Dịch Covid-19 (2020) Với Người Già

Phạm Thành Châu

                                                      (Mao Trạch Đông: Thiên hạ đại loạn, ta (nước Tàu) được lợi )                                           

Đây là một bài phóng sự, nhưng nên giữ lại để cho các thế hệ sau cảm nhận được sự kinh hoàng mà Trung Cộng đã gieo rắc con Covid-19 Vũ Hán trên khắp mặt địa cầu. Nó lây nhiễm tràn lan, rất nhanh, giết chết hàng triệu người trong một thời gian ngắn, tàn bạo hơn chiến tranh thế giới. Tuy nước Mỹ đã chích ngừa (vaccine) cho hầu hết dân Mỹ nhưng số bịnh nhân lây nhiễm Covid-19 ở các nước chậm phát triển vẫn tiếp tục gia tăng.

Bài viết nầy gồm ba phần. Thời kỳ kinh hoàng, hỗn loạn khi Covid-19 bùng phát khắp thế giới. Người chết la liệt, y khoa nổ lực hết sức mình chống đỡ trong cố gắng gần như tuyệt vọng để cứu người. Tiếp theo là khoa học sản xuất được vaccine (chủng ngừa), mọi người lại cuống cuồng tìm mọi cách để được ưu tiên chích ngừa. Phần ba. Nước Mỹ đã hoàn tất chủng ngừa. Y tế Mỹ thở phào, chỉ còn lo chữa trị những người không chịu chích ngừa để rồi lâm bịnh nặng vì Covid-19. Trong khi đó (năm 2021) nhiều nước vẫn tiếp tục chống đỡ Covid-19 trong vô vọng vì dân không đủ ăn, tiền đâu mà mua thuốc chủng ngừa?

Một điều đáng kính phục là ở tiểu bang Virginia, trong khi mọi người cố thủ trong nhà, cửa đóng then cài, thì lại có một nhóm người Việt, dù lớn tuổi vẫn đóng góp, nấu nướng, xông pha đi phân phối thực phẩm, thức ăn đến những người già nua ở các nhà dưỡng lão, các gia đình neo đơn. Điểm tập trung là tiệm bánh Hương Bình ở chợ Eden. Họ làm vì từ tâm chứ không có mục đích gì khác. Không chỉ riêng thời gian dịch Covid-19 hoành hành mà trước và sau đó, họ vẫn âm thầm phân phối những bữa ăn nóng, ngon lành, hợp khẩu vị cho những người già yếu, quan quả, cô đơn trong vùng Virginia.

Các bạn trẻ chẳng bao giờ nghĩ đến lúc mình sẽ chết. Nghe tin một người bạn từ giã cõi đời vì tai nạn, vì một căn bịnh nào đó, bạn đến tiễn biệt và nghĩ đó là chuyện của người ta, không liên hệ gì đến mình. Ngay cả đến nguời lớn tuổi cũng không hề nghĩ rằng mình cũng đến lúc sẽ nằm bất động như thế. Chẳng phải vô tâm mà vì sợ, như trẻ con sợ ma, không dám đứng trong bóng tối.

Khoảng tháng 3 năm 2020, bệnh dịch Covid-19, phát xuất từ Vũ Hán, một thành phố bên Tàu, lây lan khắp thế giới. Nó tàn sát, đa số là những người lớn tuổi. Đã già mà còn thêm bịnh nền (bịnh nặng có sẵn) trong người thì lưỡi hái của nó vung lên lấy mạng trong chớp mắt. Không chạy đâu thoát được! Từ trước đến nay, bịnh gì cũng có thuốc chữa, chỉ có bịnh Civid-19 (thời điểm nầy) là không có thuốc chữa. Đó mới là điều khủng khiếp. Thần chết như đang đứng trước cửa. Không biết lúc nào vào nhà lôi mình đi? Người già không dám ra đường, không dám tiếp xúc với ai, vì sợ lây nhiễm. Họ cố thủ trong nhà, cửa đóng then cài, hy vọng con virút không thể chui vào được (!?). Con cái, bạn bè muốn tiếp tế lương thực cho họ thì để thức ăn trước cửa rồi đi xa, trong nhà sẽ ra lấy vô, nấu lại (cho con vi rút chết) trước khi ăn. Có một bà lão sợ “nó” đến độ không dám ra cửa lấy đồ tiếp tế, cứ để đấy. Gần cả tuần, hàng xóm thấy lạ, gọi cảnh sát, mở cửa. Bà ta suýt chết đói. Con vi rút nầy không phải vi trùng mà nó bay tán loạn trong không khí, bám đầy người, dính vô đồ vật, vô tay, chui vô mũi… người nào đến gần là bị lây nhiễm. Đau cổ họng, nhức mình, sốt. Đến khi thở không được, đưa vô bịnh viện, chỉ thở oxy vài hôm, ngáp ngáp rồi chết. Thân nhân, bạn bè không (dám) được gặp, nhìn mặt để vĩnh biệt, để tránh lây lan.

Khi số tử vong lên cao độ, nhiều người sợ đến quẩn trí. Báo chí đưa vài tin điển hình. Tại Thụy Điển, bố mẹ dùng ván, đóng đinh chặn cửa nhốt 3 đứa trẻ, từ 10 đến 17 tuổi, ngăn chúng rời khỏi nhà, từ tháng 3 đến tháng 7- 2020. Sự việc bị phát giác, vợ chồng nầy bị đưa ra tòa. Đến khi có vaccine (thuốc chủng ngừa), vì số thuốc  giới hạn chỉ dành cho người lớn tuổi, bị bịnh nặng thì ở Florida, có 2 phụ nữ giả dạng bà lão để được ưu tiên chích ngừa cũng bị phát hiện. Một chuyện khác. Eodney Baker, giám đốc điều hành casino và vợ là nữ diễn viên Ekaterina Baker, đã thuê máy bay đến tận Beaver Creek, một cộng đồng hẻo lánh dành cho người da đỏ. Cặp nầy vờ khai là nhân viên một nhà nghỉ địa phương để được chích ngừa. Họ bị bắt ở sân bay và bị phạt 1,800 USD. Ở Mỹ bà cụ Fran Goldman, 90 tuổi, lội bộ trong tuyết 9,7 km đi chích ngừa cho kịp hẹn, vì không đến kịp phải lấy hẹn lại thì khó biết đến ngày nào!(có khi gặp tử thần trước ngày đến hẹn) Cuối năm 2020, tổng thống Philippines, Duterte tuyên bố. Nếu Mỹ không cung cấp vaccine Covid-19 cho Philippines thì sẽ ngưng VFA (hiệp ước các lực lượng quân sự thăm viếng, tập trận). Chính phủ Mỹ thì tuyên bố rằng. Mỹ sẽ không giúp đỡ các quốc gia khác cho đến khi tất cả người Mỹ đã được chích ngừa. Từ khi chính phủ của tổng thống Joe Biden lên cầm quyền (tháng 1 năm 2021) thì vaccine Covid-19 ê hề, chích tràn lan, trong lúc các xứ khác chạy quanh mà vẫn không có vaccine để cứu dân mình.

Chính phủ Arab Saudi ra lịnh cấm hành hương đến Mecca và Medina vô thời hạn, nhưng tín đồ Hồi giáo cho rằng, tình trạng cách biệt cộng đồng khiến mọi người có cảm giác xa Allah (Thượng Đế). Họ tin rằng. Cứ đến các đền thờ, cầu nguyện và hôn lên các bức tường, các cây cột ở đền thờ thì sẽ được Allah bảo vệ, khỏi lây nhiễm. Kết cục, hơn 500 vụ lây nhiễm bùng phát ngay sau đó. Còn người Ấn Độ theo đạo Hindu, cơn dịch đang bùng phát, cần cách ly thì họ kéo xuống tắm sông Hằng (ngày 14 tháng 4 – 2021) để cầu xin thần linh che chở. Tức thì, hơn 2.500 trường hợp lây nhiễm bùng phát ngay sau đó. Hiện nay (tháng 4- 2021) ở Bombay, Ấn độ, cứ 4 người thì có đến 3 người vướng Covid-19. Thống kê ngày 18 tháng 6 – 2021, thế giới có trên 178.264.356 người lây nhiễm với trên 3.859.364 tử vong

 Riêng Ấn Độ có 24 triệu người bị lây nhiễm với trên 262 nghìn tử vong. Con số thực phải gấp 40 lần hơn (Theo dư luận, con số người chết trên 6 triệu). Dân Ấn có tục lệ hỏa thiêu, nên người chết nhiều quá thì họ sẽ bẻ luôn cành cây trong công viên rồi đốt xác đùng đùng ngay trên hè phố, nhà nghèo chả có tiền mua củi mà cũng không thể bẻ trộm cành cây công viên thì lén lút vác xác thân nhân đến cửa nhà tang lễ quẳng đấy rồi bỏ xác chạy lấy người, hoặc giản tiện hơn nữa là để nguyên xác tống xuống sông Hằng cho nổi lềnh bềnh. Virus trong xác cứ thế hòa lẫn vào nước sông rồi theo hạ nguồn trôi đi đâu thì trôi, dính tiếp vào ai thì dính, trong khi nước sông Hằng vốn vẫn chu du khắp châu Á.

Thứ nhất là Ấn Độ nhiều lễ hội tôn giáo hàng đầu thế giới. Người chết ngay bên cạnh làm sao họ lại không biết, nhưng vẫn vài chục ngàn người Ấn tắm chung trong lễ hội tôn giáo Kumbh Mela. Chả mấy ai thèm đeo khẩu trang. Họ dấp nước sông Hằng lên người, rồi úp mặt vào phân bò sền sệt bảo thần linh sẽ phù hộ. Họ thà chết Covid-19 cũng được chứ nhất định không chịu bỏ việc hành hương.  Thủ tướng cũng không thể cấm lễ hội được vì quyền lực của các giáo sĩ Bà la môn ở đây là tối thượng (Là đẳng cấp thứ nhất trong 5 đẳng cấp). Gọi là phép vua thua lệ làng là vậy!

Đây là lỗi của chính phủ Ấn Độ. Tháng 3 – 2020, bộ trưởng Y Tế Harsh Vardhan tuyên bố Ấn Độ đang trong “giai đoạn cuối” của dịch Covid-19 và bắt đầu xuất số lượng oxy khổng lồ (tăng738% sản lượng) và 193 triệu liều vaccine ra các nước khác. Đến khi dịch đợt 2 bùng phát thì không còn gì để chữa bịnh cho dân! Dân Ấn chết liệt địa vì không có oxy. Người ta cho rằng, khi Ấn Độ chận đứng được Covid-19 đợt 1 thì Trung Cộng phóng vào Ấn Độ “Covid-19 biến thể  đợt 2” khiến chính phủ Ấn bó tay!

Đã vậy, ngày 25 tháng 4 năm 2021, Trung Cộng tuyên bố không cho máy bay chở vật phẩm y tế qua Ấn Độ. Số người chết ở Ấn Độ nhiều đến nỗi không kịp chôn hoặc thiêu xác. Người dân bỏ mặc thân nhân trong bịnh viện. Bịnh viện đành vất xác xuống sông Hằng. Xác trôi giạt khắp nơi. Thuốc chích ngừa cho tín đồ Hồi giáo lại gặp trở ngại lớn ở các xứ Trung Đông và Do Thái khi họ biết, trong vaccine Covid-19 có chất Gelatin, gốc từ thịt heo. Dân Hồi giáo và Do Thái giáo cấm ăn thịt heo. Nhiều cuộc tranh luận nổ ra. Nếu chích vaccine thì phạm luật Hồi giáo, ngược lại thì chết. Rốt cuộc mọi người vui vẻ khi một giáo sỹ tuyên bố “Luật cấm ăn chứ đâu có cấm chích”. Một chuyện nữa. Tiến sĩ Pilar Mazzetti, bộ trưởng Y tế Peru bí mật tiêm vaccine Covid-19 cho tổng thống. Việc phát giác, Ông bộ trưởng phải từ chức (12-2-2021)

Cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng rúng động hơn. Người già thất thần khi thấy rõ cái chết của những người quen biết (cỡ tuổi mình). Bạn bè, thân quyến chết hằng ngày, chết liệt địa! Tuần trước, ông X. mới gọi nói chuyện, hôm qua đã nghe “đi” rồi. Mình mới đến nhà thăm ông K. hôm kia, thấy vẫn mạnh khỏe, cười nói vui vẻ, vậy mà vừa nghe, đã được đưa vô bịnh viện, thở oxy (và chờ chết). Đưa vô bịnh viện cũng chết mà nằm nhà cũng chết! “Chết không kịp ngáp!”. Giở tờ báo, mấy trang sau đầy cáo phó với chia buồn. Mấy ông bà già thường mở báo chí, internet xem cáo phó với phân ưu, để biết những người quen biết nào đã từ giã cõi trần? Báo chí, truyền hình, email, YouTube… đăng toàn những tin về số người lây nhiễm, số người chết từng ngày, từng quốc gia. Đa số các bà quẩn trí thành trầm cảm vì lo sợ không biết lúc nào đến lượt mình? Coi bộ các ông rất thản nhiên. Đa số các ông là lính chiến, trước 1975, đã quen chiến trận, xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Làm người lính chiến, sống nay, chết mai, họ chẳng hề bận tâm. Thế nên, mỗi ngày, mở mắt thức dậy lại thêm một niềm vui, là mình vẫn còn sống nhăn, trong khi nhiều người cỡ tuổi mình hoặc nhỏ hơn mà đã leo lên bàn thờ rồi. Bản thân lão già nầy (tôi), hơn tám chục, cũng chẳng sợ gì, vẫn cứ nhởn nhơ ra chợ Eden (tiểu bang Virginia) ăn uống, cà phê, cà pháo, tán phét với mấy ông bạn “xâm mình!” mà chẳng hề ho hen, nóng sốt, đau nhức gì cả. Tôi và các ông bạn tuyên bố “Sống đến tuổi nầy quá đủ rồi. Vi rút tụi bây có ngon thì cứ bắt đi. Tứ khoái chẳng ham, bịnh già (cao máu, cao mỡ, tiểu đường, thấp khớp…) hành hạ, sống thêm chật đất, khi đau ốm chỉ làm phiền người khác chứ sướng ích gì?” Hóa ra, lũ vi rút cũng tránh mặt mấy người lì lợm, chỉ ăn hiếp những người yếu bóng vía. Tinh thần suy sụp thì sức đề kháng cũng giảm đi.

Đôi vợ chồng trên 90 tuổi, sau 70 năm sống bên nhau, cả hai vướng covid-19 đang nằm chờ giây phút cuối đời, cùng nắm tay nhau vào cõi hư vô.         

Các nhà dưỡng lão vắng người vì một số lớn bị Covid-19 đến bắt hồn đi biệt tích (chết), một số khác thì con cháu đón về nhà lánh nạn. Bấy giờ, trên nước Mỹ, nhiều người nhiễm  Covid-19 và bệnh già, thường chọn chết tại nhà thay vì tại bệnh viện hay viện dưỡng lão. Họ muốn được gần gủi người thân trong giây phút vĩnh biệt. Ở Indonesia, khi người Hồi giáo chết vì Covid-19, thân nhân thường trộm xác đem về tắm rửa, chôn cất theo lễ nghi Hồì giáo, họ bảo. Nếu không thì linh hồn người chết sẽ không được về với Allah mà phải ở lại thế gian và đi lang thang thành những bóng ma. Một bài báo, ngày 2 tháng 4 năm 2021 đăng tin. Ở Malaysia, cộng đồng người Hoa đốt những bộ vàng mã mô phỏng khẩu trang, bình cồn rửa tay, bộ kim chích vaccine, ngừa vi rút vào lễ Thanh Minh để “người cõi âm” phòng chống Covid-19.

Một chuyện khác. Theo Daily Mall, một đoạn video cho thấy. Vài giây sau khi vị linh mục cất lời cầu nguyện thì bàn tay của người chết (vì Covid-19) động đậy và các ngón tay đang di chuyển dưới tấm kính nắp quan tài. Thì ra “Cô” Vid-19 đã bắt lầm người!

Theo nhà toán học Kit Yates thì hiện có khoảng 2 tỷ tỷ vi rút SARS – CoV-2 đang xuất hiện trên khắp thế giới. Một con vi rút có đường kính trung bình 100 nanomet, từ đó tính ra thể tích của một vi rút. Toàn bộ vi rút trên thế giới có thể nằm gọn trong một lon nước ngọt.

Tính đến 8 tháng 5 năm 2021 trên thế giới, đã có  155.886.756 người lây nhiễm với  3.257.603 người chết, chưa kể nhiều quốc gia thống kê thấp, giấu số thực tế (Trung cộng, Ấn Độ) hoặc không thống kê được (châu Phi). Covid-19 đã giết hơn 10,000 bác sĩ, y tá, y công, và những người làm công tác Y tế, Xã hội. Riêng nước Mỹ, đứng đầu thế giới với số người nhiễm dịch Covid-19, tính đến ngày 7 tháng 5 năm 2021 là 33.321.244 người và số người chết là 593.148 người. Ngày 24 tháng 2 năm 2021, tổng thống Joe Biden đã làm lễ tưởng niệm hơn 500 nghìn người Mỹ đã chết vì Covid-19. Công sở treo cờ rũ 5 ngày. Số tử vong vì Covid-19 ở Mỹ cao hơn số lính Mỹ chết trong thế chiến 2 và chiến tranh Việt Nam cộng lại.  Nhiều quốc gia, người chết không kịp chôn hoặc hỏa táng. Ngay tại New York, gần 700 thi thể người chết vì Covid-19 chất đầy trong những chiếc xe đông lạnh đã hơn 6 tháng nay (2020), vì không kịp chôn. Mặc dù thuốc chủng ngừa đã nghiên cứu thành công và đang phân phối ở các nước phát triển. Nhưng nước nghèo không đủ ăn, lấy gì mua thuốc chủng, nên tử thần mặc sức tung hoành. Dân nghèo ở Ấn Độ sợ chết đói hơn sợ covid-19!

Một cái chết vô duyên xảy ra ở Ấn Độ. Một ông mắc Covid-19 được đưa vô bịnh viện, cho thở Oxy. Bữa đó, trời nóng trên 40 độ C, thân nhân bèn đem một máy điều hòa nhiệt độ (AC) vào cho bịnh nhân bớt nóng. Loay hoay tìm ổ cắm điện cho máy điều hòa không thấy, người nhà bèn rút dây cắm (điện) của máy thở Oxy. Mấy phút sau, thiếu oxy, người bịnh thành “quá cố!”

Tiểu bang New Mexico cho biết. Ba người thiệt mạng, ba người trong tình trạng nguy ngập và một người bị mù vĩnh viễn vì uống dung dịch khử trùng tay có chứa methanol.

Tổng thống Trump phát biểu “Tôi thấy chất khử trùng (tay) hạ gục virus trong một phút, một phút thôi. Và có cách nào để chúng ta làm điều tương tự bằng cách tiêm vào bên trong cơ thể hay tẩy sạch chúng không?” Ý tưởng “tiêm thuốc khử trùng” và “chiếu ánh sáng” khiến các chuyên gia y tế phản đối, cho rằng đây là phương pháp “tự sát”. Thật hết ý!

Sau đây là những trích đoạn từ bài “Hé lộ nỗ lực cứu Trump trước Covid-19 năm 2020”. “Trump bắt đầu có triệu chứng Covid-19 vào ngày 1/10/2020 và thông báo trên Twitter rằng ông và đệ nhất phu nhân dương tính với nCoV. Vài giờ sau, ông sốt cao, lượng oxy trong máu giảm xuống dưới 94%, có thời điểm trong khoảng 80-90%” “Trump vốn không muốn nhập viện, nhưng các phụ tá đã đưa ra hai lựa chọn. Ông có thể đến bệnh viện vào ngày 2/10, trong khi ông có thể tự đi bộ hoặc nếu ông chờ thêm, máy ảnh có thể chụp được cảnh ông phải dời đi bằng xe lăn hay giường di động. Họ sẽ không thể giấu được tình trạng của ông”… “Ít nhất hai trong số những người đã được thông báo tóm tắt về tình trạng sức khỏe của Trump vào cuối tuần đó nói rằng ông bị ốm nặng và lo sợ ông sẽ không qua khỏi. Những người thân cận với chánh văn phòng của Trump, Mark Meadowns, nói rằng ông rất lo sợ Trump có thể qua đời. Chiều 3/10, tình trạng của Trump bắt đầu cải thiện. Một nguồn tin cho rằng các kháng thể đơn dòng đã giúp tổng thống phục hồi nhanh chóng” “Redfield xem truyền hình trực tiếp từ nhà. Ông cầu nguyện khi Trump đi lên các bực thang, cầu nguyện rằng Trump sẽ tỏ ra khiêm tốn, nhắc nhở mọi người rằng bất kỳ ai cũng có thể nhiễm nCoV, rằng ông sẽ nói với họ cách họ có thể bảo vệ bản thân và người thân. Nhưng Trump không như vậy. Lúc đó Redfield biết rằng mọi chuyện đã kết thúc. Trump cho thấy ông không hề thay đổi. Cách ông phản ứng trước đại dịch sẽ không thay đổi”         

Đúng ra, chính phủ của tổng thống Trump đã đốc thúc FDA cấp giấy phép (trước ngày 11/12/2020) cho viện bào chế Pfizer sản xuất vaccine chống Covid-19, phân phối ưu tiên cho những người làm công tác y tế. Máy bay, xe vận tải đặc biệt đã phân phối trên toàn nước Mỹ gồm 150 bệnh viện và 450 trung tâm chích ngừa từ thứ hai (14/12/2020) và các ngày sau đó. Công ty công nghệ sinh học Moderna, sau đó, thành công với vaccine (25/11/2020) có thể bảo quản ở nhiệt độ âm 20 độ C. Đến đầu năm 2021, Joe Biden đắc cử tổng thống, ông phát động chiến dịch chích ngừa (vaccine Covid-19) trên khắp nước Mỹ. Mỗi ngày sẽ có 6 xe tải đi ra từ nhà máy chuyển hàng (vaccine) cho các hãng chuyển phát nhanh bằng đường hàng không (Fedex, UPS, DHL…) để bảo đảm hàng được giao trong 2 ngày trong nước Mỹ. Đến giữa tháng 5 năm 2021, đa số dân Mỹ đã được chích ngừa, chỉ một số tuổi trẻ không chịu chích ngừa. Chính phủ các tiểu bang phải tặng tiền như ở tiểu bang California, người nào đi chích ngừa thì được tặng một phiếu mua hàng trị giá 50 USD lại còn xổ số, có người đi chích ngừa trúng số 1 triệu USD. Tiểu bang Ohio cũng tổ chức xổ số cho những người tham gia chích ngừa. Giữa tháng 5 – 2021 có cô gái trúng thưởng một triệu ($1.000.000) USD. Một cậu học sinh trúng giải, được chính phủ tài trợ mọi phí tổn cho đến khi tốt nghiệp đại học. Trong tai nạn dịch Covid-19, kinh tế Mỹ suy thoái, chính phủ Liên Bang tặng không cho mỗi công dân trên hai nghìn ($2.000) USD, sinh con được chu cấp ba trăm ($300) USD mỗi tháng, ngoài ra, những người thất nghiệp đuợc trợ cấp thất nghiệp dài dài. Vậy mà cũng có đến hàng trăm nghìn người không (thèm) nhận những số tiền trợ cấp đó? Mục đích chính phû bơm tiền cho dân xài để kích thích nền kinh tế đang suy thoái vì Covid-19. Về thuốc chích ngừa, nước Mỹ còn dư thừa quá nhiều, có chương trình tặng vaccine cho các nước thân hữu.

Chính phủ các tiểu bang tìm đủ cách để dân chích ngừa Covid-19, vậy mà một số người không chịu đi chích ngừa, khiến nạn dịch Covid-19 vẫn tiếp tục lây lan, số người chết vẫn leo thang. Trong tháng 6-2021 số người chết là trên 10.000 người. Ngày 5 tháng 7-2021 bác sĩ Anthony thông báo. “99% những người chết nầy vì đã không chịu chích ngừa”. Đến tháng giữa 7-2021, số người chết ở Mỹ trên 623.435, (thế giới trên 4 triệu).

Hậu quả của cơn dịch Covid-19 thật khủng khiếp. Kinh tế suy thoái trầm trọng. Người ta suy đoán. Sau khi dịch Covid-19 đã bị chận đứng, phải 3 năm sau kinh tế thế giới mới gượng dậy nỗi. Tình trạng xã hội bị xáo trộn. Thất nghiệp tràn lan, Lệnh cách ly khiến mọi người bị tù túng trong bốn bức tưòng, thế là vợ chồng bực bội, gây gỗ, đưa nhau ra tòa (Corona-divorce) Nhưng có nhiều nơi tòa hoãn xử ly hôn, ly dị. Thế là họ về nhà, chẳng biết làm gì? Bèn đem “cờ” ra đánh theo thơ bà Hồ Xuân Hương. “Chàng lừa thiếp đang khi bất ý, đâm tốt đầu dú dí vô cung…”

Chỉ mươi năm sau, nước Mỹ sẽ có thế hệ “Quaranteen” (trẻ cách ly)

Bạn đọc đến đây tất đã biết hết cái nguy hiểm của con Covid-19 rồi. Nó giết người nhanh như chớp. Nhưng người bị lây nhiễm sẽ đau đớn ra sao trước khi chết? Cách cứu chữa của bịnh viện như thế nào? Mọi diễn biến đó, bạn không thể nào biết được vì bạn không trải qua, bạn vẫn còn sống. Sau đây là bài viết của bác sĩ Minh Ngọc trong bài “Nỗi Cô Đơn Của Đá” (Xin phép bác sĩ, được trích một số đoạn trong bài viết của bác sĩ ) sĩ)

(New York USA) “Làm việc tới khuya, anh tắt đèn đi ngủ. Bỗng anh thấy cổ họng đau đau. Anh ngồi dậy, đi ra tủ lạnh rót nước uống rồi trở lại giường ngủ. Gần sáng, anh giật mình thức dậy, đầu nhức như búa bổ, người ớn lạnh khó chịu. Anh đi lấy một viên Motrin uống rồi nằm nghỉ, chắc hôm nay không làm việc được rồi. Anh ngủ vùi tới quá trưa, tỉnh dậy không thấy đỡ, ăn một chút súp đóng hộp Campbell rồi uống thêm một viên Motrin. Khi cô (người yêu) gọi, anh không nói chuyện được vì cổ họng đau rát, anh cố trấn an cô rằng có lẽ vì anh thức khuya làm việc, mai chắc sẽ khởe hơn. Buổi tối ngực anh ran ran, anh muốn ho mà phải nén lại vì vừa dợm ho là ngực đau tức không chịu nỗi. Cả đêm anh trở mình bên nào cũng đau và khó chịu, ngực đau đến mức không thở được. Anh hít Albuterol mấy lần vẫn không thấy đỡ. Chờ mãi đến chín giờ sáng để gọi văn phòng bác sĩ vẫn trị bịnh suyễn cho anh. Vị bác sĩ chăm chú lắng nghe, hỏi anh về đồng sự mắc Covid-19 ở sở. Anh bảo không biết đích xác là ai nên không thể nói là gần người ấy nhiều không. Vị bác sĩ bảo: “Anh phải đi cấp cứu” Anh cãi “Chắc tôi bị cúm thôi bác sĩ, vài ngày là hết có chi đâu” Vị bác sĩ nghiêm nghị “Không, anh nghe lời tôi, đừng coi thường”…                                                                                                                       

Người bảo vệ đeo khẩu trang, găng tay chẳng khác bác sĩ phẩu thuật trên phim, chận anh lại, hỏi, anh khai bác sĩ bảo đi cấp cứu ở cổng nầy. Anh ta hỏi tên rồi bốc đìện thoại gọi vào. Chừng một phút sau, một đoàn bốn năm người trùm kín mít từ đầu tới chân như phi hành gia vội vã đẩy một chiếc băng ca ra, bắt anh nằm lên rồi đẩy nhanh vào phòng. Họ nhanh chóng gắn các thứ phụ tùng lên người anh để các con số nhịp tim, huyết áp và độ bảo hòa oxygen hiện lên màn hình. Một người nhìn lên các con số rồi bảo cho chụp mặt nạ dưỡng khi lên mặt anh. Hơi oxygen mát lạnh phả vào mũi và miệng khiến anh dễ chịu hơn một chút. Một người lấy nhệt độ của anh vừa xong, họ đem đến hai viên Tylenol cho anh uống. Hai người khác cũng vừa đặt xong đường truyền tĩnh mạch, một bao muối sinh lý nhỏ giọt theo ống nhựa mảnh mai chảy vào người anh. Một người nữa dùng que dài có bông gòn ở đầu như Q-tip chọc vào trong mũi anh rồi bỏ vào ông nghiệm đóng nắp lại. Xong xuôi, họ đi ra khỏi phòng. Một người đẩy chiếc máy cồng kềnh vào phòng, đặt một tấm hình vuông dưới lưng anh, điều chỉnh máy ngay bên trên người anh, lui ra ngoài cửa, tay bấm chiếc nút đang cầm một tiếng “tách” khô khan, rồi anh ta lấy ấm vuông ấy ra, đặt bên hông anh, lại bấm thêm một cái nữa. Anh ta đem tấm vuông ấy bọc vào một cái bao để riêng, đẩy cái máy ra ngoài, đóng kín cửa… Bỗng con số màu xanh dương tụt xuống, chớp báo động inh ỏi. Cô (BS) đứng bật dậy, bấm cái nút to màu xanh trên tường rồi mở cửa chạy vụt vào phòng, rút quä bóng oxygen cấp cứu trên đầu giường, úp mặt nạ lên mặt chàng trai, bóp bóng liên tục đẩy oxygen vào phổi. Hai điều dưỡng chạy tới, đẩy xe thuốc cấp cứu đến trước cửa phòng, nhanh nhẹn bẻ khóa, mở ngăn kéo lấy ra ống thở và đèn đặt nội khí quản cho cô. Cô mau chóng đặt ống thở, nối với máy thở bên cạnh giường. Con số màu xanh dương vọt lên 85 nhưng không lên nữa dù cô đặt oxygen 100%…                                                                                

Cô thở dài, bước ra ngoài, tháo bộ đồ trang bị, gỡ bỏ khẩu trang, rửa tay với xà bông, rồi bước lại bàn làm việc, bấm số gọi cha mẹ của anh…                                                          

Chàng trai suy yếu dần dần. Những chỉ số liên tục xấu đi. Máy thở oxygen không giúp được hai lá phổi bị hư hại. Gan và thận suy nặng. Mọi người trong khoa Săn sóc đặc biệt nhìn nhau u ám lắc đầu. Người bệnh không còn hy vọng gì cứu nỗi”.

Và cùng với bài “Cuối Mùa Dịch”, (xin phép trích vài đoạn) bác sĩ Minh Ngọc tóm tắt, nước Mỹ (New York) đã dứt điểm Covid-19 như sau.

Từ cuối tháng 3-2021, các bác sĩ bắt đầu hình thành kế hoạch cụ thể hơn căn cứ vào những kinh nghiệm bước đầu – không chữa theo phác đồ ARDS nữa mà hổ trợ hô hấp bằng BiPAP hay CPAP, chỉ đặt nội khí quản khi bịnh nhân thực sự suy hô hấp nặng cần thở máy, cho xét nghiệm chức năng đông máu thường xuyên để phát hiện sớm và chữa kịp thời bằng thuốc kháng đông alteplase (tPA). Các thuốc thử nghiệm hydroxychloroquine, remdesivir, lerolimab được áp dụng, có còn hơn không. Chưa bao giờ thấy FDA duyệt nhanh và nhiều như vậy, phê chuẩn ào ào đủ loại thuốc và xét nghiệm. Nhiều chương trình nghiên cứu thử luôn thuốc kẽm, pepcid, sinh tố D… nói chung nghĩ ra được món gì khả dĩ chống được con virus này là thử hết. Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân được đề nghị thử thuốc gì cũng gật đầu, biết đâu công hiệu thì sao! Rốt cuộc chẳng biết nhờ các biện pháp phòng ngừa, nhờ thay đổi cách điều trị hay nhờ các thứ thuốc chữa bá bệnh mà các bệnh nhân tháng 4 hồi phục nhanh chóng, xuất viện ào ào, tinh thần làm việc của bác sĩ, điều dưỡng phấn chấn hẳn, thừa thắng xông lên. Trên tường bệnh viện xuất hiện tấm bảng đen ghi bằng phấn, mỗi ngày thay đổi con số xuất viện, lên tới trên con số ngàn. Hai trại cấp cứu dã chiến trong sân bệnh viện đã dỡ bỏ bớt một, còn giữ một trại tuy trống nhưng để phòng đợt dịch thứ hai. Đội cấp cứu đường thở đâm ra “thất nghiệp”, nhiều ngày ngồi ngáp ruồi chẳng ai gọi, bèn phân vào phòng mổ. Phòng mổ “sạch” (Covid-19 âm tính) ngày càng bận rộn, làm việc toàn thời gian. Tuần qua là tuần đầu tiên phòng mổ “sạch” đạt 75% số phòng hoạt động. Các anh chị BS Ngoại khoa và điều dưỡng phòng mổ chính thức không còn làm việc ở Cấp cứu và ICU nữa, trở lại với áo mũ dao kéo, BS gây mê thôi không còn chạy đi cấp cứu đường thở, trở lại với máy móc thuốc men… Trở lại với hoạt động bình thường trong bệnh viện, là điều vẫn ước ao hàng ngày khi đang vất vả đối phó với bệnh nhân la liệt khắp nơi, vậy mà lại bùi ngùi tiếc nuối! Nhớ không khí căng thẳng, mỗi người tất bật làm việc trong trang phục kín mít, những ánh mắt trao đổi thầm lặng qua kính bảo hộ – lo lắng, hy vọng – khi các chỉ số nhảy lên xuống trên màn hình, gương mặt thất thần của bệnh nhân dán mắt vào các nhân viên như cầu cứu. Từ chỗ hoang mang lo sợ những ngày đầu, mọi người trở nên thuần thục, hăng hái, quên cả nguy hiểm dốc sức cứu chữa từng sinh mạng, tự nhiên cảm thấy những ngày giờ làm việc của mình có một ý nghĩa nào đó, không chỉ là một công việc lãnh lương hai tuần một lần… Một điều tôi biết chắc, khi dịch tái phát, đội ngũ y tế nay đã  dày dạn kinh nghiệm, sẵn sàng đương đầu với con virus ghê gớm, các trang bị bảo hộ tích trữ đủ dùng nhiều tháng, máy thở và thiết bị hô hấp được cung cấp quá số lượng cần dùng nằm trong kho chờ sẵn. Chúng tôi không còn sợ nó” 

Một điều đáng quan tâm, vì con Covid-19 phát xuất từ thành phố Vũ Hán bên Trung Hoa nên khắp nơi trên thế giới, người ta ghét người Tàu, nhất là ở Mỹ, hễ thấy người tóc đen, da vàng, mũi tẹt là họ kỳ thị, đôi khi nhục mạ, tấn công. “Hãy cút về xứ của chúng mày!”… Quí ông bà Việt Nam quá khích (cuồng Trump đến thô lỗ, cục cằn) nên suy ngẫm lại thân phận của người tỵ nạn. Người Mễ, người Phi Châu nhập cư rất ý thức, không hề biểu lộ chính kiến. Cái giấy chứng nhận công dân Hoa Kỳ được cấp phát chỉ là thủ tục hành chánh, có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào, trục xuất bất cứ lúc nào nếu ta phạm pháp. Người da đen sinh sống ở xứ Mỹ hàng trăm năm vẫn bị kỳ thị, xem như công dân hạng hai, bị chẹt cổ đến chết, thi công dân hạng ba, là người nhập cư da vàng dễ dàng bị người da trắng và cả da đen tấn công. Nên thận trọng trong sinh hoạt và những phát biểu. Trong thế chiến 2, khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, hàng trăm nghìn người Mỹ gốc Nhật đều bị tập trung lại một chỗ. Gần giống như trại tập trung cải tạo vậy. Hết.

Phạm Thành Châu

Views: 0

“Thác Là Thể Phách, Còn Là Tinh Anh”

Bài tưởng niệm nhân vật lịch sử Nguyễn Ngọc Huy 31 năm sau ngày mất (28/07/1990)

Cao Tuấn

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy (1924 – 1990)

Cuối cùng ai cũng phải chết. Đối với đại đa số người ta, ngoài phạm vi gia đình riêng, chết là hết. Nhân vật lịch sử thì khác. Chết mà vẫn còn. Ảnh hưởng của họ sau khi chết có thể quan trọng hơn cả ngay khi còn sống. Ông Nguyễn Ngọc Huy là một người như vậy hay là một trường hợp như vậy.

Nói như thế có quá đáng không?

Câu trả lời phải tìm trong cuộc đời tranh đấu phi thường của ông Nguyễn Ngọc Huy trong một giai đoạn lịch sử rất phức tạp, khó khăn. Và phải nghĩ cả đến tương lai của nước Việt Nam – sẽ Độc Lập, Dân Chủ, Tự Do, Hoà Bình, Hạnh Phúc hay vẫn tiếp tục chìm đắm, suy đồi trong độc tài, đảng trị để rồi tan biến không dấu vết vào nước Tầu Cộng Sản?

Làm chính trị đúng đắn cũng là làm cách mạng

Thi phẩm Hồn Việt, tập thơ in lần đầu năm 1950.

Trong bài thơ “Anh Hùng Đất Việt” ông Nguyễn Ngọc Huy sáng tác ngày 27/07/1948 – vào khoảng 3 năm sau khi gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng ở tuổi 21 – được in trong tập thơ Hồn Việt, dưới bút hiệu Đằng Phương có đoạn như sau:

Đây những người sinh nhằm thời quốc biến

Trong gian truân, cố chuyển lại cơ trời

Giữa đêm sâu, mưa máu rộn tơi bời

Vẫn thẳng tiến, không rời đường cách mạng

Ông Nguyễn Ngọc Huy lúc còn trẻ phải rất cảm hứng với “đường cách mạng” mới có thể viết được lời thơ rất truyền cảm vừa bầy tỏ sự khâm phục vừa bao hàm cả quyết tâm của chính mình muốn noi theo những tấm gương của những người hy sinh cho nước.

Điều khá lạ lùng là về sau này, ít nhất từ khi ông từ Pháp trở về nước năm 1964, lúc 40 tuổi, để tích cực hoạt động chính trị công khai như lập đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ở hải ngoại sau biến cố 1975), ông không còn hay nhắc tới “đường cách mạng”.

Từ đó, ông thường  nói “làm chính trị” mà không nói “làm cách mạng”. Lý tưởng và quyết tâm rõ ràng không suy suyển nhưng ngôn ngữ có sự thay đổi. Vậy, giải thích làm sao?

Thời Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam ông Nguyễn Ngọc Huy là một trong 4 vị giáo sư nổi tiếng uyên bác nhất của trường Quốc Gia Hành Chánh, trường Luật, các trường đại học và cao đẳng khác trên toàn quốc về bộ môn chính trị học. (Ba vị kia là các ông Nguyễn Văn Bông, Vương Văn Bắc, Nguyễn Mạnh Hùng). Mà đối với chính trị học hay khoa học chính trị thì cách mạng (revolution) là một chủ trương chính trị hướng đến sự thay đổi xã hội một cách toàn diện thành ra làm cách mạng cũng là làm chính trị rồi.   Cố ý tách rời cách mạng khỏi chính trị, mang tính cách chủ quan, thiên về mục đích tuyên truyền, đặc biệt khi có người nhấn mạnh mình làm cách mạng, không làm chính trị.

Thời Pháp thuộc, vì điều kiện hoàn cảnh, các đảng phái cộng sản hay không cộng sản thường là các đảng kín, kỷ luật sắt, hoạt động bí mật, chủ trương tranh đấu lật đổ chế độ đương hữu, lập chế độ mới nên thường tự xem là làm cách mạng. Riêng người cộng sản lúc nào cũng tự nhận họ làm Cách Mạng (viết hoa), mà cuộc cách mạng cộng sản đồng nghĩa với cực đoan, bạo động trong khi từ ngữ cách mạng chỉ hàm ý một sự thay đổi sâu rộng không nhất thiết phải có bạo động, chém giết tàn bạo.

Một lý do khác: ông Nguyễn Ngọc Huy nhìn thấy những sai lầm căn bản của các cuộc  cách mạng cộng sản và người cộng sản đã lạm dụng danh từ quá đáng  nên để tránh những nhập nhằng hay ngộ nhận ông đã cố ý không nói nhiều đến việc “làm cách mạng”. Nhất là sau khi đã đóng góp ý kiến thiết thực tạo lập bản Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam năm 1967 – đặt khá nhiều hy vọng nó  sẽ là nền tảng cho chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Ông chủ trương làm chính trị công khai, đúng đắn trong khuôn khổ luật pháp như là một giải pháp cứu đất nước khỏi hiểm hoạ cộng sản và xây dựng một quốc gia dân chủ tự do, trường tồn, hạnh phúc.

Trước hết, theo ông, người hoạt động chính trị phải hiểu thế nào là chính trị và ảnh hưởng của chính trị đối với con người rồi mới thấy rõ công việc của mình làm.

Dạy về khoa học chính trị (political science), ông Nguyễn Ngọc Huy biết từ ngữ chính trị đã được hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng qua những phát biểu và cung cách hành xử trong cả cuộc đời tranh đấu thì có thể thấy ông đã chọn và đã sống  một quan điểm về chính trị và về “làm chính trị” ngay từ đầu một cách rất tự nhiên và thành thật với chính mình, không phải đóng tuồng, đóng kịch chi cả. Sự chọn lựa này hoàn toàn phù hợp với cá tính và hoài bão của chính ông.

Chính trị là làm cho xã hội ngay thẳng, lành mạnh. Chính trị là khoa học hay nghệ thuật về việc điều khiển quốc gia. Người làm chính trị có thể phải khôn ngoan, uyển chuyển nhưng không được lừa lọc, dối trá. Người làm chính trị tất nhiên phải nghĩ tới việc nắm quyền lực nhưng quyền lực là phương tiện không phải là mục đích. Chính trị bao trùm mọi khía cạnh của đời sống con người. Nó tốt thì người được sung sướng, nó xấu thì người phải chịu đau khổ. Các chế độ độc tài, dành độc quyền làm chính trị, đều khuyến khích, cổ võ chủ trương phi chính trị trong giới người không thuộc phe cánh, ngoài tầm kiểm soát của họ. Phi chính trị, thực tế, là một thái độ chính trị. Là chấp nhận cái chính trị của nhà cầm quyền đương hữu, làm theo ý muốn của họ hay ít nhất không chống lại họ…

Tư tưởng của ông Nguyễn Ngọc Huy là một hệ thống hoàn chỉnh. Do sở học và do tự suy nghĩ. Là nhà khoa học chính trị đồng thời là một chính trị gia/ chính khách/ nhà cách mạng, hầu như ông luôn luôn có câu trả lời đầy đủ cho bất cứ một câu hỏi quan trọng nào liên quan đến các vấn đề cứu quốc và kiến quốc. Hoạt động của ông phản ảnh trung thực tư tưởng của ông. Nói và làm hoàn toàn tương hợp. Không bao giờ nói một đằng, làm một nẻo.

Chẳng hạn là người theo đạo Phật, thấm nhuần Phật pháp nhưng khi làm chính trị – sáng lập và điều khiển đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ông luôn giữ một khoảng cách hợp lý, vừa phải với giáo hội Phật Giáo nói riêng và các tổ chức tôn giáo nói chung cho dù ông biết rất rõ đảng chính trị dựa vào tôn giáo dễ thu hút, dễ tuyển mộ, dễ huy động quần chúng, đặc biệt trong trường hợp xã hội Việt Nam.

Không giống với một số chính trị gia khác, ông phân biệt rõ ràng đạo và đời, thần quyền và thế quyền. Trong cả lý thuyết và thực tế. Tôn giáo và chính trị là 2 lãnh vực khác nhau. Lịch sử cho thấy 2 thứ trộn lẫn vào nhau có những hậu quả tai hại, hoặc rắc rối không hay. Như trường hợp ông Ngô Đình Diệm và cuộc khủng hoảng với Phật giáo năm 1963. Như suýt có chiến tranh tôn giáo năm 1965, 1966 ở Sài Gòn, ở Huế. Như xẩy ra trên khắp thế giới qua các thời đại cổ, kim.

Ông Nguyễn Ngọc Huy luôn luôn từ chối đi đường tắt nếu nó trái với nguyên tắc, trái với điều ông tin tưởng.

Có khá nhiều minh chứng khác nữa.

Người cộng sản như các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Văn Linh… yêu Đảng (viết hoa) của họ hơn hết. Lịch sử cho thấy họ chấp nhận “thà mất nước còn hơn mất Đảng” .

Ông Nguyễn Ngọc Huy hoàn toàn khác.

Ông cũng thấy trong cuộc tranh đấu vì đất nước cần thiết phải xây dựng được ít nhất một đoàn thể, một đảng chính trị thích ứng – tập hợp được một số đông người, tổ chức chặt chẽ để duy trì được lâu dài, huy động được dễ dàng, hoạt động một cách thống nhất, làm việc một cách hữu hiệu. Muốn thế cần huấn luyện đoàn viên hay đảng viên tin tưởng nơi sự đứng đắn của lập trường mình, có tinh thần xung phong tranh đấu cho lý tưởng, có khả năng thực hiện các công tác được giao phó… Nhưng đảng hay đoàn thể đối với ông chỉ là phương tiện để phục vụ quốc gia, không phải là cứu cánh. Đảng quan trọng, cần thiết nhưng đảng không có đời sống riêng. Không có nước thì không có đảng. Đối với ông, “thà mất nước còn hơn mất đảng” chắc chắn là chuyện phi lý.

Từ lúc ông viết bài thơ “Nén Hương Lòng” khi mới chân vào đời hoạt động:

Hỡi những ai kia đã luỵ mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh

cho đến bài viết cuối cùng, hơn 40 năm sau, vài ngày trước khi mất, với nét chữ yếu ớt, nguệch ngoạc vì hơi đã tàn, lực đã kiệt:

không một lúc nào, trong 40 năm ấy, ông không bận rộn, không làm hay  không nghĩ đến việc phải làm, cần làm để cứu dân tộc, cứu đất nước. Ông muốn sống thêm vài năm mặc dù cơ thể đau đớn vì bệnh ung thư ngày đêm hành hạ chẳng phải vì còn tha thiết với cuộc đời riêng mà chỉ muốn hoàn tất cái trách nhiệm mà ông đã tự trói buộc  mình, đã tự nguyện đảm đương.

Một người yêu dân tộc, thương giống nòi  đến nỗi sao nhãng cả đời sống gia đình, quên cả bản thân, không vụ lợi, không màng danh – “thân còn chẳng kể, kể chi danh!” – không thể là người có tinh thần tư đảng, không thể là người làm chính trị đảng phái chỉ để làm chính trị đảng phái, tranh đoạt quyền lực chỉ để tranh đoạt quyền lực.

Là đảng viên đảng Đại Việt, trong tập thơ Hồn Việt in năm 1950, ông từng làm thơ khóc các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài trong “Ngày Tang Yên Bái” hay tưởng tượng lời khẳng khái của Nguyễn Thái Học nói với Đoàn Kiểm Điểm trong bài “Lòng Người Đảng Trưởng”.

Ông tách khỏi Đại Việt Quốc Dân Đảng để sáng lập Tân Đại Việt vì nhìn thấy nhu cầu phải tranh đấu theo phương cách mới. Ông sáng lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến vì muốn tiến tới một tập hợp chính trị đoàn kết rộng rãi để có sức mạnh trên toàn quốc . Ông sáng lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam để tiếp tục cuộc tranh đấu trong môi trường và điều kiện khác hẳn từ hải ngoại…

Ông vẫn duy trì Tân Đại Việt làm căn bản hay nòng cốt nhưng không bao giờ có dấu hiệu ông xem Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam chỉ là các tổ chức “ngoại vi” như có người nghĩ như vậy. Nhất là từ ngữ hay khái niệm “ngoại vi” làm người ta liên tưởng đến các tổ chức bung xung của đảng cộng sản chỉ lập ra để tuyên truyền hay che mắt thế gian. Như Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hoà Bình Việt Nam (Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết), Mặt Trận Tổ Quốc (Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Thế Duyệt), đảng Dân Chủ Việt Nam ( Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm), đảng Xã Hội Việt Nam (Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám), etc… đều là  các tổ chức “ngoại vi” hữu danh, vô thực của Đảng Cộng Sản, được hay bị đảng Cộng Sản giật dây từ đầu chí cuối.

Ông Nguyễn Ngọc Huy không làm chính trị thủ đoạn “lá mặt, lá trái” như vậy. Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từng là các đoàn thể chính trị có thực chất và phẩm chất do ông gây dựng. Bằng sự tận tuỵ, tận tâm, tận lực. Đó là những tác phẩm tim óc của ông chẳng khác tác phẩm Tân Đại Việt. Đó là những nỗ lực chiến lược đặt căn bản trên sự thành tín giữa những người chung lý tưởng vào các khúc quanh lịch sử của dân tộc.

Như giữa ông và người bạn tâm giao là ông Nguyễn Văn Bông. Ông Bông, kém ông Huy 5 tuổi, không phải đảng viên Tân Đại Việt, cũng không thuộc đảng phái nào nhưng là người trí thức dấn thân, tài đức xuất sắc. Ông cùng ông Huy lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến năm 1969. Dậy về chính trị học với bằng cấp cao nhất nước là tiến sĩ rồi thạc sĩ công pháp (Paris), lần đầu tiên trong cuộc đời, ông Nguyễn Văn Bông bước chân vào chính trường “gió tanh mưa máu” theo đúng nghĩa. Ông Bông làm chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, ông Huy làm Tổng Thư Ký. Phong Trào phát triển nhanh chóng và được sự gia nhập của nhiều cá nhân và tổ chức để sớm trở thành            một đoàn thể chính trị có thực lực và quy củ nhất trong Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Phong Trào giữ thế đối lập với chính quyền nhưng đối lập xây dựng và ôn hoà. Chuyện đáng chống thì chống. Chuyện đáng ủng hộ thì ủng hộ.  Cặp đôi giáo sư Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Ngọc Huy ngày ấy danh tiếng như cồn. Ông Bông bị đặc công cộng sản ám sát bằng mìn, thân thể tan nát và cháy đen, khi chuẩn bị ra làm Thủ Tướng cuối năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu…

Không thể nói Phong Trào QGCT là ngoại vi của Tân Đại Việt và ông Huy đã “giật dây” ông Bông dù có thể chính ông Huy đã “tuyển mộ” ông Bông bằng tình bằng hữu chân thành ngay từ ngày cùng đèn sách đại học và cùng làm bồi bàn ở Paris . Cũng không thể nói Tân Đại Việt “điều khiển” luôn Việt Nam Quốc Dân Đảng (hệ phái Nguyễn Tường Tam) chỉ vì đoàn thể này cũng là một thành viên của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến…Đoàn kết, liên minh, tập hợp chặt chẽ, rộng rãi để cùng tranh đấu hữu hiệu cho đất nước – một bắt buộc cần thiết, hợp lý và chính đáng – không thể là một chiến thuật giai đoạn nhất thời hay một nước sơn bề ngoài.

Ông Nguyễn Ngọc Huy sống ở nước Mỹ 15 năm (1975-1990) nhưng ông không vào quốc tịch Mỹ. Ông giải thích rất nhẹ nhàng “người khác làm thế thì được nhưng tôi thì không”. Tưởng như là lời lẽ của người kiêu ngạo mà không phải. Chính là lời lẽ của người âm thầm tự nhận lấy cái gánh nặng lãnh đạo cuộc tranh đấu cứu vớt đất nước. Ông đã nguyện hy sinh hết cuộc đời, ông có kinh nghiệm, ông có kiến thức, ông đã suy nghĩ về con đường phải đi, ông có viễn kiến… Nếu ông không làm thì ai làm?! Nếu ông vào quốc tịch Mỹ, thề trung thành với nước Mỹ, trở thành công dân nước Mỹ thì còn nhân danh cái gì để lãnh đạo cuộc tranh đấu cho nước  Việt Nam?! Chắc ông phải nghĩ đến ông tướng De Gaulle lúc lưu vong ở nước Anh trong thế chiến thứ hai…

Có thực học, thực tài, thực tâm nên ở ông không bao giờ có sự phù phiếm hay cầu kỳ. Mọi sự đều như ăn khớp với nhau một cách giản dị, hợp lý và mang thực chất. Người ta có thể gọi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Huy nhưng ông không tự xưng giáo sư hay tiến sĩ bao giờ. Ông không cường điệu, không tự quan trọng hoá mà cũng không cố ra vẻ khiêm tốn. Nguyễn Ngọc Huy là Nguyễn Ngọc Huy. Lúc nào cũng vậy. Có lần ông cười vui: “con gái tôi biểu: Ba nói tiếng Pháp như người Anh và Ba nói tiếng Anh như người Pháp” (Con gái của ông, tiến sĩ luật khoa Nguyễn Ngọc Thuý Tần, trưởng thành trong cả hai nền giáo dục Pháp và Mỹ). Ông  còn cho biết làm phụ khảo ở đại học Harvard cho ông cơ hội nghiên cứu Luật Nhà Lê, vừa có lương để sống, vừa có bảo hiểm sức khoẻ, vừa tương đối tự do nên có thể đi đây đi đó để phát triển đoàn thể, tiếp xúc với chính giới các nước vận động thành lập Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Công việc nghiên cứu trong môi trường đại học thích hợp và thuận tiện với hoàn cảnh của ông. Ông nói tự nhiên và thành thật.

Với ông “văn là người”, “người là văn”. Cùng lúc vừa bác học, vừa bình dân.        Vấn đề phức tạp, cao xa, khó khăn đến mấy, qua ông, cũng trở nên đơn giản, gần gũi, dễ hiểu. Khả năng hiếm có ấy tất nhiên là do thông minh bẩm sinh, quá trình tôi luyện nhưng cũng do tấm lòng đôn hậu, thành thực lúc nào cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc. Ông Lý Đông A chẳng nói “nuôi tâm thì làm thiên tài, nuôi trí thì làm nhân tài, nuôi thân thì làm nô tài” đấy sao? Nếu không phải là thiên tài thì ông đã không phải là người duy nhất tìm ra tất cả “các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung” một cách có hệ thống, đâu ra đấy, hợp tình, hợp lý không bác bỏ được – Xin nhắc lại: người duy nhất trong mấy trăm triệu người Trung Hoa và người Việt Nam đã đọc và nghiền ngẫm các tác phẩm của nhà đại văn hào này! Một khả năng phân tích và tổng hợp đã phát huy đến một độ cao hiếm có!

Thành công hay thất bại?

Như đã nói đối tượng của chính trị là quyền lực, ông Nguyễn Ngọc Huy cả đời làm chính trị, làm từ A tới Z – học hỏi, suy nghĩ, viết lý thuyết, viết chính sách, viết tài liệu huấn luyện , viết sách, viết báo, tìm người cộng tác, tổ chức và phát triển đoàn thể, đối nội, đối ngoại…chưa kể phải soạn bài, chấm bài, đến lớp dậy học làm công việc chuyên môn của một giáo sư đại học để sống như mọi người. Một đời bận rộn, gian nan không kể xiết vậy mà chức vị to nhất, cao nhất chỉ là một lần làm Đổng Lý Văn Phòng của Phó Thủ Tướng đặc trách Bình Định & Phát Triển trong vài tháng của năm 1964. Ông Nguyễn Tôn Hoàn làm phó thủ tướng lúc bấy giờ.

Rồi để giúp xây dựng một hệ thống lý luận đối phó với phe cộng sản trong cuộc hoà đàm Paris nổi tiếng thế giới – vừa đánh vừa đàm – ông đã chấp nhận làm nhân viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà cùng vài người khác như ông Trần Thanh Hiệp, ông Vương Văn Bắc, bà Nguyễn Thị Vui… trong những năm 1968-1970. Lãnh đạo phái đoàn lúc đầu là phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, nổi tiếng về khá nhiều mặt kể cả mặt hay nói “bốc đồng” và “ruột để ngoài da”. Riêng ông Huy, từ Đổng Lý Văn Phòng đến làm Nhân Viên phái đoàn thương thuyết, về chức tước, thì đúng là “phú quý giật lùi”. Đã thế còn bị nói xấu là “đối lập lom khom” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu!

Hiển nhiên, về phương diện chức vụ và quyền hành ông Nguyễn Ngọc Huy không thể so sánh được với các nhân vật lịch sử của đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà Việt Nam – cho dù sự nghiệp hay thành tích của họ luôn là đối tượng tranh cãi – như các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Bá Cẩn… Ông Nguyễn Ngọc Huy cũng không so sánh được với các ông  Quốc Trưởng, Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Phó Thủ Tướng, Chủ Tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia, Tổng Trưởng, Bộ Trưởng, Thượng Nghị Sĩ : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Xuân Chữ, Phan Quang Đán, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Lưu Viên, Dương Kích Nhưỡng, Nguyễn Bích Huệ, Nguyễn Tiến Hưng, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Quốc Thúc, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức, Thái Lăng Nghiêm…là các chính trị gia, chính khách đứng đắn, có tiếng tăm tốt …cùng với ít nhiều huyền thoại.

Một số nhân vật, đúng ra, chỉ là những nhân sĩ độc lập, chuyên gia không hoạt động chính trị hay cách mạng bao giờ vậy mà đầu hôm sớm mai trở thành bộ trưởng, tổng trưởng một cách dễ dàng chẳng hạn như  các vị giáo sư Vương Văn Bắc, Trần Văn Kiện, Nguyễn Duy Xuân, Nguyễn Văn Tương…của trường Quốc Gia Hành Chánh. Tuy nhiên một sự thực không ai phủ nhận là các vị này đã dành cho người bạn đồng nghiệp đi dậy học bằng xe đạp hay xe Honda “ôm” một sự quý mến và kính trọng đặc biệt. Không phải vì người bạn là bạn đồng chí hướng của ông viện trưởng trường QGHC Nguyễn Văn Bông mà vì họ đã nhìn thấy hình ảnh của một nhà lãnh đạo quốc gia rất xứng đáng trong tương lai, dù có danh hiệu, chức tước hay không. Cũng vì thế mà không ai cảm thấy cần thiết phải ái ngại cho tình cảnh “phú quý giật lùi” hay “đường công danh” quá chậm chạp, vất vả của ông Nguyễn Ngọc Huy.

Cũng không phải chỉ các giáo sư và sinh viên trường QGHC mới thấy ông thầy giáo Huy “không giống ai”. Nhiều người đã nhìn thấy điều này. Những người để ý tới thời cuộc. Chính giới. Báo chí. Trí thức. Sinh viên các trường đại học. Người dân thường…

Và dĩ nhiên luôn cả tình báo cộng sản, tình báo Mỹ và cả ông tổng thống đương quyền Nguyễn Văn Thiệu. Mỗi nơi này đều có những tính toán riêng với trường hợp ông Nguyễn Ngọc Huy.

Dù là tính đến hại hay tính đến lợi cho chính họ, mỗi bên đều biết rằng ông Huy là một người làm chính trị vì lý tưởng, có tư tưởng phong phú, chặt chẽ, kiên định, làm việc có nguyên tắc, có sách lược, có chiến lược, có tổ chức. Họ đã nhìn thấy một nhân vật chính trị với bề ngoài giản dị bình thường nhưng bề trong là một bản lĩnh xuất sắc nhất hay xuất sắc vào bậc nhất của thời đại. Họ đã nhìn thấy một con người rất thận trọng nhưng một khi quyền lực vào tay, sẽ có đủ khả năng xoay chuyển bàn cờ chính trị Việt Nam theo một hướng khác hẳn.

Những bí mật lịch sử được bạch hoá gần đây cho thấy từ năm 1968, người Mỹ đã ý thức rằng sách lược chiến tranh “tốc chiến, tốc thắng” của họ không có kết quả nếu không nói họ đã bị sa lầy không rút chân ra được. Sách lược của Mỹ đã bị vô hiệu hoá bởi sách lược “chiến tranh nhân dân” đánh tiêu hao, đánh lâu dài của Mao Trạch Đông. Hoả lực và kỹ thuật Mỹ không cản được quân cộng sản xâm nhập qua đường biên giới Việt-Miên-Lào quá dài, quanh co cả ngàn cây số, không cản được Đảng cộng Tầu  tích cực yểm trợ và thúc đẩy đảng cộng sản Việt “đánh đến người Việt Nam cuối cùng” và sẵn sàng đánh thêm 20 năm hay 50 năm, không cản được lãnh đạo chóp bu ở Hà Nội tiến hành cuộc chiến ở miền Nam VN bằng tuyên truyền, khủng bố, vừa đánh vừa đàm nhằm gây rối loạn ngay trong nước Mỹ…

Giết ông Diệm, ông Nhu là một sai lầm. Đổ bộ hơn nửa triệu quân mà không dám Bắc Tiến vì  sợ tái diễn một cuộc chiến Triều Tiên thứ 2 với một biển quân Tầu trên đất Việt là một sai lầm khác. Người Mỹ không còn kiêu ngạo nữa: vấn đề Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Chỉ có một chính quyền miền Nam Việt Nam thật hữu hiệu, thật lương hảo, đích thực của dân, do dân, vì dân và được dân ủng hộ tích cực mới có thể đánh bại mưu đồ và nỗ lực nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam của phe cộng sản. Và giúp cho người Mỹ rút quân trong danh dự.

Người Mỹ đi tìm kiếm một liên hệ tốt với nhóm của ông Bông-ông Huy vì lý do này. Nhân chứng và tác nhân khả tín là ông Stephen B. Young của toà đại sứ Mỹ lúc bấy giờ và ông đại sứ đương nhiệm Ellsworth Bunker. Người Mỹ vận động hay làm áp lực với ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời ông Bông làm thủ tướng thay ông Trần Thiện Khiêm để bắt đầu tiến hành cải cách theo chương trình và kế sách của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến mà kiến trúc sư chính là ông Nguyễn Ngọc Huy: lập nội các đoàn kết quốc gia, làm dân chủ pháp trị đúng nghĩa, dân sự hoá và trong sạch hoá chính quyền ở mọi cấp, thực hiện công bằng xã hội, phát triển kinh tế, cải tiến đời sống nông dân bằng các chính sách ruộng đất thích hợp, đoàn ngũ hoá nhân dân để cô lập cộng sản…

Ông Thiệu chống cộng, điều này ai cũng biết. Có lẽ ông cũng yêu nước – một cách có mức độ như đa số mọi người – nhưng ông không yêu nước bằng yêu quyền lợi của ông, bằng yêu cái chức Tổng Thống và quyền lực đi kèm với nó. Ông Bông làm Thủ Tướng có thể có hại mà có thể cũng có lợi cho ông trong đoản kỳ và trong trường kỳ. Ông chấp nhận ông Bông vì có thể ông tự tin rằng, ảo tưởng hay không, ông có thể “đối phó” được với  “ông Bông thủ tướng” một khi ông vẫn là tổng thống và có quân đội trong tay. Và “đối phó” với ông Bông thì dễ hơn “đối phó” với ông Huy. Có thể ông tính toán: ông Bông ít tuổi hơn ông Huy; ông Bông, một nhà khoa bảng lỗi lạc mới bước vào chính trường  không lâu – tương đối ít kinh nghiệm hoạt động chính trị so với ông Huy là người đã xông pha mấy chục năm, từ một đảng viên thường trở thành lãnh tụ, lý thuyết gia, chiến lược gia, nhà tổ chức. Có thể ông Thiệu lo ngại sẽ bị “ông Huy thủ tướng” làm cho lu mờ, mất dần quyền lực đồng thời ông cũng không an tâm lắm với những người thân tín chung quanh ông Huy nhất là nhóm sĩ quan trong quân đội thuộc thành phần trung cấp và cao cấp khá đông đảo có “gốc” Đại Việt hay Tân Đại Việt mà có người đã từng tham gia các cuộc binh biến trong những năm trước. Chẳng hạn như các ông đại tá “không bao giờ được cho lên tướng” Huỳnh Văn Tồn, Nhan Minh Trang, Dương Hiếu Nghĩa …từng chỉ huy sư đoàn hay các đơn vị lớn…Có thể ông lo ngại ảnh hưởng của ông Huy, đã đáng kể với lớp người xuất thân từ trường Quốc Gia Hành Chánh đang điều khiển nền hành chánh ở khắp các tỉnh quận trên toàn quốc, sẽ còn lan toả nhanh chóng sang cả tập thể quân đội vốn là căn bản phát xuất sự nghiệp chính trị của ông.

Diễn biến lịch sử cho thấy: Ông Thiệu đã mời ông Bông làm thủ tướng. Tin bị tiết lộ. Câu hỏi “ai tiết lộ?” chưa được trả lời. Phía cộng sản quyết định ám sát ông Bông ngay tức khắc trước khi sự bảo vệ được chặt chẽ nâng cao dành cho người giữ chức thủ tướng chính thức. Về phía cộng sản, vụ  mưu sát có tầm quan trọng chiến lược được chuẩn bị từ cấp cao nhất, cẩn thận, tỉ mỉ và đã thành công. Đối với họ,  Nguyễn Văn Bông phải chết trước khi quá trễ cũng như các lãnh tụ xuất sắc nhất, tài đức nhất của phe quốc gia phải chết trước khi quá trễ: Lý Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ…

Giết các đại kình địch như thế – thể hiện một thứ chính trị bá đạo, độc hiểm và đê  hèn nên đảng cộng sản đã giữ im lặng rất lâu chung quanh những vụ mưu sát này. Họ không thể rêu rao: “phản động đã đền tội” như thường lệ vì sẽ ngắc ngứ trước công luận: “phản động” chỗ nào? “Tội” gì mà phải “đền”?

Họ giết vì họ sợ. Họ giết ông Bông để chặn đường ông Huy. Chặn một thế lực chính trị đầy triển vọng của người quốc gia Việt Nam. Để phá tan một đường lối mới, dập tắt một hy vọng của chính quyền Mỹ. Quả thật, chính quyền Mỹ, người Mỹ lại tính sai và thất bại nữa vì đã không bảo vệ được người mà họ đặt cái hy vọng ấy.

Mặt khác, không ai biết rõ cảm giác thực của ông Thiệu khi nghe tin ông Bông bị ám sát. Ông có hối tiếc đã không ra lệnh bảo vệ an ninh đầy đủ cho vị thủ tướng tương lai của ông không hay ông chỉ cảm thấy nhẹ người?

Và những câu hỏi khác nữa, chẳng hạn:

Ông Bông không còn, tại sao ông Thiệu không mời ông Huy thành lập chính phủ thay thế mà chỉ nghĩ đến việc duy trì ông Trần Thiện Khiêm đến giờ chót hoặc thay ông Khiêm bằng ông Nguyễn Bá Cẩn khi tình thế đã suy đồi đến mức không thể cứu vãn? Tình thế biến chuyển quá nhanh, “đồng minh tháo chạy quá sớm” hay ông cố tình trì hoãn việc hợp tác thành thực với ông Nguyễn Ngọc Huy để cứu Miền Nam VN chỉ vì tính toán quyền lợi riêng quá kỹ? Ông cũng “ngán” ông Nguyễn Ngọc Huy như người cộng sản “ngán” ông Nguyễn Ngọc Huy chăng? Ông có muốn bào chữa rằng ông không mời ông Huy làm thủ tướng chỉ vì ông lo lắng ông Huy sẽ bị cộng sản giết như họ đã giết ông Nguyễn Văn Bông? Ông có muốn kể công đã mời ông Huy tham gia phái đoàn hoà đàm Paris nổi tiếng thế giới năm 1968-1970 đối diện với truyền thông quốc tế, đối diện cả với Henry Kissinger, Lê Đức Thọ đã khiến Cộng Sản không dám giết “sứ giả” Nguyễn Ngọc Huy khi 4 bên đang thương thuyết để…vãn hồi hoà bình?

Các nghi vấn đều có thể nêu ra, mọi sự giải thích chỉ là suy đoán. Những câu trả lời chính xác nhất vẫn thuộc về ông Nguyễn Văn Thiệu nếu ông Thiệu thành thật với chính mình. Đáng tiếc, ông Thiệu đã trở thành người thiên cổ!

Ông Nguyễn Ngọc Huy không cứu được Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Ngày ông qua đời 28/07/1990 cả nước Việt Nam vẫn dưới ách độc tài đảng trị cộng sản. 31 năm sau, 2021, chưa thay đổi, vẫn còn độc tài đảng trị cộng sản trên toàn cõi. Tương lai đất nước bấp bênh, đen tối trước một nước Tầu cộng sản hùng mạnh và hung hãn. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã không cứu được, chưa cứu được nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam như lòng ông mong muốn.

Người ta thường nói thành công cần 3 yếu tố, thiếu một cũng không xong: tài năng, cố gắng và may mắn. Ông Huy thực là người có tài. Ông đã cố gắng, chính xác nghĩa đen không phải nói văn chương, cho đến hơi thở cuối cùng. Ông cầu nguyện xin được sống thêm vài năm có lẽ cùng tấm lòng với Gia Cát Lượng khi làm lễ dâng sao trên Ngũ Trượng Nguyên hơn ngàn năm trước:

Lúc hết hơi mới biết đến mạng Trời

Và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động

(Đằng Phương)

Ông Nguyễn Ngọc Huy quả thực đã không may mắn.

Đành phải nói là vận nước.

NẾU tháng 11/1971 đặc công cộng sản không giết được ông Nguyễn Văn Bông…NẾU ông Nguyễn Văn Thiệu không quá tham quyền cố vị… NẾU ông Nguyễn Ngọc Huy không bị ung thư kéo dài và chết ở tuổi 66, sớm ít nhất là 10 năm so với  tuổi thọ của người trung bình… NẾU “quần chúng đối với thiên tài KHÔNG PHẢI là cái đồng hồ đi trễ”…NẾU có nhiều người yêu nước tuyệt đối như ông Nguyễn Ngọc Huy v…v…THÌ mọi sự có thể khác, rất khác. Chẳng hạn như Việt Nam có thể đã là một con rồng châu Á thay vì là con rắn, con trăn như trong chế độ chính trị tệ hại hiện hành.

So sánh người làm chính trị – cá nhân với cá nhân  – Nguyễn Ngọc Huy của Việt Nam có kém gì Tưởng Kinh Quốc của Đài Loan, Phác Chính Hi của Đại Hàn hay Lý Quang Diệu của Singapore – về cả ý chí, lý tưởng, kiến thức, tài năng, đức độ, lòng yêu nước? Vậy có nên đem thành bại mà luận anh hùng?

Còn là tinh anh

Sự thất bại của ông Nguyễn Ngọc Huy là hoàn toàn và có tính cách chung cuộc nếu tất cả người Việt Nam đã cam tâm vĩnh viễn làm “cái đồng hồ đi trễ” – coi cái chế độ độc tài cộng sản tàn nhẫn, thối nát và cả triển vọng mất giống nòi là một thứ định mệnh vì “cái số của nước mình nó thế!” thì không còn gì để nói, để bàn.

Trong trường hợp ngược lại, chết chưa phải hết, “thác là thể phách còn là tinh anh”. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã trở thành người của lịch sử, người của chung dân tộc Việt Nam, không còn giới hạn là người của gia đình hay của đảng – Đại Việt, Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam? Cuộc đời của ông là một đại tác phẩm. Các tác phẩm khác của ông, về văn hoá, luật pháp, chính trị cũng là những đại tác phẩm. Ông không giữ bản quyền. Không ai giữ bản quyền. Tất cả là một di sản hoàn toàn lành mạnh, vô cùng phong phú, hết sức hữu ích mà ông Nguyễn Ngọc Huy để lại cho lịch sử, cho dân tộc, cho thế hệ trẻ thanh niên trong và ngoài nước nhất là cho những ai còn trăn trở về tương lai của tổ quốc thân yêu. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã ra đi nhưng để lại một con đường sáng. Rất sáng. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã chết nhưng sẽ sống mãi trong lòng người Việt Nam.

Cao Tuấn (ĐS 12/CH 8)

(Tháng 7/2021)

Views: 44

Cõng Mẹ

Thơ Lê Văn Bỉnh

Tháng Tư đó mẹ con ta trúng đạn.

Con nhẹ hơn, cố cõng mẹ lên đường

Với hy vọng sẽ mau đến nhà thương

Kịp cấp cứu vết thương ra nhiều máu.

 

Máu mẹ ướt lưng, chân con lảo đảo.

Cuối cùng rồi cũng đến cổng nhà thương

Để được xem lời thông báo khác thường:

“Nơi đây không trị liệu gia đình ngụy.”

 

Con nhìn lại áo quần con tiều tụy.

Đó vốn là quân phục mặc xưa nay.

Dù giờ đây có vội vã kịp thay,

Sao rời khỏi bao năm dài gắn bó?

 

Chung quanh đây cao mấy vuông cờ đỏ,

Mà con nghe chết lịm cả tâm hồn.

Trên lưng con hơi thở mẹ đã mòn;

Con vẫn tin mẹ sẽ hồi tỉnh lại.

 

Con cõng mẹ đi trong cơn điên dại:

Hang cùng, ngõ hẻm, tụ điểm, chợ trời,

Trại tù cải tạo, bến bãi khắp nơi.

Và đến đây vào một ngày tuyết trắng.

 

Bốn sáu năm cõi lòng thêm cay đắng.

Lưng con còng vẫn cõng mẹ ngày đêm.

Con nguyện cầu cho “chân cứng đá mềm”,

Tục ngữ xưa nghìn đời lời mẹ dạy.

 

Lê Văn Bỉnh (ĐS10, CH2)

Views: 1

Khía Cạnh Luật Pháp Việt Nam Về Vấn Đề Công Đoàn Và Tham Nhũng

Nguyễn Bá Lộc

Công nhân Công ty Pouchen VN tràn xuống đường đình công 24/3/2018 ( ảnh BBC News )

Trong lãnh vực kinh tế xã hội, VNCS vi phạm nhân quyền rất trầm trọng và không suy giảm trong thời gian gần đây.  Hai vấn nạn nghiêm trọng của  nhân quyền về mặt kinh tế xã hội là quyền công nhântham nhũng. Hậu quả của hai vấn nạn nầy có liên hệ chặc chẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người dân và của cộng đồng quốc gia. Đây là vấn đề rất rộng lớn, tôi chỉ nêu ra ở đây khía cạnh pháp lý và sự thực thi luật pháp VNCS trong thời gian gần đây của vấn đề nầy.

Mặt khác, quyền công nhântham nhũng còn là hai trong những điều kiện bắt buộc qui định trong các hiệp định mậu dịch quốc tế thuộc loại mới , có tầm mức rất quan trọng mà VN cam kết và thực hiện trong năm 2020 và 2021, vì hội nhập kinh tế toàn cầu là con đường ưu tiên số một của VN để phát triển kinh tế.

Mục đích và vai trò của luật pháp CS là để bảo vệ đảng và ổn định đảng, chớ không phải là giúp cho người dân và xã hội được an toàn, công bằng và phát triển. Cho nên luật pháp XHCN có nhiều khác biệt và mập mờ từ việc làm luật lệ tới việc thi hành luật.

Dưới đây là tóm tắt vài khía cạnh luật pháp VN về hai vấn đề công đoàn và tham nhũng.

I. LUẬT LỆ VỀ CÔNG ĐOÀN

1. Sự thay đổi và cải sửa Luật Lao Động 2019

Luật Lao động VN , từ hàng chục năm trước có rất nhiều khuyết điểm và không giống với luật tại nhiều nước có dân chủ tự do. Nay dưới nhiều áp lực quốc tế, luật lao động được thay đổi hồi tháng 11- 2019, và có hiệu lực từ tháng giêng – 2021. Luật gồm 17 chương và 219 điều khoản, qui định nhiều thứ và sửa đổi hay bổ sung một số điều. Trong đó có qui định về một loại công đoàn mới.

 Đạo luật mới về công đoàn qui định bởi điều 170 “mọi công dân có quyền gia nhập công đoàn”. Công đoàn là một trong những quyền quan trọng của công nhân mà từ trước tới nay do đảng CS nắm giữ và điều hành phục vụ mục tiêu chánh trị của đảng. Đó là Tổng Công Đoàn Lao Động VN trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ). Nó không phục vụ công nhân. Chẳng những quyền lợi chánh đáng của công nhân không được bảo vệ mà CSVN còn đàn áp công nhân hay tổ chức bảo vệ công nhân dưới nhiều hình thức , trong đó có việc lạm dụng luật lệ hình sự để hù dọa và đàn áp công nhân.

Đồng thời khi ban hành Luật Lao động mới nầy, VN phê chuẩn ba điều khoản quan trọng của Công Ước Lao động thế giới (ILO) vào tháng 8-2019 mà VN có gia nhập công ước quốc tế từ nhiều năm trước. Đó là điều 87 qui định về công đoàn độc lập, nhưng tới 2023 mới có hiệu lực, điều 98 qui định về chống lao động cưỡng bức, có hiệu lực vào năm 2022, và điều 105 qui định về quyền thương lượng tập thể có hiệu lực từ 2021.

Dù có chút tiến bộ, nhưng Luật Lao động 2019 hãy còn lờ mờ, chưa đầy đủ, nhất là qua giai đoạn thực thi sẽ có khá nhiều khó khăn, và sự tranh đấu cho quyền lợi công nhân còn phải tiếp tục. Bây giờ thì còn quá sớm để có nhận xét đầy đủ về việc thi hành luật mới. Nhưng công nhân và những người hoạt động cho sự độc lập và sự chân chính của công đoàn cần theo dõi và tiếp tục tranh đấu để nó phù hợp với luật quốc tế. Đặc biệt là hai HĐ mậu dịch mà VN có ký là CPTPP (2019) và EVFTA (2020). Năm qua, VN cũng có đưa ra Nghị định 145 ngày 13-12-2020, chi tiết hóa Luật Lao Động 2019.

Theo yêu cầu và qui định bắt buộc của cả hai HĐ nói trên, VN phải thay đổi luật lao động và sự tương quan giữa luật lao động và lợi ích kinh tế quốc tế.

2. Luật về công đoàn mới còn thiếu sót và sự thực thi còn khó khăn

Liên quan tới công đoàn, có ba điểm chánh nêu lên ở đây là:

Tính cách độc lập và tự do trong thực hiện công đoàn mới. Theo luật 2019 thì tổ chức công đoàn (Trade Union/Workers Union) được gọi là Ban đại diện công nhân (Representative of workers Organization) đ.170 .Trên nguyên tắc tại mỗi xí nghiệp, công nhân được tự do bầu Ban đại diện. Các Ban đại diện chỉ được thực hiện ở cấp cơ sở, tức là xí nghiệp. Không có nói đến Ban đại diện sẽ được tiến tới cấp cao hơn hay rộng hơn như Công đoàn, Tổng công đoàn.

Như vậy Tổng Công Đoàn Lao Động VN (TCĐ), theo luật cũ và là tổ chức của đảng vẫn còn rất mạnh. Đầu tiên là tổ chức nầy bao trùm cả nước và cả các ngành. Khi đó thì BĐD theo luật mới rất nhỏ, chỉ ở cấp cơ sở, bên cạnh một tổ chức rất lớn và được chánh quyền cung cấp tài chánh và nhân sự, như vậy BĐD làm sao có một sức mạnh khả dĩ nào để bảo vệ quyền lợi công nhân cách trung thực. Ngoài ra, tại mỗi xí nghiệp chánh quyền có thể thỏa hiệp với chủ nhân bổ nhiệm một cán bộ công đoàn, hay vẫn còn công đoàn cũ của đảng, và xung đột có thể xẩy ra. Chánh quyền lại có cơ hội chụp mũ.

Một thực tế khó khăn nữa là TCĐ thì đi từ trên xuống. Trong một số văn kiện của chánh phủ ghi “cấp cao của BĐD là thuộc cấp của TCĐ ở quận hay tỉnh (trong điều khoảng về biểu tình). Còn BĐD thì đi từ dưới lên nếu sau nầy có một Liên đoàn công nhân độc lập tương đối mạnh và chánh quyền đồng ý thì mới có thể tiến lên cấp cao.

Vai trò và sách lược của chánh quyền. Trong chế độ độc tài toàn trị thì đảng phải nắm lực lượng công nhân. Điều nầy ai cũng biết rõ sự kềm kẹp công nhân trong hơn 50 năm qua, mà ở bên Tàu cũng vậy thôi. Vấn đề đặt ra bây giờ là, thế giới biến đổi, VN phải biến cải. Dưới áp lực của quốc tế nhất là từ các nước tự do dân chủ có đối tác với VN. VN phải thay đổi để có quyền lợi kinh tế. Lần nầy chỉ là bước đầu. Và còn nhiều điều phải cải sửa nhân quyền, tự do dân chủ. Trong đó có công đoàn độc lập.

Có một số điều chánh quyền VN hứa sẽ làm, có một số vấn đề chánh quyền nầy không dễ dàng để làm.

Những qui định chi tiết hóa, như VN hứa sẽ có văn kiện thực hiện Ban Đại Diện (BĐD) vào cuối 2020. Nhưng nay chưa thấy. Theo luật thì BĐD chỉ đăng ký. Nhưng chánh quyền Tỉnh phải được chấp thuận. Như vậy có ý là danh sách phải thông qua. Cán bộ công đoàn tại cơ sở do TLĐ phối hợp chủ nhân lựa ra và vẫn sinh hoạt. TLĐ sẽ nắm các BĐD công đoàn cơ sở như thế nào? Sẽ có những xung đột nào giữa công đoàn quốc doanh và công đoàn chân chánh?

Chánh quyền tìm cách ngăn chận các cuộc biểu tình theo luật mới. Thực sự qui định về biểu tình theo luật mới chỉ có một điểm khác là đình công do BĐD cơ sở hay Liên BĐD tổ chức, nhưng phải xin phép chánh quyền Quận hay Tỉnh cho phép mới được. Theo luật cũ thì muốn đình công phải do công đoàn thuộc TLĐ tổ chức. Và thực tế mấy chục năm không có cuộc đình công nào do TCĐ, mà tất cả đều tự phát (trên 7000 cuộc đình công trong khoảng 10 năm).  Do đó các cuộc đình công đều bị giải tán. Tương lai cũng còn nhiều khó khăn vì nếu không được chánh quyền chấp thuận thi sẽ không thực hiện chánh thức được. Và do đó sẽ có nhiều xô xát, và đàn áp với công an và nhiều người bị tù.

Tiếp theo là chánh quyền VN phải có văn kiện và cho phép thành lập các Ban Tư Vấn cho công nhân theo qui định của HĐ CPTPP và EVFTA. Cho tới nay chưa thấy thực hiện. Các Hội đoàn dân sự có được quyền tham gia vào các Tổ chức này. Và qua các Tổ chức, Hội đoàn chánh thức thì có tư cách liên lạc với các thành viên ngoại quốc có ký ước với VN.

Mặt khác còn phải chuẩn bị đối phó với nhiều cuộc đình công trong tương lai.

Sự phức tạp của “công đoàn mới” và thử thách cho công nhân . Đối với công nhân và các nhà tranh đấu cho công nhân thì sự cải sửa luật lao động kỳ nầy có một sự tiến bộ. Mà luật mới có cải sửa, nhưng phần lớn là các qui định thông thường của quyền lợi công nhân.  Tuy nhiên hãy còn nhiều điều quan trọng chưa đầy đủ. Như công đoàn độc lập thực sự, quyền đình công, và quyền thương lượng tập thể.

Trước hết, nên có văn phòng tư vấn cho công nhân để lo nhiều vấn đề trong đó việc đăng ký thành lập BĐD. Lựa chọn thành viên đúng đắn. Theo dõi và có thể can thiệp việc Công đoàn quốc doanh hoặc cán bộ Lao động của chánh quyền chen vào làm mất tính cách độc lập của BĐD công đoàn.

Các tổ chức tranh đấu cho công nhân ngay bây giờ cần nên theo dõi và góp ý với chánh quyền (theo nguyên tắc có được quyền nầy) về việc thành lập Ủy ban hòa giải lao động, gồm có 15 thành viên,  5 từ chánh quyền, 5 từ các tổ chức  nghề nghiệp, như tổ chức doanh nhân, phòng thương mại, Luật sư đoàn.. và 5 người từ BĐD công nhân. Như vậy phía chánh quyền và thân chánh quyền có tới 10 thành viên. công nhân ở thế yếu, chưa kể trường hợp thành phần đại diện từ công đoàn là từ TLĐLĐ cũ.

Các tổ chức bênh vực công nhân còn phải theo dõi sự thành hình Ban tư vấn từ Hội đoàn dân sự (HĐ CPTPP) và ban theo dõi sự áp dụng HĐ EVFTA  có tên “Domestic Adviory Groups, DAG”, từ các Hội đoàn phi chánh phủ theo như qui định của HĐ EVFTA.

Những cái lờ mờ thiếu sót là sự cố tình. Chánh quyền sẽ dùng nó như cái bẩy hay lợi dụng luật đồng ý cho có để thông qua với các quốc gia thành viên hay tổ chức quốc tế. Rồi sau đó tính sau.

Trên nguyên tắc luật lệ cũng như trên thực tế, quyền lợi công nhân hay công đoàn độc lập thật sự sẽ còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đây cũng là bước có tiến triển mới và công nhân hay các Hội đoàn dân sự thấy đây là cơ hội và cố gắng đẩy mạnh thêm các bước tới trong tương lai.

II. LUẬT LỆ VỀ THAM NHŨNG  

2020 Corruption Perceptions Index reveals widespread corruption is weakening COVID-19 response, threatening global recovery - Transparency International

Việt Nam xếp hạng thứ 104/180 quốc gia năm 2020 về tệ nạn tham nhũng

Tham nhũng tại VN là quốc nạn và bất trị.

Tham nhũng là một vi phạm nhân quyền nghiệm trọng. Vì sự tàn phá của nó không phải chỉ cho một số cá nhân mà còn cho cả nền kinh tế quốc dân. Sự độc hại của nó không phải chỉ về vật chất mà là sự hũy hoại những giá trị đạo đức cho nhiều thế hệ.

Theo World Economic Forum 09/12/2019 thì tham nhũng làm mất đi 2.26  ngàn tỷ mỹ kim  mỗi năm tại các nước đang phát triển. Mà VN là một trong 10 nước đứng đầu tham nhũng.

Ở VNCS vấn đề nầy được nói quá nhiều gần như nhàm chán. Song, trên phương diện bảo vệ giá trị con người, vấn đề còn phải được nêu ra, trên một góc cạnh nào đó. Hôm nay, tôi xin nêu ra đây một khía cạnh của tham nhũng ở VN. Đó là hệ thống luật lệ và việc thi hành luật lệ bài trừ tham nhũng trong gần đây, giai đoạn mà VN đã có những cam kết với quốc tế qua các Hiệp định mậu dịch.

1. Tóm tắt  luật lệ và chánh sách chống tham nhũng của VN

VN ký nhận vào Công ước quốc quốc tế chống tham nhũng (United Nation Convention against Corruption (UNCAC) vào năm 2003. Đây là một trong 19 Công ước quốc tế quan trọng chống vi phạm hình sự. Công ước nầy được đại Hội đồng LHQ thông qua tháng10-2003 và có hiệu lực ngày 14-12-2005.

Công ước nầy rất nhiều điều khoản mà các quốc quốc gia thành viên phải tôn trọng.

Trong các điều khoản đó có điều 13, nói về “sư tham gia của cộng đồng xã hội” (participation of the society). Theo đó các quốc gia thành viên phải khuyến khích và cam kết để cho các cá nhân và Hội đoàn dân sự tham dự vào công cuộc chống tham nhũng.

Nhưng mãi đến năm 2009, VN mới phê chuẩn Công ước và có hiệu lực từ 18-9-2009.

Điều 13 của công ước qui định chi tiết như sau: “Mỗi quốc gia phải có những biện pháp thích hợp, tùy theo phương tiện và nguyên tắc luật pháp của mình, vận động sự tham gia của các cá nhân và tập thể ngoài chánh quyền, như Hội đoàn dân sự (civil society), tổ chức phi chánh phủ (non-government organization), và tổ chức cộng đồng (community- based organization), vào việc ngăn ngừa và tranh đấu chống tham nhũng”.

Điều 13 của Công ước cũng còn có biện pháp khuyến khích sự tham gia của dân chúng như là gia tăng sự minh bạch trong tiến trình làm luật lệ, trong sự tiếp thu tin tức từ chánh quyền, giáo dục dân chúng về chống tham nhũng. Đó là các điều tổng quát cho mọi quốc gia.(Theo bài viết của Transparence International, Ensuring participation of society in corruption fight in Vietnam, do báo Vietnam Law đăng ngày 26/4/2016).

Còn với VN thì chánh quyền có làm trách nhiệm theo Công ước mà VN đã ký không?

Trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao VN gởi cho LHQ về việc thi hành công ước nầy có xác nhận VN  thi hành công ước theo sự phối hợp với Luật quốc nội của VN. Tức là linh động.

Năm 2005 VN ban hành luật và Nghị định 47 chi tiết hóa luật nầy về phòng chống tham nhũng (Anti corruption Law), và luật được bổ sung năm 2007 và 2012. Chương VI của luật nầy nói về “Vai trò và trách nhiêm của xã hội trong việc phòng và chống tham nhũng”.

Tuy nhiên, theo luật Phòng chống tham nhũng của VN thì trong điều nói về “sự tham gia của xã hội” (participation of society) thì thành phần xã hội mà chánh quyền cho tham gia gồm bốn thứ tổ chức: 1.Mặt trận tổ quốc, 2.Báo chí, 3.Hội đoàn kinh doanh và Hội chuyên gia.4.Ban kiểm sát  nhân dân (cấp địa phương). Bốn thành phần trên của luật VN thì không phản ánh đúng tinh thần công ước UNCAC. Sự thiếu sót quan trọng là các Hội đoàn dân sư (Civil society organization) và Hội đoàn phi chánh phủ (non-governmental organization) độc lập.

Như  một điều lờ mờ khác theo kiểu Luật XHCN là: Nghị định 47 chỉ nói các hội đoàn có qui định được quyền có ý kiến. Nhưng không nói rõ ý kiến có giá trị gì không hay chỉ góp ý cho vui. Thứ hai là không có sự bình đẳng giữa chánh quyền và các hội đoàn trong sự trao đổi ý kiến. Thứ ba là cái quyền và sự bảo đảm sự tham gia của Hội đoàn để chống tham nhũng, nhứt là sự bảo vệ người tố cáo tham nhũng, không rõ ràng, thiếu hướng dẫn, thiếu khuyến khích.

2.  Việc thi hành luật lệ bài trừ tham nhũng

Trên thực tế sự hành luật bài trừ tham nhũng có nhiều sai trái. Nó chánh yếu là để bảo vệ đảng, để dối dân và quốc tế, là sự thanh toán giữa các đảng viên, vì tranh giành quyền lợi và chức vị.

Theo báo cáo của cơ quan quốc tế, thì trong vài năm gần đây tình trạng tham nhũng không giảm, chỉ có một số vụ tham nhũng lớn bị xử phạt. Như chúng ta đã biết.

Trong thi hành luật điều 13 (sự tham gia của xã hội) gần như không thực tế, chỉ có bề ngoài, như phần lớn luật lệ XHCN. Luật lệ thành văn và sự thi hành luật là hai việc khác nhau.

Bốn “tổ chức gà nhà” được cho phép tham gia ý kiến nói ở trên, từ nhiều chục năm nay không thấy đã góp ý kiến gì đáng kể cho việc xây dụng và bảo vệ công nhân.  Mặt trận Tổ quốc Báo chí Hội nghề nghiệp như mọi người biết đều là đảng viên cao cấp .

Quốc Hội trong vai trò quan trọng là chống tham nhũng, cũng chỉ thỉnh thoảng có vài ý kiến chống các vụ tham nhũng, nhưng cũng chỉ nghe qua rồi bỏ.

Phong trào chống tham nhũng được đảng phát động mạnh mẽ trong vài năm qua  thì các vụ bị xử lý đều do đảng đưa ra. Không có vụ nào từ dân chúng hay Hội đoàn dân sự. Và theo luật đảng thì các viên chức cấp cao, Tổng trưởng, Bí thư tỉnh.. chỉ được thanh tra chánh phủ mở cuộc điều tra khi đảng cho phép.

Quyền được bảo vệ người tố cáo tham nhũng không được tôn trọng, mà còn ngược lại. Người dân sợ tố tham nhũng, vì sợ bị trù dập.

Những dự án lớn giao cho Trung cộng làm mà không có đấu thầu công khai gây thiệt hại hàng tỷ Mỹ kim.

Tình trạng tham nhũng hiện nay. Chúng ta biết tình trạng tham nhũng ở VN quá khủng khiếp. Và chúng ta cũng đã biết nguyên nhân chánh yếu của tham nhũng ở VN là từ bản chất và sự vận hành của chế độ CS.

Hệ quả nghiêm trọng của nạn tham nhũng về kinh tế và xã hội

Tham nhũng đưa tới hệ quả cực kỳ to lớn cho nền kinh tế và cả về mặt xã hội.

Theo các cơ quan quốc tế, mỗi năm nền kinh tế thế giới bị thiệt trên 1000 tỷ mỹ kim do tham nhũng.

Luật lệ về phòng chống tham nhũng ở VN quá nhiều và sự hô hào khẩu hiệu đánh tham nhũng cũng kêu to lên. Nhưng thực tế, mọi người cho rằng như các vở kịch thôi, không giải quyết được gì cả. Vì cái gốc sinh ra tham nhũng là từ chế độ .

Qua một số vụ tham nhũng lớn gần đây, một số rất ít trong quốc nạn nầy, chúng ta có thể biết hệ quả tham nhũng quá lớn trên nhiều mặt.

Vài thí dụ : Công ty quốc doanh Gang thép Thái nguyên, mất trên hai ngàn tỷ. Công ty MobiFone mất hơn ngàn tỷ. Đường xe lửa cao tốc Hà đông-Cát linh thiệt hại  trên 500 triệu đô. Xa lộ Đà nẳng-Quảng ngải mất mát gần ngàn tỷ…Và nhiều nữa như Khu đô thị mới Thủ thiêm, khu đất Cần giờ.. Nếu không bị tham nhũng số tiền quá lớn trên có thể làm được nhiều trường học, bịnh viện và cải tiến nông thôn.

Về việc thu hồi tài sản do tham nhũng trên thực tế quá ít. Mặc dù có bắt được một số tham nhũng, nhưng thực sự thu hồi theo luật, chưa đầy 20% trị giá tài sản cdo tham nhũng cướp đi. Như vậy phần lớn tài sản tham nhũng được chuyển ra ngoại quốc, hay nhập vào tích sản của các công ty sân sau của đảng viên cao cấp.

Trên bình diện quốc nội, tham nhũng còn là gây bất công kinh tế xã hội. Và tạo ra sự cách biệt giàu nghèo càng ngày càng lớn hơn nữa.

Trên bình diện quốc tế, tham nhũng to lớn đem lại hai hậu quả chánh là mậu dịch và đầu tư ngoại quốc bị giảm sụt. Mặc dù trong biến chuyển kinh tế thế giới ngày nay, VN có nhiều thuận lợi hơn cho sự thu hút đầu tư ngoại quốc. Tuy nhiên, nhà đầu tư ngoại quốc thường xem tham nhũng như là một trở ngại. Nhất là các công ty từ Hoa kỳ và Âu châu. Và bất cứ sự suy giảm nào về hợp tác kinh tế với Tây phương, đều có lợi cho TQ. TQ càng gia tăng mức độ hợp tác với VN thì tham nhũng càng tăng. Đó là vòng lẩn quẩn và thế kẹt của VN với TQ hiện nay.

Chúng tôi vừa trình bày rất tóm tắt hai vấn đề rất quan trọng mang lại nhiều tiêu cực nhất cho sự phát triển VN. Đó là vấn nạn công đoàn và vấn nạn tham nhũng. Dù có vài cải đổi. Nhưng nguyên nhân thay đổi không phải từ sách lược của CSVN, mà từ nhiều  loại áp lực từ bên ngoài.

Nhìn từ góc độ nào, từ một cảm nghĩ chủ quan hay khách quan, hoặc từ yếu tính lịch sử, thì VN cần phải thay đổi thật sâu rông.

Giờ thì lại một tháng tư thứ 46. Thời gian tương đối khá dài cho một chánh thể độc tài. Cái bản chất, mục tiêu và cách thức hành động căn bản là vẫn thế. Những cái không thay đổi là cốt lõi. Những cái thay đổi là cái vỏ ngoài. Những sắp xếp cứ 5 năm một lần, chỉ là một mô hình chánh trị mang tính hài kịch mà người dân không buồn xem.

Nhưng sự thay đổi theo lòng dân và con đường đi tới của dân tộc là không có gì cản được.

Vận mạng dân tộc đã có nhiều cay nghiệt trong quá khứ, nhưng mỗi lần như vậy không phải là một bế tắc sau cùng.

Nguyễn Bá Lộc

Cali , tháng tư thứ 46– 2021.

Views: 2

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

Thơ Trần Văn Lương

 

Dạo:

Xưa tuôn máu giữa chiến trường,

Nay tuôn lệ giữa quê hương không còn.

Thăm Lại Chiến Trường Xưa

 

Từng bước lẻ ngập ngừng theo tiếng nạng,

Nắng xoay chiều, chập choạng bóng thương binh.

Đích viếng thăm bỗng xuất hiện thình lình,

Người chưng hửng, tưởng rằng mình hoa mắt.

     

Sửng sốt nhìn quanh quất,

Tự hỏi mình có thật đến đúng nơi,

Xưa kia đã một thời,

Mình chấp nhận xương rơi cùng máu đổ?

 

Mấy mươi năm gian khổ,

Lất lây kiếm sống ở đô thành,

Cố chắt bóp để dành,

Làm một cuộc du hành thăm chốn cũ.

     

Muốn tìm tới chỗ mình từng tử thủ,

Cùng bạn bè chống lại lũ Cộng quân,

Để giữ gìn lãnh thổ, bảo vệ dân,

Và đã bỏ một phần thân thể lại.

 

Nhờ ít mốc thiên nhiên còn tồn tại,

Mò mẫm ra nơi đóng trại năm nao,

Nhưng còn đâu bao cát, thép gai rào,

Cùng hệ thống giao thông hào phòng thủ.

     

Lặng cúi đầu ủ rũ,

Hình ảnh xưa vần vũ kéo nhau về.

Mắt khép hờ, vật lộn với cơn mê,

Ôn lại trận đánh mùa hè năm đó.

                       *

                  *          *  

Trời rực cháy, mênh mông màu lửa đỏ,

Giặc cùng ta đụng độ suốt đêm ngày,

Súng lúc nào cũng nạp đạn luôn tay,

Xác chết cứ chất đầy như rơm rạ.

     

Trận đánh cuối thật vô cùng vất vả,

Cộng quân đông gần gấp cả chục lần,

Dùng biển người, không ngần ngại thí quân,

Nhưng vẫn bị ta cầm chân từng phút.

     

Đạn lớn nhỏ hai bên giành nhau trút,

Máu đào loang như nước lụt mùa mưa,

Mình kiên trì chống cự, gắng cù cưa,

Cả đại đội chỉ còn chưa đến chục.

    

Bạn bè thi nhau ngã gục,

Viện binh may vừa gấp rút đến nơi,

Thêm không quân tới yểm trợ kịp thời,

Quân ta dẹp tan biển người của giặc.

                       *

                  *         *

Tiếng cãi vã xé toang màn nắng gắt,

Người giật mình mở mắt thoáng nhìn quanh,

Đâu đấy toàn chuyện dối trá gian manh,

Lòng chợt tiếc thời giao tranh chống địch.

 

Chiến trường cũ giờ thành nơi du lịch,

Chẳng còn gì là vết tích ngày xưa,

Dân tình nay cũng quen thói lọc lừa,

Chuyện đạo đức như chưa hề hay biết.

 

Trẻ đua đòi trắc nết,

Già mải miết ăn chơi,

Ngày mất nước tới nơi,

Không một lời thắc mắc.

               

Người uất ức, sắc mặt dần tái ngắt,

Muốn hét lên, nhưng vắt chẳng ra lời,

Ngực phập phồng, dòng đau đớn chợt khơi,

Buồn so sánh hai cảnh đời trái ngược.

     

Cán bộ với bọn Tàu tiền như nước,

Cậy thế cậy quyền, ngang ngược khắp nơi,

Trong khi dân kiếm cả mấy tháng trời,

Không bằng chúng xài chơi trong thoáng chốc.

 

Rồi cố nén nỗi sầu đang chực bốc,

Nhìn người già cực nhọc đạp xích lô,

Kẻ tật nguyền, gầy ốm tựa xương khô,

Ôm vé số co ro ngồi rao bán.

     

Nhưng khi thấy đám mang danh “tỵ nạn”,

Kéo nhau về nhan nhản, miệng huyên hoa,

Người thương binh không kềm được xót xa,

Khối tuyệt vọng vỡ oà trên nạng gỗ.

Trần Văn Lương (CH 8)

Cali, đầu mùa Quốc Hận 2021   

Views: 71

Mấy Bài Thơ Ngắn Tháng Ba 2021

Thơ Lê Văn Bỉnh

Chút Nụ Ngượng Ngùng

Mấy cành hoa đầu xuân

Chui trốn ngày tháng dài dịch lạnh

Hé chút nụ ngượng ngùng

 

Mắt Đỏ

Lệ em không đủ nhỏ

Cho quê hương đau khổ triền miên

Xem phim cho mắt đỏ

 

Tù Ngục Thêm

Người giam gữ đời em

Giờ đây đã ra đi vĩnh viễn

Em thấy tù ngục thêm

 

Lao Mình Vào Không Trung

Anh vội ra balcon

Trốn không khí trong phòng nghẹt thở

Lao mình vào không trung

 

Cội Nguồn

Lén qua Vườn Địa Đàng

Adam và Eva đang quấn quít

Ta thương yêu cội nguồn

 

Hạnh Phúc

Hạnh phúc trên cành cao

Như đôi chim giúp nhau rỉa cánh

Rồi vụt bay thật mau

 

Mắt Sáng hay Mù Lòa

Tám thập niên đã qua

Bước tới nghĩ lui đời nhanh chậm

Mắt sáng hay mù lòa

 

Tưởng Niệm

Chúng ta thường tưởng niệm

Những đồng đội anh dũng ra đi

Để thấy lòng khâm liệm

 

Lê Văn Bỉnh

tháng 3/2021

Views: 0

Hy Vọng Khởi Đi Từ Màu Đen

Nguyễn Quang Dũng

1.

Tháng 5 1981. Tôi và vợ cùng hai đứa con, một trai một gái, quyết định vượt biển, vượt thoát khỏi quê hương Việt Nam khốn khó đang sống ngột ngạt trong cuộc đổi đời dưới chế độ kiểm soát tù tội của chính quyền cộng sản từ phương bắc.

Đây là lần vượt biên thứ tư của gia đình tôi, ba lần trước đều bị bỏ rơi, phải trở về, may mắn là không bị bắt, cũng như chưa ra biển.

2.

Lần này, chuyến vượt biên thành công. Chiếc tàu nhỏ dùng chạy đường sông được sửa mủi tàu để có thể vượt sóng biển, thoát khỏi lòng sông ở cửa Cần Giờ, Long An, trực chỉ biển lớn.

Những người tổ chức của chiếc tàu vượt biên mang theo 60 người, mãi mấy ngày sau tôi mới biết, chỉ có một kế hoạch duy nhất là chạy ra hải phận quốc tế và tìm tàu lớn để mong được cứu vớt. Chúng tôi mất đúng năm ngày đêm chỉ để thực hiện được mục tiêu này: Chạy được tới hải phận quốc tế, tìm thấy được nhiều chiếc tàu hàng hải lớn. Nhưng duy chỉ là mỗi lần xả máy lại gần để cầu cứu thì những chiếc tàu sắt lớn này im lặng lừng lững bỏ đi, không hề quan tâm đến những dấu hiệu S.O.S của chúng tôi.

Ngày thứ sáu lênh đênh giữa biển khơi trong những cuộc đuổi bắt và cầu cứu vô vọng, tôi biết được từ người tổ chức là chiếc tàu nhỏ của chúng tôi đã gần cạn xăng dầu và nước uống. Sẽ phải ngưng lại việc rượt đuổi theo tàu lớn và nước uống sẽ được phân phối hết sức hạn chế .

Những mệt mỏi. lo âu và thất vọng hiện ra ở gương mặt mỗi người lớn. Những đứa nhỏ nằm la liệt trên sàn tàu, ói mửa, hốc hác…

Tối hôm đó. Biển động.

Trời đen.

Biển đen.

Những con sóng đen ngòm, với độ cao và độ nghiêng đến chóng mặt.

Lần đầu tiên trong đời, tôi ở trong lòng biển động, giữa trùng khơi sâu thẳm.

Tôi sống ở Nha Trang từ nhỏ. Biển vẫn là niềm vui và gần gủi trong đời sống của tôi. Khi lớn lên, hàng ngày trước khi đi học, tôi thường ra biển từ sáng sớm để ngụp lặn bơi lội trong làn nước xanh mặn mát ấm. Biển do vậy là những nỗi niềm thân thiết rất riêng tư của tôi. Tôi biết Biển có những lúc là Biển của hiền hòa yên tĩnh, cùng nhịp với tiếng gió thông reo hay ánh trăng đêm rằm nhẹ nhàng tỏa sáng mặt biển đêm. Tôi biết Biển có những khi gầm thét, hung dữ trong những ngày bão lớn với những con sóng xám đen cao ngất lừng lững từ xa chạy vào và đập vỡ tung bờ cát trắng.

Nhưng tôi chỉ mới biết Biển khi chân tôi đứng trên mặt đất yên ổn nhìn Biển cuồng nộ. Chưa một lần tôi cảm nhận được cái nhỏ bé mong manh đến không tưởng của chiếc tàu nhỏ  như một cọng rơm giữa biển đen sóng dậy. Không một chỗ tựa. Tôi nhìn thấy chung quanh tôi là biển nước đen ngòm hun hút đến tận trời xa đen thẳm. Biển động đang sắp sửa nhận chìm chúng tôi xuống đáy biển sâu!  Ý tưởng đó, sắc như con dao nhọn bén, đâm thẳng trong đầu tôi.

Sợ hãi ập tới. Như con sóng lớn đen ngòm kia đang ập tới, nhận chìm và chiếm ngự  tôi trọn vẹn. Không gì cản nỗi.

3.

Sợ hãi là một thứ tình tự lạ lùng và ma quái. Tôi nhận ra trong đời tôi, tôi có nhiều nỗi sợ linh tinh, thường là những dấu hiệu báo trước một loại hiểm nguy hay bất trắc nào đó tôi nhắc tôi nên tránh. Tôi gọi nó là sợ hãi nhỏ. Thường vì nhỏ nên chuyện vượt qua loại sợ này cũng là chuyện nhỏ.

Nhưng tôi cũng nhận ra sự hiện hữu của một thứ sợ hãi với mức độ và tầm cỡ kinh khủng, ảnh hưởng và tác động cùng lúc trên nhiều người. Thứ sợ hãi này liên quan đến những biến cố lớn trong đời sống mỗi người.  Và cũng thường tình, người ta dùng màu đen để diễn tả một cánh ngắn gọn nhưng đầy đủ về những biến cố mang tính phá hoại hay bi thảm này. Tháng Tư Đen chẳng hạn, tên gọi ngắn cho  biến cố 30-4-1975, nhận chìm hàng triệu người miền Nam Việt Nam trong bóng đen của sợ hãi, chết chóc và bi thảm trong thân phận những người thua trận và mất nước.

Trải qua và vượt qua biển nước mênh mông đen kịt tối hôm mưa gió đó, tôi nhận ra tại sao màu đen gắn liền với sợ hãi trong tôi bấy giờ:

Đơn giản bởi vì tôi sợ những gì tôi không hình dung, không thấy được.

Biển động ngoài trùng khơi xa thẳm hôm đó chỉ toàn là một màu đen.

Biển đen. Trời đen.

Trong bóng tối, tôi không nhìn thấy được gì ngoài màu đen. Và chính trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra tôi không là gì hết khi đem cái hữu hạn của tôi đặt trước cái vô cùng của trời đất. Những gì tôi biết, tôi thấy, không là gì hết trước khoảng không của hằng hà vô số những gì tôi không thể biết và không thể thấy.

Chỉ như vậy: Tôi sợ.

 

4.

Tháng 4 năm 2020, Tháng Tư Đen của cả thế giới.

Con vi khuẩn nhỏ nhưng với khả năng phá hoại khủng khiếp đã làm cả thế giới sợ hãi.

Cho đến nay, đầu năm 2021, hàng triệu người chết. Hàng triệu người bị lây nhiễm phải nhập viện và vất vả chiến đấu tồn sinh. Đời sống và sinh hoạt thường nhật bị xáo trộn đến cùng cực. Lệnh cách ly và hạn chế mọi sinh hoạt tụ họp hay sinh hoạt mang tính giao tiếp làm mọi người co rúm trong sợ hãi.

Cha mẹ con cái xa cách ông bà. Người yêu người không còn biểu hiện ở những xiết chặt của vòng tay ôm, không còn những nụ hôn gần gũi ngọt ngào, không còn những nụ cười vui. Không còn ai thấy ai. Tôi có cảm tưởng dường như những ngày tháng của Tháng Tư Đen 46 năm trước lại trở về. Người xa người trong những chia xa, ngăn cách.

Và tôi cũng nhận ra len lõi đâu đó trong tâm trí dường như là nỗi sợ hãi khi đối diện với nhiều điều tôi không biết, không thấy được và không lường trước được. Con vi khuẩn nguy hiểm lây lan trong không khí là kẻ thù độc hại và khi nhìn thấy nó thì đồng nghĩa là tôi đã gục ngã. Nỗi sợ hãi này không khác gì nỗi sợ lúc tôi ở trong lòng biển đen trong chuyến vượt biển năm nào.

Chỉ khác một điều: Vào Tháng Tư Đen 1975 tôi biết rất ít về những gì sắp sửa xảy ra trong lúc ở Tháng Tư Đen 2020 thông tin về dịch bệnh lại nhiều đến mức không tưởng. Các cơn bão thông tin này với những phương tiện truyền thông hiện đại từ những chiếc điện thoại cầm tay nhỏ xíu lan truyền đi rộng rãi, khuếch tán lớn thêm mãi về cái hữu hạn của kiến thức loài người hay những-điều-không-biết của con người đứng trước bệnh tật.

5.

Nhưng điều tôi chưa viết ở đây là tối hôm biển động trong chuyến vượt biên của tôi và gia đình, đêm tối tôi tưởng là đã vùi thây trong lòng biển như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác trên đường tìm tự do, biển lớn hay Trời Phật đã nhẹ tay không dìm chết những sinh mạng nhỏ nhoi kia, trong đó có tôi, đang loi ngoi trên làn nước mênh mông. Và còn ban phát những giọt nước cứu tinh.

Là mưa. Những giọt nước mưa lúc đó quý hơn vàng. Trong đêm tối, mưa ướt ngọt trong môi miệng tôi. Chúng tôi loay hoay hứng mưa dự trữ nước uống, cộng thêm kinh nghiệm của người lái tàu biết cách cỡi sóng và nhờ vậy cầm cự, sống sót thêm được vài ngày. Hai ngày sau, sau khi bàn thảo rút kinh nghiệm, chúng tôi đổi cách cầu cứu: Chiếc tàu nhỏ của chúng tôi sẽ ngừng máy, thả neo, đốt khói đen, giăng bản vải S.O.S và khi thấy tàu hàng hải lớn thì những người biết bơi sẽ nhảy xuống biển vẫy tay kêu cứu.

Kế hoạch này thành công một nửa: Một tàu hàng hải của Trung Cộng đã dừng lại cung cấp cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: thức ăn, nước uống, xăng dầu và quan trọng nhất là bản đồ hàng hải hướng dẫn chúng tôi đi đến Mã Lai. Họ không cứu chúng tôi âu cũng là may mắn vì dĩ nhiên là chúng tôi không muốn chạy họa cộng sản lại đến một xứ cộng sản khác.

Bốn ngày sau đó chúng tôi tấp vào thương cảng Singapore thì bị tàu tuần quốc gia này kéo ngược ra, bảo là họ không nhận người tỵ nạn từ Việt Nam, họ khuyên chúng tôi đi đến Phi Luật Tân. Không còn cách nào khác hơn, tàu chúng tôi đâm vào bờ biển Mã Lai, thả người vào bờ và đục tàu, đánh chìm chiếc tàu nhỏ. Sáu chục thuyền nhân của tàu chúng tôi sau đó cũng gia nhập đại gia đình của người Việt tỵ nạn tại đảo Pulau Bidong.

 

6.

Tôi nhận ra trong tuyệt vọng của đói khát và đối diện với tử vong trong chuyến vượt biển năm nào thì hy vọng đến cho tôi cơ hội tiếp tục tồn sinh.

Đến bây giờ có một lý lẽ rất đơn giản mà tôi trực nghiệm từ những trải nghiệm của đời sống là tôi luôn sống trong cái hữu hạn của kiếp người. Cái biết của tôi không là gì hết trong cái vô hạn của Trời Đất.

Cũng cho đến bây giờ tôi vẫn còn tự hỏi: Làm sao tôi còn sống sót trong lúc hàng trăm ngàn người vượt biển tìm tự do  như tôi vùi thây trong lòng biển sâu? Có chăng Trời Phật với những sắp xếp mà loài người không biết được?

Và tôi cũng như triệu tỷ người khác trên trái đất này là những kẻ không-hiểu-gì, loay hoay cả đời trong những tất bật mang tính đối cực, nhị nguyên, cái lý lẽ hai-mặt-của một-đồng-tiền: Sáng-Tối. Vui-Buồn. Sướng-Khổ. Thăng-Trầm. Giàu-Nghèo. No-Đói. Trẻ-Già. Khóc-Cười. Sống-Chết…

Nhưng có một điều tôi hiểu rõ, một cách chắc chắn, là không khi nào tôi có thể ở mãi trong một mặt của đời sống. Tôi không thể có bình an mãi được vì đời sống vốn đầy dẫy những bất an giăng bủa chung quanh. Tôi không thể sống khỏe mãi được vì hàng triệu vi khuẩn gây đủ thứ bệnh tật tìm đủ mọi cơ hội để xâm nhâp các cơ quan chức năng của cơ thể tôi. Và không chóng thì chầy thì tôi sẽ chết vì lẽ đơn giản tôi không thể sống mãi được. Vậy thì tại sao tôi phải sống co rúm trong sợ hãi vì mãi lo bám víu một mặt nào đó của cái đồng-tiền-hai-mặt?

Cũng như trong bóng tối mênh mông của đêm trên biển động tôi tìm thấy hy vọng từ những giọt nước của Trời. Và sau đó là ánh sáng và bình lặng của Biển lớn.

Cũng như lúc này, ở đây,  trong trắng lạnh của tuyết giá một ngày cuối năm âm lịch tôi nhìn thấy con chim anh vũ đỏ từ đâu bay lượn về đáp xuống trước sân nhà bình thản  ngắm tuyết rơi.

Ơ hay! Nếu tôi không biết gì về cái lẽ chuyển vận vô hạn, vô cùng của Trời Đất, của Sống và Chết, thì không có lý do gì tôi phải sống trong lo sợ và bám víu. Buông Xả tôi sẽ Nắm Bắt được Cái Đẹp của màu đỏ con chim Anh Vũ trên màu trắng của Tuyết.

Còn gì cần thiết phải nghĩ ngợi lôi thôi?

Nguyễn Quang Dũng

tháng 2/2021

Views: 9

Vợ Vắng Nhà Và Chuyện Nàng Hoa Phượng       

Truyện vui Phạm Thành Châu

Có một triết gia đã nói một câu mà quí ông rất thích “Người đàn ông có hai lần hạnh phúc. Lúc cưới vợ và lúc trở lại thành độc thân” Vì sao? Vì vợ nói nhiều quá và bị (phải) ăn các thứ vợ nấu. Vợ nói nhiều xảy ra từ thời con người còn ăn lông, ở hang. Đàn ông muốn săn thú rừng phải im lặng. Gây tiếng động thì con thú chạy mất! Trong lúc quí bà, trong hang đá “Tùng tam tụ ngũ”, chuyện trò với nhau, chờ chồng đem thịt rừng về nhậu. Đó là xét theo khảo cổ học. Theo nghiên cứu khoa học, thì trường y khoa Indiana ở Indianapolis cho biết, đàn ông chỉ dùng nửa bán cầu não, có tên là Temporal Lobe để nghe và nói. Các bà thì dùng cả hai bán cầu não. Bởi thế các bà học ngoại ngữ rất tài và có thể nói suốt ngày đêm không mỏi miệng. Còn theo thống kê thì mỗi ngày, quí ông, trung bình, nói hai nghìn (2,000) tiếng. Quí bà nói năm nghìn (5,000) tiếng. Đa số là để la lối với chồng con và “Thế hả?” với các bà bạn trên điện thoại. Đức Khổng Phu Tử kính mến đã nhiều lần thở dài mà rằng “Ba bà thành cái chợ!” Có ông kia, đi uống cà phê với bạn, báo tin.

– Tôi sắp li dị vợ.

Hỏi vì sao? Ông ta thở dài.

– Nó không hề mở miệng nói với tôi lời nào!

Các ông cười, chế nhạo.

– Xạo hoài! Liên Hiệp Quốc vừa công bố: Sinh vật quí hiếm (người vợ ít nói) đó đã tuyệt chủng từ lâu rồi!

Ông khác thì theo năn nỉ.

– Ông muốn vợ nói nhiều thì đổi vợ cho tôi đi. Vợ tôi nói nhiều quá. Chịu hết nỗi. Khi ngủ nó cũng “mớ”, miệng lảm nhảm suốt đêm.

–  OK! Đổi thì đổi, nhưng không được trả lại.

Một ông khác khoe.

– Tôi có cách làm bà vợ hết nói. Để tôi kể cho quí vị nghe. Vợ tôi cũng nói cả ngày lẫn đêm. Một buổi tối, lên giường, tôi nói. “Em chiều anh đêm nay,được không?” Nàng hỏi. “Trong bao lâu?” Tôi nói “ Suốt đêm nay” Nàng hỏi “Sao bữa nay hăng quá vậy?” Tôi nói “Em cứ nhắm mắt ngủ. Đừng nói gì hết! Chuyện đó để anh lo” Nàng vui vẻ nhắm mắt ngủ (trong thế chờ!). Tôi cũng ngủ một giấc đến gần sáng thì thức dậy sửa soạn đi làm. Nàng chợt thức giấc, ngạc nhiên và giận dữ. Nói “Suốt đêm ông ngủ khò. Bắt tôi đi ngủ sớm mà có làm gì đâu? Bây giờ, dậy sớm để chạy làng phải không?” Tôi nói “Anh cần em chiều anh, là đi ngủ sớm, đừng nói gì cả để anh ngủ yên, lấy sức, sáng nay đi làm sớm”

Mấy ông gật gù.

– Hay. Hay! Rồi sao nữa?

– Thì nàng níu áo, bắt đền. Tôi “phải trả nợ quỉ thần”, lại đi làm trễ giờ.

Đọc đến đây, làm gì cũng có bà tức giận.

– Bộ các ông không nói nhiều sao?

– Xin thưa quí bà. Có ạ! Đó là cố đồng chí chủ tịch Phidel Castro của nước Cuba, từng đọc một bài diễn văn dài hơn 3 tiếng đồng hồ trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.. Và mới đây thôi đồng chí Kim Jong Un chủ tịch Bắc Hàn, thay vì đọc lời chúc Tết đầu năm 01-01-2020, đồng chí Un kính mến họp Hội Nghị Quân Ủy Trung Ương Mở Rộng, đã đọc một bài diễn văn dài bảy (7) tiếng đồng hồ. Đồng chí nào ngồi nghe mà ngáp hoặc ngủ gục thì tức khắc bị lôi ra, cho đi tàu suốt, ra nghĩa trang buồn, nằm nghe dế kêu.

Quí bà lắm lời trong nhà là chuyện bình thường. Vậy chứ có bà nào nói nhiều trước công chúng không? Nhiều lắm! Điển hình như tờ Spunik cho tin. Ngày 01 tháng 2 năm 2020, bà Bộ trưởng Tài chính Sithraman phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ dài 2 giờ, 38 phút khiến các ông nghị sĩ ngáp dài vì quá ngán.

Vợ hắn thì hơn các bà khác. Vừa nói vừa nạt vừa đánh chồng. Đi làm về, đã thấy nàng đứng chống nạnh với cái chổi lông gà.

– Ông nhìn đồng hồ coi! Giờ nầy mới mò về. Theo con đĩ chó nào mà về trễ cả nửa giờ? Đừng nói kẹt xe với tôi.

Và nàng vung cái chổi lông gà lên. Chỉ một cái lắc mình, hắn đã đứng xa nàng hai trượng, vòng tay thủ lễ.

– Tiểu nhân có điều gì thất thố, xin phu nhân lượng thứ!

Nàng bậm môi, tung chổi, tấn công liền. Hắn lùi lại.

– Tiểu nhân đi đây!

Rồi dùng thuật phi hành phóng chạy. Nàng ì ạch, như con vịt bầu, đuổi theo, miệng nheo nhéo.

– Đồ đàn ông mất nết. Có giỏi thi đứng lại!

Hắn chạy quanh nhà, nàng nổi xùng (ì ạch) đuổi tiếp. Vợ hắn hơi nặng cân, cỡ một tạ (100 kí lô). Bác sĩ bảo nàng phải chạy bộ mới bớt mập. Nàng hỏi.

– Tôi rượt ông xã tôi, có được không, bác sĩ?

Ông bác sĩ gật gù.

– Hai ông bà cùng chạy thì tốt quá, nhưng coi chừng, ông ta chạy luôn đến nhà bà khác thì phiền.

Hắn rất muốn giúp nàng giảm cân nên hắn chạy trước, nàng đuổi theo quanh nhà. Được một năm thì kết quả thật đáng kinh ngạc: Nàng sụt mất một nghìn (1,000) milligrams! Một lý do khác để nàng có dịp rượt đánh hắn, là vì hắn có máu dê. Ra đường, thấy người đẹp đưa ngực, đưa đùi, là hắn nhìn sửng “Bước đi rồi, con mắt còn có đuôi…” Nàng giận tím mặt. Về nhà, mới bước xuống xe, là nàng dùng hai ngón tay, kẹp miếng thịt bên hông hắn, vặn tréo, miệng đay nghiến.

– Tật dê không chừa! Tôi hỏi ông. Tôi khác mấy con chó cái đó chỗ nào mà ông nhìn muốn rớt con ngươi? Khác chỗ nào? Hả? Nói mau!

Hắn nói.

– Khác nhiều chỗ lắm!

Rồi tuông chạy, nàng lại rượt hắn.

Một lần khác, hắn đưa vợ đi chợ. Thông thường, hắn đẩy xe theo sau vợ. Vợ hắn muốn mua gì thì bốc bỏ vô xe. Hắn bỗng thấy một nàng đi vào chợ với đôi gò bồng đảo to, để lộ một nửa đồi ngực trắng hồng như hai trái bưởi (đã lột vỏ). Hắn như người mất hồn, đẩy xe theo cô ta đễ nhỉn trộm cái ngực bự, quên cả thế gian. Vợ hắn quay lại không thấy chồng, đi tìm, thấy hắn đứng nhìn sửng ngực người đẹp. Nàng kéo tai hắn, lôi đi. Về nhà, nàng đóng cửa lại, bắt hắn nằm sấp xuống xô pha, trở cán chổi lông gà. Vừa nhịp trên mông hắn vài cái là hắn đã mếu máo khóc như em bé. Vợ hắn tức cười nhưng làm nghiêm.

– Uả! Biết tội gì chưa? Đã đánh đâu mà khóc? Nín ngay! Tại sao thấy con đàn bà nào có ngực bự là ông cứ theo nhìn mê man, quên cả vợ con?

Hắn trả lời.

– Ngực nhỏ, nhà mình có rồi!

Nói xong hắn lại vùng dậy, tung cửa chạy ra đường.

Một hôm, nàng bảo hắn đi mua vé máy bay để nàng về Việt Nam thăm các dì của mấy cháu. Hắn hỏi.

– Em đi mấy ngày?

Nàng đáp.

– Một tháng!

Hắn tưởng mình đang nằm mơ, thấy Bụt hiện ra nói với hắn, (như trong truyên cổ tích) “Ta nói thế là để thử lòng nhà ngươi đấy thôi!” Nhưng đó là sự thật, không phải là giấc mơ. Hắn vội chạy đi mua vé máy bay, sợ nàng đổi ý thì mất vui. Hắn về, đưa vé máy bay cho nàng, mặt buồn thiu, cất tiếng hát “Em đi rồi… còn ai vuốt tóc tôi?” Hắn có tâm hồn nghệ sĩ, thi ca, hò, vè, hắn đều xuất sắc, Gặp chuyện gì hắn cũng có thể cất tiếng, hát hoặc ư ử ngâm vài câu thơ, nghe (rất) vừa dở vừa vô duyên. Lần nầy, hắn đóng kịch quá tệ, bị nàng lột mặt nạ.

– Đừng có vờ vịt. Tôi chưa lên máy bay là ông đã chạy theo mấy con “chó cái” đó rồi. Liệu cái thần hồn! Lạng quạng, tôi thiến tận gốc cho biết thân.

Hắn hát tiếp “Ngày mai em đi, ngày tháng bơ vơ đợi chờ…” Nàng không thèm cười, vớ lấy cái chổi lông gà. Thế là nàng lại rượt hắn.

Vợ vắng nhà. Đó là chân hạnh phúc. Vì sao? Vì không phải nhìn thấy mặt vợ. Có lần, vợ hắn trang điểm, diện áo quần đẹp, ẹo qua, ẹo lại trước gương soi, làm bộ thở dài để hắn chú ý và  khen nàng đẹp.

– Thỉnh thoảng, soi gương, thấy mình già và xấu quá! Thiệt, chán hết sức!

Hắn đồng tình ngay.

– Đúng vậy! Em thì thỉnh thoảng mới soi gương nhìn dung nhan mình. Còn anh thì ngày nào, giờ nào cũng nhìn thấy em. Chỉ muốn nhảy sông chết quách!

Nàng co chân, rút chiếc giày, ném vào người hắn rồi vớ lấy cái chổi lông gà. Hắn lại tuông chạy. Nàng, bước thấp, bước cao (một chân không giày), vừa rượt hắn vừa khóc hu, hu!. Hắn phải quay lại, ôm vợ, xin lỗi ríu rít.

– Sorry! Em đẹp nhất thế gian. Mấy con hoa hậu thế giới, so với em, là đồ bỏ!

Hạnh phúc thứ hai khi vợ vắng nhà là không phải ăn các món vợ nấu. Nhiều ông chồng, đôi khi, để làm vui lòng vợ, khen một món nào đó do vợ nấu. Chớ chơi dại! Vợ sẽ nấu mãi món đó, chồng ăn mãi món đó. Ăn tới “lòi cuống họng!”. Vừa rồi, đầu năm 2020, một đại họa giáng xuống thế gian, người chết như rạ. Đó là nàng Covid-19 hạ sơn, giết mấy triệu người. Chính phủ các nước vội ra lịnh “Cách ly” Ai ở nhà nấy. Văn phòng, xí nghiệp, nhà hàng… đóng cửa. “Nhàn cư vi bất thiện”, các bà nghĩ đến trò nấu nướng. Các bà sưu tầm cách nấu các món ăn, càng kỳ lạ càng hấp dẫn. Bà nầy nấu xong, dọn ra, chụp hình gửi cho các bà khác. Các bà trầm trồ “Chị nấu cách nào? Chỉ cho em với!” Rồi bắt chồng đi chợ (các bà không dám đi, sợ lây bịnh Covid-19, để chồng đi chợ, rủi có chết thì mình còn có dịp lên xe hoa lần nữa) Các bà lại hì hục nấu nướng, rồi lại chụp hình, gửi các chiến hữu, sau đó bắt ông chồng ăn, làm “vật thí nghiệm” (Rủi có trúng độc mà chết thì cũng đúng như “Lời nguyện cầu” của quí bà). Trong tám cái khổ của lũ đàn ông, có “Tắng oán hội” khổ. Nghĩa là đau khổ khi phải sống với (ai đó) mà mình không ưa. cái khổ thứ hai là “Cầu bất đắc” khổ. Nghĩa là muốn chết quách để khỏi phải nhìn thấy “người kia” mà không chết được, cũng là khổ. Có ông nọ, lúc sắp đưọc nằm ngủ trong lòng chị “Sáu… Tấm” có mấy lời trăn trối với vợ.

– Khi tôi chết, “Đừng quăng tôi ra biển”(nhại thơ Mr. Lê), bà cũng đừng nấu nướng gì cả. Cứ ra “tiệm cơm chỉ” (bán thức ăn nấu sẵn, thích món nào, chỉ món đó) mua về cúng tôi.

Bà vợ hỏi.

– Ông nói tôi nghe. Tại sao?

Ông chồng thều thào.

– Các món bà nấu, tôi “bị” ăn suốt mấy chục năm, ngán đến tận cổ. Tôi chết bà lại nấu cúng tôi, chỉ ngửi thấy mùi, tôi đã khiếp vía, không dám hưởng, sẽ thành ma đói, không siêu thoát được.

Bà vợ đay nghiến.

– Tôi sẽ chết theo để nấu cho ông ăn.

Ông chồng thất kinh.

– Tôi lạy bà. Để tôi đi một mình.

Nói xong, thở hắt ra, linh hồn “cấp tốc” phóng chạy vào hư không. (Như những chuyện tôi đã kể trước đây. Nhiều ông, trước giờ lâm chung cũng đã lạy “giả từ” vợ kiểu đó)

Trở lại chuyện vợ hắn về Việt Nam. Trên đường đưa nàng đến phi trường, hắn lại hát nho nhỏ “Người ơi! Chốn xa xăm biết người nhớ tôi những gì?…” Mặt lạnh tanh, nàng nói “Xạo đủ rồi!”. Hắn cười hề hề rồi liếc nhìn gương mặt hầm hầm của nàng để biết chắc gương mặt ‘đáng yêu’ đó sẽ không hiện diện trong cuộc đời hắn trong một tháng. Sau khi nàng lên máy bay, hắn ‘lưu luyến’ đứng nhìn chiếc máy bay (có nàng trong đó) lên cao dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ, khuất vào trong mây trời, hắn mới tát vào mặt mình mấy cái, để biết chắc mình không nằm mơ, rồi ngâm nga “Vợ đi! Ừ nhỉ, vợ đi thực. Nàng giờ đây ở trên máy bay. Nàng giờ đây nhỏ như hạt bụi. Ta giờ đây, phải nhậu cho say…” Và hắn reo lên “Ha ha! Không thấy mặt vợ đến một tháng luôn!” Rồi nhảy chân sáo, ra xe, mở chai ‘Thằng Johny đi bộ’ (Johny Walker, đã mua, giấu kỹ cho giờ phút nầy), tì tì từng ngụm, mắt ngước nhìn mấy cánh chim đang lướt trên bầu trời xanh bao la, để suy ngẫm và thưởng thức hai chữ Tự Do. Hắn cứ ngồi lơ tơ mơ như thế cho đến khi dã rượu, hắn lái xe về mà cứ hồi hộp, lo lắng, không hiểu, vợ còn ở nhà hay đã về Việt Nam? Ngay đêm đầu tiên, nằm ngủ trên giường, thỉnh thoảng hắn quờ quạng khắp giường, thấy trống vắng, biết chắc vợ không nằm bên cạnh, hắn mỉm cười, chìm vào giấc ngủ (cô đơn!).

VÀ CHUYỆN NÀNG HOA PHƯỢNG 

Sáng hôm sau, trước khi đi làm, hắn móc điện thoại.

– A lô! Em Hoa Phượng đó hả? Anh Ba đây!

– Anh Ba nào vậy?

– Anh Ba Trợn đây!

– Dạ. Chào anh Ba Trợn. Em Hoa Phượng nghe anh đây!

– Trưa nay, giờ lunch (nghỉ ăn trưa) mình ra chợ Eden (tiểu bang VA) kiếm gì ăn?

– Dạ. Cám ơn anh. Khoảng mười hai giờ. Em sẽ ra với anh.

Nàng Hoa Phượng nầy là một trong các cô bạn rất thân của hắn, nhưng tình bạn còn rất trong sáng, không như các cô, bà khác (đã hết trong sáng). Sau khi chào hỏi, ngồi vào bàn, hắn làm bộ ngạc nhiên nói với người đẹp.

– Em là ảo thuật gia tài ba nhất ở đây.

Nàng cảnh giác.

– Em có ảo, iếc gì đâu?

– Em làm cách nào mà chung quanh đây anh chẳng thấy ai. Chỉ thấy mình em!

Rồi hắn cất giọng vịt đực hát “… Và hỏi tại sao thế giới đông người anh chỉ thấy riêng em?”

Cô bậm môi rồi nhìn hắn phì cười.

– Miệng ông dẻo như kẹo mạch nha!

Đàn ông có tật xấu là thấy đàn bà, con gái là cứ lỏ mắt nhìn mấy điểm chiến lược của người ta. Vì tò mò chứ chẳng ham muốn gì. Chỉ cần thoáng qua, các ông biết ngay hai quả đào tiên là thật hay ‘made in China’, quả cam hay trái mướp. Sách Thiên Mệnh Kinh (Tàu) có câu “Thiếu nữ như trái nho tươi, nạ dòng như trái nho khô!”. Quí bà mặc quần đùi ra đường là các ông nhìn chăm chăm, chẳng phải chiêm ngưỡng mà vì tò mò, xem đùi nàng có mấy con trùn (nổi gân xanh). Các bà, các cô biết “tật” của các ông là cứ nửa kín, nửa hở các ông mới lỏ mắt nhìn mê mẩn chứ mấy cô gái sắc tộc để ngực trần hay ở các bãi biển, người ta mặc hai mảnh tí xíu, các ông đâu thèm nhìn? Mà cũng chẳng có gì tội lỗi vì các bà cũng cần các ông ngắm nghía. Mình có đẹp, có hấp dẫn người ta mới ngắm nhìn. Bị ngó lơ mới đáng tủi thân. Nhưng xin quí ông đừng nhìn “nham nhở” quá khiến quí bà “nhột”. Trước khi đi đâu, quí cô, quí bà bỏ hàng giờ để trang điểm, lựa chọn áo quần để làm gì? Để “khoe” với các ông. Trên đời nầy mà không có đàn ông thì quí bà hoặc trùm kín mít như bên Ả Rập hoặc chẳng thèm mặc áo quần làm gì cho mất thì giờ. Cứ “vườn không, nhà trống” mà thổn thệnh ngoài đường “Cho gió mát cái bàn chân, cho gió mát cái cùi tay…” Ở bên Âu Châu có hội khỏa thân, ra bãi biển, chẳng ai thèm nhìn ai. Các bà, các cô không mặc áo quần thì cũng giống như con chim công, con chim phượng hoàng bị vặt trụi lông, chẳng biết đẹp ở chỗ nào?

Trở lại chuyện cậu Ba Trợn. Nàng Hoa Phượng ngồi trước mặt, trang phục lịch sự, kín đáo, chỉ dưới cổ, để trần một chút ngực trắng nuốt, mà mắt hắn cứ láo liên, nhìn trộm. Đàn bà nhạy cảm với đôi mắt đàn ông về mấy vụ nầy. Nàng biết, mỉm cười hỏi.

– Âm mưu gì đây? Không hi vọng gì đâu!

Bị lộ tẩy, hắn làm bộ rầu rỉ.

– Vui sướng gì! Vợ về Việt Nam…

Nàng ngạc nhiên.

– Anh mà cũng nhớ vợ?

– Không phải. Vợ anh về Việt Nam, đem luôn chìa khóa cửa. Tối nay không biết ngủ đâu!

Nàng lại cười.

– Thì ngủ khách sạn. Nhà em đông người lắm.

Đó là cách hắn “thả thính” dọ đường, mục đích cho người đẹp hiểu ý. Nếu nàng “lơ lửng” thì sẽ có chút hi vọng. Nghe trả lời như thế, hắn ngỡ mình sắp được ôm nàng Hoa Phượng trong vòng tay. Không ngờ, nàng cảnh giác, mấy lần sau, hắn mời nàng đi ăn thì bị từ chối thẳng thừng. Nàng chỉ đồng ý cho gặp trên điện thoại mươi phút thôi. Thấy nàng quyết liệt, mà một tuần đã trôi qua, hắn sốt ruột, đổi chiến thuật. Hắn khen nàng đẹp trên điện thoại. Khen từ mái tóc, gương mặt, đôi mắt cho đến hình dáng. Dĩ nhiên hắn phải khen đúng để nàng soi gương, mỉm cười và hài lòng. Đàn bà, con gái có chỗ yếu là được ai khen thì có cảm tình với người đó. Hắn thêm một bước nữa. Hắn tỉ tê rằng nhớ nàng, mong được gặp mặt cho đỡ nhớ. Nàng không trả lời, có lẽ còn đắn đo. Hắn biết, không lẽ nàng “Ừ!” ngay. Và hắn chờ đợi.

Một buổi chiều mùa thu, trời mưa lất phất và lạnh. Cảnh nầy làm các cô hơi lớn tuổi, độc thân, buồn ghê lắm. Không có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn cô đơn! Nàng Hoa Phượng gọi cho hắn.

– Em đi công chuyện, ngang nhà anh, em sẽ ghé thăm, độ năm phút thôi. Vì chuyện gấp nên em đến thăm anh là đi liền.

– Em có thể đến sớm, để chuyện trò lâu một chút? Cả tháng (xạo!) nay, em có cho anh gặp đâu!

Im lặng. Một phút sau.

– Bảy giờ em đến, bảy rưỡi em đi.

Ôi chà chà! Nửa giờ! Rõ ràng là nàng Hoa Phượng đã phó mặc số phận đẩy đưa, đến bến bờ nào cũng… OK!.

Hắn đi nấu trà, đem bộ đồ trà chưng trong tủ búp-phê ra, để trên bàn khách cho thêm phần long trọng. Nàng Hoa Phượng đến, hắn mở cửa mời vào. Nàng ngồi đối diện. Hắn rót trà mời. Trong ánh đèn mờ, hắn thấy trang phục nàng sang trọng, son phấn cẩn thận, chứng tỏ nàng  có đi đâu đó thật chứ không phịa chuyện để đến gặp hắn. Coi bộ gay go đây! Các bậc thức giả  có câu “Tri hành hợp nhất” nghĩa là khi ‘biết’ đối tượng muốn gì thì mình phải làm sao cho đương sự ‘hợp ý nhất’. Nhưng nàng có ý nghĩ giống như hắn không? Chợt nàng xem đồng hồ tay. Hắn thử đoán, nàng sốt ruột, muốn đi công chuyện hay muốn nói với hắn “Coi chừng hết giờ!”? Trò chuyện thêm mấy câu nữa, nàng nói.

– Thôi, em về!

Hắn cũng nói.

– Anh cũng đi công chuyện ngay bây giờ. Để anh tắt đèn!

Hắn đứng lên, tắt đèn. Tối thui!

Tôi, (người kể chuyện nầy) chưng hửng! Mà quí bạn đọc cũng chán nản “Tưởng gì gay cấn sắp xẩy ra. Mất công theo dõi nãy giờ!” Mà tôi có muốn kể tiếp, tả tình, tả cảnh cũng chẳng thấy gì. Tối mò mò!  Vả lại, họ sắp rời nhà, ra xe. Nhưng khoan. Xin lắng nghe. Trong bóng tối dày đặc, có tiếng nàng Hoa Phượng.

– Chìa khóa xe em đâu rồi?

– Anh đang giữ đây.

– Cho em, để em về.

– Cho anh hôn, anh đưa chìa khóa.

Yên lặng…

– Để em về!

Có tiếng rù rì của hắn, nghe không rõ nhưng đoán chừng hắn đang tỉ tê gì đấy với người đẹp. Nàng Hoa Phượng, giọng miễn cưỡng.

– Để em về kẻo trễ.

Lại tiếng thì thầm. Nàng cũng thì thầm.

– Đừng anh! Đừng làm em sợ!…

Rồi thì, tất cả rơi vào im lặng. Sự im lặng đáng sợ! Thưa quí bạn đọc kính mến. Quí bạn thử đoán xem chuyện gì đang xảy ra trong căn phòng tối om kia? Tôi thú thật, chịu thua! Trong nhà mà bị mất điện thì thành người mù, chả thấy đường mà làm việc gì!

Thời gian như ngừng trôi. Bỗng (trong bóng tối) có tiếng cười rúc rich.

– Anh là đồ ‘quỉ xứ!’. Làm người ta sợ muốn chết. Lần sau em không dám đến thăm anh nữa đâu!

Hắn cất tiếng hát “Thôi rồi còn chi đâu em ơi. Hết rồi còn chi đâu em ơi!”.

Có tiếng đập lưng hắn thình thịch

– Hết rồi thì đưa chìa khóa xe cho ngưòi ta về. Mở đèn lên. Quần áo xốc xếch hết cả rồi nè!

Đọc chuyện nầy, xin quí bà đừng trách rằng “Lũ đàn ông các ông như gậy thằng mù, chỗ nào cũng thọt được!” Xin thưa rằng. Bản tính đàn ông vốn tò mò mà người nữ lại là một sinh vật bí ẩn. Càng huyền bí, mơ hồ càng khiến lũ đàn ông say mê theo đuổi, khám phá. Ai lên mặt trăng. Quí ông. Ai đã cắm cờ trên đỉnh Everest? Cũng quí ông. Ai đã tìm ra Châu Mỹ? Cũng quí ông. Ai là chồng của quí bà? Cũng quí ông. Thế nên, thưa quí cô chưa chồng, quí bà độc thân, xin hãy thông cảm cho nàng Hoa Phượng cô đơn của hắn.

Phạm Thành Châu

Views: 7

Chiến Tranh Mậu Dịch Mỹ -Trung Và Hệ Quả Đến Việt Nam

Nguyễn Bá Lộc

(Cập nhựt và bổ sung lần ba)                            

                                                                                                                           

Chiến tranh mậu dịch giữa Hoa kỳ và Trung quốc đã manh nha từ năm 2017, và khởi đầu từ 2018. Trên danh nghĩa là cuộc chiến thương mại giữa hai siêu cường kinh tế. Thực sự là một sự xung đột trên nhiều mặt, kinh tế, khoa học kỹ thuật, và ý thức hệ. Ngoài ra, và sâu xa hơn, đó là do âm mưu đại bá của Trung cộng từ lâu.

Bởi do tính chất và qui mô, chiến tranh mậu dịch nầy có ảnh hưởng và hậu quả to lớn chẳng những cho hai quốc gia tham chiến, mà còn cho hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Sau ba năm, giờ cuộc chiến chưa chấm dứt, mặc dù có tạm đình chiến của giai đoạn I, hai bên vẫn còn một số bất đồng lớn, một số xung đột còn lan rộng ra trên một số lãnh vực khác.

Để hiểu thêm về một xáo trộn lớn của thế giới, trong hai năm 2018 và 2019, tôi có bài khảo luận về Chiến tranh mậu dịch Mỹ – Trung , nay tôi xin cập nhựt lần thứ ba nầy.

I. TÓM LƯỢC CHIẾN TRANH MẬU DỊCH MỸ -TRUNG

I.1. Nguyên do

Trong lịch sử chiến tranh kinh tế thế giới, đây là một trong những cuộc chiến lớn.  Hoa kỳ coi đây là cuộc chiến chẳng đặng đừng, trễ còn hơn không.

Còn Trung quốc thì phải chống đỡ bằng mọi giá, vì đó có liên hệ tương lai chế độ, tương lai mô hình và chiến lược kinh tế, và mục tiêu toàn cầu hóa. Các nguyên do:

Thâm thủng mậu dịch: Chánh yếu là sự thâm thủng mậu dịch quá lớn của Hoa kỳ đối với Trung quốc, trên $375.2 tỷ (2017) càng ngày càng lớn, Hoa kỳ nhập siêu 420 tỷ (2018). TT  Trump yêu cầu TC giảm ngay thâm thủng bớt $100 tỷ mỗi năm. Sự mất mát lớn đó của Mỹ chánh yếu là do TQ chơi nhiều đòn bất chính và do Mỹ lầm lẫn chế độ TC. Hoa kỳ yêu cầu TC phải có chánh sách mậu dịch đàng hoàng (fair trade).

Về đầu tư, hàng trăm công ty Mỹ qua kinh doanh ở TQ, làm cho thất nghiệp trong nước Mỹ gia tăng cao. Điều nguy hiểm khác là TC cho các công ty lớn, nhứt là ngành công nghệ thông tin đầu tư ngay tại Mỹ. Cơ hội TC ăn cắp khoa học kỹ thuật cao của Mỹ tăng cao hơn. Trong nước, nhiều công ty Mỹ bị phá sản hay bị TC mua, và thất nghiệp tăng cao.

Trên bình diện quốc tế, Mỹ bị thua thiệt dần cả trên mặt ngoại thương lẫn đầu tư ngoại quốc. Một thí dụ rõ ràng là trong thời đại dịch Covid 19, TC đầu cơ và tung sản phẩm y tế khắp mọi nơi, trong lúc Hoa kỳ và Âu châu thiếu hụt trầm trọng.

Về phía TC, thì sau thành công vượt bực về kinh tế, TQ nuôi dưỡng mộng bá quyền toàn cầu. Khi Tập cận Bình lên nắm quyền, thì ý đồ TC càng mạnh và rõ ràng. TC bành trướng thế lực mình  trong nhiều lãnh vực, trong nhiều quốc gia chậm tiến hoặc đang phát triển, kể cả tạo ảnh hưởng và nắm giữ một số cơ quan quốc tế.

Xây đắp “Giấc Mộng Trung Hoa” (Chinese Dream). Đó là ước mơ truyền thống của TQ từ các vua chúa ngày xưa, nay Tập cận Bình muốn dựng lại. Ý đồ của Tập là đến năm 2050 TC sẽ mạnh trong nước và có nhiều ảnh hưởng quốc tế và thay Mỹ trở thành lãnh đạo thế giới.

I.2.Thế và Lực của hai bên lâm chiến

Thế  và lực của Mỹ so với TC: Cho tới nay, Mỹ vẫn được coi như có thế và lực mạnh nhứt thế giới về các lãnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự và tư tưởng chánh trị văn hóa. Nhưng cái thế và lực đó đã, đang và sẽ còn đi xuống nữa nếu Hoa kỳ không có những biện pháp thích ứng kịp thời.

Về kinh tế mặc dù bị TC qua mặt xuất cảng, bị nhập siêu quá lớn hàng TC. Nhưng GDP của TC chỉ bằng  2/3 của Mỹ. Lợi tức đầu người của Mỹ cao gấp hơn sáu lần TC.

Vài so sánh sức mạnh kinh tế (2019):

                            GDP          GDP /GDP toàn cầu  Per capita              Xuấtcảng

Hoakỳ               21.374 tỷ     24.4%                     $ 65.165                     1.646 tỷ

Trung quốc       14.343 tỷ     16.4%                      $10.260                      2.479 tỷ

Nguồn: World Bank / Data

Về khoa học kỹ thuật, Mỹ có thế cao hơn nhiều vì có nghiên cứu và phát minh liên tục, còn TC thì phần lớn sao chép hay đánh cắp kỹ thuật từ bên ngoài. Nhưng khoảng 5 năm trở lại đây, TC đã đầu tư nhiều cho khoa học kỹ thuật. Cái lợi của TC là những phát minh dùng được cho cả kinh tế và quân sự. Mức độ khoa học kỹ thuật TC hiện nay cũng khá cao.

Về quân sự, Mỹ có tiềm năng cách xa TC mặc dù trong những năm gần đây TC sản xuất nhiều sản phẩm quân sự mới. Trong khi đó thì những năm trước kia Mỹ đầu tư ít cho quân sự. Gần đây Hoa kỳ đã thấy nhược điểm nầy và có một số cải tiến.

Về toàn cầu hóa, từ sau đệ nhị thế chiến Mỹ dẫn đầu phong trào toàn cầu hóa. Các công ty đa quốc Mỹ phát triển rất nhanh. Cái ưu thế thứ hai của Mỹ là toàn cầu hóa dựa trên nguyên tắc kinh tế tự do, và được hầu hết các quốc gia và các Tổ chức quốc tế đi theo mà không bị cản trở gì nhiều.

Sau nầy với chủ trương mới, TC có thế cao hơn Mỹ ở phần viện trợ quốc tế, và sự hơp tác với các nước đang phát triển, đồng thời vận động thâm nhập vào các cơ quan quốc tế. TC lợi dụng Toàn Cầu Hóa một  cách rộng rãi để tấn công Mỹ và Âu châu với sự xuất cảng ào ạt hàng giá rẽ, và thu hút đầu tư với nhân công lương thấp. Đồng thời TC tung tiền viện trợ cho nhiều nước nghèo. Cách hợp tác quốc tế, TC không đòi hỏi dân chủ hay nhân quyền, nên thu hút được nhiều quốc gia. Đó là thế quốc tế quan trọng.

Nhưng nay, TC và Mỹ đều gặp khó khăn, nhứt là sau đại dịch Covid-19. Khó khăn và cách giải quyết của hai bên có khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu thì hiện nay khó khăn của TC nhiều hơn, mức nguy hiểm sâu hơn. Mặc dù bề ngoài TC nói là kinh tế 2020 vẫn phát triển với số dương, còn Mỹ thì có số âm.

Trong 30 năm qua, TQ tung hàng hóa ra khắp thế giới với giá rẽ, từ 257 tỷ (2000 lên 2.400 tỷ (2016) (theoMcKensey& Company Global Institute,www.mckensey.com). Và TC qua mặt Mỹ chiếm hạng nhì thế giới về xuất cảng.

Đầu tư ngoại quốc: Nhờ thị trường nội địa rất lớn và nhân công rẽ, TQ đã thu hút đầu tư ngoại quốc mạnh nhứt thế giới. FDI tại TC vừa cung ứng cho thị trường nội địa vừa chủ yếu cho xuất cảng, 50% xuất cảng là do FDI. (Theo Mac Kensey Global Institute)

TC ăn cắp kỹ thuật cao phần lớn là từ Hoa kỳ (sản phẩm trí tuệ, intellectual property), đem áp dụng trong nước và đã phát triển đến mức quan trọng. Những loại kỹ thuật cao đó xử dụng trong công nghiệp và kỹ nghệ quốc phòng .

Thái độ của TC là lặng lẽ tiến công Mỹ và Tây phương qua các kế hoạch và chủ trương lớn như tự do thương mại hoàn toàn, gia tăng viện trợ và đầu tư tại các nước nghèo đang phát triển qua Kế Hoạch Belt & Road, và đặc biệt mở rộng đầu tư của TC tại Mỹ và Âu châu với công ty rất lớn và kỹ thuật cao.

Trước tình trạng TC vừa đạt mức phát triển kinh tế cao, chiếm giữ phần lớn kinh tế toàn cầu. Mặt khác, là TC muốn soán ngôi thứ nhứt của Hoa kỳ để lãnh đạo thế giới. Đây là một biến chuyển thế giới rất lớn, có thể thay đổi trật tự thế giới trong tương lai.

Trong cuộc chiến mậu dịch TC coi như bị tấn công. Nhưng TC nhiều lần tuyên bố sẽ đánh trả bất cứ giá nào. Mặt khác, bề ngoài thì TC tuyên bố cần hợp tác để Mỹ và TQ cùng có lợi hơn là đánh nhau hai bên sẽ bị thiệt hại.

Về mô hình chánh trị, mặc dù TC là nước độc tài CS, không tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng TC xử dụng công cụ tiền bạc cách tối đa để dụ dỗ các nước nghèo, và tạo được thế quốc tế mạnh cho TC. Hiện nay dân chúng trên thế giới có ý nghĩ xấu về TC nhiều hơn trước. TC là một đe dọa lớn của nhiều nước.

Trong nước, các sắc tộc luôn bất ổn vì sự chênh lệch giàu nghèo quá cao, nạn tham nhũng quá khủng khiếp, cùng sự tranh giành quyền lực trong đảng, chánh quyền TC luôn cứng rắn đàn áp.

Tóm lại, mỗi bên tham chiến có những cái mạnh và yếu khác nhau, võ công khác nhau. Nhưng chắc chắn mâu thuẩn hai bên không dễ dàng giải quyết nhanh chóng.

I.3.Tóm tắt các trận chiến

Tóm tắt các trận đánh:

Mặt trận ngoại thương

Trận đánh thứ nhứt, 22-tháng giêng -2018, Mỹ đánh thuế 25% lên tấm solar (với trị giá 8.5 tỷ) và máy  giặt (1.8 tỷ). Đánh trả lại, TC tăng  thuế

Tháng 4-17-2018 TC đánh thuế phá giá bo bo nhập từ Mỹ thuế  178.6%

Tháng-2018, TC chấm dứt đánh thuế bo bo, vì đang thương thảo Mỹ TC để ngưng chiến.

Tháng  8- 14-2018, TC kiện Mỹ ra WTO.

Trận đánh thứ 2, Mỹ đánh thuế nhôm và thép 25% của tổng số nhập 48 tỷ, nhưng thực sự phần lớn nhôm thép Mỹ nhập từ Canada, Âuchâu, Mexico.

Tháng 7-24-2018, Mỹ kiện ra WTO về các nước Canada, Âu châu tăng thuế nhập từ Mỹ, vì Mỹ tăng thuế nhôm và thép là áp dụng “luật bảo vệ an ninh quốc gia”.

Tháng 7-24-2018, Mỹ ký sắc lịnh trợ cấp nông sản 12 tỷ do TQ không  nhập.

Trận đánh thứ 3,  ngày 18 tháng 8-2017, Mỹ phản đối TC vi phạm quyền sản phẩm trí tuệ và sản phẩm kỹ thuật cao khác.

Ngày 3-tháng 4-2018, Mỹ dự trù đánh nhiều món hàng từ TC trị giá $50 tỷ với thuế 25%

Ngày 3 tháng 4-2018, TC đánh thuế lại cũng 25% lên xe hơi, máy bay và nông sản trị giá 50 tỷ.

Ngày 5 tháng 4-2018, Mỹ đưa thêm danh sách 100 tỷ hàng TC với 25% thuế.

Các trận đánh tạm ngưng từ tháng  5-20-2018 vì hai bên thương thảo lại.

Ngày 10 tháng 7-2018, Mỹ đưa ra danh sách 200 tỷ hàng hóa TC sẽ bị đánh thuế 25%, vì cuộc thương thảo không thành. TT Trump nói sẽ đánh thuế cao cho tất cả hàng TC vào Mỹ. Đó là phần lớn  hàng tiêu dùng cá  nhân.

Ngày 24- tháng 9-2018, TT Trump tuyên bố sẽ đánh thuế  25% của danh sách 200 tỷ (đang bị thuế  10%). Để đánh trả, TC sẽ cho đánh thuế tăng 25% của gói hàng trị giá 60 tỷ.

Ngày 2/12/2018  hai bên ngưng chiến để thương thảo .

Đến tháng 5-2019, thương thảo không thành, Mỹ cho biết sẽ đánh thuế 25% lên số hàng 250 tỷ. Chia ra hai lần. Lần 1 vào tháng 10-2019 và lần 2 vào tháng 12-2019. Và sau đó còn có thể có danh sách khác với 300 tỷ nữa. TC cũng sẽ đánh trả 75 tỷ với 25% thuế.

Ngày 26/tháng 6/2019, ở buổi họp G20 tại Nhựt, hai bên đồng ý ngưng đánh để thương  lượng.

Hai bên thỏa thuận được. Mỹ không đáng thuế  25%  của danh sách 250 tỷ nầy vào tháng 12/2019. Đáp lại TC hứa nhập 200 tỷ hàng nông sản và hàng công nghiệp Mỹ trong hai năm 2020 -2021. Thỏa hiệp ký ngày 15-12-2019. Và sẽ thi hành từ 15 tháng  giêng -2020. Rồi đại dịch bùng nỗ gây khó khăn trong việc thực hiện. Thảo luận cho giai đoạn hai cũng không thực hiện.

Bên cạnh mặt trận thuế quan, Mỹ có hai cú đánh nhỏ là Hoa kỳ đưa TC ra WTO cho là TC lợi dụng qui chế “developing country status” để hưởng lợi nhiều trên thị trường quốc tế. Trận đánh nữa là Mỹ tố cáo TC định giá thấp đồng yuan để hàng xuất cảng có giá quá rẽ.

Nguồn: Peterson Institute for International Economics, www.www.piie.com, 28/9/2020

Thỏa hiệp giai đoạn I chỉ nói đến mậu dịch. Còn các vấn nạn khác mà Mỹ đưa ra tạm hoãn lại cho giai đoạn II (chưa biết bao giờ). Đó là: TC trợ cấp sai trái cho quốc doanh để cạnh tranh bất chánh, việc TC buộc các FDI ngoại quốc chuyển giao kỹ thuật; vấn đề bảo vệ sản phẩm trí tuệ; vấn đề FDI của TC tại Mỹ, vấn đề đánh cắp kỹ thuật; vấn đề tình báo kinh tế; vấn đề lủng đoạn tiền tệ. Đó là những vấn đề lớn và khó khăn giải quyết nhanh.   

Mặt trận đầu tư và kỹ thuật.

Có hai vấn đề: Hoa kỳ yêu cầu TC cải sửa luật buộc nhà đầu tư ngoại quốc tại TC    không được đánh cắp kỹ thuật hay cộng tác ở các trung tâm chuyển kỹ thuật cách bất hợp pháp về TC. Dĩ nhiên TC chối vấn đề nầy. Nhưng tình báo Mỹ đã tìm  ra một số vụ. Các nhà khoa học TQ bị đuổi về nước hay bị tù. Tháng 12-2017 Mỹ cấm các công ty Mỹ làm ăn với một số công  ty lớn kỹ thuật cao của TC. Các công ty nầy có thể xử dụng cho kỹ nghệ quân sự.

Ngày 23/8/2019, TT Trump ra lịnh cho công ty Mỹ rút khỏi TQ đến một nước khác hay về lại HK. (Theo cơ quan Politico)

Mặt trận tình báo.  

TC gài tình báo khắp nơi, và trên hầu hết các lãnh vực, các mặt trận quân sự kinh tế và kỹ thuật

Mặt trận văn hóa truyền thông.

Vì TC dùng chiến thuật văn hóa và truyền thông để tấn công Mỹ và bành trướng trên toàn cầu, Mỹ đánh trên mặt trận nầy. Mỹ cho phổ biến những tin tức và nhận định tệ hại của chế độ độc tài CSTC mà TC ngụy trang dưới hình thức văn hóa và chủ nghĩa dân tộc.

Song  một trong nhược điểm của Hoa kỳ cũng như Tây Âu là chế độ tự do dân chủ nên phải trình bày cho dân các chương trình kế hoạch rõ ràng. Do đó TC đã biết được một số điều về đối phương. Trận chiến trở nên khó khăn hơn.

I.4. Trung cộng phản công

TC bị đánh trước. TC dùng chiến thuật trên 4 mặt:

Thương mại/ quan thuế, vừa đánh trả vừa thương lượng. Một mặt tìm thị trường mới thêm ở nhiều nước ,nhứt là Âu châu.

Về đầu tư, sửa luật đầu tư cho nhà đầu tư ngoại quốc có thuận lợi hơn nữa, cải tổ quốc doanh cho lành mạnh. Chấn chỉnh các công ty ở ngoại quốc, sau khi bị Mỹ trừng phạt hay cấm.

Gia tăng viện trợ và đầu tư đến nhiều nước ĐNÁ và Phi châu theo kế hoạch Belt & Road. Gia tăng phát triển kỹ thuật trong nước cho dự án “Made in China 2025”.

Phá giá thêm đồng “yuan” để tăng xuất cảng.

Về quốc tế vận, TC gia tăng tuyên truyền, nhất là trong thời kỳ có đại dịch để tiếp tục tạo hình ảnh một Trung quốc mới tốt và nhân đạo đối với mọi nước. Chia rẽ đồng minh của Mỹ. Kết hợp liên minh mới, Hiệp ước kinh tế RCEP, Regional Cooperation Economic Partnership, gồm 15 nước, 10 nước Asean cộng với Úc, Tân Tây lan, Nhật, Nam Hàn, Trung quốc, lúc đầu có Ấn độ sau nầy Ấn độ rút ra. Hiệp ước nầy do TQ dẫn đạo và vừa ký chung vào tháng 11 /2020. Đây là một thỏa ước kinh tế lớn nhất hiện nay.

Trong  nước, TC củng cố nội bộ đảng và trấn an dân, thúc đẩy tự hào dân tộc. Quyết tâm tiến lên đánh nhào Tư Bản và chiếm vị trí số một toàn cầu.

I.5. Kết Quả và Hậu Quả Tạm Thời

Tới nay (12/2020), chiến tranh mậu dịch Mỹ Trung đã xẩy ra gần ba năm. Như trên đã nói cuộc chiến không phải chỉ giới hạn trong thương mại và đầu tư, mà còn lan rộng tới nhiều lãnh vực. Một số xung đột vẫn tiếp diễn. Cuộc chiến chưa biết sẽ chấm dứt lúc nào và sẽ ra sao.

Dưới đây là tóm tắt một số kết quả và hệ quả tạm thời (tới cuối 2020) .

I.5.1.Hệ quả về phía Hoa kỳ

Về thương mại thì hai bên đánh và đàm nhiều lần. Thương thảo cho giai đoạn I, được hai thực hiện là vào tháng giêng năm 2020. Coi như tạm huề. Nhưng rồi bị đại dịch. Thỏa ước không được thực hiện đúng như cam kết. Trung quốc mua nông sản Mỹ ít hơn lời hứa. Hàng TC vào Mỹ bị giảm.Thuế đánh vào hàng TC cao lên thì giá bán lẻ cao ảnh hưởng người tiêu thụ và một số công  ty sản xuất Mỹ.

Về đầu tư, một số công ty Mỹ ở TQ  dời đi  qua một số nước khác, như Google, Apple, Nike… Mặt khác TC đang sửa luật đầu tư theo yêu cầu của Mỹ. Về phần công ty TC  ở Mỹ thì một số bị cấm hay bị phạt. Như công ty công nghệ thông  tin  lớn ZTE và Huawei. Hoa kỳ còn cấm các công  ty Mỹ không được giao dịch với công ty do quân đội TC  làm chủ. Các công ty TC không được lên thị trường chứng khoán Mỹ nếu không được Mỹ kiểm soát tài chánh. Tuy  nhiên, sự cấm đoán bán  cho TC các  sản phẩm bán dẫn (semiconductors, software)  làm một số  công ty Mỹ bị thiệt hại. Một món hàng lớn khác là 900 chiếc máy bay Boeing  (trị giá 1,000 tỷ) mà TC hứa mua trước Thương chiến, nay  bị hoãn lại.

Đối với nông dân Hoa kỳ, thương chiến có ảnh hưởng lớn vì TC nhập một số lượng lớn đậu nành, thịt heo, gà của Mỹ. Nếu thỏa hiệp sau cùng (tháng giêng/2020) bị trục trặc, TC không giữ lời hứa mua 55 tỷ nông sản Mỹ thì đó là thiệt hại cho nông dân.

Một số nhà khoa học TC làm việc tại Mỹ bị bắt vì là tình báo cho TC.

Tâm lý chiến và vận động đồng minh. Chánh quyền Mỹ kêu gọi và trình bày cho dân trong nước thấy thiệt hại của Mỹ về nhập siêu từ TQ quá lớn từ nhiều năm.Tình trạng thất nghiệp ở Mỹ do công ty Mỹ sang làm ăn ở TQ trong mấy chục năm qua. Chánh quyền kêu gọi người tiêu thụ mua hàng Mỹ (Buy American), công ty Mỹ trở về cố hương với sự giúp đỡ về thuế và tín dụng.

Chánh quyền và một số truyền thông Mỹ cũng cho dân chúng thấy TC là nước CS, họ dùng những mánh khoé gian dối. TC không có đủ điều kiện và giá trị cần thiết cho một lãnh đạo thế  giới. Mỹ và một số đại học đóng cửa các Viện Khổng Tử, một nơi truyền bá văn hóa lỗi thời và là nơi ẩn dấu cho tình báo TC.

Do đó, gần đây người Mỹ hiểu rõ hơn TC và đa số họ coi TC là kẻ thù cần cảnh giác.

Đối với đồng minh, Hoa kỳ có thay đổi. Lúc đầu TT Trump với chủ trương“America First” làm cho một số đồng minh, nhứt là Âu châu xa Mỹ. Trong đối phó đại dịch, một số nước hiểu TC hơn, và có sự hợp tác trên một số mặt với Hoa kỳ. Về bang giao quốc tế, Mỹ lôi kéo được các nước mạnh như Nhật, Ấn, Úc thành liên minh “Chuổi Kim Cương ” ở Ấn độ-Thái bình dương. Hoa kỳ đi gần hơn với VN và các nước ASEAN để đối phó sự xâm lăng của TC ở Biển đông.

Hoa kỳ gặp ba khó khăn cùng lúc, là sự suy giảm do chiến tranh mậu dịch, do đại dịch rất nặng nề, và do cuộc bầu cử Tổng thống 2020.

Nhưng kinh tế phục hồi từ tháng 10 năm nay. Thị trường chứng khoán lên cao. Về kinh tế tài chánh, Hoa kỳ còn khó khăn lớn khác là nợ công quá cao do ngân khoản cứu trợ đại dịch. Vào những ngày cuối năm thì dịch covid bùng phát trở lại. Có cái may là thuốc chủng dịch covid- 19  được bắt đầu xử dụng. Kinh tế chưa có dấu hiệu lạc quan .

I.5.2.Hệ quả về phíaTrung Cộng

Kinh tế TQ chậm lại và mức phát triển suy giảm, một phần do thương chiến, một phần do đại dịch. Theo cơ quan nghiên cứu Terence Tai-Leung Chong & Xiao Yang Li ước lượng thiệt hại do thương chiến làm GDP TC giảm 1% và thất nghiệp tăng 1.1%. (Research Gate). Cộng với sự suy giảm do đại dịch, theo ước tính của Ngân hàng thế giới năm nay, suất số phát triển của TC chỉ có 2.9% . Được như vậy là may rồi. Dù sao kinh tế TC vẫn còn mạnh, vẫn còn là đối thủ đáng ngại của Hoa kỳ.

Xuất cảng: Tháng giêng và hai /2020 giảm 17% so với cùng thời kỳ 2019. Trong đó xuất qua Mỹ giảm 28%. (Theo Peterson Institute for International Economics,)

Đầu tư ngoại quốc  :   Đầu tư của TC tại Mỹ giảm từ 46.5 tỷ (2016) xuống còn 5.4 tỷ (2018) (Theo trung tâm nghiên cứu kinh tế Rodium Group).

Khoa học kỹ thuật, TC dù có nhiều cố gắng trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn lệ thuộc nhiều ở Mỹ. Như công  ty ZTE và Huawei phải nhập một chip quan trọng từ Mỹ.

Công nợ và ngân hàng. Nợ công rất cao nay phải cho quốc doanh vay thêm, nhưng tình trạng bị lỗ. Đó là một mối nguy hiểm lớn. Tiền trả nợ cho các nước vay trong kế hoạch BRI bị gián đoạn hay hoãn nợ vì phần lớn các dự án không có lời hay bị đội vốn. Nợ xấu do đó tăng cao.

Chuyển tài sản ra ngoại quốc. Vì tình trạng kinh tế khó khăn, nhiều nhà giàu tìm cách chuồn tiền ra ngoại quốc. Và tham nhũng gia tăng.

Trên bình diện quốc tế, dân chúng và chánh quyền nhiều nước có cảm nghĩ xấu với TC vì phần lớn thấy được mặt thật của “chế độ CS biến thể”

I.5.3. Hệ quả cho thế giới

Tổng quát xuất cảng trên thế giới giảm khoảng3%, GDP thế giới bị giảm 1.7%, trong năm 2020 do chiến tranh mậu dịch, (theo World Bank và Research Gate ghi lại).

Theo ước tính của Viện Nghiên Cứu Peterson Institute Global Economics thì cho tới năm 2030 kinh tế thế giới bị giảm mất 301 tỷ, chỉ do chiến tranh mậu dịch Mỹ-Trung.

Giá cả hàng hóa nói chung sẽ tăng khắp mọi nơi.

Đầu tư ngoại quốc bị giảm. Một số công ty bị ngưng hoạt động. Hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu thay đổi. TC sẽ không còn nắm các chuỗi cung ứng nhiều thứ hàng hóa quan yếu như trong hàng chục năm qua. Mỹ và Âu châu sẽ tự sản xuất cho thị trường nội địa các loại hàng quan trọng cho kinh tế quốc nội, y tế và quân sự. Mặt khác một số chuỗi cung ứng bị chẻ nhỏ ra và được sản xuất tại một số nước Á châu như VN, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, Mexico, Chile..

Hệ thống tài chánh quốc tế bị ảnh hưởng xấu đi. Thị trường chứng khoán dễ giao động hơn.

Mô hình toàn cầu hóa theo kiểu tự do hoàn toàn, kéo dài trên 50 năm nay, bị thay đổi ít hay nhiều. Vì chủ trương bảo hộ mậu dịch một phần của một số nước. Và các lưởn tài chánh trên thế giới có những thay đổi, kể cả các định chế tài chánh lớn. Toàn cầu hóa sẽ được tái định hình, tùy diễn tiến chiến tranh mậu dịch trong tương lai

Tuy nhiên trước mắt cũng có một số quốc gia có lợi trong cuộc thương chiến nầy, vì sự di dời của các công ty ngoại quốc ra khỏi TC và vì nhờ được xuất cảng tăng thêm do hàng hóa TC bị sụt giảm trên thị trường quốc tế. Trong số đó có Việt Nam

II. HỆ QUẢ THƯƠNG CHIẾN MỸ TRUNG ĐẾN VỊÊT NAM

Chiến tranh mậu dịch Mỹ -Trung cho tới nay đem tới những hậu quả lớn chẳng những cho hai nước đương đầu mà còn cho nhiều nước trong đó có VN.

Trong nhứt thời, nhiều người cho rằng đây là cơ hội mà VN hy vọng được nhiều thắng lợi nhất. Song , về phương diện kinh tế, Hoa kỳ và TC là hai đối tác quan trọng nhất của VN, và vì chiến tranh mậu dịch nầy nhiều phức tạp, nên hệ quả cho VN vừa tích cực vừa tiêu cực.

Trong chương nầy, xin tóm tắt qua hai vấn đề: Mối liên hệ kinh tế VN với Hoa kỳ và Trung quốc và Hệ quả chiến tranh mậu dịch Mỹ- Trung đến với VN.

II.1. Tóm lược Tiến Trình Việt Nam Hội Nhập Toàn Cầu
 II.1.1. Tiến trình Hội nhập toàn cầu của VN

Sau  khi đổi mới kinh tế (1986), VNCS theo đuổi nền kinh tế pha trộn giữa kinh tế tự do và nền kinh tế độc quyền XHCN. VN chấp nhận nhiều thành phần kinh tế: quốc doanh, tư doanh, tư doanh ngoại quốc, hợp tác xã và cá thể. Khu vực kinh tế quốc nội quá yếu, nhứt là quốc doanh chiếm khoảng 60% tài sản và phương tiện kinh tế nhưng 65% bị lỗ triền miên. Tư doanh trong nước còn quá yếu. Cho nên VN phải đẩy mạnh kinh tế đối ngoại từ khoảng năm 2000. Từ đó đến nay, VN đạt một số kết quả khá tốt về xuất cảng và đầu tư ngoại quốc (FDI).

Chúng tôi xin tóm tắt một số điểm quan trọng quá trình mở cửa và đi mạnh vào thị trường thế giới của VN trong 20 năm qua.

Về mậu dịch, từ khi vào WTO cho tới nay VN đã ký 17 Hiệp định (HĐ) mậu dịch song phương cũng như đa phương. Song phương VN ký với các nước: Hoa kỳ, Nhật bản, Trung quốc, Đại hàn, Đài loan, Hồng kong, Singapore. Về đa phương VN ký với nhiều nước trong các HĐ : ASEAN với các nước, với HĐ RCEPT do TC cầm đầu,  CPTPP với 11 nước Xuyên Thái Bình Dương (Hoa kỳ rút ra), và EVFTA, VN với Cộng đồng Âu châu. Hai HĐ sau cùng nầy là HĐ thuộc thế hệ mới và toàn diện.

Một số thành quả về ngoại thương:    2015                          2018                             2019

Xuất cảng:   ($ triệu)                            162,107                      236,862                       253,903

Đầu tư ngoại quốc  ($ tỷ)                   14,100 (2007)            16,120   (2019)

Nguồn: Oxford Business Group

Trong 10 năm qua, xuất cảng tăng trung bình 12-15%/năm.

Tổng cộng FDI cho tới năm 2016 là $293 tỷ. FDI chiếm 25% tổng số đầu tư, và chiếm 70% tổng số hàng hóa xuất cảng (theo IMF).

HĐ mậu dịch CPTPP và EVFTA

HĐ CPTPP chính thức thi hành từ tháng giêng 2019. HĐ EVFTA bắt đầu thi hành từ tháng 8- 2020. Hai HĐ nầy gần như giống nhau. Ở đây xin nói một số điểm chánh của hai HĐ nầy.

Đặc điểm:

Hợp tác toàn diện, vừa đẩy mạnh phát triển mậu dịch và đầu tư, vừa gián tiếp cải thiện các định chế, hệ thống pháp lý và lành mạnh hóa xã hội; đặc tính thứ hai là HĐ dựa trên nguyên tắc kinh tế tự do hay kinh tế thị trường.

Ngoài các qui định về kỹ thuật của mậu dịch và FDI, hai HĐ nầy còn qui định bắt buộc mà các HĐ trước kia không có: sự minh bạch, công bằng trong kinh doanh, sự tham gia của công chúng, tôn trọng tự do và nhân quyền.

Tầm quan trọng và lợi ích:

Khi Hoa kỳ rút ra hồi 2017, CPTPP yếu hơn TPP có Hoa kỳ. Vì Hoa kỳ chiếm tỷ trọng 58% của CPTPP. Nếu có Hoa kỳ (tương lai có thể Hoa kỳ trở lại) thì 12 nước thì GDP chiếm 40% GDP thế giới, và 37.5 % lượng hàng hóa giao dịch của thế giới. CPTPP nay chỉ có tỷ trọng 13% GDP và 17% của thế giới. Hiện nay, EVFTA lớn nhứt của VN, và CPTPP hàng thứ tư, sau Hoa kỳ và TC ( VN xuất siêu qua Hoa kỳ khoảng $40 tỷ/ trong năm vừa qua, còn với TC thì VN phải nhập siêu trên $30 tỷ/ năm).

Theo ước tính của các chuyên gia thì tới 2030, EVFTA sẽ giúp VN tăng xuất cảng 12% năm và GDP tăng 2,4% . (Theo Report World Bank tại VN, tháng 5/2020).

Hai HĐ mới còn giúp gia tăng năng suất công nhân, tạo thêm việc làm, cải tiến phẩm chất hàng hóa, và giúp cải thiện vấn đế tài chánh, tín dụng theo chiều hướng tiêu chuẩn quốc tế.

Các khó khăn nghiêm trong:

Mặc dù tương đối thành công trong Hội nhập, mặc dầu hai HĐ mới có tầm mức quan trọng và là hy vọng nhiều cho VN, nhưng con đường đi tới của Hội nhập toàn cầu của VN còn rất nhiều khó khăn và thử thách. Nếu VN như các quốc gia có Tự do Dân chủ và Nhân quyền thì khó khăn ít hơn và dễ cải thiện hơn nhiều. Mà những khó khăn lớn lại nằm trong các lãnh vực ngoài tính chuyên môn trong mậu dịch và đầu tư. Nhưng nó gián tiếp và quan trọng, vì nếu VN không thi hành đúng sẽ bị chế tài, nghĩa là không được hưởng những ưu đãi của hai HĐ.

Các khó khăn chánh yếu là:  Phải tôn trọng nguyên tắc kinh tế thị trường thực sự. Phải có công đoàn độc lập và bảo vệ quyền công nhân theo luật quốc tế. Phải bảo vệ môi trường. Phải điều hành kinh tế cách minh bạch và công bằng. Phải cải sửa và giảm quốc doanh. Phải giảm tham nhũng và có công bằng xã hội.

Đó là những thử thách, những khó khăn tồn tại từ rất lâu và nguyên do là từ bản chất chế độ và sự vận hành nhiều sai trái của chánh quyền.

II.1.2.  Mối liên hệ kinh tế VN với Hoa kỳ và Trung cộng

Lịch sử cho biết VN từ lâu ở trong thế kẹt trong tranh chấp Hoa kỳ và Trung quốc, từ sau đệ nhị thế chiến cho tới ngày nay.

Sự mâu thuẩn và tranh chấp lớn của hai siêu cường quốc Hoa kỳ và TC có liên quan đến VN  từ chiến tranh với Pháp, rồi qua cuộc đụng độ giữa hai khối Tự do và CS, đến chiến thắng của CS tại VN, đến nay là sự tranh giành “độc bá thiên hạ” của hai siêu cường nầy.

Hệ quả đó với VN trên nhiều mặt, từ chánh trị, quân sự , kinh tế và xã hội. Có những hệ quả nhứt thời, nhưng cũng có những hậu quả trong lâu dài.

Để hiểu về hệ quả của Chiến tranh Mậu dịch Mỹ-Trung cho VN,  chúng tôi xin tóm tắt mối tương quan giữa VN và Trung quốc , giữa VN và Hoa kỳ trên mặt thương mại và đầu tư.

Trên con đường phát triển hội nhập toàn cầu, TC và Hoa kỳ là hai đối tác quan trọng nhứt nhì cho VN. Sự gắn chặt kinh tế VN với hai đại cường Hoa kỳ và TC có tính chiến lược.

II.1.2.1. Tương quan kinh tế VN -Trung quốc:

Sự lệ thuộc kinh tế TC quá lớn và khó thoát ra có nguồn gốc từ mối tương quan chánh trị giữa hai nước. VN ở thế yếu vì các lý do: Thứ nhứt là hai chế độ CS độc tài chuyên chính giống nhau. Sau khi Sô Viết sụp đổ thì hai nước càng sát nhau hơn để bảo vệ nhau sự sống còn, nhứt là về an ninh chính trị, đảng CS VN hay các lãnh tụ đảng luôn coi đảng CSTC là sự bảo đảm tốt nhứt; thứ hai là vì địa lý, VN nằm cạnh một nước khổng lồ có sức mạnh lớn hơn nhiều lần và với truyền thống tham vọng bá quyền;  thứ ba là VN là nước nghèo cần phát triển kinh tế, mà TC là một nước đàn anh giúp đỡ đầu tư, vay mượn dễ dãi, và sự cấu kết tham nhũng cũng dễ dàng hơn. Về mặt kinh tế, VN là thị trường lớn nhất của TC ở Đông nam Á, và ngược lại thị trường TC cho hàng hóa VN khá lớn, đứng hàng thư tư. Sự lệ thuộc TC được xác lập qua sự kiện quan trọng là hai lãnh đạo Trung quốc, Giang Trạch Dân và lãnh đạo VN , Nguyễn văn Linh, ký Hiệp đinh bình thường hóa vào ngày 7 tháng 11 năm 1991. Tiếp theo từ đó có nhiều Hiệp định toàn diện và theo đó CSVN dâng cho TC nhiều điều nhiều thứ kể cả kinh tế có lợi cho TQ và quá nhiều thiệt hại cho VN.

Tóm tắt mối tương quan kinh tế VN- TC  

Cam kết mạnh mẽ và rõ ràng giữa hai đảng và hai chánh phủ bắt đầu từ 1991. Năm 2007, Thành lập Ủy ban Hợp tác Kinh tế Thương mại . Mới nhứt là Thỏa ước hợp tác kinh tế toàn diện ký hồi tháng 11/2017 giữa Trần đại Quang và Tập cận Bình. Hai bên trao đổi qua các hiệp ước song phương và đa phương.

Sự trao đổi giữa hai lãnh đạo thường dễ dàng vì có chủ thuyết và mô hình kinh tế của hai nước  giống nhau .

Trên quan điểm và sự cấu kết , hai nước Việt Trung cụ thể hóa các Thỏa ước, đã có nhiều phái đoàn chánh phủ cũng như doanh nhân hai bên trao đổi kế hoạch đầu tư và mậu dịch cụ thể.

Về Đầu tư trực tiếp và thầu công trình lớn

TQ là một trong 4 nước có đầu tư ngoại quốc cao nhứt tại VN. TQ đầu tư gia tăng: 2 tỷ mỹ kim (năm 2012) lên $10.5 tỷ mk (2016) từ hạng 13 lên hạng 8. Theo báo cáo của  Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì chỉ riêng tháng giêng 2017 , TQ đã đầu tư trực tiếp $340 triệu mk (chiếm 22% tổng số đầu tư ngoại quốc tại VN), và đứng hạng ba sau Singapore và Nam Hàn. Từ khi Hiệp định TTP được ký hồi đầu năm 2016, TQ đẩy rất mạnh đầu tư ở VN. Chỉ trong 10 tháng năm 2017, TQ đầu tư 214 dự án với tổng số vốn $1,6 tỷ mk (theo Vietnam Business News, tháng giêng 2018). Các FDI của TC có ba mục đích: Cạnh tranh với công nghiệp và tiểu thương VN để chiếm thị trường VN, mục tiêu thứ hai là khai thác dầu khí, khoáng sản cho kinh tế TQ, loại thứ ba là các ngành né tránh các HĐ đa phương như tơ sợi, phân bón hay ngành có thể dùng chứng chỉ xuất xứ VN để bán qua Mỹ tránh né thuế quan cao như nhôm thép , đồ gỗ, và thứ tư là các dự án trong kế hoạch “Belt and Road” trong chiến lược bao vây toàn cầu như hải cảng, đường xe lửa, sân bay…

TQ thầu thực hiện các dự án đầu tư công lớn, trên 100 triệu mỹ kim. Tổng quát từ 5 năm nay, 80% các dự án xây dựng hạ tầng, điện nước hầm mỏ , chánh quyền VN giao cho TQ thực hiện.

Khai thác quặng nhôm ở  Lâm đồng và Gia lai, năm 2008 với kinh phí hai dự án lên 950 triệu mỹ kim. Công trình bị kéo dài đến 2014 mới bắt đầu sản xuất.  Nhôm sơ chế bán hết qua TC và bị ép giá. Hai dự án nầy bị lỗ $200 triệu/năm.

TQ thầu được nhiều dự án lớn: nhà máy điện Bình Tuy, Vĩnh Bình tổng cộng trên 2 tỷ mỹ kim,

Dự án Đường xe lửa Cát Linh- Hà Đông (2008) với chi phí đầu tư lúc đầu $552.89 triệu, trong đó tiền vay TQ $419 triệu. Đến 2016 tổng chi phí được điều chỉnh lên $868.04 triệu.Tới năm 2020  chưa xong, dù thời gian thực hiện kéo dài gấp ba. Mỗi năm theo tính toán lúc đầu, VN phải trả nợ cho TQ  $28.8 triệu. Nay công trình kéo dài nợ phải trả nhiều hơn.

Về xuất nhập khẩu: Trung bình từ năm 2010 -2016 hàng nhập từ TQ tăng 18%/năm, năm 2017 ước lượng tăng 15.3%. Theo Vietnam Business Forum, tháng giêng 2018, tổng trị giá xuất nhập năm 2016 là $73 và 11 tháng năm 2017 lên tới 82 tỷ. Xuất siêu với Hoa kỳ gần bằng nhập siêu từ TC.

Hoa kỳ nhập siêu tăng từ US$9 tỷ (2007), lên $17.3 tỷ lên $28.9 tỷ (2015), 39 tỷ (2017). VN đứng hàng thứ 7 trong các nước Hoa kỳ nhập siêu, ý là chưa có TPP.

Về đầutư Hoa kỳ vào VN (FDI): Cũng tăngnhanh. Từ $2000 tỷ đô (2010) lên $10.5 tỷ (2016). Từ hạng 19 (2010) lên hạng 9 (2016). Và tiếp tục tăng, nhứt là vì Chiến tranh Mậu dịch, một số công ty lớn của Mỹ chuyển qua VN. Nhìn chung qui mô FDI của Mỹ khác với TC. Mỹ chủ yếu đầu tư các ngành quan trọng mà VN rất thiếu khả năng như dầu khí, nhiệt điện, sửa chữa máy bay, điện tử…

Còn TC đầu tư đủ thứ, một loại có tác hại xâm nhập thị trường và cạnh tranh thị trường VN như : địa ốc, khu giải trí, casino, bán lẻ ..

Càng tăng giao thương tăng VN càng lỗ vì nhập siêu của VN với TC rất cao, trung bình US $ 30 tỷ, gần bằng số xuất siêu của VN với Hoa kỳ. Như trên, trong vòng 16 năm mà mậu dịch hai bên gia tăng gấp hơn 23 lần. VN trở thành thị trường lớn nhứt của TC trong khối ASEAN. Còn TC là thị trường lớn thứ ba của VN. Chưa kể hàng hóa qua lậu giữa hai nước ước lượng US $20 tỷ/ năm.

VN mua của TC đủ mọi thứ hàng tiêu dùng vì giá rẻ, một phần số lớn hàng qua lậu ở biên giới. Còn TC mua của VN hầu hết dầu thô, nông sản, khoáng sản.

Đầu tư tại VN, TC tràn ngập đầu tư dưới nhiều loại từ điện lực, cầu cống, phi trường, nhà đất tới cơ sở mua bán nhỏ trải dài từ Bắc vô Nam. Trong 10 tháng 2017, TC nhận được các gói thầu và dự án đầu tư tại VN trị giá US $11.9 tỷ (theo WTO văn phòng VN). Ngoài ra, kỹ nghệ VN bị lệ thuộc nguyên liệu của TC. Như ngành may mặc, giầy dép có nguyên liệu nhập 80% từ TC.

Viện trợ. TC cho VN vay rất lớn, họ giữ bí mật con số tổng quát. Nhưng qua một số dự án lớn, đang thực hiện, như ba công trình nhiệt điện ở Phan thiết, Bình Tân và Vĩnh Bình lên tới 6 tỷ mỹ kim, dự án đường xe lửa Cát linh – Đông hà với kinh phí lúc đầu $385 tỷ  sau 4 năm thi công tăng đội vốn lên $850 tỷ, nay sau 8 năm vẫn chưa hoàn tất. Thường TC cho vay 80% chi phí dự án. Các dự án lớn hầu hết nằm trong đại kế hoạch Belt & Road Initiative (BRI). Nội phần trả lãi cũng là gánh nặng cho người dân.

Riêng về mặt kinh tế TC-VN có tầm mức rất quan trọng. Đầu tư TC tại VN (2017) đã lên hàng thứ tám trong các nước.

Theo thỏa hiệp ký vào năm 2011 về dự án thăm dò dầu và lợi ích khác dưới biển trong đó có phần chánh là lãnh hải TC chiếm của VN. Một “hợp tác” khai thác dầu khí trị giá một tỷ mỹ kim. Dự án nầy do công ty quốc doanh dầu lửa CNOOC của TC (theo báo The Gardian ngày 15-5-2014). Từ đây đưa tới hậu quả là TC cứ tự nhiên kéo giàn khoan thăm dò dầu khí từ vùng nầy đến vùng kia của VN. Và TC còn ra lịnh cấm và đuổi các các nước khác hợp tác VN khai thác như công ty Rapsol của Tây ban Nha, công ty Exon của Mỹ.

Năm 2013 VN- TC lại ký Thỏa ước hợp tác về mậu dịch, hạ tầng cơ sở, an ninh biển, kể cả khai thác dầu khí.

Năm 2017 khi Tập cận Bình (TCB) đến VN dự Hiệp định APEC, hai bên có ký một Bản ghi nhớ cho Thỏa hiệp 5 năm hợp tác về mậu dịch và kinh tế giữa VN-TC . Trong đó nói về các mục: mậu dịch, đường xe lửa Vân nam-Hà nội-Hải phòng, hai bên còn cam kết sẽ kiểm soát và quản lý tốt về quyền lợi lãnh hải (theo báo Shanghai Daily ngày 4 tháng 11 2017). Tiếp sau chuyến thăm của TCB, VN-TC ký một loạt 83 Hiệp định thương mại trị giá US $1,94 tỷ (theo Reuter 8-11-2017).

Sau đó các HĐ được chi tiết hóa bởi nhiều Bộ hay cơ quan liên hệ của hai bên. Ví dụ một phái đoàn 60 đại diện của 30 công ty do Bộ Thương mại TC qua VN làm việc bởi Bộ Công thương VN để thực hiện cụ thể. Sự hợp tác kinh tế VN-TC được đẩy mạnh với bề ngoài TC đưa ra hình thức tốt đẹp, như lời ông Zhi Luxun, trưởng phái đoàn phát biểu “China is ready to join hands with VN in upholding the Silk Road spirit of peace and cooperation, openness and exclusiveness, mutual learning and mutual benefit” (theo China Daily 9-11-2017) – “TC sẵn sàng hợp tác với VN trong tinh thần dự án Silk Road là hợp tác hòa bình, cởi mở và đặc biệt, hai bên hiểu biết nhau và cùng nhau có lợi” . Đó là chánh sách chung của TC khi hợp tác kinh tế với nước khác, một thể hiện êm ái lúc đầu và hiểm độc về sau của “Thực dân kiểu TC”.

Vấn nạn tồn tại giữa VN – TC trong hợp tác kinh tế:

Tinh thần hợp tác toàn diện của TC là sự kềm kẹp toàn diện. Kinh tế đi song song với chánh trị và an ninh.

Thái độ TC luôn trịch thượng kẻ cả đối với VN, nhứt là khi đảng CSVN chưa thoát khỏi đảng CSTQ. Nhứt là thái độ các lãnh đạo VN “thà mất nước hơn mất đảng”.

Sự áp đảo chiếm đoạt VN có tánh cách chiến lược và lâu dài, vì địa lý, tài nguyên dầu khí, vì văn hóa, vì việc phát triển lực lượng Hoa kiều hải ngoại, và vì thế quân bình quốc tế khi Hoa kỳ và Âu  châu chuyển trục qua Á châu.

Sự hợp tác kinh doanh hay viện trợ còn là sự “hợp tác tham nhũng” và hủy hoại tài sản VN 

Về mặt chiến lược, TQ  coi VN là một quốc gia ưu tiên số một cần nắm chặt về phương diện an ninh và kinh tế. CSVN ở thế yếu, cần chỗ dựa chắc, nên thường không cưỡng lại ý đồ của TQ.

Về thầu xây cất các công trình lớn. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, trong chánh sách bung mạnh ra thế giới, TQ yểm trợ cho nhiều nước đang phát triển, trong đó có VN, xây dựng nhiều công trình hạ tầng cơ sở bằng sự phối hợp cho viện trợ khoảng 80% kinh phí, nước nhận viện trợ giao cho TQ thầu, mà không có đấu giá cách bình thường, TQ bán máy móc trang thiết bị, và đem chuyên viên và công nhân qua thi công. Trong vòng 10 năm nay, VN giao cho TQ 80% công  trình và phẩm chất công trình rất yếu kém.

Một nguy hại về mặt xã hội là VN đang xây dựng nhiều casino ở các khu kinh tế Vân đồn, Vân phong và Phú quốc. Dân TC qua VN rất đông sống bừa bãi và gây ra nhiều loại tội phạm.

 Dự án công trình lớn song phương và đa phương VN – TQ: Hành lang kinh tế Việt Trung, đại dự án”  Vành đai con đường” qua nhiều quốc gia.

Một số công trình lớn của TC tại VN có liên hệ đến an ninh quốc phòng. Như Dự án Hành lang Trung-Việt với chi phí trên 4 tỷ US$ từ năm 2012, (Ngân phát triển Á châu cho vay 2 tỷ.) trong đó phương án xây dựng các xa lộ từ TC qua 6  tỉnh miền Bắc, và phương án đường xe lửa từ Vân Nam qua Hà nội đến Hải phòng. Dọc bờ biển và các đảo bị TC chiếm trái luật và tự tiện khai thác dầu khí, và đặt căn cứ quân sự. Các điểm trọng yếu thì VN xây các Đặc khu kinh tế cho TQ. Trên cao nguyên TC khai thác dự án quặng nhôm. Phía Tây nam thì TC có căn cứ lớn ở Cambodia. Còn ngã nào để thoát khỏi TC!

II.1.2.2.  Tương quan kinh tế VN – Hoa kỳ

Hoa kỳ và VN thiết lập bang giao năm 1995. Trong hoàn cảnh mới hai nước tiến lại gần nhau nhanh chóng. Nhất là từ khi bá quyền TC muốn chiếm đoạt Biển đông. Ngày nay sự hơp tác Hoa kỳ – VN nâng lên mức toàn diện. Riêng về lãnh vực kinh tế, Hoa kỳ trở thành đối tác số một của VN, chẳng những về thương mại mà còn nhờ có  ảnh hưởng Hoa kỳ với các định chế quốc tế và với một số nước tư bản tự do, và an ninh vùng Biển đông.

 Nay với chiến tranh mậu dịch Mỹ -Trung, tác động cho hai bên Mỹ- Việt chắc có ít nhiều thay đổi trong tương lai mà cả hai bên hy vọng theo chiều hướng tốt.

Hoa kỳ – VN  Ký Hiệp định kinh tế song phương ngày 13-tháng 7 năm- 2000, có hiệu lực từ tháng 12/2001. Đó là HĐ thương mại kiểu cũ, không kèm theo điều kiện Dân chủ và Nhân quyền như các HĐ sau nầy. Trong đó có các điều khoản quan trọng: Hoa kỳ cho VN “qui chế tối huệ quốc” (đ.1,Ch.I). Hàng hóa VN xuất qua Mỹ với thuế quan giảm từ 40% còn 5%. Về bảo vệ và chế tài sản phẩm trí tuệ. Về đầu tư, nếu có tranh chấp sẽ xử dụng trọng tài Liên Hiệp Quốc (UNCITRAL).

Hai bên hứa tạo thuận lợi về mậu dịch và đầu tư (Ch.V).

Cái hy vọng lớn cho hai bên, nhứt là phía VN là HĐ đa phương mang tính cách lịch sử và đặc  điểm mới của Tòan cầu hóa. Đó là HĐ TPP (Trans Pacific Partnership) hồi 2016 gồm  12 nước trong đó Hoa kỳ và VN. HĐ nầy toàn diện hơn đầy đủ hơn trước, ngoài qui định về mậu dịch và đầu tư còn qui định về sự tham gia của người dân, về nhân quyền… Nhưng năm 2017, TT Trump rút ra khỏi TPP. 11 còn lại tiếp tục với tên mới CPTPP. Không có Hoa kỳ là thiệt thòi lớn cho VN, vì Hoa kỳ là đối tác lớn nhất.

Thấy tầm mức quan trọng của Hoa kỳ, VN nổ lực vận động Hoa kỳ qua nhiều công tác như: Hoa kỳ bãi bỏ luật Valik Jackson, (cấm vận với nước CS), sau nầy Hoa kỳ bỏ luật cấm bán vũ khí sát thương tập thể. VN vận động gia nhập Hiệp hội ASEAN, và Hiệp ước mậu dịch tự do APEC.

Về mậu dịch hai bên, tăng nhanh. Dù Hoa kỳ không có là thành viên CPTPP. Trong vòng 20 năm, từ 2001 đến 2011, tăng 1200%, từ US $1.500 lên US $20 tỷ (Theo Wikipedia). Và tiếp tục lên US $77.600 năm 2019. Trong giao thương nầy, VN có lợi nhiều. VN xuất siêu từ US $592 (2001) lên US $39 tỷ (2019)

Về Đầu tư (FDI) của Hoa kỳ tại VN: Có lẽ các công ty của Mỹ với qui mô lớn, trong những năm trước TC mở cửa FDI Mỹ qua TC, nên qua VN ít hơn. Từ 2000- 2018, tổng số FDI của Mỹ ở VN trị giá US $54,5 tỷ dự án (Theo US Department of Trade) . Trong đó các công ty Microsoft, Cisco, Fedex, Coca Cola, Visa, Intel, Bank of America, City Bank… Dù không chiếm vị trí cao, nhưng FDI của Mỹ ở VN trong quá khứ có gia tăng. Hai nước càng ngày càng gần hơn, về mặt đầu tư sẽ tăng hơn và VN cần nhập hàng Mỹ nhiều hơn.

Trong chiến tranh mậu dịch, có một số công ty Mỹ chuyển qua VN. Mặt khác, Hoa kỳ và VN  đang gia tăng đầu tư về năng lượng. Như hồi tháng 10 vừa qua, Công ty Mỹ ký hợp đồng khí hóa lỏng trị giá $2.8 , hợp đồng đầu tư $3 tỷ nhà máy nhiệt điện Bình sơn, Bình Thuận, và một vài dự án lớn nữa trong chiều hướng có vẻ thuận lợi cho hai bên.

Vấn nạn tồn tại giữa Hoa kỳ-VN trong lãnh vực kinh tế:

Bang giao hai nước ngày nay tới mức toàn diện, nghĩa là ngoài kinh tế còn an ninh vùng. Nhưng riêng về mặt kinh tế, hãy còn một số tồn tại như:

Hoa kỳ không tin CSVN thật lòng hợp tác, mà muốn lợi dụng Hoa kỳ về kinh tế, vì VN nằm trong thòng lọng  ác nghiệt của TC, và sự thiếu thành thật của trong quản lý kinh tế .

Hoa kỳ không công nhận VN có nền kinh tế thị trường thực sự (Non Market Economy, NME). Theo luật về thương mại quốc tế của Hoa kỳ thì nếu một quốc gia được cho là có  nền kinh tế không phải thị trưòng thì bị áp đặt một số biện pháp khác có hại cho đối tác đó. (Theo luật US19-USC 1677 về NME “ any foreign country that the administering authority determine do not operate on the market principles of cost or pricing structures so that sale of merchandise in such country do not reflect the fair values of merchandise”- Một nền kinh tế không phải thị trường là bất kỳ một quốc gia bên ngoài khi cơ quan thẩm quyền xác nhận không điều hành theo nguyên tắc thị trường về giá thành hay cách định giá bán một món hàng của quốc gia nầy không phản ánh trị giá đúng của món hàng ). Nhiều lần VN yêu cầu Mỹ công nhận cho VN được qui chế nền kinh tế thị trường. Tới nay Hoa kỳ chưa chánh thức xác nhận .

VN phải gia tăng nhập hàng Mỹ để giảm bới nhập siêu của Hoa kỳ nay lên tới gần US $ 40 tỷ/năm. VN đã hứa nhập thêm hàng các món hàng như máy bay, sản phẩm cho quốc phòng, máy móc kỹ thuật cao, một số nông sản với hàng nhiều tỷ.

Hồi tháng 10 vừa qua, Bộ trưởng Thương Mại HK nêu vấn đề VN đang lũng đoạn tiền tệ để gia tăng xuất cảng. Đó là vấn đề rắc rối có thể xem như sự sai trái trong thanh toán ngoại thương. VN bị Mỹ coi như không minh bạch và công bằng trong điều hành kinh tế tài chánh trong nước. VN không công khai và minh bạch ngân sách, viện trợ, và trong các vụ thầu cho chánh quyền mà VN giao 80% các dự án lớn cho TC. Tin mới nhứt là Hoa kỳ chính thức trừng phạt VN về sự lũng đoạn tiền tệ, là hạ tỷ suất đồng bạc VN so với Mỹ kim. Trừng phạt nầy khá nặng và Mỹ tuyên bố vào ngày gần Giáng sinh, chắc chắn có ảnh hưởng xấu với kinh tế VN.

Hệ thống luật lệ trong kinh tế, VN không đúng tiêu chuẩn quốc tế. Chẳng hạn về quyền công nhân, luật biểu tình, luật hình sự, cũng như nhiều vụ gian lận như việc dán nhãn “Made in VN” cho hàng sản xuất TC. Tóm lại bang giao kinh tế hai bên Mỹ-Việt tiến bộ tốt. Nhưng còn nhiều mâu thuẩn tồn tại phải giải quyết, trong đó có sự lệ thuộc của VN với TC và sự bất quân bình quá lớn có lợi cho VN.

II.2.   Hệ quả Chiến tranh Mậu dịch Mỹ Trung đến VN

Trong phần trên, chúng ta thấy mối tương quan kinh tế VN- TC và VN-Hoa kỳ càng ngày càng gia tăng và có vị thế rất lớn đối với kinh tế VN. Vì vậy khi hai quốc gia số một và số hai đánh nhau thì VN là một trong các nước chịu ảnh hưởng quan trọng. Nhưng cuộc chiến chỉ mới còn ở giai đoạn khởi đầu cho nên hậu quả cho  hai bên cũng như cho VN chưa có nhiều. Ảnh hưởng sẽ nhiều hay ít lâu hay mau tùy cường độ cuộc chiến, và tùy sự chấn chỉnh của VN.

Chiến tranh mậu dịch Mỹ -TC là một trong những biến động thế giới. Có thể đây là khởi đầu cho sự thay đổi lớn về Toàn cầu hóa, và sự tái định hình trật tự thế giới. Với vị thế đặc biệt VN phải dính líu những biến động quốc tế trong ngắn hạn và dài hạn. Muốn được nhiều lợi ích hay tránh bớt hậu quả tai hại, VN cả chánh quyền và dân chúng, cần cứu xét kỹ lưỡng lợi và hại trong sách lược hội nhập toàn cầu của chính mình.

Trong gần hai năm qua , nhiều người nói nhiều đến VN được lợi nhiều nhứt. Nhưng ít người nói đến thử thách cho VN trong ngắn hạn và trong lâu dài.

II.2.1. Hệ quả tích cực 

Hậu quả cuộc chiến mậu dịch làm cho một số nước có lợi và một số nước có thêm khó khăn. Về mặt kinh tế, thì nhiều nhà nghiên cứu cho rằng VN là một trong các nước có lợi nhiều nhứt. Vì VN có nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh ngoại quốc.

Các yếu tố đem lại thuận lợi và tích cực cho VN trong kinh tế quốc ngoại:      

Lực lượng lao động đông đảo và trẻ. Lương công nhân rất thấp, thấp nhứt trong vùng .

Sách lược kinh tế và và hội nhập được coi là mở rộng, hợp tác với mọi quốc gia.

Địa lý thuận tiện cho việc đầu tư xuất cảng. Có thể trở thành trung tâm chế tác khá lớn cho toàn cầu, kể cả chuổi cung ứng trong mô hình Toàn cầu hóa.

Một số thành công và kinh nghiệm trong quá khứ. Trong quá khứ VN tương đối thành công trong mậu dịch và đầu tư quốc tế.

Văn hóa VN tương đối cởi mở, và đã du nhập và hòa hợp được với hai nguồn văn hóa Đông phương và Tây phương.

Trên thực tế, vì chiến tranh mậu dịch, đã và sẽ có một số công ty Mỹ, Nhựt, Đại Hàn chuyển cơ sở qua VN.

Nếu có nhiều công ty chuyển từ TC qua là cơ hội tốt cho VN ổn định thêm kinh tế nội địa quá yếu. Giúp giải quyết thất nghiệp, và tạo thế mạnh hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu.

II.2.2. Hệ quả tiêu cực

VN cũng gặp nhiều khó khăn và thử thách làm cho thuận lợi bị giảm đi. Các yếu tố tiêu cực hay không thuận lợi có thể là:

Mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là hai nền kinh tế mâu thuẩn, đối nghịch. VN không có kinh tế thị trường thực sự. Thực tế, kinh tế XHCN hướng dẫn kinh tế thị trường. Cho nên khu vực tư doanh kể cả tư doanh ngoại quốc bị đối xử không công bằng, bị nhiều thiệt thòi.

Môi trường chánh trị dù “ổn định”, nhưng không có Dân chủ, Tự do và Nhân quyền mà luật lệ các nước đối tác yêu cầu và bắt buộc.

Công nhân rẻ nhưng thiếu chuyên môn, các công ty ngày nay xử dụng kỹ thuật nhiều không mướn được. Một số công nhân có thái độ không tốt do chịu ảnh hưởng nền giáo dục XHCN.

Hạ tầng cơ sở còn rất kém. Trong đó có tình trạng các hải cảng lớn, đường xá cầu cống, điện nước, môi trường ô nhiễm.

Bộ máy hành chánh công quyền rất tệ hại. Luật lệ rắc rối, đôi khi mâu thuẩn giữa luật đảng và luật chánh quyền, một số không theo tiêu chuẩn quốc tế. Bộ máy có hai hệ thống rất to lớn và rất tốn kém. Nhân sự kém khả năng vì nạn con ông cháu cha người có tài không được xử dụng đúng.  Kém hiệu năng chuyên môn và kém đạo đức hành chánh, không minh bạch

Giáo dục yếu kém, không đi sát với bước phát triển kinh tế.

Tệ trạng xã hội: Tham nhũng, bất công xã hội đầy dẫy và khủng khiếp. Đây là một trong những ngại ngùng của doanh nhân ngoại quốc.

Phong cách và tinh thần làm việc của nhiều người, nhứt là ở khu vực chánh quyền là thiếu minh bạch, nghĩa là dấu diếm, gian lận, không thật tình. Chẳng hạn hàng giả, hàng TC dán nhản “made in VN” để xuất cảng qua Mỹ, đã bị bắt gặp, và bị phạt nặng. Sao chép và bàn các loại sản phẩm trí tuệ.

Chánh quyền VN thường chối cải và dấu các vi phạm nhân quyền điều mà luật các đối tác qui định. Các đối tác ngoại quốc rất lo ngại vì chính luật nước họ cũng buộc cho.

Cán cân mậu dịch là điều quan trọng cho hợp tác quốc tế. Nếu VN có xuất siêu quá cao là vấn đề. Trong đó vấn đề lủng đoạn tiền tệ mà Hoa kỳ mới nêu ra cho VN.

Về sách lược và mô hình phát triển. VN phải cải đổi nhanh việc thực thi đúng đắn nền kinh tế thị trường. Chánh quyền phải sửa đổi nhiều luật lệ theo tiêu chuẩn quốc tế. VN phải tôn trọng nhân quyền và Tự do Dân chủ. Trong đó có vấn đề cần phải thực hiện ngay là Công đoàn độc lập. Nó chứng tỏ sự quan trọng về hai điều, thực thi đúng luật pháp quốc tế mà VN hứa nhiều lần, thứ hai là nó có tác dụng tốt cho việc phát triển về hợp tác kinh tế .

Trên đây là tóm tắt thuận lợi và khó khăn của VN trong thời buổi chiến tranh mậu dịch và có thể cho tình trạng thay đổi mạnh mẽ Toàn cầu hóa. VN cần xem kỹ lại mình. Toàn cầu hóa là phải cạnh tranh và là sự hợp tác công bằng không mưu sĩ của nhiều quốc gia. Thứ hai là trên mặt thu hút đầu tư ngoại quốc, VN phải cạnh tranh với Thái lan, Indonesia, Malaysia, Ấn độ, và một số nước ở những khu vực khác.

II.3. Xung đột Mỹ – Trung và Trật Tự Thế Giới trong Tương Lai
II.3.1.Tương lai cuộc chiến Mỹ Trung

Cách tổng quát tình hình xung đột Mỹ Trung cho tới cuối năm 2020 nầy còn nhiều ẩn số và còn nhiều điều chưa giải quyết. Dù thương chiến còn tạm đình chiến, dù các đụng độ trên các mặt trận khác còn đang tiếp diễn và phải tiếp tục trong tương lai. Nói chung vấn đề cực kỳ khó khăn, có lẽ khó hơn thời kỳ chiến tranh lạnh. Dù Mỹ có Tổng thống mới từ năm tới, vì tích tụ từ quá lâu và chằn chịt trong nhiều lãnh vực. Đặc biệt là là do sự tranh bá để chiếm đoạt địa vị lãnh đạo số một thế giới. Có nhiều người ngiên cứu về cuộc chiến không đổ máu nầy, nhưng những kết luận chỉ là suy diễn. Đó là các kịch bản có thể xảy ra trong tương lai.

Có một điều có thể thấy được là cuộc đụng độ Mỹ Trung làm thay đổi trật tự thế giới. Sự tái định hình như thế nào còn tùy các chiến trận trong tương lai giữa hai siêu cường, tùy quan điểm mới về Toàn cầu hóa, và tùy Mỹ và Trung cộng xây dựng được đồng minh như thế nào, hay nói khác tùy mức độ quốc tế hóa cuộc chiến nầy.

Dù thế nào ở tương lai, thì hiện nay Trung quốc và Hoa kỳ đang có những thử thách rất lớn.

Về phía TC, nếu nhìn bề ngoài thì nước CS nầy chưa bị sứt mẽ bao nhiêu. Thậm chí có một số nhà nghiên cứu cho rằng Mỹ bị thua thiệt nhiều hơn TC. Và cũng theo tin tức của một số nhà nghiên cứu sâu bên trong thì TC bị khó khăn lớn về nhiều mặt.

Về kinh tế, mức phát triển 2020 chỉ còn độ 2.9% (World bank) . Xuất cảng giảm. Đầu tư ngoại quốc giảm. Kinh tế trong nước giảm mạnh vì thất nghiệp tăn cao. Mãi lực giảm, mặc dù hai năm qua TC Bình muốn chuyển chánh sách kinh tế cho trong nước nhiều hơn Quốc doanh bị khó khăn hơn, trong đó đặc biệt các ngân hàng vị nợ xấu tăng cao do nhiều công ty phá sản và do một số nước mắc nợ trong kế hoạch Belt& Road bị thua lỗ không tiền trả nợ.

Xã hội và chánh trị TC bị khó khăn vì cùng lúc xẩy ra các vụ chống đối mạnh ở Hồng kong, Tân cương, và Đài loan .

Trên bình diện quốc tế, có nhiều nước, nhiều dân chúng hiểu rõ và chống TC nhiều hơn về mô hình chánh trị XHCN, về thủ đoạn trên thương mại và về văn hóa truyền thông. Nói tóm lại TC đang phải đối diện nhiều thử thách khó giải quyết trong tương lai gần.

Về phía Hoa kỳ cũng đang gặp nhiều khó khăn lớn. Mục tiêu thương chiến không có kết quả bao nhiêu. Vẫn nhập siêu lớn. Đầu tư mới trong nước giảm một phần vì đại dịch. Nợ công tăng , ngân sách thiếu hụt thêm. Người tiêu thụ có khó khăn vì giá cả tăng.

Qua hơn hai năm, cuộc thương chiến chưa có kết quả rõ ràng, nên tương lai cũng chỉ suy đoán .

Có thể có ba kịch bản xảy ra trong tương lai:

1/ Trung quốc kiệt sức trước. Có thể TC suy sụp và chống đở khó khăn. Lý do là tham vọng quá lớn. Thực hiện quá nhanh và quá rộng. Kinh tế dựa vào xuất cảng quá nhiều, khi kinh tế toàn cầu thay đổi TC bị ảnh hưởng mạnh nhứt. Nội bộ chia rẽ và nhiều chống đối. Trên thế giới TC bị phản ứng xấu và sức mạnh kinh tế bị hạn chế. Trong trường hợp nầy TC phải thay đổi sách lược kinh tế. Dù trong khó khăn nào thì sức mạnh kinh tế TQ không dễ dàng vị sụp đổ nhanh chóng.

2/ Hoa kỳ thất bại. Trường hợp thứ hai là Mỹ bị suy yếu, bị hụt hơi. Vì kinh tế không phục hồi nhanh và mạnh. Chánh trị trong nước bị xáo trộn hơn, chia rẽ làm sức mạnh Mỹ yếu từ trong nước lẫn quốc tế. Hoa kỳ đi vào giai đoạn khó khăn nhất từ sau thế chiến thứ II. Do đó thế số một thế giới bị thách thức. Mặc dù chánh nghĩa Dân chủ Tự do, Nhân quyền còn đó. Nhưng những giá trị nào cũng phải xây dựng cách thực tế dựa trên sức mạnh kinh tế.

3/ Hai bên giải hòa. Vì cả Hoa kỳ và TC đều nhận ra rằng khó có thể một bên chết và một bên chiến thắng. Ngày nay cả hai siêu cường cần hợp tác, mặc dù có nhiều xung khắc, nhiều  mâu thuẩn. Tức là hai nước giải quyết trên quyền lợi thực tế, hai bên cùng có lợi. Điều mà TQ đã nêu ra từ lâu, nhưng không phải là điều mà TC thực lòng theo đuổi. Từ thời Tổng thống  Nixon thiết  lập bang giao với TC nay đã gần 60 năm , Hoa kỳ và Âu châu đã hiểu sai về TC quá lâu và quá nhiều. Liệu tương lai ra sao, có rút được nhiều kinh nghiệm đau thương không?

Hợp tác quốc tế trên căn bản hòa bình và thịnh vượng luôn là nguyên tắc đúng. Nhưng lợi dụng danh nghĩa đó cho mưu đồ đen tối là không chấp nhận được.

II.3.2. Vấn đề trật tự thế giới mới

Nhiều người nghĩ là là báo hiệu sự cáo chung của Toàn cầu hóa (TCH) theo căn bản tự do hoàn toàn, nghĩa là không có hạn chế và cản ngăn trong trong ngoại thương trong đầu tư ngoại quốc và giao lưu tiền tệ. Mặc dù qua hơn năm thập niên của mô hình TCH đó đem lại nhiều lợi cho kinh tế thế giới. Nhưng nó đã bị TC lạm dụng và lợi dụng để phát triển sức mạnh toàn diện của mô hình XHCN kiểu mới. Nếu tiếp tục như vậy trong tương lai không xa, TC sẽ chiếm vị trí lãnh đạo thế giới.

Như vậy có thể thế giới trở lại “lưỡng cực” như thời chiến tranh lạnh của hai khối Tự do và Cộng sản. Sau khi Liên sô và Đông Âu sụp đổ (1991), khối CS bị bể. TC lúc đó không đủ sức mạnh để đương đầu với Mỹ và Âu châu. TC thay đổi quan trọng  mô hình XHCN với sắc thái Trung quốc để đánh lừa khối tự do, khối thế giới thứ ba gồm các nước đang phát triển, và TC còn đánh lừa cả quần chúng TQ, để tìm một con đường mới. “Giấc mộng TQ” mà Tập cận Bình theo đuổi cách quyết liệt là trong tương lai gần TQ có vị trí siêu cường ngang hàng với Hoa kỳ. Lúc đó thế giới có trật tự lưỡng cực, nhưng rất khác với lưỡng cực trước 1991. Bây giờ TQ nguy hiểm hơn Liên Sô nhiều. Cực thứ ba là Âu châu, sau nhiều năm thụt lùi, giờ muốn vùng lên. Nhưng thế và lực của Âu châu chưa đủ mạnh. Nhu cầu tốt nhứt để chận TC lên “độc bá quyền” là Hoa kỳ và Âu châu trở lại tình đồng minh tốt hơn hiện nay. Một “liên minh  lõng lẽo” chưa đủ mạnh nhưng cũng có thế và lực nào đó không nhỏ và có lập trường chống TC là  “Liên minh Kim Cương” gồm  Mỹ , Nhật , Úc và Ấn độ.  Thế giới còn lại là rất nhiều nước, phần lớn nghèo và “cuốn theo chiều gió”.

Người ta nghĩ tương lai trật tự thế giới sẽ có thay đổi nhiều , nhưng chưa ai có thể biết rõ nó như thế nào vì thế giới còn nhiều biến động, trong đó hận thù và mặc cảm quá khứ, về chủng tộc  vẫn còn đè nặng trong tâm tư con người.  Còn biến động quốc tế thì Việt Nam còn bị lôi cuốn vào nhiều khó khăn lớn gần như một định mạng .

Cali, cuối năm 2020          

Nguyễn Bá Lộc.

 

                                             

                

Views: 15