp mắt!! Hi, hi! Tôi cười cười.

– Ồ sao toàn là phụ nữ không thôi vậy? Một bà khác hỏi.

Anh trưởng trạm lên tiếng: LD4 có 2 đàn ông nè!

Lại giọng một nữ cử tri:

– Không nghe trạm phiếu chỉ dẫn đâu, toàn là gò cho đội nhà thôi!

-!!!

Buổi rước lễ khác lại bắt đầu. Có khoảng 15 cử tri đã bầu phiếu.

Ba người chúng tôi được tiếp tế lương thực từ ông Trưởng Ban Bầu Cử Nguyễn Quang Dũng. Mỗi người một ổ bánh mì thịt và 1 chai nước lọc.

Tan lễ, lại một loạt cử tri đến bầu. Đa số là đứng tuổi. Trú sở của họ ở nhiều nơi khác nhau: Arlington, Falls Church, Springfield, Fairfax, cả McLean nữa. Lần tan lễ này, tôi kéo được bà bạn, tóc bạc trắng. Bà Mai, vợ của một Võ Bị Đà Lạt, anh Tiến. Mai nhìn vào sổ ghi danh và trách:

– Lễ ở Giáo Xứ đông vầy mà chỉ có mươi mạng đi bầu thôi à?

– Tại vì vận động bầu cử dở ẹt, phải không Bà? Tôi hỏi lại Mai.

May thay, có một ông hơi tròn người mặc áo polo ngắn tay, giọng oang oang:

– Lại đây bầu đi quý vị. Nhiều người đẹp lắm. Có bảy liên danh, thêm tôi là liên danh tám. 21 vị này nặng lòng với Cộng Đồng lắm đây. Đắc cử, làm được việc, không biết có được khen không, chứ làm không được việc thì bị chưởi, bị xài xể dữ à! Dầu gì họ cũng can đảm và xứng đáng để được cử làm đại biểu cho đồng hương mình.

Giọng ông nói to và động tới trái tim VN của cử tri. Một số đông chờ ghi danh.

Ngẩng lên sau mải miết ghi danh, tôi chợt thấy chị Vũ Bá Hoan, nàng dâu trẻ nhất của Hành Chánh.

– Lâu quá không gặp. Cho xin Photo ID. Và phiếu bầu đây! Chị Hoan cười, trông chị trẻ đẹp hơn xưa!

Thình lình, anh Hiệp, đồng hương Quảng Trị, với áo chemise có thắt cà vạt, tiến đến trước mặt tôi:

– Anh chị làm việc dữ hè. Tôi đi bầu ủng hộ tinh thần dấn thân của anh chị. Tìm đâu ra 7 liên danh ứng cử vừa đúng với quy định vậy? Giỏi lắm. Mọi chuyện đã đổi thay so với thời trước Covid-19 đấy! Được thế này là may rồi. Còn Washington DC không tìm ra được liên danh nào sao?

Tôi cười, không nói, thầm nghĩ rằng: Sao anh chạm đúng chỗ UBBC gặp khó khăn vì thời gian gấp rút mà lại không có Văn Phòng Thường Trực giải quyết, đành làm cho kịp để có Tân Hội Đồng Đại Diện rồi nhờ thẩm quyền của Tân Hội Đồng Đại Diện giải đáp cho.

Như đọc được suy nghĩ của tôi, anh vừa bỏ phiếu vừa cười nói:

– Làm với thiện tâm, Chúa sẽ trả công bội hậu cho.

– Cảm ơn anh.

Số người đi bầu trên 30 người. Tới giờ rước lễ lại vắng hoe. Một giờ trưa, chúng tôi thu xếp ra về. Bỗng trong số người tan lễ có một cô bé, mặc áo dài trắng, chạy theo tôi, gọi với:

– Cô ơi, cô nhớ con không?

– Dạ, không.

– Con là Nguyễn Thanh Tâm, bạn của Thứ (tên con gái tôi) đây Cô.

– Ồ nhớ rồi.

– Con bầu phiếu còn được không Cô?

– Được, được chứ, được chứ!

– Cô cho con bầu cho Liên Danh có cô Nguyễn Bích Duyên Day.

Không hiểu sao tôi nhanh nhẩu thế? Phá vỡ nguyên tắc nhanh thế! Tại vì Bé là người trẻ duy nhất trong buổi bầu phiếu mà tôi tham gia sinh hoạt với UBBC hôm nay, 11 tháng 9 năm 2022. Bé đã cho tôi một niềm tin, một hy vọng, một sức mạnh để sinh hoạt và yêu thương Cộng Đồng.

Tất cả các cử tri của phòng phiếu Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo mà tôi được phục vụ hôm nay, dù ít ỏi, đều là các CỬ TRI VÀNG đối với tôi, với các ứng cử viên, và với tổ chức Cộng Đồng.

Chúng tôi, vẫn ba người như trên, lại phụ trách một địa điểm đầu phiếu khác: Nhà già Woodland Hill Apartments, ở Carlin Spring, Arlington.

Ở đây nhờ sự giúp đỡ của Bà Trần thị Na, người đại diện cho các cụ già Việt Nam trú ngụ tại đây. Bàn đầu phiếu có sẵn trong phòng sinh hoạt của Nhà Già. Bà Na giúp chúng tôi rất nhiều: Bà gọi các Cụ, từng phòng, xuống trạm bầu phiếu. Nghe đâu bà giúp các Cụ rất nhiều việc, liên lạc với nơi thiện nguyện chương trình cung cấp thực phẩm cho các Cụ già, neo đơn. Giúp thư viện cung cấp sách đọc… Nhiệm kỳ nào Cộng Đồng tổ chức bầu cử đều nhờ Bà vận động. Bà quả thật tốt, âm thầm trong công tác phục vụ.

Hai tiếng đồng hồ chúng tôi thâu được 16 phiếu. Cử tri nào cũng hỏi liên danh Bà Phích số mấy để bầu, hỏi liên danh Văn Phòng Luật Sư Bích Duyên Day. Các Cụ ông đa số bầu cho các liên danh trẻ, liên danh có phái nam. Có cụ sinh năm 1929 vẫn đi bầu. Các cụ nói, có một số đã đi bầu ngoài Eden. Quý cụ cao niên theo dõi rất sát và áp dụng đúng thể thức bầu cử, không bầu hai lần. Tinh thần quá cao, các Cụ cử tri ơi! Lại là các cử tri vàng, đối với tôi. Phục các cụ sát đất.

Tôi về chỗ đã hẹn đếm phiếu, sớm nhất, 4 giờ 30 chiều. Anh Dương Hòa Hiệp trưởng trạm làm rất đúng nguyên tắc, các thùng phiếu do chính anh niêm và ký tên. Để sẵn chờ trưởng ban đếm. Rồi tới anh Tạ Cự Nguyên (trạm phiếu Phở 75, Falls Church). Anh Hoàng Đức Long, trưởng hai trạm Maryland về tiếp liền. Trạm Eden thu dọn lâu, về sau cùng, nhất là trưởng trạm cũng là Trưởng Ban Bầu Cử Nguyễn Quang Dũng còn ghé mua gà chiên, khoai tây chiên.

Chúng tôi ăn chút chè lạnh, ăn gà chiên (fried chicken) tỉnh người lại và bắt đầu huyên thuyên.

Trạm Phở 75 khoe chỗ anh toàn nhân vật tai to mặt lớn đến bầu: Vợ chồng cựu chủ tịch Đinh Hùng Cường, Hội trưởng Quốc-Gia-Hành-Chánh Nguyễn Kim Hương Hỏa, Bà Khúc Minh Thơ, Nguyễn Văn Tần, ứng cử viên Trần Đại Bản, Mary Chi Ray, Diệp Vương.. Lại còn xảy ra vụ anh Thế Linh khiếu nại sao không đề nghề nghiệp hay bằng cấp của các ứng cử viên giúp cử tri tin tưởng và dễ chọn lựa hơn. Nghe thì hợp lý nhưng áp dụng thì gây hậu quả “phán xử phân biệt” trong khi bầu cử cần bình đẳng để dễ hợp tác hơn. Ý kiến của anh Thế Linh nếu đưa ra với Văn Phòng Thường Trực thì đúng hơn. UBBC chỉ lo các thể thức thôi.

Tôi quan tâm đến số phiếu bầu hơn. Hỏi anh Nguyên được bao nhiêu. Anh đáp gọn lỏn 34 phiếu và anh đổ tại trời mưa! Bên Maryland 2 địa điểm được 42 phiếu (15 +27), và thêm 6 phiếu bầu MD có được ở trạm Eden. Tổng cộng MD được 48 phiếu. Trạm VA-3 và VA-4 của anh Hiệp được 53 phiếu (37+16). Tưởng là trạm Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo (VA-3) vận động bầu cử yếu nên phải mời chào cử tri. Ai ngờ Eden cũng vận dụng “chiêu” này. Bích Phượng ra chiêu nhiều nhất. Thật dễ thương làm sao, Bích Phượng ơi! Trưởng trạm Dũng kể Hội Hành Chánh có Giáo sư Cao Thị Lễ, anh chị Nguyễn Đình Thụy, anh chị Trương Vĩnh Tiền, anh Lê Văn Quan… hưởng ứng bầu cử Cộng Đồng làm anh rất cảm động. Giáo Sư Kim Oanh ra Eden bầu còn lì xì 2 đồng cho từng nhân viên trạm phiếu.

Anh Thái hỏi:

– Liên Hội có ủng hộ Bầu Cử Cộng Đồng không ta?

Anh Hoàng Đức Long lên tiếng:

– Ở Maryland các anh Hội Trưởng GĐ Nhảy Dù Trần Hồng Minh, Hội Trưởng Không Quân Nguyễn Minh Toàn, Hội Trưởng Hội Cao Niên Việt Mỹ Maryland + Ban Đại Diện CĐ Bùi Mạnh Hùng đều có ra bầu cử. Trạm phiếu Maryland đặt ở hai chợ LA Mart và Angkor nên chúng tôi được mời giải khát… cà phê. (Sao không là bia nhỉ?! Anh Long cười cười hỏi.)

Anh Dũng, trạm Eden nói:

– Hội Trưởng Võ Bị Đà Lạt Võ Nhẫn, mới bị vấp té ngã cũng chống gậy ra Eden bầu, VB Lân và vợ; Phó Hòa, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức; Gia Đình Thiết Giáp Nguyễn Kháng lặn lội từ Hay Market ra Eden bầu,… nhiều.. nhiều lắm. Hội trưởng Gia Long Duyên Phan; Hội Quảng Trị: anh chị Thương; Hội Trưởng Hội Tình Thương anh chị Lê Tống Mộng Hoa; Gia Đình Nữ Quân Nhân Nguyễn thị Bé Bảy và con trai. Ông Nguyễn Mậu Trinh, Đại Diện Cộng Đồng, 8 giờ sáng đã có mặt ở Eden. Cựu Hội Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ dù đã 90, anh chị vẫn ra Eden sớm để bầu, và anh chị Dân. Hội Trưởng Hội Cảnh Sát Hồ Văn Tâm, anh Hà Văn Sang; Trưởng Đoàn Thanh Thiếu Niên Đa Hiệu Đỗ Anh Tú, Hậu Duệ Võ Bị Đà Lạt, cùng con trai đi bầu ở Eden. Hội Cao Niên: anh chị Paul Vân + Tuyết Lê dù tận Frederick đã đến bầu ở Eden, ông Bùi Hữu Thư, anh Cao Nguyên, anh Nguyễn Thìn, Lapha Hà Vân, anh chị Đào Hiếu Thảo + Thuận…

Truyền thông, Báo Chí đa số bỏ phiếu ở Eden (đất săn tin rất tốt): Trần Việt Tân – Nguyễn Hữu Điển (báo Đời Nay), anh chị Võ Thành Nhơn (VATV), Đào Hiếu Thảo, Phúc Nguyễn (THVN HTĐ), Vũ Doanh (VIETV), Vũ Đình Trường (TMMĐ). Truyền thông và Báo chí đã tích cực phổ biến bầu cử và kêu gọi cử tri.

Đa số các ứng cử viên đại biểu đi bầu tại Eden: Nguyễn Bích Duyên Day, Nguyễn Hồng Vân, Võ Phích, Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Trần Thủy Tiên, Vũ Thị Mến… Lúc nào Eden Center cũng vẫn là nơi quy tụ người Việt đông nhất, như trạm bầu cử Eden có tới 146 phiếu bầu.

Anh Thái, thủ quỹ của UBBC, lên tiếng về thù lao. Mọi người im lặng nghe anh Thái nói:

– Trạm Eden, anh Thái và anh Dũng trưởng trạm: không lương. 3 nhân viên trạm phiếu, 100 đô /1 người

– Trạm Phở 75, anh Nguyên trưởng trạm: không lương. 2 nhân viên trạm phiếu, 100 đô /1 người

– Trạm Giáo Xứ và Nhà Già, anh Hiệp trưởng trạm: không lương, 2 nhân viên trạm phiếu, 100 đô/1 người

– 2 chợ ở Maryland, Hoàng Đức Long trưởng trạm: không lương, 3 nhân viên trạm phiếu 100 đô/1 người

Nhân viên trạm phiếu kỳ này ăn lương 100 đô/1người thật nhàn hạ; bởi không cần xử dụng máy điện toán, hệ thống ngăn ngừa bầu cử hai lần, ba lần! Bản chất trong sạch cuộc bầu cử kỳ này vốn tự có, nên phẳng lặng như mặt hồ Thu!

Chả bù với những lần bầu cử trước Covid-19. Lần cựu chủ tịch Đinh Hùng Cường (2016-2018), liên danh quy định cần tuyển là 24 mà liên danh ứng cử lên đến 48. Tranh cử sôi nổi! Thời cựu chủ tịch Lý Bảo (2018-2020) liên danh cần tuyển là 17, số liên danh tranh cử là 34. Thư Hùng! Vất vả nhất vẫn là các trưởng trạm. Hai lần đó, số cử tri đi bầu mỗi lần xấp xỉ 1200. Việc kiểm soát phiếu bầu, mở phiếu và đếm phiếu, và để đi đến kết quả tạm thời cũng phải làm việc từ 6 giờ chiều đến tận 6 giờ sáng hôm sau, 5 trưởng trạm và phóng viên truyền hình làm việc trong điềm tĩnh, cũng phải phờ phạc!

Ủa, sao trưởng trạm làm cực và trách nhiệm quá nặng trước tổ chức Cộng Đồng mà không có chút thù lao nào vậy? Lỡ lúc cần kíp, hãnh diện và danh dự đâu đổi ra tiền được?

Không biết cảm ơn các ủy viên Bầu Cử Cộng Đồng (BCCĐ) như thế nào đây?

Tất cả đồng ý cùng nhau đếm phiếu và Trưởng Ban BCCĐ sẽ công bố kết quả vào Thứ Hai, ngày mai đúng như quy định của Hiến Chương.

Tất cả thùng phiếu được 5 Ủy Viên đếm công khai, và rất khớp với số ghi danh tại từng trạm.

Đang khui thùng phiếu và đếm phiếu thì anh Phúc, Truyền Hình Việt Nam, đến. Bích Phượng cũng tự động ghé qua. Các thành quả được máy camera của anh Phúc ghi nhận. Bích Phượng, anh Phúc và UBBC có với nhau những tấm hình đẹp, những giây phút thoải mái sau một ngày phục vụ, thật khó quên.

5 ủy viên thành thạo này hoàn tất kết quả bầu cử một cái vèo, khoảng hai tiếng đồng hồ.

Lòng thoáng buồn trước kết quả nhỏ nhoi này, so với nỗ lực không ngưng nghỉ của UBBC. Nhưng khi xuyên qua những phản hồi của các CỬ TRI VÀNG (theo ý riêng tôi), những tham gia nhiệt thành của các ứng cử viên dấn thân, vào một tổ chức vốn trì trệ, lại vừa trải qua thời kỳ Covid-19 èo uột, cho nên dù kết quả khiêm nhường đến đâu, tôi vẫn hy vọng và đặt tin tưởng vào đứa con so của một vận hội mới sau cơn ngủ vùi mùa Đông (Covid-19). Lần đầu tiên số liên danh ứng cử lại trùng khớp với số liên danh cần tuyển. Gian lận không còn là âu lo. Số ứng cử viên nữ có phần đông hơn nhưng hai lớp già trẻ vẫn đề huề. Các Hội Đoàn và Nhóm đã hình thành nó. Các cử tri đã tiến cử nó. Văn hóa Việt Nam đã chân chất tạo ra nó. Chúng ta có cơ sở để trao gửi niềm tin: Tân Hội Đồng Đại Diện nhiệm kỳ 2022-2024 gồm 70 thành viên sẽ tạo kỳ tích.

Cạnh những dân tộc thiểu số khác cùng sống trong hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, phát huy bản gốc CỘI NGUỒN từng dân tộc là điều tất yếu.  Điều đó rất phù hạp với bản chất Nhớ Nguồn (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và Dễ Thích Ứng (thiên thời –lẽ trời, địa lợi –lẽ tự nhiên, nhân hòa -hòa là quý nhất trong đời sống) thường có ở người Việt. Với mẫu số chung ấy, chúng ta tham gia Cộng Đồng, chứ chẳng phải Cộng Đồng hay Chủ Tịch Cộng Đồng, hay Đại Biểu Cộng Đồng là đại diện cho mấy chục ngàn cư dân Việt nơi thủ đô này. Chẳng chút nào!

Nghĩ như thế cho nên tôi vẫn tích cực hy vọng, không còn bận tâm đến số phiếu bầu khiêm nhường!

Xin tất cả chờ nhau tại Phiên họp Tân Hội Đồng Đại Diện Bầu Thành Phần Lãnh Đạo vào Chủ Nhật 25 tháng 9 năm 2022 để cống hiến tâm trí, ý nguyện phục vụ Cộng Đồng.

* Hình ảnh do UBBC cung cấp.  

 Trần Thị Tụ (*)

  (* ) phu nhân anh Nguyễn Quang Dũng (ĐS 22) 

Views: 44

Picnic mùa hè 2022 của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông

Đào Hiếu Thảo

Hội cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông tổ chức buổi pinic vào ngày chủ nhật 28 tháng 8 năm 2022 từ 11 giờ sáng đến 3 giờ trưa tại Mason District Park, Annandale, Virginia với sự tham dự của quý vị cựu giáo sư, các cựu sinh viên, thân hữu và gia đình.

Ngoài ra có sự hiện diện của đại diện Cộng Đồng vùng Washington DC, Maryland, Virginia, các hội đoàn quốc gia và cơ quan truyền thông, báo chí.

Được biết, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là cơ sở giáo dục của chính thể Cộng Hòa, tiền thân là Trường Quốc Gia Hành Chánh thành lập năm 1952 tại Đà Lạt đến năm 1955 chuyển về thủ đô Saigon. Mục tiêu của Học Viện là đào tạo cấp chỉ huy hành chánh có trình độ đại học và cao học để phục vụ các cơ quan công quyền tại trung ương và địa phương.

Ô. Nguyễn Kim Hương Hỏa, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành

Khai mạc buổi họp mặt, ông Nguyễn Kim Hương Hỏa, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành chào mừng quý vị giáo sư, quan khách, đồng môn, bằng hữu đến hội ngộ, gặp gỡ, chung vui, hàn huyên sau hơn hai năm xa cách vì đại dịch Covid 19 khiến mọi sinh hoạt bị đình chỉ. Ông Hương Hỏa giới thiệu quý vị giáo sư và các huynh trưởng, đồng môn từ khóa Đốc Sự 1 đến 22 và khóa Cao Học 1 đến 10.

Ô. Nguyễn Quang Dũng, Phó Chủ Tịch Nội Vụ

Ông Nguyễn Quang Dũng, Phó Chủ Tịch Nội Vụ giới thiệu quý quan khách, đại diện hội đoàn và cơ quan truyền thông, báo chí.  Ông nói đây là dịp để chuyện trò thân mật, tạo tình thân ái trong đại gia đình Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông và bằng hữu gần xa.

Ô. Lê Văn Quan, Tổng Thư Ký

Ông Lê Văn Quan, Tổng Thư Ký thông báo quyết định lưu nhiệm thành phần nhân sự trong Hội Đồng Quản Trị và Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2021-2023 được bầu từ mùa hè 2019.

Theo đúng Nội Quy của Hội,  picnic mùa thu tháng chín năm 2021,  là thời điểm tổ chức bầu lại hai Hội Đồng kể trên, tuy nhiên vì sự lây lan ngu

y hiểm của dịch bệnh nên rất tiếc vào giờ chót sinh hoạt này được dời lại đến khi tình thế cho phép. Sang năm 2023, Hội sẽ tiến hành bầu cử nhân sự mới cho nhiệm kỳ 2023-2025.

Nhân sự được lưu nhiệm trong Hội Đồng Quản Trị có: ông Lê Hữu Em, Chủ Tịch, quý Thành Viên là Giáo Sư Cao Thị Lễ, ông Trần Hồng, bà Lâm Kim Dzung, ông Đỗ Quang Tỏa.

Ban Chấp Hành có: ông Nguyễn Kim Hương Hỏa, Chủ Tịch, ông Trương Đình Thăng, Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ & Văn Nghệ, ông Tạ Cự Nguyên,  Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ & Cộng Đồng, ông Nguyễn Quang Dũng, Phó Chủ Tịch Nội Vụ & Webmaster của Hội, ông Phạm Thành Châu, Trưởng Ban Báo Chí, ông Lê Văn Quan, Tổng Thư Ký, ông Vũ Bá Hoan, Thủ Quỹ.

Trong buổi tiệc, có phần cắt bánh và chúc mừng sinh nhật các đồng môn “tám bó” trở lên.

Quan khách và hội viên cùng thưởng thức thực đơn đặc sắc, đa dạng, độc đáo do Hội đài thọ rất dồi dào, thân hữu còn đóng góp thêm hàng chục món nữa, nên bà con được “ăn, được nói và được gói mang về”.

Đại Huynh Cao Toàn cắt bánh mừng sinh nhật

Ai ai cũng đều bày tỏ niềm vui trọn vẹn vì khá lâu rồi mới lại có một buổi họp mặt đông đủ, mừng rở như thế, “ăn uống no nê” nói chưa hết chuyện “thế sự thăng trầm”, “trong nhà, ngoài ngõ…” thì đã đến lúc tạm biệt sau khi chụp chung tấm hình lưu niệm buổi hội ngộ picnic 2022 đáng ghi nhớ.

Đào Hiếu Thảo/ Th2  

 

Views: 32

Việt Nam Trong Chiến Tranh Lạnh Mỹ – Trung

Nguyễn Bá Lộc

Chiến tranh lạnh hiện nay giữa Hoa kỳ và Trung cộng công khai bắt đầu từ “Chiến tranh mậu dịch” (Trade war) hồi tháng 7/2018. Rồi sự xung đột giữa hai bên lan rộng qua các lãnh vực khác và ảnh hưởng trên toàn cầu. Sự đối đầu càng ngày càng căng thẳng.

Vì ở trong vị trí và hoàn cảnh đặc biệt, Việt Nam bị ảnh hưởng và tác động mạnh bởi chiến tranh lạnh mới nầy.

I.TÓM LƯỢC CHIẾN TRANH LẠNH MỸ-TRUNG

1. Nguồn gốc Chiến tranh lạnh mới (New Cold War)

Định nghĩa Chiến tranh lạnh (Cold War)

Dựa theo tự điển và các nhà nghiên cứu, thì “Chiến tranh lạnh là cuộc chiến không bằng võ lực, giữa hai hay nhiều quốc gia,với mức độ rộng lớn và mục tiêu quan trọng, có ảnh hưởng nhiều đến thế giới”.

Chiến tranh lạnh cũ (Cold War I, CW1) (1945-1991) xảy ra sau đệ nhị thế chiến, giữa Hoa kỳ và Liên xô, nói rộng hơn là  giữa Khối Dân chủ Tự do và Khối Cộng sản.

Bản chất của CW1 là xung đột về chánh trị, nguyên tắc chủ nghĩa CS, đi kèm là kinh tế, và khoa học kỹ thuật.

Còn Chiến tranh lạnh hiện nay (New Cold War, CW2), xảy ra giữa Hoa kỳ và Trung cộng, căn bản là kinh tế, với yếu tố phụ là nguyên tắc của Dân chủ đối đầu với Chuyên chính.

Bối cảnh: Sự khác biệt và đối nghịch về hệ tư tưởng chánh trị và mô thức kinh tế. Tự do dân chủ và Chuyên chính vô sản đã được hình thành và lớn mạnh trước đệ nhị thế chiến. Sau khi liên kết chống và thanh toán được phát xit, hai khối quay lại chống nhau với mục tiêu phải triệt hạ, chớ không thể dung hòa. Hai phe cùng phát triển mạnh và đương đầu trên nhiều mặt trận khắp thế giới. Cuối cùng Liên sô sụp đổ (1991). Hoa kỳ coi như thắng. Nhưng không trọn vẹn, vì một mảng của khối CS, gồm Trung cộng, Việt nam, Cuba, Bắc hàn còn sống với một số biến dạng. Đó là mầm mống của chiến tranh lạnh mới Mỹ-Trung hiện nay.

Sự khác biệt giữa hai cuộc Chiến tranh lạnh.

Sự khác biệt trên 3 điểm về mục tiêu và sách lược:

Về chủ thuyết, Hoa kỳ vẫn dựa trên Dân chủ Tự do và Nhân quyền, nhưng Trung cộng có thay đổi phần nào khác Liên sô, Trung cộng nay là nước cộng sản biến thể, áp dụng theo phân nửa là kinh tế tự do, chánh quyền vẫn độc tài toàn trị.

Về mặt trận chiến đấu, nay phức tạp hơn chiến tranh lạnh cũ nhiều. Ngày nay TC sau khi mạnh về kinh tế, lợi dụng các nhà kinh doanh ngoại quốc của mọi quốc gia dưới sự hợp tác nào đó. TC còn thâm nhập vào một số cơ chế, công ty kỹ thuật cao của Hoa kỳ hay đồng minh, và một số cơ quan quốc tế.

Con đường tiến rất nhanh đó của TC gây sự thiệt hại lớn cho Hoa kỳ về kinh tế lẫn giá trị tinh thần.

Mối tương quan Mỹ-Trung trong 70 năm qua có thể tóm tắt: Chống đối, Thương lượng, Hòa hoãn, Hợp tác, Đương đầu và Hợp tác một số mặt. Với các mốc thời điểm :

1949 Chế độ CS thành lập ở Trung hoa. 1950 Mỹ TC đụng mạnh ở chiến tranh Triều tiên, 1972 Mỹ TC bắt tay. 1978 TC đổi mới kinh tế,1979 Mỹ TC thiết lập bang giao, 2000 Mỹ TC đạt Thỏa ước mậu dịch, 2008 TC là chủ nợ lớn nhứt của Hoa kỳ, 2010 TC là siêu cường kinh tế thứ nhì, 2011 Hoa kỳ chuyển trục qua Á châu, 2012 Hai bên có căng thẳng mậu dịch, 2015 Hoa kỳ cảnh cáo TC về Biển đông, 2018 Chiến tranh mậu dịch Mỹ Trung, 2018 PTT Pence: Mỹ cứng rắn với TC, Mỹ tăng cường độ chiến tranh mậu dịch, 2019, Mỹ cho TC lũng đoạn tiền tệ, 2019 TT Trump ban hành luật ủng hộ phe chống đối Hồng kông, 2020 Mỹ TC thỏa ước mậu dịch “Phase I”, 2020 căng thẳng về đại dịch, Ngoại trưởng Pompeo tuyên bố các cam kết với TC đều thất bại, 2021 Mỹ cho TC diệt chủng ở Tân cương, 2021 TT Biden giữ thuế quan do TT Trump đưa ra, 2021 Biden – Tập cận Bình họp cố tránh xung đột. Hai phái đoàn Mỹ TC lại họp thảo luận tìm một thỏa ước.Vấn đề còn yên đó tới nay.

2.Diễn biến chiến tranh lạnh mới (CW2)

Sau khi nghịch với Liên sô, TC làm thay đổi mạnh mẽ, lại quay bắt tay với Hoa kỳ (1972).

TC tìm con đường đi mới, về chánh trị và kinh tế. Sách lược mới là kinh tế trước đã, theo chủ trương của Đặng tiểu Bình khởi đầu từ 1978, với mô hình phối hợp hai nền kinh tế tự do và XHCN. TC mở rộng cửa ra thế giới, lúc đó phong trào toàn cầu hóa do Mỹ lãnh đạo lên rất cao. Trong hơn 40 năm, TC trở thành siêu cường kinh tế thứ hai thế giới. Lợi tức đầu người từ $155,2 (1978) lên $6991,9 (2015). Thế giới kinh ngạc, để tâm đến sự thành công của“con đường Trung quốc mới”

Mặt khác, trong quảng thời gian đó, Mỹ ỷ y, không hiểu thâm mưu của TC, lại vướn vào chiến tranh Trung đông,và khủng bố quốc tế, Mỹ gần như buông lỏng TC.

Vài con số kinh tế Hoa kỳ và TC năm 2019. (Nguồn World Bank)

GDP             Xuất cảng        GDP/đầu người

Mỹ      $21374 tỷ     $1646 tỷ           $65,165

TC      $14,343 “      $2479 “            $10,260

Cuộc chiến chánh thức vào tháng 7/2018, một khởi đầu dù trễ còn hơn không, TT Trump ra chiêu tăng thuế quan từ 10% lên 25% hàng TC nhập vào Hoa kỳ. Trận mở màn nầy có tên là “Chiến tranh mậu dich”(Trade war) (7/2018). Tiếp theo đó, các mặt trận khác. Tương quan Mỹ Trung càng căng thẳng, và lan rộng ra ảnh hưởng cả thế giới. Một “chiến tranh lạnh mới” bắt đầu, nay chưa có dấu hiệu chấm dứt hay đình chiến.

Mục tiêu của Hoa kỳ và Trung quốc.

TC có 3 mục tiêu:

Muốn đoạt ngôi vị thứ nhứt trên toàn cầu, hoặc ít nhứt bằng Mỹ tới năm 2049, thứ hai là chứng tỏ “mô hình chánh trị kinh tế mới” (XHCN trong thời đài mới)tốt hơn, thực tế hơn, thứ ba là trả mối hận thù xưa TQ bị các nước tư bản xâu xé.

Còn mục tiêu của Mỹ là chống đỡ TC, để bảo vệ địa vị số một trên thế giới, thứ hai là bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, thứ ba là bảo vệ giá trị Dân chủ Tự do và Nhân quyền.

Nếu TC lên số một lãnh đạo thế giới thì sẽ có một trật tự mới, sẽ có tai họa lớn cho mọi quốc gia.

Do đó TC và Mỹ đã có những cuộc chạy đua và cạnh tranh:

Về kinh tế, đến 2016 TC hơn về xuất khẩu. Dù GDP TC thua.

Về khoa học kỹ thuật, dù còn thua Mỹ, TC tiến nhanh nhờ qua cách ăn cắp, buộc công ty FDI nộp bản kỹ thuật, và nỗ lực của chính TC:

– Về chiêu dụ các nước, tung tiền viện trợ, hợp tác đầu tư.

– Về quân sự,TC tăng nhịp độ nhanh, nhưng còn kém Mỹ.

– Về chánh trị và tuyên truyền, TC vận động mạnh mẽ các nước.

TC cho rằng mô hình “XHCN thời đại mới” tốt hơn. Tư bản đang lỗi thời và còn nhiều tệ hại. Mỹ và đồng minh thức tỉnh, thấy được khó khăn và mối nguy hiểm từ TC. Đa số dân chúng, và truyền thông Mỹ và nhiều nước Tây phương cũng hiểu TC nay là đối thủ chớ không phải là đối tác nữa.

Cái mối nguy trước mắt cho Mỹ là mậu dịch và đầu tư, nhập siêu hàng TC vào Mỹ tăng nhanh quá (trên dưới $500 tỷ/năm trong mấy năm gần đây), Mỹ yêu cầu TC giảm nhập siêu $100 tỷ/năm. Còn FDI Mỹ vào TC quá nhiều làm trong nước Mỹ bị thất nghiệp cao, kỹ nghệ trong nước xuống, vì không cạnh tranh nổi hàng TC giá quá rẽ. Mỹ đưa ra kế hoạch chiêu dụ các công ty hồi hương. Mặt khác xuất cảng giảm vì bị TC cạnh tranh hàng hóa trên thế giới, và nắm độc quyền nhiều chuổi cung ứng. TC nhập nội đầu tư cạnh tranh ngay tại Mỹ.

Về Khoa học & Kỹ thuật, Mỹ bị TC đánh cắp và xâm nhập vào các trung tâm nghiên cứu chiến lược, cũng như một số nhà nghiên cứu Mỹ cộng tác hay bán kết quả cho TC. Hoa kỳ phản công bằng cách bắt các nhà nghiên cứu bán tài liệu cho TC, cấm công ty quốc phòng Mỹ mua bộ phận điện tử TC, cấm một số công ty TC mua bán với Mỹ, vì an ninh quốc gia.

Về Bang giao quốc tế và an ninh, TC từ nhiều năm qua chiêu dụ kết hợp đối tác và đồng minh khắp năm châu bằng tiền bạc, viện trợ lớn, như đại kế hoạch Belt & Road. Mỹ và đồng minh đã nhận ra và phản công bằng sự củng cố khối Dân chủ (TT Biden có buổi họp hồi tháng 10/2021 với 100 quốc  gia), Mỹ và Âu châu lập Liên minh chận TC ở Á châu Thái bình dương, với Bộ tứ Mỹ, Nhựt, Ấn, Úc, và Bộ ba Mỹ, Anh, Úc, Mỹ tiếp cận o bế ASEAN, hứa sẽ viện trợ cho các nước vùng Á châu Thái bình dương, cam kết sát cánh với Nhựt, Nam hàn và Đài loan, đồng thời đoàn kết hơn nữa với Âu châu để chống TC. Diễn tiến đó theo các nhà nghiên cứu, là “chiến tranh lạnh mới”

II. TÁC ĐỘNG CHIẾN TRANH LẠNH MỸ TRUNG ẢNH HƯỞNG VIỆT NAM   

Chiến tranh lạnh Mỹ Trung hiên nay đưa đến nhiều hậu quả trên thế giới mà VN là một trong số các quốc gia bị tác động và chịu ảnh hưởng nhiều nhứt. Ở trong hoàn cảnh và vị thế có tầm quan trọng khá đặc biệt,VN có thể lại trở thành một nạn nhân, hay có thay đổi lớn nếu sự xung đột mạnh nữa.

Là một cuộc chiến có nguồn gốc là kinh tế, nên phần trình bày tóm lược dưới đây chánh yếu là về phương diện kinh tế.

1. Các lãnh vực bị tác động và ảnh hưởng

Chánh tri kinh tế xã hội VN không bình thường. Nay có tác động mạnh từ bên ngoài, tình hình khó khăn nhiều hơn nữa. Các lãnh vực chánh bị tác động và ảnh hưởng:

Về kinh tế, VN sống chánh yếu là dựa vào kinh tế đối ngoại, xuất cảng và đầu tư ngoại quốc. VN mở cửa rất rộng trong hội nhập toàn cầu, đã có 17 Hiệp ước mậu dịch và rất nhiều đối tác. Mỹ và TC là hai nước có tương quan kinh tế lớn nhứt với VN, nhứt là ngoại thương, VN còn là một trong những nơi thuận tiện cho các công ty ngoại quốc từ TC di dời, và VN có tiềm năng thay thế TC về một số chuổi cung ứng (supply chain) cho thế giới. Nhưng kinh tế VN dù có mức phát triển cao, nhưng vì không có công bằng kinh tế, công bằng xã hội, nền kinh tế đó dễ bể nát khi có biến cố.

Về Địa chánh trị, cuộc chiến Mỹ Trung xẩy ra trên toàn cầu, vì ảnh hưởng của hai siêu cường nầy rộng lớn trên cả thế giới. Nhưng chiến trường chánh yếu là Á châu Thái bình dương, vùng có tiềm năng dầu lửa lớn và hải lộ quốc tế quan trọng. Các nước Đông nam Á có sức phát triển mạnh và bền vững. VN là quốc gia có vị thế trọng yếu, là trung tâm vùng, là cửa ngỏ của TC ra Biển đông. Đối với Hoa kỳ và đồng minh cũng xem vùng nầy rất quan trọng. Mỹ và TC là hai nước có tương quan kinh tế lớn nhứt với VN, vì vậy có ảnh hưởng lớn với VN chẳng những về kinh tế mà còn về an ninh trong vùng.

Về chánh trị và bang giao quốc tế. VN vẫn còn là một nước XHCN, một nước độc tài chuyên chính. Bất công xã hội, tham nhũng, vi phạm trầm trọng ‎nhân quyền Dân quyền, là những vấn nạn có thể bị Mỹ và đồng minh cưỡng ép khi có xung đột mạnh với TC, nhứt là khi VN không giữ “vị thế đứng giữa” trong chánh sách “đu dây “. VN có thể bị kẹt cả hai bên.

“Thế tam giác” Mỹ-TC-VN chỉ tạm thời không vững chắc.

Với Mỹ, VN có lợi kinh tế nhiều,VN xuất siêu 40 tỷ/năm.  Nhưng với TC, VN bị quá nhiều cái kẹt, bị cưỡng bách từ chánh trị, lãnh thổ, lãnh hải tới ngoại thương và tiền đồn cho TC. Riêng ngoại thương, VN nhập siêu trung bình năm năm qua tới $35 tỷ mỹ kim/năm.

Ví dụ  Năm 2019, tình trạng xuất siêu của VN (triệu mỹ kim)

VN-Hoa kỳ          VN-TC              VN-Thế giới

Xuất siêu           Xuất siêu               Xuất siêu

$46,898,77        -$34,009,56          $10,371,37

(Nguồn: IMF, Trade statistic)

 

Về kinh tế đối ngoại, một thử thách lớn nữa mà VN cần phải sửa đổi cho đúng qui định của các Hiệp định mậu dịch quốc tế mà VN đã cam kết. Đó là VN không phải là nền kinh tế thị trường thực sự, khu quốc doanh lớn và có nhiều ưu tiên, tham nhũng, hạ tầng cơ sở kém, bộ máy chánh quyền không hiệu năng, không lương thiện… Hoa kỳ và Tây phương có thể bắt ép khi cần.

b/.Tác động và ảnh hưởng về bang giao quốc tế. Trên nguyên tắc VN bang giao với mọi nước, không có liên minh với nước nầy để chống nước khác. VN không chọn bên, tại Liên hiệp quốc VN có bề ngoài trung lập. Nhưng trên thực tế ai cũng biết VN là nước CS còn lại, chịu sự trói buộc của TC. VN thân thiện với Hoa kỳ và các nước Tự do dân chủ khác chỉ vì tiền, vì khoa học kỹ thuật, vì thế kẹt ở Đông nam Á. Cái thế đó rất dễ tác động của chiến tranh lạnh mới.

c/. Tác động và ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng

Dù Mỹ và TC có bước qua chiến tranh nóng, trong khoảng 10 năm nay, TC đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên biển đông cũng như cá cuộc tập trận của hai bên, tạo một không khí căng thẳng hơn bao giờ hết. VN nằm ở trung tâm. Cả Mỹ và TC đều muốn kéo VN vào. Và hệ lụy sẽ không nhỏ nếu VN nghiên nhiều về một bên.

d/Tác động và ảnh hưởng về tâm l‎ý quần chúng.

Khó khăn và thử thách từ phía quần chúng. Khi VN được quốc tế hóa còn hơn là âm thầm CS kéo dài biết bao giờ. Kinh nghiệm sự giải thể tại nhiều nước có khi ở trong tình cảnh như thế.  Những mở rộng trong bang giao quốc tế, đưa tới nhiều cơ hội cho người dân hiểu rõ hơn về chuyên chính vô sản, về tự do và nhân quyền. Chiến tranh lạnh mới tác động đến dân có hiểu biết cho công cuộc tranh đấu chung.

2. VN ứng phó với chiến tranh lạnh Mỹ Trung

Trong chiến tranh lạnh lần nầy, cũng như lần trước, chỉ bị tác động, tức là chánh yếu là nhận chịu kết quả của hai siêu cường. Tuy nhiên VN phải có những cách ứng phó, thì có thể làm cho VN ít thiệt hại hơn và nhiều thuận lợi hơn trong tương lai trước mắt cũng như lâu dài. Ở hoàn cảnh của VN việc ứng phó quốc tế phải từ dân và từ chánh quyền. Có thể có những ứng phó trong thời gian trước mắt hay trong tương lai xa. Có thể ba thành phần cần ứng phó: Chánh quyền VN, quần chúng trong nước, và Hải ngoại, gồm người Việt hải ngoại và quốc tế.

Về phía chánh quyền VN

Chánh quyền VN có nhiều thử thách vì là chánh thể độc tài, lệ thuộc TC. Cho nên sự ứng phó của chính quyền có nhiều thử thách, nếu “bắt cá hai tay”, và quen thói dối trá, thì VN sẽ gặp nhiều khó khăn trong tương lai. Có ba điều chánh quyền phải đối phó và phải chuyển biến.

Thứ nhứt là “chánh sách đu dây”, VN phải chứng tỏ trên thực tế theo đuổi chánh sách “không chọn bên mà chọn công bằng” ‎”nếu bị TC ép mạnh, Mỹ cũng sẽ có áp lực VN về quan thuế, về tiền tệ, và đầu tư năng lượng Mỹ hứa (khoảng 10 tỷ), về nhân quyền. Trong trường hợp Mỹ cấm vận kinh tế TC, VN sẽ bị ảnh hưởng gián tiếp.

Thứ hai là một số yêu cầu của kinh tế đối ngoại. Kinh tế VN dựa vào Mỹ và đồng minh Mỹ lớn hơn nhiều dựa vào TC và Nga. VN phải cải thiện những điều đã cam kết trong các Hiệp định quốc tế về Công đoàn độc lập, về giảm quốc doanh, về sự minh bạch, và tuân thủ nghiêm chỉnh luật quốc tế.

Thứ ba là có sự công bằng kinh tế xã hội và lương thiện, tham nhũng trong kinh tế quốc nội VN để có tin tưởng ở dân và uy tín với quốc tế.

Về phía quần chúng trong nước   

Khi chánh quyền bị áp lực mạnh hơn từ chiến tranh lạnh thì chánh quyền CSVN sẽ gia tăng cưởng bức, đàn áp. Nhưng người dân nói chung các Hội đoàn dân sự nói riêng nên thấy đây là cơ hội mới. Một cuộc chơi mới theo luật quốc tế có qui định. Những mục tiêu tranh đấu ngay từ bây giờ cần đẩy mạnh như công đoàn độc lập, dân quyền công bằng kinh tế, sở hữu đất, bảo vệ tài nguyên quốc gia, bảo vệ lãnh hải…

Về phía bên ngoài VN

Đó là cộng đồng người Việt hải ngoại, và các Tổ chức hay cơ quan quốc tế. Nói chung cộng đồng quốc tế đang điều chỉnh lại, khôi phục lại con đường chung, công việc chung là bảo vệ Dân chủ Tự do và Nhân quyền. Vai trò của cộng đồng hải ngoại là làm gạch nối giữa cộng đồng thế giới với khối dân chúng trong nước . Về công việc nầy, tôi nghĩ tới viễn kiến của GS Nguyễn Ngọc Huy trong sách lược tranh đấu là thành lập “Ủy ban quốc tế yểm trợ VN tự do” cách dây hơn ba thập niên.

Dù cuộc chiến chuyển biến như thế nào, chưa biết được, nhưng vì quyền lợi kinh tế ràng buộc có khả năng đi tới một giải pháp thương lượng. Nhưng trong biến động lớn Mỹ Trung lại thêm việc Nga xâm lăng Ukraina mà TC ủng hộ Nga, làm xung đột gia tăng, thương thảo khó hơn, hậu quả là cộng đồng thế giới bị nhiều mất mát, ít hay nhiều, về vật chất lẫn tinh thần. Riêng VN, người Việt cần chuẩn bị cho thời cơ nầy, trong cái rũi có thể có cái may cho Dân tộc.

Nguyễn Bá Lộc

Cali, 31/07/2022 (Nhân ngày giỗ GS Nguyễn Ngọc Huy)

locba9999@yahoo.com

Views: 38

Nhắc đến những người Hội An

Đỗ Hữu Long

Phố cổ Hội An (ảnh: Pixabay/Tri Le)

Những diễn tiến nghiệt ngã cuả lịch sử dân tộc từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay đã đưa các thế hệ người Hội An phân tán đến những nơi xa lạ. Một số người không thể tiếp xúc với nhau trực diện, nhưng qua phương tiện truyền thông, sử sách hoặc một vài cơ hội hi hữu, họ cũng có dịp tưởng nhớ đến nhau với một số chi tiết liên hệ biểu lộ qua bài viết.

Phóng viên nhiếp nh chiến tranh Việt Nam Lê Minh Thái.

Phóng viên chiến trường Lê Minh Thái tại trận địa An Lộc 1972 (ảnh : AP Photo/Quynh Thai)

Theo bản tin AP ngày 24 tháng 10 năm 2014 cuả Julie Watson, Ông  Lê Minh Thái, một phóng viên nhiếp ảnh chiến tranh Việt Nam đã từ trần ngày 10/10/2014 tại một nhà dưỡng lão ở Encinitas, tiểu bang California- hưởng thọ 93 tuổi sau bảy năm lưu trú tại đây.

Theo lời kể cuả những người thân thuộc, ông Thái là trưởng nam cuả một gia đình thương nghiệp tại thành phố cổ Hội An, Việt Nam. Ông trở thành một nhân viên cuả giới truyền thông Sài gòn khi làm việc với Associated Press vào thập niên 1950 và sau đó cộng tác với tạp chí Life Time trong suốt cuộc chiến Việt Nam.

Ông cũng liên hệ chặt chẽ với Chính Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng như tận tình giúp đở các phóng viên ngoại quốc di chuyển khắp lảnh thổ miền Nam Việt Nam. Ông cũng là nhiếp ảnh viên đặc biệt cuả Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và đã được Tổng Thống yêu cầu chụp những tấm hình chân dung chính thức. Ông cũng xông xáo săn hình trong những căng thẳng bùng nổ giữa Sài Gòn gồm những cuộc biểu tình cuả sư sải và sinh viên trong lúc chiến tranh leo thang.

Năm 1963 ông giúp tuần báo Time mở văn phòng tại Sài Gòn. Người Mỹ thường đến tiệm ảnh cuả ông ở Sài Gòn để chụp hình gởi về gia đình. Ông cũng mời quân nhân Mỹ đến nghỉ ngơi tại nhà hoặc đưa đi dạo phố.

Mở đầu sự nghiệp, ông cung cấp tin tức cho tuần báo Pháp Paris Match. Ông cũng có mặt tại chiến trường Điện Biên Phủ, và tiếp theo là phóng viên tại Geneve cung cấp tin tức thoả hiệp hoà bình chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Ông Thái và gia đình đi Mỹ ngày 23 tháng 4 năm 1975 sau nhiều tháng làm việc giúp đở nhân viên Time Life di tản. Ông định cư tại Los Angeles, tiếp tục làm việc cho báo Times đồng thời mở một tiệm chụp hình dành cho khách Việt Nam làm thủ tục cư trú. Ông chấm dứt làm việc với báo Time năm 1984 nhưng vẫn tiếp tục hành nghề chụp hình khi về hưu.

Vào tuổi thanh niên, ông Thái rời Việt Nam để theo học quân sự tại Học Viện Quân Sự Côn Minh (Kunming Military Academy) miền Nam Trung Hoa. Trong cuộc chiến Hoa-Nhật, Ông gia nhập hàng ngủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng trong cương vị một sĩ quan tình báo có nhiệm vụ nhận diện những cãm tình viên thân Nhật Bản. Ông bị trúng một viên đạn bên cạnh sườn và mang trong người suốt đời. Ông chấm dứt liên lạc với Trung Hoa Dân Quốc khi Pháp tái lập kiễm soát Việt Nam sau Thế chiến II. Ông Thái làm giáo viên tại Hội An một thời gian và di chuyển sang Lào với vợ, mở trường học, làm nhiếp ảnh viên cho hoàng gia Lào truớc khi trở lại Việt Nam năm 1953.

Ông sống với vợ -bà Ying- sáu con và sáu người cháu tại Carlsbad, tiểu bang Cali.

Ông Thái hưởng thọ 93 tuổi, suy ra ông sinh năm 1921, như vậy trong khúc quanh lịch sử năm 1945, ông đang độ thanh xuân 24 tuổi. Tiểu sử cuả ông Thái làm người dân phố Hội nhớ đến nhạc sĩ tài hoa La Hối, tác giả bản nhạc bất hủ Xuân và Tuổi Trẻ.

Nhạc sĩ La Hối.

Nhạc sĩ La Hối (nguồn: Internet)

Nhạc sĩ La Hối là một thành viên trong tổ chức cuả cư dân Hội An gốc Hoa chống Nhật, bị hiến binh Nhật bắt tháng 5 năm 1945, tra khảo và bắn chết với mười đồng chí, chôn chung một huyệt mộ tại chân núi Phước Tường lúc 25 tuổi. Sau khi Nhật đầu hàng, di hài cuả nhạc sĩ và các tử sĩ được thanh thiếu niên Hoa kiều ở Hội An tổ chức nghi lễ trang trọng đưa về an táng tại nghiã trang đối diên với chuà Chúc Thánh.  Thời thiếu niên, chúng tôi có dịp nhìn ngắm hình hoạ chân dung nhạc sĩ La Hối và các liệt sĩ trưng bày trong sảnh đường cánh phải chuà Ngũ Bang đường Cường Để.

Như vậy có thể nghĩ rằng ông Lê Minh Thái là người cùng một đoàn thể với nhạc sĩ La Hối, nhưng đuợc cấp trên điều động đi học quân sự và tình báo tại Học Viên Quân Sự Côn Minh nên tránh thoát cuộc tàn sát cuả quân phiệt Nhật.

Việc theo học các trường quân sự tại Trung Hoa Dân Quốc vẫn là những cơ hội hiếm hoi dành cho một vài cá nhân thuộc những lực lượng cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa hoặc họat động tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Ông Thái được đưa đi từ Hội An đến thủ phủ Vân Nam, quả là một sự chiếu cố đăc biệt cuả Trung Hoa Quốc Dân Đảng đối với một gia đình uy tín và hữu công.

Cư dân thành phố Hội An từ thời Pháp thuộc đến năm 1954 có một sắc thái đặc biệt với đa số người gốc Minh Hương. Vào thời chúng tôi, bạn học người Minh Hương nhiều lắm, họ chỉ biết tiếng Việt và học chữ Việt, nhưng vào thế hệ qúi ông La Hối, Lê Minh Thái (1920) văn tự và ngôn ngữ chắc hẵn phải nghiêng về Hán văn, Pháp văn, Hoa ngữ, Pháp ngữ. Ngay như bản nhạc Xuân và Tuổi Trẻ, phần lời ca lúc ban đầu do nghệ sĩ Diệp Tuyền Hoa viết bằng chữ Hán. Năm 1946, khi nhà văn Thế Lữ đưa đoàn kịch nói Anh Vũ xuôi Nam, đến Hội An trình diễn, cảm khái cuộc đời cuả tác giả và giai điệu cuả bản nhạc nên xin phép soạn lời ca bằng tiếng Việt, lưu truyền đến ngày nay.

Từ những sự kiện kể trên, có vài người nghĩ rằng ông Lê Minh Thái mang một họ nào khác. Đọc chính sử và dã sử Trung Hoa, người ta hiếm thấy nhân vật họ Lê trong khi họ Lê rất phổ biến trong sách vở Việt Nam, phát tích từ những nơi sơn dã thuần Việt, cổ Việt như Ninh Bình, Lam Sơn. Trước Hiệp Định Geneve, Hội An có nhiều cửa hàng trưng bày đẹp mắt, nhưng muốn tìm mua những vật dụng kim khí như đinh, ốc, kềm, buá… phải ghé tiệm La Thiên Hoà. Cụ La Thiên Hoà cũng là một cội nguồn cuả một tôn tộc, con cháu nội ngoại đông đảo và thành đạt.

Hồi chánh viên hữu công La Thanh Đồng.CHƯƠNG TRÌNH CHIÊU HỒI CỦA VNCH – biển xưa

Anh La Thanh Đồng là trung úy bộ binh công sản Bắc Việt gốc người Hội An, Quảng Nam. Theo tài liệu The Chieu Hoi Program of Viet Nam cuả SGM Herbert A. Friedman, anh Đồng hồi chánh ngày 20 tháng Giêng năm 1968 với thủy quân lục chiến Mỹ tại căn cứ Khe Sanh.

Trận chiến Khe Sanh khai hoả ngày 21 tháng Giêng năm 1968, truớc tổng công kích Tết Mậu Thân chín ngày, đựợc nhiều tài liệu và nhiều tác giả nhắc đến với đầy đủ chi tiết.

Một chiến dịch oanh tạc khổng lồ bằng không quân yễm trợ cho thủy quân lục chiến cố thủ Khe sanh. Kể đến giữa tháng Tư, hơn 100.000 tấn bom -tương đương với sức tàn phá cuả năm quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima- do phi cơ của không quân, hải quân, thủy quân lục chiến ném xuống xung quanh căn cứ. Tính ra, mỗi ngày có 1.300 tấn bom được xử dụng hay là 5 tấn cho mỗi đầu người cộng quân Bắc Việt với tổng số ước lượng khoảng 20.000 cán binh tham chiến. Ngoài ra, 158.000 đạn đại pháo cũng được bắn vào những khu đồi núi trong khu vực, bình quân mỗi cán binh cộng sản nhận lảnh 8 quả đạn.

Âm thanh cuả trận đánh Khe Sanh vang dội đến Toà Bạch Ốc, các đô thị lớn cuả Mỹ và khắp nơi trên thế giới. Tổng Thống Johnson ra lệnh phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá. Tuớng Westmoreland cũng nhắc đến vũ khí nguyên tử (Nguyên văn: In late January, General Westmoreland had warned that if the situation near the DMZ and at Khe Sanh worsened drastically, nuclear or chemical weapons might have to be used)

Hồi chánh viên La Thanh Đồng cung cấp kế hoạch hành quân tổng quát cuả cộng quân Bắc Việt và tiến trình cuả trận đánh. Anh trình bày rõ mưu toan cộng quân tiến chiếm Đồi 861 và Đồi 881S để mở đầu cuộc tấn công chính thức nhắm vào trận điạ Khe Sanh. Trong cuộc giáp chiến, cộng quân sẽ đuợc yễm trợ bằng pháo binh hạng nặng đã được che chắn kỹ lưỡng trong dảy núi Co Roc thuộc lãnh thổ Lào. Kể từ khi Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam, Khe Sanh là nỗ lực quan trọng nhất do tướng Giáp chỉ huy. Chiến thắng cuả thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh có thể là phần đóng góp tin tức từ người hồi chánh qúi báu nầy.  (Nguyên văn: The Marine’s victory at Khe Sanh can be attributed in part to the information gained from this valuable Chiêu Hồi).

Sau đó, anh La Thanh Đồng được Bộ Chiêu Hồi tuyển dụng làm đại đội trưởng võ trang tuyên truyền, trú đóng tại trung tâm chiêu hồi Cần Thơ. Anh Đồng là một nguồn tin sống vô giá, cũng là ân nhân cuả người Mỹ vì vậy thỉnh thoảng vẫn có những người Mỹ đến thăm viếng, phối kiểm tin tức, tặng quà.

Vốn là người Quảng Nam, nhỏ con, chơn chất, sinh hoạt và làm việc giữa những đồng đội hồi chánh viên thuộc các đơn vị cộng sản điạ phương miền đồng bằng sông Cữu, anh Đồng cảm thấy khó khăn, cô đơn, anh ngỏ ý muốn được thuyên chuyển về trung ương hoặc một điạ phương thích hợp. Một viên chức hành chánh cuả Bộ Chiêu Hồi phụ trách Quân Khu IV ghi nhận nguyện vọng cuả anh và tìm cơ hội gíup đở. Tuy nhiên sự thay đổi nhiệm sở đến Quân Khu II, Nha Trang đã xảy ra và lời hứa với người đồng hương không thực hiện được vẫn là mối ám ảnh khó quên.

Sự rút quân và cắt viện trợ cuả Hoa Kỳ kéo theo sự sụp đổ cuả Việt Nam Cộng Hoà tạo ra nổi thất vọng, đau đớn khôn nguôi đối với quân dân cán chính Miền Nam. Riêng đối với các hồi chánh viên đã tích cực đóng góp tin tức, tham gia các cuộc hành quân tiểu trừ cộng sản, cảm thấy tuyệt vọng và phẫn uất cùng cực vì họ là những đối tượng bị Mafia cộng sản xem là phản đảng và bị trả thù tàn bạo nhất.

           ******

Hội An, một thành phố đa văn hoá gồm các màu sắc Việt, Hoa, Nhật (Chuà Cầu), Pháp (nhà thờ Công Giáo). Cho đến 1955, người Việt gốc Hoa giữ ưu thế về sở hữu bất động sản và các hoạt động thương mại. Tiêp theo, khi chính quyền Việt Nam Cộng Hoà được thiết lập vững vàng với Quốc Hội và Hiến Pháp, cuộc sống tại các đô thị phát triển nhanh chóng, lôi cuốn đông đảo cư dân các quận xa, gần đến sinh cơ lập nghiệp, trong khi môt số thanh thiếu niên gốc rễ Hội An, Đà Nẵng có dịp hướng vào Sàigòn và các tỉnh, thị miền Nam. Tuy đua chen trong khung cảnh mới lạ, năng động và hấp dẫn, một số người vẫn giữ những quyến luyến, những lưu niệm từ khi mới lớn đến lúc ra đi.

Nhắc lại Hội An với những cá nhân đặc biệt là tâm trạng “hoài hương” cuả một người luống tuổi chưa có dịp trở lại thăm bà con, mồ mã, bạn bè, “cảnh cũ người xưa” cuả quê hương xứ Quảng kể từ 1990, khi chuẩn bị tham gia chương trình H.O. tị nạn cộng sản.

Đỗ Hữu Long

 

Views: 22

Từ “Black April: The Fall Of South Vietnam 1973-1975” Đến: “Drawn Swords In A Distant Land: South Vietnam Shattered Dreams”

Nguyễn Quang Dũng

George J. Veith và hai tập sách nghiên cứu về Việt Nam

Ông George J. Veith không phải là một người xa lạ với cộng đồng người Việt Quốc Gia vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn mà trái lại là một người bạn rất thân với nhiều người Việt trong vùng. Nhiều năm về trước, tại trụ sở Hội Người Việt Cao Niên, nhiều người chúng ta có dịp gặp Veith trong buổi Ra Mắt Sách bản dịch “Black April”( “Tháng Tư Đen”) và có lẽ nhớ đến Veith là tác giả của cuốn sách nổi tiếng này về những năm chiến đấu cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày Sài Gòn thất thủ, 30/4/1975.

Nhưng Veith không ngừng ở “Black April.” Trong cuốn sách mới nhất của ông, “Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams” do Encounter Books xuất bản năm 2021, ông dẫn người đọc đi sâu hơn, xa hơn trong hành trình nghiên cứu phức tạp và rộng lớn hơn về sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam hay về một giấc mơ, hay nói đúng hơn, về một hoài bão xây dựng một miền Nam Việt Nam dân chủ, độc lập và tự cường cuối cùng đã bị vỡ vụn.

Phải nói hai cuốn sách nói trên của Veith đều là những cuốn sách “nặng ký”, cả lượng lẫn phẩm.
Cả hai cuốn sách đều dày trên 600 trang, chữ nhỏ, bìa cứng. Bài viết này sẽ cố gắng giới thiệu đến bạn đọc cuốn sách mới của Veith, Drawn Swords in a Distant Land.

1.

Tựa đề của cuốn sách là một chọn lựa chữ nghĩa “kỳ lạ” của Veith.
Không đơn giản và trực tiếp như “Black April”, “Drawn Swords in a Distant Land” làm độc giả người Việt liên tưởng ngay đến một cuộc “đấu gươm” hay “kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ” và cuộc đấu kiếm đã khởi động ở một vùng đất xa xôi, Việt Nam.

Nhưng thực ra không phải vậy.
Veith có cách đặt tựa đề cho mỗi chương sách rất lôi cuốn. Người đọc có cảm tưởng như đang theo chân một phóng viên chiến trường (như trong “Black April” ) tường thuật những trận chiến ác liệt hay theo dõi một phóng viên thời sự phân tích những cuộc chiến phức tạp đầy dẫy những toan tính, đấu đá trên đấu trường chính trị. Và trong Drawn Swords in a Distant Land , chỉ có một chương, là chương chót, có nhắc đến chữ “Sword”: Chương 24, trang 535, với tựa đề là “I Will Draw Out My Sword”.

Ở cuối chương 24, những dòng chót trong phần kết luận của cuốn sách, Veith trích dẫn câu Kinh Thánh ẩn dụ số phận của dân tộc miền Nam Việt Nam: “I will turn my face against you so that you will be defeated by your enemies…I will scatter you among the nations and will draw out my sword and pursue you. 82”
Tìm cái “ghi chú” số (82) ở trang 618 thì chỉ là mấy chữ: “Leviticus 26:17-38” (Lê-vi-ký 26:17-38).

Dưới đây là bản tiếng Việt sách Lê-vi-ký, đoạn 26, dòng 17 đến 38:

(Lê-vi-ký 26:17Ta sẽ nổi giận cùng các ngươi; các ngươi sẽ bị quân thù nghịch đánh đập; kẻ nào ghét các ngươi sẽ lấn lướt các ngươi, và các ngươi sẽ chạy trốn không ai đuổi theo. 18 Nếu đến đỗi vậy mà các ngươi không khứng nghe ta, ta sẽ vì cớ tội phạm, thêm gấp bảy lần đặng sửa phạt các ngươi, 19 và ta sẽ dẹp sự kiêu ngạo về năng lực các ngươi. Ta sẽ khiến trời các ngươi cứng như sắt và đất trơ như đồng; 20 năng lực mình hao mòn vô ích, đất không sanh sản huê lợi, cây cối không kết bông trái. 21 Nếu các ngươi phản đối cùng ta, và không muốn nghe ta, thì ta sẽ tùy theo tội phạm giáng tai vạ trên các ngươi gấp bảy lần nữa. 22 Ta sẽ sai những thú đồng đến tha con cái các ngươi đi, ăn hại súc vật, diệt số người ra ít; và đường nẻo các ngươi sẽ vắng tanh. 23 Dẫu đến những việc ấy mà các ngươi cứ không phục sự sửa phạt ta, cứ phản đối cùng ta, 24 thì ta đây cũng sẽ nghịch lại cùng các ngươi, và vì cớ tội lỗi, sẽ giáng tai vạ cho các ngươi gấp bảy lần nữa. 25 Ta sẽ khiến gươm giáo đến trên các ngươi đặng báo thù sự giao ước ta; khi các ngươi hội hiệp trong những thành mình, ta sẽ giáng dịch hạch đến giữa các ngươi, và nộp các ngươi vào tay thù nghịch. 26 Khi ta dẫn sự đói kém đến, mười người nữ sẽ nướng bánh của các ngươi trong một lò, cân bánh trao lại cho các ngươi; các ngươi sẽ ăn mà không no. 27 Dẫu đến nỗi vậy, mà các ngươi cứ không khứng nghe ta, còn phản đối cùng ta, 28 thì ta cũng sẽ nghịch lại cùng các ngươi cách giận dữ, và vì cớ tội lỗi các ngươi, sẽ sửa phạt gấp bảy lần nữa. 29 Các ngươi sẽ ăn thịt con trai con gái mình; 30 ta sẽ hủy diệt những nơi cao các ngươi, phá đổ những hình mặt trời, và để thây các ngươi chồng trên thây của hình tượng mình, tâm hồn ta sẽ ghê gớm các ngươi. 31 Ta sẽ làm cho thành các ngươi ra vắng vẻ, các nơi thánh quạnh hiu, và ta chẳng còn hưởng mùi thơm về của lễ các ngươi nữa. 32 Ta sẽ làm xứ ra đồi bại, đến đỗi kẻ thù nghịch ở tại đó cũng lấy làm lạ. 33 Ta sẽ tản lạc các ngươi trong các dân và rút gươm ra đuổi theo sau các ngươi: xứ các ngươi sẽ hoang vu, thành sẽ vắng vẻ. 34 Trọn trong lúc đất bỏ hoang vu, và các ngươi ở trong đất của kẻ thù nghịch, khi đó đất sẽ được an nghỉ hưởng những năm sa-bát. 35 Trọn lúc đất bỏ hoang vu sẽ được an nghỉ; vì lúc các ngươi còn ở đất đó, nó không được an nghỉ trong những năm sa-bát của các ngươi. 36 Còn ai trong các ngươi sống sót lại, ta sẽ làm cho họ nhát gan trong xứ của thù nghịch mình; tiếng lá khua sẽ làm cho họ chạy trốn, khác nào chạy trốn trước lưỡi gươm, té ngã mà không ai đuổi theo. 37 Người nầy vấp ngã trên người kia như trước ngọn gươm, vốn chẳng ai rượt đuổi theo họ; các ngươi không thể chịu nổi trước mặt quân thù nghịch mình. 38 Các ngươi sẽ bị chết mất giữa các dân, đất kẻ thù nghịch sẽ nuốt các ngươi.

Nguồn: https://vietchristian.com/kinhthanh/tim.asp?btt/2/26:0-27:0 )

Rất lạ lùng với ẩn dụ từ đoạn kinh Lê-vi-ký trong Thánh Kinh mà Veith dùng để so sánh với số phận nghiệt ngã của dân tộc miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975: Người dân Việt chúng ta, phân tán, lưu vong khắp nơi trên thế giới, giống như dân Do Thái, nhận lãnh hình phạt của Đức Chúa Trời từ những tội lỗi mà chúng ta đã làm do cuộc sống chạy theo những sa đọa tội lỗi, vật chất, không thờ phượng và tuân phục Luật Chúa.

Rất lạ lùng, vì nếu có chăng trong ý nghĩ của nhiều người Việt, chịu ảnh hưởng nặng văn hóa Khổng giáo và Phật giáo, thì số phận của hàng triệu người Việt lưu vong sau 30-4 là cộng nghiệp từ hệ nghiệp-quả của việc xóa bỏ và đồng hóa dân tộc Chàm trên bước đường Nam Tiến, mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam của cha ông chúng ta.

2.

Veith dành hơn 6 năm trời để thu thập, nghiên cứu tài liệu; tiếp xúc, phỏng vấn nhiều nhân vật đã từng tham gia các vị trí quan trọng trong chính phủ VNCH; và nhất là đặt trọng tâm cho công trình nghiên cứu của ông để theo dõi và tìm hiểu về tiến trình khai sanh của Đệ Nhị Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và về một vị tổng thống bị bỏ quên bên bờ lịch sử vì đã thua trận chiến cuối cùng với kẻ địch: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Rất hiếm các sách báo tiếng Anh hay tiếng Việt nghiên cứu nghiêm túc về Đệ Nhị Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của TT Nguyễn Văn Thiệu. Lấy ví dụ, tập sách “Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)” (Tiếng Nói từ Đệ Nhị Cộng Hòa Nam Việt Nam 1967-1975) do Sử gia K.W. Taylor, Trung tâm Xuất bản Đông Nam Á thuộc Đại học Cornell, chủ biên, thì chỉ là một thu thập một số bài viết từ 10 tác giả VNCH đã từng tham chính và giữ vị trí quan trọng trong chính phủ Nam Việt Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa.

Veith trình bày công trình nghiên cứu lịch sử về miền Nam Việt Nam của ông một cách có hệ thống và xuyên suốt dẫn đi từ thời Gia Long thống nhất Việt Nam, thời Pháp thuộc, giai đoạn phân chia đất nước 1945-1954, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, và rốt ráo đặt hết trọng tâm cuốn sách cho Đệ Nhị Cộng Hòa và TT Nguyễn Văn Thiệu. Veith chọn một con đường riêng không ai làm trước đây khi chọn TT Nguyễn Văn Thiệu là nhân vật lịch sử trọng điểm cho công trình nghiên cứu sử của ông, trong lúc TT Nguyễn Văn Thiệu thường bị lãng quên, hay tệ hơn, bị đổ tội hay nhắc tới trong các sách báo nghiên cứu như một TT độc tài, bất xứng, không có khả năng lãnh đạo và dẫn tới hậu quả tất nhiên là sự sụp đổ của miền Nam.

Lịch sử thường thuộc về Phe Thắng Cuộc. Các tài liệu, văn bản, nhân chứng của Phe Thua Cuộc sẽ đi vào lãng quên hay mất mát theo thời gian. Công trình nghiên cứu của Veith trong Drawn Swords in a Distant Land do vậy sẽ là tài liệu rất quan trọng (nhất là cho người Việt ở nước ngoài) ghi nhận lại những nỗ lực của miền Nam Việt Nam trong việc xây dựng một thể chế dân chủ, pháp quyền, và kinh tế thị trường dựa trên quyền tư hữu trong thời chiến tranh.

3.

Trọng tâm cuốn sách Drawn Swords in a Distant Land là sự nghiệp chính trị của TT Thiệu và nỗ lực của ông trong việc xây dựng Đệ Nhị Cộng Hòa, một chính thể cộng hòa dân chủ, pháp quyền với một nền kinh tế tư hữu. TT Thiệu đã phải hoàn thành điều này trong khi chiến đấu quyết liệt chống lại kẻ thù cộng sản nằm vùng và xâm nhập từ miền Bắc. Veith là một nhà nghiên cứu sử hiếm hoi đặt mình vào vị trí và góc nhìn của Nam Việt Nam, điều này làm giảm bớt vai trò của các góc nhìn “kiểm soát và thống trị” của chính phủ Hoa Kỳ đối với sinh hoạt chính trị Nam VN và cho phép độc giả nhìn nhận chính quyền Nam VN như một thực thể chính trị độc lập và sinh động, đối phó với các tình huống thay đổi hàng ngày trước mặt.
Veith cho rằng vai trò của TT Thiệu đã bị đánh giá một cách không công bằng. Nhiều thành tích và thành quả chính trị, kinh tế của ông đã bị lãng quên. TT Thiệu thực hiện cải cách ruộng đất, xây dựng vững mạnh guồng máy chính quyền trung ương và địa phương, giám sát một số cuộc bầu cử, và hàn gắn lại một miền Nam VN sống thường xuyên và liên tục trong xung đột và rạn nứt. TT Thiệu phải vượt qua tất cả những khó khăn trong việc xây dựng đất nước trong khi hàng ngày phải lãnh đạo quân đội VNCH bảo vệ sự toàn vẹn và an ninh lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Bức chân dung đầy thiện cảm của Veith về TT Thiệu cho thấy hình ảnh một cá nhân kiên cường, một người đã biến đổi từ một vị tướng quân đội khiêm tốn thành một chính trị gia đầy khả năng và mưu lược để đứng vững trước nhiều tình huống của thời cuộc.

Veith mô tả TT Thiệu như một hình mẫu của khả năng quản lý, nhưng đồng thời cũng không thể giám sát một chính phủ đang gặp khó khăn bởi tham nhũng và bê bối mà ông không thể kiểm soát. Thêm vào đó, TT Thiệu không bao giờ có thể thống nhất các nhóm xung đột giữa những người theo chủ nghĩa quốc gia của miền Nam Việt Nam.

Những vấn đề này là đặc tính của tất cả các nền dân chủ non trẻ, và mặc dù có sự bất mãn giữa người dân miền Nam Việt Nam với chính phủ của TT Thiệu, chính thể Đệ Nhị Cộng Hòa nhất định vẫn tốt đẹp hơn nếu so với chính thể độc tài đảng trị của cộng sản miền Bắc. Nhưng cuối cùng, TT Thiệu đã không thể vừa xây dựng đất nước vừa chống lại kẻ thù sau khi mất đi sự ủng hộ của người Mỹ.

4.

Tạm kết: Đối với nhiều độc giả người Việt, chúng ta có thể tìm thấy lại mình ở trong một giai đoạn lịch sử nào đó dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Nếu đời sống mỗi người chúng ta tạo thành một mảnh của bộ tranh ráp hình thì Veith là người đã cặm cụi nhiều năm trời để góp nhặt, tìm hiểu quan sát và lắp ráp hàng trăm ngàn mảnh nhỏ của đời sống người dân và chính quyền miền Nam Việt Nam. Sau cùng, Veith cũng đã hoàn thành được việc “lắp ráp” một bức tranh lớn của Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Điều quan trọng Veith muốn trình bày với độc giả là bức tranh này có hình dáng đặc thù và sắc thái riêng của nó. Nhất định đây là một công trình thực hiện đầy tham vọng của Veith đáng được đánh giá cao và là thách thức đối với nhiều sách báo và nghiên cứu cho rằng miền Nam Việt Nam là một con rối thối nát của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.

Và ở lúc này, bây giờ, 47 năm ngày quốc hận 30-4, xin cảm ơn ông, George J Veith.

Vì lẽ, cuối cùng ở đây chúng ta thực sự có một người bạn Hoa Kỳ, rất tài giỏi, am hiểu tình hình đất nước Việt Nam và đứng cùng chung một chiến tuyến của những người Việt Quốc Gia yêu tự do, và nhất là đã giúp chúng ta nói lên được những nỗ lực để xây dựng một miền Nam dân chủ, cộng hòa pháp trị, song song với những nỗ lực phát triển kinh tế trong thời chiến dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Cho dù hoài bão hay giấc mơ này đã thất bại và tan vỡ vào tháng tư đen 1975, điều đó cũng không làm chúng ta, những người Việt Quốc Gia lưu vong, mất hy vọng vào một thay đổi cho Việt Nam tương lai.

Nguyễn Quang Dũng
Mùa Quốc Hận thứ 47

Views: 693

Từ Ukraine đến Đông Á : “Gió Đông thổi bạt Gió Tây” ?

Cao Tuấn

Thế giới ngày mai sẽ được định hình chủ yếu bởi chính sách của các đại cường hôm nay. Các nước khác thường bị cuốn theo. Các nước nhỏ, yếu, thiếu khôn ngoan có thể chịu hậu quả tai hại. Việt Nam là một bài học lịch sử. Trường hợp Ukraine hiện thời nên là một dấu hỏi.

Ba nước “nặng ký” nhất trong chính trị quốc tế hiện tại là Nga – đại cường, Mỹ – siêu cường, Tầu – cũng siêu cường. Thế chân vạc. Cả ba nước luôn trong tình trạng cạnh tranh và canh chừng nhau. Bề trong thường không giống bề ngoài. 

Địa chính trị, không phải Ý thức hệ, là lý do chính của sự cạnh tranh .

Mâu thuẫn Cộng Sản-Tư Bản không thực sự là vấn đề vì kinh tế của cả 3 nước Mỹ, Nga, Tầu đều đang vận hành theo các nguyên tắc của chủ nghĩa Tư Bản và đều hội nhập vào kinh tế thế giới, khác hẳn thời kỳ chiến tranh lạnh. Mặc dù Tầu trên danh nghĩa vẫn giữ cái vỏ Cộng Sản.

Mâu thuẫn Dân Chủ-Độc Tài, nếu có, cũng chỉ là thứ yếu vì Dân Chủ kiểu Mỹ đang trong khủng hoảng về thực chất, với gần một nửa dân số mất lòng tin – một cách hữu lý hay không – vào nền dân chủ của chính họ trong khi độc tài kiểu Nga hay độc tài kiểu Tầu đã kém hẳn phần “toàn trị” so với độc tài của Stalin, độc tài của Mao trước kia. Bức màn tre hay bức màn sắt đã thuộc về quá khứ nhất là với cuộc cách mạng truyền thông đại chúng hiện nay.

Mặt khác, Mỹ vẫn có đồng minh độc tài, vi phạm nhân quyền liên tục như Saudi Arabia trong khi Tầu, Nga hiện thời không tỏ dấu hiệu muốn xuất cảng “mô thức cách mạng phi dân chủ” của họ sang các nước khác. Mà có muốn “xuất cảng” cũng không ai muốn “mua” các sản phẩm tư tưởng không còn gì hấp dẫn, đại loại “nửa trăng, nửa đèn”, như “kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa”, “mèo trắng mèo đen không thành vấn đề miễn mèo bắt chuột” hay “độc tài sáng suốt” (!), v.v.

Lý do chính hay nguyên nhân chính của tranh chấp Nga-Mỹ-Tầu là địa chính trị (geopolitics), là quyền lực, quyền lợi quốc gia lồng trong quyền lực, quyền lợi của lãnh tụ. Không khác với những trường hợp va chạm, đụng độ giữa các cường quốc trong Thế chiến 1, Thế chiến 2. Không khác các cuộc chiến tranh trước nữa như chiến tranh giữa Pháp và các nước Âu Châu thời Napoleon (1803-15), chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha (1898) chiến tranh Nga-Nhật (1904- 05) hay hàng chục cuộc chiến tranh khác giữa các cường quốc đã được ghi nhận trong lịch sử. Nên nói thêm, trong các cuộc chiến tranh hùng hay tranh bá đó, phần thắng thuộc về những nước có nền kinh tế vững chắc, có lãnh đạo chính trị hữu hiệu và có sách lược chiến tranh khôn khéo.

Nga sa lầy nhưng Mỹ khó… rút chân

Chiến tranh Nga-Ukraine đã bước qua tuần lễ thứ 4, với triển vọng mở rộng thành cuộc xung đột Nga-NATO, cốt lõi là xung đột Nga-Mỹ – 2 quốc gia đang sở hữu 80% hay 90% vũ khí hạch tâm của toàn thế giới. Nếu xung đột leo thang từ chiến tranh quy ước đến chiến tranh nguyên tử bấm nút thì số vũ khí hạch tâm này không những đủ để tiêu diệt cả Nga lẫn Mỹ mà còn đủ để tiêu diệt luôn cả nhân loại. 

Chắc chắn không có chính quyền nào muốn điều này nhưng một khi đã bị cuốn vào “vòng xoáy tác động-phản ứng-tác động-phản ứng” thì không ai có thể bảo đảm nó sẽ không xẩy ra, dù người đó là Joe Biden của Mỹ hay Vladimir Putin của Nga.

Tuy nhiên, hãy giả sử xung đột Nga-Ukraine, Nga-NATO, hay Nga-Mỹ, tiếp tục leo thang dưới mọi hình thức ngoại trừ chiến tranh nguyên tử. 

Một cuộc chiến như thế có thể kéo dài vài tháng hay vài năm mà không có thắng bại rõ rệt vì không bên nào dám dồn đối thủ vào đường cùng tuyệt vọng khiến đối thủ phải dùng đến vũ khí hạch tâm để địch, ta cùng chết, thay vì chịu chết một mình.

Hậu quả : Nga sa lầy trên chiến trường Âu Châu nhưng Mỹ cũng sa lầy luôn bất kể quân đội Nga và quân đội Mỹ có trực tiếp giao chiến hay không.

Nga yếu đi. Mỹ cũng yếu đi. 

Chiến tranh càng kéo dài, càng bất lợi cho cả hai.

Nga càng bị phong tỏa, cấm vận, càng bị sa lầy, càng phải xin Tầu giúp đỡ, càng phải lệ thuộc Tầu và tất nhiên bị Tầu bắt chẹt, lợi dụng, sử dụng cho mục đích của Tầu, kể cả tìm cách tiếp cận kho vũ khí hạt nhân của Nga một cách có lợi cho Tầu. Đại Nga sẽ bị Đại Hán nuốt dần. Như con gấu ốm đói làm mồi cho con trăn anaconda khổng lồ 10 lần lớn hơn.

Mỹ càng bị trói tay, trói chân ở chiến trường Âu Châu càng bị Tầu “cướp thời cơ” trên toàn cầu và đặc biệt ở miền Đông Á.

Một chống hai hay hai chống một ?

Đã đến lúc các chính trị gia và chiến lược gia của nước Mỹ phải nhìn xa hơn là cuộc chiến đang tiếp diễn ở Ukraine và không quên những điểm căn bản. 

Nếu Nga là một đe dọa đối với Mỹ thì Tầu là một đe dọa lớn hơn và nghiêm trọng hơn rất nhiều.

Nga tranh một chỗ đứng ở Âu Châu, đối lập với Mỹ, nhưng Nga không thể có tham vọng trục xuất Mỹ khỏi lục địa này. Nga cũng không thể tranh địa vị đệ nhất siêu cường của Mỹ trên toàn thế giới. Không phải vì Nga không muốn mà vì “lực bất tòng tâm”. Quy mô kinh tế của Nga như đã nói chỉ bằng 10% của Tầu và chừng 7% của Mỹ ! Muốn vượt Mỹ, Nga cần thêm 50 năm hay 100 trăm năm, hoặc ngày ấy không bao giờ tới vì Nga, dù có kho vũ khí hạt nhân ngang với Mỹ, là cường quốc đang đi xuống.

Ngược lại, Tầu là cường quốc đang đi lên. Tầu có tham vọng, có quyết tâm, có khả năng, có kế hoạch, có sách lược. Tất cả nhằm trục xuất Mỹ ra khỏi vùng Đông Á là bước thứ nhất, tiến lên thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường trên toàn thế giới là bước thứ hai. Hai bước có thể rất gần nhau. Vì nếu Mỹ bị bắt buộc triệt thoái sự hiện diện quân sự khỏi vùng Đông Á, bỏ mặc Đài Loan, Nhật, Nam Hàn, các nước Đông Nam Á cho số phận thì thế lực còn lại của Mỹ cũng suy sụp nhanh chóng trên toàn cầu do “hiệu ứng Domino”. “Gió Đông” sẽ  thổi bạt “gió Tây” – thực hiện lời tiên đoán ngạo mạn của lãnh tụ đảng cộng sản Tầu Mao Trạch Đông. Nên ngờ vực rằng nước Tầu của Tập Cận Bình đang chuẩn bị nước rút để tới đích trong vòng một thập niên hay sớm hơn.

Nếu Mỹ cảm thấy còn đủ mạnh, thì cứ nên gom cả hai đối thủ Nga, Tầu mà thanh toán một lần cho tiện. Hoặc “đánh gục” Nga ở Âu Châu trước rồi quay sang Á Châu “hạ thủ” Tầu. Không cần phân biệt đối thủ chính, đối thủ phụ. 

Nếu Mỹ tự biết không còn đủ mạnh thì nên tìm cách phân chia Nga-Tầu, làm mọi cách để Nga, Tầu không hợp sức hay không thể hợp sức chống Mỹ. Nga đứng trung lập, đối với Mỹ, vẫn tốt hơn Nga ngả về phía Tầu hay trở thành đàn em của Tầu.

Còn tốt hơn gấp bội nữa, nếu Mỹ với Nga đổi thù thành bạn, rồi từ bạn thành đồng minh để cùng làm “gió Tây thổi ngược lại gió Đông” nghĩa là cùng chặn không cho Tầu vươn lên nữa. 

Một thế thăng bằng chiến lược đồng nghĩa với hòa bình

Lẽ dĩ nhiên muốn thành công, Mỹ, ở thế mạnh hơn, phải tỏ thiện chí với Nga, phải đi bước trước. Mỹ và NATO tất nhiên phải nhượng bộ một số đòi hỏi của Nga. Nhượng bộ đến mức có thể nhượng bộ được. Chẳng hạn không mở rộng NATO thêm nữa, nhưng cũng sẽ không làm NATO yếu đi, vẫn duy trì được an ninh, thịnh vượng của toàn Âu Châu. Cùng Nga chung sống ổn định, hòa bình bất kể khác biệt thể chế…

Một khi đã cảm thấy được Mỹ, NATO, EU “chấp nhận” vào đại gia đình Âu Châu thì Nga sẽ nhận chân rằng Mỹ làm đệ nhất siêu cường thế giới nếu không tốt hơn thì cũng đỡ xấu hơn, đỡ nguy hiểm hơn là Tầu thay thế Mỹ làm đệ nhất siêu cường. Không cần thuyết phục, Putin phải biết từ lâu : Nga cách Mỹ đại dương mênh mông, ân oán cũ đều có thể bỏ qua, nhưng Tầu sát bên, chung biên giới rất dài. Cả 2 dân tộc Nga, Tầu đều có… máu bành trướng mà Tầu thì đang lúc hùng mạnh. Nợ nần, ân oán địa lý, lịch sử sẽ phải giải quyết… Nga không những sẽ phải trả lại mấy triệu cây số vuông lãnh thổ đã cưỡng đoạt của Tầu trong các thế kỷ trước, phải từ bỏ các địa điểm chiến lược, các bán đảo và hải đảo trên Thái Bình Dương mà có thể còn mất thêm cả vùng Tây Bá Lợi Á mênh mông, rất nhiều tài nguyên nhưng chính Nga không đủ nhân lực bảo vệ.

Nếu Nga ngả về Mỹ, Tầu lập tức phải lo mặt Bắc. 

Lo vũ khí hạch tâm của Nga bao trùm cả nước Tầu mà không cần đến hỏa tiễn liên lục địa. Hỏa tiễn tầm trung của Nga đủ để uy hiếp Trường Xuân, Thẩm Dương, Đại Liên, Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Thành Đô, Trùng Khánh…

Lo hàng triệu quân Nga hờm sẵn biên giới. 

Tầu sẽ phải đổi thế trận. 

Phải phân chia lực lượng đối phó. 

Phía Bắc đối phó với sức mạnh của Nga, phía Đông đối phó sức mạnh của Mỹ – một sức mạnh được tăng cường sau khi Mỹ và NATO không còn phải vướng vào cuộc chiến tiêu hao với Nga ở Âu Châu. 

Đông Á có thể kịp thời chuyển NGUY thành AN. Đài Loan, Biển Đông có thể được bảo vệ tốt hơn. 

Một thế thăng bằng chiến lược mới rất có lợi cho Mỹ và đặt nước Tầu của Tập Cận Bình vào thế phải chịu bó tay.

Nước Tầu của Tập Cận Bình phải chịu bó tay cũng đồng nghĩa với hòa bình, ổn định ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á và trên toàn thế giới !

Cao Tuấn

(19/03/2022)

Views: 24